Các Anh hùng trên đỉnh Olypus tập 3: Dấu Hiệu Athena-Rick Riordan

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Ahena _ Chương 19



      Annabeth



      HỌ VỀ KỊP TỚI TÀU.

      Nửa đường qua bến tàu, ba con đại bàng khổng lồ đáp xuống trước mặt họ. Mỗi con chở theo biệt kích La Mã mặc áo tím quần bò với giáp vàng lấp lánh, gươm và khiên. Lũ đại bàng bay và tên La Mã đứng giữa, kẻ trông nhẳng nheo hơn hai gã kia nâng tấm giáp che mặt của mình lên.

      “Hãy đầu hàng trước Rome!” Octavian rít lên.

      Hazel rút thanh gươm kỵ sĩ của mình ra gầm gừ, “Cơ hội béo bở nhỉ, Octavian.”

      Annabeth rủa thầm. mình gã, tên thầy bói giơ xương chả phiền, nhưng hai tên kia trông như những chiến binh dày dạn – to hơn, khỏe hơn nhiều loại mà Annabeth muốn vướng vô, đặc biệt do bởi Piper và chỉ được trang bị dao găm mà thôi.

      Piper giương tay lên ra dấu xoa dịu. “Octavian, việc xảy ra ở trại bị sắp đặt. Chúng tôi có thể giải thích.”

      “Chả nghe thấy gì cả!” Octavian la. “Sáp trong tai tụi này – đạt tiêu chuẩn để đấu với lũ Siren[1]. Giờ vứt vũ khí xuống và quay người lại từ từ để tôi còn trói tay mấy lại được.”

      “Để em xiên gã nhát,” Hazel lẩm bẩm. “ mà.”

      Con tàu chỉ cách đó năm mươi b,ộ nhưng Annabeth chả thấy dấu hiệu gì của HLV Hedge boong. Chắc ông ở khoang dưới xem mấy cái chương trình võ thuật tổng hợp ngu ngốc của mình. Nhóm Jason chưa về cho tới lúc hoàng hôn và Percy chắc ở dưới nước, chẳng biết gì về cuộc xâm lăng. Nếu Annabeth lên được tàu, có thể dùng mấy cỗ nỏ phóng tiễn, nhưng chả có cách nào vượt qua được ba kẻ La Mã này cả.

      cạn dần thời gian. Lũ đại bàng lượn vòng đầu, kêu lên như báo với em của chúng: Này, có mấy đứa á thần Hy Lạp tươi ngon đàng này này!Annabeth thấy cỗ phi xa[2] đâu nữa nhưng nghĩ nó cũng đâu đó gần đấy thôi. phải nghĩ ra cái gì đó trước khi có thêm người La Mã tới.

      cần giúp đỡ… kiểu tín hiệu báo nguy với HLV Hedge hay tốt hơn là – Percy.

      “Này?” Octavian cao giọng. Hai tên bạn của gã vung gươm.

      Rất chậm, chỉ dùng hai ngón tay, Annabeth rút con dao của mình ra. Thay vì thả rơi nó, ném nó ra xa hết mức có thể, xuống nước.

      Octavian kêu lên the thé. “Làm thế làm quái gì hả? Tao có bảo ném đâu! Nó có thể làm bằng chứng. Hay chiến lợi phẩm nữa!”

      Annabeth ngượng ngịu toét nụ cười tóc-vàng-ngớ-ngẩn kiểu: Ối, ngu . Chả ai biết lại nghĩ có lúc ngu cả. Những Octavian có vẻ trúng kế rồi. Gã bực tức thở hắt ra.

      “Hai còn lại …” Gã chĩa gươm vô Hazel và Piper. “Đặt vũ khí của các người xuống sàn bến. đùa đâ__”

      Quanh mấy kẻ La Mã, Cảng Chaleston bắn tung như đài phun nước Las Vegas trong giờ diễn. Khi tường nước biển hạ xuống, ba tên La Mã bay ra vịnh, lắp ba lắp bắp và cố gắng điên cuồng để nổi lên trong bộ áo giáp. Percy đứng bến tàu, cầm con dao của Annabeth.

      “Cậu đánh rơi này,” cậu , mặt tỉnh bơ như .

      Annabeth quàng tay ôm cậu. “Mình cậu!”

      “Mọi người,” Hazel ngắt ngang. nở nụ cười mặt. “Bọn mình phải nhanh lên.”

      Ở dưới nước, Octavian hét to, “Cho tao lên khỏi đây! Tao giết mày!”

      “Trông thích ,” Percy gọi với xuống.

      “Gì hả?” Octavian thét lớn. Gã bám vô trong hai cận vệ của mình, người gặp rắc rối với việc giữ cho cả hai nổi được.

      “Chả gì cả!” Percy thét trả. “ thôi mọi người.”

      Hazel nhăn mặt. “Bọn ta có thể dìm họ chết chìm được ?”

      chìm đâu,” Percy hứa. “ khiến nước chảy quanh chân họ rồi. Ngay khi ta thoát khỏi vòng nguy hiểm cho họ vô bờ.”

      Piper nhếch mép. “Hay đấy.”

      Họ trèo lên boong tàu Argo II và Annabeth chạy ngay tới chỗ bánh lái. “Piper, xuống dưới. Dùng cái bồn trong bếp gửi thông điệp Iris[3]. Cảnh báo Jason về đây ngay!”

      Piper gật đầu rồi phóng .

      “Hazel, tìm HLV Hedge và bảo thầy ấy vác cặp chân lông lá lên boong ngay!”

      “Phải thế rồi!”

      “Và Percy – cậu với mình cần đưa con tàu tới Đồn Sumter.”

      Percy gật đầu và chạy tới chỗ cột buồm. Annabeth giữ bánh lái. Tay lướt bảng điều khiển. mong mình biết đủ để vận hhng chúng.

      Annabeth từng thấy Percy vận hành thuyền buồm cỡ lớn trước kia chỉ bằng sức mạnh ý chí. Giờ đây, cậu làm thất vọng. Dây thừng tự bay lên – tháo nút buộc khỏi bến, tự kéo neo. Buồm giương lên đón gió. Trong khi ấy, Annabeth nổ máy động cơ. Các mái chèo duỗi ra với tiếng kêu như súng máy và tàu Argo II rời khỏi bến, hướng tới hòn đào phía xa.

      Ba con đại bàng vẫn lượn vòng đầu, nhưng chúng cố gắng đậu lên tàu gì cả, có lẽ bởi đầu tàu Festus cứ phun lửa mỗi khi chúng tiến gần. Thêm nhiều con đại bàng nữa bay theo đội ngũ tiến tới đồn Sumter – ít nhất tá. Nếu mỗi con mang theo á thần La Mã … có nhiều kẻ thù lắm đây.

      HLV Hedge thình thịch lên thang với Hazel theo sau guốc.

      “Bọn chúng đâu hả?” ông hỏi. “Tôi giết ai đây?”

      giết chóc gì hết!” Annabeth ra lệnh. “Chỉ phòng vệ cho con tàu mà thôi!”

      “Những chúng phá ngang bộ phim của Chuck Norris!”

      Piper xuất từ khoang dưới. “Gửi được tin nhắn tới Jason rồi. Mờ mờ thôi, nhưng cậu ấy lên đường về rồi. Hẳn là phải__ ồ! Kia rồi!”

      Nhô lên thành phố, hướng lại phía họ là con đại bàng đầu trắng[4]khổng lồ, giống lũ chim vàng La Mã.

      “Frank!” Hazel .

      Leo bám vô chân đại bàng và dù là ngay từ thuyền, Annabeth cũng nghe thấy cậu la hét chửi rủa.

      Phía sau họ là Jason cưỡi gió mà bay.

      “Chưa bao giờ thấy Jason bay trước đây cả,” Percy càu nhàu. “Cậu ấy trông như Siêu nhân tóc vàng ấy.”

      phải lúc đâu!” Piper la cậu. “Trông xem, họ gặp rắc rối đó!”

      Chắc chắn rồi, cỗ phi xa La Mã hạ xuống từ đám mây và xuống hướng tới phía họ. Jason với Frank trệch ra khỏi đường bay, bay vụt lên để tránh bị lũ Pegasus đạp phải. Những người đánh xe bắn cung. Mũi tên rít gió ngay dưới chân Leo khiến cậu lại chửi rủa la hét lắm thêm. Jason với Frank buộc phải vượt tàu Argo II và bay tới đồn Sumter.

      “Ta xử chúng!” HLV Hedge hét to.

      Ông quay cỗ nỏ phóng tiễn bên mạn trái. Trước khi Annabeth có thể thét, “Đừng ngốc thế!” Hedge khai hỏa. mũi hỏa tiễn phóng vụt về phía cỗ phi xa.

      Nó phát nổ đầu những con Pegasus và khiến chúng hoảng loạn. may là nó cũng làm xém cánh của Frank và khiến cậu mất kiểm soát. Leo tuột khỏi vuốt cậu. Cỗ phi xa bắn về phía đồn Sumter, nã đạn vào Jason.

      Annabeth kinh hãi nhìn Jason – ràng choáng váng và đau đớn – lao về phía Leo, chộp được cậu và vật lộn mãi để đạt được độ cao thích hợp. Cậu chỉ xoay sở làm chậm cú rơi của họ được thôi. Họ biến mất sau bức tường pháo đài. Frank nhào xuống ngay sau họ. Sau đó, cỗ chiến xa rớt xuống đâu đó chỗ đấy luôn với tiếng RẮC! ghê người. bánh xe bắn vào khoảng .

      “Huấn Luyện Viên!” Piper hét toáng.

      “Gì chứ?” Hedge cao giọng. “Chỉ là cú bắn cảnh cáo đấy thôi!”

      Annabeth rồ máy động cơ. Thân tàu rung lên khi họ tăng tốc. Các bến tàu đảo giờ chỉ cách có vài trăm thước nữa thôi, nhưng tá đại bàng nữa vọt tới , mỗi con quắp á thần La Mã đằng móng.

      Đoàn người tàu Argo II bị áp đảo số lượng ba đánh .

      “Percy,” Annabeth , “bọn mình sắp gặp khó khăn lắm lắm đấy. Mình cần cậu điều khiển nước để chúng tràn vào boong. khi đến được đó rồi, cậu phải cầm chân những kẻ tấn công. Những người còn lại giúp cậu ấy giữ thuyền nhé.”

      “Nhưng – Jason!” Piper .

      “Frank và Leo nữa!” Hazel thêm vô.

      “Chị tìm bọn họ,” Annabeth hứa. “Mình phải tìm ra tấm bản đồ ở đâu. Và mình chắc là chỉ mình mới tìm được nó thôi.”

      “Trong đồn toàn người La Mã,” Percy cảnh báo. “Cậu phải phá vây xông vào, tìm bạn tụi mình – đảm bảo cho họ ổn – tìm tấm bản đồ và đưa mọi người sống sót trở về. Mình cậu làm tất ư?”

      “Ngày báo thù mà.” Annabeth hôn cậu. “Dù cậu có làm gì cũng đừng để họ chiếm con tàu này nhé!”



      [1] Siren, những sinh vật xinh đẹp và nguy hiểm sống biển, thường ngồi các mỏm đá, dùng giọng ca mê hoặc các thủy thủ để họ đâm vào bãi đá ngầm khiến tàu chìm. Hình dạng có thể là mình chim đầu người hay thân người đuôi cá







      [2] flying chariot: xe ngựa bay, loại chiến xa có ngựa bay kéo







      [3] Iris, nữa thần cầu vồng và người đưa tin của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp







      [4] bald eagle, 1 loại đại bàng dũng mãnh, biểu tượng nước mỹ, cũng là biểu tượng của thần Zeus.

















      The Mark of Athena _ Chương 20



      Annabeth



      CUỘC NỘI CHIẾN MỚI BẮT ĐẦU.

      Leo, bằng cách nào đó, thoát khỏi cú rơi mà hề hấn gì. Annabeth nhìn thấy cậu tránh né từ mái hiên này sang mái hiên khác[1], cho nổ mìn vào những con đại bàng khổng lồ sà xuống chỗ cậu. Các á thần La mã cố gắng đuổi theo nhưng vấp phải đống đạn của súng thần công và phải luồn lách qua đám khách du lịch, những người la hét và chạy theo vòng tròn.

      Hướng dẫn viên tiếp tục gào lên, “Đó chỉ là tái !” Mặc dù họ có vẻ chắc lắm. Màn Sương Mù chỉ có thể làm thay đổi những gì mà người thường nhìn thấy.

      Ở giữa sân, con voi trưởng thành – có thể là Frank? – giận dữ ruổi quanh cột cờ, rượt các chiến binh La Mã chạy tán loạn. Jason đứng cách đó khoảng năm mươi mét, đấu kiếm với sĩ quan trông chắc nịch, môi son màu đỏ đào, như máu. Có thể là con ma cà rồng, hoặc con quái vật Kool-Aid[2]?

      Khi Annabeth trông thấy, Jason hét lên, “Xin lỗi chuyện này, Dakota!”

      Cậu nhảy thẳng qua đầu cậu sĩ quan như diễn viên nhào lộn và nện cán kiếm vào đầu cậu La Mã. Dakota ngã gục.

      “Jason!” Annabeth gọi.

      Cậu nhìn lượt chiến trường trước khi nhìn .

      chỉ vào nơi tàu Argo II neo đậu. “Đưa những người khác lên tàu! Rút lui!”

      “Còn cậu sao?” cậu hỏi.

      “Đừng đợi tớ!”

      Annabeth lao trước khi cậu lên tiếng phản đối.

      gặp khó khăn lúc qua đám đông khách du lịch. Tại sao có nhiều người muốn xem Đồn Sumter vào mùa hè nóng nực thế này cơ chứ? Nhưng Annabeth nhanh chóng nhận ra đám đông cứu mạng . Nếu hỗn loạn của những người sợ hãi này, người La Mã chắc bao vây hết bọn rồi.

      Annabeth chạy vào căn phòng , chắc chắn là phần của các đơn vị đồn trú. cố ổn định hơi thở. tưởng tượng mình là người lính Liên Minh hòn đảo này vào năm 1861. Bị bao vây bởi kẻ địch. Cạn kiệt lương thực và quân nhu, có tiếp viện.

      số quân Liên Minh là con Athena. Họ giấu tấm bảng đồ quan trọng ở đây – thứ gì đó mà họ muốn để rơi vào tay kẻ thù. Nếu Annabeth là trong số những á thần đó, để nó nơi nào?

      Đột nhiên các bức tưởng trở lấp lánh. khí trở nên ấm áp. Annabeth tự hỏi liệu gặp ảo giác hay . sắp sửa chạy đến lối ra ngay khi cánh cửa đóng sầm lại. Vữa giữa nhưng phiến đá phồng lên. Bong bóng nổ lốp bốp và hàng ngàn con nhện trồi lên.

      Annabeth thể di chuyển. Tim như ngừng đập. Những con nhện bao trùm các bức tường, bò lên nhau, dàn ra khắp sàn nhà và từ từ bao vây lấy . thể nào. Điều này phải là .

      Nỗi sợ nhấn chìm vào kí ức. Đó là khi lên bảy, ở mình trong phòng ngủ ở Richmond, Virginia. Những con nhện đến vào ban đêm. Chúng bò từng lớp từ tủ quần áo của và chờ trong bóng tối. hét gọi cha , nhưng ông ấy công tác. Ông ấy dường như luôn luôn công tác.

      Thay vào đó, mẹ kế của bước vào.

      Em ngại làm mật thám xấu xa, bà lần với cha , khi bà nghĩ Annabeth nghe thấy.

      Nó chỉ là tưởng tưởng của con, mẹ kế của về những con nhện. Con làm các em trai sợ đấy.

      Chúng phải các em, Annabeth cãi lại, điều đó làm biểu của mẹ kế trở nên gay gắt. Đôi mắt của bà gần như trở nên đáng sợ như những con nhện.

      ngủ ngay, mẹ kế của nhấn mạnh. la hét nữa.

      Những con nhện quay trở lại ngay khi mẹ kế của ra khỏi phòng. Annabeth cố gắng trốn dưới chăn, nhưng khả thi lắm. Cuối cùng ngủ thiếp vì kiệt sức. thức dậy vào buổi sáng, phủ đầy những vết cắn, mạng nhện bao quanh mắt, mũi, miệng .

      Những vết cắn biến mất khi thay quần áo, cho nên có gì cho mẹ kế thấy ngoại trừ mạng nhện, nhưng bà nghĩ chúng là trò đùa tinh quái.

      được về nhện nữa, mẹ cứng rắn . Con lớn rồi.

      Đêm thứ hai, bọn nhện lại đến. Mẹ kế của tiếp tục làm tên mật thám xấu xa. Annabeth được phép gọi cho cha và làm phiền ông bởi những điều vớ vẫn. , ông ấy về nhà sớm.

      Đêm thứ ba, Annabeth trốn khỏi nhà.

      Sau đó, ở trại Con Lai, biết được tất cả những đứa con của Athena đều sợ nhện. Rất lâu về trước, Athena dạy cho thợ dệt người thường là Arachne bài học nặng nề – nguyền rủa bà ta vì thói kiêu ngạo bằng cách biến bà ta thành con nhện. Từ đó, bọn nhện ghét con cái Athena.

      Nhưng điều đó làm vượt qua nỗi sợ dễ dàng hơn khi đối mặt với chúng. lần, suýt giết chết Connor Stoll ở trại vì bỏ con Tarantula[3] vào giường . Nhiều năm sau, gặp phải cuộc tấn công kinh hoàng ở công viên nước ở Denver, khi Percy và bị tấn công bởi con nhện máy. Và vài tuần sau đó, Annabeth vẫn mơ thấy những con nhện đấy hằng đêm – bò khắp người , làm ngạt thở, quấn trong đống mạng nhện.

      Bây giờ, đứng trong doanh trại ở Đồn Sumter, bị bao vây. Cơn ác mộng trở .

      giọng ngái ngủ thầm trong đầu : sớm thôi, con . Ngươi gặp người thợ dệt đó sớm thôi.

      “Gaea?” Annabeth thầm. sợ câu trả lời, nhưng vẫn hỏi: “Ai – người thợ dệt nào?”

      Lũ nhện trở nên phấn khích, bò ngập tường, xoáy quanh chân của Annabeth như xoáy nước màu đen lấp lánh. Annabeth chỉ hy vọng nó là ảo ảnh để giữ thoát khỏi nỗi sợ.

      Ta hy vọng ngươi sống sót, , giọng người phụ nữ . Ta thích ngươi làm tế vật cho ta hơn. Nhưng chúng ta phải để người thợ dệt trả thù…

      Giọng của Gaea mờ . tường, ở trung tâm đám nhện, biểu tượng đỏ rực: hình con cú như cái đồng bạc drachma, nhìn thẳng vào Annabeth. Sau đó, cứ như trong cơn ác mộng của , Dấu hiệu của Athena cháy tường, thiêu rụi lũ nhện cho đến khi căn phòng trống rỗng, ngoại trừ mùi tro ngột ngạt.

      , giọng khác – giọng của mẹ Annabeth. Trả thù cho ta. Lần theo Dấu hiệu.

      Biểu tượng con cú sáng rực mờ dần. Cánh cửa đồn trú mở bật ra. Annabeth đứng sững sờ ở giữa phòng, chắc là nhìn thấy thứ gì đó , hay chỉ là ảo ảnh.

      vụ nổ làm rung chuyển tòa nhà. Annabeth nhớ lại các bạn gặp nguy hiểm. ở đây quá lâu.

      buộc bản thân phải di chuyển. Vẫn còn run rẩy, nhìn ra ngoài. Đại dương giúp thoải mái hơn. liếc về cái sân – qua những người khách du lịch hoảng sợ và những á thần đánh nhau – đến rìa chiến trường, nơi cây súng cối lớn chỉ ra ngoài biển.

      Có thể Annabeth tưởng tượng, nhưng khẩu pháo cũ có màu đỏ rực. chạy về hướng đó. con đại bàng tấn công , nhưng cúi nhanh xuống và tiếp tục chạy. thứ gì làm sợ hãi bằng những con nhện.

      Các á thần La Mã lập hàng ngũ và tiến về phía tàu Argo II, nhưng cơn bão tụ lại đầu họ. Mặc bầu trời vẫn quang đãng quanh họ, sấm sét ầm ầm, chớp lóe lên phía đám người La Mã. Mưa gió cản họ lại.

      Annabeth dừng lại để nghĩ về nó.

      đến được cái súng cối và để tay lên mũi nó. cái chốt đóng mở, Dấu Athena sáng lấp lánh – đường viền màu đỏ xung quanh con cú.

      cái súng cối,” . “Dĩ nhiên rồi.”

      gỡ các chốt. may. Khốn , rút con dao găm của mình. Ngay khi Đồng Thiên Thai chạm vào cái chốt, nó co lại và nới lỏng. Annabeth kéo nó ra và xọc ngón tay vào trong ống pháo.

      Ngón tay chạm vào thứ gì đó lạnh ngắt, láng mịn và làm bằng kim loại. lấy ra cái đĩa bằng đồng có kích thước bằng đĩa trà, được khắc chữ tinh tế và có hình minh họa. quyết định xem xét nó sau. để nó trong ba lô của mình và quay lại.

      vội sao?” Reyna hỏi.

      Vị pháp quan đứng cách đó khoảng ba mét, chiến giáp đầy đủ, tay cầm lao vàng. Hai con chó săn kim loại gầm gừ nhìn về phía .

      Annabeth quan sát xung quanh. Họ dường như đơn độc. Trận chiến dời đến bến cảng. Hy vọng các bạn của xử việc ngon lành tàu, nhưng họ phải lên đường ngay lập tức hoặc có nguy cơ bị bắt. Annabeth phải nhanh lên.

      “Reyna,” , “những điều xảy ra với trại Jupiter đều là lỗi của Gaea. Eidolon, lũ ám hồn_”

      “Tiết kiệm lời giải thích của cậu ,” Reyna . “Cậu cần nó cho vụ xét xử.”

      Những con chó gầm gừ và tiến về phía trước. Khi đó, vấn đề Annabeth có vẻ chẳng hề quan trọng với họ. cố gắng suy nghĩ kế hoạch đào thoát. tự hỏi mình có thể đấu với Reyna -chọi- . Nhưng với lũ con chó kim loại, chẳng có cơ hội nào.

      “Nếu cậu muốn để Gaea chia tách hai trại,” Annabeth , “bọn khổng lồ chiến thắng. Chúng hủy diệt Lã Mã, Hy Lạp, các vị thần, toàn bộ thế giới loài người.”

      “Cậu nghĩ là tôi biết điều đó sao?” Giọng Reyna cứng như sắt. “Cậu cho tôi được lựa chọn nào kia chứ? Octavian rất khát máu. Cậu ta điên cuồng thu phục các quân đoàn và tôi thể ngăn chặn được. Đầu hàng . Tôi đưa các cậu về Rome Mới xét xử. công bằng. Các cậu bị xử phạt đau đớn. Nhưng đủ để ngăn chặn bạo lực. Octivian hài lòng, tất nhiên, nhưng tôi nghĩ tôi có thể thuyết phục những người khác rút lui.”

      “Đó phải tại tôi!”

      quan trọng!” Reyna ngắt lời. “Ai đó phải trả giá cho những chuyện xảy ra. Cứ để người đó là cậu. Lựa chọn thế tốt hơn.”

      Da Annabeth râm ran. “Tốt hơn cái gì?”

      “Sử dụng trí tuệ của cậu,” Reyna . “Nếu cậu trốn thoát được trong hôm nay, chúng tôi đuổi bắt nữa. Tôi cho cậu nghe – thậm chí ngay cả kẻ điên cũng vượt biển để đến vùng đất cổ xưa. Nếu Octavian thể trả thù tàu cậu, cậu ta hướng đến Trại Con Lai. Các binh đoàn khởi quân vùng đất của cậu. Chúng tôi san bằng nó.”

      Giết bọn người La Mã, nghe được tiếng của mẹ thúc giục. Chúng bao giờ là đồng minh của con.

      Annabeth muốn khóc. Trại Con Lai thực là ngôi nhà duy nhất từng được biết đến và để trả giá cho tình bạn, cho Reyna biết chính xác nơi để tìm nó. thể để trại rơi vào quyền kiểm soát của người La Mã và xa cách nửa vòng thế giới.

      Nhưng nhiệm vụ của họ và mọi thứ trải qua để mang Percy trở lại…nếu đến vùng đất cổ xưa đó, chẳng còn ý nghĩa gì nữa. những thế, Dấu Athena phải dẫn đến phục thù.

      Nếu ta có thể tìm được đường về nhà, mẹ từng , con đường về nhà…

      Con sử dụng món quà của mình như thế nào? Aphrodite từng hỏi. Vì chiến tranh hay hòa bình?

      Đây là câu trả lời. Dấu hiệu Athena có thể dẫn đến đó – nếu sống sót.

      “Tớ ,” với Reyna. “Tớ lần theo Dấu hiệu Athena đến Rome.”

      Vị pháp quan lắc đầu. “Cậu biết chuyện gì đợi cậu đâu.”

      “Có, tớ biết,” Annabeth . “Mối hận thù giữa hai trại…tớ có thể hàn gắn nó.”

      “Ác cảm đó có từ hàng ngàn năm qua. Làm sao người có thể hàn gắn nó?”

      Annabeth ước gì có thể đưa ra câu trả lời thuyết phục, cho Reyna thấy chương trình 3-D hay là sơ đồ thông minh, nhưng thể. chỉ biết phải thử. nhớ đến ánh mắt hoang mang khuôn mặt mẹ : Ta phải về nhà.

      “Nhiệm vụ phải thành công,” . “Cậu có thể thử ngăn chặn tớ, trong trường hợp đó bọn tớ chiến đấu đến cùng. Hoặc cậu có thể để tớ và tớ cố gắng cứu cả hai trại. Nếu các cậu phải khởi quân ở Trại Con Lai, ít nhất hãy thử trì hoãn nó. Làm chậm bước của Octivian.”

      Mắt của Reyna nheo lại. “Là con của nữ thần chiến tranh khác, tớ tôn trọng táo bạo của cậu. Nhưng nếu cậu rời khỏi bây giờ, cậu đẩy trại của cậu tới bước diệt vong.”

      “Đừng quá xem thường Trại Con Lai,” Annabeth cảnh báo.

      “Cậu chưa bao giờ thấy binh đoàn trong các trận chiến,” Reyna phản đối.

      Ngoài bến cảng, giọng quen thuộc hét lên trong gió: “Giết chúng! Giết hết chúng !”

      Octivian sống sót và bơi trong cảng. Cậu ta núp phía sau vệ sĩ của mình, la hét cỗ vũ những á thần La Mã tấn công con tàu, giữ chặt khiên của họ để làm lệch hướng các cơn bão dữ dội xung quanh mình.

      boong tàu Argo II, Percy và Jason đứng cạnh nhau, kiếm họ giao nhau. Annabeth cảm nhận náo nức lan đến cột sống của khi nhận ra hai chàng trai làm việc như , triệu hồi bầu trời và biển cả thực mệnh lệnh của mình. Nước và gió khuấy vào nhau. Sóng trào dâng đánh vào thành lũy và chớp lóe lên. Những con đại bàng khổng lồ bị đánh bật khỏi bầu trời. Đống đổ nát của chiếc phi xa cháy trong nước và HLV Hedge đung đưa cái nỏ, thực mấy cú bắn bừa vào những con chim La Mã khi chúng bay trời.

      “Cậu thấy chưa?” Reyna cách cay đắng. “Ngọn giáo được phóng . Chúng ta có chiến tranh.”

      nếu tớ thành công,” Annabeth .

      Biểu của Reyna giống khi ở trại Jupiter, khi nhận thấy Jason khác. Vị pháp quan quá độc, quá cay đắng và bị phụ lòng tin rằng mọi thứ có thể đúng đắn với lần nữa. Annabeth chờ tấn công.

      Thay vào đó, Reyna búng tay. Hai con chó kim loại lùi lại. “Annabeth Chase,” , “lần sau chúng ta gặp lại, là kẻ thù chiến trường.”

      Vị pháp quan quay người và bước ngang qua thành lũy, những con chó săn theo sau .

      Annabeth lo sợ đó là trò đùa, nhưng có thời gian để nghi ngờ. chạy đến chỗ con tàu.

      Những cơn gió đập vào người La Mã dường như ảnh hưởng đến .

      Annabeth chạy nước rút về phía họ. Octivian hét lên, “Ngăn ta lại!”

      cây giáo bay ngang tai . Tàu Argo II chuẩn bị rời cảng. Piper đứng ở ván cầu, tay vươn ra.

      Annabeth nhảy lên và nắm lấy tay Piper. Cái ván cầu rơi xuống biển, hai đổ nhào lên boong.

      !” Annabeth la lên. “, , thôi!”

      Động cơ ầm ầm phía dưới . Các mái chèo khuấy động. Jason đổi hướng gió và Percy gọi cơn sóng khổng lồ nâng con tàu lên cao hơn cả bức tường pháo đài rồi đẩy họ ra biển. Ngay khi tàu Argo II đạt vận tốc tối đa, Fort Sumter chỉ còn là vệt mờ phía xa xa và họ chạy đua những con sóng đến vùng đất cổ xưa.



      [1] Mái hiên (từ tiếng Ý) là cổng vòm dẫn đến lối vào của tòa nhà, hoặc mở rộng như hàng cột, với cấu trúc mái nhà lối , được hỗ trợ bởi các cột hoặc được bao bọc bởi những bức tường. Ý tưởng này được sử dụng rộng rãi trong Hy Lạp cổ đại và có ảnh hưởng đến nhiều nền văn hóa, bao gồm cả các nền văn hóa phương Tây.

      [2] Kool-Aid là nhãn hiệu thức uống sỡ hữu bởi Kraft Foods.

      [3] Nhện tarantula được coi là trong những loài nhện lớn và lông lá nhất thế giới. Chúng có thể đạt đến độ dài 10cm khi trưởng thành. Tên của nhện tarantula dựa điệu nhảy tarantella của người da đỏ vùng Amazon. Sở dĩ nó có tên như vậy là vì khi bị nó cắn, người ta đau đớn phát điên lên và nhảy chồm chồm như lên cơn dại để quên đau buốt mà dường như giảm được rất nhiều khi cộng thêm với sức nóng của đống lửa.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 21


      Leo


      SAU KHI LÙNG SỤC BẢO TÀNG ĐẦY NHÓC NHỮNG HỒN MA PHE LIÊN MINH, Leo nghĩ ngày hôm đó có thể tệ hơn được nữa. Cậu nhầm.

      Họ chẳng tìm thấy gì trong chiếc tàu ngầm thời Nội Chiến hay trong bảo tàng; chỉ có vài du khách già cả, ông bảo vệ gà gật, và – khi họ cố khám nghiệm mấy vật–cả tiểu đoàn những chàng thây ma phát sáng trong quân phục màu xám.

      Còn cái ý tưởng rằng Frank điều khiển được đám hồn ma? Ờ…cái đó khá là thất bại. Lúc Piper gửi tin nhắn Iris cảnh báo về vụ tấn công của đám người La Mã, họ về tàu được nửa đường rồi, bị đám xác chết quân Liên Minh giận dữ rượt khắp phố chính Charleston.

      Rồi–ố, mèn ơi!–Leo phải làm chuyến bay với Chàng Đại Bàng Thân Thiện Frank, để họ có thể đấu với đám người La Mã. Hẳn là cái tin đồn rằng Leo là người nổ súng vào thành phố bé của họ được lan truyền rộng rãi, bởi vì đám người La Mã kia có vẻ đặc biệt sốt sắng muốn giết cậu.

      Nhưng hãy khoan! Vẫn còn nữa! HLV Hedge bắn họ rớt khỏi trung; Frank đánh rơi cậu ( phải do sơ suất đâu ạ); và họ hạ cánh khẩn cấp xuống đồn Sumter.

      Lúc này, trong khi tàu Argo II lao băng băng những ngọn sóng, Leo phải vận dụng hết kĩ năng của mình chỉ để giữ cho con tàu được nguyên vẹn. Percy và Jason hơi quá giỏi trong việc chế biến những cơn bão khổng lồ.

      lúc, Annabeth đứng cạnh cậu, gào lên đua với tiếng rít gào của gió: “Percy bảo cậu ấy chuyện với Nereid ở bến cảng Charleston!”

      “Tốt cho cậu chàng!” Leo gào lên đáp.

      Nereid đó bọn mình nên tìm trợ giúp chỗ các em của Chiron[0].”

      “Vậy nghĩa là sao? Các bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng à?” Leo chưa gặp đám họ hàng nhân mã điên khùng của Chiron, nhưng cậu từng nghe đồn về những trận đấu kiếm Nerf[1], những cuộc thi nốc bia rễ cây[2], và súng phun nước Super Soaker[3] được nạp đầy kem tươi nén.

      chắc nữa,” Annabeth đáp. “Nhưng mình có tọa độ đây. Cậu có nhập được kinh độ và vĩ độ vào thứ này ?”

      “Nếu cậu muốn, mình có thể nhập bản đồ chòm sao và gọi cho cậu cốc sinh tố. Dĩ nhiên là mình biết nhập kinh độ và vĩ độ rồi!”

      Annabeth liến láu đọc dãy số ra. Leo xoay sở cách nào đó mà nhập được dãy số đó vào trong khi cầm bánh lái bằng tay. chấm đỏ ra màn hình biểu thị bằng đồng.

      “Vị trí đó nằm ở giữa Đại Tây Dương,” cậu . “Mấy bé Ngựa Nhí Tiệc Tùng này có du thuyền à?”

      Annabeth bất lực nhún vai. “Cứ giữ cho con tàu được nguyên vẹn cho tới khi bọn mình xa khỏi Charleston hơn nhé. Percy và Jason cho mấy trận gió tiếp nữa đấy!”

      “Giờ chơi vui vẻ nhé!”

      Cứ như cả tỉ năm trôi qua, nhưng cuối cùng biển cũng lặng và gió cũng ngừng.

      “Valdez,” HLV Hedge gọi, bằng giọng dịu dàng đến đáng ngạc nhiên. “Để ta cầm lái cho. Trò cầm lái suốt hai tiếng rồi.”

      “Hai tiếng ạ?”

      “Ừ, đưa bánh lái cho ta nào.”

      “Huấn luyện viên?”

      “Gì thế, nhóc?”

      “Em nhả tay ra được.”

      là thế. Ngón tay của Leo có cảm giác như hóa đá vậy. Mắt cậu rát vì nhìn quá lâu về phía chân trời. Đầu gối cậu nhũn như kẹo dẻo. HLV Hedge xoay xở cậy được cậu ra khỏi bánh lái.

      Leo nhìn bảng điều khiển cái cuối cùng, nghe tiếng Festus thầm kẽo kẹt báo cáo trạng thái. Leo có cảm giác cậu quên chuyện gì đó. Cậu nhìn chằm chằm mấy nút điều khiển, cố gắng suy nghĩ, nhưng chẳng ích gì. Mắt cậu khó mà tập trung được. “Thầy phải coi chừng bọn quái vật,” cậu bảo vị huấn luyện viên. “Và cẩn thận với bộ thăng bằng bị hỏng. Và–”

      “Ta xử lí được,” HLV Hedge hứa. “Giờ , !”

      Leo mệt mỏi gật đầu. Cậu lảo đảo băng qua boong tàu về phía các bạn cậu.

      Percy và Jason ngồi dựa vào cột buồm, đầu hai người gục xuống vì kiệt sức. Annabeth và Piper cố cho họ uống ít nước.

      Hazel và Frank đứng ngoài tầm nghe, cuộc tranh luận với rất nhiều cái vung tay và lắc đầu. Lẽ ra Leo nên cảm thấy hài lòng vì điều đó, nhưng phần trong cậu lại có cảm giác ấy. Phần còn lại trong cậu cảm thấy tồi tệ vì cậu thấy hài lòng.

      Cuộc tranh luận đột ngột dừng lại khi Hazel nhìn thấy Leo. Mọi người tụ tập lại chỗ cột buồm.

      Frank nhíu mày như thể cậu ta cố biến thành con chó bun[4]. “ có dấu hiệu của truy đuổi,” cậu .

      “Hay đất liền.” Hazel bổ sung. Trông hơi xanh xao, dù Leo chắc đó là do lắc lư của con tàu hay do trận tranh cãi lúc nãy.

      Leo quét mắt nhìn về phía chân trời. có gì ngoài mặt biển bao vây bốn phía. Điều đó lẽ ra nên khiến cậu ngạc nhiên mới phải. Cậu mất công sức sáu tháng trời để dựng nên con tàu mà cậu biết là vượt Đai Tây Dương. Nhưng mãi cho tới tận hôm nay, việc bọn họ dấn thân vào hành trình tới những vùng đất cổ xưa vẫn chẳng có vẻ gì là chân thực cả. Trước đó, Leo chưa từng ra khỏi nước Mỹ, ngoại trừ chuyến bay ngắn cưỡi rồng đến Québec. Giờ họ ở giữa biển khơi rộng lớn, hoàn toàn độc, dong buồm về phía Mare Nostrum, quê hương của tất cả những quái vật đáng sợ và những tên khổng lồ xấu xa. Có thể, đám người La Mã bám theo họ được , nhưng họ cũng thể nhờ cậy vào trợ giúp của Trại Con Lai được.

      Leo vỗ vỗ thắt lưng để chắc chắn rằng cái đai dụng cụ của cậu vẫn còn đấy. Rủi thay, làm vậy chỉ khiến cậu nhớ đến cái bánh quy may mắn của Nemesis, được nhét vào ngăn túi.

      Cậu luôn là kẻ ngoài cuộc. Giọng của nữ thần vẫn len lỏi trong đầu cậu. Bánh xe thứ bảy.

      Quên bà ta , Leo tự nhủ. Tập trung vào những thứ mày có thể sửa chữa.

      Cậu quay sang Annabeth. “Cậu thấy tấm bản đồ cậu muốn tìm chưa?”

      gật đầu, dù trông tái nhợt. Leo thắc mắc biết nhìn thấy gì ở đồn Sumter mà lại có thể khiến bị rung động mạnh đến thế.

      “Mình phải nghiên cứu nó,” , như thể chủ đề này chấm dứt ở đó. “Bọn mình còn cách mấy tọa độ đó bao xa?”

      với tốc độ tối đa còn giờ.” Leo đáp. “Có ý tưởng gì về thứ bọn mình tìm ?”

      .” thừa nhận. “Percy?”

      Percy ngẩng đầu, cặp mắt xanh của cậu đầy tia máu và díu lại. “ Nereid đó những người em của Chiron ở đó, và họ muốn nghe về khu thủy cung ở Atlanta kia. Mình biết ấy có ý gì, nhưng…” Cậu dừng lại, như thể cậu vét hết năng lượng để bấy nhiêu. “ ấy cũng cảnh báo mình phải cẩn thận. Keto, bà nữ thần ở khu thủy cung: Bà ta là mẹ của các thủy quái. Có thể bà ta bị kẹt ở Atlanta, nhưng bà ta vẫn có thể phái đám con cái của bà ta đuổi theo chúng ta. Những Nereid rằng chúng ta nên đề phòng cuộc tấn công.”

      “Tuyệt vời,” Frank lầm bầm.

      Jason cố đứng dậy, chẳng phải ý hay. Piper túm lấy cậu để cậu khỏi lộn nhào, và cậu trượt xuống trở lại chỗ cột buồm.

      “Bọn mình có cho con tàu cất cánh được ?” Cậu hỏi. “Nếu bọn mình có thể bay–”

      “Được thế còn gì bằng,” Leo . “Chỉ trừ mỗi chuyện Festus bảo với mình rằng bộ thăng bằng bị nghiền thành cám lúc con tàu quẹt vào cầu cảng ở đồn Sumter.”

      “Lúc đó bọn mình khẩn trương mà,” Annabeth . “ cố cứu cậu.”

      “Và cứu mình là lý do vô cùng cao cả,” Leo đồng ý. “Mình chỉ là, phải mất ít thời gian để sửa nó. Cho tới lúc đó, bọn mình có bay bổng gì cả.”

      Percy vươn vai và nhăn mặt. “Với mình ổn. Biển cũng tốt.”

      “Đấy là với thôi.” Hazel nhìn vầng thái dương buổi chiều sắp xuống tới đường chân trời. “Bọn mình phải nhanh. Ta tiêu thêm ngày nữa và Nico chỉ còn có ba ngày.”

      “Bọn mình làm được mà.” Leo hứa. Cậu hy vọng Hazel tha thứ cho cậu vì tin tưởng em trai (này, với Leo đó có vẻ là nghi ngờ hợp lý mà) , nhưng cậu muốn rạch lại vết thương cũ đó. “Bọn mình có thể đến được Rome trong vòng ba ngày–giả như, em biết đấy, có chuyện gì đột ngột xảy ra.”

      Frank cười gằn. Trông cậu ta như thể cậu ta vẫn cố thực vụ biến thành chó bun đó. “Có tin gì tốt ?”

      ra , có đấy” Leo đáp. “Theo như Festus thông báo, chiếc bàn bay của chúng ta, Buford, trở lại an toàn lúc chúng ta còn ở Charleston, vậy là đám đại bàng kia tóm được cậu chàng. may là, chàng làm mất túi đồ giặt với mấy cái quần của cậu rồi.”

      “Quỷ tha ma bắt nó chứ!” Frank rống lên, Leo nhận thấy đó có lẽ là lời văng tục nặng nề đối với cậu ta.

      nghi ngờ gì là Frank có thể chửi thề thêm ít nữa–tuôn ra những trời đất quỷ thần với trời đánh thánh vật–nhưng Percy cắt ngang bằng cách gập đôi người và rên rỉ.

      “Thế giới vừa lộn ngược à?” cậu hỏi.

      “Ừ, nó lại còn quay mòng mòng nữa chứ. Mọi thứ đều vàng khè. Nó phải là màu vàng hả?”

      Annabeth và Piper trao đổi cái nhìn lo lắng.

      “Triệu tập cơn bão đó thực vắt kiệt sức lực của hai cậu rồi,” Piper bảo hai cậu bạn.”Các cậu cần phải nghỉ ngơi.”

      Annabeth gật đầu đồng ý. “Frank, cậu giúp bọn mình đưa hai cậu ấy xuống khoang được ?”

      Frank liếc Leo, nghi ngờ gì là chần chừ muốn để cậu lại với Hazel mình.

      “Ổn mà, ông bạn,” Leo . “Chỉ cần cố gắng đừng đánh rơi họ đường xuống là được.”

      Lúc mọi người xuống khoang hết rồi, Hazel và Leo lúng túng nhìn nhau. Họ hoàn toàn chỉ có mình với nhau, nếu tính HLV Hedge, ông thầy đứng ở boong lái hát bài hát nhạc phim Pokémon[5]. Ông thầy đổi lời bài hát thành Phải giết sạch bọn chúng[6] và Leo thực muốn biết tại sao.

      Bài hát có vẻ giúp được gì cho chứng nôn nao của Hazel.

      “Ui…” chúi người về phía trước và ôm sườn. có mái tóc rất đẹp–xoăn xoăn màu nâu sáng như những cuộn vỏ quế. Tóc của làm cậu nhớ đến chỗ làm bánh quẩychurros[7] cực ngon ở Houston. Ý nghĩ ấy khiến cậu thấy đói.

      “Đừng cúi về phía trước,” cậu khuyên. “Đừng nhắm mắt lại, làm thế chỉ càng làm cơn buồn nôn tệ hơn.”

      “Vậy hả? cũng bị say sóng à?”

      phải say sóng. Nhưng ô tô làm thấy nôn nao, cả…”

      Cậu ngăn mình lại. Cậu định cả chuyện với con nữa, nhưng cậu quyết định giữ câu đó lại cho chính mình.

      “Ô tô á?” Hazel chật vật ngồi thẳng dậy. “ có thể lái con tàu hay cưỡi con rồng, nhưng lại say xe?”

      biết, kì cục nhỉ?” Leo nhún vai. “ đặc biệt kiểu vậy đấy. Nghe này, giữ cho tầm mắt em ở đường chân trời. Đó là điểm cố định. có ích đấy.”

      Hazel hít hơi và nhìn ra xa. Mắt có màu vàng rực rỡ, như những bánh răng bằng đồng vàng bên trong cái đầu cơ khí của Festus.

      “Đỡ hơn tí nào chưa?” Cậu hỏi.

      “Có lẽ có chút đỉnh.” Giọng nghe như thể chỉ cố tỏ ra lịch . giữ tầm mắt nhìn vào đường chân trời, nhưng Leo có cảm giác đo lường tâm trạng của cậu, cân nhắc xem nên gì.

      “Frank cố tình đánh rơi đâu,” . “ ấy phải kiểu người như thế, ấy chỉ thỉnh thoảng hơi vụng về thôi.”

      “Úi,” Leo , bằng giọng giống Frank Trương nhất của cậu. “Đánh rơi Leo vào giữa tiểu đội địch mất rồi. Khỉ .“

      Hazel cố nín cười. Leo thấy cười còn đỡ hơn là nôn mửa.

      “Dễ dãi với ấy chút ,” Hazel , “ với mấy quả cầu lửa của khiến ấy lo lắng.”

      chàng đó có thể biến thành con voi, thế mà lại khiến cậu ta thấy lo lắng á?”

      Hazel tiếp tục nhìn đường chân trời. Trông còn quá nôn nao nữa, bất chấp chuyện HLV Hedge vẫn tiếp tục nghêu ngao bài hát Pokémon của ông ở khoang bánh lái.

      “Leo,” . “Về chuyện xảy ra ở Hồ Muối Lớn…”

      Đến rồi đây, Leo nghĩ.

      Cậu nghĩ đến cuộc gặp gỡ của họ với nữ thần báo thù Nemesis. Cái bánh quy may mắn trong cái đai dụng cụ của cậu dường như nặng thêm. Tối qua, khi họ bay khỏi Atlanta, Leo nằm trong cabin của cậu và nghĩ đến chuyện cậu làm Hazel tức giận đến mức nào. Cậu suy nghĩ xem làm cách nào để sửa chữa.

      Cậu sớm phải đối mặt với vấn đề cậu thể giải quyết, Nemesis như vậy, Tuy nhiên, ta có thể giúp cậu…với cái giá.

      Leo lôi cái bánh quy may mắn đó ra khỏi cái đai dụng cụ của cậu và lật lật nó giữa các ngón tay, tự hỏi cậu phải trả cái giá gì nếu cậu bóp nó ra.

      Có lẽ đây là lúc làm vậy.

      rất sẵn lòng,” cậu bảo Hazel, “ có thể dùng cái bánh quy may mắn để tìm em trai em.”

      Trông Hazel có vẻ sững sờ. “Gì cơ? ! Ý em là… đời nào em lại cầu làm thế. phải sau khi Nemesis về cái giá khủng khiếp. Bọn mình thậm chí còn chẳng biết nhau mấy.”

      Lời bình chẳng biết nhau mấy khá đau, dù Leo biết đấy là .

      “Thế…đấy phải chuyện em định à? Cậu hỏi. “Ờ, có phải em muốn về khoảnh khắc nắm-tay--tảng-đá ? Bởi vì–”

      nhanh, quạt quạt mặt mình theo cái cách dễ thương mà vẫn hay làm mỗi khi bối rối. “, em chỉ nghĩ đến cách lừa Narcissus và mấy thần nữ đó…”

      “Ờ, phải rồi.” Leo bối rối nhìn vào cánh tay cậu, hình xăm HÀNG NÓNG vẫn chưa phai hẳn. “Có vẻ là ý hay vào lúc đó.”

      “Lúc đó đáng kinh ngạc,” Hazel , “Em cứ nghĩ nghĩ lại, làm em nhớ đến–”

      “Sammy,” Leo đoán. “ ước gì em cho biết cậu ta là ai.”

      “Từng là,” Hazel đính chính. khí buổi tối ấm áp, nhưng lại rùng mình. “Em vẫn nghĩ…em có thể chỉ cho thấy.”

      “Ý em là như kiểu bức ảnh á?”

      . Có kiểu hồi tưởng xảy đến với em. Lâu rồi em chưa thấy nó, và em chưa từng cố ý làm nó xảy ra. Nhưng em từng chia sẻ hồi tưởng với Frank, nên em nghĩ…”

      Hazel khóa tầm mắt với cậu. Leo bắt đầu cảm thấy chộn rộn, như thể cậu bị tiêm cà phê. Nếu cái hồi tưởng này là thứ Frank từng chia sẻ với Hazel …chà, hoặc Leo muốn mẩu nào của nó, hoặc cậu dứt khoát muốn thử nó. Cậu cũng chắc là cái nào.

      “Em là hồi tưởng…” Cậu nuốt nước bọt. “Chính xác ta đến cái gì? Nó có an toàn ?”

      Hazel chìa tay ra. “Em muốn cầu làm việc này đâu, nhưng em chắc chắn là nó quan trọng. Việc bọn mình gặp nhau thể là ngẫu nhiên. Nếu chuyện này thành công, có lẽ cuối cùng bọn mình cũng biết được bọn mình có liên hệ với nhau như thế nào.”

      Leo nhìn lại boong lái. Cậu vẫn có cảm giác ngờ ngợ bừng bực rằng cậu quên chuyện gì đó, nhưng HLV Hedge có vẻ làm khá ổn. Bầu trời phía trước quang đãng. có dấu hiệu gì của rắc rối.

      Hơn nữa, hồi tưởng nghe có vẻ là thứ khá chóng vánh. Để HLV Hedge phụ trách trong vài phút cũng chẳng chết ai, đúng ?

      “Được rồi,” cậu động lòng. “Chỉ cho xem nào.”

      Cậu nắm lấy tay Hazel, và thế giới tan biến.



      [0] Chiron, Nhân mã Chiron – thầy dạy của Achilles – bị Hercules, trong lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay làm rơi mũi tên trúng chân Chiron, những mũi tên này đều tẩm kịch độc từ máu của Hydra (quái vật rắn nhiều đầu Hercules giết trước đó) nên bị chết. Hối hận vì hành động nông nổi Hercules đưa Chiron lên thành chòm sao trời. Chiron là nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đào tạo nhiều hùng trong thần thoại Hi Lạp, ông những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có kỹ năng chiến đấu tuyệt vời, đặc biệt là khả năng sử dụng cung tên. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ.

      [1] kiếm Nerf: kiếm nhựa do hãng đồ chơi Nerf- hãng đồ chơi của Mỹ-sản xuất.







      [2] root beer: loại đồ uống ngọt của Mĩ, thường được làm từ rễ hoặc vỏ của cây de vàng (sassafra- loại cây mọc ở Bắc Mỹ, thuộc họ nguyệt quế, vỏ và rễ có vị ngọt, lá có mùi thơm), có hai loại bia rễ cây là loại có cồn (lượng cồn rất thấp) và loại ngọt.







      [3] Super Soakers: loại súng phun nước cũng của hãng đồ chơi Nerf.







      [4] bull dog: giống chó chắc người, mặt có nhiều nếp nhăn, khá dữ dằn.







      [5] Pokémon-Pokémon (ポケモン) là trò chơi điện tử của hãng Nintendo Nhật Bản được phát triển bởi Tajiri Satoshi phát hành vào năm 1996. trở thành thương hiệu thịnh hành ở nhiều quốc gia khác thế giới, được chuyển thể thành các bộ anime, truyện tranh,… nhiều tập. Hoạt hình Pokémon được chiếu ở Việt Nam.







      [6] Nhạc phim Pokémon tên là Gotta catch ‘em all (phải bắt được tất cả bọn chúng), nhưng HLV Hedge lại hát thành Gotta kill ‘em all (phải giết sạch bọn chúng).


      [7]churros: loại bánh rán như quẩy của mình, ăn với đường trộn bột quế hoặc chấm chocolat.























      The Mark of Athena _ Chương 22


      Leo


      HỌ ĐỨNG TRONG SÂN TRONG CỦA KHU NHÀ KHÉP KÍN, như kiểu tu viện. Những bức tường gạch đỏ được cây leo phủ kín. Những cây mộc lan mọc nứt cả gạch lát. Mặt trời chiếu ánh nắng chói chang và độ ẩm khoảng hai trăm phần trăm, thậm chí còn ẩm ướt hơn cả Houston. Từ đâu đó gần đấy, Leo ngửi thấy mùi cá rán. đầu, màn mây thấp và xám xịt, vằn vện như lông hổ.

      Khoảnh sân lớn cỡ sân bóng rổ. quả bóng đá cũ xì hơi nằm lăn lóc góc, dưới chân bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.

      Dọc theo những tòa nhà, các cửa sổ đều mở. Leo có thể thấy thấp thoáng những cử động bên trong, nhưng mọi thứ lại im lặng cách kì quái. Cậu thấy dấu hiệu gì của máy điều hòa khí, có nghĩa là bên trong chắc phải nóng đến cả nghìn độ.

      “Bọn mình ở chỗ nào đây?” Cậu hỏi.

      “Trường cũ của em,” Hazel đứng bên cạnh cậu . “Học viện Thánh Agnes Cho Trẻ Em Da Màu Và Da Đỏ.”

      “Tên kiểu gì–?”

      Cậu quay sang Hazel và giật mình kêu lên. bóng ma–chỉ là cái bóng mờ sương trong khí ẩm thấp. Leo nhìn xuống và nhận ra thân thể của chính cậu cũng biến thành sương khói.

      Mọi thứ chung quanh cậu đều có vẻ nét và rất , nhưng cậu lại là linh hồn. Sau vụ bị eidolon nhập ba ngày trước, cậu khoái cái cảm giác này tẹo nào.

      Trước khi cậu kịp thắc mắc thêm, hồi chuông vang lên từ bên trong: phải tiếng chuông điện đại, mà là thanh kiểu xưa của chiếc búa gõ lên kim loại.

      “Đây là kí ức,” Hazel , “vậy nên có ai trông thấy bọn mình cả. Nhìn kìa, bọn em đến rồi.”

      “Bọn em á?”

      Từ khắp các cánh cửa, từng tá từng tá học sinh ùa ra sân, hò hét và xô đẩy nhau. Hầu hết trong số chúng mang dòng máu Mĩ-Phi, với nhúm rải rác những đứa trông như trẻ con Mĩ-Latin, bé bằng trẻ con mẫu giáo cũng có mà lớn cỡ học sinh cấp ba cũng có. Leo có thể nhận ra đây là quá khứ, vì tất cả đám con đều mặc váy và giày da cài khóa[1]. Đám con trai mặc áo sơ-mi trắng có cổ và quần tây có dây đeo. Nhiều đứa đội mũ lưỡi trai giống mũ của mấy tay đua ngựa[2]. Vài đứa mang theo đồ ăn trưa. Nhiều đứa khác . Quần áo của bọn chúng sạch , nhưng sờn rách và bạc màu. Vài đứa có chỗ rách ở quần chỗ đầu gối hay giày bị há mõm.

      Vài đứa con bắt đầu chơi nhảy dây bằng đoạn dây phơi quần áo. Mấy đứa lớn hơn chuyền qua chuyền lại quả bóng chày cũ mèm. Những đứa mang đồ ăn trưa ngồi túm tụm vừa ăn vừa tán dóc.

      Chẳng ai để ý thấy Ma Hazel hay Ma Leo.

      Rồi Hazel – Hazel của quá khứ – xuống sân. Leo nhận ra chẳng khó khăn gì, dù trông trẻ hơn bây giờ khoảng hai tuổi. Tóc được kẹp lại thành túm. Đôi mắt vàng của bồn chồn đảo quanh khoảnh sân. mặc chiếc váy tối màu, giống những đứa con khác mặc váy vải bông trắng hay màu nhạt in hoa, vì vậy nổi bật như người khóc than giữa đám cưới vậy.

      cầm túi đựng đồ ăn trưa bằng vải bạt và men theo bức tường, như cố hết sức để bị chú ý.

      Cách đó hiệu quả. thằng con trai kêu lên, “Đồ phù thủy!” Nó ì ạch đến chỗ , dồn vào góc. Đứa con trai có lẽ mười bốn hay mười chín tuổi. Khó mà được vì nó cực kì đô con, dễ chừng là đứa to xác nhất trong sân. Leo nhận thấy nó bị cản lại mấy lần. Đứa con trai mặc cái áo sơ mi bẩn thỉu có màu của cái giẻ lau dầu máy, quần sợi len mòn xơ (với cái nóng như thế này chẳng dễ chịu gì), và chẳng giày tất gì sất. Có lẽ các giáo viên quá kinh hãi để mà bắt thằng này giày, hay có lẽ nó chẳng có đôi giày nào.

      “Đấy là Rufus,” Ma Hazel đầy vẻ chán ghét.

      “Nghiêm túc đó hả? đời nào mà thằng đó lại tên là Rufus.” Leo .

      nào,” Ma Hazel . lướt về phía cuộc đối đầu. Leo lướt theo. Cậu quen lướt , nhưng cậu từng xe Segway[3] lần và nó cũng tương tự như vậy.

      Thằng nhóc đô con Rufus có khuôn mặt bèn bẹt, như thể nó dành phần lớn thời gian cắm mặt hôn vỉa hè. Tóc đỉnh đầu nó cũng được cắt bằng, đến nỗi máy bay mini có thể dùng chỏm đầu nó làm đường băng hạ cánh.

      Rufus chìa tay ra. “Bữa trưa.”

      Hazel trong quá khứ gì. đưa cái túi vải bạt ra như thể đó là chuyện cơm bữa hàng ngày.

      Mấy đứa con lớn xúm đến xem trò vui. đứa cười khúc khích với Rufus. “Mày muốn ăn thứ đấy đâu,” con bé cảnh báo. “Dám có độc trong đó lắm.”

      “Mày đúng,” Rufus . “Con mẹ phù thủy của mày làm cái này hả, Levesque?”

      “Mẹ phải phù thủy,” Hazel lẩm bẩm.

      Rufus ném cái túi xuống đất và dẫm lên nó, nghiền nát các thứ bên trong bằng bàn chân trần của nó. “Trả mày đấy. Nhưng tao muốn viên kim cương. Tao nghe mẹ của mày biến được ra mấy thứ đó từ khí. Đưa tao viên kim cương.”

      “Tôi có kim cương,” Hazel . “Cút .”

      Rufus co tay lại thành nắm đấm. Leo ở nhiều trường học và nhà nhận nuôi khắc nghiệt đủ để nhận biết khi nào chuyện sắp thành ra tồi tệ. Cậu muốn bước tới và giúp Hazel, nhưng cậu là bóng ma. Hơn nữa, tất cả những chuyện này xảy ra từ vài chục năm trước rồi.

      Rồi đứa khác loạng choạng bước ra dưới ánh mặt trời.

      Leo hít sâu hơi. Cậu nhóc đó trông y chang cậu.

      thấy chưa?” Bóng Ma Hazel hỏi.

      Leo Dỏm có chiều cao bằng Leo – có nghĩa là lùn. Cậu ta cũng có cùng kiểu năng lượng bồn chồn đó – gõ gõ ngón tay lên quần mình, phủi phủi áo sơ mi, chỉnh chỉnh cái mũ lưỡi trai kỵ sĩ mái tóc nâu xoăn xoăn của mình. ( tình, Leo nghĩ, người thấp bé nên đội mũ cưỡi ngựa, trừ phi họ là tay đua ngựa.) Leo Dỏm có nụ cười tinh quái tương tự như nụ cười vẫn cười với Leo mỗi lần cậu nhìn vào gương — vẻ mặt khiến các thầy giáo phải lập tức quát lên, “Đừng có hòng mà nghĩ đến chuyện đấy!” và xách cổ cậu lên hàng đầu.

      Có vẻ như Leo Dỏm vừa bị thầy nào đấy quở mắng. Cậu ta cầm cái mũ lừa[4] – cái mũ lừa hàng--giá- bằng bìa cứng có viết chữ ĐẦN ĐỘN mặt. Leo cứ tưởng mấy thứ này chỉ có trong hoạt hình thôi chứ.

      Leo có thể hiểu tại sao Leo Dỏm đội cái mũ đó. Trông giống tay đua ngựa là đủ tệ lắm rồi. Cái mũ đó mà ngồi đầu cậu ta cậu ta trông như thần lùn giữ của[5] mất.

      Vài đứa lùi lại khi Leo Dỏm nhảy vào trường. Những đứa khác huých nhau chạy về phía cậu ta như mong chờ màn hay.

      Trong lúc đó, Rufus Đầu Bẹt vẫn cố moi viên kim cương từ Hazel, mù tịt về xuất của Leo Dỏm.

      “Nào, .” Rufus gườm gườm nhìn Hazel, nắm đấm siết chặt. “Đưa nó đây!”

      Hazel nép sát vào bức tường phía sau. Đột nhiên mặt đất dưới chân kêu tạch tiếng, như tiếng nhánh cây gãy. viên kim cương hoàn hảo to cỡ hạt dẻ cười lấp lánh nằm giữa hai bàn chân .

      “Ha!” Rufus rống lên khi nhìn thấy nó. Nó bắt đầu cúi xuống, nhưng Hazel kêu lên, “Làm ơn, đừng!” như thể lo lắng cho thằng đần to xác.

      Đó cũng là lúc Leo Dỏm nhởn nha tới.

      Đến rồi đây, Leo nghĩ. Leo Dỏm tung ra mấy đòn nhu thuật[6] kiểu HLV Hedge và lập chiến công.

      Thay vì vậy, Leo Dỏm đưa chóp của cái mũ lừa lên trước miệng mình như cái loa và gào lên, “CẮT!”

      Cậu ta câu đó với đầy quyền uy đến nỗi tất cả đám nhóc còn lại đứng hình trong giây lát. Ngay cả Rufus cũng đứng thẳng dậy và hoang mang lùi lại.

      đứa con trai bé khúc khích cười thầm: “Hammy Sammy.”

      Sammy… Leo rùng mình. Tên này là đứa quái quỷ nào vậy?

      Sammy/Leo Dỏm lao tới chỗ Rufus với cái mũ lừa tay, vẻ mặt giận dữ. “, , !” cậu ta phán, điên cuồng vẫy cái tay rảnh với những đứa khác xúm vào xem trò vui.

      Sammy quay về phía Hazel. “Tiểu thư Lamarr, lời thoại của phải là…” Sammy bực dọc nhìn chung quanh. “Kịch bản đâu! Lời thoại của Hedy Lamarr là gì?”

      “‘, làm ơn, đồ xấu xa’” đứa con trai đáp.

      “Cám ơn!” Sammy . “ Lamarr, phải , , làm ơn, đồ xấu xa! Còn cậu, Clark Gable – “[7]

      Cả sân chơi phá ra cười. Leo chỉ biết lơ mơ rằng Clark Gable là diễn viên thời xưa, còn lại cậu mù tịt. Dù vậy, có vẻ như cái ý rưởng Rufus Đầu Bẹt có thể là Clark Gable là cực kì khôi hài với đám nhóc ở đây.

      “Ngài Gable–”

      !” đứa con kêu lên. “Cho nó làm Gary Cooper[8] !”

      Thêm nhiều tiếng cười nữa. Rufus trông như thể sắp nổi khùng. Nó siết chặt nắm đấm như muốn đánh ai đó, nhưng nó thể tấn công cả trường được. ràng là nó ghét bị cười nhạo, nhưng đầu óc bé chậm chạp của nó lại thể ngộ ra Sammy định làm gì.

      Leo gật đầu tán thưởng. Sammy đúng là rất giống cậu. Cậu làm những trò tương tự với đám ưa bắt nạt hàng nhiều năm trời.

      “Rồi!” Sammy hống hách kêu lên. “Cậu Cooper, cậu , Ồ, nhưng viên kim cương này là của tôi, em gian trá của tôi ạ! Rồi cậu hãy lượm lấy viên kim cương như thế này này!”

      “Sammy, đừng!” Hazel kêu lên, nhưng Sammy lượm viên đá lên và nhét nó vào túi cậu ta bằng cử động mượt mà.

      Cậu xoay về phía Rufus. “Tôi muốn cảm xúc! Tôi muốn các nữ khán giả ngất xỉu! Các quý , vừa rồi Ngài Cooper khiến các ngất xỉu chưa?”

      “Chưa,” vài đứa con đáp lại.

      “Đấy, cậu thấy chưa?” Sammy gào lên. “Nào, bắt đầu lại từ đầu!” cậu ta gào vào cái mũ lừa tay. “Diễn!”

      Rufus vừa bước ra khỏi trạng thái mù mờ. Nó bước về phía Sammy và , “Valdez, tao –”

      Chuông kêu. Đám học sinh ùa về phía các cánh cửa. Sammy kéo Hazel tránh sang bên trong khi những đứa bé – hành xử như thể bọn chúng có tên trong danh sách trả lương của Sammy – lùa Rufus cùng bọn chúng, khiến nó bị lôi vào trong bởi cơn thủy triều toàn trẻ con mẫu giáo.

      Chẳng mấy chốc, Sammy và Hazel chỉ còn lại mình với nhau, tính hai bóng ma.

      Sammy lượm bữa trưa bẹp nát của Hazel lên, trình diễn động tác phủi bụi cho cái túi vải bạt của Hazel, rồi đưa nó cho với cái cúi mình trịnh trọng, như thể đó là vương miện của . “Tiểu thư Lamarr.”

      Hazel trong quá khứ nhận lấy túi đồ ăn trưa bị hỏng của . Trông giống như thể sắp khóc, nhưng Leo đoán được đó là vì nhõm hay khổ sở hay ngưỡng mộ. “Sammy…Rufus giết cậu mất.”

      “À, nó đủ khôn để mà chọc tới mình.” Sammy thả cái mũ lừa lên cái mũ cưỡi ngựa của cậu ta. Cậu đứng thẳng và ưỡn tấm ngực gầy gò. Cái mũ lừa rớt xuống.

      Hazel cười. “Trông cậu lố bịch.”

      “Ồ, cảm ơn, Tiểu thư Lamarr.”

      “Có gì đâu, chàng xảo trá của tôi.“

      Nụ cười của Sammy nao núng. khí trở nên trầm mặc cách khó chịu. Hazel nìn chăm chăm xuống mặt đất. “Lẽ ra cậu nên nhặt viên kim cương đó. Nó rất nguy hiểm.”

      “A, thôi nào,” Sammy . “ phải với mình!”

      Hazel thận trọng quan sát cậu ta, như thể muốn tin điều đó. “Những chuyện xấu có thể xảy ra. Cậu nên–”

      “Mình bán nó đâu,” Sammy . “Mình hứa đấy! Mình chỉ giữ nó làm bằng chứng cho mùi vị (flavor) của cậu thôi!”

      Hazel nặn ra nụ cười. “Mình nghĩ ý cậu là bằng chứng cho tình cảm quý mến(favor) của mình.“

      “Đấy đấy! Bọn mình nên thôi. Đến giờ cho cảnh tiếp theo của chúng ta: Hedy Lamar suýt chết vì chán trong lớp học Tiếng rồi.”

      Sammy đưa khuỷu tay ra như quý ông lịch thiệp, nhưng Hazel tinh nghịch đẩy cậu ra. “Cảm ơn cậu vì ở đó, Sammy.”

      “Tiểu thư Lamarr, tôi luôn ở bên khi cần!” cậu tươi tỉnh . Hai người bọn họ chạy nhanh vào lớp.

      Leo cảm thấy giống hồn ma hơn bao giờ hết. Có lẽ cậu vẫn hồn ma eidolon suốt cả đời mình, bởi vì cậu nhóc cậu vừa thấy hẳn phải là Leo xịn. Cậu ta thông minh hơn, ngầu hơn và hài hước hơn. Cậu ta giỡn hớt với Hazel tài đến nỗi hiển nhiên cậu ta trộm được trái tim của .

      Chẳng trách Hazel lại nhìn Leo theo cách kì lạ như thế lúc họ mới gặp lần đầu. Chẳng trách mà lại gọi cái tên Sammy với nhiều cảm xúc đến vậy. Nhưng Leo phải là Sammy, cũng y như Rufus Đầu Bẹt phải là Clark Gable vậy.

      “Hazel,” Cậu . “ — “

      Sân trường nhòa thành khung cảnh khác.

      Hazel và Leo vẫn là những bóng ma, nhưng giờ họ lại đứng trước ngôi nhà cũ nát bên con mương mọc đầy cỏ dại. bụi chuối mọc ủ rũ khoảng sân. bậc thang đặt cái radio kiểu cổ phát nhạc conjunto[9], và hàng hiên râm mát, ngồi cái ghế bập bênh, ông già gầy gò nhìn về phía chân trời.

      “Bọn mình ở đâu thế này?” Hazel hỏi. vẫn ở thể hơi, nhưng giọng của đầy hoảng hốt. “Cái này có trong cuộc đời em!”

      Leo cảm thấy như thể bóng ma của mình chắc lại, trở nên hơn. Nơi này có vẻ quen thuộc cách kỳ lạ.

      “Chỗ này là Houston,” cậu nhận ra. “ biết khung cảnh này. Con mương đó…Đây là chỗ ở cũ của mẹ , nơi mẹ lớn lên. Đằng kia là Sân bay Hobby.”

      “Đây là kí ức của á?” Hazel . “Em hiểu! Làm thế nào–?”

      “Em hỏi á?” Leo vặn lại.

      Bỗng ông lão lẩm bẩm, “A, Hazel…”

      Cảm giác sững sờ chạy dọc xương sống Leo. Đôi mắt của ông lão vẫn nhìn đăm đăm về phía chân trời. Sao ông lại biết họ ở đây được?

      “Mình đoán chúng ta hết thời gian rồi,” ông lão mơ màng tiếp. “Chà…”

      Ông nốt ý nghĩ đó ra.

      Hazel và Leo đứng im như tượng. Ông lão tỏ thêm dấu hiệu nào rằng ông nghe thấy hay nhìn thấy họ. Leo hiểu ra là ông lão chỉ chuyện mình. Vậy sao ông lại gọi tên Hazel?

      Ông lão có làn da nhăn nheo, tóc xoăn bạc trắng và đôi bàn tay sần sùi, như thể ông dành cả đời làm việc trong xưởng cơ khí. Ông mặc cái áo sơ mi màu vàng nhạt, sạch vết bẩn với quần tây xám có quai đeo và giày đen được đánh kĩ.


      Bất chấp tuổi tác, đôi mắt ông vẫn tinh tường và sáng trong. Ông ngồi với phong thái nghiêm trang tĩnh lặng. Trông ông rất thanh thản–thậm chí là khoái chí, như thể ông nghĩ, Bố khỉ, mình sống lâu đến ngần này cơ á? Oách !

      Leo khá là chắc là mình chưa từng nhìn thấy ông lão này. Vậy mà sao ông lại có vẻ quen quen? Rồi cậu nhận ra ông lão gõ gõ ngón tay lên tay vịn chiếc ghế mà ông ngồi, nhưng phải gõ linh tinh. Ông dùng mã Morse[10], hệt như cách mẹ Leo thường làm với cậu…và ông lão gõ lại thông điệp: em.

      Cánh cửa chớp mở ra. người phụ nữ trẻ bước ra. mặc quần jeans và cái áo cánh màu xanh ngọc. Mái tóc đen của được cắt ngắn thành những lọn lỉa chỉa. Trông xinh xắn, nhưng hề mong manh. có hai cánh tay rắn chắc và đôi bàn tay chai sạn. Cặp mắt nâu của , giống như đôi mắt của ông lão, lấp lánh niềm vui thích. Trong tay ôm đứa bé, được bọc trong cái chăn màu xanh dương.

      “Nhìn này, mijo[11],” với đứa bé. “Đây là bisabuelo của con đấy. Bisabuelo, ông có muốn bế bé ?”

      Khi Leo nghe thấy giọng của người phụ nữ trẻ, cậu thổn thức.

      Đó là mẹ cậu– trẻ hơn cậu nhớ, nhưng thực còn sống. Điều đó có nghĩa là đứa bé trong tay bà…

      Ông lão nhe răng cười toe toét. Ông có những cái răng hoàn hảo, trắng tinh y như tóc ông vậy. Mặt ông đầy những nếp nhăn vì cười. “ đứa bé trai! Mi bebito[12], Leo!”

      “Leo?” Hazel thào. “Đấy– đấy là ? Bisabuelo là gì?”

      Leo thể tìm được giọng của mình. Là ông cố [13], Leo muốn trả lời như vậy.

      Ông lão đón lấy bé Leo, cười khùng khục thích thú và cù cù cái cằm của thằng bé – và cuối cùng Bóng Ma Leo cũng nhận ra cái mà mình nhìn thấy.

      Bằng cách nào đó, khả năng về thăm lại quá khứ của Hazel tìm được kiên duy nhất kết nối cuộc đời hai bọn họ – nơi dòng thời gian của Leo và Hazel gặp nhau.

      Người đàn ông này…

      “Ôi…” Hazel có vẻ như cũng nhận ra ông là ai cùng thời điểm đó. Giọng của trở nên lí nhí, chực bật khóc. “Ôi, Sammy, …”

      “A, Leo bé bỏng,” Sammy Valdez, hơn bảy mươi tuổi, . “Cháu là diễn viên đóng thế của ta, hử? Người ta gọi thế phải, ta nghĩ vậy. với ấy giùm ta. Ta hi vọng ta có thể sống tiếp, nhưng, ây, lời nguyền cho ta làm vậy!”

      Hazel nức nở. “Gaea…Gaea với em rằng cậu ấy chết vì đau tim, vào những năm 60. Nhưng đây phải – đây thể là…”

      Sammy Valdez vẫn ngừng chuyện với đứa bé, trong khi mẹ của Leo, Esperanza, nhìn họ với nụ cười đau buồn – có lẽ là hơi lo lắng rằng bisabuelo của Leo lan man, hơi buồn vì ông lẩn thẩn.

      “Quý đó, Doña Callida, cảnh báo ta.” Sammy buồn bã lắc đầu. “ ta mối hiểm nguy lớn với Hazel xảy đến lúc ta sống. Nhưng ta hứa ta ở bên ấy. Cháu phải với ấy rằng ta xin lỗi, Leo ạ. Hãy giúp ấy nếu cháu có thể.”

      “Bisabuelo,” Esperanza , “chắc ông mệt rồi.”

      Bà giang tay ra định đón thằng bé, nhưng ông cụ ôm nó thêm lúc nữa. Leo Bé có vẻ hoàn toàn ổn với điều đó.

      với ấy là ta xin lỗi vì bán viên kim cương , nhé?” Sammy . “Ta thất hứa. Lúc ấy biến mất ở Alaska…à, lâu lắm rồi, cuối cùng ta cũng dùng viên kim cương đó, chuyển đến Texas như ta vẫn từng mơ. Ta mở xưởng cơ khí của ta. Tạo dựng gia đình của ta! cuộc đời tốt đẹp, nhưng Hazel đúng. Viên kim cương mang lời nguyền. Ta bao giờ được trông thấy ấy nữa.”

      “Ôi, Sammy,” Hazel . “, lời nguyền phải thứ ngăn trở mình. Mình đãmuốn quay trở lại. Mình chết!”

      Ông lão chẳng có vẻ gì là nghe thấy. Ông cười với đứa bé, và hôn đầu thằng bé. “Ta chúc phúc cho cháu, Leo. Chắt trai lớn! Ta có cảm giác cháu là đứa bé đặc biệt, giống như Hazel. Cháu còn hơn cả đứa bé bình thường, nhỉ? Cháu bước tiếp thay ta. Cháu gặp ấy ngày nào đó. xin chào với ấy hộ ta nhé.”

      “Bisabuelo,” Esperanza , hơi dứt khoát hơn.

      “Ừ, ừ.” Sammy cười khùng khục. “El viejo loco[14] lảm nhảm suốt ngày. Ông mệt rồi, Esperanza. Cháu đúng. Nhưng ông nghỉ ngơi sớm thôi. cuộc đời tốt đẹp. Hãy nuôi dạy thằng bé cho tốt, nieta[15].”

      Khung cảnh mờ .

      Leo lại đứng boong tàu Argo III, nắm tay Hazel. Mặt trời lặn, và con tàu chỉ được thắp sáng bởi những lồng đèn bằng đồng. Mắt Hazel sưng húp vì khóc.

      Những gì họ thấy là quá nhiều. Đại dương nhấp nhô bên đưới họ và lúc này, lần đầu tiên trong đời Leo cảm thấy họ như hoàn toàn lênh đênh.

      “Xin chào, Hazel Levesque.” cậu , giọng khàn khàn.

      Cằm run rẩy. quay và mở miệng muốn nhưng trước khi kịp làm vậy con tàu tròng trành nghiêng sang bên.

      “Leo!” HLV Hedge gào lên.

      Festus kêu ù ù báo động và phun lửa vào bầu trời đêm. Chuông tàu rung lên.

      “Đám quái vật mà trò lo đụng phải ấy mà?” Hedge hét lên. “ con trong đám đấy tìm thấy chúng ta rồi!”



      [1] buckled leather shoes











      [2] mũ lưỡi trai kỵ sĩ.







      [3] Segway PT (viết tắt của Segway Personal Transporter – Xe cá nhân Segway), thường được gọi tắt là Segway là phương tiện giao thông cá nhân có hai bánh, hoạt động cơ chế tự cân bằng do Dean Kamen phát minh. Loại xe này được sản xuất bởi công ty Segway Inc. ở bang New Hampshire, Hoa Kỳ. Từ “Segway” phát gần giống với “segue” ( từ gốc tiếng Ý có nghĩa “di chuyển nhàng”)







      [4] dunce cone: mũ làm bằng giấy đội vào đầu những học sinh học dốt hoặc có những hành vi tốt như hình phạt.







      [5] gnome: các bức tượng lùn thường để trước cửa hoặc trong vườn để giữ nhà giữ vườn







      [6] jujitsu: Nhu Thuật (柔術; Jujitsu, Jiu-Jitsu) là danh từ gọi chung cho nhiều môn phái võ thuật cổ truyền của người Nhật. Nhu Thuật xuất nguồn từ giai cấp võ sĩ samurai xưa ở Nhật Bản dùng tay để tự vệ và chống cự lại đối thủ có võ trang hay võ trang. Vì các samurai nhận thấy rằng phương pháp đấm đá của các bộ môn võ khác có hiệu nghiệm khi chống lại địch thủ mặc áo giáp, họ phát minh ra phương pháp dùng quật ngã, đè, siết cổ, khóa tay, khóa chân,… để kháng cự địch thủ. Những phương pháp này chung là dựa lý thuyết dùng sức công của đối phương để kềm chế địch thủ, thay vì chống trả trực tiếp.

      [7] Hedy Lamarr và Clark Gable : hai diễn viên chính trong phim Comrade X (1940), bộ phim từng được đề cử giải Hàn Lâm cho Kịch Bản Xuất Sắc Nhất.

      [8] Gary Cooper: là nam diễn viên điện ảnh Mỹ. Ông nổi tiếng với phong cách diễn nhàng, trầm lặng và khả năng tự chủ, kiềm chế cảm xúc nên được coi là hình mẫu hoàn hảo cho thể loại phim câm, nhưng bên cạnh đó, ông vẫn có thể thể cá tính mạnh mẽ như trong số bộ phim miền Tây ông tham gia. nghiệp của Cooper kéo dài từ năm 1925 cho đến tận khi ông sắp qua đời, bao gồm hơn trăm bộ phim.

      [9] conjunto: thể loại nhạc bắt nguồn từ phía Nam Texas từ cuối thế kỉ XIX, thường có đàn bajo sexto (ghi-ta của Tây Ban Nha) và đàn accordion là nhạc cụ chính.

      [10] Mã Morse hay mã Moóc-xơ, được phát minh vào năm 1835 bởi Samuel Morse, là loại mã hóa ký tự dùng để truyền các thông tin điện báo. Mã Morse dùng chuỗi được chuẩn hóa gồm các phần tử dài và ngắn để biểu diễn các chữ cái, chữ số, dấu chấm, và các kí tự đặc biệt của thông điệp. Các phần từ ngắn và dài có thể được thể bằng thanh, các dấu hay gạch, hoặc các xung, hoặc các kí hiệu tường được gọi là “chấm” và “gạch” hay “dot” và “dash” trong tiếng .

      [11] Tiếng Tây Ban Nha, ghép từ ‘mi’(của tôi) và ‘hijo’(con trai) thành ‘mijo’ là ‘con tai của tôi’

      [12] Tiếng Tây Ban Nha, ‘mi bebito’ tương tự ‘my baby’ trong tiếng , là ‘bé của tôi’

      [13] Được dịch nguyên văn theo bản gốc. Thực ra từ Bisabuelo có nghĩa là ông thôi, còn từ tatarabuelo mới có nghĩa là ông cố. biết tại sao lại có nhầm lẫm như vậy, có lẽ tại tác giả. Đây phải lỗi của dịch giả :)))))

      [14] Tiếng Tây Ban Nha: ‘El viejo loco’ có nghĩa là ‘già rồi lẩm cẩm’

      [15] Tiếng Tây Ban Nha: ‘nieta’ là ‘cháu

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 23


      Leo


      LEO XỨNG ĐÁNG NHẬN CÁI MŨ LỪA.

      Nếu cậu minh mẫn, cậu chuyển hệ thống dò tìm của tàu từ rađa sang siêu ngay khi họ rời cảng Charleston rồi. Đó là thứ mà cậu quên. Cậu thiết kế thân tàu để cộng hưởng mỗi giây, truyền sóng qua Màn Sương Mù và cảnh báo Fetus về bất cứ con quái vật nào ở gần, nhưng nó chỉ hoạt động ở chế độ trong cùng thời điểm: mặt nước hoặc .

      Cậu cuống lên vì bọn người La Mã, sau đó là cơn bão, rồi Hazel, khiến cậu hoàn toàn quên khuấy mất . Bây giờ, con quái vật ở ngay bên dưới họ.

      Con tàu nghiêng về mạn phải. Hazel nắm chặt dây treo. Hedge hét lên “Valdez, cái nút nào thổi bay lũ quái? Điều khiển bánh lái !”

      Leo trèo lên boong tàu nghiêng ngả và chộp được lan can mạn trái. Cậu bắt đầu trèo ngang đến bánh lái, nhưng khi cậu nhìn thấy mặt con quái vật, cậu quên luôn cả cách di chuyển.

      Cái thứ đó dài như con tàu của họ. Dưới ánh trăng, nó trông như thứ lai tạp giữa con tôm khổng lồ và con gián với lớp vỏ kitin màu hồng, cái đuôi tôm càng bằng phẳng và mớ chân của loài động vật nhiều chân nhấp nhô cách thôi miên khi con quái vật cào lên thân tàu Argo II.

      Cuối cùng đầu của nó cũng nổi lên mặt nước – khuôn mặt hồng nhầy nhụa của loài cá da trơn khổng lồ với đôi mắt đục ngầu vô hồn, há hốc cái mồm răng và rừng xúc tu mọc ra từ lỗ mũi, loại mũi rậm râu nhất mà Leo muốn nhìn thấy.

      Leo nhớ bữa ăn tối thứ Sáu đặc biệt mà cậu và mẹ cùng thưởng thức ở nhà hàng hải sản địa phương Houston. Họ ăn tôm và cá da trơn. Ý nghĩ đó bây giờ khiến cậu muốn nôn.

      “Nhanh lên, Valdez!” Hedge gào lên. “Cầm lái để ta còn lấy cây gậy bóng chày của ta!”

      “Cây gậy giúp được gì đâu.” Leo , nhưng cậu vẫn hướng đến bánh lái.

      Phía sau cậu, những người còn lại trượt chân ở cầu thang.

      Percy hét lên “Cái gì – Á! Con quái-tôm!”

      Frank chạy đến bên Hazel. nắm chặt dây treo, vẫn còn choáng váng vì đoạn hồi tưởng của mình, nhưng ra hiệu vẫn ổn.

      Con quái vật đâm sầm vào con tàu lần nữa. Thân tàu kẽo kẹt. Annabeth, Piper và Jason ngã nhào xuống mạn phải và gần như lăn xuống biển.

      Leo đến được khoang bánh lái. Tay cậu lướt bảng điều khiển. hệ thống liên lạc, Fetus cót két cọt kẹt báo cáo rò rỉ ở khoang dưới, nhưng con tàu dường như có nguy cơ chìm – ít nhất là chưa.

      Leo cột chốt vào mái chèo. Chúng có thể biến thành giáo, đủ để đánh đuổi sinh vật kia . may là chúng bị kẹt. Quái-tôm chắc đập chúng xiên xẹo rồi và con quái vật ở trong tầm bắn, điều đó có nghĩa là Leo thể sử dụng nỏ phóng tiễn mà đốt cháy tàu Argo II.

      “Làm thế nào nó đến gần vậy được?” Annabeth hét lên, né mình lại sau cái khiên chắn.

      “Ta biết!” Hegde gầm lên. Ông nhìn quanh kiếm cây cây gậy bóng chày của mình, nó lăn qua sân lái.

      “Mình ngu ngốc!” Leo mắng mình. “Ngu ngốc, ngu ngốc! Mình quên hệ thống siêu !”

      Con tàu nghiêng hơn về mạn phải. Hoặc là con quái vật cố gắng để ôm họ, hoặc là nó lật úp con tàu.

      “Hệ thống siêu ?” Hedge hỏi. “Sáo thần Pan ơi, Valdez! Nếu trò nhìn chằm chằm vào mắt Hazel, nắm tay quá lâu–”

      “Cái gì?” Frank hét lên.

      phải như thế!” Hazel phản đối.

      “Chuyện đó quan trọng!” Piper . “Jason, cậu có thể gọi sấm sét ?”

      Jason cố gắng đứng thẳng. “Mình–” Cậu chỉ lắc đầu. Lần triệu hồi cơn bão trước rút sạch năng lượng của cậu. Leo ngờ rằng chàng tội nghiệp này thình lình phóng ra mấy tia lửa điện đánh trúng bản thân mất.

      “Percy!” Annabeth . “Cậu có thể chuyện với cái thứ đó ? Cậu biết nó là cái gì ?”

      Con trai thần biển lắc đầu, ràng là hoang mang. “Có thể nó chỉ hiếu kì với con tàu. Có lẽ–”

      Tua của con quái vật giáng xuống boong tàu nhanh đến nỗi Leo thậm chí có thời gian để hét lên, Coi chừng!

      cái tua đập vào ngực Percy và ném cậu đâm sầm xuống cầu thang. Cái khác quấn quanh chân Piper và kéo lê lết, la hét, tiến về phía lan can. Hàng tá xúc tu quấn quanh cột buồm, bao quanh mấy cái nỏ và kéo toạc mấy sợi dây treo.

      “Lông mũi tấn công!” Hedge vồ lấy cây gậy bóng chày và nhảy xổ ra hành động nhưng những cú đánh của ông chỉ bật ra khỏi những cái xúc tu cách vô hại.

      Jason vung kiếm. Cậu cố gắng giải cứu Piper, nhưng cậu vẫn còn yếu. Lưỡi kiếm vàng chém ngang qua những cái xúc tu mà gặp trở ngại nào, nhưng cậu chém đứt chúng rồi nhiều cái khác mọc ra thay thế còn nhanh hơn.

      Annabeth rút dao găm ra. chạy qua rừng xúc tu, né tránh và đâm vào bất cứ mục tiêu nào mà thấy. Frank kéo cung. Cậu bắn vào sườn bên mình con vật, bắn tên vào những khe nứt lớp vỏ của nó; nhưng việc đó chỉ chọc giận con quái vật. Nó gầm lên và khiến con tàu rung chuyển. Cột buồm kêu cót két như sắp gãy.

      Họ cần nhiều hỏa lực hơn, nhưng họ thể sử dụng đạn. Họ cần ném mìn mà phải tàn phá con tàu. Nhưng bằng cách nào…?

      Đôi mắt của Leo dán vào thùng gỗ dự trữ cạnh chân Hazel.

      “Hazel!” Cậu hét. “Cái thùng đó! Mở nó ra!”

      do dự, sau đó nhìn vào cái thùng cậu đến. thùng ghi CHÚ Ý. ĐƯỢC MỞ.

      “Mở nó ra!” Leo hét lên lần nữa. “Huấn luyện viên, thầy cầm lái ! Hướng chúng ta đến con quái vật chúng ta bị lật mất.”

      Hedge nhảy qua mấy cái xúc tu với bộ móng dê nhanh nhẹn của mình, thích thú lao tới. Ông nhảy đến tay lái và điều khiển.

      “Hy vọng trò có kế hoạch!” Ông hét.

      “Hạ sách.” Leo chạy về phía cột buồm.

      Con quái vật đẩy mạnh vào tàu Argo II. Boong tàu lắc lư đến bốn mươi lăm độ. Bất chấp nỗ lực của tất cả mọi người, có quá nhiều xúc tu phải đánh. Chúng dường như có thể kéo dài như ý. Ngay sau đó, tàu Argo II hoàn toàn thành mớ rối nùi. Percy ở dưới chẳng thấy xuất . Những người còn lại đấu trối chết với đám lông mũi.

      “Frank!” Leo hô khi cậu chạy đến chỗ Hazel. “Kiếm cho tụi mình chút ít thời gian! Cậu có thể biến thành cá mập hoặc cái gì đó ?”

      Frank liếc nhìn qua, cau có; và trong khoảnh khắc đó xúc tu đập vào cậu trai to lớn, đánh cậu văng đến mạn tàu.

      Hazel hét lên. mở thùng dự trữ và gần như làm rơi hai cái lọ thủy tinh cầm.

      Leo bắt được chúng. Mỗi cái có kích thước bằng quả táo và thứ chất lỏng bên trong phát ra màu xanh lá cây kịch độc. Cái lọ ấm áp khi chạm vào. Ngực Leo cảm thấy như sắp nổ tung bởi cảm giác tội lỗi. Cậu vừa làm Frank phân tâm và có thể khiến cậu ấy bị giết, nhưng cậu thể nghĩ đến việc đó nữa. Cậu phải cứu lấy con tàu.

      nào!” Cậu đưa cho Hazel lọ. “Chúng ta có thể giết con quái vật – và cứu Frank!”

      Cậu hy vọng mình dối. Đến được hàng rào bên mạn trái giống leo núi hơn là bộ, nhưng cuối cùng họ làm được.

      “Cái thứ đó là gì vậy?” Hazel thở gấp, cầm lấy lọ thủy tinh của .

      “Lửa Hy Lạp!”

      Mắt mở to. “ điên sao? Nếu những cái lọ bi vỡ, chúng thiêu rụi cả con tàu!”

      “Miệng của nó!” Leo . “Chỉ cần ném nó xuống–”

      Đột nhiên Leo bị đẩy ngược vào Hazel và cả thế giới như bị lật về bên. Khi họ bị nhấc bổng lên trung, cậu nhận ra họ bị quấn lại với nhau bằng cái xúc tu. Cánh tay của Leo bị kiềm kẹp, nhưn tất cả những gì cậu có thể làm là giữ lấy lọ lửa Hy Lạp. Hazel cố gắng vùng vẫy. Cánh tay của bị ghìm chặt, điều đó có nghĩa là bất cứ lúc nào cái lọ bị kẹt giữa họ cũng có thể bị vỡ…và nó vô cùng có hại cho sức khỏe của họ.

      Họ bị nhấc dần lên cao phía con quái vật tầm mười, hai mươi, ba mươi bộ. Leo thoáng thấy bạn bè của cậu thua trận, la hét và chém vào lông mũi của con quái vật. Cậu nhìn thấy HLV Hedge cố gắng để giữ con tàu bị lật úp. Biển đen ngòm, nhưng trong ánh trăng cậu nghĩ cậu nhìn thấy vật lấp lánh trôi nổi gần con quái vật – có thể là thân hình bất tỉnh của Frank Trương.

      “Leo,” Hazel thở hổn hển, “Em thể – tay em – ”

      “Hazel,” cậu . “Em có tin ?”

      !”

      cũng thế,” Leo thừa nhận. “Khi cái thứ này thả chúng ta xuống, nín thở. Bất kể em làm gì, cố gắng ném cái lọ ra xa con tàu hết sức có thể.”

      “Tại sao – tại sao nó thả chúng ta xuống?”

      Leo nhìn xuống đầu con quái vật. Đây là cú ném khá khó khăn, nhưng cậu còn lựa chọn. Cậu giơ cái lọ trong bàn tay trái. Cậu ấn tay phải vào xúc tu và triệu hồi lửa ở lòng bàn tay – tia lửa đọng, nóng trắng.

      Điều đó gây chú ý với con vật. cơn run rẩy lan khắp xúc tu của con quái vật khi thịt của nó phồng rộp lên vì bị Leo chạm phải. Con quái vật ngửa mồm lên, rống lên đau đớn và Leo ném lửa Hy Lạp thẳng xuống cuống họng của nó.

      Sau đó, mọi thứ trở nên mờ nhạt. Leo cảm thấy cái xúc tu thả họ ra. Họ rơi xuống. Cậu nghe thấy tiếng nổ bóp nghẹt và nhìn thấy ánh sáng xanh lá lóe lên trong cái chụp đèn màu hồng khổng lồ của cơ thể con quái vật. Nước tạt vào mặt Leo như viên gạch bọc trong giấy nhám và cậu chìm vào bóng tối. Cậu mím chặt miệng, cố gắng thở, nhưng cậu có thể cảm thấy bản thân dần dần mất ý thức.

      Qua làn nước biển mặn chát, cậu nghĩ cậu nhìn thấy hình bóng lờ mờ của thân tàu phía hình bầu dục tối mịt bao quanh bởi quầng lửa màu xanh lá cây, nhưng cậu thể phân biệt được có phải con tàu cháy hay .

      Bị giết bởi con tôm khổng lồ, Leo cay đắng nghĩ. Ít nhất hãy để tàu Argo II thoát nạn. Để các bạn tôi được bình an.

      Tầm nhìn của cậu bắt đầu mờ dần. Phổi của cậu như bị thiêu cháy.

      Ngay khi cậu sắp bỏ cuộc, khuôn mặt xa lạ lờn vờn qua cậu – người đàn ông trông giống bác Chiron, thầy dạy họ ở Trại Con Lai. Ông có cùng kiểu tóc xoăn, râu rậm và đôi mắt thông minh – cái nhìn đâu đó pha giữa kiểu hippie[1] hoang dại và người giáo sư hiền hậu như cha, trừ việc da của người đàn ông này có màu sắc của đậu lima[2]. Người đàn ông lặng lẽ giơ lên con dao găm. Vẻ mặt của ông ảm đạm và trách móc, như muốn : Giờ, ở yên đó, ta thể giết cậu cho tử tế được.

      Leo ngất .

      Khi Leo tỉnh dậy, cậu tự hỏi liệu cậu có phải là bóng ma trong hồi ức khác, vì cậu trôi trọng lượng. Đôi mắt của cậu dần điều chỉnh với ánh sáng mờ.

      “Vừa đúng lúc.” Giọng của Frank có quá nhiều tiếng vang, như cậu chuyện qua nhiều lớp nhựa.

      Leo ngồi dậy…hay trôi thẳng dậy đúng hơn. Cậu ở dưới nước, trong cái hang có kích thước của hai cái ga-ra. Rêu lân quang bao phủ trần nhà, căn phòng tắm trong ánh sáng xanh biển và xanh lá. Sàn nhà là tấm thảm toàn nhím biển, chẳng thoải mái gì nếu đó, vì thế Leo mừng là cậu nổi. Cậu hiểu làm cách nào mà cậu có thể thở mà khí.

      Frank bay lên trong tư thế tọa thiền. Với khuôn mặt mũm mĩm và vẻ mặt gắt gỏng, cậu nhìn giống như vị Phật đạt được giác ngộ và hề xúc động vì chuyện đó.

      Lối ra duy nhất của hang động bị chặn bởi vỏ của con bào ngư rất lớn – bề mặt của nó lấp lánh ngọc trai, hoa hồng và mai rùa. Nếu cái hang này là nhà tù ít nhất nó có cánh cửa tuyệt vời.

      “Chúng ta ở đâu?” Leo hỏi. “Mọi người khác đâu?”

      “Mọi người?” Frank càu nhàu. “Mình biết. Theo như những gì mình biết cậu và mình và Hazel ở dưới này. Những gã ngựa-cá đưa Hazel gần giờ đồng hồ trước, để mình ở đây với cậu.”

      Giọng của Frank cho thấy ràng rằng cậu chấp nhận sắp xếp đó. Cậu trông bị thương, nhưng Leo nhận ra cậu còn cây cung và bao đựng tên. Trong cơn hoang mang, Leo vỗ vào eo mình. Thắt lưng của cậu mất.

      “Họ tìm thấy chúng ta,” Frank . “Lấy bất cứ thứ gì có thể làm vũ khí.”

      “Ai?” Leo hỏi gặng, “Ai là những gã ngựa-cá–?”

      “Những gã ngựa-cá,” Frank giải thích, chẳng ràng cho lắm. “Họ bắt lấy chúng ta khi chúng ta rơi xuống biển và kéo chúng ta…đến cái nơi này.”

      Leo nhớ điều cuối cùng cậu nhìn thấy trước khi cậu bất tỉnh – người đàn ông râu ria có khuôn mặt màu-đậu-lima với con dao găm. “Con quái-tôm. Tàu Argo II – nó vẫn ổn chứ?”

      “Mình biết,” Frank buồn rầu . “Những người khác có thể gặp rắc rối hoặc bị thương, hoặc – hoặc tệ hơn. Nhưng mình đoán cậu quan tâm con tàu nhiều hơn bạn của cậu.”

      Leo cảm thấy mặt của cậu bị tạt nước lần nữa. “Cái điều ngu ngốc–”

      Sau đó cậu nhận ra tại sao Frank lại giận dữ: đoạn hồi tưởng. Mọi thứ diễn ra quá nhanh với cuộc tấn công của con quái vật, Leo suýt quên mất. HLV Hedge đưa ra lời bình luận ngu ngốc về việc Leo và Hazel nắm tay và nhìn vào mắt nhau. Việc Leo khiến Frank bị đánh bay xuống biển ngay sau đó chẳng giúp thêm được gì.

      Đột nhiên Leo thấy khá khó khăn để đáp lại ánh mắt của Frank.

      “Nghe này, bạn…Mình xin lỗi vì đẩy bọn mình vào mớ rắc rối này. Mình làm rối tung mọi thứ.” Cậu hít sâu, cảm thấy bình thường cách ngạc nhiên, xét tình trạng cậu ở dưới nước. “Mình và Hazel nắm tay… phải như những gì cậu nghĩ. ấy chỉ cho mình xem hồi tưởng từ quá khứ, cố gắng tìm ra liên kết giữa mình và Sammy.”

      Vẻ mặt tức giận của Frank bắt đầu giãn dần, thay thế bởi tò mò. “ ấy… ấy tìm ra chưa?”

      “Rồi,” Leo . “À, phần nào đó. Bọn mình có cơ hội chuyện về nó sau đó bởi vì con quái-tôm, nhưng Sammy là ông cố của mình.”

      Cậu với Frank những gì cậu nhìn thấy. Những điều kì lạ hoàn toàn lộ ra hết, nhưng bây giờ, cố gắng để giải thích ràng, Leo khó thể tin được. Hazel từng phải lòng ông cố của cậu, người mà chết khi Leo còn là đứa bé. Leo chưa từng trải nghiệm các liên kết trước đó, nhưng cậu có kí ức mơ hồ về việc các thành viên lớn tuổi trong gia đình gọi ông nội cậu là Sam con. Có nghĩa là Sam bố là Sammy, ông cố của Leo. Về mặt nào đó, Tía Callida – đúng hơn là Hera – chuyện với Sammy, an ủi ông và cho ông cái nhìn mơ hồ về tương lai, có nghĩa là Hera định hướng các thế hệ cuộc đời Leo trước khi cậu sinh ra. Nếu Hazel sống ở thập niên năm 1940, nếu cưới Sammy, Leo có thể là chắt của .

      “Ôi trời ơi,” Leo ngay khi cậu hoàn tất câu chuyện. “Mình cảm thấy ổn. Nhưng mình thề với sông Styx, đó là những gì mình thấy.”

      Frank có biểu như con quái vật đầu cá da trơn – đôi mắt trong suốt mở to và cái miệng ngoác ra. “Hazel…Hazel thích ông cố của cậu? Đó là lý do tại sao ấy thích cậu?”

      “Frank, mình biết điều này rất kì. Tin mình . Nhưng mình thích Hazel – phải như vậy. Mình định cướp của cậu gì hết.”

      Frank chau mày lại. “ hả?”

      Leo hy vọng cậu đỏ mặt. ra, cậu biết cậu có cảm giác thế nào với Hazel. tuyệt và dễ thương, và các xinh xắn là điểm yếu của Leo. Nhưng cái hồi tưởng làm rối tung cảm xúc của cậu.

      Hơn nữa, con tàu của cậu gặp rắc rối.

      Mình đoán cậu vẫn quan tâm đến con tàu nhiều hơn bạn bè, Frank .

      Điều đó có đúng ? Cha của Leo, Hephaestus, thừa nhận điều rằng ông thoải mái với dạng sống hữu cơ. Và, đúng, Leo luôn cảm thấy thoải mái với máy móc hơn là với con người. Nhưng cậu quan tâm tới bạn bè. Piper và Jason…cậu biết họ lâu hơn, nhưng những người khác cũng quan trọng với cậu. Kể cả Frank. Họ giống như gia đình.

      Vấn đề là, quá lâu rồi kể từ khi Leo có gia đình, cậu thậm chí thể nhớ cảm giác đó thế nào. Chắc chắn mùa đông trước cậu trở thành cố vấn cao cấp trong cabin của Hephaetus; nhưng phần lớn thời gian cậu sử dụng để xây dựng con tàu. Cậu thích những người bạn trong cabin. Cậu biết cách làm việc với họ – nhưng liệu cậu có thực hiểu họ?

      Nếu Leo có gia đình đó là các á thần tàu Argo II – và có lẽ cả HLV Hedge, cái này Leo bao giờ thừa nhận ra miệng.

      Cậu luôn là kẻ ngoài cuộc, giọng Nemesis cảnh báo; nhưng Leo cố gắng đẩy ý nghĩ đó sang bên.

      “Được rồi, vậy là…” Cậu nhìn xung quanh. “Bọn mình cần kế hoạch. Bọn mình thở bằng cách nào? Nếu ở dưới đại dương, phải bọn mình nên bị nghiền nát bởi sức ép của nước sao?”

      Frank nhún vai. “Phép màu ngựa-cá, mình đoán vậy. Mình nhớ là gã người xanh chạm vào đầu mình bằng mũi nhọn của con dao găm. Sau đó mình thở được.”

      Leo nghiên cứu cánh cửa bào ngư. “Cậu có thể phá nó ? Biến thành cá mập đầu búa hay thứ gì đó?”

      Frank lắc đầu rầu rĩ. “Phép biến hình của mình có tác dụng. Mình biết tại sao. Có lẽ họ yểm bùa mình, hoặc có lẽ mình quá rối trí nên thể tập trung.”

      “Hazel có thể gặp nguy hiểm,” Leo . “Chúng ta cần phải ra khỏi đây.”

      Cậu bơi đến cánh cửa và lướt mấy ngón tay dọc theo con bào ngư. Cậu thể cảm thấy loại chốt hay cơ quan nào khác. Hoặc là cánh cửa chỉ có thể mở bằng phép thuật hoặc cần đến sức mạnh thuần túy– chẳng có cái nào là chuyên môn của Leo.

      “Mình thử,” Frank . “Cho dù chúng ta ra được, chúng ta cũng có vũ khí.”

      “Hmm…” Leo giơ tay lên. “Mình tự hỏi.”

      Cậu tập trung và lửa chập chờn các ngón tay cậu. Trong thoáng, Leo phấn khích, bởi vì cậu mong đợi nó hoạt động được dưới nước. Sau đó kế hoạch của cậu bắt đầu hơi quá có tác dụng. Lửa chạy lên cánh tay cậu và khắp cơ thể cho đến khi cậu hoàn toàn bị bao phủ trong tấm màn lửa mỏng. Cậu cố gắng thở, nhưng cậu hít vào toàn là hơi nóng.

      “Leo!” Frank bật ra sau như ngã khỏi ghế ở quầy rượu. Thay vì nhanh chóng giúp đỡ Leo, cậu ôm lấy bức tường để tránh ra xa nhất có thể.

      Leo ép bản thân phải giữ bình tĩnh. Cậu hiểu điều gì xảy ra. Ngọn lửa thể hại đến cậu. Cậu ra lệnh cho ngọn lửa tắt và đếm đến năm. Cậu hít hơi sâu. Cậu lấy lại được oxy.

      Frank ngừng nỗ lực hợp nhất với thành cái hang. “Cậu…cậu ổn chứ?”

      “Ừ,” Leo càu nhàu. “Cám ơn vì giúp đỡ.”

      “Mình – mình xin lỗi.” Frank trông có vẻ kinh hãi và xấu hổ, Leo khó mà giận dữ với cậu được. “Mình chỉ…chuyện gì xảy ra vậy?”

      “Phép thuật khôn khéo,” Leo . “Có lớp oxy mỏng quanh chúng ta, như lớp da phụ. Hẳn là tự tái sinh. Đó là cách chúng ta thở và khô ráo. Oxy cung cấp nhiên liệu cho ngọn lửa – ngoại trừ việc ngọn lửa cũng làm mình nghẹt thở.”

      “Mình …” Frank nuốt nước bọt. “Mình thích việc cậu triệu hồi lửa đâu.” Cậu bắt đầu thân mật với bức tường lần nữa.

      Leo cố ý, nhưng cậu thể nhịn cười. “ bạn, mình có ý định tấn công cậu.”

      “Lửa,” Frank lặp lại, như thể từ đó giải thích mọi thứ.

      Leo nhớ chuyện Hazel từng – rằng lửa của cậu làm Frank căng thẳng. Cậu từng nhìn thấy vẻ thoải mái nét mặt của Frank trước đó, nhưng Leo tiếp thu chuyện đó cách nghiêm túc. Frank có vẻ mạnh và đáng sợ hơn Leo nhiều.

      Giờ cậu mới nhớ ra là Frank từng có trải nghiệm tồi tệ với lửa. Mẹ của Leo chết trong vụ cháy cửa hàng máy móc. Leo bị đổ lỗi gây ra chuyện đó. Cậu lớn lên với tên gọi quái vật, kẻ chuyên đốt phá, bởi vì bất cứ lúc nào cậu tức giận, mọi thứ đều bốc cháy.

      “Xin lỗi vì cười,” cậu , và cậu thực có ý đó. “Mẹ mình chết trong đám cháy. Mình hiểu nỗi sợ đó. , ờ… có chuyện như thế xảy ra với cậu sao?”

      Frank dường như cân nhắc xem nên bao nhiêu. “Nhà mình…nơi ở của bà ngoại. Nó bị đốt cháy. Nhưng còn hơn thế nữa…” Cậu nhìn chằm chằm vào đám nhím biển sàn. “Annabeth mình có thể tin nhóm chúng ta. Kể cả cậu.”

      “Kể cả mình, hử?” Leo tự hỏi làm thế nào mà chuyện đó được đưa vào cuộc trò chuyện. “Wow, đánh giá cao quá nhỉ.”

      “Điểm yếu của mình…” Frank bắt đầu, như thể lời cắt vào miệng cậu. “Có mảnh củi–”

      Cánh cửa bào ngư mở ra.

      Leo quay lại và nhận ra cậu mặt-đối-mặt với Người đàn ông Đậu Lima, thực ra thực là người. Bây giờ Leo có thể nhìn gã kia ràng hơn, ông ta là sinh vật kì lạ nhất mà cậu từng gặp, và điều đó lên rất nhiều.

      Từ thắt lưng trở lên, ông ta khá giống con người – gã để ngực trần gầy gò với dao găm đeo thắt lưng và dải vỏ sò đeo trước ngực như dây buộc súng. Da ông ta màu xanh lá cây, râu màu nâu cứng đờ và mái tóc dài được buộc lại sau bằng cái khăn rằn rong biển. cặp vuốt tôm hùm nhô ra từ đầu của ông ta như những cái sừng, thỉnh thoảng lại quay và quất vun vút.

      Leo cho rằng gã này giống bác Chiron lắm. Trông ông ta giống tấm áp phích mẹ Leo từng giữ ở chỗ làm việc của bà – tên cướp già người Mexico, Pancho Villa, ngoại trừ đống vỏ sò và cặp sừng tôm hùm.

      Từ thắt lưng trở xuống, ông ta phức tạp hơn. Ông ta có chân trước của con ngựa lục-lam, gần giống như nhân mã, nhưng ở phía sau, thân ngựa của ông biến thành đuôi cá dài khoảng mười bộ, với màu cầu vồng, vây đuôi hình chữ V.

      Bây giờ Leo hiểu được ý của Frank về những gã ngựa-cá.

      “Ta là Bythos[3],” người đàn ông da xanh lá . “Ta thẩm vấn Frank Trương.”

      Giọng của ông ta bình tĩnh và kiên quyết, chừa chổ cho tranh luận.

      “Tại sao ông bắt chúng tôi?” Leo hỏi. “Hazel đâu?”

      Bythos nheo mắt. Vẻ mặt của ông ta dường như muốn : Sinh vật bé này vừa chuyện với ta đấy hả? “Cậu, Leo Valdez, cùng với trai ta.”

      trai ông?”

      Leo nhận ra bóng dáng lớn hơn ra lù lù sau lưng Bythos, với cái bóng lớn, lấp đầy toàn bộ hang động.

      “Đúng,” Bythos với cái cười nhạt. “Cố gắng đừng chọc giận Aphros[3].”




      [1] Hippie: Là thời trang thập niên 1960. Phong cách Hippie bao gồm: Họa tiết hoa hòe, quần ống loe, nhẫn to, giải băng đeo đầu, ống quần viền tua, hạt bẹt nhiều màu sắc bằng nhựa, tóc dài, chuông lục lạc đeo ở cổ chân, lông chim, và các kiểu mũ rộng vành…







      [2] Đậu lima màu trắng kem hoặc xanh nhạt, hạt , hình trái thận. Đậu này thường dùng để nấu súp, làm xà lách, hoặc hầm với thịt gà.







      [3] Bythos và Aphros là cặp thần biển thủy nhân mã (Ichthyocentaur), thân thể phía là người, dưới là ngựa, đuôi là cá. Hai ông là em cùng cha khác mẹ với nhân mã trí tuệ Chiron, Bythos nghĩa là Chiều sâu của biển và Aphros có nghĩa là Bọt biển, như Chiron, 2 ông đều được coi là những người thầy thông thái. Hai vị thần bắt nguồn từ thần cá của Syria đưa Ashtarte vào bờ sau khi sinh ra biển. Chòm sao Song Ngư là biểu trưng cho 2 vị thần biển này. (chỗ này lược dịch, chưa hẳn đúng hết)




















      The Mark of Athena _ Chương 24


      Leo

      APHROS TRÔNG GIỐNG EM TRAI, trừ làn da xanh lam thay vì xanh lá và to con hơn rất, rất nhiều. Ông có cơ bụng và cánh tay hệt Arnold đóng trong Kẻ hủy diệt[1]cùng cái đầu vuông cục súc. thanh gươm chuẩn-Conan[2] đeo ngang lưng. Ngay cả mái tóc ông ta cũng to hơn – trái cầu lớn đầy mấy sợi tóc xanh-đen xoăn cứng dầy cộm khiến cái sừng càng tôm hùm có vẻ như chết ngập cứ cố bơi bơi để lên được bề mặt.

      “Có phải vì thế nên tên ông là Aphros ?” Leo hỏi khi họ qua khỏi hang lướt xuống đường mòn. “Bởi vì kiểu tóc Afro[3] kia ấy?”

      Aphros cau mày. “Cậu có ý gì hả?”

      gì cả,” Leo nhanh nhảu . Ít ra cậu đỡ mất công nhớ gã cá này với gã cá nọ là ai. “Vậy chính xác các ông là giống gì?”

      “Thủy nhân mã[4] ,” Aphros , như thể ông trả lời câu hỏi đó phát mệt ra rồi.

      “Ừm, thúi[5] gì cơ?”

      “Ngư mã. Chúng ta là em cùng mẹ khác cha của Chiron[6] .”

      “Ồ, bác ấy là bạn tôi đấy.”

      Aphros nheo nheo mắt. “Cái tên Hazel với chúng ta rồi nhưng chúng ta xét . Nào.”

      Leo thích cái điệu xét . Nó khiến cậu nghĩ tới phản tra tấn và dấu sắt nung đỏ lửa[7] .

      Cậu theo gã ngư mã qua rừng tảo bẹ khổng lồ. Leo có thể dễ dàng lao sang bên và lạc trong mớ cây cối này nhưng cậu thử. Có điều, cậu nhận thấy Aphros có thể di chuyển trong nước nhanh hơn rất nhiều và ông ta có thể làm tiêu biến cái phép thuật khiến cậu di chuyển và thở được. Trong hay ngoài động Leo cũng là tù nhân cả thôi.

      Với lại Leo cũng chả có manh mối nào về nơi mình ở.

      Họ dạt qua giữa những hàng tảo bẹ cao như nhà chung cư. Mấy thứ cây xanh-vàng đong đưa trọng lực như những cột bóng bay bơm heli. Phía cao, Leo thấy chấm sáng có khi là mặt trời.

      Cậu đoán thế nghĩa là họ ở đây qua đêm. Tàu Argo II có ổn ? Nó có phải có họ hay là các bạn họ vẫn còn tiếp tục tìm kiếm?

      Leo thậm chí còn chắc họ ở sâu độ nào. Thực vật mọc được ở đây – tức là sâu lắm, nhỉ? Tuy thế cậu vẫn biết mình thể bơi lên tới mặt nước. cậu từng nghe kể có những người bơi lên quá nhanh và trong máu họ xuất bong bóng nitơ. Leo muốn tránh cho máu mình có khí ga.

      Họ cứ thế trôi tiếp tầm nửa dặm. Leo định hỏi Aphros định dưa mình đâu nhưng thanh gươm to đoàng đeo lưng ông ta kiểu như ủng hộ chuyện trò.

      Cuối cùng rừng tảo cũng mở ra. Leo thở hổn hển. Họ đứng (bơi, thế nào cũng được) đỉnh quả đồi dưới nước. Phía dưới họ trải ra cả thị trấn toàn những tòa nhà kiểu Hy Lạp dưới đáy biển.

      Những mái nhà được lát bằng ngọc trai to tổ tướng[8] . Vườn tược đầy san hô với hải quỳ. Ngựa cá ngựa được chăn thả đồng rong biển. đội Cyclops đặt mái vòm tòa đền mới, dùng cá voi xanh làm cần cẩu. Và bơi xuyên các con phố, chơi đùa trong các khoảng sân trong, tập luyện chiến đấu bằng đinh ba và gươm trong đấu trường và hàng tá ngư nam và ngư nữ – những ngư nhân[9] hàng--giá-.

      Leo từng thấy nhiều thứ điên điên lắm rồi nhưng cậu luôn nghĩ rằng ngư nhân là những sinh vật hư cấu ngớ ngẩn như Xì-Trum hay Muppet[10] .

      Chẳng có cái gì gọi là ngớ ngẩn hay dễ thương về những ngư nhân này cả. Dù là từ phía xa, trông họ vẫn rất dữ tợn và chẳng giống người gì sất. Mắt họ rực vàng. Họ có răng như răng cá mập và lớp da như da thuộc có màu từ đỏ san hô tới đen như mực.

      trại huấn luyện hở,” Leo nhận ra. Cậu nhìn Aphros kinh ngạc. “Ông huấn luyện các hùng giống như Chiron vậy hả?”

      Aphros gật đầu, tia tự hào lóe lên trong mắt. “Chúng ta huấn luyện tất cả cá ngư hùng nổi tiếng! Kể tên ngư hùng thử xem, đều do tụi tôi huấn luyện cả!”

      “Ồ, chắc thế rồi,” Leo . “Như là…ừm, Nàng Tiên Cá[11]?”

      Aphros nhíu mày. “Ai cơ? ! Như là Triton, Glaucus, Weissmuller và Bill[11a]!”

      “Ồ,” Leo mù tịt chả biết mấy người kia là ai. “Ông huấn luyện Bill hả? Ấn tượng đấy.”

      “Tất nhiên!” Aphros vỗ ngực. “Ta tự mình huấn luyện Bill đấy. ngư nam tuyệt vời.”

      “Ông dạy chiến đấu hả, phải .”

      Aphros xua tay bực tức. “Sao ai ai cũng đoán thế kia chứ?”

      Leo liếc nhìn thanh gươm tổ chảng đeo sau lưng gã-cá. “Ừm, tôi có biết.”

      “Ta dạy nhạc và thơ ca!” Aphros bảo. “Kỹ năng sống! Nội trợ! Chúng rất quan trọng đối với các hùng.”

      “Cực kì ấy chứ.” Leo cố giữ mặt mình nghiêm túc. “Khâu vá? Làm bánh nữa hả?”

      “Phải. vui cậu hiểu cho. Có khi sau này nếu ta phải giết cậu, ta cho cậu công thức làm bánh sôcôla[12] của mình.” Aphros khinh bỉ chỉ ra sau. “Em trai ta Bythos ấy – nó dạy chiến đấu.”

      Leo chắc là mình thấy nhóm hay bị sỉ nhục khi HLV chiến đấu thẩm vấn Frank trong khi Leo vớ phải giáo viên dạy kinh tế gia đình. “Thế, tuyệt . Đây là Trại…các ông gọi nó là gì? Trại Con Cá hở?”

      Aphros cau mày. “Ta hy vọng đấy chỉ là đùa thôi. Đây là trại ___________.” Ông phát ra thanh nghe như chuối các siêu vù vèo rin rít.

      “Tôi ngốc quá,” Leo . “Và ông biết , tôi thực có thể thử vài cái trong số bánh sôcôla kia đấy! Thế ta phải làm gì để tới bước giết tôi nào?”

      “Kể tôi nghe chuyện của cậu,” Aphros bảo.

      Leo do dự nhưng lâu lắm. Thế nào mà cậu lại cảm thấy mình nên . Cậu bắt đầu từ đầu câu chuyện – Hera là bảo mẫu của cậu như thế nào và tôi cậu trong lửa đỏ ra sao; sao mẹ cậu lại chết bởi tay Gaea, kẻ xác định cậu là kẻ thù trong tương lai. Cậu kể mình dành cả tuổi thơ chạy qua chạy lại các nhà tình thương thế nào cho tới khi cậu, Piper và Jason được đưa đến Trại Con Lai. Cậu giải thích Lời Tiên Tri Nhóm Bảy, việc dựng tàu Argo II và nhiệm vụ của họ là phải tới Hy Lạp đánh bại lũ khổng lồ trước khi Gaea tỉnh lại.

      Khi cậu , Aphros rút ra mấy cái gai kim loại trông nguy hiểm từ thắt lưng. Leo sợ cậu gì sai nhưng Aphros lại lấy ra mấy sợi rong biển từ túi và bắt đầu đan. “Tiếp ,” ông giục, “Đừng có dừng.”

      Lúc cậu kể về đám eidolon, vấn đề với người La Mã và tất cả những rắc rối tàu Argo IIgặp phải khi vượt qua nước Mỹ và lên tàu ở Charleston Aphros đan xong chiếc mũ sơ sinh hoàn chỉnh.

      Leo đợi người ngư mã cất món đồ của mình . Sừng càng tôm hùng của Aphros cứ bơi lòng vòng giữa món tóc dày của ông và Leo phải cưỡng lại mong muốn giải cứu cho chúng.

      “Rất hay,” Aphros. “Ta tin cậu.”

      “Đơn giản thế thôi hả?”

      “Ta khá giỏi nhận diện lời dối trá. Ta nghe thấy lời dối trá nào từ cậu cả. Câu chuyện của cậu khớp với cậu chuyện Hazel Lavesque kể với bọn ta.”

      ấy có–?”

      “Tất nhiên,” Aphros . “ bé ấy ổn.” Ông đưa ngón tay lên miệng huýt sáo, nghe dưới nước nó cứ kì kì – như cá heo rít vậy. “Người của ta đưa bé tới đây nhanh thôi. Cậu phải hiểu…chỗ bọn ta ở là bí mật được bảo vệ nghiêm cẩn. Cậu cùng bạn mình xuất tàu chiến, bị trong những đứa quái vật biển của mụ Keto đuổi bắt. Bọn ta biết các cậu về phe nào.”

      “Con tàu ổn chứ?”

      “Hư hại,” Aphros bảo, “nhưng nghiêm trọng. Con Skolopendra[13] rút lui sau khi nhồi mồm đầy lửa. Ném chuẩn đấy.”

      “Cảm ơn. Mà Skolopendra hả? Chưa nghe bao giờ.”

      “Cứ coi như cậu may mắn . Chúng là những sinh vật khó chịu. Chắc Keto ghét các cậu lắm. Dù sao bọn ta cũng giải cứu cậu với hai người bạn nữa khỏi xúc tu của con vật đó khi nó định rút lui xuống biển sâu. Các bạn cậu vẫn ở kia tìm kiếm nhưng chúng ta phải che khuất tầm nhìn của họ. Bọn ta phải chắc chắn rằng các cậu phải là mối đe dọa. Nếu , chúng ta phải … có biện pháp.”

      Leo nuốt nước bọt. Cậu khá chắc có biện pháp phải là làm thêm bánh sôcôla. Và nếu những người này mạnh tới mức có thể làm khu trại giấu Percy, người có được mọi sức mạnh với nước của Poseidon cũng chả phải mấy chàng cá dễ chọc vào. “Thế là…tụi tôi được rồi?”

      “Sớm thôi,” Aphros hứa hẹn. “Ta phải kiểm tra lại với Bythos. Khi nó xong với bạn cậu Gank __”

      “Frank.”

      “Frank. Khi nào xong chúng ta tiễn các cậu về tàu. Và có lẽ chúng tôi có vài lời cảnh báo cho các cậu.”

      “Cảnh báo?”

      “A.” Aphros chỉ chỉ. Hazel xuất từ trong rừng tảo, được hộ tống bởi hai ngư nữ trông-hung-dữ nhe răng và rít rừ rừ. Leo nghĩ Hazel có thể gặp nguy hiểm. Rồi cậu thấy hoàn toàn thoải mái, cười toe chuyện với hai người hộ tống mình và Leo nhận ra hai ngư nữ cười lớn.

      “Leo!” Hazel bơi tới chỗ cậu. “Chỗ này tuyệt quá phải ?”

      Họ bị bỏ lại mình bên sườn đồi, có nghĩa là Aphros thực tin tưởng họ. Khi ngư mã và mấy ngư nữ rời để đón Frank lại, Leo với Hazel trôi thả đồi và nhìn xuống khu trại dưới nước.

      Hazel với cậu các ngư nữ kết bạn với ngay lập tức. Aphros với Bythos bị câu chuyện của cuốn hút bởi họ chưa từng gặp đứa con Pluto bao giờ. hết, họ nghe rất nhiều truyền thuyết về chú ngựa Arion và rất ngạc nhiên vì Hazel kết bạn được với nó.

      Hazel hứa quay lại thăm họ cùng Arion. Các ngư nữ viết số điện thoại di động bằng mực chống thấm nước lên tay Hazel để có thể giữ liên lạc. Leo thậm chí còn hỏi sao mấy ngư nữ bắt được sóng điện thoại giữa lòng Đại Tây Dương.

      Khi Hazel chuyện, tóc trôi bồng bềnh quanh khuôn mặt như áng mây – như đất nâu cùng bụi vàng trong chiếc chảo của thợ mỏ. trông rất tự tin và đẹp nữa – giống nhút nhát, căng thẳng ở sân trường vùng New Orleans với túi vải đựng đồ ăn trưa nát bươm dưới chân.

      “Chúng ta có dịp chuyện,” Leo . Cậu miễn cưỡng mới nêu ra được vấn đề nhưng cũng biết đó có lẽ là cơ hội duy nhất họ được ở riêng. “Ý là về Sammy ấy.”

      Nụ cười của héo . “Em biết…chỉ là em cần thời gian để việc đó dịu . lạ khi nghĩ tới ấy…”

      cần hoàn chỉnh ý nghĩ ấy. Leo biết nó lạ tới mức nào.

      “Em chắc mình giải thích được chuyện này với Frank,” thêm. “Việc và em nắm tay nhau đó.”

      nhìn vào mắt Leo. Phía dưới thung lũng, toán nhân công Cyclops ăn mừng khi mái đền được đặt vào đúng chỗ.

      với cậu ấy rồi,” Leo bảo. “ bảo cậu ấy là cố… em biết đấy. Gây rắc rối giữa hai người.

      “Ồ. Hay đấy.”

      Giọng nghe có vẻ thất vọng đấy à? Leo chắc và cậu cũng chắc mình có muốn biết hay .

      “Frank, ừm, có vẻ khá hãi khi triệu hồi lửa.” Leo giải thích việc xảy ra trong động.

      Hazel choáng váng. “Ôi . Thế ấy kinh lắm.”

      Tay với tới túi áo khoác bò như kiểm tra gì đó trong túi. luôn mặc chiếc áo khoác đó hay loại sơ mi khoác ngoài nào đó kể cả khi trời rất nóng chăng nữa. Leo cho rằng làm thế là thùy mị nết na hay vì như thế cưỡi ngựa tốt hơn, như kiểu áo khoác xe máy vậy. Giờ cậu lại bắt đầu băn khoăn.

      Não cậu chuyển sang hoạt động tần số cao. Cậu nhớ điều Frank về điểm yếu của cậu ấy… mẩu củi cháy. Cậu nghĩ sao tên nhóc này lại sợ lửa và sao Hazel lại cũng thế. Leo nghĩ tới vài câu chuyện mình nghe kể ở Trại Con Lai. Vì những lý do hiển nhiên, cậu hướng chú ý của mình tới những truyền thuyết về lửa. Giờ cậu nhớ ra chuyện mình nghĩ tới cả mấy tháng nay.

      “Có truyền thuyết cổ về người hùng,” cậu nhớ lại. “ sống ta gắn liền với que củi trong lò sưởi, khi mẩu gỗ đó cháy hết…[14] ”

      Vẻ mặt Hazel tối sầm lại. Leo biết cậu đoán đúng rồi.

      “Frank cũng thế phải ,” cậu đoán. “Và mẩu gỗ cháy …” Cậu chỉ vào áo khoác của Hazel. “Cậu ấy đưa em để giữ an toàn?”

      “Leo, em xin đừng… Em thể về việc đó.”

      Bản năng thợ cơ khí của Leo trỗi dậy. Cậu bắt đầu nghĩ về các thuộc tính của gỗ và ăn mòn của nước mặn. “Mẩu gỗ cháy vẫn ổn trong lòng đại dương thế này chứ? Lớp khí quanh người em có bảo vệ được nó ?”

      “Nó ổn,” Hazel . “Mẩu gỗ chưa từng bị ướt. Hơn nữa nó được gói nhiều lớp vải với giấy bóng và–” thất vọng cắn môi. “Và em được về nó! Leo, quan trọng là nếu Frank có vẻ sợ hay thoải mái, phải thông cảm…”

      Leo thấy mừng vì mình trôi nổi bởi nếu có lẽ cậu chóng mặt đến mức đứng nổi mất. Cậu tưởng tượng mình ở vị trí Frank, đời cậu mong manh xiết bao và thực bất cứ lúc nào cũng có thể cháy rụi. Cậu có thể tưởng tượng cần tới bao nhiêu niềm tin mới có thể trao cuộc đười mình – số phận bản thân – vào tay người khác.

      Frank chọn Hazel, hiển nhiên là thế. Vậy nên khi thấy Leo – tên có thể triệu hồi lửa bằng ý chí – tiếp cận bạn cậu…

      Leo rùng mình. Chả nghi ngờ gì khi Frank thích cậu. Và đột nhiên khả năng biến thành mớ động vật khác nhau của Frank có vẻ tuyệt lắm – tuyệt nếu kèm với trói buộc lớn đến vậy.

      Leo nghĩ tới câu thích nhất của mình trong Lời tiên tri Nhóm Bảy: Thế giới phải sụp đổ trước bão táp hay lửa đỏ. Sau thời gian dài, cậu hiểu Jason hay Percy tượng trưng cho bão – có thể là cả hai. Leo là lửa. ai thế nhưng khá ràng. Leo là trong những lá bài úp[15] . Nếu cậu làm điều gì sai thế giới sụp đổ. … nó phải sụp đổ. Leo tự hỏi Frank và mẩu gỗ của cậu có liên quan gì tới câu đó . Leo có mấy sai lầm hoành tráng. Cậu cũng rất dễ vô tình đốt rụi Frank Trương trong lửa đỏ.

      “Các cậu đây rồi!” Giọng Bythos khiến Leo giật mình.

      Bythos và Aphros lướt qua cùng Frank ở giữa, trông xanh xao nhưng vẫn ổn. Frank nhìn kĩ Hazel và Leo như cố đọc xem họ gì với nhau.

      “Các cậu được tự do rồi đấy!” Bythos . Ông mở chiếc túi đeo xe[16] và trả lại những món họ bị tịch thu. Leo chưa bao giờ đeo thắt lưng quanh mình mà thấy vui đến thế.

      “Bảo Percy Jackson đừng lo,” Aphros . “Bọn ta hiểu câu chuyện về những sinh vật biển bị nhốt ở Atlanta của các cậu. Keto với Phorcys phải bị ngăn chặn. Chúng ta cử ngư nhân thực nhiệm vụ và giải phóng những tù nhân bị chúng giam. Có khi Cyrus ?”

      “Hay Bill,” Bythos đề nghị.

      “Phải! Bill hoàn hảo nhất,” Aphros tán đồng. “Dù sao chúng ta cũng biết ơn vì Percy nhắc nhở chúng ta việc này.”

      “Ông nên đích thân với cậu ấy,” Leo gợi ý. “Ý tôi là cậu ấy là con trai Poseidon rồi đủ thứ.”

      Hai ngư mã trịnh trọng lắc đầu. “Đôi khi tốt nhất nên dính tới con cái Poseidon,” Aphros . “Chúng ta rất thân thiện với thần biển nhưng chính trị của các thần linh dưới biển rất … phức tạp. Và bọn ta coi trọng độc lập của bản thân. Tuy thế bảo Percy ta cảm ơn. Chúng ta làm những gì có thể để đưa các cậu nhanh qua Đại Tây Dương mà bị bọn quái vật của Keto quấy nhiễu gì thêm nữa, nhưng cảnh giác: tại vùng biển cổ xưa, Mare Nostrum[17] , vẫn còn nhiều nguy hiểm chờ đón đấy.”

      Frank thở dài. “Tất nhiên là thế.”

      Bythos vỗ vai chàng to xác. “Cậu ổn thôi Frank Trương. Cứ tập luyện biến thành các sinh vật biển . Cá chép gấm[18] cũng được nhưng thử biến thành sứa độc coi[19] . Nhớ cái ta cho cậu xem. Đều ở hơi thở cả thôi.”

      Frank trông xấu hổ cực kì. Leo bặm môi quyết cười.

      “Và nữa Hazel,” Aphros bảo, “lại chơi nhé, mang cả chú ngựa đó nữa! Ta biết lo lắng về khoảng thời gian vừa mất vì phải dành cả đêm ở vương quốc tụi ta. lo cho em trai Nico…”

      Hazel nắm chặt thanh gươm kỵ sĩ. “Nó – ông có biết nó ở đâu ?”

      Aphros lắc đầu. “ hẳn. Nhưng khi tới gần hơn hẳn có thể cảm nhận được diện của cậu ấy. Đừng có sợ! Các cậu phải tới Rome ngày kia nếu muốn cứu cậu ấy nhưng vẫn còn thời gian đó. Và phải cứu bằng được cậu ấy.”

      “Đúng thế,” Bythos tán thành. “Cậu ấy rất cần thiết cho hành trình của các cậu. Ta biết thế nào nhưng lại linh cảm đó là .”

      Aphros đặt tay lên vai Leo. “Về phần cậu Leo Valdez, bám sát Hazel và Frank khi tới Rome. Tôi linh cảm họ gặp phải … à, khó khăn về máy móc mà chỉ cậu mới vượt qua nổi.

      “Khó khăn về máy móc à?” Leo hỏi lại.

      Aphros cười như thể tin đó hay lắm bằng. “Và ta có quà cho cậu, hoa tiêu dũng cảm của tàu Argo II!”

      “Tôi thích nghĩ mình là thuyền trưởng hơn,” Leo bảo. “Hay tổng tư lệnh cũng được.”

      “Bánh sôcôla!” Aphros tự hào , đẩy giỏ picnic lỗi thời vào vòng tay Leo. Nó được bao bong bóng khí, Leo hi vọng nó giúp giữ bánh khỏi biến thành kẹo bùn nước mặn. “Cậu thấy cả công thức trong giỏ nữa. cho quá nhiều bơ! Mẹo đấy. Và ta cũng cho các cậu bức thư giới thiệu với Tibernus[20] , thần sông Tiber. khi đến Rome, bạn các cậu là con Athena cần tới nó.”

      “Annabeth…” Leo . “Được rồi, nhưng tại sao thế?”

      Bythos cười to. “ bé ấy lần theo dấu vết Athena phải hả? Tiberinus có thể chỉ dẫn cho bé nhiệm vụ này. Lão là vị thần cổ xưa cao ngạo có thể rất … khó tính, nhưng mấy bức thư giới thiệu là tất cả đối với vị thần La Mã. Cái này thuyết phục Tiberinus giúp bé. Mong là thế.”

      “Mong là thế,” Leo nhắc lại.

      Bythos lấy ra ba viên ngọc trai hồng từ túi đeo xe của mình. “Và giờ, nhé các á thần! Chúc thuận buồm xuôi gió!”

      Ông lần lượt ném từng hạt ngọc vào mỗi người họ và ba bong bóng năng lượng màu hồng lấp lánh hình thành quanh họ.

      Họ bắt đầu trồi lên qua làn nước. Leo chỉ đủ thời gian để nghĩ: cái thang máy bóng chuột hamster[21] ? Rồi cậu tăng tốc hết mức và lao vọt về phía luồng ánh sáng mặt trời xa xôi phía .




      [1] Kẻ hủy diệt Kẻ hủy diệt là tên của loạt phim khoa học viễn tưởng và các sản phẩm ăn theo như sách, truyện tranh,… xoay quanh cuộc chiến giữa các người máy sát thủ, được tạo ra bởi siêu máy tính (Skynet) trong tương lai nhằm tận diệt loài người, và Quân kháng chiến của John Connor.

      với các diễn viên Arnold Schwarzenegger, Linda Hamilton và Michael Biehn.

      Arnold Schwarzenegger: Arnold Alois Schwarzenegger (phát theo tiếng Đức: [aɐnɔlt aloʏs ʃvaɐtsənɛgɐ]; theo tiếng : [ɑ˞nɔld ʃwɔ˞tsənegɚ], giống như “Ác-nôn Sơ-oát-sơ-nê-gơ”; sinh ngày 30 tháng 7 năm 1947) là vận động viên thể dục thể hình, diễn viên điện ảnh và cũng là chính khách Cộng hòa người Mỹ gốc Áo làm Thống đốc California thứ 38.







      [2] Conan: bộ phim hùng, phiêu lưu kể về người hung nô tên là Conan cũng do Arnold thủ vai chính.

      Gươm của nhân vật Conan trong phim







      [3] Afro: là kiểu tóc xù như trái bóng, rất thịnh hành những năm 70(thường thấy ở các vũ trường disco ngày trước)







      [4] Ichthyocentaurs:trong thời kì sau của thần thoại Hy Lạp, đây là cặp thần biển nhân mã với phần là người, thân là ngựa, đuôi là cá, đầu có sừng càng tôm hùm. Họ là em cùng cha khác mẹ với nhân mã thông thái Chiron, con của Poseidon và Amphitrite.







      [5] Icho: dịch là ‘thúi’ gần với ‘thủy’ cho đúng dụng ý chơi chữ của tác giả

      [6] Nhân mã Chiron – thầy dạy của Achilles – bị Hercules, trong lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay làm rơi mũi tên trúng chân Chiron, những mũi tên này đều tẩm kịch độc từ máu của Hydra (quái vật rắn nhiều đầu Hercules giết trước đó) nên bị chết. Hối hận vì hành động nông nổi Hercules đưa Chiron lên thành chòm sao trời. Chiron là nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đào tạo nhiều hùng trong thần thoại Hi Lạp, ông những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có kỹ năng chiến đấu tuyệt vời, đặc biệt là khả năng sử dụng cung tên. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ.







      [7] dấu sắt nung dùng nung đỏ lửa rồi dí lên da của phạm nhân cho bỏng để đánh dấu hay tra tấn.







      [8] mother-of-pearl

      [9] để tiên cá ai cũng nghĩ là nàng tiên cá nên để thế này cho hay











      [10] Xì-trum (tiếng Pháp: Les Schtroumpfs) là tên chủng tộc tí hon màu xanh hư cấu bởi hoạ sĩ Peyo xuất lần đầu trong truyện Johan et Pirlouit và trở thành tên loạt truyện tranh độc lập bắt đầu phát hành vào năm 1958 và sau đó có hoạt hình, phim ảnh và các sản phẩm thương mại ăn theo.







      Muppet là hình tượng những con rối tay diễn kịch, có rất nhiều sản phẩm hoạt hình, show, phim về muppet







      [11] Nàng tiên cá (Tiếng : The Little Mermaid;Tiếng Đan Mạch: Den lille havfrue) là truyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn, nhà thơ người Đan Mạch Hans Christian Andersen, kể về nàng tiên cá mong muốn từ bỏ cuộc sống dưới đáy biển và thân phận người cá của nàng để có được linh hồn của con người và tình cùa chàng hoàng tử loài người.

      Ban đầu được sáng tác cho vở balê, truyện được xuất bản lần đầu vào năm 1873 và được chuyển thể thành nhiều thể loại bao gồm nhạc kịch và phim hoạt hình.







      [11a] Triton, 1 vị thần, người đưa tin dưới biển, con của Poseidon và Amphitrite, thân thể là người cá.







      Glaucus(Γλαῦκος, gen: Γλαύκου), là người phàm, biến thành thần sau khi ăn loại cỏ ma thuật, thường cứu các thủy thủ và dân chài biển vì trước đây ông cũng từng là dân chài.







      Weissmuller , theo wiki vận động viên bơi lội từng đoạt huy chương vàng Olympic, diễn viên nổi tiếng với vai Tarzan nhất. biết có đúng ý tác giả là này vì ảnh có phải người cá đâu.

      [12] brownie, loại bánh sô la có thể có thêm hạnh nhân, hạt điều,… rất phổ biến ở châu âu, mỹ







      [13] Skolopendra: loại rết lớn nhiều chân, ở đây là tên con quái tôm

      [14] Truyền thuyết về Meleager, con trai của vua Oeneus xứ Calydon và Althaea. Bảy ngày sau khi sinh, 3 Nữ thần vận mệnh báo trước tương lai của cậu. Clotho và Lachesis dự đoán cậu rất ưu tú và gan dạ. Atropos cảnh báo rằng cậu chết khi thanh củi trong lò sưởi cháy kiệt. Nghe lời, mẹ cậu Althaea rút thanh củi ra, dập lửa và giấu ở nơi an toàn.

      Thời trẻ, khả năng của cậu được coi là chỉ đứng thứ 2 ngày sau Heracles. Cậu là người trẻ nhất trong thủy thủ đoàn Argo cùng số người khác giết chết kẻ thù lớn nhất của đoàn là vua Aeetes xứ Colchis.

      Trở về từ hành trình này, lấy Cleopatra và có con là Polydora. bình yên ở đất nước chấm dứt khi Artemis thả con lợn lòi đáng sợ vào đất nước. đương nhiên giữ vai trò chủ chốt trong việc giết con lợn lòi được gọi là Cuộc Săn Lợn của người Calydon, cũng là việc dẫn tới cái chết cho mình.

      Có hai phiên bản về cái chết của đều bắt nguồn từ việc tranh cãi giành chiến lợi phẩm là bộ da lợn lòi. Mẹ là Althaea cưới Oeneus để giải quyết mối huyết thù qua nhiều thế hệ. Khi cậu tới giúp giết con lợn lòi vẫn còn rất nhiều căng thẳng giữa người Calydon và em của Althaea. Và nó cũng được giải quyết bởi việc chọn Atlanta, nữ thợ săn từng mong muốn gia nhập thủy thủ đoàn Argo, vào cuộc săn.

      Phiên bản đầu: việc tranh chấp dẫn tới cuộc chiến mới giữa Calydon và Curetes. việc đặt Meleager, người có quan hệ huyết thống với cả hai bên vào tình huống khó xử. dẫn dắt, người Calydon bờ vực thất bại. Vợ kêu gọi ông cứu lấy thành phố. Trong khi dẫn dắt Calydon, giết cậu mình. Do đó, mẹ nguyền rủa , đốt cháy thanh củi dạo 3 nữ thần Vận Mệnh thăm viếng. Dù có bị nguyền hay vẫn bị các Erinys, các nữ thần báo thù giết chết vì giết người có chung huyết thống.

      Phiên bản hai: lãng mạn hơn là Meleager quyết định tặng tấm da cho Atlanta vì lập công đầu, bắn trúng phát tên đầu tiên vào con thú. Trao chiến lợi phẩm cho phụ nữ khiến tất cả mọi người còn lại trong hội săn tức giận nhưng phần lớn vẫn giữ yên lặng. Tuy thế, cậu của lại cho rằng mình có quyền bảo ông phải làm gì. Tranh cãi nổ ra khi Meleager giết cậu mình. Nghe tin mình chết bởi tay con, mẹ đốt thanh củi. Như lời tiên tri, chết. Mẹ sau đó hối hận tự tử. Vợ cũng chết trong đau buồn.







      [15] wild card: lá bài bất ngờ, bài úp

      [16] saddlebag: loại túi đeo người khi cưỡi ngựa hoặc đeo xe máy khi , thường là hai túi gắn vào dải ra rộng nối liền để treo hai bên xe hay treo rúi trước ngực, 1 túi sau lưng vai.







      [17] Mare Nostrum (Biển của chúng ta theo tiếng Latin) là cái tên của người La Mã đặt cho biển Địa Trung Hải. Sau khi nước Ý thống nhất vào năm 1861, thuật ngữ này được những phần tử dân tộc chủ nghĩa Ý sử dụng lại với niềm tin rằng nước Ý là quốc gia thừa kế đế chế La Mã,[1] và cần phải tìm cách kiểm soát những vùng lãnh thổ cũ của La Mã trước kia tại vùng Địa Trung Hải.

      [18] koi fish: loại cá chép có tên bắt nguồn từ tiếng nhật, mình có hoa văn thành mảng rất đẹp, nhiều màu sắc







      [19] Portuguese man o’ war: tạm dịch là sứa độc, thường bị nhầm lẫn với con sứa, Portuguese man-of-war thực chất là cụm các sinh vật cùng nhau. Các xúc tu của nó có thể duỗi thẳng ra đến 165 feet (50m) dưới bề mặt, dù vậy, chiều dài trung bình của những xúc tu này chưa đến 30 feet (10m).







      [20] Tibernus, thần sông Tiber ở La Mã







      [21] loại chuột , xinh xắn, dùng để nuôi cảnh, lồng nuôi thường có bóng nhựa cho nó chạy

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 25


      Piper


      PIPER CÓ MỤC MỚI trong danh sách top mười Dịp Piper Cảm thấy khỏe.

      Chiến đấu với con Quái-tôm bằng dao găm và giọng mê hoặc? hiệu quả. Rồi con quái vật chìm xuống biển và biến mất với ba người bạn của , và bất lực thể giúp họ.

      Sau đó, Annabeth, HLV Hedge và cái bàn Buford tất bật quanh việc sửa chữa mọi thứ để con tàu bị chìm. Percy, mặc dù cảm thấy choáng váng, vẫn tìm kiếm những người bạn mất tích dưới biển. Jason, cũng kiệt sức, nhưng vẫn bay xung quanh các dây treo như Peter Pan tóc vàng hoe, để dập tắt mấy ngọn lửa từ vụ nổ xanh lục thứ hai thắp sáng bầu trời ngay phía cột buồm.

      Còn Piper, tất cả những gì có thể làm là nhìn chằm chằm vào con dao Katoptris, cố gắng xác định vị trí của Leo, Hazel và Frank. Hình ảnh duy nhất đến với là điều muốn thấy: ba chiếc SUV từ Charleston đến phương bắc, chật ních á thần La Mã, Reyna ngồi ở vị trí tay lái của xe dẫn đầu. Những con đại bàng khổng lồ hộ tống họ từ cao. Thỉnh thoảng, những linh hồn màu tím rực rỡ trong xe ngựa ma quái xuất ngoài vùng nông thôn và ngay phía sau họ, ầm ầm đường cao tốc liên bang[1] hướng giao nhau giữa New York và Trại Con Lai.

      Piper tập trung hơn. thấy hình ảnh trong cơn ác mộng mà từng thấy trước đây: con bò đầu-người trồi lên từ mặt nước, sau đó là căn phòng tối ngập nước đen mà Jason, Percy và cố gắng để nổi lên.

      tra Katoptris vào bao, tự hỏi làm thế nào Helen thành Troy có thể thoải mái trong suốt cuộc chiến thành Troy nếu lưỡi dao là nguồn tin duy nhất của . Sau đó nhớ tất cả mọi người xung quanh Helen đều bị giết bởi quân xâm lược Hy Lạp. Có lẽ thoải mái.

      Cho đến khi mặt trời mọc, ai chợp mắt. Percy lùng sục dưới đáy biển và tìm được gì. Tàu Argo II còn nguy cơ bị chìm, dù rằng vì có Leo, họ thể sửa mọi thứ. Con tàu có thể chèo , nhưng ai đề nghị rời khỏi vùng này – nếu thiếu những người bạn mất tích của họ.

      Piper và Annabeth gửi cảnh mộng đến Trại Con Lai, cảnh báo bác Chiron về việc đụng độ với người La Mã ở Đồn Sumter. Annabeth giải thích cuộc đối thoại giữa với Reyna. Piper lại cảnh mà thấy con dao về mấy chiếc SUV đến phía bắc. Khuôn mặt nhân mã có vẻ già thêm ba mươi tuổi trong suốt cuộc trò chuyện của họ, nhưng ông đảm bảo ông lo liệu việc phòng thủ ở trại. Tyson, O’Leary và Ella đến nơi an toàn. Nếu cần thiết, Tyson có thể triệu tập quân đội Cyclopes đến trại để phòng thủ và Ella với Rachel Dare so sánh những lời tiên tri, cố gắng nghiên cứu thêm về những chuyện xảy ra trong tương lai. Việc của bảy á thần tàu Argo II, bác Chiron nhắc nhở họ, là hoàn thành nhiệm vụ và trở về an toàn.

      Sau thông điệp Iris, các á thần tới lui boong trong im lặng, nhìn chằm chằm vào nước và hy vọng phép lạ xảy ra.

      Cuối cùng nó cũng xảy ra – ba bong bóng màu hồng khổng lồ vỡ tung mũi tàu mạn phải, đẩy Frank, Hazel và Leo ra – Piper hành động có chút điên rồ. thét lên tiếng nhõm và lao thẳng xuống nước.

      nghĩ cái gì vậy chứ? có lấy sợi dây thừng hay cái áo phao hoặc bất cứ thứ gì. Nhưng giờ, quá vui mừng đến nổi lội nước đến gần Leo và hôn vào má cậu, điều đó làm cậu ngạc nhiên.

      “Nhớ mình à?” Leo cười.

      Piper đột nhiên giận dữ. “Các cậu ở đâu? Làm sao các cậu còn sống?”

      “Chuyện dài lắm,” cậu . cái giỏ dã ngoại nhấp nhô bập bềnh mặt nước cạnh cậu. “Có muốn bánh sôcôla hạnh nhân ?”

      Họ lên tàu và thay quần áo khô (Frank đáng thương phải mượn cái quần quá- của Jason) cả nhóm tập trung sân lái để ăn sáng – ngoại trừ HLV Hedge, người càu nhàu rằng bầu khí trở nên quá âu yếm và xuống dưới để tìm kiếm mấy vết lõm ở thân tàu. Trong khi Leo lao ngay về phía boong lái Hazel và Frank thuật lại câu chuyện về ngư-mã và trại huấn luyện của họ.

      thể tin được,” Jason . “Mấy cái bánh sôcôla hạnh nhân này ngon tuyệt.”

      “Đó là ý kiến duy nhất của cậu sao?” Piper hỏi.

      Cậu trông ngạc nhiên. “Gì nào? Mình có nghe câu chuyện. Ngư-mã. Ngư nhân. Thư giới thiệu với thần sông Tiber. Hiểu rồi. Nhưng mấy cái bánh sôcôla hạnh nhân này–”

      “Mình biết,” Frank , miệng cậu đầy ắp. “Thử ăn với mứt đào của Esther coi.”

      “Thế ,” Hazel , “vô cùng kinh tởm.”

      “Đưa tớ cái lọ nào, cu,” Jason .

      Hazel và Piper trao đổi cái nhìn bực tức. Bọn con trai.

      Percy, về phần cậu, muốn nghe từng chi tiết về trại huấn luyện dưới biển. Cậu cứ lẩn quẩn quanh vấn đề: “Họ muốn gặp mặt mình à?”

      phải vậy,” Hazel . “Chỉ là…chính trị dưới biển, em đoán vậy. Ngư nhân rất coi trọng lãnh thổ. Tin tốt là họ lo vụ thủy cung ở Atlanta. Và họ giúp bảo vệ tàu Argo II khi chúng ta vượt qua Đại Tây Dương.”

      Percy gật đầu lơ đãng. “Nhưng họ muốn gặp sao?”

      Annabeth đánh vào tay cậu. “Thôi nào, Óc Tảo Biển! Chúng ta có vấn đề khác cần phải lo hơn đấy.”

      “Chị ấy đúng,” Hazel . “Sau ngày hôm nay, Nico chỉ còn chưa đến hai ngày. Các ngư-mã chúng ta phải giải cứu nó. biết thế nào nhưng thằng bé rất hữu ích cho nhiệm vụ này.”

      nhìn quanh vẻ đề phòng, như chờ đợi ai đó phản đối. Chả có ai. Piper cố gắng tưởng tượng Nico di Angelo cảm thấy thế nào, bị mắc kẹt trong cái hạp chỉ với hai hạt lựu để kéo dài mạng sống bản thân và biết liệu mình có được giải cứu hay . Điều đó làm Piper cảm thấy lo lắng khi đến Rome, mặc dù có linh cảm rất tệ rằng thuyền đến nhà tù cho riêng mình – căn phòng tối chứa nước.

      “Nico chắc chắn có thông tin về các Cửa Tử,” Piper . “Chúng ta phải cứu cậu ấy, Hazel. Chúng ta có thể tới kịp thời hạn. Phải , Leo?”

      “Gì cơ?” Leo rời mắt khỏi bảng điều khiển. “À, phải. Chúng ta đến Địa Trung Hải vào sáng mai. Sau đó mất nửa ngày thuyền đến Rome, hoặc bay, nếu mình có thể sửa bộ phận thăng bằng…”

      Jason đột nhiên trông như thể cái bánh sôcôla hạnh nhân với mứt đào của cậu còn ngon miệng nữa. “Cách này đưa chúng ta tới Rome vào ngày cuối cùng của Nico. Hai mươi bốn giờ để tìm cậu ấy – là nhiều nhất.”

      Percy bắt chéo chân. “Và đó mới là phần của vấn đề. Còn cả Dấu hiệu của Athena nữa.”

      Annabeth dường như hài lòng với thay đổi chủ đề. đặt tay lên ba lô, từ khi họ rời Charleston, dường như luôn mang nó theo bên mình.

      mở ba lô và lấy ra đĩa đồng mỏng đường kính cỡ cái bánh rán vòng. “Đây là bản đồ mình tìm thấy ở Đồn Sumter. Nó…”

      khựng lại, nhìn chằm chằm vào bề mặt đồng trơn tru. “Nó trống trơn!”

      Percy cầm lấy nó và nghiên cứu cả hai mặt. “Trước đó nó phải thế này à?”

      ! Mình quan sát nó trong cabin và…” Annabeth thầm bằng. “Nó chắc chắn là Dấu hiệu của Athena. Mình chỉ có thể nhìn thấy nó khi có mình. Nó để các á thần khác xem.”

      Frank lỉnh ra phía sau như thể cái đĩa phát nổ. Cậu có hàng ria nước cam và vụn bánh sôcôla hạnh nhân khiến Piper muốn đưa cậu cái khăn ăn.

      “Có cái gì đó?” Frank lo lắng hỏi. “Và Dấu hiệu của Athena là cái gì? Mình vẫn hiểu.”

      Annabeth lấy cái đĩa từ Percy. để nó dưới ánh nắng, nhưng nó vẫn trống . “Bản đồ rất khó đọc, nhưng nó cho thấy vị trí Sông Tiber ở Rome. Mình nghĩ đó là nơi cuộc tìm kiếm bắt đầu…con đường mình phải để truy tìm theo Dấu hiệu.”

      “Có lẽ đó là nơi cậu gặp thần sông Tiberinus,” Piper . “Nhưng Dấu hiệu là cái gì?”

      “Đồng xu,” Annabeth thầm.

      Percy cau mày, “Đồng xu gì?”

      Annabeth thọc vào túi của và lấy ra đồng bạc drachma. “Tớ luôn mang theo nó từ khi tớ nhìn thấy mẹ ở Khu Trung Tâm. Đó là đồng xu Athens[2].”

      chuyền nó cho mọi người. Trong khi từng á thần quan sát nó, Piper nhớ đến kỉ niệm buồn cười trong hoạt động thể -và-trình bày[3] ở trường tiểu học.

      “Con cú,” Leo lưu ý. “À, có ý nghĩa đấy. Mình đoán cành cây này là nhành ô liu? Nhưng những dòng chữ này, ΑΘΕ – khu vực chịu ảnh hưởng (area of efect)?”

      “Nó là anfa, theta, epxilon[4],” Annabeth . “Ở Hy Lạp nó có nghĩa là Toàn Dân Athens…hoặc cậu có thể hiểu nó như là con cái của Athena. Nó gần như là khẩu hiệu của người Athens.”

      “Giống như SPQR của người La Mã,” Piper đoán.

      Annabeth gật đầu. “Dù sao nữa, Dấu hiệu của Athena là con cú, giống như cái này. Nó xuất trong ngọn lửa màu đỏ. Mình thấy nó trong giấc mơ. Rồi hai lần ở Đồn Sumter.”

      thuật lại chuyện xảy ra ở đồn – giọng của Gaea, những con nhện trong đồn trú, Dấu Hiệu thiêu trụi chúng. Piper có thể rằng chả dễ dàng gì mà ấy về chuyện ấy được.

      Percy nắm tay Annabeth. “Mình nên ở đó với cậu mới phải.”

      “Nhưng vấn đề là,” Annabeth . “ ai có thể ở đó vì mình. Khi mình đến Rome, tự mình phải tách ta tìm. Nếu , Dấu hiệu xuất . Mình phải lần theo nó đến…đến tận nguồn căn.”

      Frank lấy đồng xu từ Leo. Cậu nhìn chằm chằm con cú. “Tai ương của lũ khổng lồ vẫn quý báu và nhợt nhạt, Vượt lên nỗi đau từ nhà giam được đan dệt.” Cậu nhìn lên Annabeth. “Nó là cái gì…cái thứ ở nguồn căn ấy?”

      Trước khi Annabeth có thể trả lời, Jason lên tiếng.

      bức tượng,” cậu . “ bức tượng của Athena. Ít ra…mình đoán là vậy.”

      Piper cau mày. “Cậu từng cậu biết.”

      “Mình biết. Nhưng mình càng nghĩ đến nó…chỉ có thứ đồ tạo tạc[5] có thể khớp với truyền thuyết.” Cậu quay sang Annabeth. “Mình xin lỗi. Mình nên với cậu mọi chuyện mình biết sớm hơn. Nhưng thú , mình lo sợ. Nếu truyền thuyết đó là –”

      “Mình biết,” Annabeth . “Mình tìm hiểu nó, Jason. Mình trách cậu. Nhưng nếu chúng ta cố gắng để cứu lấy bức tượng, Hy Lạp và La Mã cùng nhau…cậu hiểu ? Nó có thể hàn gắn mối quan hệ rạn nứt.”

      “Khoan .” Percy ra hiệu hội ý. “Bức tượng nào?”

      Annabeth lấy lại đồng xu bạc và cho vô túi. “Athena Parthenos[6],” . “Bức tượng Hy Lạp nổi tiếng nhất mọi thời đại. Nó cao bốn mươi bộ, phủ ngà voi và vàng. Nó được đặt chính giữa đền Parthenon ở Athens.”

      Con tàu trở nên im lặng, ngoại trừ tiếng những con sóng vỗ vào thân tàu.

      “Được rồi, mình hỏi,” cuối cùng Leo . “Chuyện gì xảy với nó?”

      “Nó biến mất,” Annabeth .

      Leo tư lự. “Làm sao mà bức tượng cao bốn mươi bộ ở ngay chính giữa đền Parthenon cứ thế biến mất được?”

      “Hỏi hay đấy,” Annabeth . “Nó là trong những bí lớn nhất trong lịch sử. số người nghĩ rằng bức tượng bị nấu chảy để lấy vàng, hoặc bị phá hủy bởi quân xâm lược. Athens bị cướp phá nhiều lần. số khác nghĩ bức tượng bị đem –”

      “Bởi người La Mã,” Jason hoàn thành câu . “Ít ra, nó là giả thiết và nó khớp với truyền thuyết mình nghe ở Trại Jupiter. Để đập tan tinh thần người Hy Lạp, người La Mã đem Athena Parthenos khi họ chiếm được thành phố Athens. Họ giấu nó trong đền thờ dưới lòng đất ở Rome. Á thần La Mã thề rằng nó bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày. Họ đánh cắp Athena theo nghĩa đen, để bà ấy còn là biểu tượng sức mạnh quân của Hy Lạp được nữa. Bà trở thành Minerva, nữ thần thuần tính hơn nhiều.”

      “Và những đứa con của Athena luôn tìm kiếm bức tượng kể từ đó,” Annabeth . “Phần lớn biết về truyền thuyết đó, nhưng cứ mỗi thế hệ, vài người lại được nữ thần chọn lựa. Họ được trao cho đồng xu như của mình. Họ lần theo Dấu hiệu của Athena… dấu vết ma thuật liên kết họ với bức tượng…hy vọng tìm ra nơi an nghỉ của Athena Parthenos và giành lại bức tượng.”

      Piper nhìn hai người họ – Annabeth và Jason – thầm kinh ngạc. Họ như đội, hề có bất cứ thù địch hay trách móc nào. Hai người họ chưa bao giờ tin tưởng nhau. Piper đủ gần gũi với cả hai để biết điều đó. Nhưng bây giờ…nếu họ có thể thảo luận vấn đề to tát bình tĩnh đến vậy – nguồn gốc thù địch của Hy Lạp/ La Mã – có thể cuối cùng cả hai trại vẫn còn hy vọng chăng.

      Percy dường như có cùng suy nghĩ, xét từ vẻ ngạc nhiên của cậu. “Vậy, nếu chúng ta – ý mình là cậu – tìm ra bức tượng…chúng ta làm gì với nó? Liệu chúng ta có thể di chuyển nó được ?”

      “Mình chắc,” Annabeth thừa nhận. “Nhưng nếu chúng ta có thể giải cứu nó bằng cách nào đó, nó có thể gắn kết hai trại. Nó có thể cứu mẹ mình khỏi hận thù chia bà ra thành hai nửa. Và có lẽ…có lẽ bức tượng có loại sức mạnh nào đó có thể giúp chúng ta chống lại bọn khổng lồ.”

      Piper nhìn chằm chằm vào Annabeth với kính sợ, bắt đầu đánh giá cao trách nhiệm to lớn mà bạn phải gánh vác. Và Annabeth định làm điều đó mình.

      “Việc này có thể thay đổi mọi thứ,” Piper . “Nó có thể kết thúc thù hằn hàng ngàn năm qua. Nó có thể là chìa khóa để đánh bại Gaea. Nhưng nếu bọn mình giúp cậu…”

      kết thúc câu hỏi, nhưng nó dường như rành rành ra đó: Liệu có thể giải cứu bức tượng?

      Annabeth thẳng vai lên. Piper biết trong lòng sợ hãi, nhưng giấu điều đó rất kĩ.

      “Mình phải thành công,” Annabeth đơn giản. “ mạo hiểm có giá trị của nó.”

      Hazel trầm ngâm xoắn xoắn mái tóc mình. “Em thích cái ý chị phải mạo hiểm với mạng sống mình, nhưng chị đúng. Chúng ta thấy những điều mà những con đại bàng vàng vừa tìm lại giúp ích cho quân đoàn La Mã. Nếu bức tượng là biểu tượng quyền năng nhất của Athena từng được tạo ra–”

      “Nó có thể là chiến lợi phẩm ra trò,” Leo ướm lời.

      Hazel cau mày. “Đó phải là ý mà em tới, nhưng cũng đúng đấy.”

      “Ngoại trừ việc…” Percy nắm tay Annabeth lần nữa. “ đứa con nào của Athena từng tìm thấy nó. Annabeth, có cái gì ở dưới đó? Những gì bảo vệ nó? Nếu đó là nhện–”

      “Vượt lên nỗi đau từ nhà giam được đan dệt,” Frank gợi lại. “Đan dệt, như mạng nhện chẳng hạn?”

      Mặt Annabeth hóa trắng như giấy in. Piper nghi ngờ biết Annabeth có biết thứ gì đợi mình…hoặc ít nhất ý tưởng cực kỳ hay ho nào đó. cố gắng kiềm nén cơn sóng lòng hoang mang và lo sợ.

      “Chúng ta giải quyết việc đó khi đến Rome,” Piper đề nghị, sử dụng chút lời mê hoặc vào giọng mình để làm dịu thần kinh của bạn bè. “Mọi chuyện đâu vào đó cả mà. Annabeth cũng giành được chiến lợi phẩm quan trọng đó thôi. Rồi các cậu thấy.”

      “Phải,” Percy . “Mình học được điều này từ rất lâu: Đừng bao giờ chống lại Annabeth.”

      Annabeth nhìn họ biết ơn.

      Xét từ bữa ăn sáng dang dở của họ, những người khác đều cảm thấy thoải mái; nhưng Leo xoay sở để khiến họ bớt lo. Cậu nhấn nút và luồng hơi dày đặc phụt ra từ miệng của Fetus, làm mọi người nhảy dựng cả lên.

      “À!” cậu . “Khôi phục tinh thần sảng khoái nào, nhưng vẫn còn cả tấn thứ tàu cần phải sửa trước khi chúng ta đến Địa Trung Hải. Vui lòng báo cáo lại cho Tư lệnh Tối cao Leo về danh sách công việc siêu vui vẻ!”

      Piper và Jason phụ trách vệ sinh tầng dưới, nơi rơi vào tình trạng hỗn độn sau cuộc tấn công của con quái vật. Bố trí lại bệnh xá và lót ván sàn kho mất hết ngày của họ, nhưng Piper để tâm. Bởi điều, có nhiều thời gian ở cùng Jason. điều khác là vụ nổ đêm hôm qua khiến Piper có niềm kính sợ lành mạnh với lửa Hy Lạp. muốn bất cứ cái lọ lỏng lẻo nào chứa thứ đó lăn ra giữa hành lang vào lúc nửa đêm.

      Khi họ sửa chữa chuồng ngựa, Piper nghĩ về đêm Annabeth và Percy tình cờ trải qua ở dưới này. Piper ước có thể trò chuyện với Jason suốt đêm – chỉ nằm cuộn lại sàn và tận hưởng cảm giác ở cùng cậu. Tại sao họ phá vỡ các quy tắc?

      Nhưng Jason thích thế. Cậu được giáo dục nghiêm khắc để trở thành nhà lãnh đạo và là tấm gương tốt. Phá vỡ các quy tắc đối với cậu được tự nhiên cho lắm.

      nghi ngờ gì khi Reyna ngưỡng mộ cậu. Piper từng như vậy…gần như là thế.

      lần thuyết phục cậu trở thành kẻ nổi loạn ở trường học Hoang Dã, khi họ leo lên mái nhà vào ban đêm để xem sao băng. Đó là nơi họ có nụ hôn đầu.

      may, ký ức đó là cú lừa của Màn Sương Mù, lời dối ma thuật được Hera ghi vào đầu . Piper và Jason bây giờ ở cùng nhau, trong đời thực, nhưng mối quan hệ của họ có được bằng ảo ảnh. Nếu Piper cố gắng để làm cho Jason thậtlẻn ra ngoài vào ban đêm, liệu cậu có làm ?

      quét đám cỏ khô thành đống. Jason sửa cánh cửa bị hỏng của trong số mấy chuồng ngựa. Cửa hầm bằng kính lấp lánh hắt sáng từ đại dương bên dưới – màn ánh sáng xanh lục và bóng tối dường như xuống mãi. Piper cứ đưa mắt nhìn qua, lo sợ thấy mặt con quái vật ló ra, hoặc kẻ ăn thịt người dưới nước trong những câu chuyện cũ của ông nội ; nhưng tất cả những gì thi thoảng nhìn thấy chỉ là đàn cá trích.

      Khi nhìn Jason làm việc, ngưỡng mộ cách cậu làm mỗi công việc cách dễ dàng, cho dù là sửa cái cửa hay tẩm dầu vào yên ngựa. chỉ nhờ vào cánh tay cứng cáp và bàn tay điêu luyên của cậu, mặc dù Piper thích cả hai, mà cách cậu làm việc rất nhịp nhàng và tự tin. Cậu làm những việc cần làm mà phàn nàn. Cậu hài hước, mặc dù chàng rất mệt mỏi sau đêm ngủ. Piper thể trách Reyna vì có tình cảm với cậu. Khi phải làm việc và nhiệm vụ, Jason là người La Mã thực thụ.

      Piper nghĩ về bữa tiệc trà với mẹ ở Charleston. tự hỏi nữ thần gì với Reyna năm trước và tại sao nó thay đổi cách Reyna đối xử với Jason. Aphrodite khuyến khích hay phản đối việc thích Jason?

      Piper chắc, nhưng ước mẹ xuất ở Charleston. Bà mẹ bình thường đủ làm lúng túng. Bà mẹ thần thánh quyến rũ lại mời bạn bè dùng trà và về các chàng trai – việc đó xấu hổ.

      Aphrodite chú ý nhiều đến Annabeth và Hazel, chuyện đó khiến Piper thoải mái. Khi mẹ hứng thú với đời sống tình cảm của người khác, thường là dấu hiệu tốt. Có nghĩa là rắc rối đến. Hoặc như Aphrodite , ngoắt ngoéo.

      Nhưng Piper cũng thầm bị tổn thương khi có mẹ mình cho riêng mình. Aphrodite hầu như nhìn . Bà nhắc từ về Jason. Bà thèm bận tâm giải thích cuộc trò chuyện với Reyna gì hết.

      Cứ như thể Aphrodite cảm thấy thú vị với Piper nữa vậy. Piper có chàng trai của riêng mình. Bây giờ phải dựa vào mình làm mọi thứ và Aphrodite lại tiếp tục tung ra mấy tin đồn mới toanh dễ như quăng tờ tạp chí lá cải vậy.

      Cả ba người đều là những câu chuyện xuất sắc, Aphrodite . Ý ta là, các xuất sắc.

      Piper đánh giá cao điều đó, nhưng phần trong nghĩ: Tốt thôi. Con muốn thành câu chuyện. Con muốn cuộc sống ổn định tốt đẹp với chàng trai chín chắn tử tế.

      Giá mà biết nhiều hơn về cách làm các mối quan hệ tiến triển. được coi là chuyên gia, là cố vấn trưởng nhà Aphrodite. Những trại viên khác ở Trại Con Lai đến tìm xin ý kiến suốt. Piper cố làm hết sức mình, nhưng với bạn trai của chính mình, lại hoàn toàn mù mờ. liên tục dò đoán, nghiên cứu quá nhiều về biểu của Jason, tâm trạng, ý kiến tức của cậu. Tại sao chuyện đó lại quá khó khăn đến vậy? Tại sao thể lúc nào cũng có cảm giác -dưới-ánh-hoàng-hôn hạnh-phúc-mãi-mãi-về-sau?

      “Cậu nghĩ gì vậy?” Jason hỏi.

      Piper nhận ra ra vẻ cáu kỉnh. Qua hình phản chiếu khoang cửa kính, trông như vừa nuốt muỗng muối.

      có gì,” . “Ý mình là…cả đống chuyện. Kiểu như tất cả dồn vô lúc.”

      Jason cười. Vết sẹo môi gần như biến mất khi cậu cười. Nghĩ đến mọi chuyện cậu vừa trải qua, ngạc nhiên khi cậu có tâm trạng tốt đến thế.

      “Mọi chuyện đâu ra đấy thôi,” cậu hứa. “Chính cậu vậy mà.”

      “Phải,” Piper đồng ý. “Trừ việc mình chỉ vậy để Annabeth cảm thấy tốt hơn.”

      Jason nhún vai. “Nó vẫn là mà. Chúng ta sắp đến vùng đất cổ xưa. Bỏ lại người La Mã phía sau.”

      “Và bây giờ bọn họ đường đến Trại Con Lai để tấn công bạn bè chúng ta.”

      Jason ngập ngừng, như thể khó cho cậu khi diễn tả trạng thái lạc quan về chuyện đó. “Bác Chiron có cách để ngăn bọn họ. Người La Mã phải mất nhiều tuần để thực tìm thấy trại và lên kế hoạch tấn công. Hơn nữa, Reyna làm mọi thứ có thể làm để trì hoãn. ấy vẫn còn về phe chúng ta. Mình biết như thế.”

      “Cậu tin ấy,” Giọng Piper nghe trống rỗng, ngay cả với bản thân .

      “Nghe này, Pipes. Mình với cậu, cậu cần gì phải ghen tỵ.”

      ấy xinh đẹp. ấy đầy quyền năng. ấy rất…La Mã.”

      Jason đặt búa xuống. Cậu nắm tay , cảm giác rộn ràng lan khắp cánh tay . Cha của Piper từng đưa đến Thủy cung Thái Bình Dương và chỉ cho con lươn điện. Ông với con lươn truyền xung điện gây sốc và làm tê liệt con mồi. Mỗi khi Jason nhìn hay chạm vào tay , Piper cảm thấy như thế.

      “Cậu xinh đẹp, đầy quyền năng,” cậu . “Và mình muốn cậu là người La Mã. Mình muốn cậu là Piper. Hơn nữa, chúng ta là cặp, cậu và mình.”

      muốn tin cậu. Họ ở bên nhau, , trong nhiều tháng nay. Tuy nhiên, thể tống khứ mọi ngờ vực, cũng như Jason thể loại bỏ hình xăm SPQR ấn sắt nung cánh tay cậu.

      Phía họ, chuông tàu báo bữa tối vang lên.

      Jason cười. “Tốt hơn bọn mình nên lên đó. Bọn mình muốn để HLV Hedge buộc chuông quanh cổ mình đâu.”

      Piper rùng mình. HLV Hedge đe dọa làm vậy sau vụ bê bối của Percy/Annabeth, để ông biết được nếu có ai đó lẻn ra ngoài vào ban đêm.

      “Phải,” nuối tiếc , nhìn xuống cửa kính dưới chân họ. “Mình đoán ta cần phải ăn tối…và đánh giấc ngon lành.”




      [1] Interstate 95 (I-95) là đường cao tốc chính bờ biển phía Đông của Hoa Kỳ, chạy song song với bờ biển Đại Tây Dương phục vụ khu vực giữa Florida và New England. I-95 phục vụ các thành phố lớn như New York, Philadelphia, Baltimore và Washington DC trong khu vực phía Bắc và bãi biển như các ngân hàng ngoài và Miami Beach ở phía nam.

      [2] đồng xu cổ được dùng giao thương chính thức ở thành Athens, Hy Lạp, thành phố được đặt dưới bảo trợ của Athena







      [3] Thể và trình bày là hoạt động trong lớp của khối tiểu học ở Bắc Mỹ và Úc. Hoạt động dạy học sinh về kỹ năng trước công chúng.

      [4] 3 chữ cái trong bảng chữ cái Hy Lạp







      [5] Đồ tạo tạc do người tiền sử tạo ra, phân biệt với những đồ vật có sẳn trong tự nhiên.

      [6] Athena Parthenos (Trinh nữ Athena) là tên của bức tượng to lớn bằng ngà voi và vàng, điêu khắc nữ thần chiến tranh Hy Lạp Athena, được làm bởi Phidias và trợ lý của ông. Bức tượng được đặt ở đền Pathenon, Athens.




















      The Mark of Athena _ Chương 26


      Piper


      SÁNG HÔM SAU PIPER BỊ ĐÁNH THỨC bởi tiếng còi tàu khác – tiếng kèn ầm ĩ tới nỗi nó thực xốc Piper rơi khỏi giường theo nghĩa đen.

      tự hỏi biết Leo bày thêm trò gì nữa đây. Rồi tiếng còi rú lên phát nữa. nghe như ở từ cách đó vài trăm thước – từ tàu khác vậy.

      vội vội vàng vàng mặc quần áo. Ngay khi lên tới boong , những người khác tụ tập lại cả rồi – ai cũng áo quần xộc xệch trừ HLV Hedge, người nhận nhiệm vụ trách canh đêm.

      Chiếc áo phông Thế vận hội Mùa đông Vancouver của Frank lộn trái. Percy mặc quần ngủ và giáp che ngực bằng đồng, tuyên bố thời trang thú vị hết sức. Mái tóc màu hạt dẻ của Hazel bạt cả sang bên như thể mới vừa xuyên cơn lốc xoáy; và Leo vô tình tự thiêu chính mình. Áo phông của cậu cháy vụn. Cánh tay cậu bốc khói nghi ngút.

      Cách cảng tầm trăm thước, tàu du lịch đồ sộ lướt qua. Các hành khách vẫy tay với họ từ khoảng mười lăm, mười sáu dãy ban công. Vài người tươi cười chụp ảnh. Chẳng ai trông có vẻ bất ngờ khi thấy thuyền ba tầng chèo Hy Lạp Cổ. Có khi Màn Sương Mù khiến nó trông như thuyền đánh cá hoặc có lẽ các du khách nghĩ tàyArgo II là chiêu hút khách chẳng hạn.

      Tàu du lịch thổi còi lần nữa và tàu Argo II rung lên đợt.

      HLV Hedge nút tai lại. “Họ có cần thổi to thế ?”

      “Họ chỉ xin chào mà thôi,” Frank suy đoán.

      “HẢ?” Hedge đáp trả.

      Con tàu vượt qua họ, hướng thẳng ra biển. du khách vẫn còn vẫy tay. Nếu họ lấy làm lạ là tàu Argo II toàn lũ con nít đít ranh mắt nhắm mắt mở mặc đồ ngủ cùng áo giáp với người đàn ông chân dê chẳng làm thế.

      “Tạm biệt!” Leo gọi, giơ lên cánh bay bóc khói nghi ngút.

      “Thầy ra chỗ nỏ phóng tiễn nhé?” Hedge hỏi.

      ,” Leo với nụ cười cố nén.

      Hazel dụi mắt và nhìn qua mặt nước lấp lánh ánh xanh lục. “Bọn mình ở – ồ … wow.”

      Piper nhìn theo ánh mắt Hazel và thở gấp. còn tàu du lịch chắn tầm nhìn, thấy ngọn núi nhô ra từ biển cách họ chưa đến nửa dặm về phía bắc. Piper từng thấy nhiều vách đá ngoạn mục trước đây rồi. từng lái xe theo Quốc Lộ 1 dọc bờ biển California. Thậm chí từng ngã khỏi Hẻm Núi Lớn cùng Jason và rồi bay ngược trở lên. Nhưng chẳng có cái nào lại tuyệt diệu như cái nắm tay đá khổng lồ trắng lóa mắt chĩa thẳng lên trời này. Ở bên, các vách đá vôi gần như thẳng đứng hoàn toàn, trượt thẳng xuống biển cả ngàn bộ phía dưới, gần hế mức Piper có thể hình dung. Mặt bên kia, núi dốc thành tầng, rừng xanh bao phủ, tất cả gợi cho Piper nhớ tới con nhân sư khổng lồ, bị mài mòn qua hàng triệu năm với cái đầu và bộ ngực tổ tướng màu trắng, sau lưng khoác áo xanh.

      “Núi đá Gibraltar[1],” Annabeth kinh hãi . “Ở mũi đất Tây Ban Nha. Và đằng đó –” chỉ phía nam, ngọn đồi mang sắc đỏ và vàng nâu phía xa hơn. “Đó hẳn là châu Phi. Chúng ta ở ngay cửa biển Địa Trung Hải[2].”

      Sớm mai ấm áp là thế mà Piper lại rùng mình. Dù biển trải rộng ngay trước mặt họ, lại cảm thấy như đứng trước rào chắn thể nào vượt qua. khi đến Địa Trung Hải – Mare Nostrum – là họ tới vùng đất cổ xưa. Nếu truyền thuyết có , cuộc hành trình của họ nguy hiểm gấp mười.

      “Giờ sao đây?” hỏi. “Cứ thế này mà dong buồm vô à?”

      “Sao ?” Leo bảo. “Đây là con kênh vận tải lớn. Thuyền bè cứ ra vô luôn mà.”

      Nhưng phải mấy cái thuyền ba tầng chèo lóc nhóc á thần, Piper nghĩ.

      Annabeth chăm chăm nhìn núi đá Gibraltar. Piper nhận ra được biểu trầm ngâm mặt bạn mình. Nó gần như luôn có nghĩa là dự kiến gặp khó khăn.

      “Thuở xưa,” Annabeth , “người ta gọi chỗ này là những trụ đá Hercules. Ngọn Núi Đá được cho là trong hai trụ đá. Trụ đá còn lại là ngọn núi châu Phi. ai chắc là núi nào nữa.”

      “Hercules hả?” Percy cau mày. “Gã đó như là Starbucks của Hy Lạp Cổ vậy. đâu cũng thấy.”

      tiếng bùm vang như sấm rung chuyển tàu Argo II, dù Piper chắc lần này nó tới từ đâu. thấy bất kì con tàu nào khác và trời vẫn sáng trong.

      Miệng đột nhiên thấy khô khốc. “Thế…những trụ đá Hercules này. Có nguy hiểm ?”

      Annabeth vẫn tập trung vào vách đá trắng như thể đợi Dấu hiệu Athena cháy sáng xuất . “Với người Hy Lạp, những trụ đá đánh dấu điểm kết thế giới họ biết đến. Người La Mã những trụ đá có khắc lời cảnh báo tiếng latin –”

      “Non plus ultra,” Percy .

      Annabeth trông choáng váng. “Phải. Gì Vượt Xa Thêm Nữa. Sao cậu biết?”

      Percy chỉ. “Vì mình nhìn vào nó mà.”

      Ngay phía trước họ, giữa eo biển, hòn đảo lập lòe ra. Piper chắc chắn là có hòn đảo nào ở đấy trước lúc đó. Đó là mô đất đầy các dãy đồi, bao phủ bởi rừng xanh và bao quanh là những bãi biển trắng muốt. So với Gibraltar mấy ấn tượng, nhưng ngay trước hòn đảo, nhô ra khỏi lớp sóng khoảng trăm mét ngoài khơi là hai trụ đá trắng Hy Lạp cao cỡ cột buồm tàu Argo. Giữa hai cột trụ, dòng chữ bạc vô cùng lớn lấp lánh dưới mặt nước – có thể chỉ là ảo giác hoặc cũng có thể là khảm cát: NON PLUS ULTRA.

      “Các cậu, ta rẽ hướng được chưa hả?” Leo lo lắng hỏi. “Hay là..”

      Chẳng ai đáp lời – có lẽ bởi giống như Piper, họ thấy thứ đứng bãi biển. Khi con tàu tiếp cận cái cột, thấy người đàn ông tóc đen, áo choàng tím, khoanh tay chăm chú nhìn tàu như thể chờ họ đến. Piper thể gì nhiều về ta từ khoảng cách này, nhưng xét theo tư thế ta chả vui vẻ gì cho cam.

      Frank hít mạnh. “Đó hẳn là–?”

      “Hercules,” Jason . “Á thần mạnh nhất mọi thời đại.”

      Giờ tàu Argo II chỉ còn cách mấy cái trụ tầm vài trăm thước.

      “Cần câu trả lời đấy,” Leo gấp gáp bảo. “Mình có thể rẽ hay là cất cánh đây. Bộ phận ổn định làm việc trở lại rồi. Nhưng mình cần nhanh chóng biết là–”

      “Ta phải tiếp,” Annabeth bảo. “Mình nghĩ ta canh gác eo biển này. Nếu đó đúng là Hercules có chèo hay là bay cũng chả giúp ích được gì. ta muốn chuyện với bọn mình.”

      Piper kiềm chế bản thân dùng lời mê hoặc. muốn hét lên với Leo: Bay lên ! Đưa chúng ta rời khỏi đây! may, có cảm giác Annabeth đúng. Nếu họ muốn vào Địa Trung Hải thể tránh cuộc chạm mặt này được.

      “Hercules ở phía bọn mình chứ?” tràn đầy hy vọng hỏi. “Ý mình là… ta ở bên phe bọn mình, phải ?”

      Jason càu nhàu. “ ta là con thần Zeus nhưng khi chết lại thành thần. Cậu chẳng chác chắn được gì với các vị thần cả đâu.”

      Piper nhớ tới cuộc gặp giữa họ với Bacchus ở Kansas – vị thần khác từng là á thần. Ông ta chính xác chẳng giúp ích được gì nhiều cho lắm.

      “Tuyệt,” Percy . “Bảy chúng ta đánh lại Hercules.”

      “Và thần rừng nữa!” thầy Hedge thêm vô. “Chúng ta xử được gã đó mà.”

      “Mình có ý hay hơn,” Annabeth bảo. “Ta gửi đại sứ lên bờ. nhóm – nhiều nhất hay hai người. Cố chuyện với ta.”

      “Mình ,” Jason . “ ta là con Zeus. Mình là con Jupiter. Có lẽ ta thân thiện với mình cũng nên.”

      “Hoặc ghét cay ghét đắng cậu,” Percy gợi ý. “ em cùng cha khác mẹ thường hòa thuận lắm.”

      Jason cau mày. “Cảm ơn, Ngài Lạc Quan ạ.”

      “Đáng thử phen đấy,” Annabeth bảo. “Ít ra Jason với Hercules có điểm chung. Và ta cần nhà ngoại giao tốt nhất mình có. Ai đó giỏi ăn .”

      Mọi con mắt đổ dồn vô Piper.

      gắng tránh la hét và nhảy sang bên. linh cảm chẳng lành cào cấu trong bụng . Nhưng nếu Jason sắp lên bờ muốn với cậu. Có khi vị thần vô cùng mạnh này rút cuộc lại có ích. Ít ra họ cũng phải gặp may lấy lần chớ, phải ?

      “Được,” . “Để mình thay đồ cái .”

      khi Leo neo tàu Argo II giữa hai trụ đá, Jason triệu hồi gió đưa cậu và Piper vào bờ.

      Người đàn ông áo tím đợi họ.

      Piper từng nghe cả đống chuyện về Hercules. từng xem vài bộ phim và hoạt hình sến súa. Trước ngày hôm nay, nếu có từng nghĩ tới ta, chỉ đảo mắt và tưởng tượng ra chàng lông lá ngu ngốc nào đó với bộ ngực vạm vỡ và bộ râu hippie gớm guốc, khoác tấm da sư tử qua đầu và cầm cái chày tổ tướng, như người tối cổ ấy. tưởng tượng ta bốc mùi hôi hám, ợ chua, gãi ngứa liên tục và hầu như chỉ lẩm bẩm lầm bầm suốt.

      chả mong chờ việc này tí nào.

      ta để chân trần, bị phủ trong cát trắng. Chiếc áo khiến ta trông như giáo sĩ dù Piper chẳng nhớ nổi giáo sĩ cấp bậc nào lại mặc áo chùng tím. Là hồng y? Giám mục? Và phải chăng áo chùng tím có nghĩa ta là bản thể La Mã của Hercules chớ phải là Hercules Hy Lạp? Râu ta lởm chởm rất hợp thời trang, như cha Piper và những ông bạn diễn viên của ông vậy – trông kiểu như Tôi quên cạo râu hai ngày mà coi vẫn bảnh.

      ta tráng kiện nhưng quá to. Mái tóc đen như mun cắt sát, kiểu La Mã. ta có đôi mắt xanh đến đáng ngạc nhiên hệt Jason nhưng da lại màu đồng, như thể dành cả đời mình nằm bàn thuộc da vậy. Đáng ngạc nhiên hơn cả: ta trông cỡ hai mươi tuổi. Chắc chắn già hơn. ta đẹp trai kiểu góc cạnh nhưng -giống-người-tối-cổ-chút-nào.

      ta đúng là có cái chày nằm cát ngay cạnh đó, nhưng trông nó giống cây gậy bóng chày quá khổ hơn – khúc gỗ gụ hình trụ dài năm bộ bóng loáng với tay nắm bằng đồng lót da. HLV Hedge chắc ghen tị lắm lắm.

      Jason và Piper đáp xuống ngay bờ sóng. Họ chậm rãi tiếp cận, cẩn thận để lộ ra chút động thái đe dọa nào. Hercules quan sát họ chẳng hé ra chút cảm xúc đặc biệt nào như thể họ là loại chim biển nào đó mà ta chưa từng thèm để ý đến trước đây.

      “Xin chào,” Piper . Luôn có khởi đầu tốt đẹp.

      “Gì thế?” Hercules bảo. Giọng ta trầm nhưng rất giản dị, đại. Như chào họ trong phòng thay đồ trung học ấy.

      “À, có gì nhiều.” Piper nhăn mặt. “Ừm, thực ra, cũng nhiều đấy. Tôi là Piper. Đây là Jason. Bọn tôi–”

      “Bộ da sư tử của đâu?” Jason cắt ngang.

      Piper muốn thúc cho Jason cái nhưng Hercules trông thích thú hơn là khó chịu.

      “Ở đây 32 độ đấy[3],” ta bảo. “Sao tôi lại khoác da sư tử được? Cậu có mặc áo khoác lông thú ra biển bao giờ ?”

      “Tôi đoán thế cũng đúng.” Jason nghe có vẻ thất vọng. “Chỉ là mấy bức tranh luôn vẽ khoác da sư tử mình.”

      Hercules chăm chăm nhìn trời vẻ cáo buộc như thể muốn gì đó với cha ta là Zeus. “Đừng có tin mọi điều họ về tôi như thế chứ. Nổi tiếng vui như cậu nghĩ đâu.”

      “Còn phải ,” Piper thở dài.

      Hercules đưa đôi mắt xanh rực rỡ sang nhìn . “ có nổi tiếng vậy?”

      “Cha tôi…ông ấy đóng phim.”

      Hercules cằn nhằn. “Đừng khiến tôi phải bắt đầu với mấy cái phim. Thần thánh đỉnh Olympus ạ, mấy thứ đó chả bao giờ có cái quái gì là đúng hết trơn. xem phim nào mà tôi trông giống tôi chưa?”

      Piper phải ngưỡng mộ ta ở điểm. “Tôi thấy bất ngờ là trông trẻ thế cơ đấy.”

      “Ha! Bất tử là thế đấy. Nhưng, phải, tôi cũng quá già lúc chết đâu. như tiêu chuẩn nay. Tôi làm rất nhiều việc suốt những năm còn là hùng …quá nhiều việc, ra là vậy.” Ánh mắt chuyển sang Jason. “Con trai Zeus hả?”

      “Jupiter,” Jason .

      “Cũng chả khác mấy,” Hercules càu nhàu. “Cha thế nào cũng khó chịu cả. Còn tôi hả? Tôi từng được gọi là Heracles. Rồi người La Mã đến và gọi tôi là Hercules. Tôi thực thay đổi nhiều lắm dù cho gần đây cứ nghĩ tới việc đó lại khiến đầu tôi đau muốn nứt ra …”

      Mặt trái ta co giật. Áo choàng lung linh sáng lên, chuyển sang màu trắng trong khoảnh khắc rồi lại thành màu tím.

      “Dù sao chăng nữa,” Hercules bảo “nếu cậu là con của Jupiter, cậu có lẽ hiểu được. Áp lực lắm. Đủ là chả bao giờ đủ cả. Cuối cùng nó có thể khiến chàng trai nổ tanh bành ra.”

      ta quay sang Piper. cảm thấy như cả ngàn con kiến lưng. Có pha trộn giữa nỗi buồn và tăm tối trong mắt ta, trông có vẻ sáng suốt cho lắm và chắc chắn là cũng chẳng an toàn.

      “Còn , bạn thân mến à,” Hercules . “cẩn thận. Những đứa con trai của Zeus có thể…ừm, thôi kệ .”

      Piper dám chắc thế nghĩa là gì. Đột nhiên muốn cách vị thần này ra càng xa càng tốt, nhưng cố gắng giữ vẻ bình tĩnh, lịch .

      “Thế, Ngài Hercules,” , “chúng tôi thực nhiệm vụ. Chúng tôi xin được phép vào vùng Địa Trung Hải.”

      Hercules nhún vai. “Vì thế tôi mới ở đây. Sau khi tôi chết, Cha biến tôi thành người giữ cửa cho Olympus. Tôi bảo, Tuyệt! Nhiệm vụ trong cung điện! Tiệc tùng liên miên!Nhưng ông ấy lại chả đề cập gì đến việc tôi phải canh giữ cửa tới vùng đất cổ, bị kẹt ngay hòn đảo này suốt phần đời vĩnh cửu còn lại. Vui chết được.”

      ta chỉ vô hai cây trụ đá nhô lên từ sóng. “Mấy cái cột ngu ngốc. Có người cho rằng tôi tạo ra toàn bộ Eo biển Gibraltar bằng cách xô mấy trái núi nhô ra ngoài biển. Có người bảo mấy trái núi là cột nữa chớ. Đúng là mớ cứt đái Augeas[4]. Cột trụ là cộttrụ.”

      “Phải,” Piper . “Tất nhiên là thế. Thế…bọn tôi vào được ?”

      Vị thần gãi bộ râu thời trang của mình. “Ừm, tôi phải đưa cho các cậu cảnh báo chuẩn mực về độ nguy hiểm của vùng đất cổ xưa. phải bất cứ á thần nào cũng sống sót mà qua nổi Mare Nostrum đâu. Do đó, tôi phải giao cho các cậu nhiệm vụ để mà hoàn tất. Chứng minh giá trị bản thân, blah, blah, blah. Thành tôi cũng chả xem trọng lắm đâu. Thường tôi bảo á thần làm cái gì gì đó đơn giản như mua sắm hay hát bài tếu táo thôi, đại loại kiểu thế. Sau mấy vụ cực nhọc tôi phải hoàn tất dùm thằng họ độc ác Eurystheus[4a], ừm…tôi muốn làm gã đó đâu, cậu biết đấy?”

      “Tôi đánh giá cao điều đó,” Jason bảo.

      “Ừ, có gì.” Hercules nghe thoải mái dễ chịu nhưng ta vẫn khiến Piper lo lo. Tia ám muội đó trong mắt ta nhăc nhớ tới than củi ngâm trong dầu hỏa, sẵn sàng bùng lên trong chốc lát.

      “Vậy tóm lại,” Hercules . “nhiệm vụ của mọi người là gì thế?”

      “Lũ khổng lồ,” Jason . “Chúng tôi phải đến Hy Lạp để ngăn bọn chúng đánh thức Gaea.”

      “Khổng lồ à,” Hercules lẩm bẩm. “Tôi ghét mấy thằng đó. Hồi tôi còn là á thần hùng … à, kệ . Thế thần nào giao nhiệm vụ này cho mấy người thế – Cha? Athena? Có khi là Aphrodite?” ta nhướn bên mày với với Piper. “Xinh như tôi đoán chắc đấy là mẹ nhỉ.”

      Piper đáng ra phải nghĩ tới sớm hơn chứ, nhưng Hercules khiến bất an. Quá muộn rồi, nhận ra cuộc đối thoại thành ra bãi mìn.

      “Hera cử chúng tôi ,” Jason bảo. “Bà ta đưa bọn tôi đến với nhau để–”

      “Hera.” Đột nhiên nét mặt Hercules trông như vách đá Gibraltar – phiến đá rắn đanh, khoan nhượng.

      “Bọn tôi cũng ghét bà ta lắm,” Piper nhanh nhảu . Trời ạ, sao việc này lại xảy đến với kia chứ? Hera là kẻ tử thù của Hercules. “Bọn tôi cũng chả muốn giúp bà ta làm gì. Bà ta cho bọn tôi nhiều chọn lựa nhưng –”

      “Nhưng các cậu lại ở đây,” Hercules bảo, thân thiện biến mất tăm. “Xin lỗi hai người. Tôi quan tâm nhiệm vụ hai người đáng giá bậc nào. Tôi làm bất cứ việc gì Hera muốn. bao giờ.”

      Jason trông hoang mang. “Nhưng tôi nghĩ làm hòa với bà ta lúc lên làm thần rồi chứ.”

      “Tôi rồi đó,” Hercules gầm gừ, “đừng có tin tất cả mọi thứ cậu nghe. Nếu muốn vào Địa Trung Hải, tôi e là phải giao cho mọi người nhiệm vụ khó hơn mức bình thường.”

      “Nhưng chúng ta cũng như là em mà,” Jason phản đối. “Hera cũng làm rối tung rối mù đời tôi lên. Tôi hiểu–”

      “Cậu cóc hiểu gì sất,” Hercules lạnh lùng đáp. “Gia đình đầu tiên của tôi: chết. Đời tôi phí phạm vào những nhiệm vụ ngớ nga ngớ ngẩn. Người vợ thứ hai của tôi chết sau khi bị lừa đầu độc tôi và bỏ tôi chết trong đau đớn quằn quại. Và đền bù? Tôi trở thành vị thần xíu xiu. Bất tử, nên tôi chả bao giờ quên được nỗi đau. Kẹt ở đây làm tên gác cổng, thằng gác cửa, gã quản gia cho đám thần thánh Olympus. , cậu hiểu được gì. Vị thần duy nhất hiểu tôi dù chỉ chút chút là Dionysus. Và ít nhất ta cũng tạo ra cái gì đó hữu dụng. Còn tôi chả có gì để khoe ngoại trừ mấy thước phim chuyển thể tồi tệ.”

      Piper dùng lời mê hoặc. “ đáng buồn thay Ngài Hercules. Nhưng làm ơn đừng gây khó dễ bọn tôi. Bọn tôi đâu phải kẻ xấu.”

      nghĩ thành công rồi. Hercules do dự. Rồi ta cắn chặt quai hàm và lắc lắc đầu. “Phía bên kia hòn đảo, qua mấy quả đồi, hai người tìm tìm thấy con sông. Gã thần sông già nua Achelous sống ngay giữa dòng.”

      Hercules đợi chờ như thể tin này phải khiến họ chuồn luôn mới đúng.

      “Và…?” Jason hỏi.

      “Và,” Hercules bảo. “Tôi muốn hai người bẻ gãy cái sừng kia của gã mang về cho tôi chớ sao.”

      “Ông ta có sừng hả,” Jason . “Đợi chút…cái sừng kia của ông ta ư? Cái gì–?”

      “Tự tìm hiểu lấy,” vị thần chua cay đáp. “Đây, cái này có thể giúp ích.”

      ta từ giúp như thể nó có nghĩa là giết[5] vậy. Từ dưới áo chùng, Hercules lôi ra cuốn sách và thảy nó cho Piper. suýt bắt được nó.

      Bìa sách bóng loáng có hình bức ảnh các ngôi đền Hy Lạp với mấy con quái vật tươi cười. Con Minotaur[6] giơ ngón cái. Tựa sách ghi: Cẩm nang hướng dẫn của Hercules về Mare Nostrum.

      “Mang cái sừng đó về cho tôi trước khi mặt trười lặn,” Hercules bảo. “Chỉ hai cậu thôi nhé. Đừng liên lạc với bạn bè làm chi. Con tàu của hai người ở nguyên vị trí. Nếu hai người thành công, tất cả có thể vào Địa Trung Hải.”

      “Nếu sao?” Piper hỏi, khá chắc rằng muốn nghe câu trả lời.

      “Ừm, Achelous giết hai người, tất nhiên là thế,” Hercules . “Và tôi tay đập thuyền của hai người làm đôi rồi cho bạn hai người xuống mồ sớm.”

      Jason di di chân. “Bọn tôi hát lấy bài vui vui được sao?”

      “Tôi làm đấy,” Hercules lạnh lùng . “Mặt trời lặn. bạn cậu bỏ mạng cái chắc.”




      [1] Gibraltar là núi đá nằm ở eo biển Gibraltar, cửa biển từ Đại Tây Dương vào Địa Trung Hải







      [2] Địa Trung Hải là phần của Đại Tây Dương được vây quanh bởi đất liền – phía bắc bởi châu Âu, phía nam bởi châu Phi và phía đông bởi châu Á. Địa Trung Hải có diện tích 2.509.000 km² (969.000 dặm vuông ) tới 2.510.000 km² (970.000 dặm vuông ). Chiều dài đông-tây là 4.000 km và chiều rộng trung bình là 800 km, nhưng tại chỗ thông với Đại Tây Dương (eo biển Gibraltar) chỉ rộng 13 km (8 dặm ) và bề rộng tối đa đạt 1.600 km. Nhìn chung biển này nông, với độ sâu trung bình khoảng 1.500 m, độ sâu tối đa khoảng 4.900 m tới 5.150 m, tại khu vực phía nam bờ biển Hy Lạp.

      [3] nguyên văn là độ Fa-ren-hai, đổi sang độ C là 32 độ

      [4] Augeas(hay Augeias, /ɔːˈdʒiːəs/, Ancient Greek: Αὐγείας), có nghĩ là ‘sáng’, vua của Elis, cha của Epicaste. Người có chuồng giá súc lớn nhất nước và bao giờ được dọn dẹp cho tới khi có được Heracles tới giúp.

      [4a] Eurystheus (/jʊrɪsˈθiəs/, Εὐρυσθεύς), vua của Tyrins, 1 trong những cháu trai của Perseus(Percy được đặt tên theo này), người được quyền sai khiến Heracles làm 12 việc, lập nên 12 công lao khi xưa.

      [5] nguyên văn là ‘help’-giúp và ‘hurt’-đau nhưng tác giả chơi vần nên để như thế đọc thuận hơn

      [6] Minotaur hay nhân ngưu là quái vật nửa người nửa bò trong thần thoại Hi Lạp. Mọi chuyện bắt đầu khi Minos muốn làm vua xứ Crete nên ông cầu xin thần biển Poseidon. Poseidon cho ông con bò trắng đẹp tuyệt trần để ông chứng tỏ lòng thành của mình. Nhưng mê mẩn trước vẻ đẹp của con bò, Minos đem con bò giả để thế. Tức giận, thần Poseidon trừng phạt Minos bằng cách hóa phép cho hoàng hậu của Minos, Pasiphaë, con bò đó. Hoàng hậu ra lệnh kiến trúc sư Daedalus làm con bò cái bằng gỗ cho bà chui vào để giao phối với con bò đó và kết quả là ra đời của .

      Minotaur gieo rắc kinh hoàng cho toàn đảo Crete nên vua Minos ra lệnh cho Daedalus làm mê cung để nhốt nó lại. Mỗi năm, ông đem 7 người con trai và 7 người con từ Athena vào cho Minotaur ăn thịt.

      Minotaur bị tiêu diệt bởi hùng Theseus sau khi chàng nghe việc làm tàn ác của vua Minos. giết được Minotaur nhờ giúp đỡ của Ariadne, con vua Minos. Nhờ cuộn chỉ của đưa mà tìm đường thoát được khỏi mê cung.







      k tìm được hình to của con này, ai tìm được gửi mình với, hình to vẽ cho riêng truyện ấy

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 27


      Piper


      CUỐN CẨM NANG HƯỚNG DẪN CỦA HERCULES VỀ MARE NOSTRUMCHẲNG GIÚP ĐƯỢC MẤY TRONG VỤ RẮN RẾT VỚI MUỖI MÒNG.

      “Nếu đây là hòn đảo phép thuật,” Piper gầm gừ, “ sao nó thể là hòn đảo phép thuật tử tế chứ?”

      Họ khó nhọc trèo qua quả đồi và xuống thung lũng cây cối rậm rạp, cẩn thận né tránh đám rắn có sọc-đen-và-đỏ sưởi nắng mấy tảng đá. Muỗi bay thành bầy bên mấy cái ao tù ở những chỗ trũng nhất. Cây cối chủ yếu là đám ô liu còi cọc, bách và thông. Tiếng kêu rả rích của lũ ve sầu cùng với cái nóng ngột ngạt khiến Piper nhớ đến vùng đất riêng của người da đỏ ở Oklahoma vào mùa hè.

      Cho tới lúc này họ vẫn chưa thấy con sông nào.

      “Bọn mình có thể bay,” Jason đề nghị thêm lần nữa.

      “Bọn mình có thể bỏ sót thứ gì đó mất,” Piper . “Hơn nữa, mình cũng chắc mình muốn ghé thăm vị thần thân thiện đâu. Tên ông ta là gì ấy nhỉ? Etch-a-Sketch à?

      “Achelous[1].” Jason cố đọc quyển hướng dẫn trong khi , thành ra cậu liên tục đâm vào cây và vấp phải đá. “Trong này ông ta là Hà Bá[2].“

      “Ông ta là con hà mã á?”

      . Hà Bá. thần sông. Theo cái thứ này , ông ta là linh hồn của con sông nào đó ở Hy Lạp.”

      “Vì chỗ bọn mình đứng phải Hy Lạp, nên cứ cho là ông ta chuyển nhà ,” Piper . “Cái đó chẳng báo trước được quyển sách này có ích đến đâu. Còn gì nữa ?”

      “Nó còn Hercules từng đấu với ông ta lần,” Jason ướm lời.

      “Hercules đấu với chín mươi chín phần trăm tất cả những gì thuộc Hy Lạp cổ.”

      “Ờ. Để xem nào. Những cây Cột Đá của Hercules…” Jason lật trang giấy. “Trong này là hòn đảo này có khách sạn, nhà hàng, có phương tiện giao thông. Điểm thu hút khác du lịch: Hercules và hai cây Cột Đá. Hử, cái này thú vị đây. Người ta tin rằng kí hiệu đồng đô la – cậu biết đấy, hình chữ S với hai sọc ấy mà?-cái đó có nguồn gốc từ quốc huy Tây Ban Nha[3], có hình hai cây Cột Đá của Hercules với dải băng rôn uốn lượn giữa hai cây cột đó.”

      Tuyệt, Piper nghĩ. Cuối cùng Jason cũng hòa thuận được với Annabeth, và xu hướng thiên tài của lây sang cậu.

      “Có gì có ích ?” hỏi.

      “Chờ . Có dòng ghi chú xíu về Achelous: Vị thần sông này từng đấu với Hercules để giành quyền lấy nàng Deianira xinh đẹp. Trong trận quần thảo, Hercules bẻ gẫy bên sừng của vị thần sông này, và nó trở thành chiếc sừng sung túc[4] đầu tiên.”

      “Sung gì cơ?”

      “Là thứ đồ trang trí trong Lễ Tạ Ơn ấy,” Jason . “Cái sừng với đủ loại đồ ngọt tràn cả ra ngoài ấy mà? Bọn mình cũng có mấy cái trong nhà ăn ở trại Jupiter. Mình biết cái nguyên bản lại thực là sừng của gã nào đó.”

      “Và nếu bọn mình phải lấy cái còn lại này,” Piper . “Mình đoán là chẳng dễ dàng gì. Deianira là ai thế?”

      “Hercules từng cưới ta,” Jason . “Mình nghĩ…trong này . Nhưng mình nghĩ có chuyện tồi tệ xảy ra với ta.”

      Piper nhớ chuyện Hercules kể với họ: gia đình đầu tiên của ta chết hết, người vợ thứ hai của ta chết sau khi bị lừa gạt mà đầu độc ta. Càng ngày càng thích cái thử thách này.

      Họ lê bước qua dải đất hẹp giữa hai ngọn đồi, cố gắng tìm chỗ có bóng râm mà , nhưng Piper vẫn ướt sũng mồ hôi. Đám muỗi để lại vết cắn đầu gối, cánh tay, và cổ , nên chắc giờ trông giống nạn nhân bệnh đậu mùa.

      Cuối cùng cũng được ở riêng với Jason lúc, vậy mà họ lại sử dụng khoảng thời gian đó thế này đây.

      bực mình Jason vì nhắc đến Hera, nhưng biết là nên trách cậu. Có lẽ chỉ bực mình với cậu chung. Kể từ hồi ở Trại Jupiter, phải mang cả đống lo lắng và bất an.

      tự hỏi Hercules muốn gì với về những người con trai của thần Zeus. thể tin tưởng họ? Họ phải chịu quá nhiều áp lực? Piper cố tưởng tượng cảnh Jason biến thành thần sau khi chết, đứng bãi biển nào đó, canh gác cổng vào đại dương sau khi Piper và tất cả những người cậu biết trong kiếp sống phàm trần của cậu đều chết hết từ lâu.

      tự hỏi liệu Hercules có bao giờ lạc quan như Jason –sôi nổi hơn, tự tin hơn và dễ an ủi hơn. Khó mà hình dung được điều đó.

      Trong lúc họ xuống thung lũng tiếp theo, Piper tự hỏi chuyện gì xảy ra tàu Argo II. bị cái ý tưởng gửi thông điệp Iris cám dỗ, nhưng Hercules cảnh cáo bọn họ được liên lạc với nhóm bạn. hi vọng Annabeth có thể đoán ra chuyện gì xảy ra và cố đưa thêm nhóm nữa lên bờ. Piper dám chắc Hercules làm gì nếu ta bị làm phiền thêm nữa. tưởng tượng cảnh HLV Hedge mất kiên nhẫn và nhắm cái nỏ bắn đá về phía người đàn ông mặc đồ tím, hay đám eidolon nhập vào thủy thủ đoàn và bắt họ tự-sát-bằng-Hercules.

      Piper rùng mình. biết lúc này là mấy giờ rồi, nhưng mặt trời bắt đầu xuống núi. Thế nào mà ngày lại trôi qua nhanh như thế? Lẽ ra có thể hoan nghênh mặt trời lặn xuống để dịu bớt cái nóng , nếu phải lúc đó chính là thời hạn cuối cùng của bọn họ. Làn gió đêm mát mẻ chẳng có ích mấy nếu bọn họ chết. Hơn nữa, ngày mai là mùng tháng bảy, Ngày Kalends Tháng Bảy[5]. Nếu thông tin của họ là chính xác, đó là ngày cuối cùng Nico di Angelo còn sống, và cũng là ngày thành Rome bị phá hủy.

      “Dừng lại.” Jason .

      Piper có chuyện gì ổn. Rồi nhận ra có thể nghe thấy tiếng nước chảy ở phía trước. Họ luồn lách qua đám cây và thấy mình đứng bên bờ con sông. Nó rộng khoảng khoảng 12m, nhưng lại chỉ sâu có vài inch, làn nước bạc chảy băng băng thảm đá cuội bằng phẳng. Cách đó vài thước về phía hạ lưu, dòng nước siết đổ xuống cái vụng sâu xanh thẳm.

      Có gì đó về con sông này khiến lo lắng. Đám ve sầu cây im bặt. có tiếng chim hót nào. Cứ như thể dòng nước giảng bài và chỉ cho phép tiếng của mình nó vang lên.

      Nhưng Piper càng nghe lâu, dòng sông lại càng có vẻ cuốn hút mời mọc. muốn làm hớp nước. Có lẽ nên cởi giày ra. muốn ngâm chân trong nước. Và cái vũng nước sâu kia… tuyệt nếu được nhảy xuống cùng Jason và thư giãn dưới bóng cây, bồng bềnh trong làn nước mát rượi. lãng mạn.

      Piper lắc đầu tự cảnh tỉnh. Những ý nghĩ đó phải của . Có điều gì đó đúng. có cảm giác như thể dòng sông dùng thanh ma thuật để quyến rũ vậy.

      Jason ngồi tảng đá và bắt đầu tháo giày. Cậu nhe răng cười với vụng nước như thể cậu thể chờ để nhảy xuống đó.

      “Thôi ngay !” Piper quát lên với con sông.

      Jason giật mình. “Thôi cái gì cơ?”

      phải cậu,” Piper . “Mà là ông ta.”

      cảm thấy ngớ ngẩn khi chỉ tay vào dòng nước, nhưng chắc chắn là nó giở trò ma thuật kiểu gì đấy, điều khiển cảm xúc của họ.

      Đúng lúc nghĩ rằng thua và Jason bảo như thế, dòng sông lên tiếng:Thứ lỗi cho ta. Hát là trong những thú vui ít ỏi mà ta còn có được.

      bóng hình nổi lên từ vụng nước như lên bằng thang máy.

      Hai vai Piper căng lên. Đó là sinh vật thấy lưỡi dao của , con bò có mặt người. Làn da của ông ta xanh như màu nước. Bốn móng của ông ta nổi mặt nước. cái cổ bò của ông ta là cái đầu của người đàn ông với mái tóc đen cắt ngắn, bộ râu loăn xoăn theo kiểu Hy Lạp cổ, đôi mắt sâu thẳm, đau buồn sau cặp kính hai tròng, và cái miệng có vẻ như mang cái bĩu môi vĩnh cửu. Mọc bên trái đầu ông ta là cái sừng bò duy nhất – cái sừng cong màu trắng-và-đen như cái những chiến binh vẫn hay dùng làm cốc uống rượu. mất cân bằng khiến cái đầu của ông ta nghiêng sang bên trái, thành ra trông ông ta cứ như là dốc nước ra khỏi tai.

      “Chào,” ông ta rầu rĩ . “Hẳn là các cậu đến để giết ta.”

      Jason lại giày vào và chậm chạp đứng dậy. “Ờm, –”

      !” Piper chen vào, “Tôi xin lỗi. Xấu hổ . Bọn tôi muốn làm phiền đến ông đâu, nhưng Hercules bảo chúng tôi đến đây.”

      “Hercules!” Gã người-bò thở dài. Móng của ông ta cào cào lên mặt nước như sẵn sàng tấn công. “Với ta luôn là Heracles. Đó là tên tiếng Hy Lạp của gã, cậu biết đấy: vinh quang của Hera.“

      “Tên buồn cười ,” Jason . “ ta ghét cay ghét đắng bà ta.”

      “Đúng vậy,” người-bò . “Có lẽ đó chính là lí do vì sao gã phản đối khi người La Mã đặt tên cho gã là Hercules. Tất nhiên, đó là cái tên mà phần lớn mọi người biết khi nhắc đến gã…nhãn hiệu của gã, nếu cậu muốn gọi vậy. Hercules chẳng là gì nếu có ý thức về hình tượng bản thân.”

      Người-bò với giọng cay đắng nhưng thân thiết, như thể Hercules là người bạn cũ lạc lối.

      “Ông là Achelous?” Piper hỏi.

      Người-bò khuỵu hai chân trước và cúi đầu xuống thành cái cúi chào mà Piper thấy vừa dễ thương vừa đượm buồn. “Sẵn lòng phục vụ quý . Thần sông siêu phàm. Từng là linh hồn của con sông hùng vĩ nhất Hy Lạp. Giờ bị kết án phải chịu giam cầm tại nơi đây, ở bên của hòn đảo, đối diện với kẻ thù cũ của ta. Ôi, các vị thần ác độc! Nhưng họ làm vậy là để trừng phạt ta hay Hercules, ta chưa bao giờ biết chắc được.”

      Piper ông ta có ý gì, nhưng thanh nền của con sông lại xâm lược đầu óc lần nữa – nó nhắc rằng khát tới mức nào, rằng cuộc lặn ngụp dễ chịu đến đâu. cố tập trung.

      “Tôi là Piper.” . “Đây là Jason. Chúng tôi muốn đánh nhau. Chỉ là Heracles – Hercules – dù là người nào chăng nữa, nổi điên với bọn tôi và bắt bọn tôi tới đây.”

      giải thích về nhiệm vụ tới vùng đất cổ xưa để ngăn đám khổng lồ đánh thức Gaea. miêu tả làm thế nào mà đội gồm cả người Hy Lạp và người La Mã của bọn họ tập hợp lại, và Hercules trút cơn thịnh nộ như thế nào khi ta biết Hera đứng sau chuyện này.

      Achelous cứ nghiêng đầu sang bên trái từ đầu đến cuối, nên Piper chắc ông ta để hồn vía mây hay đối phó với cơn mệt mỏi -sừng.

      Khi dứt lời, Achelous nhìn như thể nổi đống phát ban đáng tiếc. “Ah, thân mến của ta…những truyền thuyết là có , biết đấy. Những tinh linh, những kẻ ăn thịt dưới nước.”

      Piper phải cố ngăn lại tiếng thút thít rên rỉ. tẹo gì về chuyện đó với Achelous. “L-Làm thế nào—?”

      “Các thần sông biết rất nhiều chuyện,” ông ta . “Alas, các cậu tập trung vào nhầm chuyện rồi. Nếu các cậu tới được Rome, câu chuyện về trận lụt hợp với các cậu hơn.”

      “Piper?” Jason hỏi. “Ông ta về cái gì vậy?”

      Suy nghĩ của bỗng rối tung rối mù như mớ bòng bong. Câu chuyện về trận lụt…Nếu các cậu tới được Rome.

      “Mình – mình cũng nữa, “ , dù câu chuyện về trận lụt mang đến cảm giác ngờ ngợ. “Achelous, tôi hiểu-”

      “Ừ, hiểu .” vị thần sông tỏ vẻ thông cảm. “ tội nghiệp. Lại nữa dính vào con trai của Zeus.”

      “Đợi ,” Jason . “Là Jupiter chứ. Và sao điều đó lại khiến ấy thành tội nghiệp?”

      Achelous phớt lờ cậu. “ của ta, có biết nguyên nhân gây ra cuộc chiến của ta với Hercules ?”

      “Để giành người phụ nữ,” Piper nhớ lại. “Deianira?”

      “Phải.” Achelous thở dài đánh thượt. “Và có biết chuyện gì xảy ra với nàng ta ?”

      “Ờ…” Piper liếc Jason.

      Cậu lấy cuốn sách hướng dẫn ra và bắt đầu lật lật giở giở. “Nó thực –”

      Achelous khịt mũi khinh bỉ. “Cái thứ gì thế kia?”

      Jason chớp mắt. “Chỉ là…Cẩm Nang Hướng Dẫn Của Hercules Về Mare Nostrum thôi mà. ta đưa cho bọn tôi quyển sách hướng dẫn này, nên-”

      “Đấy chẳng phải sách siếc gì sất,” Achelous khăng khăng. “Gã đưa cho mấy người thứ đấy chỉ để làm ta lộn ruột thôi, phải ? Gã biết ta ghét cay ghét đắng mấy thứ này mà.”

      “Ông ghét…sách á?”

      “Bah!” Mặt Achelous đỏ tía lên, biến màu da xanh của ông ta thành màu cà tím. “Thứ đấy phải là sách.”

      Ông ta gõ móng lên mặt nước. cuộn giấy vọt lên từ lòng sông như đầu tên lửa cỡ và đáp xuống trước mặt ông ta. Ông ta lấy móng đẩy cho nó mở ra. Cuộn giấy ố vàng vì năm tháng, được phủ kín chữ viết tay tiếng Latin phai màu và những bức tranh vẽ tay tỉ mỉ.

      “Đây mới là sách!” Achelous . “Ôi, cái mùi hương của da cừu! Cái cảm giác tao nhã của cuộn giấy mở ra rưới móng ta. Đơn giản là các cậu thể sao chép cái cảm giác đó lên thứ thế kia.”

      Ông thần hất đầu khinh bỉ về phía cuốn sách hướng dẫn tay Jason. “Đám người trẻ tuổi như các cậu ngày nay và mấy thứ đồ mới nổi của các cậu. Giấy đóng thành quyển. Những miếng vuông chật ních chữ hề thân-thiện-với-móng-guốc. Đấy là cuốn sách bìa cứng, cuốn sách-cứng, nếu các cậu thích gọi vậy. Nhưng nó vẫn phải là cuốn sách truyền thống. Nó bao giờ thay thế được những cuộn giấy tốt kiểu cổ điển!”

      “Ừm, tôi cất nó ngay đây.” Jason nhét quyển sách hướng dẫn vào túi sau của cậu theo cái cách cậu có thể nhét món vũ khí nguy hiểm vào bao.

      Achelous có vẻ dịu xuống chút, làm Piper thấy cả người. muốn bị con bò sừng bị ám ảnh về giấy da cuộn xéo phải.

      “Giờ ,” Achelous , gõ gõ lên bức hình cuộn giấy da của ông ta. “Đây là Deianira.”

      Piper quỳ gối xuống để nhìn. Bức chân dung vẽ tay rất , nhưng có thể thấy được rằng người phụ nữ đó rất đẹp, với mái tóc dài sẫm màu, đôi mắt sẫm màu, và nụ cười tinh nghịch hẳn có thể khiến cho đám đàn ông điên cuồng.

      “Công chúa nước Calydon,” thần sông ảm đạm . “Nàng được hứa hôn với ta, cho tới khi Hercules nhảy vào. Gã khăng khăng đòi đọ sức.”

      “Và ta bẻ gãy cái sừng của ông?” Jason đoán.

      “Phải,” Achelous đáp. “Ta bao giờ có thể tha thứ cho gã vì điều đó. Khó chịu khủng khiếp, chỉ có mỗi sừng ấy. Nhưng với Deianira, chuyện còn tồi tệ hơn. Lẽ ra nàng có thể có cuộc đời dài hạnh phúc nếu lấy ta.”

      con bò đầu người,” Piper , “sống trong con sông.”

      “Chính xác,” Achelous đồng ý. “Việc nàng từ chối có vẻ là điều thể, hén? Thế mà nàng lại bỏ với Hercules. Nàng chọn gã hùng bảnh chọe, khoe mẽ thay vì người chồng tốt bụng, chung thủy lẽ ra có thể đối tốt với nàng. Chuyện gì xảy ra tiếp theo ấy hả? Chà, lẽ ra nàng nên biết. Hercules bị quá nhiều rắc rối của riêng quấn lấy nên thể làm chồng cho tốt được. Hera nguyền rủa gã, nên gã mất trí và giết sạch gia đình mình. Chuyện khủng khiếp. Thế nên mới phải lập mười hai chiến công[6] đó để sám hối.”

      Piper thấy choáng váng. “Khoan …Hera khiến ta bị điên, và Hercules phải sám hối á?”

      Achelous nhún vai. “Đám thần đỉnh Olympus có vẻ như chẳng bao giờ phải trả giá cho tội ác của mình. Và Hera luôn ghét con trai của Zeus…hay Jupiter.” Ông ta liếc Jason vẻ hoài nghi. “Tóm lại, Deianira đáng thương của ta kết cục bi thảm. Nàng trở nên ghen tị với nhiều cuộc ngoại tình của Hercules. Gã hoang khắp thế giới, cậu biết đấy, chẳng khác gì Zeus cha , lăng nhăng với bất kì người đàn bà nào gặp. Cuối cùng Deianira trở nên tuyệt vọng đến nỗi nàng nghe cả những lời xúi giục. tên nhân mã nham hiểm tên là Nessus[7] với nàng rằng nếu nàng muốn Hercules chung thủy với nàng mãi mãi, nàng nên bôi máu nhân mã vào mặt trong của chiếc áo thích của Hercules. Deianira nghe theo lời xúi giục của , nhưng thay vì biến Hercules thành người chồng chung thủy-”

      “Máu nhân mã giống như a-xít vậy,” Jason .

      “Đúng vậy,” Achelous . “Hercules chết cách đau đớn. Khi Deianira nhận ra những gì mình làm, nàng ta…” thần sông kéo đường ngang qua cổ.

      “Chuyện đó kinh khủng,” Piper .

      “Và bài học là gì nào, thân mến?” Achelous . “Hãy coi chừng đám con trai của Zeus.”

      Piper dám nhìn bạn trai . dám chắc có thể che giấu nỗi bất an trong mắt mình. Jason chẳng bao giờ là Hercules. Nhưng câu chuyện lại đánh đúng vào nỗi sợ của . Hera nhào nặn nên mối quan hệ của bọn họ, cũng hệt như cách bà ta thao túng Hercules. Piper muốn tin rằng Jason đời nào nổi cơn cuồng loạn giết người như Hercules. Thế nhưng, mới cách đây bốn ngày, cậu bị hồn ma eidolon điều khiển và suýt nữa giết Percy Jackson đấy thôi.

      “Giờ Hercules thành thần rồi,” Achelous . “Gã kết hôn với Hebe, nữ thần tuổi trẻ, nhưng gã vẫn hiếm khi ở nhà. Gã vùi đầu hòn đảo này, canh hai cái cột ngu ngốc đó. Gã Zeus bắt gã làm vậy, nhưng ta nghĩ gã thích ở đây hơn là ở ngọn Olympus, chăm sóc nỗi cay đắng trong gã và khóc than cho cuộc đời bất tử của gã. có mặt của ta nhắc gã nhớ đến những thất bại của gã – đặc biệt là người phụ nữ mà đến cuối cùng lại giết . Và diện của nhắc ta nhớ đến Deianira, người mà lẽ ra là vợ của ta.”

      Người-bò gõ gõ cuộn giấy da, nó tự cuộn lại và chìm lại xuống nước.

      “Hercules muốn cái sừng khác của ta để nhục mạ ta,” Achelous . “Có lẽ biết rằng ta cũng khốn khổ khiến gã thấy khá hơn. Hơn nữa, cái sừng có thể biến thành chiếc sừng sung túc. Đồ ăn và thức uống hảo hạng tuôn ra từ cái sừng đó, cũng giống như sức mạnh của ta khiến con sông này chảy vậy. nghi ngờ gì là Hercules giữ cái sừng đó lại cho riêng gã. Đó bi kịch và cả hoang phí nữa.”

      Piper nghi rằng thanh của dòng sông và giọng mơ màng của Achelous vẫn ảnh hưởng đến suy nghĩ của , nhưng thể đồng ý với ông thần sông. bắt đầu thấy ghét Hercules. Người-bò tội nghiệp này có vẻ buồn và đơn.

      Jason ngọ nguậy. “Xin lỗi, Achelous. , ông gặp phải chuyện rất khó chịu. Nhưng có lẽ…chà, nếu có cái sừng còn lại kia, ông bị ngoẹo cổ như vậy nữa. Có thể ông thấy dễ chịu hơn.”

      “Jason!” Piper gắt.

      Jason giơ hai tay lên. “Chỉ là ý nghĩ thôi mà. Hơn nữa, mình thấy bọn mình có mấy lựa chọn. Nếu Hercules có cái sừng đó, gã giết cả hai đứa mình và cả các bạn của bọn mình nữa.”

      “Cậu đây đúng đấy,” Achelous . “Hai người có lựa chọn nào. Tôi hi vọng quý vị thứ lỗi cho tôi vì điều đó.”

      Piper cau mày. Vị thần sông nghe có vẻ đau lòng, muốn vỗ vỗ đầu ông ta. “Thứ lỗi vì cái gì cơ?”

      “Ta cũng có lựa chọn nào cả,” Achelous . “Ta phải ngăn cậu lại.”

      Con sông nổ tung, và bức tường nước ập xuống đầu Piper.




      [1] Achelous: Theo truyền thuyết Hy Lạp, Achelous (Ἀχελῷος Achelōos) là vị thần bảo vệ dòng sông “xoáy bạc” Achelous-dòng sông lớn nhất Hy Lạp, và vì vậy, là thủ lĩnh của tất cả các thần bảo hộ sông suối ở Hy Lạp.

      [2] potamus hay potamos, tiếng Hy Lạp (ποταμός) có nghĩa là sông hay suối. Ở đây có nghĩa là thần sông.











      [3] Quốc Huy Tây Ban Nha:







      [4] cornucopia (tiếng Latin: cornu copiae): Chiếc sừng của dồi dào no đủ, thường có hình dạng chiếc sừng lớn chứa đầy các loại hoa quả, bánh kẹo, hạt, hoa và các thứ đồ ăn hoặc vài thứ đồ quý. Ở vùng Bắc Mỹ, chiếc sừng này còn được bày trong lễ Tạ Ơn. Theo truyền thuyết chiếc sừng này được tạo ra khi Hercules đấu với Achelous và bẻ gãy sừng ông ta.

      Vì từ cornucopia bắt đầu bằng “corn” nên Piper mới hỏi “what corn” tức ‘ngô gì?’, chuyển lại thành sung cho nó thuận ý chơi chữ của tác giả







      [5] Kalends of July: Kalend (hay Calend) là ngày đầu tiên trong tháng, ngày đầu tiên của tuần trăng trong lịch La Mã. Từ này cũng là nguồn gốc của từ calender (lịch) trong tiếng . Kalends Of July là những ngày đầu tháng Bảy. Ngày trong tháng được đếm từ các ngày trước đó đến các ngày Kalend (ngày trăng non đầu tháng), Nonae (ngày trăng bán nguyệt, khoảng ngày thứ 5-7 của tuần trăng) và Idus, ides (ngày trăng tròn).

      Kalend chỉ có trong lịch Latin chứ có trong lịch của người Hy Lạp, nên cụm từ “ad Kalendas Graecas” (đến ngày Kalend Hy Lạp) còn có nghĩa là ‘trì hoãn đến mãi mãi’, hoặc ‘ bao giờ’. Cụm từ này vẫn được dùng trong tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và nhiều ngôn ngữ hệ latin khác.

      [6] Mười hai kỳ công của Hercules: Theo lời nhà tiên tri tại Delphi, Heracles-Hercules bị buộc phải làm nô lệ cho Eurystheus và thực mười nhiệm vụ kỳ quái do Eurystheus cầu, nhằm chuộc lại lỗi giết vợ con của mình – hành động là kết quả của cơn điên do Hera gây nên. Sau khi thực xong,Eurystheus lật lọng và thừa nhận công dọn chuồng ngựa của Augeas vì chàng đòi Augeas trả công, và đánh bại con rắn Hydra vì chàng thực việc đó với giúp sức của Iolaus. bắt chàng thực thêm hai công việc nữa, vì thế đời sau thường gọi 12 kỳ công đó là 10 kỳ công của Heracles. 12 kỳ công đó gồm:







      Giết con sư tử ở Nemea





      Giết quái vật nhiều đầu Hydra







      Bắt con nai ở núi Cerynaea





      Bắt con lợn rừng ở núi Erymanthus







      Dọn chuồng ngựa của Augeas





      Giết đàn chim ở hồ Stymphale







      Bắt con bò mộng ở đảo Crete







      Bắt đàn ngựa cái của Diomede







      Lấy chiếc đai lưng của Hippolyte







      Đánh cắp đàn vịt của Geryon







      Trộm những quả táo vàng của các nàng Hesperides









      Và Bắt con chó Ceberus







      [7] Khi rước vợ về, phải qua 1 con sông, Hercules nhờ nhân mã này cõng nàng sang sông. Thấy nàng xinh đẹp, nhân mã nổi ý gian định bắt cóc nhưng bị Hercules dùng tên tẩm máu độc Hydra bắn chết. bảo Deianira hứng lấy máu chảy ra từ vết thương, dùng khi nào chồng nàng ngoại tình. Sau này Hercules hạ thành trì bắt được 1 nàng công chúa, Deianira ghen nên lấy máu nhân mã có thêm máu độc Hydra thấm vô lễ phục khiến da Hercules cong ra từng mảng, trơ thịt. Đau đớn chịu nổi, chàng cho người lập đàn hỏa thiêu. Ngay khi chết, Zeus cử cỗ xe ngựa vàng xuống đón linh hồn chàng lên Olympus, phong làm thần, lấy nữ thần thanh xuân Hebe.

      Cảnh nhân mã bắt nàng Deianira

















      The Mark of Athena _ Chương 28


      Piper


      DÒNG NƯỚC TÚM LẤY NHƯ NẮM ĐẤM và cuốn xuống đáy sâu của dòng sông. Đấu tranh là vô ích. ngậm chặt miệng, ép bản thân được hít thở, nhưng chỉ có thể ngăn mình hoảng loạn. thể nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoại trừ đám bong bóng. chỉ nghe thấy tiếng dồn dập và tiếng gầm ầm ĩ của thác ghềnh.

      chỉ vừa chắc mẩm đây là cách mình chết: chết đuối trong cái vụng nước hòn đảo tồn tại. , cũng đột ngột như lúc bị kéo xuống, bị đẩy mạnh lên mặt nước. nhận ra mình ở trung tâm xoáy nước, có thể thở nhưng thể thoát ra.

      Cách đó vài mét, Jason trồi lên khỏi mặt nước và thở gấp, tay cầm kiếm. Cậu vùng vẫy dữ dội, nhưng có gì để tấn công.

      Cách hai mươi bộ về phía bên phải của Piper, Achelous nổi lên từ mặt nước. “Ta xin lỗi về chuyện này,” ông ta .

      Jason lao về phía ông ta, triệu hồi gió để nâng cậu lên khỏi dòng sông, nhưng Achelous nhanh hơn và mạnh hơn. xoáy nước phóng thẳng vào Jason và ném cậu xuống lần nữa.

      “Dừng lại!” Piper hét lên.

      Sử dụng giọng mê hoặc dễ dàng khi lúng túng trong xoáy nước, nhưng thu hút chú ý của Achelous.

      “Ta e là thể,” vị thần sông . “Ta thể để Hercules có chiếc sừng khác của ta. Nó làm ta mất hết cả thể diện.”

      “Vẫn còn cách khác!” Piper . “Ông cần phải giết chúng tôi.”

      Jason ngoi lên mặt nước lần nữa theo cách của cậu. đám mây bão hình thành đầu cậu. Sấm sét đùng đoàng.

      phải thứ đó, con trai Jupiter,” Achelous quở trách. “Nếu cậu gọi sét, cậu chỉ làm điện giật bạn cậu.”

      Dòng nước kéo Jason xuống lần nữa.

      “Thả cậu ấy ra!” Piper đặt hết sức thuyết phục mà hội tụ được vào giọng . “Tôi hứa tôi để Hercules lấy cái sừng!”

      Achelous do dự. Ông ta chạy nước kiệu về phía , đầu ông nghiêng sang bên trái. “Ta tin có ý đó.”

      “Tôi có!” Piper hứa. “Hercules đáng khinh. Nhưng, làm ơn, hãy thả bạn tôi ra trước .”

      Nước cuộn xoáy quanh chỗ Jason chìm xuống. Piper muốn hét lên. Cậu có thể nhịn thở được bao lâu nữa?

      Achelous nhìn xuống qua hai tròng kiếng của mình. Vẻ mặt của ông ta dịu lại. “Ta hiểu rồi. là Deianira của ta. dâu bù đắp những mất mát của ta.”

      “Cái gì?” Piper chắc mình có nghe lầm hay . Xoáy nước làm đầu choáng váng. “Ừm, thực ra tôi nghĩ–”

      “À, ta hiểu,” Achelous . “ quá ngượng ngùng khi đề nghị điều này trước mặt bạn trai . đúng, tất nhiên. Ta đối xử với tốt hơn gã con trai của Zeus. Sau ngần ấy thế kỉ, ta có thể làm mọi việc đúng như ý muốn. Ta thể cứu Deianira, nhưng ta có thể cứu .”

      qua ba mươi giây? phút? Jason thể cầm cự lâu hơn nữa.

      để bạn bè hy sinh,” Achelous tiếp tục. “Hercules tức giận, nhưng ta có thể bảo vệ khỏi . Chúng ta có thể sống khá hạnh phúc cùng nhau. Hãy bắt đầu bằng việc để chàng Jason này chết đuối, được ?”

      Piper khó có thể cố thêm nữa, nhưng phải tập trung. che giấu nỗi sợ hãi và tức giận. là con của Aphrodite. phải sử dụng món quà được ban cho.

      mỉm cười ngọt ngào hết sức có thể và giơ tay lên. “Đỡ tôi dậy, làm ơn.”

      Khuôn mặt Achelous sáng lên. Ông ta chộp lấy tay Piper và kéo khỏi xoáy nước.

      chưa bao giờ cưỡi con bò trước đây, nhưng luyện tập cưỡi pegasus cần yên ngựa ở Trại Con Lai, nhớ điều cần phải làm. lấy đà, đu chân lên lưng Achelous. Sau đó kẹp chặt mắt cá chân quanh cổ ông ta, quấn tay quanh họng ông và tay còn lại rút con dao ra. ấn lưỡi dao dưới cằm của thần sông.

      “Thả – Jason – ra.” trút hết sức mạnh vào mệnh lệnh. “Ngay bây giờ!”

      Piper nhận ra có quá nhiều sai sót trong kế hoạch của . Vị thần sông có thể dễ dàng tan biến vào trong nước. Hoặc ông ta có thể kéo xuống và dìm chết đuối. Nhưng hình như là lời mê hoặc của có tác dụng. Hay có lẽ Achelous quá ngạc nhiên để hiểu chuyện gì xảy ra. Ông ta chắc quen với chuyện các xinh xắn đe dọa cắt cổ họng mình.

      Jason bị bắn ra khỏi dòng nước như quả đạn người[0]. Cậu phang gãy mấy nhành cây ô-liu và ngã nhào xuống đám cỏ. Cái đó hẳn là chẳng dễ chịu gì, nhưng cậu cố gắng đứng dậy, thở hổn hển và ho khan. Cậu giương kiếm lên, những đám mây đen tụ lại dày đặc dòng sông.

      Piper ném cho cậu cái nhìn cảnh báo: Chưa được. vẫn phải ra khỏi dòng sông mà bị chết đuối hay điện giật.

      Achelous cong lưng xuống như mưu tính thủ đoạn nào đó. Piper ấn mạnh con dao vào cổ ông.

      “Hãy là con bò ngoan,” cảnh báo.

      hứa,” Achelous qua kẽ răng. “ hứa để Hercules lấy sừng của ta.”

      “Và ta làm thế,” Piper . “Nhưng tôi làm.”

      giơ con dao và chém cái sừng của vị thần. Đồng Thiên Thai cắt ngang qua gốc như thể nó là đất sét ẩm. Achelous rống lên trong cơn thịnh nộ. Trước khi ông ta kịp hồi hồn, Piper đứng lên lưng ông ta. Với cái sừng trong tay và con dao găm trong tay còn lại, nhảy vào bờ.

      “Jason!” hét lên.

      Tạ ơn thần thánh, cậu hiểu. cơn gió mạnh bắt lấy và đưa vào bờ an toàn. Piper ngã xuống đất, lăn tròn khiến lông cổ dựng lên. Mùi kim loại tràn ngập trong khí. quay về hướng dòng sông đúng lúc khiến mắt lòa .

      BÙM! Sét khuấy vào nước thành cái vạc sôi, bốc hơi và kêu xì xì với dòng điện. Piper chớp chớp mắt để các đốm vàng biến khỏi mắt khi thần Achelous rên rĩ và hòa tan dưới mặt nước. Vẻ mặt kinh hoàng của ông ta như muốn hỏi: Sao có thể?

      “Jason, chạy!” vẫn còn chóng mặt và buồn nôn vì nỗi sợ hãi, nhưng và Jason vượt qua nguy hiểm.

      Khi trèo lên ngọn đồi, siết chặt cái sừng bò trong ngực , Piper nhận ra khóc nức nở – mặc dù là do sợ hãi, hay nhõm, hay là xấu hổ về những việc làm với vị thần sông. Họ trì hoãn lấy giây cho đến khi họ lên đến đỉnh ngọn đồi.

      Piper cảm thấy ngớ ngẩn, nhưng cứ tiếp tục khóc khi với Jason những điều xảy ra lúc cậu vùng vẫy dưới nước.

      “Piper, cậu lựa chọn.” Cậu đặt tay lên vai . “Cậu cứu mình.”

      lau nước mắt và cố gắng kiểm soát bản thân. Mặt trời đến gần đường chân trời. Họ phải nhanh chóng quay lại chỗ Hercules, nếu bạn họ chết.

      “Achelous ép buộc cậu,” Jason tiếp. “Hơn nữa, mình nghi ngờ việc tia sét giết được ông ta. Ông ta là vị thần cổ xưa. Cậu phải hủy diệt dòng sông nếu muốn giết ông ta. Và ông ta có thể sống mà cần sừng. Nếu cậu phải dối về việc đưa nó cho Hercules, chuyện đó–”

      “Mình dối.”

      Jason nhìn chằm chằm. “Pipes…chúng ta lựa chọn. Hercules giết–”

      “Hercules xứng đáng có thứ này.” Piper chắc tức giận đến từ đâu, nhưng chưa từng cảm thấy bất cứ điều gì chắc chắn hơn điều này trong đời mình.

      Hercules đúng là kẻ ngu ngốc, ích kỷ. tổn thương quá nhiều người và muốn tiếp tục tổn thương họ. Có lẽ có vài vận xui. Có lẽ các vị thần đối xử tốt với . Nhưng chuyện đó thể bào chữa cho . Người hùng thể điều khiển các vị thần, nhưng có thể kiểm soát bản thân mình.

      Jason bao giờ như thế. Cậu bao giờ đổ lỗi cho người khác vì vấn đề của cậu hoặc cho rằng hận thù quan trọng hơn những điều đúng đắn.

      Piper nhắc đến câu chuyện về Deianira. tiếp tục làm những điều Hercules muốn chỉ vì ta đẹp trai, mạnh mẽ và đáng sợ. Lần này, thể làm theo cách của mình nữa – phải sau khi đe dọa giết họ và bắt họ đến đây để làm cho Achelous khốn khổ vì mục đích lăng mạ Hera. Hercules xứng đáng có chiếc sừng sung túc. Piper phải đưa trở về đúng vị trí của mình.

      “Mình có kế hoạch,” .

      với Jason việc phải làm. thậm chí nhận ra sử dụng lời mê hoặc cho đến khi mắt cậu đờ đẫn .

      “Bất cứ điều gì cậu ,” cậu hứa. Sau đó chớp mắt vài lần. “Chúng ta phải chết, nhưng mình tham gia.”

      Hercules đợi ngay nơi họ bỏ . Gã nhìn chằm chằm vào tàu Argo II, cập bến giữa những cột đá khi mặt trời lặn xuống phía sau. Con tàu trông vẫn ổn, nhưng bắt đầu cảm thấy kế hoạch của có chút điên rồ.

      Quá muộn để xem xét lại. gửi thông điệp Iris cho Leo. Jason chuẩn bị. Và, khi nhìn thấy Hercules lần nữa, cảm thấy chắc chắn hơn bao giờ hết rằng thể đưa thứ muốn.

      Hercules thực vui mừng khi nhìn thấy Piper mang theo cái sừng bò, nhưng nét cau có của giảm .

      “Tốt,” . “ có nó. Trong trường hợp này, có thể .”

      Piper liếc nhìn Jason. “Cậu nghe . ta cho phép chúng ta.” quay lại vị thần. “Có nghĩa là tàu của chúng tôi có thể vào Địa Trung Hải?”

      “Đúng, đúng.” Hercules búng tay. “Còn bây giờ, đưa cái sừng đây.”

      ,” Piper .

      Vị thần cau mày. “Gì cơ?”

      nâng lên chiếc sừng sung túc. Từ khi cắt nó khỏi đầu của Achelous, cái sừng vốn rỗng tuếch, trở nên mịn màng và tối đen ở bên trong. Ma thuật xuất , nhưng Piper vẫn tin vào sức mạnh của nó.

      “Achelous đúng,” . “ là tai ương của ông ta cũng như ông ta là tai ương của . hùng như quả là sai lầm đáng tiếc.”

      Hercules nhìn chằm chằm như thể bằng tiếng Nhật. “ hiểu ta có thể giết chỉ bằng cái búng tay,” gã . “Ta có thể ném cây gậy của ta lên thuyền của mấy người và cắt ngang thân tàu. Ta có thể–”

      có thể câm miệng lại,” Jason . Cậu rút kiếm ra. “Có lẽ Zeus đúng là khác với Jupiter. Bởi vì tôi chịu đựng được việc có người em hành xử như .”

      Các đường gân cổ Hercules trở nên tím ngắt như màu áo choàng của ta. “Cậu phải á thần đầu tiên ta giết đâu.”

      “Jason giỏi hơn ,” Piper . “Nhưng đừng quá lo lắng. Chúng tôi có ý định đánh nhau với . Chúng tôi rời khỏi hòn đảo với chiếc sừng. xứng đáng có món quà như nó. Tôi giữ nó, để nhắc nhở là á thần được hành động thế nào và để nhắc nhở mình về Achelous và Deianira đáng thương.”

      Mũi của vị thần phồng lên. “Đừng nhắc tới cái tên đó! đừng nên nghiêm túc cho là ta lo lắng về gã bạn trai bé của . ai mạnh hơn ta.”

      “Tôi mạnh hơn,” Piper sửa lại. “Tôi cậu ấy giỏi hơn.”

      Piper chĩa lỗ hổng của chiếc sừng về phía Hercules. bỏ qua oán hận, nghi ngờ và giận dữ mà nuôi dưỡng từ khi ở trại Jupiter. tập trung về tất cả những điều tốt đẹp chia sẻ cùng Jason Grace: bay lên từ hẻm núi Grand Canyon, dạo bãi biển ở Trại Con Lai, nắm tay cùng nhau hát và ngắm sao, cùng nhau ngồi cánh đồng dâu tây vào những buổi chiều lười nhác và nghe thần rừng thổi sáo.

      nghĩ tới tương lai khi mà bọn khổng lồ bị tiêu diệt, Gaea vẫn chìm trong giấc ngủ và họ sống hạnh phúc cùng nhau – có đố kỵ, có quái vật để chiến đấu. lấp đầy tâm hồn mình với những ý nghĩ đó, và cảm thấy chiếc sừng sung túc ấm lên.

      Chiếc sừng phun ra dòng lũ thức ăn mạnh mẽ như dòng sông của Achelous. tràng trái cây tươi, bánh nướng và giăm bông hun khói hoàn toàn nhấn chìm Hercules. Piper hiểu bằng cách nào mà tất cả thứ đó có thể lọt qua lổ hổng của cái sừng, nhưng nghĩ giăm bông đặc biệt vừa vặn.

      Khi nó tuôn ra đủ các thứ để lấp đầy cả căn nhà, cái sừng đóng lại. Piper nghe tiếng Hercules rít lên và vật lộn ở đâu đó bên dưới. ràng thậm chí cả vị thần mạnh nhất thế giới cũng có thể mất cảnh giác khi bị chôn vùi dưới những món hàng tươi mới.

      !” với Jason, người quên mất vai trò của mình trong kế hoạch và kinh ngạc nhìn chằm chằm vào đống trái cây. “ thôi!”

      Cậu ôm lấy eo của Piper và triệu hồi những cơn gió. Họ bay khỏi hòn đảo rất nhanh, Piper gần như bị vẹo cổ, nhưng như thế quá sớm dù chỉ hơn giây.

      Khi hòn đảo lui khỏi tầm nhìn, đầu Hercules trồi lên đống hàng hóa. Nửa trái dừa mắc đầu gã như mũ sắt. “Giết!” gầm lên, như thể ta luyện tập câu này rất nhiều lần.

      Jason đáp xuống boong tàu Argo II. Rất may, Leo hoàn thành nhiệm vụ của cậu. Mái chèo của tàu được thiết lập ở chế độ . Neo được kéo lên. Jason triệu hồi cơn bão rất mạnh, nó đẩy họ lên trời, trong khi Percy truyền cơn sóng cao-mười-bộ- vào bờ, đánh ngã Hercules lần thứ hai, trong thác nước biển và dứa.

      Lúc vị thần lấy lại thăng bằng và bắt đầu ném mấy trái dừa về phía họ từ rất xa bên dưới, tàu Argo II chèo xuyên qua những đám mây phía Địa Trung Hải.




      [0] Đạn người/ Human cannonball là màn trình diễn người được bắn ra từ khẩu pháo được thiết kế đặc biệt. Động cơ cung cấp phải bằng thuốc súng, mà nhờ vào dòng khí nén.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :