Các Anh hùng trên đỉnh Olypus tập 3: Dấu Hiệu Athena-Rick Riordan

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 12
      Piper

      PIPER THỂ GIẢI THÍCH LÀM SAO BIẾT ĐƯỢC ĐIỀU ĐÓ.

      Những câu chuyện về bóng ma và những linh hồn bị tra tấn luôn làm khiếp vía. Cha từng trêu bằng những truyền thuyết cherokee của ông nội Tom hồi còn ở khu đất riêng cho người da đỏ, nhưng ngay cả khi ở nhà trong căn biệt thự lớn của họ ở Malibu, nhìn ra Thái Bình dương, cứ mỗi lần cha kể lại những câu chuyện ma đó, lại thể xua chúng ra khỏi đầu.

      Những hồn ma Cherokee luôn vật vã. Họ thường lạc lối con đường tới Miền cực lạc, hay ở lại với những người sống đơn giản chỉ vì họ cứng đầu. Đôi khi họ thậm chí còn nhận ra rằng mình chết.

      Càng hiểu biết thêm về thân phận á thần, Piper càng thấy bị thuyết phục rằng giữa truyền thuyết Cherokee và thần thoại Hy Lạp có nhiều khác biệt là mấy. Những eidolon kia hành xử rất giống những linh hồn trong các câu chuyện cha kể.

      Piper có linh cảm rằng chúng vẫn còn diện, đơn giản bởi vì vẫn chưa có ai bảo chúng rời .

      Khi giải thích xong, những người khác lo lắng nhìn . boong tàu, HLV Hedge hát bài gì đó kiểu như “Trong hải quân” trong khi Blackjack gõ móng xuống sàn và hí lên phản đối.

      Hazel hít sâu. “Piper đúng.”

      “Làm sao em chắc được?” Annabeth hỏi.

      “Em từng gặp các eidolon rồi,” Hazel đáp. “Dưới phủ, hồi em… mọi người biết đấy.”

      Chết.

      Piper quên mất Hazel là người-sống-hai-lần. Hazel cũng là hồn ma tái sinh, theo cách riêng của ấy.

      “Vậy…” Frank xoa xoa quả đầu cua của cậu như thể con ma nào có thể xâm nhập vào óc cậu vậy. “Cậu nghĩ mấy thứ đó lẩn khuất con tàu, hay -”

      “Rất có khả năng là ở vài người trong số chúng ta.” Piper . “Ta biết được.”

      Jason siết chặt nắm đấm. “Nếu đúng là như vậy -”

      “Bọn mình phải làm từng bước .” Piper . “Mình nghĩ mình có thể làm được.”

      “Làm gì cơ?” Percy thắc mắc.

      “Chỉ cần lắng nghe thôi, được ?” Piper hít vào hơi sâu. “Mọi người nghe này.”

      Piper nhìn vào mắt mọi người, từng người .

      “Các eidolon”, , dùng giọng ma thuật của mình. “Hãy giơ tay lên.”

      im lặng nặng nề ngự trị.

      Leo cười lo lắng. “Cậu nghĩ cái đó -”

      Giọng của cậu tắt lịm. Khuôn mặt cậu trở nên trống rỗng vô hồn. Cậu giơ tay lên.

      Percy và Jason cũng làm tương tự. Mắt của họ chuyển sang màu vàng trống rỗng. Hazel thở dốc. Bên cạnh Leo, Frank nhào ra khỏi ghế và dán sát vào tường.

      “Ôi, thần thánh ơi.” Annabeth khẩn nài nhìn Piper. “Cậu có thể giải thoát cho bọn họ ?”

      Piper muốn chui xuống gầm bàn mà rên. Nhưng phải giúp Jason. thể tin nổi mình nắm tay , từ chối nghĩ về chuyện đó.

      tập trung vào Leo vì trông cậu ít đáng sợ nhất.

      “Có còn ai khác trong số các người ở con tàu này ?” hỏi.

      .” Leo bằng thứ giọng mơ hồ. “Mẹ Đất chỉ phái ba người. Những kẻ mạnh nhất, những kẻ giỏi nhất. Chúng ta tái sinh.”

      phải ở đây, các ngươi làm vậy.” Piper gầm gừ. “Cả ba ngươi, hãy nghe cho kĩ.”

      Percy và Jason quay về phía . Những cặp mắt vàng khiến người ta e sợ, nhưng nhìn thấy ba cậu bạn như vậy lại châm ngòi cơn giận của Piper.

      “Các ngươi rời khỏi những thân xác này.” ra lệnh.

      .” Percy .

      Leo nhả ra tiếng rít . “Chúng ta phải sống.”

      Frank dò dẫm lấy cây cung của mình. “Mars Quyền năng, điều đó ghê tởm! Cút khỏi đây, đám ma mãnh kia! Để bạn chúng ta được yên!”

      Leo quay sang phía cậu ta. “Ngươi thể ra lệnh cho chúng ta, đứa con của chiến tranh. Mạng sống của chính ngươi cũng rất mỏng manh. Linh hồn ngươi có thể cháy rụi bất cứ khi nào.”

      Piper chắc cái đó có ý nghĩa gì, nhưng Frank lùi lại như thể cậu bị thụi cú vào bụng. Cậu lên dây mũi tên, hai tay run rẩy. “Ta-ta từng đối mặt với nhiều thứ còn tệ hơn các ngươi nhiều. Nếu các ngươi muốn đấu-”

      “Frank, đừng.” Hazel bật dậy.

      Bên cạnh , Jason rút kiếm ra.

      “Ngừng lại.” Piper ra lệnh, nhưng giọng của run run. nhanh chóng mất lòng tin vào kế hoạch của mình. bắt đám eidolon lộ mặt. Nhưng rồi sao nữa? Nếu thể thuyết phục chúng rời , bất kì đổ máu nào cũng là lỗi của . có thể nghe thấy tiếng cười nhạo của Gaea văng vẳng trong đầu.

      “Hãy nghe theo lời Piper.” Hazel chỉ vào thanh kiếm của Jason, Lưỡi kiếm vàng trong tay cậu dường như trở nên nặng hơn. Nó rơi mạnh xuống bàn và Jason ngã thụp xuống lại cái ghế của cậu.

      Percy gầm gừ theo cách rất--giống-Percy, “Con Pluto, ngươi có thể điều khiển được đá quý và kim loại, nhưng ngươi thể điều khiển được những kẻ chết.”

      Annabeth vươn về phía cậu như thể muốn kiềm chế cậu, nhưng Hazel vẫy tay ngăn lại.

      “Hãy nghe đây, các eidolon,” cứng rắn . “Các ngươi thuộc về nơi này. Ta thể ra lệnh cho các ngươi, nhưng Piper có thể. Hãy vâng lời ấy.”

      quay sang Piper, vẻ mặt viết ràng: Thử lại lần nữa . Cậu làm được mà.

      Piper gom hết can đảm. nhìn thẳng vào Jason-thẳng vào mắt của thứ khống chế cậu. “Các ngươi rời khỏi những thân xác này.” Piper nhắc lại, mạnh mẽ hơn cả lần trước.

      Mặt Jason cứng lại. Trán cậu đầy mồ hôi. “Chúng ta-chúng ta rời khỏi những thân xác này.”

      “Các ngươi thề trước sông Styx[1] rằng bao giờ trở lại con tàu này,” Piper tiếp tục, “và bao giờ nhập vào bất kì ai trong nhóm người ở đây nữa.”

      Cả Leo và Percy đều rít lên phản đối.

      “Các ngươi hứa trước sông Styx.” Piper nhấn mạnh.

      giây phút căng thẳng- có thể cảm thấy ý chí của chúng cố kháng cự lại mình. Rồi cả ba eidolon đồng thanh “Chúng ta thề trước sông Styx.”

      “Các ngươi chết.” Piper .

      “Chúng ta chết.” chúng đồng ý.

      “Giờ , hãy .”

      Cả ba cậu con trai ngã nhào về phía trước. Percy gục mặt vào miếng pizza của cậu.

      “Percy!” Annabeth giữ lấy cậu.

      Piper và Hazel tóm được tay Jason ngay lúc cậu tuột khỏi cái ghế của mình.

      Leo được may mắn như vậy. Cậu đổ về phía Frank, người chẳng buồn bỏ công đỡ cậu. Leo được thân ái hôn sàn tàu.

      “Au!” cậu rên rẩm.

      sao chứ?” Hazel hỏi.

      Leo chống tay ngồi dậy, trán cậu dính sợi mì spaghetty uốn theo hình số 3. “Có hiệu quả ?”

      “Có.” Piper , khá chắc là mình đúng. “Mình nghĩ chúng quay lại nữa.”

      Jason chớp mắt. “Vậy có nghĩa là mình thôi bị vỡ đầu nữa hả?”

      Piper cười, xả hết lo lắng ra khỏi lồng ngực. “ thôi, Cậu bé tia chớp. hít thở ít khí trong lành nào.”

      Piper và Jason qua lại boong tàu. Jason vẫn hơi khập khiễng, vì vậy Piper khuyến khích cậu vòng tay qua người lấy chỗ dựa.

      Leo đứng ở chỗ bánh lái, bàn bạc với Festus qua hệ thống liên lạc nội bộ; bằng kinh nghiệm, cậu hiểu là nên để Piper và Jason được riêng tư. Vì chảo vệ tinh được sửa lại, HLV Hedge ở trong cabin của mình, sung sướng và hạnh phúc theo dõi mấy trận đấu võ thuật tổng hợp[2] của thầy. Blackjack, con pegasus của Percy, bay mất dạng đâu đó. Các á thần khác chuẩn bị ngủ.

      Tàu Argo II lao về phía tây, lơ lửng cách mặt đất khoảng vài trăm bộ. Phía dưới họ, các thị trấn trôi qua như những hòn đảo được thắp sáng trong biển cỏ đen ngòm.

      Piper nhớ đến mùa đông năm trước, khi bay mình rồng Festus qua thành phố Quebec. chưa từng thấy thứ gì đẹp hơn hay cảm thấy hạnh phúc hơn trong vòng tay Jason thế – mà lúc này đây còn tuyệt hơn.

      Đêm ấm áp. Con tàu lướt còn êm hơn con rồng. Và tuyệt hơn cả, họ rời khỏi Trại Jupiter nhanh nhất có thể. Dù cho vùng đất cổ xưa kia nguy hiểm tới mức nào, Piper vẫn nôn nóng mong tới được đó. hy vọng Jason đúng về chuyện những người La Mã đuổi theo họ qua Đại Tây Dương.

      Jason dừng lại giữa boong tàu và tựa vào thành lan can. Ánh trăng nhuộm mái tóc vàng của cậu thành ánh bạc.

      “Cám ơn cậu, Piper,” cậu . “Cậu lại cứu mình lần nữa.”

      Cậu vòng tay qua eo . nhớ lại lần họ rơi xuống Grand Canyon[3] - lần đầu tiên biết được Jason có thể điều khiển khí. Khi đó cậu ôm chặt đến nỗi có thể nghe tiếng tim cậu đập. Rồi họ ngừng rơi và bồng bềnh giữa trung. Bạn. Trai. Tuyệt. Nhất. Trần. Đời.

      muốn hôn cậu ngay bây giờ. Nhưng có gì đó ngăn lại.

      “Mình biết liệu Percy có còn tin mình nữa.” . “Sau khi mình để cho ngựa cậu ấy quật ngã cậu ấy như thế.”

      Jason bật cười. “Đừng lo về chuyện đó. Percy là gã tử tế, nhưng mình cảm thấy thỉnh thoảng cậu ta cũng cần được táng cho cú vào đầu.”

      “Suýt nữa cậu giết cậu ấy.”

      Nụ cười của Jason héo . “Đó phải là mình.”

      “Nhưng mình suýt nữa để cậu làm vậy.” Piper . “Khi Gaea mình phải chọn người, mình do dự và…”

      chớp mắt, thầm rủa mình vì khóc.

      “Đừng quá khắc nghiệt với bản thân.” Jason . “Cậu cứu cả hai bọn mình.”

      “Nhưng nếu thực có hai người trong chúng ta phải chết, nam và nữ__”

      “Mình chấp nhận chuyện đó. Bọn mình ngăn Gaea lại. Cả bảy người chúng ta đều sống sót trở về. Mình hứa với cậu như vậy.”

      Piper ước gì cậu hứa. Từ đó chỉ khiến nhớ đến Lời tiên tri về Nhóm bảy: lời thề phải giữ đến hơi thở cuối cùng.

      Làm ơn, nghĩ, tự hỏi liệu mẹ , nữ thần tình , có nghe thấy hay . Xin đừng để đó là hơi thở cuối cùng của Jason. Nếu tình có ý nghĩa hơn hết thảy, xin đừng mang cậu ấy .

      Ngay khi ước nguyện xong, lại cảm thấy tội lỗi. Làm sao có thể nhìn Annabeth chịu đựng nỗi đau tương tự nếu Percy chết ? Làm sao có thể sống thanh thản nếubất kì người nào trong số bảy á thần chết ? Mỗi người trong số họ đều phải chịu đựng quá nhiều rồi. Ngay cả hai nhóc người La Mã mới đến, Hazel và Frank, người Piper chẳng hiểu là bao, cũng có cảm giác như người thân. Ở Trại Jupiter, Jason kể lại chuyến của họ tới Alaska, cũng đau đớn kém những gì Piper từng trải qua. Và theo cách Hazel với Frank cố giúp đỡ lúc trục xuất lũ ma mãnh, có thể thấy họ là những người tốt bụng và dũng cảm.

      “Cái truyền thuyết mà Annabeth nhắc đến,” , “về Dấu hiệu Athena… sao cậu lại muốn về điều đó?”

      sợ rằng Jason có thể giữ kín luôn cả với , nhưng cậu chỉ cúi đầu như thể cậu chờ câu hỏi đó. “Piper, mình biết cái gì và cái gì giả. Truyền thuyết đó…nó có thể rất nguy hiểm.”

      “Với ai cơ?”

      “Với tất cả chúng ta.” cậu dứt khoát . “Chuyện kể rằng người La Mã từng trộm thứ vô cùng quan trọng của người Hy Lạp, vào thời xa xưa, khi người La Mã chinh phạt các thành phố Hy Lạp.”

      Piper đợi nghe tiếp, nhưng Jason có vẻ như chìm đắm trong suy nghĩ.

      “Họ lấy cắp thứ gì vậy?” hỏi.

      “Mình biết.” Cậu đáp. “Mình chắc bất kì ai trong quân đoàn La Mã biết được điều này. Nhưng theo như chuyện kể, thứ này được trộm mang tới Rome và giấu ở đó. Con cái Athena, những á thần Hy Lạp, luôn ghét bọn mình kể từ đó. Họ luôn xúi giục các đạo hữu của mình chống lại người La Mã. Như mình , mình biết bao nhiêu phần trong đó là -”

      “Nhưng sao cậu cho Annabeth?” Piper hỏi. “Cậu ấy tự dưng đâm ra ghét cậu vì chuyện đó.”

      Cậu có vẻ gặp khó khăn trong việc tập trung vào . “Mình mong là vậy. Nhưng truyền thuyết đó rằng những người con của Athena kiếm tìm nó qua hàng bao thiên niên kỉ rồi. Cứ mỗi thế hệ, vị nữ thần lại chọn ra vài người để thực nhiệm vụ đó. Có vẻ như, họ được dẫn đường tới Rome bởi vài kí hiệu…Dấu Hiệu Athena.”

      “Nếu Annabeth là trong những người kiếm tìm đó… bọn mình nên giúp cậu ấy.”

      Jason ngần ngừ. “Có lẽ. Khi nào bọn mình gần đến Rome, mình kể cho ấy những gì ít ỏi mà mình biết. cách trung thực. Nhưng câu chuyện, ít nhất là theo những gì mình nghe được – lên rằng nếu người Hy Lạp biết họ bị trộm mất cái gì, họ bao giờ tha thứ cho người La Mã bọn mình. Họ tiêu diệt cả binh đoàn lẫn thành Rome, lần và mãi mãi. Sau những gì Nemesis với Leo, về chuyện Rome bị phá hủy trong năm ngày nữa…”

      Piper chăm chú quan sát nét mặt của Jason. Cậu, còn nghi ngờ gì nữa, là người dũng cảm nhất từng biết, nhưng nhận ra rằng cậu lo sợ. Cái truyền thuyết này – ý nghĩ rằng nó có thể chia rẽ nhóm bọn họ và san bằng cả thành phố – khiến cho cậu hoàn toàn khiếp vía.

      Piper thắc mắc cái gì bị trộm khỏi tay những người Hy Lạp mà lại có thể quan trọng đến vậy. thể tưởng tượng nổi có cái gì có thể khiến Annabeth bỗng dưng trở nên thù hằn.

      Nhưng rồi, Piper cũng chưa từng tưởng tượng rằng mình có thể chọn giữ mạng sống của á thần thay vì của á thần khác đấy thôi, vậy mà hôm nay con đường hoang vắng đó, chỉ trong giât lát, Gaea suýt nữa dụ dỗ được làm vậy…

      “Nhân tiện, mình xin lỗi,” Jason .

      “Xin lỗi vì cái gì cơ? Là bọn eidolon tấn công chứ-”

      phải vì chuyện đó.” Vết sẹo ở môi Jason dường như sáng trắng lên trong ánh trăng. Piper luôn vết sẹo đấy. Khiếm khuyết nho đó khiến cho khuôn mặt cậu trở nên thú vị hơn rất nhiều.

      “Mình đần khi bảo cậu liên lạc với Reyna.” cậu . “Mình chẳng suy nghĩ gì cả.”

      “Ồ.” Piper nhìn lên những đám mây và tự hỏi có phải mẹ , Aphrodite, ảnh hưởng lên cậu kiểu gì đó hay . Lời xin lỗi của cậu quá tuyệt để có thể là .

      Nhưng đừng ngừng lại, Piper nghĩ. “ tình, cái đó sao đâu mà.”

      “Chỉ là…mình chưa từng có cảm giác kiểu đấy với Reyna,” Jason , “vậy nên mình hề nghĩ đến chuyện nó làm cậu thoải mái. Cậu có gì phải lo lắng cả, Pipes.”

      “Mình muốn ghét ấy,” Piper thừa nhận. “Mình rất sợ cậu quay về Trại Jupiter.”

      Trông Jason có vẻ ngạc nhiên. “Chuyện đó bao giờ xảy ra cả. Trừ phi cậu với mình. Mình hứa đấy.”

      Piper nắm tay cậu, cố nặn ra được nụ cười, nhưng lại nghĩ: Lại lời hứa nữa. lời thề phải giữ đến hơi thở cuối cùng.

      cố xua mấy ý nghĩ đó ra khỏi đầu. biết nên tận hưởng giây phút bình yên này với Jason. Nhưng khi nhìn xuống qua mạn tàu, thể ngăn mình nhớ lại thảo nguyên dưới kia vào ban đêm trông giống làn nước đen nhấn chìm họ trong cảnh tượng mà thấy lưỡi dao của mình đến thế nào.

      [1] sông Styx: Trong thần thoại Hy Lạp, Styx (tiếng Hi Lạp: Στυξ) là con sông tạo nên ranh giới giữa trần gian và phủ – thế giới thuộc quyền cai trị của thần Hades. Nữ thần sông Styx là con của thần hải dương Oceanus (hay Okeanos). Theo thần thoại Hi Lạp, con sông này bao quanh thế giới của thần Hades 9 vòng. Dù bất cứ ai người , thần hay quái vật thề với sông này là ko bao giờ có thể phá bỏ lời thề. (ảnh đầu bài)
      [2] Mix Martial Art, là môn võ tự do mang tính đối kháng toàn diện. Khi thi đấu môn này cho phép đấm, đá, vật …. Mục đích của MMA là tìm ra kỹ năng chiến đấu hoàn hảo nhất từ những môn võ khác nhau thế giới. Trong MMA, người ta có thể thấy những võ sĩ xuất thân từ những môn võ khác nhau như: đấu vật, Quyền , Muay Thái, Judo … Đây là môn võ thực dụng, cho phép sử dụng tất cả các đòn thế từ các võ phái khác nhau, miễn là đánh bại đối phương.
      Các bạn có thể xem phim Warrior để tìm hiểu thêm.


      [3] Hẻm Núi Lớn (Grand Canyon): Là khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở bang Arizona, Hoa Kì. Dài 446 km, rộng từ 0,4 đến 24 km và sâu hơn 1600 m, hẻm núi này gần như nằm trọn trong Vườn quốc gia Grand Canyon– trong những vườn quốc gia đầu tiên của Hoa Kì.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 13
      Percy

      QUÊN XỪ NÓ MẤY CÁI MÀN KHÓI MÙI GÀ NUGGET . Percy chỉ muốn Leo phát minh ra cái mũ chống-mơ thôi.

      Đêm đó cậu có những cơn ác mộng kinh hoàng. Lúc đầu, cậu mơ mình trở lại Alaska trong cuộc tìm kiếm con đại bàng của quân đoàn. Cậu cuốc bộ dọc đường núi, nhưng ngay khi cậu bước chệch khỏi lề đường bị nuốt chửng bởi vũng lầy__hố bùn. Hazel gọi thế. Cậu thấy mình chết ngạt giữa đống bùn, thể cử động cũng chẳng thấy gì hay thở được nữa. Lần đầu tiên trong đời cậu hiểu được chết chìm là như thế nào.

      Chỉ là giấc mơ thôi, cậu tự nhủ. Mình tỉnh lại.

      Nhưng việc đó làm nó bớt khủng khiếp chút nào.

      Percy chưa bao giờ sợ nước. Nó là quyền năng của cha cậu. Nhưng từ khi trải qua việc bị chìm dưới hố bùn, cậu thấy sợ bị nghẹt thở. Cậu bao giờ có thể thừa nhận điều này với bất cứ ai, nhưng nó khiến cậu căng thẳng mỗi khi trong nước. Cậu biết thế đần. Cậu chết đuối được. Nhưng cậu cũng ngờ rằng nếu cậu thể kiểm soát nỗi sợ bắt đầu kiểm soát cậu.

      Cậu nghĩ về bạn mình Thalia, người rất sợ độ cao dù là con của vị thần cai quản bầu trời. Em trai , Jason, có thể bay bằng cách triệu hồi gió. Thalia làm được, có lẽ bởi quá sợ dám thử. Nếu Percy bắt đầu tin mình có thể chết đuối…

      Bùn lại ép chặt ngực cậu. Phổi cậu muốn vỡ tung.

      Đừng sợ nữa, cậu tự nhủ. phải đâu.

      Chỉ khi cậu thể nín thở lâu thêm nữa, cảnh mộng mới thay đổi.

      Cậu đứng ở nơi rộng lớn ảm đạm như gara đỗ xe ngầm. Các dãy cột đá chạy theo mọi hướng, giữ vững trần nhà cao tầm hai mươi feet phía . Những lò than giá đỡ[1] hắt thứ ánh sáng đo đỏ mờ mờ xuống sàn nhà.

      Percy nhìn được xa lắm trong bóng tối nhưng thấy có hệ thống ròng rọc, những túi cát và từng hàng đèn sân khấu còn tối thui thui treo trần nhà. Chất đống quanh phòng là những thùng gỗ dán nhãn: ĐẠO CỤ, VŨ KHÍ và PHỤC TRANG. cái ghi: DÀN PHÓNG TÊN LỬA ĐA NĂNG.

      Percy nghe thấy tiếng máy móc cót két trong bóng tối, tiếng bánh răng khổng lồ vận hành và tiếng nước chảy cuồn cuộn trong đường ống.

      Rồi cậu thấy tên khổng lồ…hay ít nhất Percy đoán gã là tên khổng lồ.

      Gã cao khoảng mười hai bộ (3.7m)__một chiều cao đáng ngưỡng mộ đối với Cyclops[2] nhưng chỉ cao bằng nửa số khổng lồ khác Percy từng đối mặt. Gã cũng trông giống người hơn tên khổng lồ điển hình, vì có chân rồng giống các họ hàng khác của mình. Tuy thế, mái tóc dài màu tím của gã được bện thành những lọn dài hình đuôi ngựa [3], đan cài các đồng tiền vàng và bạc gây ấn tượng ngay với Percy về kiểu tóc rất khổng lồ. Gã giắt cây giáo tầm mười bộ (3m)__một thứ vũ khí cũng rất khổng lồ.

      Gã vận áo cao cổ màu đen bự nhất mà Percy từng thấy rồi quần đen cùng đôi giày da đen với mũi giày quá dài và cong, có khi là giày của mấy chú hề. Gã tới lui trước bậc thềm cao, kiểm tra cái hạp bằng đồng to cỡ Percy.

      , , ,” tên khổng lồ lẩm bẩm mình. “Gây giật gân thế nào? Tác dụng ra sao?” Gã réo vào bóng tối, “Otis!”

      Percy nghe thấy thứ gì đó lê bước phía xa xa. tên khổng lồ khác bước ra từ bóng tối. mặc bộ đồ đen y hệt, giống đến cả cái giày mũi cong. Điểm khác biệt duy nhất giữa hai tên khổng lồ là tóc tên thứ hai có vẻ xanh nhiều hơn là tím.

      Tên khổng lồ thứ nhất nguyền rủa. “Qtis, sao ngày nào mày cũng làm thế với tao? Tao bảo mày là tao mặc áo cao cổ màu đen hôm nay cơ mà. Mày mặc gì cũng được trừ áo cao cổ đen ra!”

      Otis chớp chớp mắt như gã vừa mới tỉnh ngủ. “Tao tưởng hôm nay mày mặc toga vàng cơ.”

      “Là hôm qua! Khi mày cũng diện chiếc toga vàng!”

      “Ồ. Phải rồi. Xin lỗi mày, Ephie.”

      Thằng gã gầm gừ. Bọn chúng chắc là song sinh vì hai khuôn mặt xấu y chang.

      “Và đừng gọi tao là Ephie,” Ephie cầu. “Gọi tao là Ephialtes. Đó mới là tên tao. Hay mày dùng nghệ danh của tao cũng được: F BỰ!” [4]

      Otis nhăn nhó. “Tao vẫn chắc cái nghệ danh đó hay cho lắm đâu.”

      “Vớ vẩn! Nó hoàn mỹ. Giờ chuẩn bị tới đâu rồi?”

      “Ổn.” Otis nghe nhiệt tình cho lắm. “Con hổ ăn thịt người, các lưỡi cưa tròn[5]…Nhưng tao vẫn thấy thêm lấy vài nữ vũ công ba lê tuyệt lắm.”

      vũ công gì sất!” Ephialtes ngắt lời. “Và thứ này.” Gã vẫy tay về phía cái hạp đồng vẻ kinh tởm. “Nó để làm gì? Chả hay gì hết.”

      “Nhưng đó là toàn bộ mục đích của buổi diễn. Nó chết trừ khi mấy đứa khác tới cứu nó. Và nếu chúng tới đúng lịch trình__”

      “Ồ, chúng nên làm thế!” Ephialtes bảo. “Ngày đầy tiên Tháng Bảy[*], Kalends của tháng bảy, ngày tôn vinh Juno. Đó là khi Mẹ muốn tiêu diệt lũ á thần ngu độn kia vàthực văng cái tát vào mặt Juno. Thêm nữa, tao trả tiền làm ngoài giờ cho lũ ma giác đấu kia đâu!”

      “Ờ, lúc đó chúng cũng chết hết rồi mà,” Otis , “và chúng ta bắt đầu tàn phá Rome. Như ý Mẹ muốn. Nó cực kì hoàn hảo. Đám đông thích mê. Bọn ma La Mã sùng bái kiểu này lắm.”

      Ephialtes trông chả mấy tin tưởng. “Nhưng cái hạp cứ ì ra kia. Chúng ta thể tạm treo nó lên ngọn lửa hay làm tan chảy nó trong cái hồ axit gì gì đó sao?”

      “Chúng ta cần thằng nhóc sống sót thêm mấy ngày nữa,” Otis nhắc nhở trai gã. “Nếu bảy đứa kia mắc mưu mà vội vã đến cứu nó đâu.”

      “Ừm. Tao cũng nghĩ thế. Tao vẫn thích có thêm chút tiếng la hét. Chết chậm thế này chán chết. À, thế người bạn tài năng của bọn ta đâu rồi? Bà ấy sẵn sàng tiếp khách chưa?”

      Otis mặt buồn như dấm thiu. “Tao rất thích chuyện với mụ. Mụ làm tao căng thẳng.”

      “Nhưng mụ sẵn sàng chưa?”

      “Rồi,” Otis miễn cưỡng đáp. “Mụ sẵn sàng cả mấy thế kỉ rồi ấy chớ. Chả ai lấy nổi cái tượng đó đâu.”

      “Quá tuyệt.” Ephialtes xoa xoa tay dự đoán. “Cơ hội lớn của chúng ta đây, em trai ạ.”

      “Đó cũng là điều mày về pha nhào lộn cuối cùng của tụi mình,” Otis lầm bầm. “Tao phải treo người tảng băng kẹt sông Lethe tận sáu tháng mà chẳng được bất cứ phương tiện truyền thông nào chú ý cả.”

      “Lần này khác!” Ephialtes khăng khăng. “Chúng ta đặt tiêu chuẩn mới cho giải trí. Nếu Mẹ vui lòng, chúng ta tự mình viết nên tấm vé đến với tiền tài và danh vọng!”

      “Nếu mày thích,” Otis thở dài. “Tuy vậy tao vẫn nghĩ những vũ công ba lê vận trang phục Hồ Thiên Nga trông lắm__”

      ba lê!”

      “Xin lỗi.”

      “Nào,” Ephialtes . “Cùng kiểm tra bọn hổ nào. Tao muốn đảm bảo rằng chúng đói!”

      Bọn khổng lồ ì ạch tiến vào bóng tối và Percy quay sang chiếc hạp.

      Mình phải xem bên trong có gì, cậu nghĩ.

      Cậu tập trung giấc mơ của mình tiến về phía trước, ngay bề mặt chiếc hạp. Rồi cậu xuyên qua bề mặt đó.

      khí trong chiếc hạp có bốc mùi ôi thiu cùng mùi kim loại gỉ sét. Nguồn sáng duy nhất là thứ ánh sáng tím nhờ nhờ tới từ thanh kiếm đen, lưỡi kiếm làm từ Sắt [6] của nó dựa vào bên thành hạp. Co ro cạnh đó là cậu bé trông chán đời mặc chiếc quần jeans rách, áo sơ mi đen với chiếc áo khoác phi công cũ. tay phải cậu, chiếc nhẫn bạc mặt đầu lâu sáng lấp lánh.

      “Nico,” Percy gọi. Nhưng cậu con trai của Hades thể nghe thấy gì.

      Cái hạp bị hàn kín hoàn toàn. khí càng lúc càng độc. Mắt Nico nhắm nghiền, hơi thở nông yếu ớt. Cậu có vẻ như thiền định. Mặt cậu xanh nhợt và gầy gò hơn Percy nhớ.

      thành trong của cái hạp có ba vết xước hẳn do Nico dùng kiếm của mình tạo nên__có lẽ cậu bị cầm tù ba ngày rồi chăng?

      Cậu thể sống lâu đến thế mà bị nghẹt thở được. Ngay cả trong mơ Percy cũng bắt đầu cảm thấy hoảng sợ, phải vật lộn mới có đủ được dưỡng khí.

      Rồi cậu để ý thấy thứ gì đó giữa hai chân Nico__một bộ sưu tập những vật lấp lánh bé hơn cả những chiếc răng của trẻ sơ sinh.

      Hạt, Percy nhận ra. Hạt lựu. Ba hạt được ăn và nhổ ra. Năm hạt vẫn được bọc trong giấy màu đỏ thẫm.

      “Nico,” Percy , “đây là đâu? Bọn cứu em…”

      Hình ảnh nhòa và giọng của thầm: “Percy.”

      Lúc đầu Percy nghĩ cậu vẫn còn nhủ mơ. Khi mới mất trí nhớ cậu dành hàng tuần mơ về Annabeth, người duy nhất cậu nhớ được trong quá khứ. Khi mở mắt, cậu nhìn hơn và ấy thực ở đó.

      đứng cạnh giường, mỉm cười nhìn xuống cậu.

      Mái tóc vàng của xõa ngang vai. Đôi mắt xám màu giông tố ánh lên vui sướng. Cậu nhớ ngày đầu tiên của mình ở Trại Con Lai, năm năm trước khi cậu ngơ ngác tỉnh dậy và thấy Annabeth đứng cạnh. , Cậu dãi khi ngủ đấy.

      ấy đa cảm thế đấy.

      “Cá__cái gì xảy ra vậy?” cậu hỏi. Chúng ta đến đó chưa?”

      “Chưa,” bảo, giọng hơi trầm. “Giờ là nửa đêm .”

      “Ý cậu là…” tim Percy bắt đầu loạn nhịp. Cậu nhận thấy mình mặc đồ ngủ, giường. Có lẽ cậu dãi hay ít nhất là mớ lúc mơ. Chắc chắn cậu gặp vấn đền nghiêm trọng với mái tóc rối nùi và hơi thở lấy gì làm thơm tho cho lắm. “Cậu lẻn vào buồng của mình hả?”

      Annabeth đảo mắt. “Percy, hai thắng nữa là cậu mười bảy rồi đấy. Cậu thể cứ mãi lo lắng gặp rắc rối với HLV Hedge thế chứ.”

      “Ờ, cậu thấy cái gậy bóng chày của ổng chưa?”

      “Còn nữa Óc Tảo Biển à, mình nghĩ hai đứa mình có thể dạo chút. Chúng ta chưa có thời gian riêng tư ở bên nhau là mấy. Mình muốn cho cậu xem thứ này__nơi thích của mình tàu.”

      Mạch của Percy vẫn đập dồn, nhưng phải vì sợ gặp rắc rối. “Mình có thể, cậu biết đấy, đánh răng được ?”

      “Cậu nên làm thế,” Annabeth bảo. “Bởi vì mình hôn cậu cho tới khi cậu đánh răng đâu. Và tiện thể gội đầu luôn nhé.” Đối với thuyền chiến cổ ba tầng chèo, con tàu khổng lồ, nhưng vẫn ấm cúng đối với Percy__như tòa nhà kí túc xá của cậu ở Học viện Yancy hay bất kì trường nội trú nào đuổi cậu. Annabeth cùng cậu rón rén xuống khoang thứ hai, nơi Percy chưa từng khám phá qua, trừ bệnh xá ra.

      dẫn cậu qua phòng máy trông như phòng tập cơ khí hóa lộn xộn và đầy nguy hiểm với những đường ống rồi pit tông[7] và các ống dẫn nhô ra từ khối cầu bằng đồng ở trung tâm. Những sợi cáp hệt những sợi mì kim loại khổng lồ trườn khắp sàn tàu và chạy lên cả những bức tường.

      “Thế quái nào mà cái thứ đó chạy được nhỉ?” Percy hỏi.

      “Chả biết nữa,” Annabeth . “Và mình là người duy nhất ngoài Leo có thể vận hành nó.”

      “Yên tâm đấy.”

      ổn thôi mà. Nó chỉ suýt nổ có lần.”

      “Mong là cậu đùa.”

      mỉm cười. “Lại đây.”

      Họ bước qua phòng trữ đồ và phòng vũ khí. Tới đuôi tàu, họ gặp cánh cửa hai bản lề dẫn tới chuồng ngựa lớn. Căn phòng có mùi cỏ tươi và chăn len. Nằm bên phía tường trái là ba chuồng ngựa trống, giống những cái chuồng họ thường dùng cho Pegasus ở trại. Bên tường phải có hai cái lồng đủ đồ sộ cho những con thú lớn ở sở thú.

      Giữa sàn là mặt kính hai mươi feet vuông trong suốt. Xa xa phía dưới, cảnh đêm lướt qua vùn vụt__hằng dặm làng quê tối om om, chằng chịt những đường cao tốc được chiếu sáng trông như những mảnh sợi của chiếc lưới.

      chiếc thuyền đáy bằng kính sao?”

      Annabeth vớ lấy tấm chăn từ cửa chuồng gần nhất và trải nó lên phần mặt kính. “Ngồi xuống với mình .”

      Họ thư giãn chiếc chăn như thể dã ngoại và ngắm thế giới vùn vụt trôi phía dưới.

      “Leo làm chuồng để lũ pegasus có thể tới lui dễ dàng,” Annabeth bảo. “Chỉ là cậu ấy nhận ra rằng pegasus thích vơ vẩn tự do hơn, nên mấy cái chuồng luôn trống.”

      Percy tự hỏi biết Blackjack ở đâu rồi__vẩn vơ bay lượn đâu đó chăng, mong là theo kịp tiến trình của họ. Đầu Percy vẫn đau nhức từ khi bị Blackjack nện vó vào, những cậu thù dai với con ngựa.

      “Cậu có ý gì, tới lui dễ dàng ấy hả?” cậu hỏi. “ phải là mấy con pegasus bay xuống hai cái cầu thang à?”

      Annabeth gõ mấy đốt ngón tay lên mặt kính. “Đây là những khoang cửa ra vào, giống như máy bay thả bom ấy.”

      Percy nuốt nước bọt. “Ý cậu là tụi mình ngồi cửa ấy hả? Nếu nó bật ra sao?”

      “Mình cho rằng chúng ta rơi chết. Những chúng bật ra đâu. Gần như là thế.”

      “Tuyệt .”

      Annabeth phá lên cười. “Cậu biết sau mình lại thích chỗ này ? chỉ là cảnh quan thôi đâu. Chỗ này nhắc cậu nhớ về cái gì nào?”

      Percy nhìn quanh: chuồng với lồng, đèn bằng Đồng Thiên Thai treo xà, mùi cỏ khô và tất nhiên là cả Annabeth ngồi ngay cạnh cậu nữa, gương mặt mờ ảo và xinh đẹp trong ánh sáng mềm mại màu hổ phách.

      “Cái xe tải của sở thú đó,” Percy nhận định. “Cái mà chúng ta lái tới Las Vegas.”

      Nụ cười của lên rằng cậu trả lời đúng.

      “Lâu lắm rồi nhỉ,” Percy . “Bọn mình rất khổ sở, chật vật băng qua cả cái đất nước này để tìm tia chớp ngớ ngẩn ấy, kẹt trong chiếc xe tải với mớ động vật bị ngược đãi. Sao cậu lại nhớ nó thế?”

      “Óc Tảo Biển à, bởi vì đó là lần đầu tiên chúng ta thực chuyện, cậu với mình. Mình kể với cậu về gia đình và…” cởi chiếc vòng của trại ra, cái vòng có lồng chiếc nhẫn đại học của cha cùng những hạt đất sét đại diện cho mỗi năm ở Trại Con Lai. Giờ đây còn có thứ khác lồng vào chiếc dây da: mặt dây chuyền san hô đỏ Percy tặng khi họ bắt đầu hẹn hò. Cậu mang nó về từ cung điện dưới đáy biển của cha mình.

      “Và,” Annabeth tiếp lời, “nó nhắc mình nhớ là chúng ta quen nhau bao lâu rồi. Hồi đó tụi mình mười hai, Percy ạ. Cậu tin nổi ?”

      ,” cậu thừa nhận. “Thế…cậu biết cậu thích mình từ lúc đó à?”

      cười gian. “Lúc đầu mình ghét cậu lắm. Cậu làm mình khó chịu. Rồi mình khoan dung với cậu mấy năm liền. Rồi__”

      “Tốt, được rồi.”

      rướn người qua và hôn cậu: nụ hôn tuyệt vười và đúng nghĩa mà bị ai nhìn thấy cả__không có người La Mã, có thần rừng bảo hộ la hét ồn ào.

      đẩy cậu ra. “Mình nhớ cậu, Percy.”

      Percy cũng muốn với điều đó, nhưng có vẻ như câu bình luận ấy quá vớ vẩn. Khi ở bên La Mã, cậu sống sót được phần lớn là nhờ nghĩ về Annabeth. Mình nhớ cậu thể diễn tả hết được.

      Cậu nhớ lại lúc đầu tối khi Piper buộc các Eidolon rời khỏi tâm trí mình. Percy hề nhận thức được diện của bọn chúng tới khi sử dụng lời mê hoặc của mình. Sau khi các Eidolon bỏ , cậu cảm thấy như đầu đinh nóng rẫy được rút ra khỏi trán mình. Cậu nhận ra mình đau đến mức nào cho tới khi tên ám hồn bỏ . Sau đó tâm trí cậu trở nên ràng hơn. Linh hồn cậu thoải mái ổn định lại trong thể xác cậu.

      Ngồi đây với Annabeth cũng khiến cậu cảm thấy hệt như vậy. Vài tháng trước chắc có thể là những giấc mơ lạ lùng của cậu. kiện ở Trại Jupiter có vẻ mơ hồ và thực hệt như trận chiến với Jason khi họ đều bị kiểm soát bởi những tên Eidolon.

      Cậu vẫn hối hận khoảng thời gian ở Trại Jupiter. Nó khiến cậu mở mang tầm mắt về nhiều mặt.

      “Annabeth,” cậu ngập ngừng bảo, “ở Rome các á thần có thể sống thanh bình suốt đời.”

      Nét mặt trở nên thận trọng. “Reyna giải thích cho mình nghe rồi. Nhưng Percy à, cậu thuộc về Trại Con Lai. Cuộc sống khác kia__”

      “Mình biết,” Percy . “Nhưng lúc mình ở đó mình thấy rất nhiều á thần sống sợ hãi: trẻ con tới trường, các cặp nhau kết hôn và gây dựng gia đình. Ở Trại Con Lai có thứ gì được như thế. Mình cứ nghĩ về cậu với mình…và có lẽ ngày nào đó khi cuộc chiến với lũ khổng lồ này kết thúc…”

      Trong ánh đèn vàng khó nhưng cậu nghĩ là Annabeth đỏ mặt. “Ồ,” .

      Percy sợ rằng mình quá nhiều. Có khi cậu dọa sợ khiếp vía với giấc mơ lớn về tương lai của mình. luôn là người lên kế hoạch. Percy lặng lẽ tự nguyền rủa mình.

      Từ khi quen biết Annabeth, cậu luôn cảm thấy mình hiểu quá ít về . Ngay cả sau khi họ hẹn hò được vài tháng mới quan hệ giữa họ vẫn luôn có cảm giác mới mẻ và tế nhị, như bức tượng thủy tinh vậy. Cậu rất sợ làm gì sai và khiến nó tan vỡ.

      “Mình xin lỗi,” cậu bảo. “Mình chỉ…Mình phải nghĩ thế để tiếp tục sống. Để tự cho mình chút hi vọng. Quên những cái mình đi__”

      !” bảo. “, Percy à. Trời ơi, thế là ngọt ngào. Chỉ là…chúng ta hẳn thiêu hủy mất nhịp cầu nối ấy mất rồi. Nếu chúng ta thể sửa sai mọi thứ với người La Mã__thì, hai bên á thần vĩnh viễn vẫn chẳng hòa hợp đâu. Đó là lí do vì sao các vị thần tách chúng ta ra. Mình biết chúng ta có bao giờ thuộc về nơi đó nữa.”

      Percy muốn tranh luận nhưng cậu thể để vuột mất hi vọng. Nó rất quan trọng__không chỉ với Annabeth và cậu mà là với tất cả các á thần. Phải có thể thuộc về hai nơi cùng lúc. Sau tất cả mọi việc, đó mới thực là việc của các á thần__không phải chỉ có chút thuộc về phàm thế hay là Đỉnh Olympus mà là cố gắng gây dựng thái bình với cả hai bên bản chất của mình.

      may thay, điều đó khiến cậu nghĩ tới các vị thần, về cuộc chiến tranh mà họ phải đối mặt và giấc mơ của mình về cặp song sinh Ephialtes và Otis.

      “Mình gặp ác mộng lúc cậu đánh thức mình,” cậu thừa nhận.

      Cậu kể Annabeth nghe về những điều mình thấy.

      Ngay cả phần phiền hà nhất cũng khiến tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào. lắc đầu buồn bã khi cậu miêu tả tình trạng bị cầm tù của Nico trong chiếc hạp đồng. tia sáng giận dữ lóe lên trong mắt khi cậu kể với về việc lũ khổng lồ lên kế hoạch tàn phá Rome hoành tráng, bao gồm cả những cái chết đau thương của họ ở màn khai mạc.

      “Nico là mồi nhử,” thầm. “Bè lũ Gaea chắc tìm cách nào đó bắt được nó. Nhưng chúng ta biết chắc rằng chúng giữ nó ở đâu.”

      “Đâu đó tại Rome ấy,” Percy bảo. “Nơi nào đó dưới lòng đất. Nghe bọn chúng bảo có vẻ như Nico vẫn còn sống được thêm mấy ngày nữa, nhưng hiểu sao mà nó sống được lâu thế nếu có oxi.”

      “Năm ngày nữa, theo như Nemesis ,” Annabeth bảo. “Ngày Kalends tháng bảy. Ít nhất hạn chót còn có nghĩa.”

      “Kalends là gì?”

      Annabeth nhếch mép cười như thể rất hài lòng khi họ trở lại mô típ thường ngày_ Percy hiểu gì đó và bản thân giải thích mọi thứ. “Đấy chỉ là thuật ngữ La Mã chỉ ngày đầu tiên của tháng. Đó là từ khởi nguồn của từ lịch. Nhưng sao Nico lại sống được lâu đến thế? Chúng ta phải với Hazel.”

      “Giờ hả?”

      ngập ngừng. “. Có thể đợi đến sáng mai. Mình muốn chọi vô mặt con bé cái tin này vào lúc nửa đêm.”

      “Lũ khổng lồ có tới bức tượng,” Percy nhớ lại. “Và cái gì đó về người bạn tài năng canh giữ nó. Dù người bạn ấy là ai ả ta làm Otis sợ. Bất kì kẻ nào có thể khiến cho gã khổng lồ sợ…”

      Annabeth liếc xuống đường cao tốc ngoằn nghoèo trườn qua những ngọn đồi tối đen thăm thẳm. “Percy, gần đây cậu có gặp thần Poseidon ? Hay có nhận được dấu hiệu nào từ ông ấy ?”

      Cậu lắc đầu. “ có kể từ khi…Wow. Mình đoán mình chưa từng nghĩ về việc ấy. Từ cuộc chiến với các Titan. Mình gặp ông ấy ở Trại Con Lai nhưng là tháng tám năm ngoái. nỗi sợ lướt qua cậu. “Sao thế? Cậu gặp thần Athena sao?”

      nhìn vào mắt cậu.

      “Vài tuần trước,” thừa nhận. “ hay lắm. Bà giống bà. Có lẽ là kiểu tâm thần phân liệt Hy Lạp/La Mã mà Nemesis miêu tả. Mình chắc. Bà ấy những điều khiến mình tổn thương. Bà bảo mình làm bà thất vọng.”

      “Làm bà ấy thất vọng?” Percy chắc cậu nghe đúng. Annabeth là đứa con á thần hoàn hảo. có mọi thứ mà đứa con của Athena nên có. “Làm sao cậu có thể bao giờ__?”

      “Mình biết,” đau khổ . “ hết mình cũng vừa có cơn ác mộng. Nhưng nó có nghĩa nhiều như giấc mộng của cậu.”

      Percy đợi, nhưng Annabeth chi tiết gì thêm. Cậu muốn khiến cảm thấy khá hơn và với ổn thôi, nhưng cậu biết mình thể. Cậu muốn sửa chữa mọi việc với cả hai người họ, để họ có thể có được cái kết hạnh phúc. Sau từng ấy năm, ngay cả vị thần độc ác nhất cũng phải thừa nhận họ đáng được như thế.

      Nhưng cậu có cảm giác vô vọng rằng cậu chẳng thể làm gì để giúp Annabeth lúc này ngoài việc đơn giản là đây. Con của trí tuệ mình.

      Cậu thấy như thể mình bị kẹt và bất lực hệt lúc mình bị chìm xuống hố bùn.

      Annabeth cố rặn ra nụ cười nhàn nhạt. “ đêm lãng mạn nào đấy hả? thêm điều gì tệ hại cho tới sáng mai nhé.” hôn cậu lần nữa. “Rồi mình khám phá ra mọi thứ thôi. Mình có lại cậu. Giờ đó là vấn đề duy nhất.”

      “Phải,” Percy . “ gì thêm nữa về trỗi dậy của Gaea, Nico bị giữ làm con tin, thế giới đến hồi kết, lũ khổng lồ___”

      “Im , Óc Tảo Biển,” ra lệnh. “ Ôm mình lúc thôi.”

      Họ ngồi ôm nhau, cảm nhận hơi ấm của nhau. Trước khi Percy nhận thức được gì, tiếng gầm của động cơ con tàu, ánh đèn mập mờ và cảm giác dễ chịu được ở bên Annabeth khiến mi mắt cậu nặng trĩu và cậu dạt vào giấc ngủ.

      Khi tỉnh dậy, ánh sáng ban ngày tới từ cái sàn kính và giọng con trai , “Ôi…Các cậu gặp rắc rối lắm lắm đấy.”
      [1] trông nó thế này

      [2] khổng lồ 1 mắt, con của Poseidon với Thoosa-1 nữ thủy thần, có khả năng chế tạo các đồ kim hoàn, xem thêm ở đây
      [3] trông thế này

      [4] F tức là f*ck, F bự mang nhiều nghĩa thô tục bậy bạ
      [5] hình ảnh nó đây

      [6] kiếm của Nico đây

      [7] động cơ máy

      [*] Kalends của tháng trong lịch La Mã là ngày trăng lên, ngày đầu tiên của tuần trăng và cũng là ngày đầu tiên trong tháng, xem thêm ở đây

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 14
      Percy

      PERCY TỪNG THẤY FRANK BỊ BAO VÂY giữa đám quỷ ăn thịt người, đương đầu với đám khổng lồ bất tử và thậm chí thoát khỏi tay Thanatos[1], thần chết. Nhưng cậu chưa bao giờ thấy Frank kinh hồn táng đởm như lúc này, lúc thấy hai bọn họ ngủ quên trong chuồng ngựa.

      “Gì cơ…” Percy dụi dụi mắt. “Ờ, bọn mình ngủ quên mất.”

      Frank nuốt xuống. Cậu bận giày thể thao, quần hộp sẫm màu và cái áo phông Thế vận hội mùa đông Vancouver với phù hiệu sĩ quan chỉ huy gắn cổ áo (điều có vẻ vừa buồn vừa đầy hy vọng với Percy, khi mà giờ đây họ trở thành những kẻ phản bội). Frank chuyển tầm mắt như thể nhìn hai người bọn họ với nhau làm bỏng mắt cậu.

      “Ai cũng nghĩ hai người bị bắt cóc,” Frank . “Bọn mình lật tung cả cái tàu này lên. HLV Hedge mà biết được – ÔI, thần thánh, hai người ở đây cả đêm hả?”

      “Frank!” Tai Annabeth đỏ bừng như dâu chín. “Bọn mình chỉ xuống đây để chuyện. Bọn mình ngủ thiếp mất. Vô tình thôi. Và hết chuyện.

      “Cũng có hôn hít vài lần,” Percy .

      Annabeth lườm cậu. “Chẳng giúp được gì cả!”

      “Tốt nhất bọn mình nên…” Frank chỉ ra cửa chuồng ngựa. “Ờ, bọn mình lẽ ra phải tập trung vào bữa sáng. Hai người tự giải thích chuyện hai người làm – ý mình là làm, nhé? Ý mình là…mình thực muốn ông thần nông – ý mình là thần rừng đó – giết mình”

      Frank chạy mất.

      Khi mọi người cuối cùng cũng tề tựu đông đủ ở nhà ăn tập thể, chuyện có vẻ tệ như Frank sợ. Leo thể ngừng nhe răng cười và lẩm bẩm “Kinh điển. Kinh điển.” Chỉ có mỗi Hazel là có vẻ kinh sợ, có lẽ vì bạn là người của thập niên 40. ngừng quạt quạt mặt mình và tránh nhìn thẳng vào mắt Percy.

      Hiển nhiên, HLV Hedge nổi điên, nhưng Percy thấy khó mà nể sợ ông thầy thần rừng khi mà ông chỉ cao có mét rưỡi.

      “Chưa bao giờ trong đời tôi!” HLV Hedge gầm lên, vung vẩy cái gậy bóng chày của ông và hất đổ đĩa táo. “Vô kỉ luật! Vô trách nhiệm!”

      “Huấn luyện viên,” Annabeth thanh minh, “chỉ là tai nạn thôi mà. Bọn em chuyện và bọn em ngủ thiếp mất.”

      “Hơn nữa,” Percy , “thầy bắt đầu nghe giống Terminus[2] rồi đấy.”

      Thầy Hedge nheo mắt. “Đấy có phải là lời nhục mạ hả Jackson? Bởi vì ta – ta kết liễu cậu ngay bây giờ, nhóc con ạ.”

      Percy cố nín cười. “Chuyện này xảy ra lần nào nữa đâu, huấn luyện viên. Em hứa đấy. Giờ phải chúng ta có chuyện khác cần bàn sao?

      Thầy Hedge hờn dỗi. “Được thôi! Nhưng tôi để mắt đến cậu đấy, Jackson! Còn trò, Annabeth Chase, tôi cứ nghĩ trò có ý thức hơn-”

      Jason đằng hắng. “Vậy, lấy ít đồ ăn , mọi người. Và bắt đầu vào việc thôi.”

      Cuộc họp giống như hội đồng chiến tranh với bánh donut. Dẫu vậy, hồi ở Trại Con lai họ từng có những cuộc thảo luận nghiêm túc nhất quanh cái bàn bóng bàn trong phòng giải trí với bánh quy giòn và sốt Cheez Whiz[3], nên Percy cảm thấy như ở nhà.

      Cậu kể cho mọi người về giấc mơ của mình – hai gã khổng lồ song sinh lên kế hoạch “tiếp đón” bọn họ trong bãi đỗ xe ngầm với bệ phóng tên lửa, Nico di Angelo bị nhốt trong cái hạp bằng đồng, từ từ chết ngạt với những hạt lựu dưới chân.

      Hazel phát ra tiếng nức nở tắc nghẹn. “Nico…Ôi, thần thánh ơi. Những hạt lựu.”

      “Cậu biết mấy hạt đấy là gì à?” Annabeth hỏi.

      Hazel gật đầu. “Thằng bé từng chỉ cho mình lần. Chúng được lấy từ khu vườn của mẹ kế mình.”

      “Mẹ k…Ồ,” Percy . “Ý cậu là Persephone[4].”

      Percy gặp vợ của Hades lần, bà ta hẳn là rực rỡ và ấm áp. Cậu cũng từng đến khu vườn dưới phủ của bà ta – nơi rùng rợn đầy những cây cỏ bằng pha lê nở ra những bông hoa đỏ như máu hay trắng nhợt như những hồn ma.

      “Những hạt lựu đó là thứ thức ăn trụ-mệnh.” Hazel . Percy có thể thấy căng thẳng, bởi tất cả đám đồ bạc bàn bắt đầu dịch về phía . “Chỉ có con của Hades có thể ăn chúng. Nico luôn mang theo ít phòng khi thằng bé bị kẹt ở đâu đó. Nhưng nếu thực bị giam cầm-”

      “Bọn khổng lồ cố lừa chúng ta vào bẫy,” Annabeth . “Chúng cho rằng chúng ta đến cứu cậu ấy.”

      “Chà, chúng đúng!” Hazel nhìn quanh bàn, niềm tin của dần rơi rụng. “Chúng ta làm vậy. Phải ?”

      “Chuẩn.” HLV Hedge gào lên với miệng đầy khăn giấy. “ có đánh nhau, đúng ?”

      “Hazel, dĩ nhiên bọn mình cứu cậu ấy ra,” Frank . “Nhưng chúng ta có bao nhiêu thời gian trước khi..ờ, ý là, Nico có thể trụ được bao lâu?”

      “Mỗi hạt ngày.” Hazel khổ sở . “Đấy là nếu thằng bé duy trì tình trạng chết lâm sàng.”

      “Chết lâm sàng?” Annabeth cau mày. “Nghe chẳng vui vẻ gì nhỉ?”

      “Làm vậy giúp thằng bé khỏi dùng hết khí để thở.” Hazel . “Như kiểu ngủ đông[5] hay hôn mê vậy. Mỗi hạt giúp thằng bé trụ được ngày, chỉ thoi thóp.”

      “Và cậu ấy chỉ còn năm hạt,” Percy . “Đồng nghĩa với năm ngày, kể cả hôm nay. Bọn khổng lồ hẳn sắp đặt như vậy, để chúng ta phải đến đó vào này mùng tháng bảy. Giả sử Nico bị giấu ở đâu đó trong thành Rome-”

      “Vậy là có nhiều thời gian.” Piper kết luận. đặt tay lên vai Hazel. “Bọn mình tìm được cậu ấy. Ít nhất giờ ta hiểu được ý nghĩa của mấy câu trong lời tiên tri. ‘Cặp sinh đôi dập tắt hơi thở của thiên thần, người giữ chìa khóa cánh cửa tới cái chết vĩnh hằng.’ Họ của em cậu là di Angelo. Angelo trong tiếng Ý là ‘thiên thần’.”

      “Ôi, thần thánh ơi,” Hazel thầm . “Nico.”

      Percy nhìn cái bánh donut nhân mứt của mình chằm chằm. Cậu từng có quá khứ mấy tốt đẹp với Nico. Cậu ta từng lừa Percy làm chuyến thăm quan cung điện của Hades và kết cục là Percy bị tống vào buồng giam. Nhưng phần lớn thời gian, Nico ở phe tốt. Chắc chắn cậu ta đáng phải bị chết ngạt từ từ trong cái hạp đồng và Percy thể chịu nổi khi nhìn Hazel đau khổ.

      “Bọn mình cứu nó.” Cậu hứa với . “Bọn mình phải làm vậy. Lời tiên tri nó giữ chìa khóa tới cái chết vĩnh hằng.”

      “Đúng vậy.” Piper khích lệ. “Hazel, em của em tìm Cửa Tử dưới phủ, phải ? Hẳn nó tìm ra rồi.”

      “Nó có thể cho chúng ta biết cánh cửa ở đâu,” Percy , “và làm thể nào để đóng nó.”

      Hazel hít sâu. “Phải, tốt.”

      “Ờ…” Leo ngọ nguậy ghế. “ điều thôi. Bọn khổng lồ muốn bọn mình làm vậy, phải ? Vậy là bọn mình đưa chân vào bẫy?”

      Hazel nhìn Leo như thể cậu vừa làm cử chỉ tục tĩu. “Chúng ta có cách nào khác.”

      “Đừng hiểu sai ý , Hazel. Chỉ là em trai em, Nico… nó biết về cả hai trại, đúng ?”

      “Ờ, đúng.” Hazel .

      “Cậu ấy lại giữa hai trại,” Leo , “và với bên nào cả.”

      Jason ngồi thẳng dậy, vẻ mặt cứng rắn. “Cậu thắc mắc liệu chúng ta có tin được cậu ta hay . Mình cũng vậy.”

      Hazel bật dậy. “Em thể tin điều này được. Thằng bé là em trai em. Nó mang em trở về từ phủ. Và mọi người muốn cứu thằng bé?”

      Frank đặt tay lên vai . “ ai vậy cả.” Cậu lườm Leo. “Tốt nhấtđừng ai vậy.”

      Leo chớp mắt. “Nghe này, mọi người. Mình chỉ có ý là-”

      “Hazel.” Jason . “Leo khá là có lý mà. nhớ Nico từng ở Trại Jupiter. Giờ biết được nó còn đến Trại Con Lai nữa. Điều đó khiến thấy – chà, hơi ám muội. Ta có thực biết lòng trung thành của nó đặt ở đâu ? Chỉ là bọn mình phải thận trọng thôi mà.”

      Hai cánh tay Hazel run rẩy. cái đĩa bạc phóng về phía cậu và đập vào bức tường đằng sau, làm tung tóe món trứng bác trong đĩa. “… ngài Jason vĩ đại…thủ lĩnh tôi kính trọng. Lẽ ra phải công bằng chứ, là người lãnh đạo tốt phải như vậy. Vậy mà giờ …” Hazel dậm chân và chạy vụt ra khỏi nhà ăn.

      “Hazel.” Leo gọi với theo . “A, khỉ, mình nên-”

      “Cậu gây chuyện đủ rồi.” Frank gầm gừ. Cậu đứng dậy đuổi theo Hazel, nhưng Piper ra hiệu cho cậu ngừng lại.

      “Cho ấy thời gian.” Piper khuyên. Rồi quay sang cau mày với Leo và Jason. “Hai cậu. Thế hơi quá lạnh lùng rồi đấy.”

      Jason trông có vẻ sốc. “Lạnh lùng? Mình chỉ cảnh giác thôi mà.”

      “Em trai con bé chết dần chết mòn.” Piper .

      “Mình chuyện với ấy.” Frank khăng khăng.

      ,” Piper . Để con bé bình tĩnh lại trước . Tin mình . Tẹo nữa mình xem nó ra sao.”

      “Nhưng mà.” Frank phì phò như con gấu bị chọc điên. “Được thôi. Mình chờ.”

      Từ phía vang lên tiếng ù ù như cái máy khoan lớn.

      “Là Festus,” Leo . “Mình để cậu ấy ở chế độ tự lái, nhưng bọn mình chắc phải đến gần Atlanta rồi. Mình phải lên đó…ờ, giả còn biết phải hạ cánh chỗ nào.”

      Mọi người đồng loạt quay về phía Percy.

      Jason nhướng bên mày. “Cậu là Thuyền Trưởng Nước Mặn. Có ý kiến gì từ phía chuyên gia ?”

      Phải chăng có chút oán giận trong giọng điệu của cậu? Percy tự hỏi liệu có phải Jason ngấm ngầm để bụng vụ đấu tay đôi ở Kansas hay . Jason đùa cợt về vụ đó, nhưng Percy nhận thấy cả hai người đều mang chút tị hiềm. Bạn thể để hai á thần đọ sức mà khiến họ thắc mắc ai mạnh hơn.

      “Mình cũng chắc nữa,” cậu thừa nhận. “Đâu đó trung tâm, ở cao để chúng ta có tầm nhìn tốt, quan sát được toàn thành phố. Có lẽ là công viên hay cánh rừng nào đó chăng? Bọn mình muốn hạ cánh tàu chiến giữa khu trung tâm đâu. Mình ngờ là ngay cả Màn Sương Mù cũng thể che nổi thứ khổng lồ như vậy.”

      Leo gật đầu. “Luôn và ngay.” Cậu chạy về phía cầu thang.

      Frank bồn chồn ngồi lại vào ghế. Percy cảm thấy tiếc cho chàng. Trong chuyến tới Alaska, cậu quan sát Hazel và Frank trở nên gần gũi hơn. Cậu biết Frank có cảm giác che chở với thế nào. Cậu cũng để ý thấy cái nhìn căm ghét Frank dành cho Leo. Cậu quyết định rằng đưa Frank rời xa con tàu lát ý hay.

      “Khi bọn mình hạ cánh, mình thám thính Atlanta chút.” Percy . “Frank, mình cần cậu giúp.”

      “Ý cậu là lại biến thành rồng nữa á? tình, Percy, mình muốn làm cái taxi biết bay của mọi người suốt nhiệm vụ đâu.”

      ,” Percy . “mình muốn cậu cùng mình vì cậu mang dòng máu Poseidon. Có lẽ cậu có thể giúp mình tìm ra chỗ có nước mặn. Với lại, cậu ổn với chuyến bay mà.”

      Cái đó có vẻ làm Frank thấy khá hơn chút. “Được thôi, mình đoán thế.”

      “Tuyệt.” Percy . “Bọn mình nên mang thêm người nữa. Annabeth-”

      “Ồ, !” HLV Hedge gằn giọng. “Quý , bị cấm túc.”

      Annabeth nhìn ông thầy chằm chằm như thể ông thứ tiếng ngoài hành tinh. “Gì cơ ạ?”

      và Jackson đâu cùng nhau cả!” Hedge nhấn mạnh. Ông thầy lườm Percy, thách cậu dám bật lại. “Ta cùng Frank và Ngài Jackson Lén Lút. Mấy người còn lại ở lại canh gác con tàu và đảm bảo rằng Annabeth phá thêm điều luật nào.”

      Tuyệt, Percy nghĩ. ngày toàn-con-trai với Frank và thần rừng khát máu, tìm nước mặn trong thành phố toàn đất rắn đanh.

      “Chuyện này,” cậu , “ vui lắm đây.”

      [​IMG]


      [1] Thanatos (tiếng Hy Lạp:Θάνατος), Mors hay Letus trong thần thoại La Mã, là vị thần đại diện cho cái chết, người chuyên quản lí các linh hồn.
      [2] Terminus: là vị thần của ranh giới trong thần thoại La Mã, người bảo vệ ranh giới của cả lãnh thổ cá nhân và lãnh địa chung của thành Rome. Ông thần này khá là lịch nhưng nổi điên nếu luật lệ bị vi phạm. Vị thần này có bản thể Hy Lạp.
      [3] Cheez Whiz: loại sốt làm từ phô mai của hãng Kraf.
      [4] Persephone: vợ của Hades, con của Zeus và Demeter.
      [5] hibernate: ngủ trong trạng thái đông lạnh, các cơ quan trong cơ thể gần như ngưng hoạt động, thường thấy ở động vật lưỡng cư hay bò sát, phải ngủ đông như gấu hay sóc.











      The Mark of Athena _ Chương 15
      Percy

      PERCY TRÈO LÊN BOONG VÀ THỐT LÊN, “WOW.”

      Họ đỗ lại gần ngay đỉnh của quả đồi xanh[1]. liên hợp gồm những tòa nhà trắng phau như bảo tàng hay trường đại học nép mình dưới rặng thông bên trái. Thành phố Atlanta trải ra dưới chân họ_một cụm những tòa nhà chọc trời màu nâu và bạc ngay trung tâm thành phố cách đó tầm hai dặm, vươn lên từ những thứ trông như các mặt đường ngang dọc của quốc lộ, đường tàu, những ngôi nhà và những vùng đất rừng xanh non rộng lớn.

      “A, chỗ mới đáng làm sao.” HLV Hedge hít hà khí trời lúc sớm mai. “Chọn hay đấy, Valdez.”

      Leo nhún vai. “Em chỉ định chọn ngọn đồi cao. Ở chỗ đó là thư viện quốc hội hay cái gì gì đó. Ít ra Festus thế.”

      “Tôi cũng biết nữa!” Hedge hô to. “Nhưng cậu có nhận biết điều gì xảy ra ngọn đồi này ? Frank Trương, cậu nên biết đấy!”

      Frank ngần ngừ. “Em nên á?”

      đứa con của Ares từng đứng đây!” Hedge phân nộ hét lên.

      “Em là người La Mã…giống Mars hơn, thực là thế.”

      “Dù sao chăng nữa! Đây là nơi nổi tiếng trong cuộc Nội chiến Mỹ!”

      “Em là người Canada, đấy.”

      “Sao chả được! Tướng Sherman, lãnh đạo Liên Minh[2]. Ông đứng ngọn đồi này nhìn cả thành phố Atlanta chìm trong biển lửa. Mở đường máu từ đây ra mọi ngả hướng tới biển. Đốt phá, cướp bóc, trấn lột__giờ từng á thần!”

      Frank lùi ra xa vị thần rừng. “Ờm, đúng thế.”

      Percy chả quan tâm gì tới lịch sử cho lắm, nhưng cậu tự hỏi có phải đỗ lại ở đây là điềm xấu . Cậu từng nghe bảo phần lớn các cuộc nội chiến của nhân loại đều bắt nguồn từ các cuộc chiến giữa á thần La Mã và Hy Lạp. Giờ đây, họ đứng bên rìa cuộc chiến như vậy. Cả thành phố dưới chân họ từng bị san thành bình địa theo lệnh đứa con Ares.

      Percy có thể mường tượng vài đứa trẻ ở Trại Con Lai ra lệnh như thế. Clarisse La Rue chẳng hạn, ngần ngại gì sất. Nhưng cậu thể hình dung ra Frank lại có thể khắc nghiệt đến mức ấy.

      “Dù sao ,” Percy , “cứ cố đừng đốt trụi cả thành phố lúc này là được.”

      Vị Huấn Luyện Viên trông có vẻ thất vọng. “Được thôi. Nhưng đâu đây?”

      Percy chỉ trung tâm thành phố phía trước. “Khi nghi ngờ cứ bắt đầu ở trung tâm thôi[3].”

      Bắt xe dễ hơn họ nghĩ nhiều. Ba người họ thẳng tiến về phía thư viện quốc hội__chỗ thực ra lại là Carter Center[4]__và hỏi nhờ nhân viên ở đó có thể gọi taxi hay chỉ đường cho họ tới bến xe buýt gần nhất . Percy có thể triệu hồi Blackjack, nhưng cậu rất miễn cưỡng nếu cầu con pegasus phải tới giúp sớm đến vậy sau vụ đụng độ gần đây nhất giữa họ. Frank muốn dính dáng[5] vô bất cứ việc gì nữa. Hơn nữa, Percy kiểu muốn như người thường cho thay đổi khí.

      trong những thủ thư tên Esther cứ nằng nặc đòi tự chở họ . ấy tốt bụng, Percy chắc mẩm ta là con quỷ đội lốt, nhưng thầy Hedge đẩy cậu sang bên và đảm bảo với cậu rằng Esther có mùi của người thường.

      “Gợi lên mùi đủ loại hoa khô,” ông bảo. “Đinh hương[4a]. Cánh hoa hồng. Ngon !”

      Họ chen chúc trong chiếc xe Cadillac lớn màu đen của Esther và lái tới trung tâm thành phố. Esther rất bé, hầu như thể nhìn qua nổi bánh lái, nhưng việc đó có vẻ ảnh hưởng tới nhiều lắm. vừa đánh xe qua dòng xe qua lại vừa tán gẫu với họ về những gia đình điên khùng ở Atlanta __ những chủ đồn điền cũ, những người sáng lập ra Coca-Cola, những ngôi sao thể thao và những người của đài CNN. nghe có vẻ hiểu biết nên Percy quyết định thử tí vận may của mình.

      “Ờ, thế Esther này,” cậu bảo, “Có câu hóc búa cho đây. Nước mặn ở Atlanta. nghĩ đến cái gì đầu tiên?”

      Người phụ nữ lớn tuổi khúc khích. “Ồ, cưng ơi. Dễ ợt. Cá mập voi!”

      Frank với Percy nhìn nhau.

      “Cá mập voi?” Frank lo lắng gặng hỏi. “Có mấy con đó ở Atlanta à?”

      “Ở công viên hải dương ấy cưng,” Esther bảo. “Nổi tiếng lắm! Ngay trung tâm đây này. Mọi người muốn đến đó hả?”

      công viên hải dương. Percy đắn đo cân nhắc. Cậu chả biết thần biển Hy Lạp Cổ làm gì ở công viên hải dương Georgia nhưng lại cũng chẳng có ý nào hơn cả.

      “Phải ,” Percy bảo. “Đấy là chỗ bọn cháu định tới đó.”

      Esther thả họ xuống chỗ lối vào chính, nơi hàng dài người xếp sẵn. cứ nằng nặc cho họ số điện thoại đề phòng trường hợp khẩn cấp, tiền bắt taxi về lại Carter Center và hũ mứt đào nhà làm mà vì lí do nào đó giữ sẵn trong cái hộp ở cốp xe. Frank bỏ cái hũ vào ba lô và cảm ơn Esther giờ chuyển từ việc gọi cậu là cưng sang gọi là con trai.

      Khi lái xe rời , Frank bảo “Có phải ai ở Atlanta cũng tốt thế ?”

      Thầy Hedge cằn nhằn. “Hy vọng là , Họ mà tốt thế sao đánh nhau với họ được. tẩn mấy con cá mập voi thôi. Nghe chúng có vẻ nguy hiểm đấy!”

      Percy chẳng lường trước rằng mình phải trả tiền vô cửa hay đứng xếp hàng sau cả mớ các gia đình và lũ trẻ tới từ mấy trại hè.

      Nhìn bọn trẻ tiểu học mặc những chiếc áo phông đầy màu sắc của các trại ngày[6], Percy thấy thoáng buồn bã. Cậu nên ở Trại Con Lai lúc này, yên ổn trong nhà của mình cả mùa hè, dạy đấu gươm ở đấu trường, bày trò chơi khăm các tư vấn viên khác. Những đứa trẻ này đây chẳng hề biết trại hè có thể điên rồ đến mức nào đâu.

      Cậu thở dài. “Ờ, mình đoán là cả bọn phải xếp hàng chờ đấy. Ai có tiền ?”

      Frank kiểm tra túi. “Ba đồng denarii[7] từ Trại Jupiter. Năm đô la Canada.”

      Thầy Hedge vỗ vỗ chiếc quần cộc thể thao và móc ra mọi thứ ông tìm được. “Ba đồng hai lăm xu, hai đồng mười xu, cái dây chun và__trúng mánh rồi! mẩu cần tây.”

      Ông bắt đầu nhai lèm bèm mẩu cần tây, nhìn số tiền lẻ với cái dây chun như thể chúng sắp chịu chung số phận.

      “Tuyệt,” Percy . Trừ thanh bút/gươm Thủy Triều của mình ra túi cậu rỗng . Cậu cân nhắc xem có thể lẻn vô kiểu gì được người phụ nữ mặc áo lục lam của viện hải dương Georgia đến chỗ họ và mỉm cười rạng rỡ.

      “A, khách VIP[8]!” có hai lúm đồng tiền má, kính khung dày cộp, niềng răng và mái tóc xoăn đen thắt bím hai bên, nên dù có lẽ ở độ tuổi cuối hai mươi, trông vẫn như nữ sinh lập dị__kiểu vừa dễ thương nhưng lại cũng hâm hâm dở dở. Cùng với chiếc áo phông có cổ [9]công viên hải dương Georgia, còn mặc chiếc quần đen, giày đế mềm đen và chân cứ nhón nhón mãi như thể đơn giản là thể kìm chế năng lượng của mình lại được. Thẻ tên của ghi KATE.

      “Các cậu mang tiền đến trả rồi, tôi hiểu,” . “Quá tốt!”

      “Hả?” Percy hỏi.

      Kate lượm ba đồng denarii từ tay Frank. “Thế, tốt rồi. Mời đường này!”

      quay người chạy nhanh về phía lối vào chính.

      Percy nhìn HLV Hedge với Frank. “ cái bẫy hả?”

      “Có thể lắm,” Frank .

      ta phải người thường,” thầy Hedge bảo, hít hà khí. “Có khi là kiểu bọn ăn thịt dê, giết á thần từ Tartarus cũng nên.”

      “Chắc thế rồi,” Percy đồng tình.

      “Tuyệt.” Thầy Hedge cười nhe. “ thôi.”

      Kate đưa họ qua hàng người chờ vé vào công viên hải dương mà chẳng gặp gì bất trắc.

      “Ngay đây này.” Kate cười nhếch mép với Percy. “ buổi triển lãm phi thường. Mọi người thất vọng đâu. Chính thế nên ít khi bọn tôi có khách VIP.

      “Ừ, ý bảo là á thần hả?” Frank hỏi gặng.

      Kate châm biếm nháy mắt với cậu và đặt ngón tay lên môi. “Và đây là khu môi sinh nước lạnh với những chú cánh cụt, cá voi trắng[10] và vài loài vớ vẩn nữa. Và ở kia… ừm, vài loài cá, chắc thế rồi.”

      So với nhân viên ở công viên hải dương, ta có vẻ biết nhiều hay cũng chẳng quan tâm nhiều lắm tới mấy chú cá nhắn hơn. Họ qua cái bể khổng lồ đủ các loài nhiệt đới và khi Frank chỉ vô con cụ thể rồi hỏi nó là loài gì, Kate bảo “Ồ, mấy con màu vàng chứ gì nữa.”

      Họ qua hàng bán đồ lưu niệm. Frank chậm lại để xem bàn chất quần áo với đồ chơi thanh lý.

      “Cứ chọn cái cậu muốn,” Kate bảo cậu.

      Frank chớp mắt. “ hả?”

      “Tất nhiên! Cậu là VIP mà!”

      Frank ngập ngừng. Thế rồi cậu nhét vài cái áo phông vô ba lô.

      “Ê cu,” Percy , “cậu làm cái quái gì thế?”

      “Cổ bảo mình lấy được mà,” Frank thầm. “Hơn nữa mình cần thêm quần áo. Mình mang đồ đủ cho cả chuyến dài đâu!”

      Cậu nhét thêm quả cầu tuyết vô chỗ an toàn, cái mà Percy thấy giống quần áo cho lắm. Sau đấy, Frank nhấc cái ống bện dây cỡ thanh kẹo lên.

      Cậu nheo mắt nhìn nó. “Cái quái__?”

      “Khóa tay Trung Quốc[11],” Percy bảo.

      Frank, người Hoa Canada trông có vẻ phật lòng. “Cái món này là thế quái nào?”

      “Tớ chả biết,” Percy . “Người ta gọi nó thế thôi. Nó như kiểu món đồ chơi ấy.”

      nào mấy cậu!” Kate cất tiếng gọi từ bên kia đại sảnh.

      “Tớ chỉ cậu sau,” Percy hứa hẹn.

      Frank nhồi luôn cái khóa tay vô ba lô và họ tiếp tục thẳng bước.

      Họ qua căn hầm nhựa acrylic. Cá bơi đầu họ và Percy cảm thấy hoảng loạn bất hợp lý hình thành trong cổ họng mình.

      Ngu , cậu tự nhủ. Mình ở dưới nước đến cả triệu lần. Mà giờ mình thậm chí còn chả ở trong nước.

      Kate mới là mối đe dọa thực , cậu tự nhắc nhở bản thân. Hedge phát ra phải là người. Bất cứ giây phút nào ả cũng có thể biến thành sinh vật khủng khiếp lao vào tấn công họ.

      may là Percy chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận tham gia tua VIP cùng ta tới khi họ tìm được thần biển Phorcys, kể cả việc ngày càng dấn sâu vào bẫy.

      Họ tiến vô phòng quan sát tràn ngập ánh xanh. Phía kia bức tường kính là bể cá lớn nhất Percy từng thấy. Di chuyển thành vòng là hàng tá những con cá lớn bao gồm cả hai con cá mập đốm[12], mỗi con to gấp đôi Percy. Chúng béo và chậm với cái miệng há to mà chẳng thấy răng đâu.

      “Cá mập voi[13],” HLV Hedge lầm bầm. “Giờ bọn ta đấu đến chết mới ngưng!”

      Kate khúc khích. “Thần rừng ngu ngốc. Cá mập voi rất hiền hòa. Tụi nó chỉ ăn sinh vật phù du thôi.”

      Percy cau mày. Cậu tự hỏi sao Kate biết Huấn Luyện Viên là thần rừng được. Thầy Hedge mặc quần và còn đặc biệt giầy che móng lại như các thần rừng thường làm lúc giả làm người thường cơ mà. Cái mũ bóng chày của ông che luôn sừng lại rồi. Kate càng cười khúc khích và tỏ ra thân thiện, Percy lại càng thích ta, nhưng HLV Hedge lại có vẻ lúng túng là mấy.

      “Những con cá mập hiền hòa ư?” ngài Huấn Luyện Viên chán ghét . “Thế nghĩa là cái quái gì hả?”

      Frank đọc tấm bảng bên cạnh bể cá. “Những con cá mập voi duy nhất được nuôi nhốt thế giới,” cậu ngẫm nghĩ. “Cái đó hay quá nhỉ.”

      “Phải, và đây chỉ là những con thôi,” Kate bảo. “Cậu phải thấy vài trong số những con của tôi sống hoang dã kia.”

      “Con của hả?” Frank hỏi vặn.

      Xét theo những tia ác độc từ mắt Kate Percy chắc chả muốn gặp mấy con của ta chút nào. Cậu quyết định đến lúc thẳng vào vấn đề. Cậu chẳng muốn sâu hơn vào trong công viên hải dương thêm tí nào nữa.

      “Kate này,” cậu cất tiếng, “bọn tôi tìm gã … ý tôi là vị thần, tên Phorcys. có tình cờ biết ông ta ?”

      Kate khịt mũi. “Biết hả? Ảnh là trai tôi mà. Chúng ta tới đó đây, ngốc xít. Những vật trưng bày thứ thiệt phải xuyên qua đây cơ.”

      ra hiệu về bức tường phía xa. Bề mặt đen, rắn gợn sóng và đường hầm khác xuất , dẫn qua cái bể phát quang ánh tím.

      Kate dạo bước vào trong. Điều cuối cùng Percy muốn làm là theo, nhưng nếu Phorcys thực ở phía bên kia và nếu cậu muốn có thông tin hữu ích cho nhiệm vụ của họ … Percy hít hơi sâu rồi dấn bước theo bạn mình vào hầm.

      Ngay khi họ vừa mới vào, HLV Hedge liền huýt sáo vang. “Giờ thú vị rồi đấy.”

      Lướt đầu họ là những con sứa đủ màu sắc kích thước như thùng rác, mỗi con có hàng trăm xúc tu trông như những dọc dây thép gai mịn màng. chú sứa mang con cá kiếm tê liệt dài mười feet quấn trong vòng tua của nó. Chú sứa dần dần quấn tua càng lúc càng chặt hơn quanh con mồi của mình.

      Kate tươi cười với HLV Hedge. “Ông thấy chưa? Quên bọn cá mập voi ! Còn nhiều thứ hơn đây này.”

      Kate dẫn họ vào căn phòng còn lớn hơn, gắn nhiều bể cá hơn nữa. bức tường, dòng biển hiệu phát ánh đỏ công bố: THẦN CHẾT ĐÁY BIỂN SÂU! Tài trợ bởi Quái Vật Donut [14].

      Percy phải đọc dòng biển hiệu hai lần vì mắc chứng khó đọc và thêm hai lần nữa cho ngấm. “Quái Vật Donut?”

      “Ừ phải,” Kate . “ trong những công ty tài trợ của bọn tôi.”

      Percy nuốt nước bọt, trải nghiệm cuối cùng của cậu với Quái Vật Donut lấy gì làm dễ chịu cho lắm. Nó còn bao gồm cả vụ đầu rắn quỷ phun axit, rất nhiều tiếng la hét với khẩu pháo nữa.

      Trong bể cá, tá ngựa cá ngựa[15] – ngựa đuôi cá – trôi dạt tự do. Percy từng thấy rất nhiều ngựa cá ngựa sống ngoài tự nhiên. Cậu còn cưỡi mấy con, nhưng cậu chưa từng thấy con nào trong viện hải dương cả. Cậu cố chuyện với chúng, nhưng chúng cứ trôi lòng vòng, thỉnh thoảng lại va vào mặt kính. Đầu óc chúng có vẻ luẩn quẩn rối rắm quá chừng.

      “Thế này ổn chút nào,” Percy lẩm bẩm.

      Cậu quay và lại thấy có cái còn tệ hơn. Ở đáy bể , hai Nereid[16]_những nữ thần biển_đang ngồi xếp bằng, đối mặt với nhau và chơi trò Go Fish[17]. Họ trông nhàm chán cùng cực. Mái tóc xanh dài của họ uể oải bồng bềnh quanh mặt. Mắt họ khép hờ.

      Percy thấy giận giữ tột độ và cậu khó mà thở nổi. Cậu nhìn Kate chòng chọc. “Sao có thể giữ họ lại đây kia chứ?”

      “Tôi hiểu.” Kate thở dài. “Họ thích thú gì cả. Chúng tôi cố dạy họ vài trò, nhưng e là chẳng có chút cơ may nào. Tôi nghĩ cậu thích bể bên này hơn nhiều.”

      Percy bắt đầu phản đối, nhưng Kate tiếp.

      “Ôi Mẹ Dê Thánh Thần ơi!” HLV Hedge thốt lên. “Nhìn mấy người đẹp đây mà xem!”

      Ông trố mắt nhìn hai con rắn quỷ biển dài 30 feet vảy ánh xanh rực rỡ với những bộ hàm có thể cắn con cá mập voi làm đôi. Trong bể khác, lấp ló nhìn trộm ra từ cái hang xi măng của mình là con mực ống cỡ xe 18 bánh[18]có mỏ như cái kìm cắt thép[19]khổng lồ.

      chiếc bể thứ ba chứa tá sinh vật hình người có phần thân hải cẩu mỡ màng, mặt giống chó và tay người. Chúng ngồi mặt cát trong bể, lắp ghép mấy thứ bằng Lego[20], tuy thế những sinh vật này trông cũng mụ mị hệt các Nereid.

      “Đó có phải__?” Percy vật lộn định hình câu hỏi.

      “Telkhine[21]?” Kate . “Phải đấy! Những con duy nhất được nuôi nhốt.”

      “Những chúng chiến đấu cho Kronos trong trận chiến cuối cùng!” Percy bảo. “Chúng rất nguy hiểm!”

      Kate đảo mắt. “Ừm, ta thể gọi là ‘Thần Chết Đáy Biển Sâu’ nếu triển lãm nguy hiểm được. Đừng lo. Bọn tôi luôn khiến chúng an thần mà.”

      “An thần?” Frank hỏi. “Có hợp pháp đấy?”

      Kate có vẻ như nghe thấy. ta cứ tiếp, giới thiệu những vật trưng bày khác. Percy ngoảnh lại nhìn lũ Telkhine. tên ràng là thiếu nhiên. Nó cố gắng tạo cái gươm bằng Lego, nhưng có vẻ quá chếnh choáng để ghép các mảnh vào với nhau. Percy chưa bao giờ thích tụi quái vật biển, nhưng giờ cậu thấy thương cho chúng.

      “Và đây chính là là những con quái vật biển,” Kate kể tiếp, “có thể phát triển dài tới 500 bộ ở vùng đại dương sâu thẳm. Chúng có hơn ngàn cái răng. Và những con này? Món ưa thích của chúng là các á thần__”

      “Á thần?” Frank thốt lên.

      “Những chúng cũng ăn cá voi hoặc tàu nữa.” Kate quay sang Percy đỏ mặt. “Xin lỗi…Tôi đúng là đồ quái vật quái gở! Tôi chắc cậu biết hết mấy thứ này, con trai Poseidon mà.”

      Tai Percy rung lên như chuông báo động. Cậu thích Kate biết nhiều về cậu như thế. Cậu thích cái cách ta tình cờ hé ra chút thông tin về những sinh vật bị đánh thuốc rồi giam cầm, hay về mấy con thích ăn tươi nuốt sống á thần của ta.

      ai?” cậu hỏi. “Kate là biểu trưng cho cái gì đó phải ?”

      “Kate?” bối rối trong giấy lát. Thế rồi liếc nhìn thẻ tên mình. “Ồ…” cười. “, đó là__”

      “Xin chào!” giọng mới cất lên, vang khắp cả viện hải dương.

      người đàn ông bé chìm trong bóng tối. Gã ngang bằng đôi chân cong hệt con cua, lưng hơi khòm, hai cánh tay giương lên hai bên như cái đĩa vô hình.

      Gã mặc bộ đồ ướt nhẹp với đủ các kiểu xanh khủng khiếp. Dòng chữ bạc lấp lánh in dọc bên ghi: NHỮNG KẺ ĐIÊN RỒ CỦA PORKY. mic đeo tai[22]kẹp qua mái tóc cứng nhờn của gã. Mắt gã xanh biển đục, bên cao bên thấp và dù có cười trông gã cũng chả thân thiện chút nào mà giống như mặt bị dồn da trong hầm gió[23].

      “Khách quý!” người đàn ông , từng từ như sấm rền qua mic. Gã có giọng của DJ, sâu và vang, chẳng ăn nhập với ngoại hình gã chút nào. “Chào mừng đến với Những kẻ điên rồ của Phorcys!”

      Gã quét tay theo hướng như thể hướng chú ý của họ tới vụ nổ nào đó. Chẳng có gì xảy ra.

      “Mẹ nó,” người đàn ông càu nhàu. “Telkhine, gợi ý cho tụi bây đấy! Tao vẫy tay và bay phải nhảy hăng hái trong bể, quay đôi đồng thời và kết thúc bằng màn xếp hình kim tự tháp chớ. Bọn ta luyện tập rồi cơ mà!”

      Mấy con quỷ biển chả quan tâm gì đến gã.

      HLV Hedge rướn người về phía gã người cua và khịt khịt đánh hơi bộ đồ ướt nhẹp lóng lánh của gã. “Đồ đẹp đấy.”

      Nghe có vẻ như ông đùa. Tất nhiên, vị thần rừng chỉ mặc đồng phục phòng tập cho vui thôi.

      “Cảm ơn!” Người đàn ông cười rạng rỡ. “Tôi là Phorcys.”

      Frank chuyển trụ từ chân này sang chân kia. “Sao bộ đồ của ông ghi là Porky?”

      Phorcys gầm gừ. “Cái công ty may đồng phục ngu ngốc! Bọn chúng cóc làm được cái quái gì cho chuẩn cả.”

      Kate vỗ và tấm thẻ tên của mình. “Tôi bảo chúng tên tôi là Keto. Chúng viết sai chính tả thành Kate. tôi…ừm, giờ thành Porky mấy rồi.

      !” người đàn ông ngắt lời. “Tôi còn chả phải chú heo Porky[24] nhắn xinh xắn nữa kia. Cái tên cũng chả hợp với Những kẻ điên rồ tí nào. Có show diễn nào gọi là Những kẻ điên rồ của Porky ? Nhưng lũ người các ngươi đâu có chịu nghe bọn tôi giải thích cơ chứ. Này đây, uy nghi kì mỹ của mực sát thủ khổng lồ!”

      Gã đột ngột ra hiệu về phía cái bể mực. Lần này, pháo hoa bắn ra phía trước tấm kính ngay lúc đó, tỏa ánh vàng lấp lánh lên những mạch nước phun. Nhạc cất lên từ các loa phóng thanh. Đèn sáng lên và để lộ ra vẻ uy nghi kì mỹ của cái bể trống.

      Con mực dường như trốn trở lại cái hang của mình.

      “Khốn nạn!” Phorcys lại la lên lần nữa. Gã quay sang em . “Keto, huấn luyện con mực là việc của em đấy. Tung hứng, bảo rồi. Có thể để nó xé chút thịt trong màn tổng kết. Đòi hỏi thế có gì là quá nhiều hả?”

      “Nó thẹn,” Keto chống đối cãi. Hơn nữa mỗi xúc tu sáu hai ngạnh của nó phải được mài sắc mỗi ngày.” quay sang Frank. “Cậu có biết bọn mực khổng lồ là loài quái thú duy nhất biết ăn tổng thể các á thần, cả giáp với mọi thứ mà mắc chứng khó tiêu ? thế đấy!”
      Frank loạng choạng tránh xa ta và ôm lấy bụng mình như thể muốn chắc rằng mình vẫn nguyên cả mảnh.

      “Keto!” Porky táp__theo nghĩa đen, bởi gã nhấp các ngón tay của mình vô ngón tay cái như cái càng cua. “Em làm khách của tụi này chán ốm vì lắm thông tin như vậy. Dạy ít, chơi nhiều! Vừa bàn luận xong còn gì nữa.”

      “Nhưng___”

      nhưng nhị gì sất! Tụi này ở đây để trình diễn ‘Thần Chết Đáy Biển Sâu!’ tài trợ bởi Quái vật Donut!”

      Từ cuối cùng vang dội tiếng vọng khắp phòng. Đèn lóe lên. Mây khói bốc lên từ dưới sàn tạo ra hình vòng Donut có mùi như bánh donut .

      “Sẵn có tại các quầy hàng[25]” Phorcys gợi ý. “Nhưng do các cậu mới chi ra những đồng denarii hiếm có khó tìm để dự tua VIP nên được miến phí! Theo tôi nào!”

      “Ừm, khoan ,” Percy bảo.

      Nụ cười của Phorcys tan chảy ra theo cách xấu xí kinh người. “Ừ?”

      “Ông là thần biển hả?” Percy hỏi. “Con trai Gaea?”

      Gã người cua thở dài. “Năm ngàn năm rồi mà tôi vẫn được biết đến là thằng cu con Gaea. Chẳng thèm bận tâm tôi là trong những thần biển lâu đời nhất còn tồn tại. Nhân tiện, còn lâu đời hơn cả lão cha mới đảm nhiệm của cậu. Tôi là vị thần của những vực sâu mình! Chúa tể của những nỗi kinh hoàng nơi nước thẳm! Cha của cả ngàn con quái vật! Nhưng …thậm chí chả ai thèm biết đến tôi. Tôi chỉ mắc có cái lỗi bé téo tẹo tèo teo là ủng hộ các Titan trong trận chiến của họ và bị trục xuất khỏi biển khơi__đến Atlanta, ở bất cứ đâu.”

      “Bọn tôi cứ nghĩ các vị thần bảo là Atlantis[26],” Keto giải thích. “Tôi đoán chắc họ đùa, thay vào đó lại đưa bọn tôi tới đây.”

      Percy nheo nheo mắt. “Và là nữ thần?”

      “Keto, phải!” cười sung sướng. “Nữ thần của các quái vật biển, tất nhiên là thế! Cá voi, cá mập, mực và cả những sinh vật biển khổng lồ khác nữa, nhưng trái tim tôi luôn thuộc về những chú quái vật. Các cậu có biết lũ rắn biển[27]non có thể lưu lại thịt của nạn nhân nguyên trạng cho cùng bữa ăn trong vòng sáu năm ? thế đấy.”

      Frank vẫn ôm bụng như sắp ốm đến nơi.

      HLV Hedge huýt sáo. “Sáu năm? Hấp dẫn thế.”

      “Tôi biết mà!” Keto cười toe.

      “Và chính xác con mực sát thủ xé thịt nạn nhân thế nào?” thầy Hedge hỏi. “Tôi thiên nhiên.”

      “Ồ, thì__”

      “Dừng!” Phorcys cầu. “Các người hủy hoại show diễn đấy! Giờ đây, hãy chứng kiến những Nereid giác đấu tẩn nhau chí mạng!”

      quả đèn cầu gương Disco[27a]được thả vô bể triển lãm các Nereid, khiến cho mặt nước nhảy múa với làn ánh sáng đa sắc đa màu. Hai thanh kiếm rơi xuống đáy bể và đáp phịch xuống mặt cát. Các Nereid phớt lờ chúng, tiếp tục chơi bài Go Fish.

      “Cha mày!” Phorcys dậm bên chân.

      Keto nhăn mặt với HLV Hedge. “Đừng bận tâm tới Porky. ta đúng là đồ lắm mồm. Theo tôi, thần rừng tử tế. Tôi cho xem biểu đồ đủ sắc thái về những thói quen săn bắt của lũ quái vật.”

      “Quá !”

      Trước khi Percy có thể chối từ, Keto dẫn HLV Hedge qua mê cung kính hải dương, bỏ lại mình Frank cùng cậu với gã thần biển cáu kỉnh.

      giọt mồ hôi chảy dọc xuống cổ Percy. Cậu với Frank nhìn nhau đầy lo lắng. Việc này cảm giác như chiến lược chia-rồi-đánh. Cậu thấy cuộc gặp gỡ chẳng có cách nào kết thúc tốt đẹp cho nổi. Phần nào trong cậu muốn tấn công Phorcys ngay tức thì__ít ra có khi họ được yếu tố bất ngờ__nhưng họ vẫn chưa tìm được bất cứ thông tin nào cần thiết. Percy chắc cậu có thể tìm lại được HLV Hedge. Cậu còn chả chắc mình tìm được lối thoát hiểm.

      Phorcys chắc đọc được nét mặt cậu.

      “Ồ, sao đâu!” vị thần cam đoan với cậu. “Keto có thể hơi chán tí, nhưng nó trông coi tốt bạn cậu thôi. Và thành thực mà , vẫn chưa tới màn hay nhất của chuyến đâu!”

      Percy cố nghĩ, nhưng cậu bắt đầu thấy đau đầu. Cậu chắc có phải là bởi vết thương hôm qua, vì ảnh hưởng của Phorcys hay do bài giảng của em ông ta về đáng tởm của lũ quái vật biển nữa. “Thế…” cậu kiềm chế. “Dionysus gửi chúng tôi tới đây.”

      “Bacchus,” Frank sửa lại.

      “Phải.” Percy cố gắng giấu vẻ khó chịu. Cậu hầu như nhớ nổi từng cái tên của mỗi vị thần. Hai cái càng . “Thần rượu nho. Gì cũng được.” Cậu nhìn Phorcys. “Bacchus bảo có thể ông biết mẹ Gaea của ông định làm gì và cả hai người em sinh đôi của ông__ Ephialtes với Otis nữa. Và nếu ông tình cờ biết được bất cứ điều gì về Dấu Hiệu Athena___”

      “Bacchus nghĩ tôi giúp các cậu ư?” Phorcys hỏi gặng.

      “Ừm, phải,” Percy . “Ý tôi là, ông là Phorcys mà. Mọi người thường về ông.”

      Phorcys nghiêng đầu nên đôi mắt chẳng ăn nhập gì với nhau của gã gần như xếp thành hàng.

      “Tất nhiên rồi. Phải thế , Frank?”

      “Ờ…chắc chắn đấy!” Frank bảo. “Mọi người cứ về ông luôn.”

      “Họ gì thế?” vị thần hỏi.

      Frank trông thoải mái lắm. “Ừm, ông có pháo hoa rất đẹp. Và cả chất giọng diễn giả tuyệt vời. Với, ừm, quả đèn Disco__”

      “Phải rồi!” Phorcys thích thú đập lách cách mấy ngón tay mình với ngón cái. “Tôi cũng có bộ sưu tập quái vật biển nuôi nhốt lớn nhất thế giới nữa!”

      “Và ông còn biết nhiều thứ nữa,” Percy chêm vô. “Như là về hai gã sinh đôi hay là việc chúng định làm nữa.”

      “Cặp song sinh!” Phorcys tự tạo tiếng vang cho giọng mình. Pháo hoa sáng rực bắn ra trước bể hai con rắn biển. “Phải, tôi biết tất cả về Ephialtes với Otis. Lũ ngông cuồng! Chúng chẳng bao giờ hòa nhập với những người khổng lồ khác. Quá bé__lại còn chân rắn nữa chứ.”

      “Chân rắn?” Percy nhớ lại chiếc giày cong mũi nhọn hai gã song sinh trong giấc mơ của cậu.

      “Phải, phải,” Phorcys thiếu kiên nhẫn . “Chúng biết rằng thể tồn tại bằng sức mạnh của mình nên quyết định đến với kịch__ảo tưởng, thủ thuật sân khấu, đại loại là mấy thứ đấy. Các cậu biết đấy, Gaea định hình con mình tương ứng với kẻ thù cụ thể. Mỗi khổng lồ được sinh ra để giết vị thần nào đó. Ephialtes với Otis … ừm, chúng kiểu như loại chống Dionysus.”

      Percy cố gắng bao bọc tâm trí của mình lại quanh ý nghĩ đó. “Thế chúng muốn thay thế rượu bằng nước nam việt quất[28]hay gì gì đó hả?”

      Vị thần biển khịt mũi.” phải giống thế!” Ephialtes và Otis luôn muốn làm mọi thứ tốt hơn, hào nhoáng hơn, ngoạn mục hơn! Ồ, tất nhiên là chúng muốn giết Dionysus nữa. Nhưng trước tiên chúng muốn làm bẽ mặt ông ta bằng cách khiến cho những cuộc chè chén của ông ta nhạt nhẽo vô vị.”

      Frank liếc nhìn mấy cây pháo hoa. “Bằng cách dùng những thứ như pháo hoa hay đèn disco?”

      Miệng Phorcys lại ngoác ra thành nụ cười trong hầm gió. “Chính xác! Tôi dạy chúng tất cả mọi thứ chúng biết hay ít nhất là tôi cố dạy. Chúng chả bao giờ lắng nghe. Vụ to tát đầu tiên của chúng ấy hử? Chúng cố leo lên đỉnh Olympus bằng cách chồng núi này lên đỉnh núi kia. Tất nhiên chỉ là ảo tưởng. Tôi bảo chúng nó việc đó nực cười. ‘Bay nên bắt đầu bằng cái gì be bé thôi,’ tôi . ‘Cưa đôi người nhau hay là kéo lũ Gorgon ra từ 1 chiếc mũ. Mấy việc kiểu đấy đấy. Với lại đính kim sa vô áo nữa. Tụi sinh đôi cần mấy cái đó!”

      “Khuyên hay đấy,” Percy đồng tình. “Và giờ hai tên song sinh__”

      “Ồ, chuẩn bị cho show ngày tận thế ở Rome,” Phorcys chế nhạo. “ trong những ý tưởng ngu ngốc của Mẹ. Bọn nó giam tên tù nhân trong cái hạp đồng lớn.” Gã quay sang Frank. “Cậu là đứa con của Ares hử? Cậu có cái mùi đấy. Hai thằng cũng từng cầm tù cha cậu như thế.”

      “Con của Mars,” Frank sửa lại. “Chờ chút…mấy gã khổng lồ đó từng nhốt cha tôi vô cái hạp đồng hả?”

      “Phải, trò ngu xuẩn nữa,” vị thần biển bảo. “Làm sao cậu có thể khoe ra tù nhân nếu nhốt gã trong cái hạp đồng chớ? Chả có chút giá trị giải trí nào cả. như mấy mẫu vật của tôi.

      Gã ra hiệu chỉ lũ cá ngựa thờ ơ gõ đầu boong boong vô mặt kính.

      Percy gắng suy nghĩ. Cậu thấy như lơ mơ của những sinh vật biển lẩn thẩn bắt đầu ảnh hưởng tới mình. “Ông vụ__vụ show ngày tận thế là ý của Gaea?”

      “Phải…kế hoạch của Mẹ luôn có rất nhiều lớp.” Gã cười lớn. “Trái đất có nhiều tầng mà! Tôi cho rằng cái đó rất ý nghĩa đấy!”

      “À-há,” Percy . “Và thế kế hoạch của bà ta…”

      “Dào, bả đặt món tổng tiền thưởng cho nhóm á thần nào đó,” Phorcys . “Bả chả quan tâm ai giết tụi nó, miễn chúng bị giết là được. Ờ…tôi xin lại. Bả bảo cụ thể có hai đứa phải được tha. nam nữ. Chỉ Tartarus[29]mới biết sao lại thế. Dù sao chăng nữa, tụi song sinh cũng có người lên kế hoạch cho cái show nho của chúng và hy vọng rằng nó thu hút các á thần tới Rome. Tôi cho rằng tù nhân trong hạp là người bạn của họ hay ai đó tương tự. Hoặc thế, hoặc là chúng nghĩ nhóm á thần này đủ ngu mà dấn thân vô lãnh địa của chúng để kiếm Dấu hiệu Athena.” Phorcys thúc vô xương sườn Frank. “Ha! Chúc may mắn với cái đó, nhá?”

      Frank cười lo lắng. “Phải. Ha ha. Cái đó ngu bởi, a…”

      Phorcys nheo mắt.

      Percy trượt tay vô túi. Cậu siết tay quanh thanh Thủy Triều. Thậm chí vị thần biển này cũng đủ thông minh để nhận ra họ là lũ á thần với tiền thưởng lủng lẳng đầu.

      Nhưng Phorcys chỉ nhe răng cười và huých khủy tay vô Frank lần nữa. “Hà! Tốt nhỉ, con trai Mars. Tôi cho rằng cậu đúng. thế cũng chả ích gì. Dù mấy á thần có tìm được bản đồ ở Charleston nữa cũng chả còn sống mà tới kịp Rome.

      “Vâng, cái BẢN ĐỒ Ở CHARLESTON,” Frank lớn, mở to mắt nhìn Percy để đảm bảo rằng cậu bỏ lỡ cái tin ấy. Cậu cũng chả hơn được nữa nếu cầm biển hiệu ghi chữ MANH MỐI!!!!!

      “Nhưng thông tin dạy bảo đủ rồi nhé!” Phorcys . “Các cậu trả tiền để được ưu đãi kiểu VIP. Vui lòng cho tôi hoàn thành tua này nhé? Khoản phí 3 dinarii là hoàn trả, các cậu biết đấy.”

      Percy thích thú gì thêm mấy cái pháo hoa, khói mùi donut hay mấy sinh vật biển chán nản bị nuôi nhốt. Nhưng cậu liếc nhìn Frank và quyết định rằng tốt hơn hết là nên chiều lòng vị thần biển già cáu kỉnh, ít nhất cho đến khi tìm thấy HLV Hedge và an toàn cho đến lúc ra. Hơn nữa, họ có thể moi thêm thông tin từ Phorcys.

      “Sau rồi,” Percy bảo, “bọn tôi hỏi mấy câu được chứ?”

      “Tất nhiên! Tôi với cậu tất cả những gì cậu cần biết.” Phorcys táp tay hai lần. bức tường dưới biển hiệu chói sáng ra đường hầm mới, dẫn tới cái bể khác.

      theo này[30]!” Phorcys hấp tấp ngang phè qua hầm.

      Frank gãi đầu. “Bọn mình có phải___?” Cậu xoay ngang người.

      “Chỉ là cách thôi, bạn,” Percy bảo. “ nào.”





      [1] forested hill: đồi được trồng rừng, phủ xanh, phải đồi trọc
      [2] William Tecumseh Sherman (8 tháng 2 năm 1820 – 14 tháng 2 năm 1891), là tướng của quân đội Liên bang miền Bắc thời Nội chiến Hoa Kỳ. Tuy nổi tiếng tài giỏi về chỉ huy chiến thuật, ông cũng bị chỉ trích vì sử dụng chiến thuật tiêu thổ tàn bạo theo đường hướng chiến tranh toàn diện đối với địch quân. Nhà sử học Basil Liddell Hart cho rằng Sherman là “tướng lĩnh đầu tiên của nền quân đại”. Xem thêm
      [3] “When in doubt, start in the middle.” khá vần, có thể là thành ngữ
      [4] Carter Center- tổ chức phi chính phủ và phi lợi nhuận thành lập năm 1982.Xem thêm
      [4a] Lilac-Loài thực vật có hoa thuộc họ Ô liu (Oleaceae), có nguồn gốc ở châu Âu và châu Á, có hoa rất đẹp, thường có màu tìm nên hay gọi là Tử Đinh Hương, cũng có các màu khác như hồng, trắng, cây thân gỗ cao lắm, thường trồng làm cảnh. Xem thêm

      [5] polymorph, 1 từ khá lạ
      [6] day camp-trại hè cho trẻ tiểu học, hoạt động ban ngày và trẻ em được về nhà vào buổi tới chứ ở lại cả ngày lẫn đên như các trại thông thường
      [7] denarius, số nhiều là denarii-đồng bạc của Đế chế La Mã cổ. Xem thêm

      [8] VIP có 2 nghĩa. Nghĩa chính thống: very important person – người rất quan trọng và nghĩa chính thống, mỉa mai: very impolite person – người vô cùng bất lịch .
      [9] polo shirt: áo phông có cổ như cổ sơmi

      [10] beluga whale – cá voi trắng

      [11] Chinese handcuffs hay Chinese finger trap là loại đồ chơi kết bằng mây tre của Trung Quốc, có dạng ống, 2 đầu to hơn ở giữa để khóa ngón tay nạn nhân lại, cho vào dễ mà rút ra rất khó, khi rút ra, phần giữa co lại, hai phần đầu mềm dẻo dù phình ra vẫn bám chặt vô tay, trò đùa được giới trẻ khá thích nay. Xem thêm

      [12] spotted shark – cá mập đốm hay cá mập voi đốm

      [13] whale shark – cá mập voi, cá nhám voi, rất hiền hòa với con người, có lẽ cũng chính là loài chỉ do nhiều tên gọi khác nhau thôi. Xem thêm
      [14]Monster Donut: Là chuỗi cửa hàng bán donut ở Mỹ. Chuỗi cửa hàng này có liên quan mật thiết tới nguồn sinh lực của quái vật nhiều đầu Hydra. Cứ mỗi lần hai cái đầu của Hydra mọc lên sau khi cái đầu bị chặt lại xuất thêm cửa hàng Monster Donut mới.
      [15] hippocampi—horse – ngựa cá ngựa, sinh vật biển có nửa thân là ngựa, nửa thân dưới là cá với vảy bạc và vây đuôi màu cầu vồng, là con vật kéo xe cho Poseidon. Bọt biển được tạo ra là do chúng di chuyển.

      [16] Nữ thần biển hay Nereid (chữ Hy Lạp: νεράϊδα, neráïda) là những thần nữ sống ở vùng biển trong thần thoại Hy Lạp cổ đại, những thần nữ này có nhiều điểm tương đồng với nàng tiên cá. Những nữ thần biển này gồm năm mươi con của Nereus và Doris chị em Nerites. Họ thường theo Vua thủy tề Poseidon và có thể thân thiện và hữu ích cho các thủy thủ để giúp họ đối đầu với những cơn bão nguy hiểm. Xem thêm

      [17] Go Fish _ 1 kiểu chơi bài gồm tất cả 52 cây. Xem thêm
      [18] xe 18 bánh – 1 loại xe tải lớn gồm 18 bánh xe

      [19] bolt cutter – kìm cắt thép loại lớn

      [20] Lego (được đăng kí tên thương mại là chữ in hoa LEGO) là dòng sản phẩm đồ chơi xếp hình phổ biến được tập đoàn Lego chế tạo. Tập đoàn này thuộc sở hữu riêng có trụ sở tại Billund, Đan Mạch. Lego là sản phẩm quan trọng nhất của công ty. Nó bao gồm những thanh nhựa hình viên gạch nhiều màu cài được vào nhau, hình nhân mini và nhiều bộ phận khác. Những viên gạch lego có thể được lắp ráp và kết nối theo nhiều cách để tạo ra nhiều đồ vật như là xe cộ, tòa nhà và cả những robot làm việc. Bất cứ thứ gì đều có thể tháo rời sau khi lắp ghép và các mảnh ghép được dùng để tạo ra những cái mới. Lego bắt đầu sản xuất những viên gạch đồ chơi cài được với nhau vào năm 1949. Kể từ đó, “tiểu văn hóa” Lego toàn cầu phát triển, hỗ trợ phát triển cho các phim, các trò chơi, các cuộc thi và năm công viên giải trí theo chủ đề này.Xem thêm
      [21] Telkhine hay Telchine là loài quái vật biển hình người trong thần thoại Hy Lạp.Xem thêm
      [22] headset microphone – mic đeo tai

      [23] kiểu như da mặt bị dồn lại ở phần miệng do gió như khi giọt nước rơi xuống mặt nước lặng.
      [24] heo Porky, 1 nhân vật hoạt hình

      [25] concession stand – các quầy phục vụ tại rạp chiếu phim, sân vận động, nhà hát,…

      [26] Ngày nay có rất nhiều giả thuyết về lục địa Atlantis (tiếng Hy Lạp, Ἀτλαντὶς νῆσος, “đảo Atlas”). Lục địa Atlantis từ lâu thu hút được quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học toàn thế giới. Dựa những tài liệu đáng tin cậy, người ta xây dựng rất nhiều những giả thuyết khác nhau về lục địa này. Xem thêm

      [27] Sea serpent – rắn biển, rắn quỷ biển hay rồng biển. Ở đây chỉ loại quái vật biển trong truyền thuyết, rất lớn, hung dữ, thường ăn thịt thủy thủ đoàn biển. Xem thêm

      [27a] mirrored disco ball – 1 quả bóng hình cầu, mặt ngoài gắn nhiều gương để phản chiếu ánh đèn trong sàn Disco

      [28] Mạn việt quất hay Nam việt quất (tiếng Hán Việt có nghĩa là “việt quất (dây) leo”, tiếng là Cranberry), là loài cây bụi thấp xanh quanh năm, cũng có thể mọc theo dạng dây bò đất, thuộc chi Việt quất (Vaccinium), phân chi Oxycoccos, đôi khi cũng được xem theo chi riêng là Oxycoccos. nam việt quất thường mọc dại ở các vùng đầm lầy phân hóa (có nhiều than bùn) ở miền ôn đới Bắc bán cầu. Nhánh nam việt quất mỏng, có thân gỗ cứng, lá xanh quanh năm, hoa màu hồng sẫm, thụ phấn bằng ong mật. Trái nam việt quất to hơn lá, lúc màu trắng, sau chuyển màu dần sang đỏ thẫm khi chín hẳn. Trái nam việt quất ăn được, có vị chua gắt lấn át vị ngọt ngay cả khi chín. Xem thêm

      [29] Trong thần thoại Hy Lạp, bên dưới Trời (Uranus), Đất (Gaia) và Đại dương (Pontus) là Vực thẳm (Tartarus) (tiếng Hy Lạp: Τάρταρος). Trong thần thoại, nơi này được miêu tả như là chốn sâu thẳm, tối tăm, hoặc như là vực sâu đáy. Hades có thể được hiểu như phủ, nơi mà linh hồn người chết quay về sau khi từ giã cuộc sống, và Tartarus, phần của Hades, có thể được hiểu như Địa ngục, nơi những linh hồn tội lỗi chịu đày đọa và trừng phạt. Trong tập Gorgias, Platon viết rằng những linh hồn chịu phán xét sau khi chết, và những kẻ bị buộc tội bị đày xuống Tartarus. Tương tự như những thực thể nguyên thủy trong thần thoại Hy Lạp như Uranus (Trời), Gaia (Đất), Pontus (Đại dương) hay Hades ( phủ), Tartarus cũng được nhắc đến như thế lực sơ khai, vị thần. Đây cũng là nơi giam cầm cá Titan chống lại các vị thần mãi mãi. Đây cũng là tên 1 vị thần. Xem thêm
      [30] Nguyên văn là “Walk this way” vừa có thể hiểu là “ lối này” vừa có thể hiểu là “ kiểu này” nên mình chọn từ “theo” là từ có nghĩa chung chung nhất, sát ý với tác giả nhất để thay thế, vừa có thể hiểu là theo kiểu Phorcys , vừa có thể hiểu là theo đường ổng .

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena _ Chương 16
      Percy

      ĐƯỜNG HẦM CHẠY DỌC DƯỚI BỂ KÍNH CỠ PHÒNG TẬP THỂ THAO. Ngọai trừ nước và ít đồ trang trí rẻ tiền, cái bể có vẻ trống trải cách hoành tráng. Percy ước chừng phải có đến năm mươi nhàn gallon nước đầu bọn họ. Nếu vì lí do nào đấy mà đường hầm này sập xuống…

      Chẳng có gì to tát cả. Percy nghĩ. Mình từng bị nước vây quanh cả nghìn lần rồi. Đây là sân nhà mình.

      Nhưng tim cậu lại đập như sấm. Cậu nhớ lần mình bị chìm trong hố lầy Alaska lạnh lẽo – bùn đen che kín mắt, miệng và mũi cậu.

      Phorcys đứng lại giữa đường hầm và tự hào dang tay. “Chỗ trưng bày đẹp đấy chứ hả?”

      Percy cố làm mình xao lãng bằng cách tập trung vào các chi tiết. Trong góc bể, chen giữa rừng tảo bẹ giả là ngôi nhà bánh quy gừng bằng nhựa to như với bong bóng chui ra từ ống khói mái nhà. Ở góc đối diện là bức tượng bằng nhựa, hình người mặc đồ lặn kiểu cổ quỳ gối bên cái rương châu báu cứ vài giây lại mở ra lần, nhả bong bóng, rồi lại đóng lại. Rải tứ tung nền cát trắng là những viên cuội thủy tinh to cỡ quả bóng bowling và loạt những thứ vũ khí kì lạ như đinh ba và súng bắn lao[1]. Bên ngoài bức tường trưng bày của bể kính là khán đài với sức chứa khoảng vài trăm người.

      “Ông nuôi thứ gì trong đó thế?” Frank hỏi. “Cá vàng khổng lồ ăn thịt người?”

      “Ố, cũng hay đó! Nhưng, , Frank Trương, hậu duệ của Poseidon ạ, bể này phải để nuôi cá vàng.”

      Nghe đến hậu duệ của Poseidon, Frank nhăn mặt. Cậu lùi lại, nắm chặt cái ba lô của mình như cầm cái chùy mà cậu sắp vung lên.

      Cảm giác ghê sợ giọt xuống cổ họng Percy như si-rô ho. may là, đó lại là cảm giác quen thuộc đối với cậu.

      “Sao ông lại biết tên họ của Frank?” Cậu chất vấn. “Sao ông biết cậu ấy là hậu duệ của Poseidon?”

      “Chà…” Phorcys nhún vai, tỏ vẻ khiêm tốn “Có lẽ nó nằm trong mô tả mà Gaea cung cấp. Cậu biết đấy, treo thưởng để truy nã, Percy Jackson ạ.”

      Percy mở nắp cây bút của mình. Lập tức, thanh Thủy Triều xuất trong tay cậu. “Đừng lập lờ đánh lận với tôi, Phorcys. Ông hứa trả lời những câu hỏi của tôi.”

      “Sau dịch vụ tiếp đãi VIP, đúng vậy.” Phorcys đáp. “Tôi hứa cho cậu biết tất cả những gì cậu cần biết. Tuy nhiên, vấn đề là cậu thực cần biết gì cả.” Nụ cười kệch cỡm của ông ta nở rộng hơn. “Hai cậu thấy đấy, ngay cả khi các cậu kịp đến được Rome, mà điều đó khá là bất khả thi, các cậu cũng chẳng bao giờ đánh bại được mấy thằng em khổng lồ của ta nếu vị thần trợ giúp. Mà vị thần nào giúp các cậu kia chứ? Vậy nên ta có kế hoạch hay ho hơn. Các cậu ở lại đây. Các cậu là các VIP – tù nhân đặc biệt quan trọng (Very Important Prisoners).

      Percy đột ngột đâm mạnh mũi kiếm. Frank quăng mạnh cái ba lô của cậu vào đầu gã thần biển. Phorcys chỉ đơn giản là biến mất.

      Giọng của gã thần biển vang dội qua hệ thống phát thanh của khu thủy cung, vọng lại trong đường hầm. “Được, tốt! Đánh nhau là tốt! Các cậu thấy đó, Mẹ chẳng bao giờ giao phó cho ta mấy nhiệm vụ lớn lao cả, nhưng bà đồng ý cho ta giữ bất cứ thứ gì ta bắt được. Các cậu là những vật trưng bày tuyệt vời – dòng giống Poseidon duy nhất được nuôi nhốt. ‘Nỗi sợ hãi của á thần’ – tuyệt, ta khoái cái đó. Ta nguồn tài trợ từ Bargan Mart chờ sẵn. Hai cậu có thể đấu với nhau vào lúc mười giờ và giờ trưa, thêm chương trình buổi tối vào bảy giờ tối.

      “Ông điên rồi!” Frank hét lên.

      “Đừng tự hạ thấp bản thân thế chứ.” Phorcys . “Các cậu là hai thỏi nam châm hút khách lớn nhất của chúng tôi đấy.”

      Frank chạy về phía lối ra, chỉ để đâm vào bức tường kính. Percy chạy theo lối khác và thấy nó cũng bị chặn. Đường hầm chứa họ biến thành cái bong bóng. Cậu đặt tay lên mặt kính và nhận thấy nó mềm ra, tan chảy như băng. Nước sớm ập xuống.

      “Bọn tôi hợp tác đâu, Phorcys!” Cậu quát lên.

      “Ồ, ta rất lạc quan mà.” Giọng ông thần oang oang. “Nếu ban đầu các cậu muốn đánh nhau, thành vấn đề! Ta có thể đưa đến đám thủy quái mới toanh mỗi ngày. Sau khi quen với thức ăn ở đây, các cậu được thuần hóa tử tế và làm theo những gì được bảo. Tin ta , rồi các cậu thích nhà mới của mình cho mà xem.”

      Phía đầu Percy, mái vòm bằng kính nứt ra và bắt đầu rò rỉ nước.

      “Tôi là con trai Poseidon!” Percy cố gạt nỗi sợ ra khỏi giọng của cậu. “Ông thể giam cầm tôi trong nước. Đó là nơi tôi mạnh nhất.”

      Tiếng cười của Phorcys dường như đến từ khắp nơi quanh họ. “Trùng hợp làm sao! Đó cũng là nơi ta trở nên mạnh nhất. Cái bể này được thiết kế đặc biệt để chứa á thần đó. Giờ, vui vẻ nhá, hai cậu trai. Ta gặp lại các cậu vào giờ ăn!”

      Mái vòm thủy tinh nát vụn và nước ập xuống đầu bọn họ.

      Percy nín thở tới khi cậu thể nhịn được nữa. Khi cuối cùng cậu cũng hít đầy nước vào hai lá phổi, cảm giác lại như thở bằng khí bình thường. Áp lực nước hề ảnh hưởng tới cậu. Quần áo của cậu thậm chí còn bị ướt. Khả năng dưới nước của cậu vẫn tốt như mọi khi.

      Chỉ là sợ bóng sợ gió ngớ ngẩn, cậu tự trấn an. Mình chẳng chết đuối được.

      Rồi cậu nhớ ra Frank và lập tức cảm thấy làn sóng hoảng loạn và tội lỗi. Percy quá lo lắng cho bản thân đến mức cậu quên mất bạn cậu chỉ là hậu duệ đời xa của Poseidon. Frank thể thở được dưới nước.

      Nhưng cậu ấy đâu rồi?

      Percy quay đúng vòng. Chẳng có gì cả. Rồi cậu nhìn lên.

      Lượn lờ phía đầu cậu là con cá vàng to tổ chảng. Frank biến hình – quần áo, ba lô và tuốt tuột – thành con cá chép vàng bự cỡ đứa con trai mười mấy tuổi.

      Ông bạn. Percy truyền ý nghĩ của cậu qua nước, theo cách cậu vẫn thường chuyện với đám sinh vật biển khác. con cá vàng á?

      Giọng Frank truyền lại phía cậu: Mình cuống quá mà. Bọn mình chuyện về mấy con cá vàng, vậy nên nó ra trong óc mình. Kiện mình .

      Mình cuộc hội thoại bằng thần giao cách cảm với con cá chép vàng khổng lồ. Percy . Tuyệt. Cậu có thể biến thành thứ gì…hữu dụng hơn được ?

      Im lặng. Có lẽ Frank tập trung, dù việc đoán chính xác là điều thể, bởi cá chép vàng chẳng có mấy biểu cảm mặt.

      Xin lỗi. Giọng Frank có vẻ xấu hổ. Mình bị kẹt rồi. Thỉnh thoảng lúc hoảng quá mình lại bị vậy.

      Được rồi. Percy cắn răng. Tìm cách thoát khỏi chỗ này thôi.

      Fank bơi quanh bể và thông báo có đường ra. Nóc bể bị che phủ bởi lưới dệt từ Đồng Thiên Thai, như tấm rèm quây các quầy hàng đóng cửa ở khu mua sắm. Percy cố dùng thanh Thủy Triều để cắt xuyên qua nó, nhưng cậu còn chẳng tạo ra được đến vệt lõm. Cậu thử phá vỡ vách kính bằng chuôi kiếm – lần nữa, lại gặp may. Rồi cậu lặp lại nỗ lực của mình với vài món vũ khí nằm rải rác dưới đáy bể kính và phá hỏng thành công ba cây đinh ba, thanh kiếm vàcùng cây súng bắn lao.

      Cuối cùng, cậu cố điều khiển chỗ nước trong bể. Cậu muốn nó nở ra và phá vỡ thành bể, hay vọt lên qua miệng bể. Làn nước phục tùng cậu. Có lẽ nó bị yểm bùa. Hay bị Phorcys khống chế. Percy tập trung cho tới khi lỗ tai cậu lùng bùng, nhưng việc khá nhất cậu làm được là thổi bay nắp của cái rương bằng nhựa.

      Ờ, thế đấy. Cậu nản lòng nghĩ. Mình phải sống cả phần đời còn lại trong cái nhà bánh gừng bằng nhựa kia, đánh nhau với cậu bạn cá chép vàng khổng lồ của mình và chờ đến giờ được cho ăn.

      Phorcys hứa họ học được cách thích điều đó. Percy nghĩ đến đám telkhine đờ đẫn, đám Nereid và Ngựa cá ngựa, tất cả đều bơi vòng vòng lờ đờ buồn thảm. Ý nghĩ mình thành ra như vậy giúp giảm mức độ lo lắng trong cậu tẹo nào.

      Cậu băn khoăn liệu có phải Phorcys đúng hay . Cho dù bọn họ có thoát được ra chăng nữa, làm thế nào họ có thể đánh bại được đám khổng lồ khi mà các vị thần đều bất lực? Có lẽ Bacchus có thể giúp. Ông ta từng giết đám khổng lồ trước đây, nhưng ông ta chỉ tham gia trận chiến nếu nhận được tế vật tưởng và cái ý tưởng hiến tế Bacchus bất cứ thứ gì khiến Percy muốn tự bịt miệng mình bằng cái bánh Quái vật Donut.

      Nhìn kìa! Frank .

      Bên ngoài bể kính, Keto dẫn HLV Hedge qua khán đài, giảng giải cái gì đó trong khi ông thầy gật gù tán thưởng dãy ghế khán đài.

      Huấn luyện viên! Percy gào lên. Và rồi nhận ra việc đó là vô ích. Ông thầy nghe được tiếng gào thần giao cách cảm.

      Frank huých đầu vào vách kính.

      Hedge chẳng có vẻ gì là chú ý. Keto rảo bước dẫn ông thầy qua khán phòng. Bà ta thậm chí còn buồn nhìn qua vách kính, có lẽ vì bà ta cho rằng trong bể vẫn trống rỗng. Bà ta chỉ về đầu kia của căn phòng như thể , nào. Còn nhiều thủy quái khủng khiếp ở đằng kia nữa.

      Percy nhận ra cậu chỉ còn vài giây trước khi ông thầy hẳn. Cậu bơi theo họ, nhưng làn nước giúp cậu di chuyển như mọi khi. Trái lại, nó dường như cản cậu lại. Cậu bỏ thanh Thủy Triều ra và bơi bằng cả hai tay.

      HLV Hedge và Keto chỉ còn cách lối ra năm bộ(1.5 m).

      Trong cơn tuyệt vọng, Percy vớ lấy viên cuội thủy tinh to đùng và quăng nó như quăng quả bóng bowling.

      Nó đập vào vách kính với tiếng kịch - đủ to để thu hút chú ý.

      Tim Percy trĩu xuống.

      Nhưng HLV Hedge có đôi tai của thần rừng. Ông thầy ngoái lại qua vai. Khi nhìn thấy Percy, vẻ mặt của ông thầy biến đổi vài lần chỉ trong phần nghìn của giây – khó hiểu, ngạc nhiên, phẫn nộ, rồi mặt nạ bình thản.

      Trước khi Keto kịp phát , ông thầy chỉ lên nóc khán đài, trông như thể hét lên, Thánh thần Olympus, cái gì thế kia?

      Keto ngoảnh đầu. HLV Hedge lẹ làng tháo cặp chân giả ra và tặng Keto cú-đá-kiểu-ninja vào gáy. Keto gục xuống sàn.

      Percy nhăn mặt. Cái đầu vừa được thưởng thức món móng ngựa gần đây của cậu đồng tình nhói đau, nhưng cậu chưa từng thấy hạnh phúc hơn khi có ông thầy đam mê các trận đấu lồng võ thuật tổng hợp.

      Hedge chạy đến chỗ bể kính. Ông thầy giơ tay lên kiểu: Cậu làm gì trong đó đấy hả, Jackson?

      Percy đập tay lên vách kính và nhép môi: Đập nó!

      Hedge hỏi câu có vẻ như là: Frank đâu rồi?

      Percy chỉ con cá chép vàng khổng lồ.

      Frank vẫy vây trái của cậu: Chào.

      Đằng sau Hedge, bà nữ thần bắt đầu động đậy. Percy điên cuồng chỉ trỏ.

      Hedge lắc lắc chân như thể khởi động cho cú đá nữa, nhưng Percy khua hai cánh tay, . Họ thể tiếp tục đá vào đầu bà ta như thế mãi được. Vì bà ta bất tử, bà ta bất tỉnh lâu và làm vậy họ cũng thoát khỏi cái bể này được. Chẳng chóng chày, Phorcys quay lại kiểm tra.

      Đếm đến ba, Percy nhép miệng, giơ 3 ngón tay lên rồi chỉ vào vách kính. Cả ba người cùng đập mạnh vào nó.

      Percy chưa bao giờ chơi giỏi trò đuổi hình bắt chữ, nhưng Hedge gật đầu vẻ hiểu. Đập phá mọi thứ là thứ ngôn ngữ các thần rừng rất thông thạo.

      Percy nhấc viên cuội khổng lồ khác lên. Frank, bọn mình cũng cần cả cậu nữa đấy. Cậu biến hình lại được chưa?

      Chắc biến lại hình người được.

      Hình người là ổn rồi! Chỉ cần nhớ nín thở. Nếu cái này có tác dụng…

      Keto bắt đầu đứng dậy. còn thời gian để chần chừ.

      Percy chìa ngón tay đếm. , hai, ba!

      Frank biến lại thành hình người và huých vai vào vách kính. Huấn luyện viên tung cú đá xoạc kiểu Chuck Norris[2] bằng móng guốc của ông. Percy dùng hết sức nện viên cuội lên vách kính, nhưng cậu còn làm hơn thế. Cậu ra lệnh cho làn nước phục tùng cậu và lần này cậu từ chối câu trả lời ‘’. Cậu cảm nhận được toàn bộ áp lực giữ trong bể kính và sử dụng nó. Nước thích được tự do. Chỉ cần có thời gian, nước có thể chinh phục bất cứ rào cản nào và nó ghét bị giam cầm, hệt như Percy vậy. Cậu nghĩ đến việc trở về với Annabeth. Cậu nghĩ đến việc phá tan cái nhà tù kinh khủng cho các sinh vật biển này. Cậu nghĩ đến việc tọng cái micro của Phorcys xuống cái họng xấu xí của gã. Năm mươi ngàn gallon nước đáp lại cơn thịnh nộ của cậu.

      Vách kính nứt ra. Các đường nứt chạy ngoằn ngoèo từ điểm va chạm và bất thình lình bể kính vỡ toang. Percy bị cuốn ra bởi dòng nước xiết. Cậu lộn nhào qua nền khán phòng cùng với Frank, vài viên cuội lớn và mớ tảo bằng nhựa. Keto vừa đứng thẳng được bức tượng người thợ lặn đâm sầm về phía bà ta như đòi cái ôm.

      HLV Hedge nhổ nước muối trong miệng ra. “Sáo thần Pan[3], Jackson! Cậu làm cái trò gì trong đó thế hả?”

      “Phorcys!” Percy lắp bắp phun phì phì. “Bẫy! Chạy!”

      Chuông báo động kêu inh ỏi khi họ chạy trốn khỏi khu bảo tàng. Họ chạy ngang qua bể nhốt đám Nereid, rồi đám telkhine. Percy muốn giải thoát cho bọn chúng, nhưng bằng cách nào? Chúng lờ đờ vì bị đánh thuốc và chúng lại là các sinh vật biển. Chúng thể sống sót trừ phi cậu tìm ra cách nào đó để vận chuyển chúng về lại đại dương.

      Hơn nữa, nếu Phorcys tóm được họ, Percy khá là chắc rằng cậu bị gã thần biển đánh cho liểng xiểng. Và Keto nữa, cũng đuổi theo họ, sẵn sàng quăng họ làm mồi cho lũ thủy quái của bà ta.

      Tôi quay lại, Percy , nhưng nếu đám thủy quái trong bể kính có nghe cậu chúng cũng hề có biểu gì.

      Giọng Phorcys bùng nổ qua hệ thống thanh: “Percy Jackson!”

      Đèn nháy và pháo sáng rời rạc phát nổ. Khói mùi bánh donut tràn ngập các hành lang. Thứ nhạc kịch tính – năm hay sáu bản nhạc khác nhau – xập xình phát ra từ hệ thống loa phát thanh. Các bóng đèn phát nổ và bốc cháy trong khi toàn bộ các hiệu ứng đặc biệt trong tòa nhà được khởi động cùng lúc.

      Percy, HLV Hedge và Frank loạng choạng ra khỏi đường hầm kính và thấy mình trở lại phòng trưng bày cá mập voi. Khu vực người thường của khu thủy cung đầy những đám đông gào thét – các gia đình và các nhóm tham quan chạy như ong vỡ tổ trong khi các nhân viên cuống cuồng chạy quanh, cố trấn an mọi người rằng đó chỉ là do hệ thống báo động hỏng hóc. Percy biết nhiều hơn thế. Cậu và hai người bạn đồng hành nhập vào đám thường dân và chạy về phía lối ra.

      [1] speargun – súng bắn lao
      súng bắn lao thời cũ trông thế này

      [2] Chuck Norris’ roundhouse kick

      [3] Pan’s pipes: câu cửa miệng của các thần rừng. Thần Pan cũng như các thần rừng luôn mang bên mình cây sáo có nhiều ống sáo (hơi giống sáo diều của Việt Nam) gọi là Reed pipes. Cây sáo này có phép thuật và có ích trong nhiều việc như giúp cây cối lớn nhanh, trói kẻ thù và xua đuổi các loài côn trùng hay động vật có hại. Cây sáo này cũng là biểu tượng sức mạnh của thần Pan.

      The Mark of Athena _ Chương 17
      Annabeth

      ANNABETH CỐ GẮNG LÀM HAZEL VUI LÊN, bằng cách giải trí với những khoảnh-khắc-óc-tảo-biển của Percy ngay khi Frank đột ngột xuất ở đại sảnh và xộc vào khoang .

      “Leo đâu?” cậu thở hổn hển. “Nhanh lên! Nhanh lên!”

      Cả hai chạy nhanh.

      “Percy đâu?” Annabeth hỏi. “Cả thần rừng nữa?”

      Frank vịn đầu gối, cố gắng để thở. Quần áo của cậu vừa cứng vừa ẩm ướt, giống như chúng vừa được tắm trong tinh bột nguyên chất. “Ở boong. Họ vẫn ổn. Nhưng chúng ta bị theo dõi.”

      Annabeth vọt qua cậu và vội vàng chạy mạch lên hết ba tầng cầu thang. Hazel thở hổn hển chạy theo sau và Frank. Percy với Hedge nằm boong, trông họ vô cùng mệt mỏi và kiệt sức. Đôi giày của Hedge mất. Ông nhìn lên trời nhe răng cười, trong miệng vẫn lẩm bẩm “Tuyệt vời. tuyệt vời.” người Percy chi chít những vết cắt và vết xước, như thể cậu mới nhảy qua cửa sổ. Cậu gì, nhưng cậu nắm tay Annabeth yếu ớt như muốn Luôn ở bên cạnh cậu, ngay cả khi thế giới này ngừng quay.

      Leo, Piper và Jason, những người dùng bữa ở đại sảnh, chạy vội lên cầu thang. “Chuyện gì? Có chuyện gì?” Leo kêu gào, tay cậu vẫn cầm miếng sandwich phô mai nướng ăn dở. “Các cậu thậm chí cho tớ giờ nghỉ trưa sao? có chuyện gì vậy?”

      “Bị theo dõi.” Frank hét lại.

      “Bị theo dõi bởi cái gì?” Jason hỏi.

      “Tớ biết.” Frank hổn hển . “Cá voi? Quái vật biển? Có lẽ là Kate và Porky!”

      Annabeth muốn bóp cổ cậu trai này, nhưng vẫn chắc bàn tay mình có thể vừa vặn với cái cổ dày cộm của cậu ta . “Việc đấy hoàn toàn vô nghĩa. Leo, tốt nhất cậu nên đưa chúng ta ra khỏi đây.”

      Leo kẹp miếng sandwich giữa hai hàm răng, làm điệu bộ như cướp biển và vận hành bánh lái.

      lâu sau, Argo II bay lên bầu trời. Annabeth giữ vị trí đuôi tàu. thấy bất cứ dấu hiệu nào của việc bị theo dõi bởi cá voi hay thứ gì khác, nhưng Percy, Frank và Hedge cũng bắt đầu hồi phục khi đường chân trời Atlanta chỉ còn là vệt mờ ở phía xa xa.

      “Charleston.” Percy khi khập khiễng quanh boong tàu như ông lão. Cậu có vẻ run rẩy. “Hướng tới Charleston.”

      “Charleston?” Jason nhắc lại cái tên kia như nó đem lại cho cậu những kí ức vui. “Chính xác cậu tìm thấy gì ở Atlanta?”

      Frank mở ba lô và bắt đầu lấy ra mấy món quà lưu niệm. “ ít mứt đào. Mấy cái áo thun. quả cầu tuyết. Và, ừm, những cái khóa tay -thực--là-khóa-tay-Trung-Quốc.”

      Annabeth buộc mình phải giữ bình tĩnh. “Tại sao cậu bắt đầu phần đầu của câu chuyện trước và để việc cái ba lô của cậu qua bên?”

      Họ tụ tập ở sân lái để Leo có thể nghe được cuộc trò chuyện khi lái. Percy và Frank lần lượt kể những chuyện xảy ra ở thủy cung Georgia, HLV Hedge đôi khi cũng xen vào: “ tuyệt vời!” hoặc “Sau đó tôi đá vào đầu ta!”

      Ít nhất là huấn luyện viên dường như quên mất việc với Percy ngủ quên trong chuồng ngựa đêm hôm trước. Nhưng xét đến câu chuyện của Percy Annabeth có vấn đề tồi tệ hơn để lo lắng thay vì chuyện bị cấm túc.

      Khi Percy giải thích về những sinh vật biển bị giam cầm ở thủy cung, hiểu được tại sao cậu lại lo lắng đến thế.

      “Điều đó khủng khiếp.” . “Chúng ta cần giúp đỡ chúng.”

      “Chúng ta làm,” Percy hứa. “Vào đúng thời điểm. Nhưng chúng ta phải tìm ra cách. Tớ muốn…” Cậu lắc đầu. “Đừng bận tâm. Trước hết chúng ta phải đối phó với mớ tiền thưởng truy nã chúng ta.”

      HLV Hedge có vẻ như còn hứng thú với cuộc đối thoại – có lẽ vì nó còn về ông – và lang thang đến mũi tàu, luyện tập mấy cú đá vòng cầu[1] rồi tự khen ngợi kĩ thuật của mình.

      Annabeth nắm chặt chuôi dao găm của mình. “Treo thưởng truy nã chúng ta sao…cứ như thể chúng ta đủ thu hút quái vật vậy.”

      “Chúng ta có áp phích truy nã sao?” Leo hỏi. “Và chúng có tiền thưởng cho chúng ta, như phân chia bảng giá?”

      Hazel nhăn mũi. “ gì vậy?”

      “Chỉ là tò mò biết đáng giá bao nhiêu,” Leo . “Ý tớ là, tớ hiểu mình đáng giá như Percy hay Jason, có lẽ…nhưng biết tớ có giá trị như hai Frank, hay ba Frank ?”

      “Này.” Frank phàn nàn.

      “Thôi ,” Annabeth ra lệnh. “Ít nhất chúng ta biết bước tiếp theo là đến Charleston, để tìm bản đồ.”

      Piper dựa vào tấm bảng điều khiển. tết tóc bằng lông vũ trắng hôm nay, nó trông thích hợp với mái tóc nâu sẫm của . Annabeth tự hỏi biết làm sao có thời gian để làm thứ đó. Annabeth chỉ có thể nhớ đến chải tóc mà thôi.

      “Tấm bản đồ,” Piper . “Nhưng bản đồ ?”

      “Dấu hiệu Athena.” Percy cẩn thận nhìn Annabeth như thể cậu sợ mình quá giới hạn. trưng ra vẻ nặng nề Tớ muốn đến nó.

      Mặc kệ nó là gì,” cậu tiếp tục. “Chúng ta biết nó dẫn đến cái gì đó quan trọng ở Rome, cái mà có thể hàn gắn được rạn nứt giữa người La Mã và người Hy Lạp.”

      Tai ương của lũ khổng lồ.” Hazel thêm vào.

      Percy gật đầu “Và trong giấc mơ của tớ, hai gã khổng lồ song sinh điều gì đó về bức tượng.”

      “Ừm…” Frank lắc cái khóa tay -thực--là-khóa-tay-Trung-Quốc giữa mấy ngón tay cậu. “Theo như lời Phorcys, chúng ta điên đầu để tìm nó. Nhưng nócái gì?”

      Mọi người đều nhìn Annabeth. Da đầu của râm ran như thể những suy nghĩ trong đầu của có khuynh hướng nhảy ra ngoài: bức tượng…Athena…Hy Lạp và La Mã, cơn ác mộng của và cuộc tranh luận với mẹ . nhìn thấy các mảnh ghép được ghép lại với nhau như thế nào, nhưng thể tin nó lại là . Câu trả lời quá lớn, quá quan trọng và đáng sợ.

      nhận thấy Jason quan sát mình như cậu biết chính xác những gì nghĩ và cũng chẳng ưa thích nó. thể tự hỏi: Tại sao cậu luôn làm cảm thấy lo lắng? Liệu cậu có thực đứng về phía ? Hay đó chỉ là lời của mẹ

      “T-tớ sắp có câu trả lời,” . “Tớ biết nhiều hơn nếu chúng ta tìm thấy tấm bản đồ. Jason, cách cậu gọi tên Charleston…cậu từng đến đó sao?”

      Jason lo lắng liếc nhìn Piper, mặc dù Annabeth chắc chắn tại sao. “Phải.” Cậu thừa nhận. “Reyna và tớ nhiệm vụ ở đó khoảng năm trước. Chúng tớ thu hồi được vũ khí Vàng Hoàng Gia từ C.S.S Hunley.”

      “Cái gì?” Piper hỏi.

      “Wow!” Leo . “Đó là con tàu ngầm quân thành công đầu tiên. Từ cuộc Nội chiến. Tớ luôn muốn được nhìn thấy nó.”

      “Nó được thiết kế bởi các á thần La Mã,” Jason . “Nó cất giữ ngư lôi bí mật bằng Vàng Hoàng Gia – cho đến khi bọn tớ tìm thấy chúng và đem về trại Jupiter.”

      Hazel khoanh tay lại. “Vậy là người La Mã chiến đấu ở phe Liên Minh. Là có bà ngoại nô lệ, em chỉ có thể …chẳng hay ho gì cả ?”

      Jason đưa tay lên trước mặt, lật lòng bàn tay lên. “Bản thân cũng hiểu lắm. Nhưng phải toàn bộ người Hy Lạp và La Mã đều đứng về hai phe khác nhau. Nhưng, đúng vậy. hay ho gì. Đôi khi các á thần có lựa chọn sai lầm.” Cậu lúng túng nhìn Hazel. “Như chúng ta đôi khi cũng quá đa nghi. Và chúng ta suy nghĩ.”

      Hazel nhìn cậu. Từ từ nhận ra cậu xin lỗi mình.

      Jason huých khuỷu tay vào người Leo.

      “Au.” Leo hét lên. “Ý tớ là, ừm…đúng…lựa chọn sai lầm. Như là khi tin tưởng em của bạn bè, những người mà, các cậu biết đấy, cần được giải cứu. Giả sử là thế.”

      Hazel bĩu môi. “Được thôi. Quay trở lại với Charleston. là chúng ta nên kiểm tra lại con tàu ngầm kia phải ?”

      Jason nhún vai. “À… nghĩ chúng ta nên tìm kiếm hai địa điểm ở Charleston. là ở bảo tàng, nơi họ giữ Hunley__ trong số chúng. Nó chứa rất nhiều tàn tích từ hồi Nội chiến. Bản đồ có thể được giấu ở trong số đó. Tớ biết cách bố trí. Tớ có thể dẫn nhóm vào bên trong.”

      “Tớ ,” Leo . “Nghe có vẻ hay đấy.”

      Jason gật đầu. Cậu quay sang nhìn Frank, người cố sức kéo mấy ngón tay của mình ra khỏi cái khóa tay Trung Quốc. “Cậu nên cùng, Frank. Chúng tớ cần cậu.”

      Frank ngạc nhiên. “Tại sao? Có vẻ như tớ làm tốt lắm khi ở thủy cung.”

      “Cậu làm rất tốt.” Percy cam đoan với cậu. “Phải cần đến ba người chúng ta mới có thể đập vỡ tấm kính.”

      “Hơn nữa, cậu là con trai thần Mars,” Jason . “Hồn ma của những kẻ bại trận phải phục tùng cậu. Và bảo tàng ở Charleston có vô số hồn ma quân Liên Minh. Chúng tớ cần cậu để chế ngự chúng.”

      Frank nuốt nước bọt. Annabeth nhớ đến lời kể của Percy về việc Frank hóa thành con cá vàng khổng lồ và cố gắng bật cười. bao giờ có thể nhìn chàng to con này mà nhớ tới loài cá vàng.

      “Thôi được.” Frank dịu lại.” Đồng ý.” Cậu cau mày nhìn vào mấy ngón tay của mình và cố gắng kéo chúng ra khỏi cái khóa tay. “Ừm, làm thế nào các cậu___?”

      Leo cười khúc khích “Này cậu trai, chưa từng thấy chúng trước đây sao? Có mẹo đơn giản để lấy nó ra.”

      Frank kéo mạnh lần nữa nhưng thành công. Thậm chí ngay cả Hazel cũng cố nhịn cười.

      Frank nhăn mặt như cố gắng tập trung. Đột nhiên cậu biến mất. boong nơi cậu đứng, con cự đà xanh[2] cúi người bên cạnh những cái khóa tay Trung Quốc.

      “Làm tốt lắm, Frank Trương,” Leo cộc lốc, rồi làm theo điệu bộ của bác Chiron. “Đó là cách người ta giải quyết cái khóa tay Trung Quốc. Họ biến thành những con cự đà.”

      Mọi người đều bật cười. Frank hóa lại hình người, nhặt mấy cái khóa tay lên rồi nhét vào ba lô. Cậu nở nụ cười ngượng ngùng.

      “Dù sao,” Frank , lo lắng thay đổi chủ đề. “Bảo tàng là nơi để tìm kiếm. Nhưng, ừm, Jason, cậu có tận hai chỗ cơ mà.”

      Nụ cười Jason mờ . Dù cậu nghĩ đến cái gì, Annabeth đều có thể rằng nó hoàn toàn hay ho cho mấy.

      “Phải,” Cậu . “Nơi đó, vào lúc tớ đến…cùng Reyna…” Cậu liếc nhìn Piper, sau đó nhanh chóng tiếp. “Bọn tớ nhìn thấy thứ gì đó trong công viên. bóng ma hay là dạng linh hồn, kiểu như người phụ nữ miền Nam từ thời Nội chiến, phát sáng và trôi lềnh bềnh. Bọn tớ cố tiếp cận, nhưng nó biến mất mỗi khi bọn tớ đến gần. Sau đó Reyna có cảm giác – ấy ấy nên thử mình. Có lẽ nó chỉ có thể trò chuyện với các . ấy mình đến chổ linh hồn kia và đúng , nó chuyện với ấy.”

      Mọi người đợi chờ.

      “Nó gì?” Annabeth hỏi.

      “Reyna kể tớ biết,” Jason thừa nhận. “Nhưng nó chắc hẳn rất quan trọng. ấy dường như… run sợ. Có lẽ ấy nhận được lời tiên tri hoặc tin xấu. Reyna bao giờ tỏ ra như thế trước mặt tớ sau lần đó nữa.”

      Annabeth cân nhắc. Sau những trải nghiệm của họ với các eidolon, thích ý nghĩ tiếp cận con ma, đặc biệt là khi nó mang lại cho người ta tin xấu hay những lời tiên tri. Mặt khác, mẹ là nữ thần của tri thức và tri thức là thứ vũ khí quyền lực nhất. Annabeth thể từ chối các nguồn thông tin khả thi.

      “Cuộc phiêu lưu của con , sau đó,” Annabeth . “Piper và Hazel có thể cùng tớ.”

      Cả hai cùng gật đầu, mặc dù Hazel trông khá lo lắng. nghi ngờ gì khi cuộc sống ở Địa ngục cho đủ những trải nghiệm về các hồn ma ở cả hai cuộc đời. Mắt Piper lóe lên bướng bỉnh, như mọi thứ Reyna có thể làm cũng làm được.

      Annabeth nhận ra sáu người trong số họ có mặt trong hai nhiệm vụ, nên điều đó có nghĩa là Percy phải ở lại tàu mình với HLV Hedge, đó phải việc mà bạn chu đáo nên làm. cũng muốn phải rời tầm mắt khỏi Percy lần nữa__sau khi họ xa nhau hàng tháng trời. Mặt khác, Percy trông có vẻ rối bời sau khi thấy những sinh vật biển bị giam cầm, nghĩ có lẽ cậu nên nghỉ ngơi. bắt gặp ánh mắt cậu, im lặng hỏi cậu. Cậu gật đầu như muốn , Được mà. Mọi chuyện ổn thôi.

      “Vậy, mọi chuyện ổn thỏa.” Annabeth quay sang Leo, người nghiên cứu giao điện điều khiển của mình, lắng nghe Fetus kêu cót két và nhấn vào hệ thống liên lạc. “Leo, còn bao lâu nữa chúng ta đến Charleston?”

      “Câu hỏi hay đấy,” Leo thầm. “Fetus phát ra nhóm lớn đại bàng theo sau chúng ta – là loại có rada tầm xa, nhưng chúng ta vẫn chưa rơi vào tầm nhìn của chúng.”

      Piper dựa vào bàn điều khiển. “Cậu có chắc đó là người La Mã ?”

      Leo đảo mắt. “, Pipes. Chúng có thể là nhóm các con đại bàng khổng lồ tình cờ bay theo đội hình hoàn hảo. Ôi trời, dĩ nhiên đó là người La Mã! Tớ nghĩ chúng ta nên quay tàu lại và đánh nhau…”

      “Đó là ý tồi.” Jason , “và tháo gỡ được bất cứ nghi ngờ nào về việc chúng ta là kẻ thù của người La Mã.”

      “Hoặc tớ có ýn khác,” Leo . “Nếu chúng ta thẳng đến Charleston mất vài tiếng đồng hồ. Nhưng đám đại bàng kia bắt kịp chúng ta và mọi chuyện trở nên rắc rối. Thay vì vậy, chúng ta nên nhử mồi để bẫy chúng. Còn chúng ta đường vòng đến Charleston và có lẽ đến đó vào sáng hôm sau__”

      Hazel định kháng nghị, nhưng Leo giơ tay ngăn lại. “ biết. biết. Nico gặp nguy hiểm và chúng ta phải nhanh lên.”

      “Hôm nay là ngày 27 tháng 6,” Hazel . “Sau hôm nay còn bốn hôm nữa. Nó chết.”

      biết! Nhưng chỉ có cách này để cắt đuôi bọn La Mã. Chúng ta vẫn còn đủ thời gian để đến Rome.”

      Hazel giận dữ. “Khi vẫn còn đủ…”

      Leo nhún khinh thường. “Vậy chỉ còn vừa đủ thế nào?”

      Hazel úp tay lên mặt và đếm đến ba. “Nghe có vẻ chúng ta chỉ còn cách đó.”

      Annabeth quyết định coi đó như mà dấu hiệu đèn xanh. “Được rồi, Leo. Loại mồi nhử cậu đến là gì?”

      “Tớ rất vui khi cậu hỏi!” Cậu nhấn mấy cái nút bàn điều khiển, xoay bàn xoay và liên tục nhấn nút A cái điều khiển Wii. Cậu gọi qua hệ thống liên lạc, “Buford? Vui lòng báo cáo nhiệm vụ.”

      Frank lùi bước. “Còn có người khác thuyền sao? Buford là ai?”

      làn hơi nước bắn ra từ cầu thang và bàn tự động của Leo trèo lên boong.

      Annabeth thấy Buford mấy trong suốt chuyến . Nó hầu như toàn ở phòng động cơ. (Leo khẳng định Buford có say mê bí mật với động cơ.) Nó là chiếc bàn ba chân với mặt bàn gỗ gụ. Chân đế đồng của cậu ta có nhiều ngăn kéo, bánh răng quay và bộ các lỗ thông hơi. Buford mang cái túi như bao tải thư buộc vào chân nó. Nó ồn ào vào khoang máy và tạo thanh như tiếng còi xe lửa.

      “Đây là Buford,” Leo giới thiệu.

      “Cậu đặt tên cho đồ gỗ sao?” Frank hỏi.

      Leo khịt mũi. “Cậu trai, cậu chỉ ước có được món đồ gỗ tuyệt vời đến thế là cùng. Buford, cậu sẵn sàng cho Chiến dịch Bàn đèn[3] chưa?”

      Buford phụt hơi nước. Nó bước đến chỗ rào chắn. Mặt bàn gỗ gụ của nó chẻ thành bốn lát kéo dài ra thành các phiến gỗ. Các phiến gỗ quay và Buford cất cánh.

      bàn trực thăng,” Percy lẩm bẩm. “Phải thừa nhận nó tuyệt. Có gì trong túi đó?”

      “Quần áo dơ của á thần,” Leo . “Tớ hy vọng cậu phiền, Frank.”

      Frank nén giận. “Cái gì?”

      “Nó ngăn lũ đại bàng đánh hơi thấy chúng ta.”

      “Đó là mấy cái quần duy nhất của tớ còn lại đấy.”

      Leo nhún vai. “Tớ bảo Buford giặt chúng và gấp lại khi cậu ấy . Hy vọng cậu ấy làm thế.” Cậu xoa tay và nhe răng cười. “À! Tớ phải gọi hôm nay là ngày tốt lành. Tớ tính toán lộ trình đường vòng của chúng ta. Gặp lại các cậu vào bữa tối!”

      Percy rời sớm, để lại Annabeth với buổi chiều nhàn rỗi có việc làm ngoại trừ nhìn chằm chằm vào máy tính của .

      Tất nhiên mang laptop của Daedalus bên mình. Hai năm trước, thừa kế cái máy từ nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại và nó có những ý tưởng phát minh, những sơ đồ và biểu đồ Annabeth cố gắng để tìm hiểu hết. Sau hai năm, laptop thông thường xuống cấp, nhưng Annabeth phát máy tính của Daedalus vẫn còn thời hạn năm mươi năm trước khi xuống cấp. Nó có thể mở rộng ra thành laptop với kích thước đầy đủ, thu thành máy tính bảng, hoặc gấp lại thành miếng kim loại hơn chiếc điện thoại di động. Nó hoạt động nhanh hơn bất cứ máy tính nào mà Annabeth từng có, có thể truy cập vào các vệ tinh hoặc chương trình phát sóng của Hephaetus-TV vệ tinh từ Đỉnh Olympus và chạy chương trình đặt-làm mà có thể làm từ bất cứ thứ gì ngoại trừ buộc dây giày. Có lẽ cũng có ứng dụng cho việc đó, nhưng Annabeth vẫn chưa tìm ra.

      ngồi giường, sử dụng trong những chương trình cấu hình 3-D của Daedalus để nghiên cứu mô hình đền Parthenon[4] ở Athens. luôn khao khát được đến đó, cả Parthenon và Athens, bởi vì kiến trúc và bởi vì đó là đền thờ nổi tiếng nhất của mẹ .

      Bây giờ sắp thực được điều đó, nếu họ còn sống tới khi đến Hy Lạp. Nhưng càng nghĩ đến dấu hiệu Athena và những truyền thuyết La Mã cổ xưa mà Reyna đề cập, càng thêm lo lắng.

      muốn, nhưng nhớ lại cuộc tranh luận với mẹ . Thậm chí sau nhiều tuần, những lời ấy vẫn làm đau nhói.

      Annabeth tàu điện ngầm trở về từ Upper East Side sau khi thăm mẹ Percy. Trong những tháng dài đằng đẵng khi Percy mất tích, Annabeth ít nhất tuần lần – phần là để thông báo cho Sally Jackson và chồng của bà, Paul, về cuộc tìm kiếm và phần bởi Annabeth với Sally cần nhau để cổ vũ tinh thần và thuyết phục người kia rằng Percy vẫn ổn.

      Trải qua mùa xuân đặc biệt khó khăn. Lúc đó, Annabeth có lý do tin rằng Percy vẫn còn sống, từ kế hoạch của Hera dường như có liên quan đến việc gửi cậu đến trại La Mã, nhưng thể chắc cậu ở đâu. Jason ít nhiều vẫn nhớ đến trại cũ của cậu, nhưng tất cả những phép màu Hy Lạp – thậm chí ngay cả các trại viên nhà Hecate – cũng thể khẳng định Percy ở bất cứ đâu. Cậu dường như biến mất khỏi hành tinh. Rachel, nhà tiên tri Oracle, cũng cố gắng đọc những điều về tương lai và khi thể thấy được nhiều điều, vẫn chắc rằng Leo cần phải hoàn thành Argo IItrước khi họ liên lạc với người La Mã.

      Tuy nhiên, Annabeth dành tất cả thời gian rảnh rỗi để tìm kiếm bất cứ tin tức nào về Percy. thử trò chuyện cùng các tinh linh tự nhiên, đọc các truyền thuyết về Rome, lần tìm các manh mối trong máy tính xách tay của Daedalus và tốn cả trăm đồng drachma cho thông điệp Iris đến các tinh linh thiện, á thần hoặc các quái vật mà từng gặp, tất cả đều vô vọng.

      Chiều hôm đó, khi trở về từ nhà Sally, Annabeth cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường. và Sally khóc, sau đó cố gắng vực dậy tinh thần, nhưng các dây thần kinh của họ dường như sờn . Cuối cùng Annabeth lên tàu điện ngầm Lexington Avenue xuống Grand Central.

      con đường khác để trở lại khu nội trú trường trung học của từ Upper East Side, nhưng Annabeth thích đến ga cuối Grand Central. Thiết kế tuyệt đẹp và gian rộng thoáng đãng nhắc nhở nhớ đến đỉnh Olympus. Tòa nhà Grand làm cảm thấy tốt hơn_có lẽ vì ở nơi cố định khiến ổn định hơn.

      qua Kẹo Ngọt Mĩ, cửa hàng kẹo ngọt nơi mẹ Percy từng làm việc và nghĩ đến việc vào trong mua ít kẹo màu xanh thấy Athena nghiên cứu bản đồ tàu điện ngầm tường.

      “Mẹ!” Annabeth thể tin được. chưa gặp mẹ mình cả tháng trời – kể từ khi Zeus đóng cửa Olympus và cấm tất việc liên lạc với các á thần.

      Annabeth cố gắng liên lạc với mẹ mình rất nhiều lần bằng mọi cách, cầu xin chỉ dẫn, gửi các lời cầu nguyện trong mỗi bữa ăn ở trại. Nhưng nhận được hồi đáp. Giờ Athena ở đây, mặc quần jeans, giày leo núi và áo sơ mi caro màu đỏ, mái tóc đen của bà đổ xuống vai. Bà mang theo ba lô và cây gậy cuốc bộ như chuẩn bị cho hành trình dài.

      “Ta phải về nhà,” Athena lẩm bẩm, tiếp tục nghiên cứu bản đồ. “Đường xá rắc rối. Ta ước gì Odysseus ở đây. Có lẽ ông ấy hiểu.”

      “Mẹ!” Annabeth gọi. “Athena!”

      Nữ thần quay lại. Bà dường như nhận ra .

      “Đó là tên ta,” nữ thần cách mơ màng. “Trước kia họ cướp thành phố của ta, lấy danh tính của ta, khiến ta thành ra thế này.” Bà nhìn quần áo của mình cách ghê tởm. “Ta phải về nhà.”

      Annabeth bước lùi lại vì sốc. “Bà…bà là Minerva?”

      “Đừng gọi ta như thế!” Đôi mắt xám của nữ thần lóe lên giận dữ. “Ta từng mang theo cây thương và tấm khiên. Ta nắm giữ chiến thắng trong lòng bàn tay. Ta làm được nhiều hơn thế.”

      “Mẹ.” Giọng Annabeth run rẫy. “Là con, Annabeth. Con của mẹ.”

      “Con của ta…” Athena lặp lại. “Phải, con ta trả thù cho ta. Chúng phải hủy diệt La Mã. Khủng khiếp, nhục nhã, hãy làm như tụi La Mã. Hera cho rằng chúng ta nên giữ hai trại ở xa nhau. Ta , , để chúng đánh nhau. Để con cái của ta tiêu diệt những kẻ xâm lược.”

      Nhịp tim của Annabeth đập vào tai . “Người muốn thế? Nhưng người rất khôn ngoan. Người hiểu tác chiến tốt hơn bất cứ__”

      “Từng là như thế!” Vị nữ thần . “Bị thay thế. Bị tước đoạt. Bị cướp giật như chiến lợi phẩm và bị mang đi__xa khỏi quê hương dấu. Ta mất quá nhiều thứ. Ta thề bao giờ quên. Kể cả con cái của ta nữa.” Bà chú ý vào Annabeth. “Ngươi là con của ta?”

      “Vâng.”

      Nữ thần lấy thứ gì đó từ trong túi áo sơ mi – huy hiệu lỗi mối của tàu điện ngầm – và ấn vào tay của Annabeth.

      “Lần theo dấu hiệu Athena,” Vị nữ thần . “Trả thù cho ta.”

      Annabeth nhìn vào đồng xu. Ngay lúc đó, nó biến đổi từ huy hiệu tàu điện ngầm New York thành đồng bạc drachma cổ, loại mà người Athen từng sử dụng. Nó có hình con cú, con vật linh thiêng của Athena, với hình cây ôliu mặt và dòng chữ Hy Lạp ở mặt bên kia.

      Dấu hiệu Athena.

      Vào lúc đó, Annabeth hiễu ý nghĩa của nó. hiểu tại sao mẹ lại hành động như vậy. Như Minerva hay ai khác, bà thể bối rối như vậy.

      “Mẹ…” cố gắng khiến giọng của mình trở nên hợp lí nhất có thể. “Percy mất tích. Con cần giúp đỡ của mẹ.” bắt đầu giải thích kế hoạch Hera kết hợp hai trại để chiến đấu với Gaea và lũ khổng lồ, nhưng nữ thần chống cây gậy cuốc bộ lên nền đá cẩm thạch.

      bao giờ!” Bà . “Bất kì ai giúp La Mã đều phải bị tiêu diệt. Nếu ngươi nhập bọn với chúng, ngươi phải là con ta. Ngươi làm ta thất vọng.”

      “Mẹ!”

      “Ta quan tâm đến Percy này nọ gì hết. Nếu về phe người La Mã cứ để bị tiêu diệt. Giết . Giết tất cả lũ La Mã. Tìm dấu hiệu, theo nó tìm tới tận nguồn căn. Chứng kiến người La Mã lăng mạ ta như thế nào và hứa là phải báo thù cho ta.”

      “Athena phải là nữ thần báo thù.” Móng tay của Annabeth đâm vào lòng bàn tay. Đồng xu trong tay dường như ấm hơn. “Percy là tất cả với con.”

      “Và trả thù là tất cả mọi thứ đối với ta,” Nữ thần tức giận. “Ai trong chúng ta khôn ngoan hơn?”

      “Mẹ có điều gì rất lạ. Chuyện gì xảy ra?”

      “Rome có chuyện!” Nữ thần cách cay đắng. “Nhìn những gì chúng làm xem, tạo ra ta người La Mã. Chúng ước sao ta là thần của chúng? Rồi đây hãy bắt chúng nếm mùi đê tiện của chúng. Giết chúng, con .”

      .”

      “Thế ngươi còn là gì nữa.” Nữ thần quay nhìn bản đồ tàu điện ngầm. Biểu tình của bà mềm mỏng hơn và trở nên bối rối, tập trung. “Nếu ta có thể tìm được lộ trình…đường về nhà, sau đó có lẽ__Nhưng, . Trả thù cho ta hoặc cứ mặc ta. Ngươi còn là con ta nữa.”

      Mắt của Annabeth đau nhức. nghĩ hàng ngàn điều kinh khủng muốn nhưng thể. quay người và chạy .

      cố vứt đồng bạc ấy , nhưng nó lại xuất trong túi của , giống như thanh Thủy Triều của Percy. may là đồng drachma của Annabeth có sức mạnh phép thuật__hầu như vô dụng. Nó chỉ toàn làm mơ thấy ác mộng và kệ cố gắng thế nào cũng thoát được khỏi nó.

      Giờ đây, ngồi trong khoang mình tàu Argo II, có thể cảm nhận đồng xu trở nên nóng hơn trong túi. nhìn chằm chằm vào mô hình đền Parthenon màn hình vi tính và nghĩ đến cuộc cãi vã với Athena. Chuyện vài ngày trước xoáy vào đầu : người bạn tài giỏi sẵn sàng đợi tới. ai tìm được bức tượng đó. Con của trí tuệ mình.

      lo sợ mình dường như hiểu được hết ý nghĩa của chúng. cầu nguyện các vị thần mong mình sai.

      Cái gõ cửa khiến giật mình.

      hy vọng người đó là Percy, nhưng thay vào đó Frank Trương thò đầu vô.

      “Ừm, xin lỗi,” cậu . “Mình có thể_?”

      có chút bất ngờ khi thấy cậu, phải mất lúc sau mới nhận ra cậu muốn vào.

      “Chắc rồi,” . “Cậu vào .”

      Cậu bước vào trong, nhìn xung quanh khoang. Chẳng có gì nhiều để xem. cái bàn đặt cạnh đống sách, tờ báo, cây viết và tấm ảnh bố bay với chiếc máy bay hai tầng Sopwith Camel, cười toe toét và giơ thẳng ngón cái. Annabeth thích tấm ảnh đó. Nó gợi nhớ đến quãng thời gian cảm thấy gần gũi ông nhất, khi ông tấn công đội quân quái vật với súng máy bắn đạn Đồng Thiên Thai chỉ để bảo vệ cô__món quà tốt đẹp nhất mà đứa con mong đợi.

      Treo tường là chiếc mũ lưỡi trai New York Yankees của , món quà từ mẹ . Nó có khả năng khiến người đội trở nên vô hình. Từ sau cuộc cãi vã giữa và Athena, cái mũ mất phép màu của nó. Annabeth chắc tại sao, nhưng vẫn luôn mang nó theo trong nhiệm vụ. Mỗi buổi sáng đều cố thử, hy vọng nó trở lại như cũ. Nhưng nó chỉ làm nhớ đến cơn thịnh nộ của mẹ mình mà thôi.

      Thêm nữa, khoang của cầu kì. chỉ giữ cố sạch và đơn giản để giúp suy nghĩ tốt hơn. Percy tin điều đó vì luôn làm mọi thứ hoàn hảo, nhưng như hầu hết các á thần, mắc chứng ADHD. Khi mọi thứ quá rối mắt trong gian cá nhân, chẳng bao giờ có thể tập trung.

      “Vậy…Frank,” hỏi. “Tớ có thể giúp gì cho cậu?”

      Trong số những người tàu, Frank là người mà chả mấy nghĩ tới là có khả năng tìm gặp . cảm thấy ít bối rối hơn khi cậu đỏ mặt và lôi cái khóa tay ra khỏi túi.

      “Tớ thích phải mù mờ về nó như thế này,” cậu khẽ. “Cậu có thể chỉ cho tớ cái mẹo ? Tớ cảm thấy thoải mái khi hỏi người khác.”

      Annabeth xử lý lời của cậu cách chậm chạp. Chờ …Frank nhờ giúp đỡ? Sau đó mọi chuyện dường như sáng tỏ: dĩ nhiên, Frank xấu hổ. Leo chọc cậu khá đau. ai thích bị biến thành trò cười. Biểu của Frank như muốn cậu bao giờ muốn chuyện đó xảy ra lần nữa. Cậu muốn biết cách giải quyết, mà cần đến giải pháp con cự đà.

      Annabeth cảm thấy chút kính phục. Frank tin biến cậu thành trò hề. Hơn thế nữa, chỉ dẫn cho tất cả những ai muốn tìm hiểu kiến thức – thậm chí những thứ đơn giản như khóa tay Trung Quốc.

      vỗ lên chiếc giường cạnh mình. “Tất nhiên rồi. Ngồi .”

      Frank ngồi ngay sát mép nệm, như chuẩn bị cho cuộc đào thoát chóng vánh. Annabeth cầm lấy cái khóa tay và đặt chúng cạnh máy tính mình.

      đánh dãy kí tự mệnh lệnh việc quyét bằng tia hồng ngoại. Lát sau, mô hình 3-D về khóa tay Trung Quốc xuất màn hình. dịch chuyển laptop để Frank có thể nhìn thấy.

      “Cậu làm thế nào vậy?” Cậu ngạc nhiên.

      “Công nghệ Hy Lạp tiên tiến cổ xưa,” . “Được rồi, nhìn này. Cấu trúc là bím hai trục hình trụ, vì thế nó có khả năng đàn hồi xuất sắc.” thao tác hình ảnh để nó ép vào trong rồi dãn ra ngoài như cây đàn xếp. “Khi cậu cho các ngón tay của cậu vào trong, nó lơi lỏng ra. Nhưng khi cậu cố rút ra, chu vi của nó co lại như cái bím bện lại và thắt chặt. có cách nào tháo ra nếu cứ vật lộn với nó.”

      Frank ngây ngô nhìn chằm chằm vào . “Nhưng tháo ra thế nào?”

      “À…” cho cậu thấy vài phép toán – làm sao cái khóa tay có thể chịu đựng được lực mạnh thế được hả, là do chất liệu được sử dụng trong các mối bện. “Khá tuyệt cho cấu trúc dệt đúng ? Các bác sĩ dùng nó trong phương pháp kéo giãn chân tay và co cơ điện_”

      “Ừ, nhưng mà tháo ra?”

      Annabeth cười. “Cậu thể chiến đấu chống lại cái khóa tay. Cậu chỉ cần nhấn ngón tay vào trong, phải ra ngoài. Các mối bện lỏng ra.”

      “Ồ.” Frank làm thử. Thành công. “Cám ơn, nhưng…cậu có thể chỉ cho tớ về cái khóa tay mà cần chương trình 3-D và các phép toán ?”

      Annabeth do dự. Đôi khí khôn ngoan đến từ những thứ khác lạ, thậm chí đến từ cậu thiếu niên cá vàng khổng lồ này. “Tớ nghĩ là cậu đúng. Ngốc . Tớ cũng học theo.”

      Frank thử mở cái khóa tay lần nữa. “ dễ khi cậu biết cách giải quyết.”

      “Hầu hết các loại bẫy tốt nhất đều khá đơn giản,” Annabeth . “Cậu chỉ cần suy nghĩ về nó và mong các nạn nhân của cậu .”

      Frank gật đầu. Cậu dường như có ý định rời .

      “Cậu biết ,” Annabeth , “Leo cố ý cợt nhả thế đâu. Cậu ấy chỉ hơi to mồm thôi. Khi có người làm cậu ấy lo , cậu ấy sử dụng khiếu hài hước như kiểu phòng vệ.”

      Frank nhíu mày. “Tại sao tớ lại làm cậu ấy lo lắng?”

      “Cậu to gấp đôi cậu ấy. Cậu có thể hóa rồng.” Và Hazel thích cậu, Annabeth nghĩ, mặc dù ra.

      Frank có vẻ bị thuyết phục. “Leo có thể triệu hồi lửa.” Cậu xoắn cái khóa tay. “Annabeth…có khi, cậu có thể giúp mình giải quyết những vấn đề khác đơn giản thế này thôi ? Tớ có…Tớ đoán cậu gọi nó là ‘gót chân’ Achilles.”

      Annabeth cảm giác như vừa uống socola nóng của người La Mã. chưa bao giờ cảm nhận được ấm áp và mơ hồ nhưng Frank cho cảm giác đó. Cậu là con gấu bông siêu lớn. có thể hiểu tại sao Hazel thích cậu. “Tớ rất sẵn lòng,” . “Có ai khác biết về chuyện ‘gót chân’ Achilles ?”

      “Percy và Hazel,” Cậu . “ còn ai khác. Percy…cậu ấy gã trai tốt. Tớ theo cậu ấy đến bất cứ nơi nào. Tớ nghĩ là cậu nên biết.”

      Annabeth vỗ vào cánh tay cậu. “Percy luôn biết cách để chọn những người bạn tốt. Như cậu. Nhưng, Frank, cậu có thể tin tưởng bất cứ ai tàu. Kể cả Leo. Chúng ta là đội. Chúng ta phải tin tưởng nhau.”

      “Tớ – tớ cũng nghĩ thế.”

      “Vậy điểm yếu mà cậu lo lắng là gì?”

      Tiếng chuông báo bữa tối reo vang và Frank nhảy dựng lên.

      “Có lẽ…có lẽ lát nữa,” cậu . “ khó để về nó. Nhưng cám ơn, Annabeth.” Cậu cầm cái khóa tay Trung Quốc lên. “Cứ nghĩ đơn giản thế thôi.”

      [1] có ở chương trước, là roundhouse kick
      [2] Cự đà xanh: Cự đà xanh có tên khoa học là Cyclura lewisi, là phân loài của thằn lằn Iguana Cuba. Vì thế, chúng còn được gọi là Iguana xanh. Chúng là loài đặc hữu của đảo Grand Cayman, Vương quốc .Loài cự đà xanh có trọng lượng trưởng thành 15kg. Chiều dài cơ thể 1,5m. Tuổi thọ của chúng khá lớn, đến 60 năm. từng ghi nhận con cự đà sống tới 69 tuổi.Vào năm 2001, các nhà khoa học thống kê và giật mình khi chỉ phát được 5 cá thể cự đà xanh hòn đảo xinh đẹp này. Loài cự đà xanh có nguy cơ biến mất khỏi trái đất trong tương lai gần. Khi đó, nhiều nhà khoa học đưa ra cảnh báo rằng, chúng biến mất khỏi trái đất vào thập kỷ thứ 2 của thế kỷ 21.

      [3] End Table, bàn để đèn ngủ, sách báo, đồ uống, đồ ăn , điểm tâm

      [4] Parthenon
      Parthenon (tiếng Hy Lạp: Παρθενών) là ngôi đền thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ 5 trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại, và được ca ngợi như là thành tựu của kiến trúc Hy Lạp. Các điêu khắc trang trí của ngôi đền bằng từ đá cẩm thạch (marble) trắng, được coi như là đỉnh cao của nghệ thuật Ai Cập cổ đại. Đền Parthenon là biểu tượng của kết thúc Hy Lạp cổ đại và của nền dân chủ Athena, và được đánh giá như là trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất thế giới.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      The Mark of Athena – Chương 18
      Annabeth

      ĐÊM ĐÓ, ANNABETH NGỦ GIẤC MỘNG MỊ, điều này chỉ làm thêm bồn chồn khi thức giấc – như yên bình trước cơn bão vậy.
      Leo cho tàu thả neo tại cầu tàu ở Bến Cảng Charleston, ngay cạnh con đê chắn sóng. Dọc bờ biển là khu dân cư cổ kính với những biệt thự lớn, những hàng cọ và hàng rào thép uốn. Những khẩu thần công cổ chĩa nòng súng xuống mặt nước.
      Lúc Annabeth lên boong Jason, Frank và Leo đường tới bảo tàng rồi. Theo lời HLV Hedge, họ hứa trở lại vào lúc hoàng hôn. Piper và Hazel sẵn sàng khởi hành, nhưng trước tiên Annabeth quay về phía Percy, cậu đứng tựa vào tay vịn lan can, chăm chăm nhìn ra con vịnh.
      Annabeth nắm lấy tay cậu. “Cậu định làm gì lúc bọn mình ?”
      “Nhảy xuống khu cảng,” cậu rất bình thản, kiểu như những đứa trẻ khác vẫn , Mình kiếm ít đồ ăn vặt. “Mình muốn thử liên lạc với đám Nereid trong vùng. Có lẽ họ có thể cho mình vài lời khuyên về cách giải cứu đám sinh vật bị bắt nhốt ở Atlanta. Hơn nữa, mình nghĩ có lẽ biển tốt cho mình. Ở trong cái thủy cung đó khiến mình cảm thấy… sạch .”
      Tóc cậu vẫn sẫm màu và rối bù như mọi khi, nhưng Annabeth nghĩ đến những lọn tóc bạc cậu từng có ở bên đầu. Hồi bọn họ mười bốn tuổi, họ từng (bị buộc phải) thay nhau chống đỡ bầu trời. Áp lực khiến ít tóc của cả hai bọn họ chuyển bạc. Suốt năm vừa rồi, trong lúc Percy mất tích, những vệt tóc bạc đầu cả hai người cuối cùng cũng biến mất, điều này lại khiến Annabeth cảm thấy hơi lo. có cảm giác như thể mình mất mối ràng buộc tượng trưng nào đó với Percy vậy.
      Annabeth hôn cậu. “Chúc may mắn, Óc Tảo Biển, chỉ cần nhớ quay lại với mình, được chứ?”
      “Mình quay lại.” Cậu hứa. “Cậu cũng vậy nhé.”
      Annabeth cố dằn xuống nỗi bồn chồn lớn dần trong lòng.
      quay về phía Piper và Hazel. “Được rồi, các quý , tìm hồn ma Battery nào.”
      Sau này, Annabeth ước rằng nhảy xuống khu cảng cùng Percy. Thậm chí thà chọn bảo tàng đầy ma còn hơn.
      phải là thích dạo cùng Piper và Hazel. Ban đầu, họ khá là vui vẻ khi dạo khắp đường kè Battery. Theo như biển chỉ dẫn công viên bên bờ biển đó tên là vườn White Point[1]. Làn gió biển cuốn trôi cái nóng oi bức của buổi chiều hè và dưới bóng những hàng cọ lùn, khí mát mẻ dễ chịu. Ven con đường là hàng những khẩu thần công từ thời Nội Chiến và tượng các nhân vật lịch sử bằng đồng khiến Annabeth rùng mình. nhớ đến những bức tượng ở New York trong Cuộc chiến Titan, những bức tượng sống lại nhờ chuỗi lệnh hai mươi ba của Deadalus. thắc mắc liệu cả nước còn có bao nhiêu bức tượng là người máy bí mật chờ được khởi động.
      Cảng Charleston lấp lánh dưới ánh mặt trời. Ở phía bắc và nam, những dải đất vươn ra như những cánh tay ôm lấy con vịnh và chễm chệ ngay cửa cảng, cách khoảng dặm phía ngoài là hòn đảo với đồn công bằng đá. Annabeth nhớ mang máng cái đồn đó khá quan trọng trong cuộc Nội Chiến, nhưng cũng chẳng nghĩ nhiều đến việc ấy làm gì.
      Chủ yếu chỉ hít thở làn hơi biển và nghĩ đến Percy. Cầu trời đừng để phải chia tay với cậu. bao giờ có thể ra biển lần nữa mà nghĩ đến trái tim tan vỡ của mình mất. cả người khi họ khỏi con đê chắn sóng và thăm dò phần đất liền của vườn hoa.
      Công viên đông người cho lắm. Annabeth cho rằng hầu hết người dân địa phương nghỉ hè hoặc trốn trong nhà ngủ trưa. Ba người tản bộ dọc con phố Nam Battery, con phố có hàng biệt thự bốn tầng kiểu thời thuộc địa[2]. Những bức tường gạch phủ đầy thường xuân. Mặt tiền các ngôi biệt thự có những hàng cột cao vút như các ngôi đền La Mã. Những khoảnh vườn trước tràn ngập hoa hồng, hoa kim ngân và hoa giấy nở rộ. Trông cứ như thể Demeter đặt đồng hồ của tất cả những cây này ở chế độ nảy nở từ vài thập kỷ trước rồi quên quay lại kiểm tra phải.
      “Nó đại khái làm em nhớ đến Rome Mới,” Hazel . “Tất cả đám biệt thự rồi vườn hoa, rồi cột với mái vòm đó.”
      Annabeth gật đầu. nhớ đọc được rằng trước thời nội chiến, Miền Nam nước Mỹ thường so sánh mình với Rome ra sao. Thời trước, xã hội của họ chỉ toàn nghệ thuật kiến trúc đầy ấn tượng, danh dự và phong thái hào hoa. Còn về mặt xấu xa, nó lại liên quan tới chế độ nô lệ. Thành Rome có nô lệ, vài người miền Nam biện luận, sao chúng ta thể có cơ chứ?
      Annabeth rùng mình. kiến trúc ở nơi này. Những ngôi nhà và vườn hoa rất đẹp, rất đậm chất La Mã. Nhưng tự hỏi tại sao những thứ đẹp đẽ lại cứ phải mang lớp vỏ lịch sử đen tối. Hay là ngược lại? Phải chăng chính cái lịch sử xấu xa khiến người ta cần phải dựng nên những thứ xinh đẹp để che đậy những mặt đen tối đó?
      lắc lắc đầu. Percy ghét việc trở nên triết lý như vậy. mà thử với cậu những thứ ấy như vậy, mắt cậu dại ra.
      Hai còn lại gì nhiều.
      Piper liên tục nhìn quanh như thể chờ đợi cuộc phục kích. nhìn thấy công viên này lưỡi dao của mình, nhưng chịu kể chi tiết. Annabeth đoán bạn sợ phải làm vậy. cho cùng , lần cuối Piper cố giải nghĩa những hình ảnh trong con dao của , Percy và Jason suýt giết nhau ở Kansas.
      Hazel cũng có vẻ lơ đãng. Có lẽ con bé quan sát xung quanh, hay có thể là nghĩ về em trai mình. Trong vòng chưa đầy bốn ngày nữa, trừ phi họ tìm thấy Nico và giải thoát thằng bé, chết.
      Annabeth cũng cảm thấy cái hạn đó đè nặng lên . luôn có những cảm xúc lẫn lộn về Nico di Angelo. ngờ rằng cậu đổ lỗi cho từ dạo cứu cậu và chị Bianca của cậu khỏi cái học viện quân ở Maine đó, nhưng Annabeth chưa từng có hứng thú với Nico. Cậu quá trẻ và quá ủ rũ. Có phần tối tăm trong cậu khiến Annabeth thoải mái.
      Dẫu vậy, vẫn cảm thấy có trách nhiệm với cậu. Hồi họ mới gặp nhau, chưa ai trong số họ biết về người chị cùng cha khác mẹ của cậu, Hazel. Lúc đó, Bianca là người thân duy nhất còn sống của cậu. Khi mất, Nico trở thành đứa trẻ mồ côi nơi nương tựa, mình lang bạt thế gian. Annabeth có thể có liên quan tới chuyện đó.
      mải nghĩ ngợi đến nỗi có thể cứ thế mà dạo quanh công viên mãi, nhưng Piper túm lấy tay .
      “Kia kìa.” chỉ ra phía kia bến cảng. Cách trăm thước ngoài xa, bóng hình trắng lấp lánh dập dềnh mặt nước. Ban đầu, Annabeth nghĩ đó là cái phao hay xuồng cứu hộ phản chiếu ánh sáng mặt trời, nhưng ràng nó phát sáng và chuyển động êm hơn chiếc xuồng, tạo đường thẳng tiến về phía họ. Khi vật thể đó tiến lại gần, Annabeth nhận ra đó là hình dáng người phụ nữ.
      “Hồn ma,” .
      “Đó phải hồn ma,” Hazel . “ có loại hồn phách nào lại tỏa sáng rực rỡ như vậy.”
      Annabeth tin lời bạn . thể tưởng tượng mình là Hazel, chết từ khi còn quá trẻ như vậy, rồi quay trở lại từ phủ, biết nhiều về người chết hơn cả người sống.
      Như bị thôi miên, Piper băng qua con đường và về phía con đê chắn sóng, tránh được cỗ xe ngựa chỉ trong đường tơ kẽ tóc.
      “Piper!” Annabeth gọi.
      “Tốt nhất là bọn mình nên theo chị ấy ”. Hazel .
      Đến lúc Annabeth và Hazel theo kịp hồn ma chỉ còn cách có vài sải.
      Piper lườm nó như thể nhìn thấy nó khiến bị xúc phạm.
      “Quả nhiên là bà ấy.” gầm gừ.
      Annabeth hé mắt nhìn hồn ma, nhưng nó phát sáng quá chói để có thể nhìn chi tiết. Rồi bóng ma bay lên khỏi con đê chắn sóng và dừng ngay trước mặt bọn họ. Vầng sáng mờ .
      Annabeth hít sâu hơi. Người phụ nữ đó đẹp đến nghẹt thở, và quen thuộc cách kỳ lạ. Khuôn mặt của bà ta khó miêu tả. Diện mạo bà ta dường như biến đổi từ những đường nét của hết diễn viên điện ảnh quyến rũ này đến những minh tinh màn bạc khác. Đôi mắt bà ta lấp lánh tinh nghịch – lúc xanh dương, khi xanh lá, lúc lại màu hổ phách. Mái tóc bà ta biến đổi từ tóc vàng dài và thẳng sang những lọn xoăn màu nâu sô--la sẫm.
      Ngay lập tức, Annabeth cảm thấy ghen tị. luôn ước mình có mái tóc sẫm màu. có cảm giác ai coi trọng tóc vàng như . phải cố gắng gấp đôi để được công nhận là nhà chiến lược, kiến trúc sư, cố vấn trẻ tuổi – bất cứ thứ gì có liên quan đến đầu óc.
      Người phụ nữ ăn mặc như người đẹp Phương Nam, y như Jason miêu tả. Bộ đồ bà ta có phần thân xẻ sâu bằng lụa hồng và phần chân váy ba tầng và viền ren vỏ sò màu trắng. Bà ta đeo đôi găng lụa dài màu trắng và cầm cây quạt gắn lông vũ màu trắng-hồng.
      Dường như mọi thứ người bà ta đều được tính toán để khiến Annabeth thấy thua kém: từ phong thái thoải mái khi bà mặc chiếc váy, cách trang điểm hoàn hảo mà lộ liễu, đến cái cách bà ta tỏa nét quyến rũ nữ tính mà người đàn ông nào có thể cưỡng lại.
      Annabeth nhận ra nỗi ghen tị của mình là bất hợp lý. Người phụ nữ này khiến cảm thấy như vậy. từng có trải nghiệm này trước đây rồi. nhận ra người phụ nữ này, dù mặt “bà ta” ngừng biến đổi mỗi giây, càng lúc càng đẹp hơn.
      “Aphrodite,” .
      “Venus?” Hazel kinh ngạc hỏi.
      “Mẹ.” Piper , chút hào hứng.
      “Các !” Vị nữ thần giang rộng tay như muốn cái ôm tập thể.
      Ba á thần nghe theo. Hazel lùi về phía gốc cọ lùn.
      “Ta rất mừng là các con ở đây.” Aphrodite . “Chiến tranh đến. Đổ máu là thể tránh khỏi. Vậy nên chỉ có việc duy nhất phải làm.”
      “Ờ…và đó là?” Annabeth đánh bạo hỏi.
      “Sao cơ, hiển nhiên là uống trà và tán gẫu rồi. Theo ta nào!”
      Aphrodite rất biết cách mở buổi tiệc trà.
      Bà dẫn ba người đến mái đình hóng mát[3] ở trung tâm vườn hoa – vọng lâu[4]với những cây cột trắng, nơi có chiếc bàn sắp sẵn đồ bạc, chén sứ Tàu và tất nhiên là cả ấm trà nóng nghi ngút, hương trà cũng dễ dàng thay đổi như Aphrodite thay hình đổi dạng vậy – lúc là hương quế, khi là hương nhài, lúc lại là hương bạc hà. bàn còn có đĩa đầy bánh lúa mạch[5], bánh quy và bánh nướng xốp cùng với bơ tươi và mứt – tất cả, Annabeth nhận thấy, đều dễ gây béo khủng khiếp, trừ phi, dĩ nhiên rồi, bạn là nữ thần tình bất tử.
      Aphrodite ngồi – hay đúng hơn, thiết triều – chiếc ghế con công[6] bằng liễu gai. Bà rót trà và mời bánh mà bị rây vệt nào ra váy áo, tư thế của bà luôn hoàn hảo, nụ cười của bà chói lóa.
      Họ càng ngồi lâu, Annabeth càng thấy ghét bà ta hơn.
      “Ôi, các ngọt ngào của ta,” nữ thần . “Ta Charleston lắm lắm ý! Những đám cưới ta tham dự ở vọng lâu này – chúng khiến ta rơi lệ. Và cả những vũ hội hồi Miền Nam Cũ nữa. A, chúng mới đáng làm sao. Ở vườn của rất nhiều biệt thự trong số những biệt thự kia vẫn có tượng của ta, dù họ gọi ta là Venus.
      “Người nào mới là bà?” Annabeth hỏi. “Venus hay Aphrodite?”
      Nữ thần nhấp ngụm trà. Mắt bà ta lóe lên vẻ tinh quái. “Annabeth Chase, cháu lớn phổng lên thành quý trẻ xinh đẹp rồi đấy. Tuy vậy, cháu thực nên làm gì đó với mái tóc của mình. Và, Hazel Levesqe, quần áo của cháu-”
      “Quần áo của cháu?” Piper nhìn xuống bộ đồ bò nhàu nhĩ của mình – phải theo kiểu ngượng ngập lúng túng, mà chỉ bối rối, như thể tưởng tượng được chúng có gì ổn.
      “Mẹ!” Piper . “Mẹ làm con xấu hổ đấy.”
      “Chà, ta thấy có lý do nào khiến con cảm thấy xấu hổ cả.” Vị nữ thần . “Chỉ vì con coi trọng những bí quyết về thời trang của ta, Piper ạ, có nghĩa là những người khác cũng thích. Ta có thể “cải tạo” nhanh cho Annabeth và Hazel, có lẽ với những bộ váy dạ hội bằng lụa giống của ta-”
      “Mẹ!”
      “Được thôi,” Aphrodites thở dài. “Và để trả lời câu hỏi của cháu, Annabeth, cả Aphrodite lẫn Venus đều là ta. như những người bạn Olympus của ta, ta hầu như hề thay đổi theo năm tháng. ra, ta thích nghĩ rằng ta hề già tẹo nào!” Vị nữ thần vỗ vỗ lên khuôn mặt mình đầy tán thưởng.” Dù gì nữa, tình vẫn cứ là tình , có là người La Mã hay người Hy Lạp cũng vậy thôi. Cuộc nội chiến này ảnh hưởng nhiều tới ta như tới những người khác.”
      Tuyệt , Annabeth nghĩ. Mẹ của , trong những vị thần Olympus trí tuệ nhất, bị biến thành kẻ loạn trí hằn học lang thang trong ga điện ngầm. Và trong số tất cả những vị thần có thể giúp họ, những kẻ duy nhất có vẻ bị ảnh hưởng bởi giằng xé Hy Lạp-La Mã này là Aphrodite, Nemesis, và Dionysus. Tình , báo thù và rượu vang. Hữu ích ghê.
      Hazel gặm miếng bánh quy đường. “Vẫn chưa có chiến tranh mà, thưa nữ thần.”
      “Ôi, Hazel quý,” Aphrodite gấp cây quạt của bà ta lại. “ là lạc quan làm sao, nhưng cháu phải đối mặt với những ngày tháng buồn đau phía trước. Dĩ nhiên là chiến tranh nổ ra. Tình và chiến tranh luôn đồng hành với nhau. Chúng là những đỉnh cao của cảm xúc con người! Cái ác và cái thiện, cái đẹp và xấu xa.
      Nữ thần cười với Annabeth như thể bà ta biết trước đó nghĩ gì về Miền Nam cũ.
      Hazel đặt miếng bánh quy đường của xuống. ít vụn bánh dính cằm và Annabeth thích việc bạn biết hoặc buồn quan tâm đến chuyện đó.
      “Ý bà là sao khi ,” Hazel hỏi, “ngày tháng buồn đau?”
      Nữ thần cười ngất như thể Hazel là chú cún con dễ thương.” Chà, Annabeth có thể có vài gợi ý cho cháu đấy. Ta từng hứa làm cho đường tình duyên của con bé trở nên thú vị. Và ta làm vậy, phải sao?”
      Annabeth suýt nữa bẻ gãy quai tách trà của . Hàng nhiều năm trời, trái tim bị giằng xé. Đầu tiên là Luke Castellan, mối tình đầu của , người chỉ coi như em , rồi chuyển sang phe xấu và quả quyết rằng thích – ngay trước khi chết. Sau đó Percy đến, cậu khiến người ta điên tiết nhưng cũng rất dễ thương, thế nhưng cậu dường như lại phải lòng khác tên là Rachel và rồi cậu suýt chết, vài lần liền. Cuối cùng Annabeth cũng có được Percy, chỉ để chịu đựng việc cậu bị mất tích trong sáu tháng và mất luôn cả trí nhớ.
      “Thú vị,” Annabeth , là cách hòa nhã để diễn tả việc đó.”
      “Chà, ta thể nhận hết công lao cho tất cả những rắc rối của cháu được,” vị nữ thần . “Nhưng ta luôn thích những chỗ ngoắt ngoéo trong câu chuyện tình. Ồ, cả ba người đều là những câu chuyện xuất sắc – ý ta là, các , các con khiến ta tự hào!”
      “Mẹ,” Piper , “có lý do nào để mẹ ở đây ?”
      “Hửm? Ồ, ý con là ngoài việc uống trà ra á? Ta thường đến đây mà. Ta quang cảnh, đồ ăn, khí nơi đây – con có thể ngửi thấy lãng mạn và cả thất tình trong khí, phải sao? Hàng thế kỷ chồng chất những thứ đó.
      Bà chỉ ra biệt thự gần đó. “Các con có thấy cái sân thượng mái kia ? Chúng ta từng mở buổi tiệc vào cái đêm cuộc Nội chiến mở màn. Đêm nổ súng trận đồn Sumter[7].”
      “Chính là nó!” Annabeth nhớ ra. “Hòn đảo ở bến cảng. Đó là nơi trận đầu tiên trong cuộc nội chiến diễn ra. Liên minh miền nam nổ súng với Liên bang miền Bắc và chiếm cái đồn đó.”
      “Ôi, bữa tiệc ra tiệc!” Aphrodite . “ dàn tứ tấu dây[8] và tất cả đàn ông đều mặc quân phục. Những bộ váy của phụ nữ – các con phải thấy chúng! Ta nhảy với Ares – hay là Mars nhỉ? Ta e rằng lúc đó ta hơi ngà ngà. Và những luồn sáng xinh đẹp khắp bến cảng, tiếng gầm của đại bác mang đến cho những người đàn ông cơ hội được vòng tay ôm những người tình kinh hãi của họ!”
      Trà của Annabeth lạnh ngắt. chưa ăn gì, nhưng cảm thấy buồn nôn.
      “Bà về mở màn của trong những cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ đấy. Hơn sáu trăm nghìn người chết – còn nhiều hơn số người Mỹ chết trong cả Thế chiến thứ nhất và thứ hai cộng lại.”
      “Và những món ăn!” Aphrodite tiếp tục. “A, chúng còn cả tuyệt vời. Đích thân tướng Beauregard diện ở đó. chàng trăng hoa. Lúc đó ta cùng với người vợ thứ hai, nhưng các cháu phải thấy cái cách ta nhìn Lisbeth Cooper-”
      “Mẹ!” Piper ném chiếc bánh lúa mạch của cho lũ bồ câu.
      “Ờ, xin lỗi,” vị nữ thần . “Tóm lại là, ta ở đây để giúp các con, các ạ. Ta ngờ rằng các con chẳng gặp được Hera mấy đâu. Nhiệm vụ nho của các con khiến bà ta chẳng được chào đón là bao trong đại điện. Và các thần khác hơi khó ở, các con biết đấy, bị giằng xé giữa hai phần La Mã và Hy Lạp trong họ. Người bị , người bị nặng.” Aphrodite nhìn sang Annabeth. “Ta đoán cháu kể cho các bạn nghe về chuyện bất hòa với mẹ cháu rồi chứ?”
      Má Annabeth nóng lên. Hazel và Piper nhìn tò mò.
      “Bất hòa?” Hazel hỏi.
      cuộc tranh cãi,” Annabeth đáp. “ có gì đâu mà.”
      có gì sao!” nữ thần . “Chà, ta biết nữa. Athena là nữ thần đậm chất Hy Lạp nhất trong các nữ thần. Dù gì nữa, là người bảo trợ của Athens. Khi những người La Mã xâm chiếm..ờ, họ thu nhận Athena theo kiểu nào đó. ấy trở thành Minerva, nữ thần của khéo léo và khôn ngoan. Nhưng người La Mã có những vị thần khác được ưa chuộng hơn, đáng tin cậy hơn – như Bellona[9]-”
      “Mẹ của Reyna,” Piper lẩm bẩm.
      “Ừ, đúng vậy,” nữ thần đồng ý. “Ta từng có cuộc trò chuyện dễ thương với Reyna cách đây lâu, ngay trong công viên này. Và dĩ nhiên, người La Mã có Mars. Và sau đó là Mithras[10] – còn phải thần Hy Lạp hay La Mã thực , nhưng đám lính trong binh đoàn sùng bái . Riêng ta luôn thấy thô bỉ và khoe mẽ khủng khiếp. Dù sao người La Mã gần như cho Athena tội nghiệp ra rìa. Họ tước hầu hết quyền năng quân của ấy. Người Hy Lạp bao giờ tha thứ cho người La Mã về nỗi sỉ nhục đó. Và Athena cũng vậy.”
      Tai Annabeth ù ù. “Dấu Hiệu Athena,” . “Nó dẫn đường tới bức tượng, phải ạ? Nó dẫn lối tới…tới bức tượng đó.”
      Aphrodite mỉm cười. “Cháu rất khôn ngoan, như mẹ cháu vậy. Nhưng hãy hiểu rằng, các chị em của cháu, con cái Athena, kiếm tìm nó từ nhiều thế kỷ nay. Chưa ai thành công trong việc khôi phục bức tượng đó. Cho tới lúc này, họ vẫn mang mối thù với người La Mã. Mọi cuộc nội chiến… nhiều máu đổ và bao nhiêu trái tim tan vỡ…đều do những đứa con của Athena gây ra.”
      “Chuyện đó…” Annabeth muốn rằng điều đó là thể, nhưng nhớ lại những lời cay đắng của Athena ở Ga điện ngầm Trung tâm, lửa hận bùng cháy trong mắt .
      lãng mạn ư?” Aphrodite gợi ý. “Phải, ta cho là vậy.”
      “Nhưng mà..” Annabeth cố xua tan màn sương mờ mịt trong óc. “Dấu Hiệu Athena đó, nó hoạt động như thế nào? Nó là lọat những gợi ý, hay dấu vết Athena để lại?”
      “Ta biết. Ta nghĩ Athena có chủ ý tạo ra Dấu Hiệu đó. Nếu ấy biết bức tượng của mình ở đâu, ấy chỉ đơn giản là cho cháu biết mà tìm nó. …Ta đoán Dấu hiệu đó giống vệt vụn bánh mỳ tượng trưng vậy. Nó là mối liên kết giữa bức tượng và những đứa con của nữ thần. Bức tượng muốn được tìm thấy, cháu thấy đấy, nhưng nó chỉ có thể được giải thoát bởi người xứng đáng nhất.”
      “Và trong suốt hàng ngàn năm,” Annabeth , “ ai làm được việc đó.”
      “Khoan ,” Piper . “Chúng ta về bức tượng nào thế?”
      Nữ thần cười. “Ồ, ta chắc là Annabeth có thể cung cấp đầy đủ thông tin cho con. Dù gì , manh mối mà các con cần ở rất gần: tấm bản đồ tổng hợp, được truyền lại từ những người con của Athena vào năm 1861 – kí ức bắt đầu hành trình của các con, ngay khi các con tới Rome. Nhưng như cháu , Annabeth Chase, chưa từng có ai theo được Dấu Hiệu Athena tới cùng. Ở đó, cháu phải đương đầu với nỗi sợ hãi lớn nhất đời cháu – nỗi sợ của tất cả con cái Athena. Và dù cháu có sống sót, cháu làm gì với phần thưởng của cháu? Cho chiến tranh hay cho hòa bình?”
      Annabeth mừng vì có chiếc khăn trải bàn, vì dưới mặt bàn, chân run rẩy. “Tấm bản đồ này,” hỏi, “nó ở đâu ạ?”
      “Mọi người!” Hazel chỉ lên bầu trời. Bay vòng vòng hàng cọ lùn là hai con đại bàng lớn. Ở cao, chiếc chiến xa bay được kéo bởi đám pegasus ầm ầm lao xuống. ràng là kế đánh lạc hướng bằng cái bàn Buford có hiệu quả – ít ra cũng chả hiệu quả được lâu.
      Aphrodite phết bơ lên cái bánh nướng xốp như thể bà ta có toàn bộ thời gian thế giới.

      “Ồ, tấm bản đồ ở trong đồn Sumter, dĩ nhiên rồi.” Bà chỉ con dao phết bơ về phía hòn đảo ngoài bến cảng. “Có vẻ như những người La Mã đến nơi để ngăn các con. Ta mà là các con ta khẩn trương về tàu. Các con có muốn ít bánh mang về ?”


      [1] White Point Garden – khu vườn ở gần càng Charleston.
      [2] Colonial mansion-biệt thự theo lối kiến trúc thời thuộc địa: Có nhiều kiểu kiến trúc khác nhau của nhiều thời kỳ thuộc địa khác nhau, ở đây là thời kỳ nào, nhưng theo những thông tin mà mình tìm hiểu được có lẽ những ngôi biệt thự được nhắc tới ở đây thuộc lối kiến trúc Georgian-lối kiến trúc phổ biến của thời thuộc địa vua George. Đặc trưng của lối kiến trúc này là nhà được xây bằng gạch kiên cố với cột gỗ, thường có phòng khách, phòng ăn tiêu chuẩn, đôi khi có cả phòng sinh hoạt gia đình, và các phòng ngủ được đặt tầng hai.

      [3] pavillion- đình hóng mát, chỉ gồm cột và mái che, thường được xây theo hình bát giác, bên trong thường có bàn và ghế đá để ngồi ngắm cảnh, giống mấy cái đình thủy tạ của Trung Quốc.
      Đình hóng mát vườn White Point

      [4] gazebo-vọng lâu, cũng giống như đình hóng mát, là chỗ để ngồi ngắm cảnh, 2 nơi nhắc đến trong truyện là 1, chỉ nhiều tên gọi khác nhau thôi
      [5] Scone: bánh nướng làm từ bột mì hoặc bột cháo yến mạch, thường được ăn khi uống trà.

      [6] peacock chair: loại ghế có phần lưng tựa xòe ra giống như đuôi công, thường được làm từ cây liễu gai.

      [7] Trận đồn Sumter là cuộc pháo kích bức hàng đồn quân Sumter, là trận đánh đầu tiên chính thức mở màn cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Sau khi 7 tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ tuyên bố ly khai tách khỏi Liên bang, Nam Carolina cầu quân đội miền Bắc rút khỏi các căn cứ của mình tại cảng Charleston. Ngày 26 tháng 12 năm 1860, thiếu tá miền Bắc Robert Anderson bí mật dời bộ chỉ huy của mình từ đồn Moultrie vốn thể phòng thủ tại thị trấn Sullivan’s Island đến đồn Sumter, pháo đài trọng yếu kiểm soát lối ra vào cảng Charleston. Tổng thống James Buchanan cố gắng tăng viện và tiếp tế cho Anderson bằng con tàu buôn vũ trang mang tên Ngôi sao miền Tây, nhưng thất bại khi tàu này bị các khẩu đội pháo binh bờ biển miền Nam tấn công vào ngày 9 tháng 1 năm 1861. Chính quyền Nam Carolina sau đó chiếm đóng tất cả các căn cứ của Liên bang trong khu vực Charleston, ngoại trừ đồnSumter.
      [8] string quartet – dàn tứ tấu dây: dàn nhạc gồm bốn nhạc cụ thuộc bộ dây, thường bao gồm hai violin, viola và cello.

      [9] Bellona, nữ thần chiến tranh La Mã, là vị thần quan trọng với người La Mã, cai quản chính sách đối ngoại với các nước khác trong chiến tranh. Nữ thần này rất thân thiết với Mars-nam thần chiến tranh, thường được biết đến như người đồng hành của Mars. Bà được cho là vợ, con hoặc người đánh chiến xa cho Mars, nhưng thường được gọi là em song sinh của vị thần chiến tranh này hơn.

      [10] Mithdras- thần của các chiến binh La Mã, là vị thần Ba Tư được người Hy Lạp tiếp nhận nhưng lại có đền thờ chính ở Rome. Những người lính trong các binh đoàn thành Rome rất tôn sùng vị thần này. Vị thần này được sinh ra từ đá, cầm con dao găm và ngọn đuốc, nổi tiếng vì giết con bò thiêng.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :