Các Anh hùng trên đỉnh Olympus tập 4: Ngôi Nhà của Thần Hades - Rick Riordan

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 12




      BỌN LÙN CHẲNG CỐ GẮNG CHO LẮM TRONG VIỆC CẮT ĐUÔI CẬU, điều này làm Leo rất nghi ngờ. Bọn chúng giữ khoảng cách vừa đủ để cậu nhìn thấy, chạy nhảy các mái nhà lợp ngói đỏ, đấm ngã các bồn hoa bên bậu cửa sổ, vừa hú hét, vừa vứt lại mấy cái đinh và ốc vít lấy từ đai lưng của Leo – cứ như là bọn chúng muốn Leo đuổi theo vậy.

      Cậu chạy đuổi theo, chửi rủa mỗi lần quần của vậu tụt xuống. Cậu rẽ và góc đường và nhìn thấy hai tòa tháp cổ bằng đá sừng sững giữa trời[1], cạnh nhau, cao vượt lên bất cứ cái gì xung quanh – có lẽ là đôi tháp canh từ thời Trung Cổ? Chúng nghiêng theo hai hướng khác nhau cứ như hai cái cần số xe đua.

      Hai tên Kerkope leo thoăn thoắt lên tòa tháp bên phải. Khi leo lên đến đỉnh, chúng leo vòng ra sao rồi mất hút.

      Chẳng lẽ bọn chúng vào trong? Leo nhìn thấy vài cái cửa sổ tí teo đỉnh tháp, có lưới sắt, nhưng Leo nghi ngờ là mấy thứ đó chẳng xi nhê gì với bọn lùn. Cậu quan sát gần phút, nhưng bọn Kerkopes chẳng hề tái xuất . Thế nghĩa là Leo phải leo lên đấy mà tìm chúng.

      ‘Tuyệt vời ông mặt zời.’ Cậu lẩm bẩm. có người bạn biết bay nào để cậu nhờ cả. Con tàu ở quá xa nên chẳng giúp được gì. Cậu có thể lắp quả cầu Ác-si-mét này thành loại thiết bị bay, có thể, nếu cậu vẫn còn cái đai lưng dụng cụ – là cái cậu mất. Cậu nhìn quanh, cố nghĩ. Cách đấy nửa dãy nhà, đôi cửa kính mở ra và bà già lụ khụ ra, mang theo túi đồ bằng nhựa.

      cửa hàng tạp hóa? Hừmm …

      Leo thò tay lục túi. ngạc nhiên, cậu vẫn còn mấy tờ Euro từ lúc ở Rome. Hai thằng lùn đần độn đó lấy của cậy tất cả mọi thứ, trừ TIỀN!

      Cậu chạy nhanh về phía cửa hàng đó – nhanh hết cỡ người mặc quần có khóa kéo có thể chạy.

      Leo lùng sục các kệ hàng, cố tìm gì đấy cậu có thể dùng. Cậu biết câu Xin chào, làm ơn cho biết các hóa chất nguy hiểm nằm ở chỗ nào bằng tiếng Ý. Nhưng thế có khi lại hay. Cậu muốn nằm lại trong nhà đá ở nước Ý này.

      May thay, cậu chẳng cần đọc nhãn. Cậu lấy luôn mấy tuýp kem đánh răng có chứa Kali nitrat (KNO3). Cậu tìm thấy thanh củi(C), rồi đường(C6H12O6), rồi bột nở (NH4CO3). Cửa hàng này còn bán cả diêm, bình xịt muỗi và phôi nhôm. Hầu như mọi thứ cậu cần, kể cả dây thừng để cậu làm thắt lưng. Cậu nhét luôn mấy thứ đồ ăn vặt của Ý vào giỏ, để cho đống hàng của cậu bớt đáng ngờ hơn, rồi đổ đống hàng của cậu lên quầy. thu ngân mắt to hỏi cậu mấy câu hỏi mà cậu chẳng hiểu, nhưng cậu thanh toán rồi chuồn thẳng.

      Cậu núp vào bậc thềm gần nhất mà cậu có thể đển mắt đến hai tòa tháp. Cậu bắt đầu làm việc, triệu hồi lửa để sấy khô nguyên vật liệu và nấu vài thứ mà bình thường phải mất mấy ngày để nấu.

      Thỉnh thoảng cậu lại liếc mắt ra hai tòa tháp nhưng vẫn chẳng thấy dấu hiệu nào của bọn lùn cả. Leo chỉ đành hy vọng là bọn chúng vẫn ở đấy. Chế khẩu pháo chỉ mất của cậu vài phút – cậu đỉnh cỡ đấy đấy – nhưng bằng đấy cứ như mấy tiếng đồng hồ vậy.

      Jason vẫn chẳng thấy đâu. Có lẽ cậu ta vẫn kẹt trong đống dây nhợ lằng nhằng đấy ở chỗ đài phun nước Neptune hay lùng sục các con phố tìm Leo. ai khác tàu đến giúp. Chắc là mấy cái đai cao su tóc huấn luyện viên Hedge phải cần nhiều thời gian mới gỡ ra được.

      Thế có nghĩa là Leo chỉ có cái thân cậu, túi đồ ăn vặt và mấy thứ vụ khí tự chế chất lượng cao làm từ đường và kem đánh răng, À, còn cả quả cầu Ác-si-mét nữa. Cái đấy khá là quan trọng. Cậu hy vọng là mình phá hỏng nó bằng thuốc nổ hóa học.

      Cậu chạy đến chỗ tòa tháp và tìm thấy lối vào. Cậu bắt đầu trèo lên những cái cầu thang quanh co, chỉ bị chặn lại mỗi lần ở chỗ bốt soát vé khi người trông tháp quát cậu bằng tiếng Ý.

      à?’ Leo hỏi. ‘Nghe này, ông bạn, ông có hai con quỷ lùn tháp chuông. Tôi là người diệt lùn.’ Cậu giơ cái bình xịt lên. ‘Thấy ? Thuốc diệt lùn hiệu Molto Buono [2]. Xịt, xịt. Ááááááááááá!’ Cậu làm điệu bộ tên lùn bị tan chảy trong nỗi khiếp sợ, điều mà vì lí do nào đó mà thằng cha Italia kia có vẻ hiểu mô tê gì cả.

      Thằng chả cứ nắm chặt lấy tay cậu để đòi tiền.

      ‘Thôi nào, ông bạn,’ Leo càu nhàu, ‘Tôi vừa mới nướng sạch tiền vào mớ chất nổ tự chế và cái này.’ Cậu đung đưa cái túi, ‘Tôi cho là ông bạn lấy …ờ… bất kể đó là cái gì?

      Leo cầm lên cái bịch snack màu đỏ-và-vàng gọi là Fonzies[3]. Cậu nghĩ rằng đấy là loạt khoai tây rán mỏng nào đấy. Trước ngạc nhiên của Leo, thằng cha bảo vệ nhún va và lấy luôn túi snack. ‘Avanti!’ [4]

      Leo tiếp tục leo, nhưng cậu ghim cái note trong đầu là sau này phải đầu cơ ít Fonzies. Có vẻ như ở Ý, cái này còn tuyệt hơn cả tiền.

      Cầu thang cứ lên, lên rồi lại lên. Có vẻ như người ta xây tòa tháp này chẳng qua vì cuồng xây cầu thang.

      Cậu dừng lại ở cái chiếu nghỉ và tự vào cái cửa sổ hẹp có chấn song, thở hổn hển. Caaji đổ mồ hôi như điên, còn tim cứ thụi liên hồi vào lồng ngực. Mấy tên Kerkopes ngu ngốc. Leo biết là lúc cậu leo lên đế đỉnh tháp bọn chúng sẻ nhảy trước khi cậu có thể dùng vũ khí của cậu, nhưng cậu phải thử.

      Cậu tiếp tục trèo. Cuối cùng, khi chân cậu mềm ra như mì ống chín kĩ, cậu cũng leo lên đến dỉnh tháp.

      Căn phòng to cỡ cái tủ để chổi, với 4 cái cửa sổ có chấn song 4 bức tường. Vứt bừa vào các góc tường là hàng bao tải kho báo, những đồng và sáng lóa tung tóe khắp sàn. Leo nhìn thấy con dao của Piper, quyển sách bìa da cũ, và mấy thứ máy móc cơ khí trông-rất-tuyệt và đủ vàng để làm cho con ngựa của Hazel phải đau dạ dày.

      Ban đầu, cậu nghĩ là bọn lùn bỏ . Rồi cậu nhìn lên. Akmon và Passalos vắt vẻo treo ngược mình xà nhà bằng đôi bàn chân khỉ của chúng, chơi poker lơ lửng giữa trung. Khi chúng thấy Leo, chúng tung bài như tung hoa giấy trong đám cưới.

      bảo chú là nó lên mà!’ Akmon la hét đầy sung sướng.

      Passalos nhún vai rồi cởi cái đồng hồ bằng vàng ra và đưa cho Akmon. ‘Ừ chú mày thắng. Tại mày tưởng tượng ra rằng đời này có thằng cha ngu đến thế.’

      Cả hai buông chân rơi xuống sàn. Akmon đeo thắt lưng của Leo – ta ở gần cậu đến nỗi Leo phải cưỡng lại cái thôi thúc tống cho cái để lấy lại cái thắt lưng.

      Passalos chỉnh lại cái mũ cao bồi đội cho ngay ngắn và đá cái tung cái lướt sắt cái cửa sổ gần nhất. ‘Mình dụ nó trèo tiếp lên cái gì bây giờ nhỉ? Mái vòm của San Luca[5]?

      Leo chỉ muốn bóp cổ mấy con lùn, nhưng cậu phải cố rặn ra nụ cười. ‘Ồ, nghe có vẻ vui đấy! Nhưng, trước khi các chú , vẫy còn mấy thứ bóng loáng đây.’

      ‘Làm gì có chuyện! Akmon cau có. ‘Bọn ta đỉnh lắm.’

      ‘Mấy chú chắc chứ?’ Leo giơ cái túi đồ lên.

      Hai tên lùn nhích đến gần. Đúng như Leo hy vọng, tính tò mò của bọn chúng quá mạnh đến nỗi át cả đề phòng.

      ‘Nhìn này.’ Leo mang thứ vũ khí đầu tiên ra – bọc chất nổ sấy khô bọc trong lá phôi nhôm – và dùng tay đốt chúng.

      Cậu đủ thông minh để quay mặt lúc cái bọc nổ, nhưng hai thằng lùn nhìn chằm chằm vào đấy. Kem đánh răng, đường và thuốc xịt bọ tuy tốt bằng nhạc của thần Apollo, nhưng để làm pháo sáng thừa sức.

      Hai tên Kerkopes rên rỉ, bấu chặt lấy mắt. Bọn chúng loạng choạng về phía cửa sổ, nhưng Leo rút ra mấy quả pháo nổ tự chế – ném quanh chân hai tên lùn để làm chúng mất thăng bằng. Rồi, với tính toán siêu đỉnh, Leo quay cái vòng số quả câu Ác - si –mét, nhả ra đống sương trắng phủ kín căn phòng.

      Leo chẳng sợ gì khói. Miễn dịch với lửa, cậu có thể đứng trong đám cháy mù mịt khói, chịu được hơi thở của rồng và lau chùi mấy cái lò rèn đỏ lửa vô số lần. Trong lúc hai tên lùn đấm đá và thở khò khè, cậu chộp lại luôn cái thắt lưng dụng cụ của cậu từ Akmon, bình tĩnh lấy ra mấy sợi dây bungee và trói gô hai thằng lùn lại.

      ‘Mắt tao!’ Akmon ho khù khụ. ‘Thắt lưng của tao!’ ‘Chân tao cháy!’ Passalos rên rỉ. ‘ sáng loáng! sáng loáng tí nào cả!’

      Sau khi chắc chắn rằng bọn lùn bị trói chặt, Leo kéo hai tên Kerkopes vào góc và bắt đầu lục tung đống kho báu của bọn chúng. Cậu tìm thấy con dao găm của Piper, mấy quả lựu đạn mẫu của cậu và tá thứ lặt vặt mà hai thằng lùn trấn từ tàu Argo II.

      ‘Xin cậu!’ Akmon rên. ‘Đừng lấy các thứ sáng bóng của chúng tôi!’

      ‘Chúng tôi thỏa thuận với cậu!’ Passalos đề nghị. ‘Chúng tôi chia cho cậu mười phần trăm và cậu thả chúng tôi !’

      ‘Sợ là được đâu,’ Leo lầm bầm. ‘Bây giờ tất cả là của tao.’

      ‘Hai mươi phần trăm!’

      Đúng lúc đấy, sấm đánh rầm cái trời. Chớp lóe lên, và hàng song sắt ở cửa sổ gần nhất nóng đỏ lên, chảy thành vũng sắt lỏng.

      Jason bay vào như Peter Pan, tia lửa điện lóe sáng quanh cậu và thanh kiếm vàng của cậu bốc khói.

      Leo huýt sáo thánh phục: ‘ bạn à, cậu vừa phí phạm màn đạp cửa ngoạm mục đấy.’

      Jason cau mày. Cậu nhìn thấy hai tên Kerkopes bị trói quặt chân tay. ‘Cái –‘

      ‘Tự làm hết đấy,’ Leo ‘Tớ đỉnh như thế đáy. Cậu làm cách nào mà tìm ra tớ vậy?’

      ‘À, khói,’ Jason thừa nhận . ‘Và tớ nghe thấy tiếng nổ. Cậu vừa có trận đấu súng ở đây đấy à?’

      ‘Đại loại là thế.’ Leo đưa cậu dao găm của Piper, và tiếp tục lục lọi những cái bao chứa đồ lấp lánh của bọn lùn. Cậu nhớ là Hazel gì đó về tìm báu vật có thể giúp họ trong nhiệm vụ lần này, nhưng cậu chắc lắm là mình tìm cái gì. Ở đấy có những đồng xu, những mảnh quặng vàng nguyên chất, châu báu, cái loại, dập ghim, giấy nhôm, măng séc.

      Cậu chú ý đến đôi thứ trông chẳng thuộc về chốn này. Có thiết bị định hướng bằng đồng cũ, giống như cái thước kinh vĩ [6] tàu. Nó hỏng nặng và có vẻ như mất mất vài linh kiện, nhưng Leo vẫn thấy mê mẩn.

      ‘Lấy !’ Passalos đề nghị. ‘Odysseus phát làm ra nó đấy! Lấy nó và thả bọn ta ra.’

      ‘Odysseus?’ Jason hỏi. ‘Odysseus vĩ đại đấy á?’

      ‘Đúng!’ Passalos rít ‘Làm ra nó lúc ông già ở đảo Ithaca. trong những phát minh cuối cùng của lão già đó, và bọn ta chôm nó!’

      ‘Cái này hoạt động như thế nào?’ Leo hỏi.

      ‘À. Nó có hoạt động qué đâu!,’ Akmon ‘Có liên quan gì đấy đến mảnh pha lê mất tích nào đấy?’ liếc qua Passalos tim trợ giúp.

      ‘ “Nuối tiếc lớn nhất đời ta”,’ Passalos . ‘ “Đáng lẽ phải lấy mảnh pha lê.” Đấy là những gì lão ta cứ lẩm bẩm miết trong giấc ngủ, cái đêm chũng tôi lấy nó.’ Passalos nhún vai. ‘Chẳng hiểu lão gì luôn. Nhưng cái đồ lấp lánh đấy là của cậu đấy! Chúng tôi được chưa?’

      Leo chẳng hiểu tại sao cậu lại muốn cái thước kinh vĩ này. Nó hiển nhiên là hỏng, và chẳng có dấu hiệu nào chỉ ra rằng đây là thứ mà Hecate bảo họ tìm. Nhưng cậu vẫn bỏ nó vào cái túi ma thuật cái thắt lưng của cậu.

      Cậu hướng chú ý vào thứ đồ ăn cắp kì lạ khác – quyển sách bìa da. Tựa của nó được mạ vàng, bằng thứ ngôn ngữ mà Leo hiểu, nhưng chẳng phần nào khác của quyển sách trông sáng bóng cả. Cậu hề biết bọn Kerkopes cũng là những người mê đọc sách.

      ‘Cái gì đây?’ Cậu đung đưa nó trước mặt hai tên lùn, vẫn chảy nước mặt vì khói.

      ‘Chẳng gì cả!’ Akmon trả lời. ‘Chỉ là quyển sách thôi. Nó có cái vỏ đẹp, thế là bọn tôi lấy của .’

      ‘Ai?’ Leo hỏi. Akmon và Passalos trao đổi với nhau cái nhìn lo sợ. ‘Tiểu thần,’ Passalos . ‘Ở Venice. đấy, có gì đâu mà.’

      ‘Venice.’ Jason cau mày nhìn Leo. ‘Chẳng phải đó là nơi chúng ta đến tiếp theo đúng ?’

      ‘Chuẩn.’ Leo nghiên cứu quyển sách. Cậu đọc được chữ, nhưng có ất nhiều hình minh họa: lưỡi hái, các loại thảo mộc khác nhau, bắc hình mặt trời, mấy con bò kéo xe. Cậu hiểu mấy cái đấy có quan tròn hay , nhưng nếu quyển sách này bị trộm từ tiểu thần ở Venice – nơi Hecate bảo bọm họ ghé qua – nó phải – là thứ họ tìm.

      ‘Chính xác bọn ta có thể tìm vị tiểu thần này ở đâu?’ Leo hỏi.

      !’ Akmon rít lên. ‘Ngươi được trả lại cho ta! Nếu mà biết rằng chúng ta lấy trộm nó –‘

      xử lí các ngươi,’ Jason đoán. ‘Đó cũng là việc mà bọn ta làm với các ngươi, nếu các ngươi khai, mà việc đấy gần hơn nhiều so với ‘’. ‘ Cậu ấn mũi kiếm vào cá cổ họng lông lá của Akmon.

      ‘Rồi, rồi!’ tên lùn rít lên ‘La Casa Nera! Calle Frezzeria!’

      ‘Đấy là địa chỉ đó à?’ Leo hỏi Hai tên lùn đồng thời gật mạnh đầu. ‘Xin đừng với rằng bọn tôi trộm nó,’ Passalos van xin. ‘ tốt tí nào cẢ!’ ‘ là ai?’ Jason hỏi ‘Thần thánh nào?’ ‘Tôi – tôi được,’ Passalos lắp bắp.

      ‘À thế à?’ Leo gằn giọng

      ,’ Passalos như khóc. ‘Ý tôi, ý tôi là tôi thực được. phát được! Tr – Tri – Khó quá!’

      đấy,’ Akmon . ‘Tru-toh – Có quá nhiều tiết!’

      Cả hai cùng bật khóc. Leo chắc bọn Kerkorpes có hay , nhưng khó mà tức giận trước cảnh hai tên lùn khóc lóc, cho dù bọn chúng thực khó chịu và ăn mặc xấu tả nổi.

      Jason hạ mũi kiếm của cậu xuống. ‘Cậu muốn làm gì với bọn chúng hả Leo? Cho bọn chúng xuống Tartarus?’

      ‘Xin cậu, !’ Akmon rên rỉ. ‘Phải mất đến mấy tuần bọn tôi mới về được’

      ‘Đấy là giả sử Gaia cho chúng tôi qua!’ Passalos khịt mũi. ‘Bà ta kiểm soát Cửa Tử. Bà ta làm khó chúng tôi.’

      Leo nhìn xuống bọn lùn. Cậu đánh nhau với rất nhiều quái vật trước đây và chưa bao giờ cảm thấy tệ khi hóa bột bọn chúng, nhưng lần này khác. Cậu phải thừa nhận rằng cậu khác thích mấy thằng cha này. Chúng chơi khăm rất đỉnh và thích mấy thứ lấp lánh. Có khi chúng có họ hàng với Leo. Hơn nữa, Percy và Annabeth ở dưới Tartarus, mong rằng vẫn còn sống, lê bước về phía Cửa Tử. Cái ý tưởng về việc gửi hai tên khỉ sinh đôi này xuống dưới đấy để gặp cơn ác mộng tương tự như ở này … ừ thế là đúng lắm.

      Cậu tưởng tượng ra cảnh Gaia cười và cái diểm yếu của cậu – á thần quá mềm yếu để giết quái. Cậu nhớ lại giấc mơ về Trại Con Lai đổ nát, thây á thần Hy Lạp và La Mã rải đầy đồng. Cậu nhớ lại những điều Octavian bằng giọng của nữ thần Đất Mẹ: Người La Mã đông tiến từ NewYork. Họ tiến đến trại của ngươi, và có gì có thể cản bước tiến của họ.

      gì có thể cản bước tiến của họ,’ Leo lẩm bẩm. ‘Liệu…’

      ‘Gì cơ?’ Jason hỏi. Leo nhìn xuống bọn lùn. ‘Ta lập thỏa thuận với hai ngươi.’

      Mắt Akmon mở to. ‘Ba mươi phần trăm?’ ‘Chúng ta để lại kho báu cho các ngươi.’Leo . ‘trừ những thứ thuộc về chúng ta và cái thước kinh vĩ với quyển sách này, chúng ta đem chúng cho chàng ở Venice.’

      ‘Nhưng xử chúng tôi!’Passalos rên.

      ‘Chúng ta chúng ta lấy nó từ đâu,’ Leo hứa. ‘Và chúng ta giết các ngươi. Chúng ta tha cho các ngươi.’

      ‘Này, Leo…?’ Jason hỏi đầy lo lắng.

      Akmon la lên như bố đẻ em bé. ‘Tôi biết rằng cậu thông minh như Hercules mà! Tôi gọi cậu là Mông Đen đệ Nhị!’

      ‘Ờ, , cám ơn,’ Leo ‘Nhưng để trả ơn cho việc chúng ta tha mạng cho các ngươi, các ngươi phải làm cho chúng ta vài việc. Ta gửi các ngươi đến nơi để ăn trôm của người ta, quấy rối họ, làm cho đời họ khó khăn hết mức có thể. Các ngươi phải tuân lệnh ta. Các ngươi phải thề trước sông Styx.’

      ‘Chúng tôi thề!’ Passalos . ‘Ăn cắp đồ là chuyên môn của bọn!’

      ‘Tôi việc quấy rồi!’ Akmon đồng ý. ‘Chúng tôi đâu đây?’ Leo cười toe toét. ‘ bao giờ nghe đến New York chưa?’

      ————

      [1] tháp Bologna: được xây hàng loạt vào thế kỉ 12, 13 với mục đích ban đầu là bảo vệ thành phố trước các làn sóng Thập tự chinh và các cuộc cuộc tranh phong chức Giáo Hoàng. nay chỉ còn lại 2 tòa tháp:



      [2] nguyên văn tiếng ý, có nghĩa là Cực tốt

      [3] 1 loại snack ở Ý

      [4] nguyên văn bằng tiếng Ý, dịch ra là Phắn!

      [5] nhà chung San Luca



      [6] nguyên văn: Astrolabe. dụng cụ biển thời cổ, dùng để đo góc phương vị giữa ngôi sao và đường chân trời, thường dùng để xem bản đồ sao và xác định tọa độ khi biển, . sau này, người ta cải tiến dụng cụ này thành kính lục phân rồi máy đo kinh vĩ

      Chương 13: Percy




      PERCY TỪNG ĐƯA BẠN MÌNH những buổi hẹn hò hết sức lãng mạn trước đây. Nhưng lần này chắc chắn phải trong số đó.

      Họ dọc theo sông Phlegethon, vấp liên tục ở những nơi địa hình tối thui lởm chởm thủy tinh, nhảy qua các khe nứt và nấp sau những tảng đá mỗi khi mấy ả ma cà rồng chậm lại phía trước họ.

      Khá là rủi ro khi vừa phải giữ khoảng cách đủ xa để bị phát lại vừa phải đủ gần để có thể theo sau Kelli cùng đồng bọn của ả qua làn sương mờ ảo đen ngòm. Sức nóng từ dòng sông nướng chín da Percy. Mỗi hơi thở như đều hít vào mùi khí đốt sulfur từ sợi thủy tinh. Mỗi khi họ cần phải uống, điều tốt nhất họ có thể làm là hớp ít lửa lỏng để hồi phục.

      Phải. Percy chắc hẳn biết phải làm sao để tạo khoảng thời gian vui vẻ với .

      Ít nhất mắt cá của Annabeth hồi phục. ít khập khiễng hơn. Các vết cắt và trầy xước cũng mờ . buộc mái tóc vàng của mình phía sau với sợi dây rút từ chiếc quần jean mặc, và trong ánh sáng lập lòe từ dòng sông, đôi mắt xám của vẫn sáng rực. Mặc dù bị bầm dập tơi tả, người ám đầy muội và ăn mặc trông như kẻ vô gia cư, với Percy trông vẫn rất tuyệt.

      Cho dù họ ở dưới Tartarus có sao? Cho dù họ chỉ còn có 1 cơ may mỏng may để sống sót có sao? Cậu vẫn thấy vui vì họ có thể ở bên nhau và nở nụ cười kì cục.

      Về thể chất, Percy cũng cảm thấy khá hơn, mặc dù quần áo cậu trông như thể cậu vừa trải qua cơn bão lốc đầy thủy tinh. Dù đói, khát và sợ phát khiếp (tất nhiên cậu để cho Annabeth biết), nhưng cậu rũ bỏ được cái giá buốt vô vọng từ con sông Cocytus. Và dù cái thứ nước lửa kia có làm cậu phát nôn dường như nó vẫn giúp cậu có thể tiếp tục được.

      Thời gian lúc này thể đoán biết được. Họ lê bước , dọc theo con sông tới khi nó cắt ngang qua bình địa khô cằn. May mắn thay lũ empousai phải những kẻ nhanh. Chúng lê chân những cặp cẳng lừa khẳng khiu màu đồng thiếc, rít lên và đánh nhau đường , có vẻ như hề vội vàng để tới Cửa Tử.

      lần, lũ quái vật bỗng tăng tốc cách phấn khích và lao vào tấn công thứ gì đó trông như cái xác trôi bờ sông vậy. Percy cũng thể biết được nó là cái gì – con quái vật rơi xuống? hay loài sinh vật nào đó? Lũ empousai có vẻ rất hứng thú trong việc tấn công con mồi này.

      Khi lũ quái vật di chuyển tiếp, Percy và Annabeth tới chỗ đó và nhìn thấy gì khác ngoại trừ vài mẩu xương và thứ chất nhờ nhờ còn sót lại bốc khói trước sức nóng của dòng sông. Percy chẳng nghi ngờ gì nếu bọn empousai này cũng thịt các Á thần theo đúng cái cách như vậy.

      nào” Percy nhàng đưa Annabeth rời khỏi chỗ đó. “Chúng ta thể mất dấu chúng được”.

      Khi họ bước tiếp, Percy bỗng nghĩ về lần đầu tiên họ đánh nhau với mụ empousai Kelli ở buổi lễ chào mừng tân sinh viên của trường trung học Goode, khi cậu và Rachel Elizabeth Dare bị bẫy ở sảnh chung. Vào lúc đó, mọi thứ tưởng chừng như vô vọng. Giờ đây, cậu cược bất cứ thứ gì để đánh đổi lấy tình huống đơn giản như thế. Ít nhất, ở đó cậu còn ở thế giới thực. Còn ở đây, chẳng có nơi nào để chạy cả.

      Chà. Khi cậu bắt đầu nhớ lại trận chiến với Kronos vào những ngày đẹp đẽ trước đây – là buồn. Cậu cứ tiếp tục hy vọng rằng mọi thứ trở nên tốt hơn với mình và Annabeth, nhưng cuộc sống của họ cứ ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, như thể Ba nữ thần Số Mệnh ở đó xoay tròn tương lai của họ bằng dây thép gai thay vì sợi chỉ và chỉ để xem hai Á thần cỏn con này có thể chịu đựng được bao nhiêu.

      Sau thêm vài dặm nữa, lũ empousai bỗng biến mất sau chỏm đất. Khi Percy và Annabeth bắt kịp, họ thấy mình đứng rìa vách đá khủng khiếp khác. Sông Phlegethon tràn xuống ở bên theo từng lớp tạo thành thác nước dữ dội. Lũ nữ quỷ tìm đường xuống bằng cách nhảy từ chỏm này sang chỏm khác như lũ dê núi.

      Tim Percy bỗng thấy tim mình như trồi lên tận cổ. Thậm chí là nếu cậu và Annabeth xuống tới đáy vực mà còn sống, họ cũng chẳng có gì để trông mong nữa. Địa hình bên dưới họ là vùng bằng phẳng trơ trọi toàn tro xám, mọc lởm chởm những cành cây đen xì nhìn giống lớp lông của loài côn trùng. Mặt đấy lốm đốm các vết phồng. Cứ chốc, bong bóng lại phồng lên và phát nổ, phun ra 1 con quái vật như nham thạch nở ra từ trứng.

      Đột nhiên Percy chẳng thấy đói nữa.

      Tất cả bọn quái vật mới thành hình đều bò và trườn về cùng hướng – hướng về phía bờ của làn sương đen ngòm nuốt chửng lấy đường chân trời giống như khởi đầu của cơn bão. Sông Phlegethon cũng chảy cùng hướng cho tới nửa đường dọc theo bãi đất, nơi nó cắt con sông khác nước màu đen – có lẽ là sông Cocytus? Hai dòng chảy nhập lại làm , tạo thành dòng nước cuồn cuộn, sôi sục và chảy hướng thẳng về phía màn sương đen kia.

      Càng nhìn sâu vào phía cơn bão đen kịt kia, Percy càng muốn tới đó. Nó có thể chứa bất kỳ điều gì – đại dương, cái hố đáy, hay đoàn quân quái vật. Nhưng nếu Cửa Tử nằm ở hướng đó, đó cũng là cơ hội duy nhất đưa họ trở về nhà.

      Cậu nhìn chăm chú phía bờ vách đá.

      “Ước gì mình bay được” cậu lẩm bẩm.

      Annabeth xoa cánh tay. “Cậu có nhớ đôi giày bay của Luke ? Mình tự hỏi biết nó có ở đâu đó phía dưới kia ?”

      Percy nhớ là. Đôi giày đó bị nguyền rủa đưa bất cứ ai đeo nó phải rơi xuống Tartarus. Và nó suýt đưa bạn của họ, Grover xuống đó. “Hay là mình làm cái dù lượn?”.

      “Có lẽ phải ý kiến hay đâu.” Annabeth chỉ. đầu họ, loạt những hình dạng quái vật có cánh đen bay lượn ra vào khỏi những đám mây nhuốm máu.

      “Bọn nữ thần báo thù à?” Percy băn khoăn.

      “Hoặc loại quái vật nào khác,” Annabeth . “Tartarus có hàng ngàn loại như thế.”

      “Chắc bao gồm cả loại thịt luôn cả những con diều bay.” Percy đoán. “Được rồi, vậy chúng ta trèo.”

      Cậu còn nhìn thấy lũ empousai kia đâu. Chúng biến mất dưới những góc khác, nhưng cũng chẳng sao. Percy và Annabeth quá là họ phải đâu. Giống như tất cả đám quái vật điên cuồng đất Tartarus kia, chúng hướng về phía đường chân trời đen ngòm kia. Percy cũng chỉ tràn đầy nhiệt tình với điều đó.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 14




      VỪA TRÈO XUỐNG BỜ VỰC, Percy vừa tập trung vào thử thách trước mắt: chắc chân, tránh để đá lở rồi làm lộ vị trí của minh cho lũ empousai, và dĩ nhiên bảm đảm rằng cậu và Annabeth té chết.

      Khoảng nửa đường xuống vách núi, Annabeth , “Dừng chút được ? Chỉ nghỉ lát thôi.”

      Chân lảo đảo, Percy nguyền rủa bản thân vì ngừng lại nghỉ sớm hơn.

      Họ ngồi cùng nhau rìa thác nước rầm rú tung bọt trắng xoá. Percy vòng tay ôm lấy Annabeth còn dựa vào cậu, run rẩy do kiệt sức.

      Cậu cũng chẳng khá hơn. Cảm giác như bao tử cậu teo lại cỡ viên kẹo dẻo ấy. Nếu như họ còn gặp phải bất kì cái xác quái vật nào, cậu sợ mình học theo bọn empousai, thử ăn tươi nuốt sống nó mất..

      Ít nhất cậu vẫn có Annabeth bên cạnh. Họ tìm được cách thoát ra khỏi Tartarus thôi. Họ phải làm được. Cậu tin những thứ như định mệnh hoặc tiên tri lắm, nhưng cậu tin vào điều: Annabeth và cậu phải ở bên nhau. Họ sống sót qua nhiều khó khăn như vậy chỉ để bị giết lúc này.

      “Mọi chuyện có thể tệ hơn,” Annabeth lạc quan.

      “Vậy sao?” Percy hiểu tại sao, nhưng cậu cũng cố gắng tươi tỉnh.

      rúc vào lòng cậu. Tóc ám mùi khói, và nếu cậu nhắm mắt lại cậu gần như có thể cám giác như họ trở lại Trại Con Lai.

      “Chúng ta có thể rơi xuống dòng Lethe,” . “Mất sạch mọi kí ức.”

      Percy sởn cả gai ốc khi nghĩ về về điều đó. Cậu có đủ rắc rối cho đời người với chứng mất trí nhớ rồi. Mới tháng trước thôi, Hera xoá kí ức cậu rồi để cậu trà trộn vào đám á thần La Mã. Cậu tham gia vào Trại Jupiter mà hề biết bản thân mình là ai hoặc mình từ đâu tới. Và trước đó vài năm, cậu chiến đấu với Titan bờ sông Lethe, cạnh bên cung điện của Hades. Cậu tạt nước con sông vào Titan và đồng thời xoá mọi kí ức của . “Phải rồi, dòng Lethe,” cậu lẩm bẩm. “ phải thứ mình ưa thích.”

      “Gã Titan đó tên gì nhỉ?” Annabeth hỏi.

      “Ừh…Iapetus. Gã nó có nghĩa là Xiên Nhân hay đại loại vậy.”

      , cái tên mà cậu đặt cho gã sau khi gã mất trí kìa. Steve àh?”

      “Bob,” Percy .

      Annabeth nở nụ cười yếu ớt. “Titan Bob.”

      Môi Percy nứt nẻ và khô đến mức cười cũng khó. Cậu suy nghĩ chuyện gì xảy ra với Iapetus sau khi họ bỏ gã lại cung điện của Hades nhỉ… gã có còn nghĩ mình là Bob, thân thiện, vui vẻ và ngây thơ vô tội . Percy hy vọng gã vẫn vậy, nhưng Địa ngục có vẻ chỉ mang ra những thứ tội tề nhất trong mỗi người—quái vật, hùng, và thần.

      Cậu nhìn khắp đồng bằng màu xám tro. Những Titan khác đáng lẽ bị nhốt ở đây trong Tartarus — có thể là bị còng bằng xích, hoặc lang thang vô định, hoặc nấp trong mấy vệt nứt u bên kia. Percy và bè bạn tiêu diệt Titan tồi tệ nhất, Kronos, nhưng có thể những thứ còn lại của có thể ở đâu đó dưới này— tỉ mẩu Titan tức giận trôi nổi qua những đám mây màu máu hoặc náu đâu đó trong những đám sương mù mờ ảo.

      Percy quyết định nghĩ về điều đó nữa. Cậu hôn lên trán Annabeth. “Chúng ta phải tiếp tục thôi. Cậu muốn uống chút lửa ?”

      “Ẹc, thôi khỏi.”

      Họ lại chật vật đứng lên. Leo xuống phần còn lại của bờ vực trông bất khả thi— có gì ngoài mảng sáng tối của các rìa đá lởm chởm—nhưng họ vẫn tiếp tục.

      Cơ thể Percy như chuyển qua chế độ tự động. Ngón tay cậu đau nhức. Cậu cảm thấy mắt cá đầy mấy vệt phồng rộp. Cơn đói khiến cậu run run.

      Cậu biết họ chết đói hay thứ nước lửa kia giúp họ tiếp tục. Cậu nhớ đến hình phạt của Tantalus, người bị nhốt vĩnh viễn trong hồ nước bên dưới cây đầy trái nhưng thể chạm được đến dù thức ăn hay nước uống.

      Aizz, Percy nghĩ về Tantalus cả mấy năm rồi. Tên ngu ngốc đó tuyên thệ qua quýt để trở thành chỉ huy Trại Con Lai. Có lẽ quay trở lại Cánh đồng Trừng Phạt. Percy chưa bao giờ cảm thấy tội nghiệp cho tên khốn đó, nhưng giờ đây cậu bắt đầu thông cảm. Cậu có thể tưởng tượng ra nó như thế nào, việc cứ vĩnh viễn đói hơn đói hơn nữa nhưng bao giờ được ăn.

      Tiếp tục trèo, cậu bảo bản thân.

      Burger phô mai, bao tử cậu đáp lại.

      Câm , cậu nghĩ.

      Với khoai chiên nữa, bao tử cậu phàn nàn.

      tỉ năm sau, với hàng tá vết rộp mới chân, Percy chạm được đến đáy. Cậu đỡ Annabeth xuống, và họ đổ gục xuống nền đất.

      Phía trước họ mảnh đất hoang vắng trải dài hàng dặm, sôi sùng sục với dung nham đáng sợ và hàng loạt cây trông như lông ruồi. Bên phải họ, dòng Phlegethon chẻ thành nhiều nhánh ăn mòn cả đồng bằng, nới rộng thành các vùng châu thổ khói lửa. Ở hướng bắc, dọc theo dòng chính của con sông, mặt đất lỗ chỗ với hang động lối vào. Đây đó, mấy chóp đá nhô lên như những dấu chấm cảm.

      Bên dưới bàn tay Percy, đất ấm và mềm cách đáng báo động. Cậu cố vốc lấy nắm tay, rồi nhận ra bên dưới lớp đất vụn và tàn tích mỏng đó, là lớp màng rộng lớn… như là da.

      Tí nữa là ói, nhưng cậu cố gắng kiềm chế. Trong bao tử cậu đâu có gì trừ lửa.

      với Annabeth, nhưng cậu bắt đầu cảm thấy dường như có thứ gì nhìn bọn họ—thứ gì đó lớn và hiểm ác. Cậu thể tập trung vào điểm nào vì dường như nó diện mọi nơi xung quanh họ. Nhìn cũng phải là từ chính xác. Nhìn nghĩa là dùng mắt, mà thứ này chỉ đơn giản là biết họ ở đây. Mấy chóp đá quanh họ bây giờ trông bớt giống bậc thang và ngày càng trông giống mấy hàm răng siêu bự. Các kè đá dần giống xương sườn bị gãy hơn. Và nếu mặt đất là da…

      Percy cố đẩy những suy nghĩ đó qua bên. Nơi này khiến cậu hoảng loạn. Vậy thôi.

      Annabeth đứng dậy, lau muội than mặt. nhìn về phía bóng tối bên kia. “Chúng ta hoàn toàn bị lộ mất, nếu băng qua đồng bằng này.”

      Khoảng trăm dặm phía trước họ, mụn đất ùn lên. Con quái vật bới đất ngoi dậy… con quái telkhine lấp lánh với bộ lông bóng mượt, thân mình hải cẩu, với tứ chi con người còi cọc. Nó xoay xở bò được vài dặm trước khi thứ gì đó bắn ra khỏi cái hang gần nhất, nhanh đến nỗi Percy chỉ thấy được mỗi cái đầu bò sát xanh đen. Con quái ngoạm lấy telkhine gào rú ầm ỹ rồi lôi nó vào trong bóng tối.

      Tái sinh ở Tartarus được hai giây, chỉ để bị ăn thịt. Percy tự hỏi con Telkhine đó có trồi lên ở chỗ nào khác , và nó sống được bao lâu trước khi phải tái sinh lần nữa.

      Cậu nuốt vị chua lét của nước lửa xuống. “Ôi, tuyệt, rồi vui lắm đây.”

      Annabeth giúp cậu đứng vững. Cậu nhìn lại vách đá lần nữa, nhưng còn đường lui nữa rồi. Cậu sẵn sàng đánh đổi ngàn đồng vàng Drachma để có Frank Zhang bên cạnh lúc này—chàng Frank tốt bụng, người luôn luôn xuất khi cần và có thể biến thành đại bàng hoặc rồng để mang họ xuyên qua cái nơi đồng mông quạnh ngu ngốc này.

      Họ bắt đầu , cố gắng tránh các lối vào hang động, và bám sát rìa con sông.

      Họ men theo chóp đá mắt Percy bắt được vệt chuyển động—có gì đó phóng qua lại giữa mấy hòn đá bên phải họ.

      con quái theo đuôi? Có khi chỉ là thứ xấu xa nào đó, hướng đến Cửa Tử.

      Đột nhiên cậu nhớ đến lý do ban đầu khiến họ bắt đầu lộ trình này, và cậu sững sờ với phát của mình.

      “Lũ empousai.” Cậu chộp lấy cánh tay Annabeth. “Chúng đâu rồi?”

      Annabeth nhìn đủ ba trăm sáu mươi độ, mắt loé sáng với tầm cảnh giác cao độ.

      Có thể những ả quái bị con bò sát trong hang tóm mất rồi. Nhưng nếu lũ empousai vẫn trước bọn họ, họ phải thấy chúng đâu đó giữa đồng bằng thế này.

      Trừ khi chúng nấp…

      Quá muộn rồi, Percy rút kiếm ra.

      Lũ empousai xuất từ những tảng đá xung quanh họ—năm người hợp thành vòng tròn. cái bẫy hoàn hảo.

      Kelli khập khiễng đôi chân lệch. Mái tóc bốc lửa buông xuống vai tựa ngọn thác Phlegethon thu . Bộ quần áo cổ động rách bươm kêu lộp độp cùng mấy vệt ố nâu xỉn, mà Percy chắc chắn rằng đó thể là tương cà. Ả nhìn chằm chằm cậu với đôi mắt đỏ rực và nhe nanh ra.

      “Percy Jackson,” ả thầm. “Tuyệt vời làm sao! Ta cần phải quay về phàm trần mà cũng có thể tiêu diệt được ngươi!”

      Chương 15




      PERCY NHỚ LẠI ĐỘ HUNG HIỂM trong trận chiến lần trước với Kelli trong Mê Cung, ở xưởng Deadelus. Cho dù sở hữu đôi chân cọc cạch, ả ta có thể di chuyển cực nhanh nếu ả muốn. Lần đấy ả lướt dọc theo nhát đâm của cậu và đáng lẽ ăn luôn cái bản mặt cậu nếu Annabeth tặng cho ả nhát dao găm vào lưng.

      Còn giờ đây ả có đến bốn bạn đồng hành.

      ‘ Lại còn ả Annabeth này với ngươi nữa chứ!’ Ả cười xì xì. ‘Chuẩn đấy, ta vẫn còn nhớ cái mặt nó.’

      Kelli chạm vào xương ức của mình, nơi mà mũi của con dao găm ngày trước xuyên ra lúc Annabeth đâm sau lưng ả. ‘Sao cơ, con Athena? có vũ khí à? Đúng là con hãm. Tao định dùng nó để đâm chết mày.’

      Percy cố động não. Cậu và Annabeth vai kề vai như vô số lần trước đây, sẵn sàng oánh nhau. Nhưng ai trong bọn họ ở trong trạng thái sung sức để mà đánh đấm cả. Annabeth tay . Họ bị áp đảo về số lượng đến mức vô vọng. còn chỗ nào để mà chạy cả. giúp đỡ nào để mà mong cả.

      Trong tích tắc Percy cân nhắc có nên gọi chó O’Leary đến chăng, bạn chó săng địa ngục của cậu có thể di chuyển bằng bóng tối. Nhưng cho dù nếu O’Leary có nghe thấy, liệu nàng có tới được Tartarus. Đây là nơi quái vật đến khi chết. Gọi O’Leary đến đây có thể giết chết nàng, hay đưa nàng quay lại trạng thái tự nhiên của con quái vật hung dữ. , cậu thể là thế với con chó của mình.

      Thế, nghĩa là ko trợ giúp. Đánh nhau bây giờ đúng là cố đấm ăn xôi.

      Vì thế, chỉ còn lại mỗi chiến thuật thích của Annabeth: đánh lừa, chuyện, trì hoãn.

      ‘À …. ‘ cậu bắt đầu, ‘Ta đoán là các ngươi đoán xem chúng ta làm gì dưới Tartarus này.’

      Kelli cười ruồi. ’ hẳn. Ta chỉ muốn giết các ngươi luôn thôi.’

      Thế đáng lẽ là xong, nhưng Annabeth chen vào:

      ‘Chán quá,’ ‘Thế biết chuyện gì xảy ra kia đâu.’

      Mấy con empousai khác vây tròn quanh họ, đợi Kelli ra hiệu tấn công, nhưng cựu hoạt náo viên chỉ có nhe răng, co người tránh lưỡi kiếm của Percy.

      ‘Bọn ta biết đủ rồi.’ Kelli . ‘Gaia .’

      ‘Các ngươi đâm đầu vào chỗ chết đấy.’ Giọng Annabeth đầy tự tin, đến cả Percy cũng phải ấn tượng. liếc qua các con epousai khác, từng con . ‘Con mụ này cứ lèo nhèo mãi là mụ ta dẫn các người đến chiến thắng, nhưng mụ ta bốc phét đấy. Lần trước của ả ta ở trần gian, ả ta có nhiệm vụ giữ bạn của bọn ta Luke Castellan trung thành với Kronos. Nhưng cuối cùng, Luke từ chối ta. ta xả thân để trục xuất Kronos. Phe Titan thua vì Kelli thất bại. Còn bây giờ Kelli lại muốn dẫn các ngươi tớt thảm hoạc khác đấy.

      Các con empousai khác lầm bầm và cựa mình khó chịu.

      ‘Đủ rồi đấy!’ mười đầy móng tay của Kelli mọc dài ra thành mười cái móng vuốt đen sì. Ả trừng trừng nhìn Annabeth như muốn xé xác ra từng mảnh.

      Percu khá chắc rằng Kelli có gì đấy với Luke Castellan. Luke có cái kiểu ảnh hưởng đó đến các – kể cả các ma-cà-rồng-chân-lừa – và Percy chắc lắm về việc lôi cái tên của ta ra có phải là ý kiến hay hay .

      ‘Con nhóc đấy dối đấy,’ Kelli . ‘Ừ các thần Titan thua. làm sao? Đấy là bước trong kế hoạch đánh thức Gaia! Bây giờ Mẹ Đất và những đứa con Gigantos của bà hủy diệt trần gian, và chúng ta thực ăn tiệc bọn á thần!’

      Mấy con ma cà rồng khác nghến răng cách điên cuồng trong cơn phấn khích. Percy từng ở giữa bầy cá mập trong lúc mà nước chứa đầy máu. Nhưng mà vụ đấy vẫn chưa đáng sợ bằng bầy empousai sẵn sàng ăn tiệc.

      Cậu chuẩn bị tấn công, nhưng liệu cậu có thể xử được bao nhiêu con trước khi bọ chúng áp đảo cậu? Đảm bảo là đủ.

      ‘Các á thần liên minh lại!’ Annabeth la lên. ‘Các ngươi nên nghĩ lại lần hai trước khi lao vào đánh bọn ta. Người La Mã và người Hy Lạp vai kề vai tiêu diệt các ngươi. Các ngươi chẳng có cửa đâu!’

      Bọn empousai lùi lại đầy lo sợ, kêu xì xì, ‘Bọn La Mã.’

      Percy đoán là trước đây bọn chúng chạm trán với Quân đoàn Mười Hai và có vẻ mọi chuyện hay ho lắm với bọn chúng.

      ‘Hay đấy, các ngươi biết La Mã.’ Percy để lộ cẳng tay và cho bọn chúng xem hình xăm cậu có được ở trại Jupiter – hình xăm SPQR, với cây đinh ba Neptune. ‘Kết hợp Hy Lạp và La Mã lại, các ngươi biết được cái gì ? Cái ngươi BÙM!’

      Cậu dậm mạnh chân, và bọn empousai chen nhau lùi lại. Ả ngồi xổm còn ngã luôn khỏi tảng cuội ả .

      Điều đấy là Percy cảm thấy hay hay, nhưng bọn chúng nhanh chóng bình tĩnh lại và siết vòng vây trở lại.

      cứng à?’ Kelli , ‘hai á thần lạc dưới Tartarus, mà còn cứng. Hạ kiếm xuống , Percy Jackson, ta cho ngươi chết nhanh gọn. Tin ta , ở dưới này có nhiều kiểu chết tệ lắm.’

      ‘Chờ !’ Annabeth thử lại. ‘Chẳng pải empousai là tùy tùng của nữ thần Hecate hay sao?’

      Kelli cong môi. ‘ sao?’

      Hecate ở phe bọn ta,’ Annabeth . ‘Bà ta có Nhà ở Trại Con Lai. Ta có mấy người bạn là á thần con Hecate. Nếu các ngươi mà đụng đến bọn ta, bà ta điên lên đấy.’

      Percy muốn ôm Annabeth cái, quả là thiên tài!

      con empousai cằn nhằn. ‘Có đúng , hả Kelli? Có là chủ nhân làm hòa với đỉnh Olympus rồi ?’

      ‘Câm , Serephone!’ Kelli quát, ‘Thánh thần ơi, ngươi đúng là phiền éo chịu được!’

      ‘Ta là trái ý Nữ chủ Bóng tối đâu.’

      Annabeth tát nước theo luôn. ‘Các ngươi đúng ra phải theo Serephone. Chị ta lớn hơn và ngoan hơn mà.’

      ‘Phải đấy!’ Serephone kêu lên xé tai. ‘Theo ta.’

      Kelli ra tay quá nhanh, Percy có cả cơ hội mà giơ kiếm lên. Nhưng ma thay, mụ tấn công cậu. Kelli lướt đến chộp Serephone. Trong nửa giây, hai nữ quỷ chỉ còn là vệt mờ của vuốt và nanh.

      Thế rồi xong luôn, Kelli đứng hùng dũng đống bụi. móng vẫn còn mảnh giẻ từ áo Serephone.

      ‘Vấn đề gì nữa ?’ Kelli táp gió về phía chị em mình. ‘Hecate là nữ thần Sương Mù! Đường lối của Người đầy bí . AI mà biết được Người thực theo phe nào? Người còn là nữ thần của các ngã tư, và Người mong đợi bọn ta tự lựa chọn. Ta chọn con đường đưa chúng ta tới nhiều máu á thần nhất!. Ta chọn Gaia’

      Mấy bạn của ả rít lên tán thành.

      Annabeth liếc qua Percy, và cậu thấy là hết nhẵn ý tưởng rồi. làm tất cả có thể làm. khiến Kelli phải tự khử người của mình. Bây giờ còn phương án này khác ngoài dùng chân tay chuyện.

      ‘Hai năm trời trôi dạt trong bóng tối,’ Kelli . ‘Ngươi có biết bị bốc hơi khó chịu thế nào , Annabeth Chase? Từ từ tái tạo lại, hoàn toàn tỉnh táo, trong đau đớn hàng năm trời đợi cơ thể ngươi mọc lại, rồi cuối cùng phá vỏ chui ra để về cái chốn địa ngục này, lần mò tìm đường về với ánh sáng ban ngày? Tất cả chỉ do con nhóc đâm sau sau lưng ngươi?’

      Ả nhìn thẳng vào mắt vào Annabeth. ‘Ta thắc mắc chuyện gì xảy ra nếu á thần bị giết dưới Tartarus. Ta cá là điều này chưa từng xảy ra đâu. Muốn tìm hiểu ?’

      Percy tung người, quét thanh Thủy Triều thành vòng cung lớn. Cậu chẻ đôi con quái, nhưng Kelli né được và chộp lấy Annabeth. Hai con empousai còn lại lăn xả vào Percy. con túm chặt tay cầm kiếm của cậu. Bạn của ả chồm lên lưng cậu.

      Percy cố lờ bọn chúng và lảo đảo tiến đến chỗ Annabeth, xác định liều mạng bảo vệ nếu cần. Nhưng Annabeth xoay sở khá tốt. ngã người sang bên, né móng vuốt của Kelli, và đứng lên với hòn đá trong tay, đập vào giữa mũi Kelli.

      Kelli rên lên. Annabeth vốc vốc cát và tạt thẳng vài mắt con empousa.

      Trong khi đó, Percy quật người qua lại, cố tống khứ con empousa nhờ miễn phí lưng cậu, nhưng móng vuốt của ả cắm ngập vào vai cậu. Con empousa thứ hai túm chặt tay cậu, ngăn cậu dùng thanh Thủy Triều.

      Nhìn qua khóe mắt, cậu thấy Kelli nhào tới, cào vuốt ả dọc cánh tay Annabeth. Annabeth thét lên rồi ngã.

      Percy lảo đảo về phía . Con mà cà rồng lưng cậu cắn ngập răng vào cổ cậu. Percy cảm thấy nỗi đau như xé toạc cơ thể mình. Đầu gối cậu bủn rủn.

      Phải đứng vững, cậu tực với mình. Mày phải đánh thắng bọn nó.

      Thế rồi con ma cà rồng còn lại cắn vào tay cầm kiếm của cậu. Thanh Thủy Triều rới cái xoảng xuống đất.

      Thế là hết. Thần may mắn của cậu ngảnh mặt rồi. Kelli đè lên Annabeth, tận hưởng giây phút chiến thắng ả hằng mong đợi. Hai con empousai còn lại quấn lấy Percy, rãi rớt lòng thòng, sẵn sàng ăn tiệc.

      Thế rồi cái bóng lướt ngang qua Percy. Vang vọng tiếng rống xung trận đâu đấy bên , vang vọng khắp miền Tartarus, và người khổng lồ Titan hạ cánh xuống trận chiến.

      PERCY NHỚ LẠI ĐỘ HUNG HIỂM trong trận chiến lần trước với Kelli trong Mê Cung, ở xưởng Deadelus. Cho dù sở hữu đôi chân cọc cạch, ả ta có thể di chuyển cực nhanh nếu ả muốn. Lần đấy ả lướt dọc theo nhát đâm của cậu và đáng lẽ ăn luôn cái bản mặt cậu nếu Annabeth tặng cho ả nhát dao găm vào lưng.

      Còn giờ đây ả có đến bốn bạn đồng hành.

      ‘ Lại còn ả Annabeth này với ngươi nữa chứ!’ Ả cười xì xì. ‘Chuẩn đấy, ta vẫn còn nhớ cái mặt nó.’

      Kelli chạm vào xương ức của mình, nơi mà mũi của con dao găm ngày trước xuyên ra lúc Annabeth đâm sau lưng ả. ‘Sao cơ, con Athena? có vũ khí à? Đúng là con hãm. Tao định dùng nó để đâm chết mày.’

      Percy cố động não. Cậu và Annabeth vai kề vai như vô số lần trước đây, sẵn sàng oánh nhau. Nhưng ai trong bọn họ ở trong trạng thái sung sức để mà đánh đấm cả. Annabeth tay . Họ bị áp đảo về số lượng đến mức vô vọng. còn chỗ nào để mà chạy cả. giúp đỡ nào để mà mong cả.

      Trong tích tắc Percy cân nhắc có nên gọi chó O’Leary đến chăng, bạn chó săng địa ngục của cậu có thể di chuyển bằng bóng tối. Nhưng cho dù nếu O’Leary có nghe thấy, liệu nàng có tới được Tartarus. Đây là nơi quái vật đến khi chết. Gọi O’Leary đến đây có thể giết chết nàng, hay đưa nàng quay lại trạng thái tự nhiên của con quái vật hung dữ. , cậu thể là thế với con chó của mình.

      Thế, nghĩa là ko trợ giúp. Đánh nhau bây giờ đúng là cố đấm ăn xôi.

      Vì thế, chỉ còn lại mỗi chiến thuật thích của Annabeth: đánh lừa, chuyện, trì hoãn.

      ‘À …. ‘ cậu bắt đầu, ‘Ta đoán là các ngươi đoán xem chúng ta làm gì dưới Tartarus này.’

      Kelli cười ruồi. ’ hẳn. Ta chỉ muốn giết các ngươi luôn thôi.’

      Thế đáng lẽ là xong, nhưng Annabeth chen vào:

      ‘Chán quá,’ ‘Thế biết chuyện gì xảy ra kia đâu.’

      Mấy con empousai khác vây tròn quanh họ, đợi Kelli ra hiệu tấn công, nhưng cựu hoạt náo viên chỉ có nhe răng, co người tránh lưỡi kiếm của Percy.

      ‘Bọn ta biết đủ rồi.’ Kelli . ‘Gaia .’

      ‘Các ngươi đâm đầu vào chỗ chết đấy.’ Giọng Annabeth đầy tự tin, đến cả Percy cũng phải ấn tượng. liếc qua các con epousai khác, từng con . ‘Con mụ này cứ lèo nhèo mãi là mụ ta dẫn các người đến chiến thắng, nhưng mụ ta bốc phét đấy. Lần trước của ả ta ở trần gian, ả ta có nhiệm vụ giữ bạn của bọn ta Luke Castellan trung thành với Kronos. Nhưng cuối cùng, Luke từ chối ta. ta xả thân để trục xuất Kronos. Phe Titan thua vì Kelli thất bại. Còn bây giờ Kelli lại muốn dẫn các ngươi tớt thảm hoạc khác đấy.

      Các con empousai khác lầm bầm và cựa mình khó chịu.

      ‘Đủ rồi đấy!’ mười đầy móng tay của Kelli mọc dài ra thành mười cái móng vuốt đen sì. Ả trừng trừng nhìn Annabeth như muốn xé xác ra từng mảnh.

      Percu khá chắc rằng Kelli có gì đấy với Luke Castellan. Luke có cái kiểu ảnh hưởng đó đến các – kể cả các ma-cà-rồng-chân-lừa – và Percy chắc lắm về việc lôi cái tên của ta ra có phải là ý kiến hay hay .

      ‘Con nhóc đấy dối đấy,’ Kelli . ‘Ừ các thần Titan thua. làm sao? Đấy là bước trong kế hoạch đánh thức Gaia! Bây giờ Mẹ Đất và những đứa con Gigantos của bà hủy diệt trần gian, và chúng ta thực ăn tiệc bọn á thần!’

      Mấy con ma cà rồng khác nghến răng cách điên cuồng trong cơn phấn khích. Percy từng ở giữa bầy cá mập trong lúc mà nước chứa đầy máu. Nhưng mà vụ đấy vẫn chưa đáng sợ bằng bầy empousai sẵn sàng ăn tiệc.

      Cậu chuẩn bị tấn công, nhưng liệu cậu có thể xử được bao nhiêu con trước khi bọ chúng áp đảo cậu? Đảm bảo là đủ.

      ‘Các á thần liên minh lại!’ Annabeth la lên. ‘Các ngươi nên nghĩ lại lần hai trước khi lao vào đánh bọn ta. Người La Mã và người Hy Lạp vai kề vai tiêu diệt các ngươi. Các ngươi chẳng có cửa đâu!’

      Bọn empousai lùi lại đầy lo sợ, kêu xì xì, ‘Bọn La Mã.’

      Percy đoán là trước đây bọn chúng chạm trán với Quân đoàn Mười Hai và có vẻ mọi chuyện hay ho lắm với bọn chúng.

      ‘Hay đấy, các ngươi biết La Mã.’ Percy để lộ cẳng tay và cho bọn chúng xem hình xăm cậu có được ở trại Jupiter – hình xăm SPQR, với cây đinh ba Neptune. ‘Kết hợp Hy Lạp và La Mã lại, các ngươi biết được cái gì ? Cái ngươi BÙM!’

      Cậu dậm mạnh chân, và bọn empousai chen nhau lùi lại. Ả ngồi xổm còn ngã luôn khỏi tảng cuội ả .

      Điều đấy là Percy cảm thấy hay hay, nhưng bọn chúng nhanh chóng bình tĩnh lại và siết vòng vây trở lại.

      cứng à?’ Kelli , ‘hai á thần lạc dưới Tartarus, mà còn cứng. Hạ kiếm xuống , Percy Jackson, ta cho ngươi chết nhanh gọn. Tin ta , ở dưới này có nhiều kiểu chết tệ lắm.’

      ‘Chờ !’ Annabeth thử lại. ‘Chẳng pải empousai là tùy tùng của nữ thần Hecate hay sao?’

      Kelli cong môi. ‘ sao?’

      Hecate ở phe bọn ta,’ Annabeth . ‘Bà ta có Nhà ở Trại Con Lai. Ta có mấy người bạn là á thần con Hecate. Nếu các ngươi mà đụng đến bọn ta, bà ta điên lên đấy.’

      Percy muốn ôm Annabeth cái, quả là thiên tài!

      con empousai cằn nhằn. ‘Có đúng , hả Kelli? Có là chủ nhân làm hòa với đỉnh Olympus rồi ?’

      ‘Câm , Serephone!’ Kelli quát, ‘Thánh thần ơi, ngươi đúng là phiền éo chịu được!’

      ‘Ta là trái ý Nữ chủ Bóng tối đâu.’

      Annabeth tát nước theo luôn. ‘Các ngươi đúng ra phải theo Serephone. Chị ta lớn hơn và ngoan hơn mà.’

      ‘Phải đấy!’ Serephone kêu lên xé tai. ‘Theo ta.’

      Kelli ra tay quá nhanh, Percy có cả cơ hội mà giơ kiếm lên. Nhưng ma thay, mụ tấn công cậu. Kelli lướt đến chộp Serephone. Trong nửa giây, hai nữ quỷ chỉ còn là vệt mờ của vuốt và nanh.

      Thế rồi xong luôn, Kelli đứng hùng dũng đống bụi. móng vẫn còn mảnh giẻ từ áo Serephone.

      ‘Vấn đề gì nữa ?’ Kelli táp gió về phía chị em mình. ‘Hecate là nữ thần Sương Mù! Đường lối của Người đầy bí . AI mà biết được Người thực theo phe nào? Người còn là nữ thần của các ngã tư, và Người mong đợi bọn ta tự lựa chọn. Ta chọn con đường đưa chúng ta tới nhiều máu á thần nhất!. Ta chọn Gaia’

      Mấy bạn của ả rít lên tán thành.

      Annabeth liếc qua Percy, và cậu thấy là hết nhẵn ý tưởng rồi. làm tất cả có thể làm. khiến Kelli phải tự khử người của mình. Bây giờ còn phương án này khác ngoài dùng chân tay chuyện.

      ‘Hai năm trời trôi dạt trong bóng tối,’ Kelli . ‘Ngươi có biết bị bốc hơi khó chịu thế nào , Annabeth Chase? Từ từ tái tạo lại, hoàn toàn tỉnh táo, trong đau đớn hàng năm trời đợi cơ thể ngươi mọc lại, rồi cuối cùng phá vỏ chui ra để về cái chốn địa ngục này, lần mò tìm đường về với ánh sáng ban ngày? Tất cả chỉ do con nhóc đâm sau sau lưng ngươi?’

      Ả nhìn thẳng vào mắt vào Annabeth. ‘Ta thắc mắc chuyện gì xảy ra nếu á thần bị giết dưới Tartarus. Ta cá là điều này chưa từng xảy ra đâu. Muốn tìm hiểu ?’

      Percy tung người, quét thanh Thủy Triều thành vòng cung lớn. Cậu chẻ đôi con quái, nhưng Kelli né được và chộp lấy Annabeth. Hai con empousai còn lại lăn xả vào Percy. con túm chặt tay cầm kiếm của cậu. Bạn của ả chồm lên lưng cậu.

      Percy cố lờ bọn chúng và lảo đảo tiến đến chỗ Annabeth, xác định liều mạng bảo vệ nếu cần. Nhưng Annabeth xoay sở khá tốt. ngã người sang bên, né móng vuốt của Kelli, và đứng lên với hòn đá trong tay, đập vào giữa mũi Kelli.

      Kelli rên lên. Annabeth vốc vốc cát và tạt thẳng vài mắt con empousa.

      Trong khi đó, Percy quật người qua lại, cố tống khứ con empousa nhờ miễn phí lưng cậu, nhưng móng vuốt của ả cắm ngập vào vai cậu. Con empousa thứ hai túm chặt tay cậu, ngăn cậu dùng thanh Thủy Triều.

      Nhìn qua khóe mắt, cậu thấy Kelli nhào tới, cào vuốt ả dọc cánh tay Annabeth. Annabeth thét lên rồi ngã.

      Percy lảo đảo về phía . Con mà cà rồng lưng cậu cắn ngập răng vào cổ cậu. Percy cảm thấy nỗi đau như xé toạc cơ thể mình. Đầu gối cậu bủn rủn.

      Phải đứng vững, cậu tực với mình. Mày phải đánh thắng bọn nó.

      Thế rồi con ma cà rồng còn lại cắn vào tay cầm kiếm của cậu. Thanh Thủy Triều rới cái xoảng xuống đất.

      Thế là hết. Thần may mắn của cậu ngảnh mặt rồi. Kelli đè lên Annabeth, tận hưởng giây phút chiến thắng ả hằng mong đợi. Hai con empousai còn lại quấn lấy Percy, rãi rớt lòng thòng, sẵn sàng ăn tiệc.

      Thế rồi cái bóng lướt ngang qua Percy. Vang vọng tiếng rống xung trận đâu đấy bên , vang vọng khắp miền Tartarus, và người khổng lồ Titan hạ cánh xuống trận chiến.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 16




      PERCY NGHĨ CẬU BỊ ẢO GIÁC. thể nào bỗng nhiên xuất vật khổng lồ màu bạc từ trời rơi xuống và dẫm bẹp Kelli, nghiền nát mụ thành đám bụi như thế được.

      Nhưng đó chính xác là những gì diễn ra. Tên Titan cao đến mười thước, với mái tóc Einstein rối bù, cặp mắt màu bạc trong vắt và đôi tay cơ bắp nhô ra từ bộ đồng phục gác cổng xanh te tua. tay cây chổi khổng lồ. Bảng tên ngực, thể tin được, viết chữ BOB.

      Annabeth hét lên và cố gắng bò ra khỏi chỗ đó, nhưng dường như tên cai ngục khổng lồ chẳng thèm quan tâm tới . quay về phía hai mụ empousai còn lại ở trước mặt Percy.

      mụ quá ngu ngốc khi tấn công. Mụ lao vào với tốc độ của con hổ, nhưng bao giờ có cơ hội. đầu mùi giáo bật ra từ đuôi chổi. Chỉ với đường chém chết người, cắt mụ thành tro. Mụ ma cà rồng cuối cùng cố thoát thân. Bob ném cây chổi của như chiếc boomerang khổng lồ (có là cái thứ quái này là cái boomerang?). Nó đâm xuyên qua người mụ ta và quay trở lại tay Bob.

      “Quét!” Tên Titan cười toe toét hân hoan và nhảy điệu chiến thắng. “Quét, quét, quét!”.

      Percy thốt nên lời. Cậu vẫn chưa tin được là thực điều tốt đến thế thực xảy ra. Annabeth trông cũng vẫn còn sửng sốt.

      “Làm thế nào…” lắp bắp.

      “Percy gọi tôi.” Tên cai ngọc cách hạnh phúc “Phải, đúng cậu ấy đấy.”

      Annabeth bò ra xa hơn chút. Cánh tay chảy máu cách tệ hại. “Gọi ông? Ông – đợi . Ông là Bob? Bob đấy ấy hả?”

      Tên cai ngục cau mày khi nhận ra vết thương của Annabeth. “Ôi”

      Annabeth nao núng khi quỳ bên cạnh .

      sao đâu,” Percy , vẫn còn choáng váng với vết thương. “Ông ấy thân thiện mà.”

      Cậu nhớ lại khi lần đầu gặp Bob. Tên Titan chữa lành vết thương vai cậu chỉ bằng cái chạm. Quá đủ, tên cai ngục vừa chạm vào tay thuận của Annabeth, vết thương lập tức liền lại tức .

      Bob tặc lưỡi, tự hài lòng với bản thân, rồi quay sang phía Percy và chữa lành cổ và cánh tay chảy máu của cậu. Bàn tay của tên Titan ấm áp và thân thiện đến bất ngờ.

      “Tốt hơn rồi!” Bob tuyên bố, cặp mắt xám trong của đảo tròn cách tự nhiên. “Tôi là Bob, bạn của Percy!”

      “Ừ… phải,” Percy . “Cảm ơn vì giúp đỡ, Bob. rất tuyệt khi được gặp lại ông.”

      “Phải!” tên cai ngục đồng ý. “Bob. Là tôi. Bob, Bob, Bob.” vòng quanh, có vẻ rất hài lòng với cái tên của mình. “Tôi giúp đỡ. Bỗng nhiên nghe thấy tên mình. Ở cung điện của Hades tầng, ai gọi Bob trừ phi có việc rắc rối. Bob, quét sạch đống xương. Bob, dọn sách những linh hồn tội lỗi. Bob, xác ướp vừa nổ tanh bành ở phòng ăn.”

      Annabeth ném cho Percy cái nhìn nghi hoặc, nhưng cậu chẳng có lời giải thích nào.

      “Rồi tôi nghe thấy lời gọi của bạn mình!” tên Titan chớp mắt. “Percy gọi: Bob!”

      nắm lấy tay Percy và kéo cậu tới chân .

      tuyệt,” Percy . “ đấy. Nhưng làm thế nào ông _”

      “Ồ, để sau hãy .” Đột nhiên sắc mặt Bob trở nên nghiêm trọng. “Chúng ta phải trước khi chúng tìm thấy cậu. Chúng tới. Phải, đúng thế.”

      “Chúng?” Annabeth hỏi.

      Percy dò mắt khắp nơi. Cậu nhìn thấy lũ quái vật nào xuất cả – có gì trừ bình địa xám xít tối ngắt.

      “Đúng.” Bob đồng ý. “Nhưng Bob biết đường. nào, các bạn! rất là vui!”

      Chương 17: Frank




      FRANK THỨC GIẤC TRONG HÌNH THỂ CON TRĂN, và điều đó khiến cậu bối rối.

      Biến hình thành động vật lạ. Cậu làm suốt ấy mà. Nhưng trước cậu chưa bao giờ đổi từ con này sang con khác khi ngủ cả. Cậu khá chắc là mình thiếp lúc là rắn. Thường , cậu biến thành chó cơ.

      Cậu phát ra rằng giấc ngủ ngon hơn khi cuộn mình giường với hình dạng của chú chó mặt xệ. Dù lý do là gì nữa, những con ác mộng khiến cậu phiền lòng quá mức. Tiếng gào thét liên tục trong đầu cậu gần như biến mất.

      Cậu chả hiểu sao mình lại biến thành con trăn mắt lưới, nhưng nó giải thích cho giấc mơ cậu thấy mình từ tốn nuốt con bò. Hàm cậu vẫn còn ê ẩm.

      Cậu gồng mình và biến trở lại thành người. Ngay lập tức, cơn đau đầu như búa bổ lại ập đến, cùng với những giọng .

      Chiến đấu! Mars hét lên. Đoạt lấy con tàu! Bảo vệ Rome!

      Giọng Ares phản lại: Giết bọn La Mã! Máu và cái chết! Mấy cây súng to!

      Nhân cách La Mã và Hy Lạp của bố cậu hét qua lại trong tâm trí cậu với nhạc nền là các thanh chiến trường—tiếng nổ, súng trường tập kích, động cơ phản lực gầm thét—mọi thứ dội đến như dàn loa trong tai Frank.

      Cậu ngồi dậy giường, choáng váng với cơn đau. Hít sâu hơi như cậu vẫn làm mỗi buổi sáng, cậu nhìn chăm chăm chiếc đèn bàn – ngọn lửa cháy suốt ngày đêm, bằng thứ dầu ma thuật từ kho dự trữ.

      Lửa…Nỗi sợ hãi lớn nhất của Frank. Giữ ngọn lửa cháy trong phòng khiến cậu khiếp đảm, nhưng đồng thời cũng khiến cậu tập trung. thanh trong đầu nhạt dần, đủ cho cậu suy nghĩ.

      Giờ đây cậu khá hơn trước, nhưng có lúc cậu gần như vô dụng.Ngay khi chiến tranh bùng nổ tại Trại Jupiter, hai giọng của thần chiến tranh bắt đầu gào thét ngừng nghỉ. Kể từ đó, Frank bắt đầu loạng choạng trong u mê, chẳng làm nên được tích gì. Cậu cư xử như tên ngốc, và cậu chắc rằng các bạn mình nghĩ cậu hoá điên.

      Cậu thể kể chuyện xảy ra cho họ. Họ thể giúp được, và đúc kết bằng cách lắng nghe họ trao đổi, Frank khá chắc rằng họ bị giống cậu, bị phụ huynh thần thánh của mình la hét trong trai.

      Coi như cậu may mắn ,nhưng giờ cậu phải ổn định lại. Các bạn cần cậu—nhất là lúc này, khi Annabeth rồi.

      Annabeth đối xử cậu rất tốt. Dù có lúc, bị chi phối quá nhiều, cậu cư xử như thằng hề, Annabeth vẫn kiên nhẫn và giúp đỡ cậu. Khi mà Ares kêu gào rằng con của Athena thể tin được, còn Mars rống lên bảo cậu giết sạch lũ Hy Lạp , cậu lại nảy lòng kính phục Annabeth.

      tại có ở đây, Frank là người khá khả năng nhất trong nhóm trong việc lập kế hoạch quân . Họ cần cậu cho hành trình phía trước.

      Cậu đứng lên và thay đồ. May mắn thay, cậu mua chút quần áo ở Siena vài ngày trước, thay thế cho đống đồ dơ mà Leo bắn bay mút chỉ bằng chiếc bàn Buford. (Chuyện dài lắm.) Cậu mặc vào chiếc quần Levi’s và chiếc áo thun màu xanh lính, rồi vươn tay định lấy cái áo khoác ưa thích trước khi nhận ra rằng mình cần nó. Thời tiết quá ấm. Mà quan trọng hơn, cậu cần túi để bỏ thanh củi ma thuật, thứ quyết định tuổi thọ cậu nữa. Hazel bảo vệ nó giúp cậu.

      Có thể cậu nên lo lắng. Nếu nó cháy, Frank chết: hết chuyện luôn. Nhưng cậu tin tưởng Hazel hơn chính bản thân mình. BIết được canh gác điểm yếu lớn nhất của mình, cậu thấy ổn hơn nhiều – như kiểu thắt chạy dây an toàn trước khi tham gia vào cuộc truy đuổi tốc độ cao vậy.

      Cậu mang cung và tên lên vai. Ngay lập tức, chúng biến thành chiếc cặp bình thường. Frank thích điều này. Cậu chẳng bao giờ tìm ra tính năng nguỵ trang của bao tên nếu như Leo phát giúp cậu.

      Leo! Mars nổi xung. Nó phải chết!

      Bóp cổ nó! Ares rên rỉ Bóp cổ hết ! Ủa mà chúng ta rủa ai vậy?

      Cả hai lại cãi vã ầm ĩ lần nữa, bên cạnh vang tiếng bomb nổ trong sọ Frank.

      Cậu tựa vững vào tường. Ngày qua ngày, Frank nhiều lần phải nghe mấy giọng đó đòi hỏi cái chết của Leo Valdez.

      Dù sao, chính Leo bắt đầu trận chiến với Trại Jupiter bằng cách khai hoả máy ném đá vào quảng trường Forum. Đúng, đúng là cậu ta bị nhập lúc đó, nhưng Mars vẫn đòi hỏi báo thù. Leo cũng khiến mọi chuyện khó khăn hơn khi luôn luôn trêu chọc Frank, và Ares cầu Frank trả miếng cho mỗi lời xúc phạm.

      Frank cố giữ những lời đó bên trong, nhưng chẳng dễ chút nào.

      hành trình ngang qua Đại Tây Dương, Leo điều mà đến giờ vẫn còn vướng bận tâm trí Frank. Khi họ biết rằng Gaea, nữ thần đất độc ác, treo giải thưởng cho đầu của họ, Leo muốn biết bao nhiều.

      Tớ có thể hiểu là mình cao giá bằng Jason hay Percy, cậu ta , nhưng tớ đáng giá bao nhiêu, cỡ hai hay ba lần Frank?

      Chỉ là trong số các câu bông đùa ngu ngốc của Leo, nhưng câu đó gần như chạm đến nơi. tàu Argo II, Frank hoàn toàn cảm thấy như KVN — Kẻ Vô dụng Nhất. Phải, cậu có thể biến thành động vật. sao chứ? hữu ích nhất đến giờ của cậu là biến hình thành con chồn để chạy trốn khỏi công xưởng ngầm dưới đất, mà ngay cả điều đó cũng là ý tưởng của Leo. Ở Atlanta, cậu nổi danh Con Cá vàng Khổng lồ của Thất Bại, và, mới hôm qua thôi, biến hình thành con khỉ đột hai-trăm-kí để rồi bị trái pháo sáng hạ đo ván.

      Leo vẫn chưa đùa câu nào về vụ khỉ đột cả. Nhưng tất cả chỉ là vấn đề thời gian thôi.

      Giết nó!

      Tra tấn nó! Xong giết nó!

      Hai mặt của thần chiến tranh nghe như vừa đá vừa đấm nhau bên trong đầu Frank, sử dụng xoang đầu cậu như nệm đấu vật vậy.

      Máu! Súng!

      Rome! Chiến tranh!

      Im lặng coi, Frank ra lệnh.

      Kì diệu thay, giọng lại nghe lệnh cậu.

      Tốt vậy, Frank nghĩ.

      Có lẽ cuối cùng cậu cũng có thể trấn áp mấy vị thần rên la xíu phiền phức kia. Có lẽ hôm nay ngày tốt lành.

      Hy vọng đó sụp đổi ngay khi cậu leo lên boong.

      “Chúng là quái gì vậy?” Hazel hỏi.

      Tàu Argo II thả neo bến cảng đông đúc. Ở phía, kênh vận chuyển kéo dài rộng khoảng nửa cây số. Phía bên kia là thành phố Venice thêng thang — những mái ngói đỏ tươi, những mái vòm nhà thờ kim loại, những tháp chuông, và những toà nhà bạc phếch ngập tràn trong đủ thứ sắc màu của kẹo bánh ngày Valentine—đỏ, trắng, nâu vàng nhạt, hồng, và cam.

      Khắp nơi đều là tượng sư tử— phía bệ tượng, cạnh cửa ra vào, cổng vào của mấy toà nhà đồ sộ nhất. Có quá nhiều, đến mức Frank nhận ra sư tử hẳn là linh vật của thành phố này.

      Nơi mà đáng ra lý ra là đường , lại là các con kênh xanh thẫm len lỏi xuyên qua khu phố, mỗi dòng kênh đầy nghẹt xuồng máy. bến, lối tụ tập đông đúc bởi du khách mua sắm tại mấy quầy áo thun, do quá tải từ mấy cửa hàng, và thơ thẩn ngang qua sân của các quán cà phê ngoài trời, như bầy sư tử biển. Vậy mà Frank nghĩ Rome đầy khách du lịch. Nơi này đúng là quá sức tưởng tượng mà.

      Hazel và mọi người lại mảy may chú ý đến chuyện đó. Họ tập trung hết sang lan can mạn phải và dán mắt hàng tá quái vật bờm xờm kì lạ trà trộn trong đám đông.

      Mỗi con quái to cỡ con bò, với lưng cong như ngựa tật, lông xám xịt, cẳng chân ốm và móng xẻ đôi. Đầu của chúng trông quá nặng so với cổ. Cái mõm dài, giống thú ăn kiến của chúng kéo dài tới đất. Bờm xám mọc dày và nhiều bao phủ hoàn toàn cặp mắt.

      Frank quan sát trong lũ quái lúi cúi dọc lề đường, ngửi và liếm thềm đá với cái lưỡi dài của nó. Du khách vô tư bước vòng quanh nó. Vài người thậm chí còn vuốt ve nó. Frank tự hỏi sao phàm nhân có thể thảnh thơi đến vậy. Rồi bền ngoài con quái thay đổi. Trong phút chốc, nó đổi thành chú chó beagle già, mập ú.

      Jason lầm bầm. “Mấy phàm nhân này nghĩ chúng là chó hoang.”

      “Hoặc thú nuôi lang thang,” Piper . “Bố mình từng đóng phim ở Venice. Tớ nhớ bố bảo là chó ở khắp nơi. Người Venice chó.”

      Frank sững sờ. Cậu cứ quên mất rằng bố Piper là Tristan McLean, ngôi sao điện ảnh hạng A. về ông nhiều. trông khá bình thường so với đứa trẻ lớn lên trong Hollywood. Frank ổn với điều đó. Điều cuối cần họ cần cho nhiệm vụ là mấy tay săn ảnh chộp được mấy tấm hình thất bại ê chề của Frank.

      “Nhưng chúng là gì chứ?” cậu hỏi, lặp lại nghi vấn của Hazel. “Chúng nhìn… như mấy con bò ốm đói trơ lông chó vậy.”

      Cậu chờ ai đó khai sáng cho mình, Nhưng chẳng ai nặn ra được tí thông tin nào.

      “Có thể chúng vô hại,” Leo lên tiếng. “Chúng lờ phàm nhân kìa.”

      “Vô hại!” Gleeson Hedge cười to. Vị thần rừng mặc chiếc quần đùi tập gym thường thấy, áo thể thao, và đeo còi. Biểu cộc cằn như mọi khi, nhưng tóc ông vẫn còn dính mẫu băng dán màu hồng từ vụ lùn chơi khăm ở Bologna. Frank hơi sợ phải đề cập đến chuyện đó với ông. “Valdez, con gặp được bao nhiêu quái vật vô hại rồi? Chúng ta cứ nên lôi máy bắn đá ra nã đại rồi xem chuyện gì xảy ra!”

      “Ưm, ,” Leo .

      Có lần này, Frank đồng ý với Leo. Có quá nhiều quái vật. Bất khả thi để nhắm vào con mà ảnh hưởng đến đám đông du khách. Ngoài ra, nếu như mấy sinh vật này hoảng loạn rồi dẫm đạp…

      “Chúng ta chỉ có cách qua và hy vọng chúng hiền lành,” Frank , ghét cái ý tưởng của mình rồi. “ Đó là cách duy nhất có thể truy được chủ nhân quyển sổ.”

      Leo kéo quyển hướng dẫn bọc da kẹp dưới cánh tay ra. Cậu vỗ mẫu ghi chú bìa với địa chỉ mà tên lùn đưa cậu ở Bologna.

      “La Casa Nera ,” cậu đọc. “Calle Frezzeria.”

      “Ngôi Nhà Đen,” Nico di Angelo dịch, “Calle Frezzeria là tên đường.”

      Frank cố co người lại khi cậu nhận ra Nico đứng ngay vai mình. Cậu ta quá im lặng suy ngẫm, gần như hoá thành tượng khi chuyện. Hazel có thể là người trở về từ cái chết, nhưng Nico mới là người giống ma nhất.

      “Em được tiếng Ý?” Frank hỏi.

      Nico ném cái nhìn cảnh cáo, kiểu: Xem mình hỏi cái gì . Dù vậy, cậu nhàng . “Frank đúng. Chúng ta phải tìm địa chỉ đó. Cách duy nhất là vào thành phố. Venice là mê cung. Chúng ta liều qua đám đông với đám… cần biết chúng là gì.”

      Sấm bầu trời mùa hạ trong xanh. Họ trải qua vài con bão đêm trước. Frank tưởng là kết thúc nhưng giờ cậu chắc cho lắm. Có cảm giác khí như đặc và và ấm như hơi nước xông vậy.

      Jason nhìn sững đường chân trời. “Có lẽ mình nên ở tàu. Cơn bão đêm qua đầy venti. Nếu chúng quyết định tấn công tàu lần nữa…”

      Cậu chẳng cần phải hết. Họ đụng độ với những tinh linh gió hung dữ. Jason là người duy nhất có cơ may chống lại được chúng.

      Huấn luyện Hedge càu nhàu. “Ờh, ta cũng vậy. Nếu lũ yếu lòng bánh bèo các ngươi quyết định dạo quanh Venice mà đập đầu con quái lông rậm nào quên . Ta hứng thú mấy vụ thám hiểm nhàm chán.”

      sao, Huấn luyện.” Leo cười. “Chúng ta vẫn cần phải sửa sang cột buồm. Rồi con cần thầy giúp vài thứ trong khoang động cơ nữa. Con vừa có ý tưởng lắp đặt mới.”

      Frank thích tia sáng loé lên trong mắt Leo. Từ khi Leo tìm được quả cầu Archimedes đó, cậu thử hàng đống “lắp đặt mới.” Thường , chúng phát nổ hoặc bốc khói dày đặc lên cabin của Frank.

      “Vậy…” Piper nghiêng chân. “Người nên là người ổn với thú vật. Tớ, ờh… Tớ phải thừa nhận là mình ổn với bò lắm.”

      Frank hiểu được có tích sau câu đó, nhưng quyết định hỏi.

      “Để tớ ,” cậu .

      Cậu chắc sao mình lại xung phong—có lẽ bởi vì cậu lo lắng về hữu dụng của mình. Hoặc có lẽ cậu muốn ai đó nhanh nhảu. Thú? Frank có thể biến thành thú kìa! Để cậu ấy !

      Leo vỗ vai cậu và đưa cậu quyển sổ. “Tuyệt cú mèo. Nếu có ngang cửa hàng gia dụng, cậu nhớ mua dùm tớ vài thanh gỗ hai nhân bốn với ga-lon dầu hắc nha?”

      “Leo,” Hazel mắng, “Có phải là mua sắm đâu.”

      “Em với Frank,” Nico đề nghị.

      Mắt Frank bắt đầu giật. Giọng thầnh thánh lại vang lên trong đầu cậu: Giết nó! Lũ khốn Graecus!

      ! Ta bọn khốn Graceus!

      “Ưm, … em ổn với động vật?” cậu hỏi.

      Nico cười dù nhìn chẳng vui. “Thực ra, hầu hết thú vật đều ghét em. Chúng có thể cảm nhận cái chết. Nhưng có gì đó về thành phố này …” Biểu cậu vụt trở nên tàn nhẫn. “Rất nhiều cái chết. Những linh hồn an nghỉ. Nếu em , có khi em lại trấn giữ được họ. Ngoài ra, như để ý, em được tiếng Ý.”

      Leo gãi đầu. “Nhiều cái chết àh? Cá nhân , thích tránh chết chóc, nhưng hai người vui vậy nhé!”

      Frank chắc cậu sợ điều gì hơn: quái vật bò, đám hồn tan, hay mình với Nico di Angelo.

      “Tớ nữa.” Hazel vòng tay vào cánh tay Frank. “Ba là số đẹp cho nhiệm vụ á thần nhỉ?”

      Frank cố thở phào quá . Cậu muốn mích lòng Nico. Nhưng cậu liếc Hazel và ngàn lời qua đôi mắt: Cảm ơn nhé cảm ơn nhiều cảm ơn cậu lắm.

      Nico nhìn chằm chằm các con kênh, như thắc mắc biết dạng linh hồn hung ác mới mẻ, thú vị nào lẩn trổn dưới đó. “Được rồi, vậy tìm chủ nhân quyển sổ đó thôi.”

      Chương 18




      CÓ THỂ FRANK THÍCH VENICE nếu lúc đấy phải là mùa hè hay mùa du lịch, và thành phố nhung nhúc những sinh vật lông lá to tổ chảng. Giữa những dãy nhà cổ và con kênh, vỉa hè lát đá vốn quá hẹp để cho đám đông chen chúc xô đẩy nhau và dừng lại chụp ảnh. Mấy con quái vật còn làm mọi thứ tồi tệ hơn. Chúng lê lết loanh quanh, đầu cúi thấp, húc vào những người bình thường và ngửi ngửi mặt đất.

      con trông có vẻ như tìm ra cái gì đấy chỗ rìa bờ kênh. Nó gặm gặm và liếm kẽ nứt giữa 2 viên đá cho đến khi lôi ra được loại rễ gì đó màu xanh lá. Con quái mút cái rễ cách sung sướng và lôi cái rễ .

      ‘Chà, ra chúng là động vật ăn cỏ.’ Frank . ‘Đúng là tin vui.’

      Hazel luồn tay vào tay cậu. ‘Trừ khi chúng bổ sung dinh dưỡng cho chế độ ăn của chúng bằng á thần. Hy vọng là phải thế.’

      Frank thấy ấm hết cả lòng khi nắm tay Hazel. Đám đông, cái nóng và lũ quái vật đột nhiên đến nỗi quá tệ nữa. Cậu cảm thấy như mình được cần đến – cảm thấy mình hữu dụng.

      phải là Hazel cần cậu bảo vệ. Bất kì ai từng thấy phi nước đại lưng Arion với thanh kiếm trong tay đều có thể nhận ra được rằng thừa sức tự vệ. Dù thế, Frank vẫn thích ở bên cạnh . Tưởng tượng mình là người bảo vệ cho . Nếu có bất kì con nào trong lũ quái vật kia mà định làm động đến sợi tóc của , Frank rất vui lòng biến thành con tê giác và húc chúng bay xuống mương.

      Nhưng mà cậu có thể biến thành con tê giác nhỉ? Trước đây Frank chưa bao giờ thử cả.

      Nico dừng lại. ‘Ở đấy.’

      Họ rẽ vào con phố hơn, bỏ con kênh lại phía sau. Phía trước họ là quảng trường giữa các ngôi nhà năm tầng. Khu vực này bị bỏ hoang cách kì lạ – cứ như là những người trần mắt thịt có thể cảm nhận rằng nó an toàn. Giữa khoảng sân rải sỏi, tá những con vật trông như những con bò lông lá bờm xờm đánh hơi loanh quanh cái nền phủ rêu của cái giếng đá cổ.

      đống bò ở nơi,’ Frank .

      ‘Ờ, nhưng kìa,’ Nico . ‘chỗ cái cổng vòm kia.’

      Mắt Nico chắc phải tốt hơn mắt cậu lắm lắm. Frank liếc. Ở xa xa phía cuối quảng trường, cái cổng vòm tạc hình sư tử dẫn đến con phố hẹp. Ngay bên kia cái cổng, ngôi nhà sơn đen – ngôi nhà màu đen duy nhất mà Frank thấy ở Venice nãy giờ.

      ‘Ngôi Nhà Đen,’ cậu đoán.

      Hazrl nắm chặt mấy ngón tay cậu. ‘Mình thích cái quảng trường kia. Nó…lạnh.’

      Frank chắc là Hazel có ý gì. Cậu vẫn đổ mồ hôi như điên đây.

      Nhưng Nico gật đầu. Cậu bé chăm chú nhìn những ô cửa sổ của ngôi nhà, hầu hết đều đóng cửa chớp im ỉm. ‘Chị đúng đấy. Khu này dày đặc vong hồn[1].

      ‘Vượn cáo [1] á?’ Frank lo lắng hỏi. ‘ đoán ý em phải là mấy cái con thú be bé trong Madagascar?’

      ‘Những hồn ma giận dữ.’ Nico giải thích. ‘Những vong hồn này có từ thời La Mã. Chúng vẫn còn lởn vởn rất nhiền trong các thành phố của nước Ý, nhưng em chưa bao giờ cảm thấy có nhiều vong hồn như thế ở cùng chỗ. Mẹ em từng kể với em…’ cậu bé ngập ngừng. ‘Mẹ từng kể với em về những hồn ma ở Vernice.’

      lần nữa Frank lại thắc mắc về quá khứ của Nico, nhưng cậu quá ngại để mà hỏi. Cậu đánh mắt sang Hazel.

      Tiếp tục , có vẻ như ý là thế. Nico cần tập chuyện với mội người.

      Tiếng súng trường xung phong và bom nguyên tử lại bắt đầu lớn dần trong đầu Frank. Mars và Ares cố đọ nhau về khoản ‘dùng tiếng hát át tiếng bom’ bằng hai bài hát ‘Dixie’[2] và ‘The Battle Hymn of the Republic’[3]. Frank phải cố hết sức để lờ chúng .

      ‘Nico, mẹ em là người Ý đúng ?’ Cậu đoán. ‘Bà ấy là người Venice à?’

      Cậu bé miễn cưỡng gật. ‘Bà gặp Hades ở đây, hồi những năm 1930. Khi Đệ nhị Thế chiến đến gần, bà chạy sang Mỹ, cùng với chị em em. Ý em là Bianca, chị ruột em. Em nhớ gì nhiều lắm về nước Ý, nhưng em vẫn có thể tiếng Ý.

      Frank cố vắt óc ra nghĩ cách đáp lời. Ồ, thế à có vẻ cũng dùng được.

      Cậu dạo chơi với ai khác mà là hai á thần bị lạc khỏi dòng thời gian. Họ đều, về lý thuyết, già hơn cậu tầm bảy chục mùa lá rụng.

      ‘Chắc là phải khó cho mẹ em lắm,’ Frank an ủi. ‘ đoán là chúng ta đều làm tất cả cho những người chúng ta quí.’

      Hazel siết tây cậu đầu cảm kích. Nico nhìn chằm chằm vào mảnh sân rải đá dăm. ‘Ừ’ cậu bé đầy cay đắng. ‘Em đoán rằng chúng ta đều làm vậy.’

      Frank chăc lắm về những điều Nico nghĩ. Cậu khó khăn tưởng tượng ra cái cảnh Nico di Angelo hết mình ai đấy, ngoại trừ Hazel – có lẽ vậy. Nhưng Frank quyết định rằng cậu xa hết mức liều với mấy câu hỏi riêng tư vói cậu bé này rồi.

      ‘Ờ, bọn vong hồn…’ Cậu nuốt khan. ‘Làm thế nào để tránh chúng?’

      ‘Em làm đây rồi,’ Nico trả lời. ‘Em phát thông điệp rằng chúng hãy tránh xa ra và kệ chúng ta. Hy vọng rằng thế là đủ. Còn nếu …mọi chuyện có thể rất là rắc rối đấy.’

      Hazel nhíu môi. ‘ thôi,’ đề nghị.

      được nửa đường, mọi thứ bắt đầu chệch hướng, nhưng việc này liên quan gì đến lũ ma cả.

      Họ vòng qua cái giếng giữa quảng trường, cố giữ khoảng cách với lũ quái bò, và Hazel bị trượt chân bởi miếng đá dăm. Frank đỡ được bé. Sáu hay bảy con thú lông xám to lớn quay lại nhìn họ. Frank thoáng thấy con mắt màu xanh là phát sáng, và ngay lập tức dính đợt buồn nôn, kiểu buồn nôn khi cậu ăn quá nhiều phô mai hay kem.

      Mấy con động vật phát ra mấy tiếng trầm và sâu từ cổ họng, nghe như tiếng còi tàu[4].

      ‘Bò ngoan,’ Frank lẩm bẩm. Cậu đứng ngăn vào giữa hai người bạn của cậu và lũ quái vật. ‘Các cậu, tớ nghĩ là nên lui khỏi đây từ từ.’

      ‘Em đúng là con đần,’ Hazel thầm. ‘Xin lỗi.’

      phải do chị đâu,’ Nico . ‘Nhìn xuống chân .’

      Frank liếc xuống và hụt luôn hơi.

      Dưới giày cậu, những viên đá dăm động đậy, những cái tua nhọn hoắt nứt đá trồi lên.

      Nico lùi lại. Những cái rễ trườn về phía cậu, cố bám theo. Những cái tua dần dày hơn, rỉ ra đám hơi nước màu xanh lá có mùi như bắp cải nấu nhũn

      ‘Mấy cái rễ này có vẻ thích á thần,’ Frank lưu ý.

      Hazel đưa tay lên chuôi kiếm. ‘Và bọn quái bò này thích loại rễ đấy.’

      Cả đàn bò giờ đây nhìn chằm chằm về hướng họ, phát ra tiếng kêu trầm trầm từ cổ họng và giậm giậm móng. Frank đủ hiểu động vật để hiểu thông điệp của chúng. ‘Các ngươi đứng thức ăn của ta. Vì thế các ngươi là địch.’

      Frank cố vắt óc ra mà nghĩ. Có quá nhiều quái để tính đến chuyện đánh nhau. Có cái gì đấy lạ về những con mắt của chúng dưới lớp bờm kia…Frank cảm thấy buồn nôn ngay từ cái liếc mắt thoáng qua. Cậu có linh cảm rất tệ rằng nếu bọn quái vật kia mà chơi trò đấu mắt, cậu bị cái gì đấy tệ hơn buồn nôn nhiều.

      Đừng nhìn vào mắt chúng,’ Frank cảnh báo. ‘Tớ đánh lạc hướng chúng. Ha người lùi về ngôi nhà đen , chậm thôi nhá.’

      Những con quái gồng mình lên, sẵn sàng tấn công.

      ‘Đừng bận tâm,’ Frank . ‘Chạy thôi!’

      Hóa ra, Frank thể biến thành tê giác, và cậu lại còn mất luôn chút ít thời gian quí giá để mà cố thử.

      Nico và Hazel nhào ra bên đường. Frank bức đến trước mặt bọn quái thú, hy vọng là có thể thu hút được chú ý của bọn chúng. Cậu thét tiếng vang dội, tưởng tượng ra mình là con tê giác đáng sợ, nhưng với Ares và Mars cãi lộn trong đầu làm cậu thể tập trung nổi. Cậu vẫn giũ nguyên hình dáng cũ kĩ là cái thằng Frank.

      Hai trong số những con quái bò tách bầy đuổi theo Nico và Hazel.

      !’ Frank hét vói theo. ‘LÀ TAO! Tao là con tê giác cơ mà!’

      Những con quái bò còn lại trong bầy quây lấy Frank. Bọn chúng gầm gừ, xì ra những đám khói màu xanh ngọc lục bảo từ lỗ mũi. Frank lùi lại để tránh những thứ đấy, nhưng riêng cái mùi hôi thối thôi cũng gần đánh gục cậu rồi.

      Cũng được, phải là tê giác vậy. con gì đấy khác. Frank biết rằng cậu chỉ có vài giây trước khi lũ quái vật đầu độc hoặc dẫm chết cậu, nhưng mà cậu thể nghĩ được. Cậu thể giữ trong đầu hình ảnh con vật nào đủ lâu để mà biến hình.

      Thế rồi cậu ngước lên ban công của tòa nhà cổ và thấy bức phù điêu – biểu tượng của thành Vơ-ni-dơ.

      Ngay lập tức, Frank là con sư tử đực trưởng thành. Cậu gầm lên thách thức, rồi bật nhảy từ giữa bầy quái thú và tiếp đất cách xa tám mét, ngay cái giếng đá cổ.

      Bọn quái thú gầm lên đáp lời. Ba con trong số chúng nhảy đến cùng lúc, nhưng Frank sẵn sàng. Phản xạ sư tử của cậu sinh ra là để đánh trận.

      Cậu tát hai con quái đầu tiên thành bụi bằng móng vuốt, rồi ngoạm ngậm răng vào họng con thứ ba, quăng nó sang bên.

      Còn lại bảy con, cộng với hai con đuổi theo các bạn của cậu. Khả năng cao lắm, nhưng Frank phải giữ cho phần lớn bầy quái thú tập trung vào cậu. Cậu gầm vào mặt chúng, và chúng dạt ra.

      Chúng đông hơn cậu nhiều, đúng. Nhưng Frank là động vật ăn thịt đứng-đầu-chuỗi-thức-ăn. Bầy quái biết điều đấy. Bọn chúng cũng chỉ biết trơ mắt ra nhìn cậu tiễn ba em của chúng xuống Tartarus.

      Cậu tận dụng lợi thế của mình, nhảy ra khỏi thành giếng, vẫn nhe ra bộ nanh trắng nhởn. Bầy quái lùi lại.

      Cậu có thể vờn chúng vòng quanh, rồi quay đuôi chậy đuổi theo các bạn cậu….

      Mọi chuyện diễn ra đúng hướng, cho đến khi cậu lùi bước đầu tiên về phía cổng vòm. con bò, có thể là con dũng cảm nhất, có thể là con ngu nhất, nhận ra điều đấy và cho đấy là dấu hiệu của yếu thế. Nó lao đến và thổi vào mặt Frank luồng khí màu xanh.

      Cậu quật con quái đấy ra bụi, nhưng cậu bị thương. Cậu tự ép mình nhịn thở. Nhưg bất ngờ, cậu cảm thấy những sợi râu sư tử mõm mình cháy rụi. Mắt cậu nhức buốt. Cậu lảo đảo lùi lại, mù dở và choáng váng, lờ mờ nhận ra giọng Nico kêu tên cậu.

      ‘Frank! Frank!’

      Cậu cố tập trung. Cậu trở lại về hình người, buồn nôn và lảo đảo. Mặt cậu cảm giác như bong cả ra. Trước mặt cậu, làn sương màu xanh giăng giữa cậu và bầy quái. Những con quái bò đứng im, nhìn cậu cách tự trọng, chắc là tự hỏi xem Frank còn có thể có trò gì độc lạ hay .

      Cậu liếc lại đằng sau. Dưới cánh cổng vòm đá, Nico di Angelo cầm thanh kiếm sắt Stygian màu đen, ra hiệu giục Frank. Dưới chân Nico, là hai vũng nước đen sì mặt đất – hiển nhiên là những gì còn sót lại của hai con quái bò đuổi theo bọn họ.


      Và Hazel… dựa lưng vào bắc trường đằng sau lưng cậu em trai, động đậy.

      Frank chạy đến chỗ họ, quên luôn cả bầy quái. Cậu lao qua Nico và chụp lấy hai vai Hazel. Đầu bé gục xuống ngực.

      ‘Chị ấy bị luồng khói xanh thổi thẳng cào mặt,’ Nico đau khổ. ‘Em – em kịp.’

      Frank chắc bé còn thở hay . Tức giận và thất vọng trào dâng trong lòng cậu. Từ trước đến nay cậu luôn sợ Nico. Nhưng bây giờ cậu chỉ muốn song phi vào mặt đứa con trai của Hades bay xuống con kênh gần nhất. Có thể như thế là vô lí, nhưng Frank chẳng quan tâm. Hai vị thần chiến tranh trong đầu cậu cũng thấy thế.

      ‘Chúng ta cần phải quay lại tàu,’ Frank .

      Bầy quái bò vẫn lảng vảng cách dè chừng ngay phía bên kia cổng vòm. Chúng lại rống lên những tiếng như còi tàu. Từ các con phố chung quanh, thêm tiếng rống trả lời. ‘Quân tiếp viện’ sớm vây chặt mấy đứa nhóc á thần.

      ‘Chúng ta thể bộ về tàu được.’ Nico . ‘Frank, biến thành con đại bàng khổng lồ . Đừng lo cho em. Đưa chị ấy về Argo II!’

      Với cái mặt bỏng rát và tiếng hò hét trong đầu, Frank chắc cậu có thể biến hình hay , nhưng đúng lúc cậu chuẩn bị thử giọng phía sau họ: ‘Các bạn của các cậu giúp được đâu. Họ biết cách chữa.’

      Frank quay lại. Đứng trước thềm của Ngôi Nhà Đen là người đàn ông trẻ mặc quần jean áo denim. Ông ta có mái tóc đen, quăn và nụ cười thân thiện, mặc dù vậy Frank vần nghi ngờ về độ thân thiện. Hiển nhiên ông ta chẳng phải con người.

      Nhừn và lúc đó, cậu chẳng quan tâm.

      ‘Ngài có thể giúp ấy được ?’ Cậu hỏi,

      ‘Tất nhiên,’ ông ta trả lời. ‘Nhưng các cậu nên nhanh nhanh vào trong . Tôi nghĩ là các cậu chọc giận tất cả các con katobleps trong thành Venice này rồi.’

      ————

      [1] lemures (vong hồn) nghe gần giống lemurs (vượn cáo)

      [2] và [3] hai bài hát cổ vũ ‘đối địch’ nhau trong thời nội chiến Mỹ. ‘Dixie’ của phe miền Nam và ‘The Battle Hymn of the Republic’của phe miền Bắc. Bạn có thẻ trải nghiejm cảm giác của Frank bằng cách cắm headphone, bật max volumn của cả 2 bài 1 lúc

      ‘The Battle Hymn of the Republic’

      ‘Dixie’

      [4] nguyên bản: foghorn: tiếng còi báo trong thời tiết sương mù, thường lắp đặt tàu thủy, nghe như thế này

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 19




      HỌ SUÝT CHÚT NỮA LÀ VÀO ĐƯỢC BÊN TRONG.

      Vừa lúc gã chủ nhà khoá cửa lại, lũ quái vật bò rống lên ầm ĩ và dộng cửa ầm ầm, khiến cánh cửa rung bần bật bản lề.

      “Ồh, chúng vào được đâu,” gã đàn ông áo denim cam đoan. “Các bạn an toàn rồi!”

      “An toàn?” Frank gằng giọng. “Hazel chết dần kia kìa!”

      Gã chủ nhà sững sốt, như kiểu gã thích lắm chuyện Frank phá hoại tâm trạng vui vẻ của mình. “Ờh, đúng. Mang ấy hướng này.”

      Frank ẵm Hazel rồi theo gã ta tiến sâu hơn vào bên trong căn nhà. Nico muốn giúp, nhưng Frank cần. Hazel nặng chút nào, và cơ thể Frank căng đầy adrenaline. Cậu có thể nhận thấy Hazel run rẩy, nên cậu biết ít nhất vẫn còn sống; nhưng da lạnh toát. Môi chuyển sang màu xanh tái—hay đó chỉ là mắt của Frank mờ thôi?

      Đôi mắt cậu vẫn bỏng rát bởi hơi thở con quái vật. Phổi cậu giống như cậu sắp thở ra cái bắp cải rực lửa vậy. Cậu biết vì sau khí ga đó ảnh hưởng lên cậu ít hơn Hazel. Có thể là hít nó nhiều hơn. Cậu sẵn sàng đánh đổi bất cứ thứ gì để thế chỗ cho miễn là điều đó cứu được .

      Giọng của Mars và Ares kêu gào trong đầu cậu, thúc đẩy cậu giết Nico và người đàn ông áo denim và bất kì ai cậu thấy, nhưng Frank kiềm chế chúng lại.

      Sảnh trước của căn nhà như dạng nhà kính. Các dãy bàn kê sát tường chất đầy những chậu cây dưới ánh đèn huỳnh quang. khí nồng nặc mùi phân bón. lẽ Người Venice trồng cây trong nhà, vì họ được bao quanh bởi nước thay vì đất? Frank chắc nữa, nhưng cậu quan tâm lắm.

      Gian phía sau trông như kết hợp giữa hầm để xe, kí túc xá đại học, và phòng tin học. Mé tường bên trái đặt loạt các hệ thống máy móc và laptop nhấp nháy, màn hình chờ của chúng thay đổi liên tục từ hình ruộng cày đến hình máy kéo. Mé tường bên phải chiếc giường đơn, bàn làm việc bừa bộn, và tủ quần áo để ngõ chất đống them mấy bộ quần áo jean và denim và bó các dụng cụ nông trại, nào chĩa nào bồ cào.

      Nằm phía sau là cánh cửa gara khổng lồ. Chiếc chiến xa sơn đỏ xen vàng đậu ngay cạnh bên với thiết kế mái che và trục đơn, giống như loại mà Frank dùng để đua ở Trại Jupiter ấy. Các đôi cánh lông vũ phất phơ bên cạnh ghế lái. Và vành bánh xe, con trăn đốm quấn hết vòng này đến vòng khác, ngáy to.

      Frank chưa từng biết trăn cũng có thể ngáy. Cậu hy vọng là tối qua trong lốt trăn, mình có làm điều đó.

      “Đặt bạn cậu lên đây,” gã đàn ông áo denim .

      Frank nhàng đặt Hazel xuống giường. Cậu lấy thanh kiếm của và cố để ở tư thế thoải mái nhất, nhưng người cứng tựa như tay chân của con bù nhìn trông ruộng. Nước da ánh sắc xanh.

      “Lũ bò đó là gì chứ?” Frank muốn được biết. “Chúng làm gì bạn ấy?”

      “Katoblepones,” gã chủ nhà bảo. “Số ít: katobleps. Tiếng có nghĩa là kẻ nhìn xuống. Gọi như thế là do—“

      “Chúng luôn luôn nhìn xuống.” Nico vỗ trán. “Đúng rồi. Em nhớ là mình đọc về chúng.”

      Frank liếc cậu. “Giờ em mới nhớ?”

      Nico cúi gầu thấp gần như bằng con katobleps. “Em, ừh… từng chơi vài trò bài vớ vẩn lúc còn . Tên là Mythomagic. Katobleps là trong những lá bài quái vật.”

      Frank chớp mắt. “ cùng từng chơi Mythomagic mà. bao giờ thấy lá đó đâu.”

      “Nó nằm trong bộ mở rộng Châu Phi Khắc Nghiệt đó.”

      “Ồh.”

      Gã chủ nhà đằng hắng. “Hai người , ờh, như người ta , xuống đất lại chưa?”

      “Ôi, xin lỗi,” Nico lí nhí. “Dù sao , Katoblepones có hơi thở và ánh nhìn độc. Em tưởng nó chỉ sống ở Châu Phi thôi chứ.”

      Gã áo denim nhún vai. “Đó là nguồn gốc của chúng. Chúng được nhập khẩu cách tình cờ vào Venice hơn trăm năm trước. Các cậu bao giờ nghe đến Thánh Mark chưa?”

      Frank muốn gào lên vì nôn nóng. Cậu chẳng hiểu được chuyện này có liên quan chút gì, nhưng nếu gã này có thể chữa thương cho Hazel, Frank nghĩ tốt nhất là nên chọc giật ta. “Thánh? Họ đâu có liên quan đến thần thoại Hy Lạp.”

      Gã ta bật cười. “ , nhưng Thánh Mark chính là vị thánh canh giữ thành phố này. Ngài mất tại Ai Cập, ừh, từ rất lâu rồi. Khi người Venice trở nên hùng mạnh… Ừhm, di vật của thánh vốn là điểm thu hút khách du lịch nổi bật vào thời kì Trung Cổ. Người Venice quyết định trộm phần còn sót lại của Thánh Mark và mang chúng đến nhà thờ lớn của họ ở San Marco. Họ luồn cơ thể của ngài ra ngoài bằng cách nhét vào các thùng gỗ đựng heo ngâm chua.”

      là … kinh tởm,” Frank .

      “Đúng vậy,” gã nở nụ cười đồng ý. “Điểm chính là, các cậu thể làm như vậy mà phải gánh lấy hậu quả. Người Venice vô tình mang luôn thứ khác ra khỏi Ai Cập—chính là lũ Katoblepones. Chúng đến đây bằng đường thuỷ và bắt đầu sinh sôi như chuột đến tận bây giờ. Chúng rất thích loại rễ độc ma thuật mọc lên ở đây—thứ cây nhầy nhụa, hôi thối trồi lên từ các con kênh đó. Loại này khiến cho hơi thở bọn chúng càng độc hơn! Bình thường, mấy con quái lờ phàm nhân, nhưng á thần… đặc biệt là mấy á thần làm phiền chúng—“

      “Hiểu rồi,” Frank cắt ngang. “ có cứu được ấy ?”

      Gã ta nhún vai. “Có khả năng.”

      “Khả năng?” Frank phải dùng toàn bộ ý chí mới chế được siết cổ gã.

      Cậu sờ dưới mũi Hazel. Nhưng nhận thấy hơi thở của . “Nico, làm ơn với ấy chơi trò nhập định giả chết , như hồi em làm khi bị nhốt trong cái lọ đồng ấy.”

      Nico nhăn nhó. “Em biết Hazel có làm được . Nếu tính ra bố chị ấy là Pluto, chứ phải Hades, nên—“

      “Hades!” Gã chủ nhà rú lên. Gã nhảy bật ra sau, ngó trừng trừng Nico cách ghê tởm. “Vậy ra chính là mùi đó. Những đứa con của Phủ? Nếu ta biết trước, ta chẳng bao giờ để các ngươi vào!”

      Frank lên giọng. “Hazel là người tốt. hứa giúp ấy!”

      “Ta hề hứa!”

      Nico tuốt kiếm. “Chị ấy là chị tôi,” cậu gầm gừ. “Tôi cần biết là ai, nhưng nếu có thể, phải chữa cho chị ấy, nếu thề có sông Styx—“

      “Ờh, blah, blah blah!” Gã ta vẫy tay. chậu cây cao 5 feet đột ngột xuất ngay chỗ Nico di Angelo vừa đứng, với cành lá ũ rũ, tơ từng chùm và nửa tá tai bắp vàng ươm phất phơ.

      “Thế đó,” gã ta nổi cáu, chỉ tay về phía cây bắp. “Con của Phủ có tư cách sai bảo ta! Ngươi nên ít và nghe nhiều lên. Mà ít ra giờ ngươi có tai rồi đó.”

      Frank tựa người lên giường. “Ngươi làm—tại sao—?”

      Gã nhướn lông mày. Frank rít lên tiếng nghe chẳng can trường lắm. Cậu mãi chú ý vào Hazel mà hoàn toàn quên mất điều Leo dặn về người mà mọi người tìm kiếm. “Ngài là thần,” cậu nhớ ra.

      “Triptolemus.” Gã ta cúi chào. “Bạn ta gọi ta là Trip, thế nên đừng có gọi như thế. Và nếu như ngươi là đứa con khác của Hades—“

      “Mars!” Frank nhanh. “Con của Mars!”

      Triptolemus khịt mũi. “Ừhm…chẳng tốt lành hơn là bao. Nhưng có lẽ ngươi xưng đáng được biến thành thứ gì đó tốt hơn bắp. Lúa miến nha? Lúa miến được lắm đó.”

      “Khoan !” Frank nài nỉ. “Chúng tôi đến đây với mục đích thân thiện. Chúng tôi có mang quà.” Cậu đưa tay cách cực kì chậm rãi vào ba lô và lấy ra quyển sổ bọc da. “Cái này của ngài đúng ?”

      “Niên giám của ta!” Triptolemus nhoẻn cười và chộp lấy quyển sổ. Gã lướt qua các trang giấy và bắt đầu nhảy nhót mũi chân mình. “Ôi, là tuyệt quá ! Ngươi tìm ra ở đâu vậy?”

      “Ừm, Bologna. Ở đó có mấy”—Frank chợt nhớ mình nên nhắc đến lũ lùn—“vài con quái tồi tệ lắm. Chúng tôi phải liều mạng với chúng, nhưng đều vì biết nó rất quan trọng với ngài. Nên ngài có thể, ừh, biến Nico trở lại thành người và chữa cho Hazel được ?”

      “Hmm?” Trip dứt mắt khỏi quyển sổ. Gã vốn tự lẩm bẩm với mình những điều ghi trong đó—thứ gì đó về lịch trồng củ cải ấy. Frank ước gì Điểu nhân Ella có ở đây. hoà hợp với tên này lắm lắm.

      “Ồh, chữa cho họ?” Triptolemus cục cằn đồng tình. “Ta đương nhiên rất biết ơn về quyển sổ. Hoàn toàn có thể thả ngươi , con trai của Mars. Nhưng ta có vấn đề lằng nhằng với Hades. Dù sao , ta cũng nợ Demeter thần lực của mình!”

      Frank cố lục lọi trí não của mình, nhưng rất khó với những giọng hò hét trong đó và hơi thở của lũ katobleps vẫn còn khiến cậu chóang váng.

      “Ưh, Demeter,” cậu , “nữ thần mùa màng. Người—người thích Hades là bởi…” Cậu sực nhớ câu chuyện cổ từng nghe ở trại Jupiter. “Con của người, Preserpine—“

      “Persephone,” Trip sửa lại. “Ta thích tên Hy Lạp hơn, nếu ngươi phiền.”

      Giết ! Mars gào rú.

      Ta thích gã này! Ares hét lại. Mà cứ giết luôn !

      Cậu quyết định bỏ qua. Cậu muốn bị biến thành cây lúa miến tí nào. “Được rồi, Hades bắt cóc Persephone.”

      “Chính xác!” Trip .

      “Vậy… Persephone vốn là bạn của ngài ư?”

      Trip khụt khịt. “Lúc đó ta chỉ là hoàng tử phàm nhân. Persephone chắc để ý đến ta đâu. Nhưng khi mẹ của nàng, Demeter, bắt đầu tìm kiếm nàng, lùng sục khắp mặt đất, người nhận được nhiều giúp đỡ. Hecate soi sáng lối cho người bằng đuốc của ấy. Còn ta… ừh, lúc Demeter ngang lãnh địa của ta ở Hy Lạp, ta cho người nơi để nghỉ lại. Ta an ủi người, cho người thức ăn, và đề nghị giúp đỡ. Lúc đó ta biết người là nữ thần, nhưng lòng tốt của ta được đền đáp. Sau đó, Demeter ban thưởng cho ta bằng cách biến ta thành thần trồng trọt.

      “Woa,” Frank . “Trồng trọt. Xin chúc mừng.”

      “Ta biết mà! Tuyệt vời quá, chứ gì nữa? Dù sao, Demeter chưa bao giờ hoà thuận với Hades. Nên theo lẽ tự nhiên, ngươi biết đó, ta về phe nữ thần đỡ đầu của mình thôi. Con của Hades—ôi quên ! Thực ra, trong số chúng – tên vua Scytha đấy tên là Lynkos đúng nhỉ? – trong khi ta cố dạy bảo lũ người quê mùa của trồng trọt, lại giết mất Hữu Mãng Xà của ta!

      “Hữu… mãng xà của ngài?”

      Trip bước về phía chiếc chiến xa của mình và nhảy phốc lên ghế ngồi. Gã kéo cần, và các đôi cánh bắt đầu vẫy. Con trăn đốm bên bánh xe trái mở mắt. Nó bắt đầu vặn mình, quấn vòng quanh thanh trục hệt như lò xo. Chiếc chiến xa bắt đầu di chuyển, nhưng bánh xa phải cử động, nên Triptolemus xoay vòng tròn, chiến xa vỗ cánh và bật lên xuống như vòng quay ngựa gỗ.

      “Thấy chưa?” Gã vừa xoay vừa . “ tốt! Kể từ khi mất Hữu Mãng Xà, ta thể truyền bá kĩ thuật trồng trọt được—ít nhất là trực tiếp. Giờ ta buộc phải mở các khoá học mạng.”

      “Cái gì?” Ngay khi thốt lên, Frank hối hận lập tức.

      Trip nhảy khỏi chiến xa vẫn xoay vòng. Con trăn chậm dần rồi dừng hẳn, sau đó tiếp tục ngái ngủ. Trip bước về phía dàn máy vi tính. Gã gõ bàn phím và màn hình sáng lên, hiển thị trang web màu hạt dẻ cộng vàng, với hình ảnh nhà nông vui vẻ quấn áo toga và đội nón kết John Deere, đứng đó tay cầm lưỡi hái giữa cánh đồng lúa mạch.

      “Đại học Nông Lâm Triptolemus!” gã thông báo đầy tự hào. “Chỉ trong sáu tuần, ngươi có thể nhận bằng cử nhân ngành học đầy thú vị và hứng thú của thời đại mới—trồng trọt!”

      Frank cảm thấy giọt mồ hôi lạnh đổ xuống ngực. Cậu quan tâm đến vị thần gàn dở này cũng như cỗ chiến xa động cơ rắn hay chương trình bằng cấp online của gã. Nhưng Hazel xanh xao hơn từng phút . Nico bị biến thành cây bắp. Còn cậu mình.

      “Nghe này,” cậu “Chúng tôi mang về cho ngài quyển niên giám. Và bạn của tôi rát tốt. Họ như những người con khác của Hades ngài từng gặp. Nên nếu có cách nào—“

      “Ồh!” Trip búng tay. “Ta biết ngươi muốn gì!”

      “Ừh… ngài biết sao?”

      “Dĩ nhiên! Nếu ta chữa cho bạn ngươi Hazel và biến đứa kia trở lại, Nicholas—“

      “Nico.”

      “—nếu ta biến trở lại bình thường…”

      Frank ngập ngừng. “Vâng?”

      “Vậy để trao đổi, ngươi ở lại với ta và học trồng trọt! Đứa con của Mars là học trò ta ư? Hoàn hảo! Ngươi trở thành người phát ngôn. Chúng ta biến kiếm thành lưỡi cày và có vô vàn trò vui!”

      “Àh thực ra…” Frank điên cuồng tìm cách thoái thác. Ares và Mars hét lên trong đầu cậu, Kiếm! Súng! Siêu bùm chéo!

      Nếu cậu từ chối đề nghị của Trip, Frank hiểu cậu đụng chạm tự ái của gã và bị biến thành lúa miến hoặc lúa mạch hoặc thứ lương thực nào đấy.

      Nếu đây là cách duy nhất để cứu Hazel, chắc chắc, cậu đồng ý với cầu của Trip và trở thành nông dân. Nhưng đó thể là biện pháp duy nhất, Frank từ chối khả năng mình được chọn bởi Định Mệnh tham gia vào nhiệm vụ này chỉ để học khoá huấn luyện chăm bón củ cải online.

      Mắt Frank đảo về phía cỗ chiến xa hỏng. “Tôi có đề nghị hay hơn,” cậu bật thốt lên. “Tôi có thể sửa cái đó!

      Nụ cười của Trip méo . “Sửa… chiến xạ của ta?”

      Frank muốn đá chính mình quá. Cậu nghĩ gì vậy chứ? Cậu có phải Leo đâu. Cậu lần mò ra được ngay cả đôi còng Trung Quốc. Cậu khó khăn lắm mới đổi được pin của điều khiển TV. Cậu làm sao sửa được chiến xa thần thánh chứ!

      Nhưng có điều gì đó bảo cậu rằng đây là cơ hội duy nhất. Chiến xa là thứ duy nhất mà có lẽ Triptoleus muốn.

      “Tôi tìm cách để sửa cỗ chiến xa.” cậu . “Đổi lại, ngài chữa cho Nico và Hazel. Rồi để chúng tôi an lành. Và—và cho cho chúng tôi giúp đỡ của ngài để đánh bại lực lượng phía Gaea.”

      Triptolemus cười ha hả. “Điều khi khiến ngươi nghĩ ta có thể giúp ngươi làm vậy?”

      “Hecate bảo vậy đấy,” Frank . “Người bảo chúng tôi đến đến đây. Người—người Hazel là trong những đứa người thích nhất.”

      Mặt Trip tái dần . “Hecate?”

      Frank hy vọng là cậu quá thứ gì. Cậu muốn Hecate cũng nổi điên với cậu. Nhưng nếu Triptolemus và Hecate đều là bạn của Demeter, có lẽ điều này có thể thuyết phục được Trip.

      “Ở Bologna, chính nữ thần chỉ dẫn chúng tôi đến quyển niên giám của ngài,” Frank . “Người muốn chúng tôi trả nó về với ngài, vì… ừhm, chắc có lẽ người biết ngài tri thức có thể giúp chúng tôi qua được Ngôi nhà thần Hades ở Epirus.”

      Trip chậm rãi gật đầu. “Được, ta hiểu rồi. Ta biết vì sao Hecate gửi các ngươi cho ta. Tốt lắm, con trai của Mars. Hãy tìm cách để sửa chiến xa của ta. Nếu ngươi thành công, ta làm mọi điều ngươi muốn. Nếu —“

      “Tôi biết,” Frank làu bàu. “Bạn tôi chết.”

      “Đúng vậy,” Trip hồ hởi . “Và ngươi trở thành chùm lúa miến đáng !”

      ————-

      Triptolemus chắc là trông như thế này



      Cưỡi con xe thế này :))



      Chương 20




      FRANK LẢO ĐẢO BƯỚC RA KHỎI CĂN NHÀ ĐEN. Cánh cửa sau lưng cậu đóng sầm lại, và cậu ngã dúi vào bức tường, mất tự chủ vì tội lỗi. May mắn thay bọn katoblepones rời khỏi, nếu cậu ngồi đó và bị chúng giằng xé rồi. Cậu thấy mình chẳng đáng với thứ tốt hơn. Cậu để lại Hazel ở trong, chết dần và thể tự vệ, với thương cảm của tên thần nông dân điên rồ.

      Giết lũ nông dân! Ares gào thét trong đầu cậu.

      Quay trở lại quân đoàn và giết lũ Hy lạp ! Mars Mi còn làm gì ở đây vậy?

      Giết lũ nông dân!Ares gào lại.

      “Im !” Frank hét lớn “Cả hai!”

      cặp bà lão với các túi đồ mua sắm lê bước qua. Họ nhìn Frank với ánh mắt lạ lùng, thầm cái gì đó bằng tiếng Ý và tiếp.

      Frank nhìn cách khổ sở vào thanh kiếm kỵ binh của Hazel, nằm dưới chân cậu ở kế bên túi xách. Cậu có thể quay trở lại tàu Argo II và tìm Leo. Có lẽ Leo có thể sửa được cái xe ngựa.

      Nhưng bằng cách nào đó Frank biết rằng đây phải là vấn đề của Leo. Đây chính là nhiệm vụ của cậu. Cậu phải tự chứng mình bản thân mình. Bên cạnh đó, cỗ xe ngựa phải chính xác bị hỏng. Nó hề có vấn đề với động cơ. Nó chỉ thiếu con rắn thôi.

      Frank có thể tự biến mình thành con mãng xà. Khi cậu tỉnh giấc vào sáng hôm đó dưới lốt con rắn khổng lồ, có lẽ nó dấu hiệu từ các vị thần. Cậu muốn phần đời còn lại của mình phải quay bánh cho cỗ xe ngựa của tên nông dân, nhưng nếu nó là để cứu Hazel…

      . Chắn chắn phải có cách khác.

      Rắn, Frank nghĩ. Mars.

      Liệu cha cậu có mối liên hệ nào tới loài rắn ? Con vật thiêng của Mars vốn là lợn rừng, phải rắn. Tuy nhiên, Frank chắc rằng mình từng nghe cái gì đó…

      Cậu chỉ nghĩ tới người duy nhất có thể hỏi. Bất đắc dĩ, cậu mở tâm trí mình tới những tiếng của thần chiến tranh.

      Tôi cần con rắn, cậu với họ Bằng cách nào?

      Ha, ha! Ares thét lên. Phải, con rắn.

      Giống như tên hèn hạ Cadmus đó, Mars . Chúng ta trừng phạt cho việc giết con rồng của chúng ta.

      Cả hai đồng thời bắt đầu làm ầm lên, cho tới khi Frank tưởng chừng trí óc cậu như muốn tách làm đôi.

      “Được rồi, dừng lại!”

      Những tiếng im bặt.

      “Cadmus[1],” cậu lẩm bẩm “Cadmus…”

      Cậu chuyện quay trở lại với cậu. Á thần Cadmus giết con rồng, chính là trong những đứa con của thần Ares. Làm thế nào mà Ares lại có đứa con là rồng, Frank cũng chẳng muốn biết, nhưng để trừng phạt cho cái chết của con rồng đó, Ares biến Cadmus thành con rắn.

      “Vậy ông có thể biến kẻ thù thành rắn,” Frank . “Đó là cái mà tôi cần. Tôi cần phải tìm đối thủ. Sau đó tôi cần ông biến thành con rắn.”

      Mi nghĩ ta làm việc đó cho mi sao? Ares rống lên. Mi vẫn chưa chứng minh mình xứng đáng.!

      Chỉ những hùng vĩ đại nhất mới có thể cầu ân huệ như thế, Mars . hùng giống như Romulus!

      Quá La Mã! Ares thét. Diomedes[2].

      bao giờ! Mars gào lại. Tên hèn nhát đó bắt chước Heracles!

      Horatius[3], vậy, Ares gợi ý.

      Mars yên lặng. Frank coi đó là đồng ý miễn cưỡng.

      “Horatius.” Frank . “Được rồi. Nếu đó là những gì cần làm, tôi chứng minh mình cũng giỏi như Horatius. Ừm… ta làm gì?”

      Đột nhiên những hình ảnh rót vào tâm trí của Frank. Cậu thấy chiến binh độc nhất đứng chiếc cầu đá, đối mặt cả đạo quân trải dọc cả bờ rộng lớn của sông Tiber.

      Frank nhớ lại về huyền thoại này. Horatius, tướng quân người La Mã, tay đẩy lùi được đám quân xâm lược, mình chắn ngang cây cầu ngăn cản lũ man rợ đấy băng qua sông Tiber. Bằng việc giúp đồng đội La Mã của mình có đủ thời gian để xây dựng hàng phòng thủ, ông cứu được Nền Cộng Hòa.

      Venice tràn lan lũ quái vật, Mars . Rome cũng sắp sửa như thế. Hãy dẹp sạch chúng !

      Tiêu diệt tất cả bọn chúng! Ares lên tiếng. Cho chúng thấy kiếm !

      Frank đẩy lùi giọng ra khỏi tâm trí cậu. Cậu nhìn xuống cánh tay mình và ngạc nhiên vì thấy chúng run lên.

      Lần đầu tiên trong những ngày qua, suy nghĩ của cậu thông suốt. Cậu biết chính xác mình cần làm những gì. Cậu biết làm thế nào để cậu vượt qua được. Xác suất chết là rất lớn, nhưng cậu phải thử. Mạng sống của Hazel phụ thuộc vào cậu.

      Cậu buộc thanh kiếm của Hazel vào thắt lưng, biến túi đeo thành cung tên và bao đựng, rồi chạy thẳng tới quảng trường nơi cậu đánh nhau với lũ quái vật bò.

      Kế hoạch có ba bước: nguy hiểm, cực kì nguy hiểm và nguy hiểm cách điên cuồng.

      Frank dừng lại ở cạnh giếng đá cũ. con katoblep nào trong tầm mắt. Cậu rút thanh gươm của Hazel ra và dùng nó để xới chỗ đất gạch dưới chân lên, đào lên mảnh rễ cây lớn. Những tua từ rễ cây bắt đầu xổ ra, tiết khói xanh bốc mùi ngay khi chúng vươn tới phía chân của Frank.

      Ở cách đó xa, tiếng rống như còi tàu từ con katoblep vang khắp gian. Những con khác cũng hòa vào từ các hướng khác nhau. Frank chắc bằng cách nào mà chúng biết được cậu thu hoạch đống thức ăn ưa thích của chúng – cũng có thể chúng có giác quan tuyệt vời về mùi vị.

      Giờ cậu phải di chuyển nhanh. Cậu cắt đứt bó rễ và buộc chúng vào móc dây thắt lưng, cố lờ ngứa ngáy và bỏng rát bắt đầu xuất nơi tay cậu. Chẳng mấy chốc cậu dây thòng lọng sáng lấp lánh, bốc mùi của loại cỏ độc này. Hoan hô.

      Những con katoblep đầu tiên lao vào trong quảng trường, rống lên những tiếng giận dữ. Những cặp mắt xanh sáng choang dưới bờm của chúng. Chiếc mõm dài của chúng thở ra những bụm khói gas, trông như thiết bị hơi nước bằng da thú.

      Frank rút mũi tên ra. Cậu bỗng cảm thấy ray rứt tội lỗi trong giây lát. Đây phải những con quái vật tệ nhất cậu từng chạm trán. Chúng chỉ đơn giản là những loài động vật ngẫu nhiên có độc mà thôi.

      Hazel chết dần vì chúng, cậu tự nhắc nhở bản thân.

      Cậu bắn mũi tên của mình. Con katoblep gần nhất đổ xụp xuống, hóa thành tro bụi. Cậu rút mũi tên thứ hai, nhưng đám còn lại gần như ở phía cậu. Thêm những con khác tiến vào quảng trường từ hướng ngược lại.

      Frank biến thành con sư tử. Cậu rống liên kiêu hãnh và nhảy vọt về phía cổng vòm, bay qua đầu của đàn quái vật thứ hai. Hai nhóm katoblep đâm sầm vào nhau, nhưng ngay lập tức hồi phục và đuổi theo sau cậu.

      Frank cũng chắc liệu đám rễ cây có còn bốc mùi khi cậu biến hình . Bình thường, quần áo và các vật dụng của cậu thường tan vào trong lớp da thú biến hình, nhưng hình như cậu vẫn có mùi như bữa tối ngon miệng tẩm độc vậy. Mỗi lần cậu vượt qua con katoblep, nó lại rống lên giận dữ và nhập vào phái đoàn GIẾT FRANK!

      Cậu chạy vào con phố lớn hơn và xuyên qua đám đông khách du lịch. Những gì người thường thấy, cậu biết được – có thể là con mèo bị đàn cho đuổi theo? Mọi người rủa Frank bằng khoảng đến mười hai thứ tiếng khác nhau. Những chiếc nón Gelato bay phấp phới. người phụ nữ đánh đổ cả giàn mặt nạ lễ hội. cậu nhóc ngã tùm xuống kênh đào cạnh đó.

      Khi Frank nhìn lại phía sau, cậu thấy có ít nhất hai tá quái vật bám đuôi mình, nhưng cậu cần nhiều hơn thế. Cậu cần tất cả bọn quái vật ở Venice, và cậu cũng cần lũ quái đằng sau mình nổi khùng lên.

      Cậu tìm được khoảng trống trong đám đông để biến lại thành người. Cậu rút cây trường kiếm spatha của Hazel ra – nó chưa bao giờ là vũ khí ưa thích của cậu, nhưng cậu cũng đủ to và đủ khỏe đẻ cây kiếm kỵ binh gây cản trở tới mình. Thực tế cậu thấy mừng vì mình có thêm tầm với. Cậu chém thanh kiếm vàng, tiêu diệt con katoblep đầu tiên, và để những con khác tập trung lại phía trước mình.

      Cậu cố tránh nhìn vào ánh mắt chúng, nhưng cậu vẫn cảm nhận được ánh nhìn nảy lửa của bọn quái vật. Cậu nhận ra rằng nếu tất cả đám quái vật này đều tập trung hơi thở của chúng cùng lúc, khói độc của chúng gộp lại cũng đủ để làm cậu tan chảy thành vũng nước. Đám quái vật từ từ tiến về phía trước và đâm vào nhau.

      Frank hét lên, “Chúng mày muốn đám rễ độc của tao? Đến và lấy chúng !”

      Cậu hóa thành chú cá heo và nhảy vào con kênh. Cậu hy vọng rằng lũ katoblep biết bơi. Ít nhất, chúng có vẻ chần chừ trong việc đuổi theo cậu, chẳng thể trách. Con kênh là kinh tởm – bốc mùi và mặn chát và cũng ấm như súp – nhưng Frank vẫn gồng mình băng qua nó, né các thuyền đáy bằng và các tàu thủy, cứ chốc lại dừng lại để rít bằng cá heo tới bọn quái vật đuổi theo cậu vệ đường. Khi cậu tới được cảng thuyền gần nhất, Frank biến trở lại thành người lần nữa, chém thêm vài con katoblep để giữ chúng tức giận và rồi tiếp tục chạy .

      Và mọi việc cứ tiếp diễn như thế.

      Sau lúc, Frank cảm thấy choáng vàng. Cậu thu hút được nhiều quái vật hơn, làm náo loạn nhiều đám đông khách du lịch hơn và dẫn cả đoàn quái vật katoblep theo sau xuyên qua các dãy phố quanh co của thành phố cổ. Mỗi khi cậu cần tẩu thoát nhanh, cậu lặn xuống con kênh dưới hình hài chú cá heo hay biến thành con đại bàng và vượt lên trước, nhưng cậu bao giờ chạy quá xa khỏi đám truy nã mình.

      Mỗi lúc cậu cảm giác như lũ quái vật mất hứng thú với mình, cậu lại dừng mái nhà và rút cây cung của mình ra, tiêu diệt vài con katoblep nữa ở giữa đám quái. Cậu vẫy đám rễ độc tay, chửi rủa hơi thở hôi thối của lũ quái, khơi dậy tức giận từ chúng. Và cậu lại tiếp tục cuộc đua.

      Cậu quay lại lối cũ. Lạc đường. lần cậu rẽ vào góc và chạy ngay sau đuôi của đám quái vật đuổi theo mình. Đáng lẽ cậu phải kiệt sức, nhưng bằng cách nào đó cậu vẫn tìm được sức mạnh để tiếp tục – tuyệt. Nhưng vẫn còn chưa tới phần khó nhất.

      Cậu để ý tới vài cây cầu, nhưng dường như chúng phù hợp. cái cao và hoàn toàn bị bao bọc, cách gì đưa lũ quái vật qua cái miệng phễu này được. cái khác quá đông khách du lịch. Thậm chí ngay cả khi lũ quái vật bỏ qua người phàm, hơi thở độc hại của chúng cũng tốt cho bất kỳ người nào. Đoàn quái vật càng lớn, càng nhiều người phàm bị đẩy sang bên, hất ngã xuống nước hoặc bị giẫm đạp.

      Cuối cùng Frank cũng tìm thấy nơi khả thi. Chỉ vừa ngay phía trước, vượt qua 1 quảng trường lớn, cây cầu gỗ bắc ngang qua con kênh rộng nhất. Bản thân chiếc cầu thiết kế theo kiểu cầu võm mắt cá, trông giống như chiếc tàu buôn ống kiểu cổ, dài khoảng năm mươi mét.

      Từ cao, trong dạng chim đại bàng, Frank nhìn thấy lũ quái vật nào ở phía xa nữa. Tất cả lũ katoblep ở Venice dường như đều nhập vào phái đoàn bên dưới và lao dọc qua các dãy phố phía dưới cậu làm cho các khách du lịch gào thét và chạy tán loạn, có thể họ nghĩ họ gặp phải cuộc rượt đuổi của đàn chó hoang.

      Cây cầu có dấu hiệu của người qua đường. Hoàn hảo.

      Frank rơi xuống như viên đá và trở lại hình dạng người. Cậu chạy tới giữa cây cầu – điểm thắt lại tự nhiên – và vứt mớ rễ cây độc làm mồi nhử xuống nền đất phía sau.

      Ngay khi đám katoblep đầu tiên vừa tới chân cầu, Frank rút cây spatha vàng cả Hazel ra.

      “Lại đây,” Frank hét lớn. “Bọn mày muốn biết sức mạnh của Frank thế nào ? Lại đây!”

      Cậu nhận ra rằng mình chỉ gào lên với lũ quái vật. Cậu còn trút hết toàn bộ sợ hãi, giận dữ và phẫn uất trong suốt tuần qua. Giọng của Mars và Ares gào lên cùng với cậu.

      Lũ quái vật xông tới. Tầm nhìn của Frank bỗng chuyển màu đỏ.

      Sau này, Frank cũng nhớ lắm về chi tiết. Cậu xẻ dọc lũ quái vật cho tới khi mắt cá chân cậu ngập sâu trong bụi vàng. Mỗi khi bị áp đảo hoặc đám khi gas khiến cậu ngẹt thở, cậu lại biến hình – thành con voi, con rồng hoặc chú sư tử – và mỗi lần biến hình dường như đều làm sạch phổi cậu giúp cậu có thêm nguồn năng lượng mới. Khả năng biến hình của cậu dần trở nên hoàn thiện hơn, cậu có thể bắt đầu tấn công trong dạng người và kết thúc trong hình hài sư tử, cào móng vuốt dọc mõm của con katoblep.

      Bọn quái vật tấn công bằng móng vuốt của chúng. Chúng thở ra khí độc và lườm thẳng vào Frank bằng cặp mắt chết chóc của chúng. Cậu có lẽ chết. Cũng có lẽ bị giẫm đạp. Nhưng bằng cách nào đó, cậu vẫn đứng vững chân mình, hề hấn và giải phóng cơn bão bạo lực.

      Cậu cảm thấy bất kỳ thoải mái nào trong việc này, nhưng cậu cũng hề do dự. Cậu chém ngang con quái vật và ngắt đầu con khác. Cậu biến thành con rồng và cắn con katoblep làm đôi, rồi lại hóa thân thành con vọi và giẫm chết ba tên cùng lúc. Tầm nhìn của cậu vẫn nhuốm đỏ, và cậu nhận ra mắt mình hề bị đánh lừa. Cậu phát sáng – bao quanh bởi ánh hào quang hồng.

      Cậu hiểu tại sao, nhưng nó giúp cậu chiến đấu cho tới khi chỉ còn lại duy nhất con quái vật.

      Frank đối diện với nó cùng thanh kiếm tay. Cậu thở ra hơi, ướt đẫm mồ hôi và người phủ đầy bụi quái vật, nhưng cậu vẫn hề hấn gì.

      Con quái gầm gừ. Chắc hẳn nó chẳng phải con quái vật thông minh nhất. Dù cho thực tế là vài trăm đồng loại của nó vừa bị tiêu diệt, nó vẫn lùi bước.

      “Mars!” Frank la lớn. “Tôi chứng minh bản thân. Giờ tôi cần con rắn!”

      Frank ngờ rằng chưa từng có ai hét lớn những lời này trước đây. Nó quả là lời đề nghị kì cục. Cậu chẳng nhận được hồi nào từ trời. Trong giây lát, những tiếng trong đầu cậu lặng yên.

      Con katoblep hết kiên nhẫn. Nó lao mình về phía Frank khiến cậu còn lựa chọn nào khác. Cậu chém thẳng về phía trước. Ngay khi thanh gươm của cậu chém trúng con quái vật, con katoblep bỗng biến mất trong ánh sáng đỏ chói lòa. Khi tầm nhìn của Frank trở lại, con mãng xà Miến Điện vằn nâu cuộn tròn dưới chân cậu.

      “Khá lắm,” giọng thân thuộc vang lên.

      Đứng cách đó vài feet là cha cậu, Mars, đội mũ bê rê đỏ và bộ đồ màu ô liu cùng với huy chương đề Lực Lượng Đặc Biệt Italia, khẩu súng trường đeo vai. Mặt ông trông khắc khổ và góc cạnh, mắt ông che khuất bởi cặp kính râm đen.

      “Cha,” Frank thốt lên.

      Cậu thể tin vào những gì mình vừa làm. Giờ nỗi khiếp sợ mới bám lấy cậu. Cậu cảm thấy thổn thức, nhưng cậu đoán đó phải ý hay khi ở trước mặt Mars.

      “Khiếp sợ là điều dễ hiểu.” Giọng của vị thần chiến tranh bỗng ấm áp cách lạ thường, đầy tự hào. “Mọi chiến binh vĩ đại đều sợ hãi. Chỉ những kẻ ngu ngốc hay ảo tưởng mới . Nhưng con đối diện với nó, con trai. Con làm việc mà con phải làm, như Horatius. Đây là cây cầu của con, con bảo vệ được nó.”

      “Con_” Frank biết gì. “Con… con chỉ cần con rắn.”

      nụ cười giãn ra miệng Mars. “Phải. Và giờ con có nó. dũng cảm của con hợp nhất hai dạng của ta, Hy Lạp và La Mã, dù trong chỉ giây lát. . Cứu bạn của con. Nhưng hãy nghe ta, Frank. Thử thách khó khăn nhất của con vẫn chưa tới. Khi con đối mặt với đạo quân của Gaia, kĩ năng lãnh đạo của con_”

      Bỗng nhiên vị thần gập đôi người lại, ôm lấy đầu. Hình dạng của ông chập chờn. Bộ quần áo của ông biến thành áo chùng dài, rồi thành bộ áo vét và quần jean xe. Súng trường của ông biến thành thanh kiếm rồi thành khẩu súng phóng tên lửa.

      “Tệ !” Mars rống lên. “! Nhanh lên!”

      Frank đặt câu hỏi. Dù kiệt sức, cậu vẫn biến thành con đại bàng khổng lồ, tóm lấy con mãng xà với móng vuốt khổng lồ của mình và phóng mình lên trời.

      Khi cậu ngoái nhìn lại, đám khói hình nấm thu phát nổ từ giữa cây cầu, khói bốc lên nghi ngút, và cả hai giọng – Mars và Ares – cùng gào lên, “Khôngggg!”.

      Frank biết chuyện gì xảy ra, nhưng cậu có thời gian để nghĩ về việc đó. Cậu bay qua thành phố – giờ hoàn toàn trống trơn khỏi bọn quái vật – và tiến về căn nhà của Triptolemus.

      “Ngươi tìm được con!” Lão thần nông kêu lên.

      Frank phớt lờ lão. Cậu lao vào trong La Casa Nera, kéo con mãng xà ra từ đuôi trông như cái túi ông già Noel kì lạ, và đặt nó kế bên giường.

      Cậu quỳ xuống bên cạnh Hazel.

      vẫn còn sống – xanh xao và run lên vì lạnh, thở khó nhọc nhưng vẫn còn sống. Về phần Nico, cậu vẫn là cây ngô.

      “Chữa cho họ,” Frank . “Ngay.”

      Triptolemus khoanh tay. “Làm sao ta biết con rắn này có hoạt động hay ?”

      Frank nghiến răng. Kể từ vụ nổ ở cầu, giọng của thần chiến tranh dường như im bặt trong đầu cậu, nhưng cậu dường như vẫn cảm thấy cơn giận của cả hai vẫn ỉ trong cậu. Cậu cũng cảm thấy cơ thể mình thay đổi, có phải Triptolemus lùn ?


      “Con rắn là món quà từ Mars,” Frank gầm gừ. “Nó hoạt động.”

      Như thể nhận ám hiệu, con mãng xà Miến điện trườn tới cỗ xe và cuốn mình quanh chiếc bánh bên phải. Con rắn còn lại tỉnh giấc. Hai con mãng xà kiểm tra lẫn nhau, chạm mũi và quay bánh xe của chúng cùng lúc. Cỗ xe tiến về phía trước, cánh của nó bắt đầu hoạt động.

      “Ngươi thấy chưa?” Frank . “Giờ, chữa cho bạn ta mau!”

      Triptolemus gõ vào cằm cậu. “Ồ, cảm ơn vì con rắn, nhưng ta chắc là ta thích giọng của ngươi, nhóc Á Thần. Có lẽ ta biến ngươi thành _”

      Frank vẫn nhanh hơn. Cậu xô về phía Trip và hất lão vào tường, ngón tay cậu khóa chặt cổ lão.

      “Nghĩ kĩ về những từ tiếp theo ,” Frank cảnh báo, bình tĩnh chết người. “Hoặc, thay vì đập thanh kiếm của ta vào cái lưỡi cày, ta đập nó vào đầu ngươi.”

      Triptolemus nuốt nước bọt. “Ta nghĩ… ta nghĩ ta chữa cho bạn mi.”

      “Hãy thề sông Styx .”

      “Ta thề sông Styx.”

      Frank thả lão ra. Triptolemus đưa tay lên cổ như thể để kiểm tra xem nó còn ở đó. Lão liếc Frank với nụ cười lo ngại, vòng qua cậu và chạy lon ton về phòng trước. “Chỉ…chỉ thu thập thảo mộc!”

      Frank xem lão nhặt lá và rễ cây rồi nghiền chúng thành hình. Lão vo thành viên thuốc xanh kích cỡ hòn bi rồi về phía Hazel. Lão đặt viên thuốc dưới lưỡi Hazel.

      Ngay lập tức, rùng mình và bật dậy, ho. Mắt mở rộng. Màu xanh xám da dần biến mất.

      liếc mắt nhìn xung quanh, lúng túng, cho tới khi nhìn thấy Frank. “Cái gì_?”

      Frank lao tới ôm chặt lấy . “Cậu ổn rồi.” Frank cách chắc chắn. “Mọi chuyện đều ổn rồi.”

      “Nhưng…” Hazel túm lấy vai cậu và nhìn cậu cách đầy ngạc nhiên. “Frank, có chuyện gì xảy ra với cậu vậy?”

      “Mình ư?” Cậu đứng dậy, bỗng nhiên tự nhận ra. “Mình …”

      Cậu nhìn xuống và chợt hiểu ra ý . Triptolemus lùn . Frank cao hơn. Bụng cậu co lại. Ngực cậu vạm vỡ hơn.

      Frank trưởng thành vượt hẳn lên so với trước. Có lần cậu tỉnh dậy và thấy mình cao hơn hai centimet so với lúc ngủ. Nhưng lần này điên rồ. Nó trông như thể con rồng hay sư tử ở lại trong cậu khi cậu hoàn hình người vậy.

      “Ờ… mình … Có lẽ mình có thể sửa lại việc này.”

      Hazel cười cách thích thú. “Tại sao? Cậu trông tuyệt!”

      “Mình á?”

      “Ý mình là, trước đây cậu cũng đẹp trai rồi! Nhưng giờ cậu trông già dặn hơn, cao lớn hơn và trông nổi bật_”

      Triptolemus thở dài cách bi thảm. “Phải rồi, chắc có lẽ lại là chúc phúc từ Mars. Chúc mừng blah blah. Giờ, nếu chúng ta xong việc ở đây…?”

      Frank lườm lão. “Chúng ta chưa xong đâu. Còn Nico?”

      Lão thần nông đảo tròn mắt. Lão chỉ tay về phía cây ngô và BÙM! Nico di Angelo xuất sau vụ nổ đầy bụi ngô.

      Nico nhìn quanh với vẻ hoảng hốt. “Em – em có cơn ác mộng về bỏng ngô.” Cậu chết đứng khi thấy Frank. “Sao lại cao lên vậy?”

      “Mọi chuyện ổn rồi,” Frank hứa. “Triptolemus chuẩn bị cho chúng ta biết cách để sống sót tại Ngôi Nhà thần Hades. Đúng , Trip?”

      Lão thần nông ngước mắt nhìn trần nhà như thể, Tại sao lại là tôi, hỡi thần Demeter?

      “Tốt thôi,” Trip lên tiếng. “Khi các ngươi tới Epirus, các ngươi được đề nghị uống ly nước.”

      “Đề nghị từ ai?” Nico hỏi.

      quan trọng,” Trip nạt. “Chỉ biết rằng nó chứa đầy chất độc chết người.”

      Hazel rùng mình. “Nên ngươi muốn bọn ta nên uống đúng ?”

      !” Trip “Các ngươi phải uống nó, hoặc các ngươi bao giờ có thể vượt qua điện thờ. Chất độc kết nối các ngươi tới thế giới người chết, cho phép các ngươi xuống các tầng thấp hơn. Bí mật của việc sống còn ở đây là_” mắt lão hấp háy “_lúa mạch.”

      Frank nhìn lão. “Lúa mạch?”

      “Ở phòng trước, hãy lấy ít lúa mạch đặc biệt của ta. Dùng nó để làm ít bánh. Hãy ăn nó trước khi bước chân vào Ngôi nhà thần Hades. Lúa mạch hấp thụ phần tệ nhất của chất độc, và nó tác động đến các ngươi, nhưng thể giết được ngươi.”

      “Ra thế?” Nico hỏi. “Hecate dẫn chúng ta nửa đường tới Ý chỉ để ngươi cho chúng ta biết là phải ăn lúa mạch?”

      “Chúc may mắn!” Triptolemus dọc căn phòng và trèo lên cỗ xe ngựa của lão. “Và, Frank Zhang, ta tha thứ cho ngươi! Ngươi quả là gan dạ. Bất cứ khi nào ngươi thay đổi ý định, lời chào mời của ta vẫn để ngỏ. Ta rất mong đợi nếu ngươi có bằng làm nông đấy!”

      “Được!” Frank lẩm bẩm. “Cảm ơn ông.”

      Lão kéo cần gạt cỗ xe ngựa. Bánh xe rắn lăn bánh. Cánh của cỗ xe bắt đầu quạt. Ở đằng sau phòng, cửa ga-ra kéo lên.

      “Ôi, được hoạt động trở lại!” Trip nức nở. “Có quá nhiều mảnh đất ngu dốt cần tới thông thái của ta. Ta dạy cho chúng biết ánh hào quang từ việc cầy bừa, tưới tiêu và màu mỡ!” Cỗ xe cất cánh và lao ra khỏi căn nhà, giọng Triptolemus vang lên khắp bầu trời, “ nào, các con rắn của ta! nào!”

      “Điều đó,” Hazel , “ là kì lạ.”

      “Ánh hào quang từ màu mỡ.” Nico phủi ít bụi ngô vai cậu. “Giờ chúng ta ra khỏi đây được chưa?”

      Hazel đặt tay lên vai Frank. “Cậu sao, chứ? Cậu đánh đổi lấy sinh mạng của bọn mình. Triptolemus bắt cậu làm gì?”

      Frank cố giữ cảm xúc lại. Cậu tự trách bản thân vì quá mềm yếu. Cậu có thể đối mặt với cả đạo quân, nhưng ngay khi Hazel đối với cậu ân cần cậu chỉ muốn gục xuống và khóc. “Những con quái vật bò… bọn katoblep đầu độc cậu… mình phải tiêu diệt bọn chúng.”

      “Điều đó dũng cảm.” Nico “Chắc hẳn phải còn, xem nào, sáu hay bảy con còn lại trong đám đó.”

      ” Frank hắng giọng “Tất cả bọn chúng. giết tất cả bọn chúng trong thành phố này.”

      Nico và Hazel nhìn cậu chết lặng. Frank ngờ rằng họ nghi ngờ cậu, hoặc bắt đầu cười. Cậu giết được bao nhiêu con quái vật chiếc cầu đó – hai trăm? Ba trăm?

      Nhưng cậu nhìn thấy trong mắt họ rằng họ tin cậu. Họ đều là những đứa con của Thế giới . Có lẽ họ có thể cảm nhận được chết chóc và tàn sát mà cậu tỏa ra.

      Hazel hôn lên má cậu. Giờ phải kiễng chân mới có thể làm thế. Mắt trông buồn, như thể nhận thấy điều gì đó thay đổi trong Frank – điều gì đó còn quan trọng hơn cả việc cơ thể cậu thay đổi.

      Frank cũng biết điều đó. Cậu bao giờ còn như trước. Cậu chỉ chắc liệu đó có phải điều tốt.

      “Được rồi,” Nico lên tiếng, phá vỡ im lặng, “có ai biết lúa mạch trông thế nào ?”

      ————–

      [1] Cadmus: người hùng sáng lập nên thành Thebes bảy cổng hùng vĩ, hoàng tử Phoenica, người mang bảng chứ cái alphabet của xứ Phoenica đến Hy Lạp.

      Chuyện kể rằng, có lần, thần Zeus say mê công chúa Europa thành Tyre xứ Phoenica con vua Agenor(người vốn là con trai của thần Poseidon với Nereid Lybia). hôm công chúa vui đùa cùng các nữ tì bờ biển, thần Zeus liền biến thành con bò mộng trắng cường tráng đáng để ngụy trang, vui đùa cùng các . nhân lúc nàng Europa đùa nghịch, trèo lên lưng bò ngồi chơi, thần liền…phóng luôn ra biển. Với ‘giúp sức’ của bestbro a.k.a wingman (tự tra gu gồ nhá) Poseidon dùng cỗ xe hải mã trước mở đường cùng đoàn tùy tùng của thủy cung trống giong cờ mở hộ tống, Zeus bơi thẳng từ xứ Phoenica đến đảo Crete cùng người đẹp mà ướt sợi lông. Ở đây hai người ái ân, rồi sinh ra ba người con là Minos, Rhadamanthus và Sarpendon. Họ lập nên đô thành Crete hùng cường đứng vững suốt mấy trăm năm, và từ đó, người Phoenice gọi vùng đất phía tây Hy Lạp là ‘xứ Europe’ mà ngày nay ta gọi là ‘Châu Âu’

      Còn ở thành Tyre, vua Agenor điên cuồng vì mất con , liền sai bốn người con trai là Cadmus, Cilix, Thasus và Phoenix tìm em về với 1 điều kiện rất khắt khe: tìm được em cấm thằng nào được về nhà. Đương nhiên là cả 4 em chẳng ai tìm được em cả, nên mỗi người phải lập nghiệp ở vùng đất xa xôi, và đều xây nên những đô thành hùng cường: Cilix lập nên đô thành Cilicia ở Tiểu Á (nay ở Syria), Thasus lập nên đô thành Thasos ở đảo Thasos, Hy Lạp; Phoenix lập xứ Lybia, còn Cadmus lập nên đô thành Thebes bảy cổng hùng vĩ.

      Lại về Cadmus, sau những chuyến bôn ba tìm em kết quả, chàng đến đền Delphi xin manh mối để tìm em , lại nhận được lời sấm truyền ‘vô cùng liên quan đến câu hỏi’ từ đồng: hãy tiếp tục tiếp hành trình cho đến khi gặp con bò cái trắng như tuyết, theo nó cho đến khi nó nằm xuống và hãy lập vương quốc ở đấy.

      Cadmus nghe vậy đành tiếp tục lên đường cùng các gia nhân trung thành tiếp. ngày, đúng như lời đồng phán, chàng gặp được con bò cái trắng như tuyết gặm cỏ giữa cánh đồng hoang. Thấy người lạ, con bò thôi gặm cỏ mà lững thững bỏ . Cadmos và các gia nhân theo nó. Đến vùng đồng bằng châu thổ sông Kephis, con bò dừng lại, đưa mắt nhìn Cadmus và những ra nhân, ngửa đầu lên trời rống to tiếng rồi nằm xuống, nữa. Biết rằng lời sấm ứng nghiệm, chuyến của mình kết thúc, Cadmus quỳ xuống tạ ơn trời đất và chư thần, rồi lấy đá xếp thành bàn thờ tạ ơn thần linh. Việc đầu tiên là phải có nước, thế là Cadmus sai toán gia nhân tìm nước. Nhưng nguồn nước duy nhất gần đấy lại được canh bởi con mãng xà khổng lồ, là con trai thần Ares có cái mào đỏ chót có những cái vảy cứng như đồng và hơi thở chết người. Từng toán gia nhân được cử ai trở về, Cadmus đành đích thân tìm. Cuối cùng, chàng đến được chỗ con mãng xà ăn thịt những người gia nhân của mình. Đau xót, chàng thét tiếng long trờ và xông vào đấu với con mãng xà. Sau trân chiến long trời lở đất, chàng giết được con quái vật. Và nữ thần Athena ra, khiên giáp sáng ngời, ngợi khen chàng, giục chàng hãy nhổ hết răng của con mãng xà, gieo xuống mảnh đất được cày bừa.

      Chàng y lời làm theo, từ mỗi cái răng, mọc lên chiến binh với đầy đủ khiên giáp. Những chiến binh này xông vào tàn sát nhau dữ dội cho đến khi chỉ còn lại bảy người mạnh nhất mà ai đánh bại được ai nữa. Họ cùng Cadmus kết nghĩa em, lập nên đô thành Cadmeia, mà sau này được đổi tên thành Thebes.

      Nhưng số mệnh của Cadmus được viên mãn: Các con của ông lần lượt chết thảm thương: nàng Cemele, mẹ thần Dionysos bị chết vì nhìn thấy bản thể của thần Zeus; nàng Inos bị thần Hera mượn tay người chồng hóa điên giết chết cả nhà vì can tội dám cưu mang cậu bé Dionysos; nàng Avages do thù ghét thần Dionysos nên bị thần làm cho điên loạn, tự tay giết cả gia đình mình; người cháu duy nhất còn lại, Arteon can tội nhìn trộm nữ thần Artermis tắm nên bị biến thành hươu rồi bị chính đàn chó của mình xé xác. Đau buồn, hai vợ chồng vua Cadmus bỏ đô thành lang thang. Đến ngày tuổi già sức yếu, lưu lạc đến xứ Illyrie (nay thuộc Ý) ông lão Cadmus ngồi hồi tưởng lại các chiến công hồi trai trẻ. Chợt nhớ đến con rắn mình giết chết, ông lão đau buồn thốt lên: ‘Con rắn ta giết liệu có phải con vị thần đỉnh Olympus? Nếu vì vậy mà các vị cho ta số phận cay đắng đến thế này chi bằng hãy biến ta thành rắn!’ Bỗng, thần Ares ra, khiên giáp sáng ngời, chỉ mũi giáo và ông, và ông thấy thân mình dài ra, hai tay ngắn lại, hai chân chập lại thành đuôi, quần áo biến thành vảy, lưỡi chẻ làm đôi. Ông biến thành con rắn.

      [2] Diomedes: vua xứ Argos và đô thành Tyrent người hùng Hy Lạp trong chiến tranh với thành Troie, người được cho là con trai nữ thần Athena, và được thần .

      Các chiến công của Diomedes:

      -Đánh bị thương Aeneas(người trô sang sang Ý mở đầu cho Rome), và khi nữ thần Aphrodite xuống cứu con trai quẩy luôn cả nữ thần.

      -Thần Ares thấy người tình bị thương nhảy xuống cứu bị Diomedes, với giúp sức của thần Athena (lúc này đội mũ tàng hình nên đến cả Ares cũng nhìn thấy) đâm cho thủng bụng. Thần Ares đau quá, hét lên tiếng ’như chín mười van người hét cùng lúc’ rồi bay về đỉnh Olympus. Tại đây, thần còn bị thần Zeus mắng cho trận vì tội dám xuống trần đánh nhau cho dù bị cấm(trước đấy Ares thua cá cược với Athena nên được xuống trần đánh trận này) và mắng thêm trận nữa vì tội ngu, thần mà bị người thường đâm cho bị thương.

      -Cùng Odyseus vào do thám thành Troie, qua đó biết thông tin về quân Thrace đến tiếp viện cho thành Troie. Với thông tin ấy, chàng và Odyseus lẻn vào doanh trại quân Thrace khi họ nghỉ chân ban đêm, đánh thuốc mê toàn quân rồi giết sạch, nhân tiện cướp sạch đàn ngựa chiến nổi danh của người Thrace về cho quân Hy Lạp .

      -Cùng Odyseuss trộm bức tượng Palladium của thành Troie, dẫn tới kiện người Hy Lạp tặng ‘con ngựa Tronjan’ để gảng hòa

      -Ngoài ra, chàng còn cùng Odyseuss chỉ huy nhiều trận đánh, bày ra nhiều kế sách, giúp người Hy Lạp đến thắng lợi cuối cùng (có vẻ ông này và Odyseuss là Best-broes-ever đấy nhỉ:))

      Cuối cùng chàng bị thần Aphrodite trả thù, khiến cho vợ chàng ở nhà trở nên vô cùng thèm khát tình , ngoại tình với vô số chàng trai. Về nhà, chàng thấy vậy mà biết làm sao, chán nản, đành bỏ xứ mà . Chàng phiêu bạt đến miền nam nước Ý, cưới con vua Daunus, lập nên nhiều đô thành. Cuối cùng, vì mưu kế của nữ thần Aphrodite, chàng bị chính vợ mình giết chết. (Bài học rút ra: đừng có gây chuyện với nữ thần Aphrodite, bà có thể mạnh trong chiến trận, nhưng mà thù rất dai và trả thù rất ác, nhưng kém phần lãng mạn)

      -Dũng tướng Diomedes hay bị nhầm với vua Diomedes, con trai thần Ares, người sở hữu đàn ngựa phun lửa ăn thịt người – người bị Heracles chùy tẩn chết khi lập chiến công ‘cướp bầy ngựa của Diomedes’

      [3]Publius Horatius Cocles: người hùng mình đẩy lùi quân Clusium trong hoàn cảnh cánh quân La Mã chính trúng kế ‘điệu hổ ly sơn’, bị lừa khỏi Rome. (Ảnh đầu bài: Horatius Cocles defending the Bridge, của Charles de Brun)

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825
      Chương 21: Annabeth




      ANNABETH CHẮC CHẮN RẰNG BỌN QUÁI VẬT phải là thứ giết chết . Cả khí nhiễm độc, hay địa hình đầy hiểm trở với hố dung nham, vách đá và đá nhọn lởm chởm khắp nơi.

      . Có vẻ như chết vì đợi quá tải của kì quặc làm não nổ banh ta lông.

      Đầu tiên, và Percy phải uống lửa để duy trì sống. Xong rồi họ lại bị tấn công bởi bầy nữ ma cà rồng, đứng đầu bởi hoạt náo viên mà Annabeth giết từ hai năm trước. Cuối cùng, họ được giải cứu bởi bác lao công Titan tên là Bob có tóc như Anhxtanh, mắt màu bạc và kĩ năng dùng chổi quỷ khốc thần sầu.

      Chuẩn. Tại sao lại phải nhỉ?

      Họ theo Bob qua vùng đất hoang, lần theo dòng Phlegethon chảy về miền tối tăm. Thỉnh thoảng họ lại phải dừng lại để uống chút nước-lửa, thứ giúp họ sống đến bây giờ, nhưng Annabeth chẳng vui vẻ gì về điều đó. Giống việc súc họng liên tục bằng axit trong bình ắc quy vậy.

      Niềm an ủi duy nhất của là Percy. Thỉnh thoảng cậu lại nhìn qua và mỉm cười, hoặc siết tay . Chắc hẳn cậu cũng sợ hãi và khốn khổ như vậy, và lại thêm cậu vì cố làm cho cảm thấy khá hơn.

      ‘Bob biết việc ông ta làm mà,’ Percy hứa.

      ‘Cậu có những người bạn thú vị đấy,’ Annabeth thầm trả lời.

      ‘Bob thú vị mà!’ vị thần Titan quay lại cười toe toét. ‘Đúng vậy đấy, cám ơn!’

      chàng to lớn này rất thính tai. Đúng ra Annabeth nên nhớ điều này.

      ‘À, Bob …’ cố cách bình thường và thân thiện, điều mà rất khó khi cổ họng bạn khô cháy bởi nước-lửa. ‘Làm sao mà ông đến được Tartarus?’

      tôi nhảy xuống,’ ông ta , như thể đó là điều hiển nhiên.

      ‘Ông nhảy xuống tận Tartarus,’ hỏi, ‘vì nghe thấy Percy gọi tên?’

      ‘Cậu ấy cần tôi.’ Đôi mắt bạc lấp lánh trong bóng tối. ‘Thường ấy mà. Tôi chán quét cung điện rồi. Theo tôi nào! Chúng ta gần đến chỗ nghỉ chân rồi.’

      Chỗ nghỉ chân.

      Annabeth thể tưởng tượng ra mấy từ đó dùng để chỉ cái gì dưới Tartarus này. vẫn nhớ tất cả các lần , Luke và Thalia trú lại chỗ nghỉ chân đường cao tốc lúc họ còn là các á thần lang thang cố gắng sống sót.

      Bất kể chỗ nào Bob định đưa họ tới, hy vọng là ở đó có nhà vẹ sinh sạch máy bán đồ ăn tự động. phải kiềm chế để bật cười khúc khích. Đúng vậy, mất trí cmnr.

      Annabeth khập khiễng theo, cố lờ tiếng òng ọc phát ra từ dạ dày . nhìn chăm chăm vào lưng Bob trong lúc ông ta dẫn họ đến bức tường tối đen, bây giờ chỉ còn cách họ vài trăm mét. Cái quần yếm lao công của ông ta bị toạc chỗ ở bả vai, như thể có ai đó cố đâm ông ta. Khăn lau lòi ra từ túi quần. bình xịt đung đưa thắt lưng, dung dịch xanh bên trong sóng sánh như thôi miên.

      Annabeth vẫn nhớ câu chuyện của Percy về cuộc chạm trán với vị thần Titan này. Thalia Grace, Nico di Angelo và Percy cùng nhau đánh bại Bob bờ sông Lethe. Sau khi xóa sạch trí nhớ của ông ta, họ đủ nhẫn tâm để xuống tay. Ông ta trở nên quá hiền lành, tốt bụng và hợp tác nên họ để lại ông ta ở cung điện Hades, nơi Persephone hứa là chăm sóc ông ta.

      Nhưng rốt cục, chúa tể và nữ hoàng của phủ nghĩ ‘chăm sóc’ ai đấy có nghĩa là đưa cho người đấy cái chổi và sai người đấy quét cái đống bừa bộn của họ. Annabeth thắc mắc làm sao mà đến cả Hades cũng có thể nhẫn tâm được như thế. chưa bao giờ cảm thấy động lòng trước vị thần Titan nào từ tước đến nay, nhưng việc bắt vị thần mất trí nhớ và biến ông ta thành lao công công đúng là quá sai trái.

      Lão ta phải là bạn của họ, tự nhắc nhở.

      vẫn sợ rằng Bob có thể tự dưng nhớ lại mọi chuyện. Tartarus là nơi quái vật đến để tái tạo. Nếu mà nơi này có thể trả lại trí nhớ cho ta sao? Nếu trở lại thành Iapetus … ừ , Annabeth thấy ta xử lí đám empousai. Annabeth còn có vũ khí. và Percy chẳng có cơ may nào trong việc đấu với Titan trong điều kiện như thế này.

      lo lắng liếc qua cán chổi của Bob, tự hỏi được bao lâu cái mũi giáo kia bật ra và chĩa vào .

      theo Bob qua miền Tartarus này là mạo hiểm điên rồ. Nhưng may, chẳng nghĩ ra kế hoạch nào hay hơn cả.

      Họ chọn con đường xuyên vùng hoang mạc đầy tro bụi đúng lúc có tia chớp đỏ lóe lên đầu, xuyên qua những đám mây độc. Lại ngày đẹp trời ở miền địa ngục. Annabeth thể nhìn xa trong cái khí đục ngầu này, nhưng họ càng xa có vẻ như địa hình càng dốc xuống.

      nghe những miêu tả rất mâu thuẫn về Tartarus. cái hố đáy. Đó là nhà ngục được bao quanh bởi những bưc tường đồng. Nó chẳng là cái gì cả, mà chỉ là khoảng vô tận.

      miêu tả rằng đó là đảo ngược của bầu trời – mái vòm đá rỗng khổng lồ. Miêu tả đó có vẻ chính xác nhất, cho dù nếu Tartarus thực mái vòm, Annabeth đoán nó giống như kiểu bầu trời – có đáy thực mà chỉ có nhiều lớp, cái sau tối hơn và kém hiếu khách hơn cái trước.

      Và thậm chí đó vẫn chưa phải là, khủng khiếp đầy đủ….

      Họ qua chỗ phồng mặt đất – cái bong bóng mờ nhạt, quằn quại cỡ chiếc xe tải mini. Uốn khúc bên trong là cơ thể được tái tạo nửa của con drakon. Bob xé toạc cái bong bóng đấy ra, cái chớp mắt. Cái bong bóng vỡ ra tung tóe chất lỏng nhầy nhầy màu vàng, và con drakon tan vào thinh .

      Bob tiếp.

      Những con quái vật nổi lên như những cái mụn làn da của Tartarus, Annabeth nghĩ. rùng mình. Thỉnh thoảng ước là mình trí tưởng tượng tốt đến vậy, bởi vì bây giờ chắc chắn rằng họ thứ gì đấy sống. Toàn bộ cái vùng đất méo mó này – cái vòm, cái hố hay bất kể bạn gọi là cái gì – là cơ thể của vị thần Tartarus – thế lực độc ác cổ xưa nhất. Như kiển, Gaia là mặt đất, còn Tartarus là địa ngục.

      Nếu vị thần đấy mà chú ý đến họ da của ông ta, giống như con bọ chét da con chó… Đủ rồi! nghĩ nữa.

      ‘Đây rồi,’ Bob lên tiếng.

      Họ dừng ở gờ đá. Dưới chân họ, là cái hố tròn như cái hố mặt trăng, đứng sừng sững vòng những cột đá hoa cương vòng quanh cái bàn thờ đá tối đen.’

      ‘Đền thờ thần Hermes.’ Bob giải thích.

      Percy cau mày. ‘Có đền thờ Hermes ở Tartarus?’

      Bob cười vui vẻ: ‘Đúng. Rơi từ đâu đấy xuống từ lâu lắm rồi. Chắc là từ trần gian. Hay đỉnh Olympus. Dù sao, quái vật cũng dám bén mảng tới đây. Hầu hết quái vật.’

      ‘Làm sao ông biết về đền thờ này?’ Annabeth hỏi.

      Nụ cười của Bob lạt . Mắt trống rỗng. ‘Chẳng nhớ nữa.’

      sao đâu.’ Percy nhanh.

      Annabeth cảm thấy như con đần độn. Trước khi trở thành Bob, là thần Titan Iapetus. Giống như các em khác của mình, bị cầm tù dưới Tartarus hàng thiên niên kỉ nay rồi. Đương nhiên là biết khu này. Nếu mà nhớ lại được về ngôi đền này, có thể bắt đầu nhớ lại các chi tiết về quãng đời nằm nhà đá và cuộc đời trước đây của mình. Mà điều đấy quả hay.

      Họ trèo xuống và vào ngôi đền. Annabeth ngã quỵ bậc thềm hoa cương, kiệt sức bước nổi nữa. Percy lại gần bọc lấy , quét mắt vòng xung quanh. Làn sương mù tối đen như mực cách họ chưa đầy ba chục mét, bao phủ hoàn toàn những gì phía trước họ. Mép hố chắn tầm nhìn của họ đến vùng hoang mạc đảng sau. Đây là chỗ trốn rất tốt, nhưng nếu quái vật mà lảng vảng chung quanh, họ chẳng có cách gì đề phòng.

      ‘Ông là có người đuổi theo chúng ta,’ Annabeth hỏi. ‘Là ai vậy?’

      Bob quét qua quét lại phần bệ của cái bàn thờ, thỉnh thoảng gập hẳn người xuống nhì chăm chăm vào sàn nhà như kiểu tìm cái gì đấy. ‘Chúng theo, tất nhiên. Chúng biết các hai người ở đây. Bọn người khổng lồ Gigantos và Titan. Những kẻ bị đánh bại. Chúng biết.’

      Những kẻ bị đánh bại…

      Annabeth cố gắng kiềm chế nỗi sợ. Có bao nhiêu Titan và Gigant mà và Percy đánh qua trong những năm qua? Từng người trong bọn chúng thôi là những thử thách bất khả thi rồi. Nếu mà tất cả bọn chúng đều ở dưới Tartarus này, và nếu bọn chúng đều hào hứng tham gia vào cuộc săn Percy và Annabeth …

      ‘Thế vì sao chúng ta lại dừng lại?’ hỏi. ‘Chúng ta nên tiếp tục chứ.’

      ‘Sớm thôi,’ Bob . ‘nhưng con người phải nghỉ ngơi. Chõ này tốt. Tốt nhất trong khoảng…à, rất, rất xa. Tôi gác cho các bạn.’

      Annabeth liếc qua Percy, gửi cho cậu mọt thông điệp lời: . Lang thang với thần Titan đủ nguy hiểm rồi. Ngủ với Titan gác…chẳng cần là con của Athena cũng có thể nhận ra đấy là điều trăm phần trăm khôn ngoan.

      ‘Cậu ngủ ,’ Percy với . ‘Mình gác ca đầu cùng Bob.’

      Bob ừm ừm đồng ý. ‘Đúng. Hay đấy. Khi dậy, ở đây có đồ ăn!’

      Dạ dày của Annabeth làm quả nhào lộn khi nghe đến đồ ăn. thể hiểu làm thế nào Bob có thể triệu hồi dược thức ăn giữa chốn Tartarus này. Có khi Bob là lao công kiêm người phát đồ ăn.

      muốn ngủ, nhưng cơ thể phản bội tức . Mí mắt nặng như đổ chì. ‘Percy, đánh thức mình dậy gác ca hai nhá. Đừng có làm hùng.’

      Cậu cười cách ngớ ngẩn mà vô cùng. ‘Ai cơ, mình á?’

      Cậu hôn , môi cậu khô nẻ và nóng như lên cơn sốt. ‘Ngủ .’

      Annabeth cảm thấy giống như các lần vào cabin nhà Hypnos ở Trại Con Lai, buồn ngủ thể chịu nổi. cuộn tròn nền đất cứng và nhắm mắt lại

      Chương 22


      Sau lúc, đưa ra quyết định: ĐỪNG BAO GIỜ ngủ ở Tartarus.

      Các Á thần luôn có những giấc mơ tồi tệ. Ngay cả khi an toàn giường mình ở trại, vẫn có những cơn ác mộng khủng khiếp. Ở Tartarus, nó còn kinh khủng hơn gấp ngàn lần.

      Đầu tiên, thấy mình trở lại là bé, cố gắng trèo lên Đồi Con Lai. Luke Castellan nắm tay , kéo theo. Thần rừng của họ, Grover Underwood nhảy dựng lên ở đỉnh cách lo lắng, hò hét, “Nhanh lên! Nhanh lên!”.

      Thalia Grace đứng bên dưới họ, cầm chân đám chó săn địa ngục bằng cái khiên khủng khiếp của , Aegis.

      Từ đỉnh đồi, Annabeth có thể nhìn thấy trại ở thung lũng bên dưới – ánh sáng ấm áp từ các cabin, có khả năng là nơi trú . sẩy chân, trật mắt cá, và Luke đỡ dậy để . Khi họ nhìn lại, đám quái vật chỉ còn cách đó vài dặm – háng tá vây lấy Thalia.

      !” Thalia hét lên. “Mình giữ chân chúng.”

      vung cây giáo của mình, và phóng lưỡi tầm sét về phía đám quái vật, nhưng khi con này ngã xuống ngay lập tức nhiều hơn thế chỗ.

      “Chúng ta phải chạy thôi!” Grover khóc thét.

      Cậu dẫn đường thẳng tới trại. Luke theo sau, cùng với Annabeth khóc lóc, tự đấm vào ngực mình và gào lên rằng họ thể để Thalia ở lại mình. Nhưng quá muộn.

      Cảnh bỗng thay đổi.

      Annabeth lớn hơn, trèo lên đỉnh Đồi Con Lai. Nơi Thalia ngã xuống, cây thông lớn mọc lên. Phía cơn bão hoành hành.

      Sấm chớp nổi khắp thung lũng. tia sét phóng tới cắt đôi cái cây tới tận rễ, mở ra khe nứt bốc khói. Từ bên dưới bóng tối Reyna đứng đó, pháp quan của New Rome. Áo choàng nhuộm màu đỏ tươi của máu. Áo giáp vàng của lóe sáng. ngước nhìn lên, ánh nhìn đầy xa xăm và quyền lực, và lời của rót thẳng vào tâm trí của Annabeth.

      Ngươi làm tốt, Reyna , nhưng bằng giọng của Athena. Phần còn lại chuyến hành trình của ta phải nằm đôi cánh của Rome.

      Cặp mắt đen của vị pháp quan chuyển dần thành màu xám của mây bão.

      Ta phải đứng đây, Reyna với . Người La Mã phải đem ta tới.

      Ngon đồi rung lên. Mặt đất xé toạc ra khi cỏ hóa thành chất liệu như lụa – chiếc váy của nữ thần khổng lồ. Gaia bừng tỉnh phía Trại Con Lai – khuôn mặt ngủ của bà ta to ngang ngọn núi.

      Chó săn địa ngục tràn khắp các ngọn đồi. Những tên khổng lồ, Những tên quái vật đất sáu tay và những Cyclop hoang dã lao lên từ bờ biển, phá sập cả lều ăn, đốt cháy các cabin và Nhà Lớn.

      Nhanh lên, giọng của Athena vang lên. Tin nhắn phải được chuyển .

      Mặt đất dưới chân Annabeth tách làm đôi, và rơi xuống bóng tối.

      Mắt choàng mở. khóc lớn, tóm chặt lấy cánh tay Percy. vẫn ở Tartarus, ở điện thờ của Hermes.

      sao rồi,” Percy hứa. “Ác mộng đúng ?”

      Cơ thể rung lên vì khiếp sợ. “Có phải – có phải đến lượt mình canh đúng ?”.

      . Mình ổn mà. Mình để cậu ngủ.”

      “Percy!”

      “Này, sao mà. Bên cạnh đó, mình háo hức đến ngủ được. Cậu nhìn kìa.”

      Bob người khổng lồ ngồi bắt chéo chân bệ thờ, nhai tóp tép cách vui vẻ chiếc pizza.

      Annabeth dụi mắt, băn khoăn biết có phải mình . “Đó có phải là…. Pepperoni?”

      “Những đồ lễ tế.” Percy . “Những đồ hiến tế cho Hermes từ thế giới thực, mình đoán thế. Chúng xuất trong làn khói. Chúng ta có nửa cái hotdog, ít nho, đĩa thịt nướng và gói đậu phộng M&M.”

      “M&M cho Bob!” Bob cách khoái chí. “Ờ, có được ?”

      Annabeth phản đối. Percy đưa cho đĩa thịt nướng, và ngấu nghiến hết. chưa từng ăn cái gì ngon đến thế. Miếng thịt ức vẫn còn nóng hổi, với hương vị giống hệt như nước sốt chua ngọt của đồ nướng ở Trại Con Lai.

      “Mình biết,” Percy , đọc được nét mặt của . “Mình nghĩ nó đều từ Trại Con Lai.”

      Ỷ tưởng này khiến cảm thấy nhớ nhà phát điên lên được. Ở mỗi bữa ăn, các trại viên đốt cháy phần thức ăn của mình để cúng cho cha mẹ thần thánh của họ. Làn khói làm hài lòng những vị thần, nhưng Annabeth chưa bao giờ tự hỏi thức ăn biến đâu. Có thể những đồ hiến tế tái xuất đền thờ nào khác của các thần đỉnh Olympus… hay thậm chí là ở đây ngay tại Tartarus.

      “Đậu phộng M&M”, Annabeth . “Connor Stoll luôn đốt gói cho cha mình vào bữa tối.”

      bỗng nghĩ đến việc ngồi ở lều ăn, ngắm nhìn hoàng hôn dọc đảo Long Island. Đó cũng là nơi mà và Percy hôn nhau lần đầu tiên. Mắt bỗng nhức nhối.

      Percy đặt tay lên vai . “Này, điều này tuyệt. Đồ ăn thực từ nhà, đúng ?”

      gật đầu. Rồi họ ăn nốt phần ăn trong im lặng.

      Bob xử lý nốt phần còn lại của M&M. “Nên ngay. Chúng ở đây trong vài phút nữa.”

      “Vài phút?” Annabeth với tay tới con dao găm của , rồi chợt nhớ ra rằng còn nó.

      “Phải,… ừ, tôi nghĩ là vài phút….” Bob gãi gãi mớ tóc bạc bù xù của . “Thời gian rất khó biết ở Tartarus. giống nhau.”

      Percy trườn tới rìa của cái hố. Cậu nhìn kỹ về phía mà chúng có thể tới. “Mình nhìn thấy gì cả, nhưng nó cũng chẳng có nghĩa gì. Này Bob, tên khổng lồ mà chúng ta có nhắc đến? Đó là vị thần Titan nào?”

      Bob lẩm bẩm. “ chắc lắm về những cái tên. Sáu, có thể là bảy. Tôi có thể cảm nhận được.”

      “Sáu hay bảy?” Annabeth chắc lắm miếng thịt nướng của còn ở đó. “Thế họ có cảm nhận được ông ?”

      biết được.” Bob mỉm cười. “ Bob khác! Nhưng họ có thể ngửi thấy các Á thần, phải. Hai người có mùi rất mạnh. Mạnh kiểu tốt. Kiểu… mmm. Như bánh mì bơ!”

      “Bánh mì bơ!” Annabeth . “Chà, tuyệt .”

      Percy trèo trở lại điện thờ. “Có khả năng có thể giết được tên Gigantos ở Tartarus ? Ý mình là, kể cả khi vị thần giúp chúng ta?”

      Cậu nhìn Annabeth như thể chắc hẳn phải có câu trả lời.

      “Percy, mình biết. du lịch khắp Tartarus, đánh nhau với lũ quái vật ở đây… mình chưa từng làm việc này trước đây. Có lẽ Bob có thể giúp chúng ta giết tên khổng lồ? Có thể Titan cũng được xem như vị thần? Mình cũng biết nữa.”

      “Phải,” Percy . “Được rồi.”

      có thể nhìn thấy nỗi lo trong mắt cậu. Trong nhiều năm, cậu đều dựa vào câu trả lời từ . Giờ, khi cậu cần nhất, lại thể giúp được. ghét việc có chút manh mối nào, nhưng thứ gì từng học được ở trại có thể giúp ở Tartarus. Họ thể để bị bắt bởi sáu hay bảy tên bất tử thù địch được.

      đứng đấy, vẫn còn mất phương hướng từ cơn ác mộng. Bob bắt đầu lau dọn, thu nhặt các mảnh rác vào thành đống , dùng bình phu nước của để chùi sạch điện thờ.

      “Giờ ta đâu?” Annabeth hỏi.

      Percy chỉ tay về phía bức tường bóng đêm đầy bão tố. “Bob hướng đó. Hình như Cửa Tử…”

      “Cậu cho ông ta?” Annabeth có ý lên giọng cách khó nghe, nhưng mà Percy nhăn mặt.

      “Trong lúc cậu ngủ,” cậu thừa nhận. “Annabeth, Bob có thể giúp. Chúng ta cần người hướng dẫn.”

      “Bob giúp!” Bob đồng tình. “ vào Vùng Đất Bóng Đêm. Cửa Tử … hừm, thẳng vào nó rất tệ. Có quá nhiều quái vật tụ tập ở đó. Thậm chí đến Bob cũng thể quét sạch chúng được. Chúng giết Percy và Annabeth chỉ trong hai giây.” Tên Titan cau mày. “Tôi nghĩ là vài giây. Thời gian ở Tartarus khó biết được.”

      “Được rồi.” Annabeth càu nhau. “Vậy có còn con đường khác ?”

      nấp.” Bob . “Tử Sương có thể giúp các bạn nấp.”

      “Ồ…” Annabeth bỗng cảm thấy mình trong cái bóng của tên Titan. “Ừ, Tử Sương là cái gì?”

      “Hết sức nguy hiểm.” Bob . “Nhưng nếu bà ta đưa cho các bạn Tử Sương, nó giúp che giấu cả hai người. Nếu chúng ta có thể tránh được Night. Bà ta ở rất gần Night. Tệ lắm.”

      “Bà ta,” Percy nhắc lại.

      “Phải,” Bob trước dẫn cả hai về phía màn đêm đen như mực. “Chúng ta nên thôi.”

      Percy hướng mắt về phía Annabeth, hiển nhiên hy vọng có lời chỉ dẫn, nhưng có. nghĩ về cơn ác mộng của mình – Cây Thalia bị xẻ đôi bởi tia chớp, Gaia thức dậy từ phía đồi và thả dàn quái vật của bà ta về phía Trại Con Lai.

      “Được rồi, vậy” Percy . “Mình đoán chúng ta gặp bà ta với ít Tử Sương.”

      “Đợi ,” Annabeth .

      Tâm trí bỗng lạc . nghĩ tới giấc mơ của mình về Luke và Thalia. gợi nhớ lại câu chuyện mà Luke kể cho về cha cậu, Hermes – thần của du khách, người dẫn đường cho các linh hồn tới cõi chết, thần của liên lạc.

      nhìn chằm chằm về phía điện thờ đen.

      “Annabeth?” Percy chần chừ.

      về phía đống rác và nhặt lấy mảnh giấy ăn còn tương đối sạch.

      nhớ về hình ảnh của Reyna, đứng giữa làn khói bên dưới tàn tích của cây thông Thalia, bằng giọng của Athena,

      Ta phải đứng đây. Người La Mã phải đưa ta tới.

      Nhanh lên. Tin nhắn phải được chuyển .

      “Bob,” “những vật hiến tế bị đốt ở thế giới thực xuất ở điện thờ này đúng ?”

      Bob cau mày thoải mái, như thể chưa sẵn sàng cho câu đố bất ngờ. “Phải?”

      “Vậy điều gì xảy ra nếu tôi đốt cái gì đó ở điện thờ này?”

      “Ừ…”

      sao đâu,” Annabeth . “Ông biết. ai biết, bởi vì chưa từng có ai làm thế trước đây.”

      cơ hội, nghĩ, chỉ cơ hội mỏng manh nhất rằng thứ hiến tế bị đốt ở điện thờ này có thể xuất tại Trại Con Lai.

      Nghi ngờ, nhưng nếu nó làm được…

      “Annabeth?” Percy lần nữa. “Cậu lên kế hoạch gì đó. Cậu có cái vẻ tôi kế hoạch gì đó đấy.”

      “Mình có cái vẻ tôi kế hoạch gì đó.”

      “Có, cậu hoàn toàn có. Lông mày cậu co lại và môi cậu mím chặt và _”

      “Cậu có cái bút ?” hỏi.

      “Cậu đùa, phải ?” cậu lấy ra chiếc Thủy Triều.

      “Phải, nhưng cậu có viết được với nó ?”

      “Mình – mình biết,” cậu thừa nhận. “Chưa bao giờ thử.”

      Cậu mở nắp chiếc bút. Như mọi khi, nó phóng thành thanh gươm đầy đủ. Annabeth thấy cậu làm hàng trăm lần. Bình thường khi chiến đấu, Percy chỉ việc tháo nắp ra. Nó luôn luôn xuất lại trong túi cậu, lúc cần. Khi cậu chạm nắp vào đầu mũi kiếm, nó biến trở lại thành cây bút.

      “Thế nếu cậu chạm vào cái nắp ở phia đầu kia của thanh kiếm sao?” Annabeth . “Giống như chỗ cậu để cái nắp nếu như cậu chuẩn bị viết với cái bút đấy.”

      “Ừm…” Percy nhìn có vẻ ngờ vực, nhưng cậu chạm vào đuôi cán của thanh gươm. Thủy Triều rút lại thành chiếc bút, với đầu bút lộ ra.

      “Mình có thể?” Annabeth lấy cái bút từ tay cậu. đặt mẩu khăn ở nền điện thờ và bắt đầu viết. Mực thanh Thủy Triều phát sáng màu đồng thiên thai.

      “Cậu làm gì thế?” Percy hỏi.

      “Gửi tin nhắn,” Annabeth . “Mình chỉ hy vọng Rachel nhận được.”

      “Rachel?” Percy hỏi. “Ý cậu là Rachel của chúng ta? Nhà tiên tri của Delphi Rachel?”

      “Đúng ấy rồi đấy,” Annabeth nở nụ cười.

      Bất cứ khi nào Annabeth gợi ra tên của Rachel, Percy lại có vẻ bồn chồn. Hồi trước, có lúc Rachel thích thú trong việc hẹn hò với Percy. Đó là câu chuyện xưa. Giờ Rachel và Annabeth là bạn tốt. Nhưng Annabeth chẳng ngại làm cho Percy thấy có chút thoải mái. thỉnh thoảng phải cảnh báo bạn trai mình chút.

      Annabeth xong mẩu tin nhắn, gập mẩu giấy lại. Ở phía ngoài, viết:

      Connor,

      Đưa cái này cho Rachel. Đây phải trò chơi khăm. Đừng có làm tên ngốc.

      Thân,

      Annabeth.

      hít hơi dài. cầu Rachel Dare làm việc cực kì nguy hiểm, nhưng nó là cách duy nhất có thể nghĩ để liên lạc với người La Mã – cách duy nhất có thể tránh được đổ máu.

      “Giờ chỉ cần đốt nó thôi,” “Ai có diêm ?”

      Đầu mũi giáo bật khỏi cán chổi của Bob. Nó quẹt vào bệ thờ và nổ ra ngọn lửa bạc.

      “Ừm, cảm ơn.” Annabeth đốt tờ giấy ăn và đặt nó điện thờ. nhìn nó cháy thành tro và tự hỏi liệu có điên . Liệu đám khói này có thực biến nó ra khỏi Tartarus ?

      “Chúng ta nên ngay,” Bob khuyên. “ , nên . Trước khi chúng ta bị giết.”

      Annabeth liếc nhìn về bước tường đêm đen kịt phía trước họ. Ở đâu đó trong đó có bà mụ nào đó có thể tạo ra Tử Sương giúp họ trốn khỏi đám quái vật – kế hoạch được đề nghị bởi tên Titan, trong những kẻ thù khó nhằn nhất của họ. đợtkì cục nữa lại muốn làm nổ tung não Annabeth ra.

      “Được rồi,” Annabeth . “Mình sẵn sàng.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :