CHUƠNG X Poirot lui lại chút để ngắm cách bài trí căn phòng. « ghế ở đây… ghế kia. Được, rất tốt. Có tiếng chuông gọi cửa, chắc là Japp». Viên thanh tra cảnh sát nhanh nhẹn bước vào. - Ông đúng! Tôi được thông tin: có người trông thấy phụ nữ trẻ vứt cái gì đó xuống hồ Wentworth. Mô tả con người, đúng là Jane Plenderleith. Chúng tôi vớt vật đó lên khó khăn, nó mắc vào đám lau sậy dưới hồ. - Và vật đó là ? - Là cái hòm, còn gì nữa. Nhưng tại sao, khó hiểu quá. Trong đó chẳng có gì... cả mấy tờ báo. Tại sao người có vẻ lành mạnh như ta lại ném chiếc hòm đắt tiền xuống đáy hồ? Ông có tìm ra được ? Cả đêm nay, tôi nghĩ mãi ra. - Ông khỏi phải băn khoăn nhiều. Câu trả lời rồi đến. Có người bấm chuông kìa. George, người hầu hoàn hảo của Poirot, ra mở cửa và thông báo: - Plenderleith. vào với dáng bộ thoải mái thường lệ, chào hai người. Poirot : - Tôi mời tới, vậy hãy ngồi ghế này. Ông Japp, ông ngồi ghế kia, vì tôi có số tin tức thông báo. ngồi xuống, lần lượt nhìn hai người, đặt mạnh chiếc mũ xuống bên cạnh, : - Hừ! Thiếu tá Eustace bị bắt. - Tôi đoán đọc tin đó báo buổi sáng? - Phải. Poirot : - Lúc này, ông ấy bị buộc vì tội khác quan trọng, trong khi chờ đợi chúng tôi tìm chứng cứ về vụ sát hại. - Vậy đúng đây là vụ ám sát? - hỏi ngay. - Phải, đây là án mạng, huỷ hoại cố tình của người này với người khác. hơi rùng mình: - Ôi, ông đừng nữa. Nghe ghê cả người. - Vâng, nhưng mà ghê chứ - Ngừng lát, ông tiếp - Và bây giờ, tôi cho biết tôi tìm ra bằng cách nào. hết nhìn Poirot lại đến Japp. Ông này mỉm cười: - Ông ấy có những cách riêng của ông ấy, tôi phải chiều theo thôi, và chúng ta nên nghe ông ấy gì. Poirot lên giọng: - Như biết, tôi cùng ông bạn đây đến trường vụ án sáng ngày 6 tháng 11. Chúng tôi vào phòng, nơi có xác bà Allen, và lập tức chú ý đến số chi tiết rất có ý nghĩa. Có những điều rất lạ trong phòng ấy, biết ? - Ông cứ . - Trước hết, là mùi khói thuốc là. Japp xen vào: - Có lẽ ông hơi quá đáng, tôi có ngửi thấy gì đâu. Poirot quay phắt lại: - đúng thế. Ông ngủi thấy gì, tôi cũng , Đó là điều lạ, nhất là cửa ra vào, cửa sổ để đóng và trong cái gạt tàn có tới chục mẩu thuốc. Thế mà khí trong phòng hoàn toàn trong lành, bất thường. - À, ra ông muốn thế! - Japp thở dài, bất ngờ - Quả là ông có những phương pháp oái oăm để tới kết luận! - Tôi tiếp: điều thứ hai đập vào mắt tôi, là chiếc đồng hồ đeo tay người chết. - Ừ, nó có gì đặc biệt? - có gì đặc biệt, chỉ là nó đeo ở cổ tay phải, trong khi người ta thường đeo ở tay trái. Japp nhún vai. để ông ta kịp , Poirot tiếp luôn: - Vâng, đúng như ông nghĩ, điều ấy có ý nghĩa quyết định, vì có những người thích đeo ở tay phải. Giờ, tôi mới đến điều thực thú vị... Đó là cái bàn giấy. - Phải, tôi đoán ra - Japp . - Thực lạ kỳ... vì hai lí do. Thứ nhất, đó thiếu thứ gì. - Cái gì thiếu? - Jane Plenderleith vồ lấy, hỏi ngay. Poirot quay về phía ta: - tờ giấy thấm, thưa . cái lót tay chỉ có tờ giấy trắng tinh. Jane nhún vai: - Ôi, ông Poirot, giấy bẩn rồi, người ta thường gỡ ra, vứt . - Phải, nhưng vứt đâu? Chỉ có vứt vào bồ rác, phải ? Nhưng trong bồ rác, thấy, tôi nhìn. Jane Plenderleith có vẻ sốt ruột: - Vì chắc chị ấy vứt từ hôm trước, còn tờ giấy thấm hôm sau vẫn sạch vì Barbara viết gì nữa. - phải là trường hợp ấy, vì tối hôm đó bà Allen ra trạm bưu điện bỏ thư, có người trông thấy. Vậy bà ấy có viết. Bà thể viết thư dưới nhà vì dưới đó có bút mực, và chắc cũng sang viết ở phòng . Vậy cái tờ giấy thấm dùng để thấm mực đâu rồi? Đành rằng có người vứt giấy vào lò sưởi để đốt chứ ném vào bồ rác, nhưng trong phòng bà Allen chỉ có lò bằng khí đốt. Mà hôm trước lò sưởi ở dưới nhà chua nhóm lửa, vì với chúng tôi rằng trong lò chỉ xếp củi sẵn, khi về mới đánh diêm châm lửa. Poirot ngừng lát. - kỳ cục. Tôi nhìn tất cả các bồ rác, thùng rác, mà thấy tờ giấy thấm... và điều này theo tôi rất quan trọng. Cứ như là người nào cố tình bỏ tờ giấy thấm ấy. Tại sao? Tại vì nó in vết chữ, có thể đọc được nếu đem soi trước gương. “ điều lạ nữa bàn giấy khiến tôi phải chú ý là... ông Japp, ông nhớ các đồ vật bày đó ? Lót tay và lọ mực ở giữa, hộp bút bên trái, lịch và bút lông ngỗng bên phải. A hà, ông hiểu sao? Chiếc bút lông ngỗng, tôi xem - chắc ông còn nhớ, đặt đó như chỉ để trang trí, sử dụng. Vậy ? Ông vẫn thấy? Tôi lại: lót tay ở giữa, hộp bút bên trái, bên trái nhé, ông Japp. Bình thường hộp bút đặt bên phải mới đúng, vừa tầm bàn tay phải? «A, ta hiểu dần ra rồi, phải ? Hộp bút bên trái. Đồng hồ ở cổ tay phải. Tờ giấy thấm bị lấy , và thứ được để thêm vào trong phòng: chiếc gạt tàn đầy mẩu thuốc! « khí ở trong phòng là trong lành và mát. Đó là khí của phòng cửa sổ mở chứ đóng suốt đêm... và thế là toàn cảnh ra trước mắt tôi. Ông đứng đối diện, nhìn thẳng Jane: - Trong cảnh ấy, tôi thấy , xuống tắc xi, trả tiền lái rồi nhảy bốn bậc lên cầu thang, có thể vừa lên vừa gọi: “Barbara!» và mở cửa, thấy bạn chết nằm dưới đất, tay cầm súng - bàn tay trái tất nhiên, vì bạn thuận tay trái - và vì thế nên viên đạn mới bắn vào phía trái đầu. Bạn để lại cho lá thư vì sao bà ấy tự tử. Tôi hình dung, đó phải là bức thư hết sức xúc động... phụ nữ trẻ, hiền lành và đau khổ, phải kết liễu cuộc đời vì chịu được áp lực đe doạ tống tiền. “Tôi nghĩ ý đồ có thể nẩy ra tức khắc trong óc . Cái chết này phải là tác phẩm của người đàn ông, hãy để bị trừng phạt, trả giá cho hành động tội lỗi của ! liền lấy khẩu súng lau chùi rồi đặt lại vào bàn tay phải. cầm lá thư lột bỏ tờ giấy thấm đó có hằn nét chữ. xuống nhà, nhóm lò sưởi, vứt tất cả vào lửa. Rồi mang chiếc gạt tàn lên để tạo ra cảm giác hai người ngồi chuyện với nhau suốt tối, cũng mang theo mảnh cúc tay áo vỡ mà nhặt được dưới đất - may mà tìm thấy nó, nó càng là chứng cớ thuyết phục. Tiếp đó, đóng cửa sổ, và khoá cửa ra vào, vì thể để mọi người biết là vào phòng. Cảnh sát phải chứng kiến mọi thứ như bố trí, vì vậy gọi điện thẳng cho nhà chức trách chứ hô hoán hàng xóm như nhiều người thường làm. “Và mọi việc diễn ra suôn sẻ. thủ vai của mình cách bản lĩnh, chủ động, thoạt đầu chịu gì, rồi khéo léo tỏ ý nghi ngờ phải là tự tử. Về sau, lại lái chúng tôi theo hướng truy tìm thiếu tá Eustace... «Vâng, thưa , hết sức khôn khéo... tội ác thần tình... Vì, thực tế, đây là mưu sát hại thiếu tá Eustace. Jane Plenderleith vụt đứng dậy: - Đây phải là tội ác, mà là lập lại công lý. Tên ấy hành hạ Barbara đến khốn khổ, dồn chị ấy đến chỗ chết. Chị ấy hiền dịu thế, yếu đuối thế, bị gã đàn ông quyến rũ ở Ấn Độ lúc chị còn rất trẻ. Chị mới mười bẩy, gã kia lớn tuổi hơn rất nhiều, lại có vợ. Đẻ ra đứa con, lẽ ra nên gửi lại trại trẻ, nhưng chị muốn, nên phải lánh ở nước xa, rồi mới quay trở lại, lấy tên là bà Allen. «Sau này đứa bé chết. Chị ấy trở về đây rồi phải lòng Charles... cái chàng kiêu ngạo, huyênh hoang như thùng rỗng! Nhưng chị lại mê ta. Nếu ta là người khác, tôi khuyên chị nên với ấy tất cả, nhưng, biết tính ta rồi, tôi lại bảo chị nên im lặng. Ngoài tôi ra, ai biết chuyện cũ của chị. «Thế rồi mà cái tên Eustace quỷ quái xuất ? Chuyện ra sao, các ông biết. bắt đầu móc tiền cửa chị ấy thương tiếc, và mới ngày hôm qua đây chị mới hiểu ra là liên luỵ đến cả Charles. Nếu chị lấy Charles, Eustace càng tăng cường đe doạ... Mà Charles giầu có, lắm tham vọng, rất sợ tai tiếng! «Eustace rồi, mang theo số tiền cuối cùng chị có, chị suy nghĩ rất nhiều, rồi lên phòng viết thư cho tôi, chị Charles, thể sống thiếu , nhưng chính vì lợi ích của người , chị thể đến kết hôn. "Chị đành chọn lối thoát duy nhất» thư chị viết như thế. Jane ngửa đầu ra phía sau: - Tôi hành động như thế, có gì sai, mà các ông gọi là tội ác. Poirot nghiêm nghị đáp: - Vì như thế vẫn là tội ác. Tội ác có vẻ có lý do chính đáng, nhưng vẫn là tội ác. thẳng thắn và sáng suốt, vậy hãy nhìn thẳng vào . Bạn chết, đúng ra là vì bà ấy có can đảm để sống. Chúng ta có thể thương xót bà. Song vẫn là ... ! Bà ấy tự bắn mình, chứ phải bị người bắn. Ông ngừng lát mới tiếp. - Còn ? Người ấy lúc này ở tù, và còn ở lâu vì những tội danh khác. có muốn tự mình huỷ hoại cuộc sống - tôi là cuộc sống của bất cứ con người nào? Jane trân trân nhìn thám tử, đôi mắt tối sầm, rồi đột ngột : - , ông đúng. Tôi muốn. Rồi quay gót bỏ , đóng sầm cửa sau lưng. Japp huýt tiếng sáo dài: - Ui cha! ngờ! Poirot ngồi xuống mỉm cười thân ái. lúc lâu ai gì. Cuối cùng, Japp lên tiến: - phải là giết người ngụy trang thành tự tử, mà là tự tử bố trí thành có vẻ giết người. - Đúng, và bố trí rất khéo. - Còn chiếc hòm con? - Japp hỏi - Nó đóng vai trò gì? - , tôi rồi, nó chẳng liên quan gì. - Vậy tại sao...? - Ông Japp ơi, các gậy gôn. Đó là những gậy cho người thuận tay trái. Jane Plenderleith gửi gậy của mình ở Wentworth, cái túi chứa các gậy là của Barbara Allen, nên chúng ta phải mở tủ kho, hoảng sợ là phải. Toàn bộ kế hoạch của ta có thể đổ vỡ. Song ta rất nhanh trí, và hiểu là mình gây nghi ngờ, nên là ngay cái việc đầu tiên nẩy ra trong óc để kéo chú ý của chúng ta vào vật vô hại. ta ch chiếc hòm con và : «Cái này là của tôi, vừa mang về sáng nay, bên trong có gì đặc biệt». Và đúng như ta dự kiến, chúng mình bị lạc hướng. Cũng với lý do ấy, sáng hôm sau khi ta ra để rủ bỏ những gậy gôn của Barbara, ta tiếp tục dùng chiếc hòm con làm đối tượng để chúng ta lạc đường. - Ông muốn rằng mục đích của ta là… - Ông bạn hãy suy nghĩ xem. Nơi nào tốt nhất để vứt bỏ bó gậy gôn? thể đốt, bỏ được vào thùng rác, nếu để vương vãi đâu đó, có người mang trả lại. Plenderleith mang chúng đến sân gôn, để chúng trong phòng, lấy hai gậy trong túi của chính mình, rồi ra bãi gôn mà gọi thằng bé phục vụ theo.. Chắc hẳn, ta cố tình làm gẫy , hai gậy rồi quẳng nó vào bụi cây, thế là xong. «Thấy vương vãi những mảnh cây gẫy, ai buồn để ý, vì nhiều vận động viên thường hành động như vậy vì tức tối sau khi đánh trượt. Plenderleith biết là nhất cử nhất động của mình bị theo dõi, ném mồi nhử kia - tức là chiếc hòm con - xuống hồ để mọi người trông thấy. Đó, là về cái bí mật của chiếc hòm con". Japp nhìn ông bạn hồi lâu, , rồi bỗng đứng lên, vỗ vai Poirot, phá lên cười: - Khá lắm, lão cáo già ạ! Ông thắng rồi, , tôi khao ông bữa ra trò. HẾT PHẦN II
Bí III: VỤ TRỘM VÔ LÝ (The Incredible Theft) CHƯƠNG I Lúc đầu bếp bưng lên món bánh phồng, ngài Mayfield nghiêng mình thân mật sang phía bà khách bên phải, tức phu nhân Julia Carrington. Ngài Mayfield luôn xứng với vai trò chủ nhà lịch , bao giờ cũng tỏ ra lịch thiệp với phụ nữ, mặc dù đến giờ ông vẫn độc thân. Phu nhân Julia Carrington năm nay bốn mươi tuổi, người cao, tóc nâu, và còn rất đẹp với đôi chân nhắn, bàn tay thon mảnh tuyệt vời. Cử chi hấp tấp, luôn ngọ nguậy chứng tỏ bà là người ruột để ngoài da. Chồng bà, thống chế quân George Carrington ngồi gần đối diện với vợ, bên kia cái bàn tròn. Mở đầu binh nghiệp trong hải quân, ngài vẫn giữ tính xuê xoa của thuỷ thủ và vừa cười vừa trêu chọc bà Vanderly xinh đẹp, ngồi phía bên trái chủ nhà. Bà Vanderly là thiên tuyệt sắc tóc vàng, giọng còn lơ lớ chút sắc Mỹ đủ êm ái như rót vào tai người nghe. Ngồi bên phải ngài George Carrington là bà Macatta, nghị sĩ, chuyên gia về nhà ở và bảo vệ trẻ em. Bà bình thường, mà the thé từng câu ngắn, thế dáng vẻ trông đáng ngại. Nên lấy làm lạ là vị thống chế quân thích chuyện trò với bà khách ngồi bên phải hơn. Bà Macatta thao thao về vấn đề chuyên trách của bà với người ngồi bên trái bà, chàng Reggie Carrington. Cậu này hăm mốt tuổi, chẳng thiết gì nghe chuyện nhà cửa, bảo vệ trẻ em hay bất cứ vấn đề chính trị nào. Thỉnh thoảng cậu chỉ chêm câu: "Thế khiếp quá!" hoặc “Cháu rất đồng ý", mặc dù tâm trí cậu để tận đẩu tận đâu. Ông thư ký riêng Carlile, ngồi giữa chàng Reggie và mẹ cậu, là người còn trẻ đeo kính cặp mũi, vẻ thông minh và kín đáo. Ông ít , song lúc nào câu chuyện vãn, lại sẵn sàng hâm mồi cho hồi tiếp theo về bất cứ chủ đề gì. Thấy Reggie Carrington muốn ngáp vì chán, ông ghé tai bà Macatta, khéo léo hỏi chuyện bà về đề tài mà bà ưa thích. Đầu bếp và hai người hầu lặng lẽ quanh bàn trong ánh sáng mờ ảo, phục vụ món ăn và rót rượu. Bàn ăn tròn, nhưng ta thấy ngay chủ nhà là ai; chỗ ngài Mayfield ngồi ràng là chỗ chủ nhà. Ông này cao to, vai rộng, tóc bạc, mũi khoằm, cằm hơi dô, người này mà vẽ biếm hoạ dễ quá. Ngài Mayfield vừa có nghiệp chính trị, vừa cai quản xí nghiệp cơ khí quan trọng. Cách đây năm, ông vừa được phong tước hiệu và được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quân khí, chức mới lập. Tráng miệng xong, rượu poóctô được mời lượt. Phu nhân Julia, đưa mắt cho bà Vanderlyn, đứng dậy. Và ba bà phụ nữ rời phòng ăn. Poóctô lại được rót tiếp, và ngài Mayfield xoay ra chuyện về săn và chim mồi. Năm phút sau, ngài George ghé tai Reggie Carrington: - Chắc con muốn ra phòng khách cùng với mọi người. Con cứ , ngài Mayfield cho phép. Chàng trai hiểu ý ngay: - Cảm ơn ngài Mayfield, xin phép cháu ra ngoài. Ông Carlile cũng : - Ngày Mayfield thứ lỗi cho, tôi còn có việc phải làm... Ngài Mayfield ra hiệu đồng ý, và hai người ra khỏi phòng. Các gia nhân rút lui, chỉ còn lại ngài Bộ trưởng Quân khí và ông Thống chế quân. Sau phút im lặng, Carington lên tiếng. - Thế nào, ô-kê chứ? - Chắc chắn. Loại máy bay ném bom này, nước châu Âu nào có thể theo kịp. - Ông hạ họ nốc-ao rồi hả? Tôi biết mà. - Chúng ta chiếm ưu thế - ngài Mayfield , đầy tự tin. Ngài George Carrington thở hơi dài: - đến lúc! Ông biết , chúng ta vừa qua thời kỳ khó khăn với tất cả những đống vũ khí tích luỹ toàn châu Âu, trong khi chúng ta chưa chuẩn bị tốt. May quá, thế là thoát. Tuy nhiên, dù có gia tăng sản xuất, chúng ta chưa yên tâm đâu. - Khởi đầu chậm có khi lại có lợi - Ngài Mayfield - Phần lớn vũ khí các nước châu Âu đều là kiểu lỗi thời. Hơn nữa, họ gần đến chỗ phá sản. Ngài George : - nghĩa lý gì đâu, ta vẫn nghe luôn là nước này nước nọ sắp vỡ nợ. Nhưng họ vẫn cứ sống. Tôi chẳng hiểu gì về vấn đề tài chính. ánh tinh quái loé trong đôi mắt ngài Mayfield, George Carrington là cái sói biển thà và cổ lỗ. Có người còn ông ấy cố tình ra vẻ như thế. George Carrington chuyển đề tài: - Bà Vanderlyn là phụ nữ rất quyến rũ. Ngài Mayfield giấu nụ cười thầm: - Ông muốn hỏi bà ấy làm gì ở đâu, phải ? Carnngton lúng túng: - Ồ! ... ! - Có! Đừng chối. Chắc ông cuống, sợ tôi là nạn nhân nữa của bà! Quả , tôi thấy có mặt của bà ở đây, đặc biệt trong dịp cuối tuần này, là hơi lạ. Ngài Mayfield nghiêng đầu: - Đâu có xương, kền kền kéo đến. Mà chúng ta có bộ xương, và bà Vanderlyn có thể coi như con kền kền số 1. - Ông có thông tin gì về cái bà Vanderlyn này? Ngài Mayfield cắt đầu xì gà, chậm rãi châm thuốc rồi ngửa đầu ra sau, dằn từng tiếng: - Tôi biết bà là công dân Mỹ, có ba lần chồng: Ý, Đức và Nga, vậy là bà có thể lập tiếp xúc có ích giữa ba nước ấy. Bà ấy sắm toàn loại áo đắt tiền, sống rất sang trọng, nhưng nguồn gốc thu thập khá đáng ngờ. George Carrington cười: - Đúng là các gián điệp của ông ngồi . - Tôi còn biết là, ngoài sắc đẹp cực kỳ quyến rũ, bà Vanderlyn là người rất chịu nghe, bà có thể làm ra vẻ rất say mê cái mà ta gọi là "tâm ". Nghĩa là người có thể trao cho bà mọi thông tin chi tiết về hoàn cảnh, công việc của mình và tưởng rằng bà rất quan tâm đến mình. «Nhiều sĩ quan trẻ quá xa trong việc gây hấp dẫn với bà, và do đó nghiệp bị ảnh hưởng tai hại. Họ quá những điều nên . Phần lớn bạn bè của bà là những nhân vật của Cục này Bộ nọ. Mùa đông năm ngoái, bà ta săn ở vùng nọ, gần xưởng sản xuất vũ khí lớn cửa ta, và làm quen với rất nhiều người. Tóm lại, bà Vanderlyn là người rất lợi hại cho... (ông cầm điếu xì gà huơ lên thành vòng tròn) có lẽ nên là cho ai. Coi như là cường quốc nào đó... Có khi còn hơn nữa. Carrington thở dài: - Ông cất gánh nặng lớn trong tim tôi. - Ông tưởng là tôi bị sa bẫy người đẹp hẳn? Ông ngây thơ quá. Cung cách bà Vanderlyn hơi quá lộ liễu, ăn được con cáo già như tôi. Vả lại, bà ấy còn tươi guyên như trước. Các ông phi công trẻ của ông nhận ra, chứ tôi năm mươi sáu rồi, ông bạn ạ, - Tôi ngốc - Carrington - nhưng tôi lấy làm lạ... - … rằng bà ta có mặt ở đây trong cuộc họp thân mật, đúng lúc tôi và ông phải thảo luận cách chính thức về phát minh làm thay đổi hẳn vấn đề phòng của đất nước? George Carrington gật đầu, Ngài Mayfield cười: - đúng là như thế . Đó là mồi nhử. - Mồi nhử? - Thé này nhé, chúng ta chưa có chứng cứ nào về bà ta. Lần nào bà ta cũng thoát cách khéo léo, thần tình là đằng khác. Bà ta lại rất thận trọng... thận trọng kinh người. Vậy phải nhử bà ta bằng chuyện gì quan trọng. - Cái quan trọng ấy, là sơ đồ chính xác của máy bay ném bom mới. - Đúng. Miếng mồi này rất to đủ để bà ta mạo hiểm... và tự lộ mặt. Lúc đó... ta tóm được. Ngài George phân vân: - Nghe hay, nhưng giả thử bà ta dám mạo hiểm? - Thế đáng tiếc - ngài Mayfield đáp - Nhưng tôi cho là bà ấy dám. rồi, ông đứng dậy: - Thôi, ta ra chỗ các bà. Chớ để vợ ông nhỡ ván bài. - Bà Julia nhà tôi mê đánh bridge quá, thua khối tiền. Tôi bảo là đừng đánh cược to thế, bà ấy vẫn chừa. rồi, ngài George ra theo bạn, và : - Tôi hy vọng kế hoạch của chúng ta thành công.
CHƯƠNG II Ngoài phòng khách, câu chuyện nghe chừng vãn. Bà Vanderlyn có vẻ kém vế giữa đám khách toàn nữ. Cung cách yểu điệu của bà, rất được lòng các ông, lại mê hoặc được người cùng giới. Phu nhân Julia vẫn tỏ ra khả ái, nhưng có vẻ ưa bà Vanderlyn. Còn chuyện trò với bà Macatta chán ngắt, và bà ta gần như chuyện mình. Bà này là phụ nữ nghiêm chỉnh, bao giờ xa rời mục đích của mình. Lập tức bà đánh giá Vanderlyn thuộc loại phụ nữ vô tích chuyên ăn bám, nên bà quay sang tranh thủ phu nhân Julia, mời phu nhân đến dự ngày hội từ thiện do bà sắp tổ chức. Phu nhân Julia như bận tâm chuyện gì khác, chỉ trả lời hậm hừ. Tại sao Charles Mayfield và George Carrington chưa ra? Đàn ông là vô vị... ra phu nhân lo nghĩ về điều ấy. Ba bà phụ nữ im lặng ngồi với nhau cho đến khi hai người đàn ông trở ra phòng khách. “Bà Julia hôm nay sắc mặt kém quá”, ngài Mayfield nghĩ. “Tội nghiệp bà, lúc nào cũng đứng ngồi yên". Và Mayfield to: - Thế nào, ta chơi ván bài chứ? Lập tức, phu nhận Juha tươi hẳn lên. Vốn bà mê bài bridge. Lúc đó Reggie Carington vừa tới, vừa vặn đủ người. Phu nhân Julia, bà Vanderlyn, ngài George với cậu Reggie ngồi luôn vào bàn. Ngài Mayfield ngồi hầu chuyện bà Macatta. Hết ván thứ hai, ngài George nhìn đồng hồ, : - Thôi, tôi chơi nữa đâu. Bà Julia, vợ ông, có vẻ bằng lòng: - Mới có mười giờ kém mười lăm. Ông cố chơi ván nữa. - được - George - Tôi và Charles có công chuyện phải bàn. - Việc gì mà quan trọng! - bà Vanderlyn - Dễ thường các ông chức vụ cao, tài giỏi, bao giờ được nghỉ! - Vâng, chúng tôi đây có tuần làm việc bốn mươi tám giờ như mọi người - ngài George đáp. - thế này biết có phải tôi là người Mỹ tập tọng hay , song tôi rất vui khi được ngồi đánh bài cùng với những quan chức cao cấp nắm trong tay cả vận mệnh nước. Ông George, ông cho tôi là thô thiển chứ. - Thưa bà Vanderlyn thân mến, trong đầu tôi bao giờ có ý nghĩ cho bà là "tập tọng" hay "thô thiển”. Ông mỉm cười, song trong giọng dường như có chút mỉa mai mà bà tất phải nhận ra. Bà liền quay sang cậu Reggie, vừa cười vừa : - Tiếc quá, được chơi tiếp với cậu. Cậu chơi cao tay lắm. Reggie thẹn đỏ cả mặt: - Dạ, có gì đâu, chẳng qua là gặp may thôi. Phu nhân Julia đứng phắt dậy, bụng nghĩ thầm: "Mụ này khéo nịnh". Nhưng nhìn con trai, phu nhân thấy lòng dịu lại. Nó còn trẻ quá, vô tư quá, dễ tin người, khéo có ngày mang hoạ. Chồng bà hoàn toàn hiểu con trai. Đàn ông lạnh lùng, ít thông cảm, quên mất rằng bản thân mình cũng có thời trai trẻ. George tỏ ra quá nghiêm khắc với Reggie. Bà Macatta cũng đứng lên, mọi người chúc nhau ngủ ngon. Ba bà phụ nữ rời phòng khách. Ngài Mayfield rót hai ly rượu mời ông bạn George cùng cụng ly, vừa lúc đó ông Carlile xuất trong khung cứa. Mayfield : - mau soạn các hồ sơ, giấy tờ ra, cả các sơ đồ nữa. Tôi và ông thống chế đây vào ngay, sau khi ra ngoài dạo chút. Đồng ý , George? Trời tạnh mưa rồi. Carlile quay trở ra và vội lời xin lỗi vì vấp phải bà Vanderlyn hối hả vào. Bà : - Tôi lấy quyển sách đọc dở lúc nãy. Reggie lao ra, tay cầm cuốn sách: - Có phải cuốn này? Cháu thấy văng. - Ồ phải rồi, cảm ơn cậu. Bà nở nụ cười khả ái, chào lần nữa và ra. Ngài Goerge mở cửa sổ, : - Đêm nay trời đẹp, dạo chút là rất hay. Reggie tiến lên: - Cháu chào bác và bố, cháu xin ngủ. - Chúc cháu ngủ ngon - ngài Mayfield . Reggie cầm lấy cuốn truyện trinh thám đọc dở, ra. Mayfield và George Carrington bước ra ngoài hiên. Trời trong và đầy sao. Ngài Goerge hít hơi dài: - Úi chà! Bà ấy sức nước hoa quá đáng! Ngài Mayfield cười to: - Dù sao cũng phải loại nước hoa rẻ tiền. Nước hoa bà ấy là loại đắt nhất đấy. Ngài Goerge nhăn mặt: - Thế phải đáng hoan nghênh chăng. - Tất nhiên. Tôi cho phụ nữ mà dùng nước hoa rẻ tiền có gì đáng chán bằng. Ngài Goerge nhìn trời: - ngờ trời lại quang nhanh đến thế, lúc ăn tối tôi nghe trời mưa nặng hạt. Hai người thong thả thềm gạch men theo suốt chiều dài toà nhà. Bên dưới là dốc thoai thoải xuống cánh đồng tuyệt đẹp xứ Sussex. Ngài Goerge châm điếu xì gà, bắt đầu vào đề: - Về cái chất hợp kim ấy... Câu chuyện vào các vấn đề kỹ thuật. lại lại thềm đến lần thứ năm, ngài Mayfleld : - Nào, ta nên bắt tay vào việc thôi. - Phải, vì có rất nhiều chuyện phải xem xét. Hai người quay trở lại. Đột nhiên, ngài Mayfield thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên: - Ô kìa! ông có nhìn thấy ? - Nhìn cái gì? - Ngài Goerge hỏi. - Tôi thấy như ai vừa ra khỏi phòng giấy, băng qua thềm. - Vô lý, tôi có thấy gì đâu. - Tôi có thấy... - Mắt ông trông gà hoá cuốc rồi. Tôi vẫn nhìn thẳng suốt dọc nhà, hề thấy bóng người nào. Mà mắt tôi còn tinh lắm nhé, dù để tờ báo cách sải tay vẫn đọc được. Ngài Mayfield cười gằn: - Tôi có kém gì ông, vẫn đọc báo đeo kính. - Nhưng ở Nghị viện, ông vẫn nhìn được người ngồi ở hàng ghế phía bên kia. Hai người vừa cười vừa vào văn phòng của ngài Mayfield, mà cửa sổ vẫn để mở. Carlile sắp xếp giấy tờ vào cái bìa đặt cạnh két sắt - Thế nào, Carlile? Chuẩn bị xong chưa? - Thưa, mọi giấy tờ đặt bàn. Đó là chiếc bàn dài đặt ở góc, cạnh cửa sổ. Ngài Mayfield lại gần, bắt đầu lần giở các tài liệu. Ngài Goerge thốt lên: - Đêm nay là đẹp! - Thưa vâng - Carhle đáp - Rất lạ là sau mưa, trời quang nhanh đến thế. Sau khi xếp hồ sơ, thư ký này hỏi ông Mayfleld: - Dạ, ngài còn cần gì tôi nữa ạ? - Thôi, thế là được rồi. Chúng tôi còn làm việc khuya. cứ nghỉ . - Cảm ơn ngài. Xin chào ngài Goerge. - Chúc ngủ ngon, Carlile. Vừa lúc thư ký sắp ra khỏi phòng, ngài Mayrleld bỗng gọi giật lại: - Khoan , Mayfield. quên điều quan trọng nhất. - Xin lỗi, thưa Ngài? - Các bản thiết kế máy bay ném bom đâu, tôi thấy. thư ký trố mắt: - Thưa, đặt đầu chồng hồ sơ ạ. - Tôi có thấy đâu. - Tôi đặt đó rồi mà. - thử ngó xem. thư ký hoang mang, lại gần. Ngài Mayfield nóng nẩy chỉ tay lên tập hồ sơ. Carlile soát lại từng tờ, mỗi lúc thêm kinh hãi. - thấy chưa, có đâu. thư ký ấp úng: - thể tin được. ràng tôi vừa để đây chưa đầy ba phút. Ngài Mayfield mỉm cười, khoan dung: - lú lẫn rồi. Chắc nó vẫn còn trong két. - Vô lý! Chắc chắn tôi đặt ở đây rồi. Ngài Mayfield lập tức về cái két còn mở, ngài Goerge theo sau. Nhìn thoáng qua cũng biết sơ đồ máy bay ném bom có trong đó. Ba người lại quay về kiểm tra chồng giấy bàn. - Lạy Chúa! - Mayfield kêu - Mất rồi. - thể thế! - Carlile kêu. - Có ai vào phòng này? - Ngài bộ trưởng gay gắt. - , có ai vào. - Carlile, nghe đây, tài liệu ấy thể bốc hơi lên trời. Có ai lấy. Bà Vanderlyn có vào đây ? - Bà Vanderlyn? , ạ. - Nhất định có - George Carrington vừa vừa hít hít - Bà ấy đến, thế nào cũng có mùi nước hoa. Thêm kinh hãi, Carlile khẳng định: - Tôi cam đoan có ai vào đây. Quả tôi hiểu... - Carlile, hãy bình tĩnh. Ta phải xem kỹ chuyện này. chắc chắn là sơ đồ trước đó để trong két? - Chắc chắn. - có tận mắt trông thấy? Chứ chỉ mang máng biết là nó ở vẫn trong những giấy tờ khác? - . Tôi trực tiếp trông thấy và đặt nó lên đầu chồng, bàn. - Và từ đó khẳng định có ai vào đây? Còn , có ra ngoài ? - Thưa ... À có... - A! - ngài Goerge kêu - Đấy, đấy... Ngài Mayfield ngửng phắt đầu, vừa "Tại sao..." Carlile cướp lời: - Thưa ngài, bình thường, tất nhiên khi trong phòng bầy ra những tài liệu quan trọng, khi nào tôi bước ra ngoài, nhưng vì nghe tiếng phụ nữ kêu... - Tiếng kêu phụ nữ? - ngài Mayfleld ngạc nhiên lặp lại. - Thưa vâng. Nghe tiếng kêu, đúng lúc tôi vừa đặt xong tài liệu, nên tôi có chạy ra ngoài sảnh. - Ai kêu? - hầu phòng người Pháp của bà Vanderlyn. ta đứng giữa cầu thang, mặt xanh mét, người run cầm cập. ta bảo trông thấy ma. Vâng, phụ nữ cao lớn bận đồ trắng lặng lẽ di chuyển và lơ lửng . - Chuyện vớ vẩn. - Vâng, tôi cũng bảo ta như vậy, và ta có vẻ xấu hổ, trở lên gác, còn tôi quay về đây. - ra ngoài bao nhiêu lâu? thư ký suy nghĩ: - Hai phút... Ba là cùng. - Thế quá đủ - Ngài Mayfield gầm lên. Rồi ông kéo tay bạn: - Ông thấy chưa, cái bóng người tôi thấy lọt qua cửa sổ này... Đúng rồi! Carlile vừa ra khỏi phòng, tên trộm liền nhảy vào, lấy cắp sơ đồ rồi chuồn. - chuyện tồi tệ - Goerge - Động trời đây. Chúng ta làm gì bây giờ?
CHUƠNG III - Charles, dù sao cứ để ông ta thử. Lúc đó là nửa giờ sau. Hai người ở trong phòng Mayfield, và ngài Goerge phải biện luận rất nhiều để thuyết phục ông bạn làm việc do ông gợi ý. Ngài Mayfield lúc đầu nghe, song dần dà có vẻ bắt đầu ngả theo. - Ông nên cố chấp như thế - ngài Goerge . - Nhưng việc gì phải kéo kẻ vớ vẩn nước ngoài, mà chúng ta hiểu mô tê gì, vào việc này? - Thế là ông nhầm rồi. Tôi biết ông này, người tài ba tuyệt vời. - Hừm! - Ông Charles ơi, dịp may đấy! Ta phải hết sức giữ kín chuyện này. Nếu lộ ra ngoài... Mà ông Hercule Poirot này... - đến và rút hồ sơ ra như nhà ảo thuật rút con thỏ tờ trong tay áo? - Ông ta tìm ra . Mà chúng ta cần . Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này. Ngài Mayfield đành buông xuôi: - Thế tuỳ ông thôi, chứ tôi chẳng hy vọng gì mấy. Ngài Goerge đứng lên đến chỗ máy : - Tôi gọi ngay cho ông ta. Giờ này chắc ông ta ngủ - sao. Mà này, ông muốn để mụ ấy mang nó ra - Ông định ám chỉ bà Vanderlyn? - Phải. Ông có ngờ chăng mụ ấy là đầu mối của chuyện này? - Có chứ. Bà ta đảo lộn các vai trò, biến tôi thành nạn nhân. là buồn. Mà chúng ta lại có cớ gì buộc tội bà ta được, mặc dù biết tỏng bà ta là chủ mưu vụ này. - Phụ nữ là những con quỉ cái! - Ngài Goerge than. - Mà chúng ta có gì cụ thể đề kết buộc bà ta. Ta cho rằng chính bà ta dàn dựng màn kịch hầu phòng kêu lên kinh hãi, và cái bóng người tôi thoáng thấy chạy ra ngoài là đồng phạm của bà ta, song thể chứng minh. - Có thể Hercule Poirot chứng minh. Ngài Mayfield bỗng bật cười: - Xin lỗi, tôi cứ tưởng ông là người chính gốc mà lại tin tưởng vào chàng người Pháp, dù ta có tài ba thế nào. - Ông ta phải là người Pháp, mà là người Bỉ. - Thôi được, ông cứ gọi lão người Bỉ đó tới đây, để xem trổ tài ra sao. Tôi cuộc là lão cũng mù tịt như chúng ta mà thôi. Ngài Goerge đáp, nhấc máy . CHUƠNG IV Hercule Poirot, mắt còn hấp háy, cố nén để khỏi ngáp, nhìn hai người đàn ông trước mặt. Lúc đó là hai giờ rưỡi đêm. Ông bị đánh thức dậy cách đột ngột, rồi nhẩy lên chiếc Rolls Royce sang trọng trong đêm tối. Và ông vừa nghe xong tất cả những gì hai người trình bày. Ngài Mayfield kết luận: - Tất cả các việc là như vậy. rồi, ngài dựa lưng vào ghế, đeo chiếc kính mắt lên, quan sát Poirot có vẻ nghi ngờ. Poirot liếc nhanh, nhìn George Carrington. Ông này ngả người về phía trước trong tư thế chờ đợi, tràn trề hy vọng. Poirot thong thả : - Bây giờ tôi biết các việc. hầu bàn kêu, thư ký chạy ra ngoài; kẻ xấu phục sẵn và nhẩy vào, sơ đồ nằm chồng giấy đặt bàn, nó lấy và chuồn. Các việc bố trí rất ăn khớp. Cái cách Poirot câu cuối cùng này khiến ngài Mayfield lưu ý. Ông nghển người lên, chiếc kính rơi xuống, tư thế của ông như người phòng vệ. - Ông Poirot, xin lỗi, ông sao? - Thưa ngài, tôi là các việc đều bố trí rất ăn khớp... đối với tên ăn cắp. À mà, ông trông thấy người đàn ông. Ngài Mayfield lắc đầu: - Tôi thể khẳng định... Chi là bóng người. Đúng ra, tôi cũng chắc là nhìn thấy ai. Poirot quay về phía ngài thống chế quân: - Còn ngài, ngài Goerge? Ông có thể cho biết, là đàn ông hay đàn bà? - Tôi, tôi thấy gì hết. Poirot nghiêng người suy nghĩ, rồi đột nhiên đứng lên, lại bàn giấy. Ngài Mayfield : - Chắc chắn các sơ đồ còn ở đấy, cả ba chúng tôi lục soát kỹ đến chục lần. - Cả ba? Có nghĩa là cả thư ký cũng mó tay vào? - Phải, Carlile, thư ký của tôi. Poirot quay người lại, hỏi Mayfield: - Lúc ngài lại gần bàn, tờ giấy nào ở đầu chồng? Mayfleld cau mày, cố nhớ lại: - Xem nào... Phải rồi, bản bị vong lục về thiết bị phòng . Poirot nhanh nhẹn cầm tài liệu, đưa cho Mayfield xem: - Có phải tờ này? - Đúng. Poirot lại đưa cho Carrington xem: - Ông có thấy tờ này bàn? - Phải, có thấy. Tôi cùng Mayfield và Carlile kiểm tra lại, tờ này ở đầu chồng tài liệu. Poirot gật đầu ra vẻ suy nghĩ, đặt tờ giấy vào chỗ cũ. Mayfield đứng nhìn, rồi : - Ông còn cần hỏi gì... - Có chứ, song tôi lại muốn hỏi về Carlile. - Carlile, hoàn toàn thể nghi ngờ. ta làm thư ký riêng cho tôi chín năm! ta làm thư ký riêng cho tôi chín năm, nắm giữ hết mọi tài liệu. ta có thể dễ dàng chép lại, sao tất cả văn bản, mà cần lấy cắp. - Tôi đồng ý với quan điểm của ông - Poirot - Nếu ta là thủ phạm, việc gì phải làm ra như bị mất. - Dù sao, tôi bảo đảm Carlile là người trung thực - Mayfield . - Carlile là người tốt - Carrington khẳng định. - Thế còn cái bà Vanderlyn... ? - Đúng vậy! - ngài Goerge thốt lên - con người nguy hiểm. Ngài Mayfield thêm: - Hoạt động của bà này còn ai lạ. Ông Bộ trưởng Ngoại giao có đầy đủ thông tin về bà ta. - Còn hầu? Liệu ta có đồng phạm với chủ? - Nhất định rồi! - ngài Mayfield khẳng định - Đó có thể là khả năng - ngài Mayfield thận trọng hơn. lát im lặng. Poirot thở dài, sắp xếp lại vài vật bàn. - Nếu tôi hiểu đúng, những giấy tờ ấy rất có giá , có thể thương lượng đổi số tiền lớn? - Phải... với số nước ngoài. Ví dụ như... Ngài Mayfield kể tên hai cường quốc châu Âu. - Điều ấy, tất cả mọi người đều biết? - Ai chứ bà Vanderlyn thừa biết. - Tôi tất cả mọi người kia? - Vâng, có lẽ vậy. - Bất cứ ai, có hiểu biết chút, đều hiểu những sơ đồ ấy có giá trị đổi thành tiền bạc? - Vâng, nhưng thưa ông Poirot... Ngài Mayfield có vẻ khó chịu. Poirot giơ tay: - Tôi chỉ làm cái việc nghiên cứu mọi khả năng mà thôi. Rồi ông ra ngoài qua cửa sổ, dùng đèn pin xem xét vạt cỏ ở đầu thềm gạch. Hai người kia đưa mắt dõi theo. Trở về, Poirot hỏi: - Thưa ngài Mayfield, lúc ông nhìn thấy kẻ chạy thoáng qua ấy, sao ông đuổi theo? Mayfield nhún vai: - Tới cuối vườn, có thể ra đường cái và nếu có ôtô chờ sẵn, biến mất còn đâu. - Nhưng còn cảnh sát... Các đội tuần tra... Ngài Goerge ngắt lời: - Ông Poirot, ông quên rằng chuyện này thể làm ầm ĩ. Nếu thiên hạ biết rằng sơ đồ bị đánh cắp, rất gay go cho đảng của tôi. - À phải. thể quên vấn đề chính trị. Phải giữ kín. Vì vậy các ngài mới gọi tôi. Như vậy mọi việc đơn giản. Ngài Mayfield hỏi, giọng đượm chút ngờ vực: - Ông hy vọng tìm ra ? Poirot nhún vai: - Tại sao ? Ta chỉ cần biện luận... suy nghĩ. Ngừng lát, ông lại tiếp: - Bây giờ tôi cần chuyện với ông Carlile. - Vâng, có ngay (Ngài Mayfleld đứng dậy). Tôi bảo ta lúc nào cũng ở gần đây. Mayfield ra. Poirot với ngài Goerge: - Nào! ông về cái bóng người ngoài thềm xem sao. - Ông khỏi phải hỏi? Tôi nhìn thấy gì hết. Poirot ghé sát ngài Goerge: - Điều ấy ông rồi. Nhưng ông có ý nghĩ hơi khác, có phải ? - Ông sao? - Goerge giật giọng hỏi lại. - Tôi biết diễn tả thế nào nhi? Hình như ông tin có chuyện ấy. Goerge mở miệng định , lại thôi. Poirot động viên: - Ông cứ xem. Hãy hình dung lại lúc đó. Hai ông đứng ở đầu này thềm. Ngài Mayfield trông thấy bóng người băng qua cửa sổ và chạy qua bãi cỏ. Sao ông nhìn thấy? George Carrington đăm đăm nhìn Poirot. - Ông bấm đúng huyệt tôi rồi. Tôi băn khoăn về chuyện này. Tôi có thể thề có ai băng qua cửa sổ. Tôi cho là Mayfield thần hồn nát thần tính, tưởng tượng ra mà thôi... Có khi là cành bị gió lay động, hoặc cái gì tương tự. Rồi lúc vào đây, biết tài liệu bị lấy cắp, hoá ra điều Mayfield trông thấy có vẻ đúng, còn tôi sai... tuy nhiên... Poirot mỉm cười - Tuy nhiên, trong đáy lòng mình, ông vẫn tin là nhìn thấy cái gì? - Đúng thế, tôi tin. Poirot lại mỉm cười: - Và ông sáng suốt. - có dấu chân nào cỏ - ngài George tiếp. Poirot gật đầu : - Đúng vậy. Ngài Mayfield tưởng tượng nhìn thấy bóng người. Rồi khi biết bị mất cắp, ông ta sinh ra tin, bảo đảm chắc chắn... Nhưng phải. Phần tôi, tôi coi trọng lắm những vết chân hoặc tín hiệu tương tự, nhưng chúng tôi có lời chứng phủ định của ông, đó là điều cần tính đến. bãi cỏ có vết chân; vậy mà tối qua trời mưa rất to, nếu người băng qua thềm và dẫm lên cỏ, ắt phải để lại dấu chân đất ướt. Ngài George nhìn chớp mắt : - Vậy là… Vậy là… - Như vậy ta phải quay vào trong nhà, xem xét những người có mặt... Ông ngừng , vì cửa mở. Ngài Mayfield và Carlile vào. thư ký mặt vẫn còn xanh mét vì lo lắng, song trở lại bình tâm hơn. ta ngồi xuống, chỉnh lại chiếc kính mũi, và nhìn Poirot với vẻ dò hỏi. - Lúc nghe thấy tiếng kêu ấy, ông ở trong phòng này được bao lâu? Carlile suy nghĩ : - Được khoảng từ năm đến mười phút. - Và trước đó, có chuyện gì trục trặc xảy ra? - . - Phần lớn buổi tối, các thực khách đều ở trong cùng phòng? - Vâng, ở phòng khách. Poirot nhìn vào quyển sổ tay : - Có ngài George Carrington và phu nhân, bà Macatta, bà Vanderlyn, cậu Reggie Carrington, ngài Mayfield và ông nữa. Có phải ? - Tôi ở phòng khách. Tôi lam việc tại đây phần lớn buổi tối. Poirot quay về phía Mayfield: - Ai lên gác ngủ đầu tiên? - Phu nhân Juha Carrington phải. Đúng ra, cả ba bà cùng ra lúc. - Rồi sau thế nào? - Rồi Carlile đến, tôi cầu ấy lấy tài liệu ra, để sau vài phút nữa là tôi và George nghiên cứu. - Và lúc đó hai ông ra dạo ngoài thềm? - Phải. - Ông có những điều trước mặt bà Vanderlyn? - Có, lúc chúng tôi , bà ta có ở đấy. - Nhưng bà ta còn trong phòng khách lúc ông bảo Carlile lấy tài liệu? - . - Xin lỗi ngài Mayfield - Carlile - Ngay sau khi ngài bảo tôi, tôi suýt vấp phải bà Vanderlyn ở bậc cửa. Bà ấy quay lại tìm quyển sách. - Tức là bà có thể nghe thấy? - Rất có thể. Poirot lặp lại, vẻ suy nghĩ: - Bà ấy quay lại tìm cuốn sách. Và có tìm thấy ? - Có, Reggie đưa cho bà. - A! Vẫn là cái mẹo cổ điển... Quay lại tìm sách, đôi khi rất quan trọng. - Ông cho là bà ta cố tình? Poirot nhún vai : - Thế rồi, hai ông cùng ra ngoài thềm. Còn bà Vanderlyn làm gì? - Bà ấy cầm sách . - Còn cậu Reggie, cũng lên gác ngủ? - Phải. - Tiếp theo, ông Carlile đến đây, và khoảng từ năm giờ đến năm giờ mười, nghe thấy tiếng kêu. Nghe tiếng kêu ông chạy ra sảnh... ông Carlile, ông thử làm lại hành động của ông lúc ấy xem nào. Carlile hơi lúng túng, đứng lên. - Thế nhé, tôi kêu tiếng - Poirot mở miệng rít . Ngài Mayfield quay mặt để giấu nụ cười, trong khi Carlile tỏ ra cực kỳ ngỡ ngàng. - Nào! Tiến lên! ! - Poirot giục. Carlile nhanh ra phía cửa, mở cửa, ra. Poirot theo sau, hai người kia cũng theo. - Lúc ra, ông có đóng cửa , hay để ngỏ? - Tôi nhớ nữa, có lẽ để ngỏ. - sao. Cứ tiếp tục. Carlile vẫn ngay đơ như cây gậy, tiến tới chân cầu thang rồi đứng đó nhìn lên . - Ông rằng hầu đứng thang gác. Ở chỗ nào? - Gần chỗ lưng chừng. - ta có vẻ hoảng hốt? - Tất nhiên. Poirot bước lên thang gác, : - Vậy tôi là hầu. Đứng chỗ này ư? - Cao hơn chút nữa. - Chỗ này nhé? Và đứng như thế này? - Poirot làm như bộ điệu. - ... hẳn như vậy. - Vậy đứng thế nào? - ấy đưa hai tay ôm đầu. - A! Hai tay ôm đầu! Rất đáng chú ý. Như thế này? Poirot giơ hai tay, áp hai bàn tay lên phía tai. - Vâng, như vậy. - A! A! Mà này ông Carlile, hầu có xinh ? - Thực ra, tôi để ý - Carlile đáp với vẻ bực dọc. - Ông để ý ? Ông còn trẻ, thanh niên mà gặp con biết ta đẹp hay xấu? Carlile nhìn ông chủ như để cầu cứu. Ngài George cười khúc khích, có vẻ thú vị. Poirot xuống thang: - Tôi ấy à, nào đẹp, là tôi để ý ngay. Carlile im lặng . Poirot tiếp: - Và lúc đó ta trông thấy ma? - Vâng. - Ông có tin lời ta? - tin lắm. - Tôi hỏi ông có tin ma quỷ chung, mà ông có tin là nhìn thấy gì ? - Ồ! Điều đó khó . ta thở hổn hển, có vẻ hốt hoảng. - Ông có trông thấy, hoặc nghe thấy bà chủ của ta? - Có, bà Vanderlyn từ trong phòng ra, ở hành lang phía , và gọi hầu “Leonnie! - Và rồi sao? - hầu vội chạy lên, còn tôi quay về phòng. - Trong lúc ông ở chỗ này, chân cầu thang, có ai có thể vào văn phòng bằng cái cửa ông để ngỏ? Carlile ra dấu hiệu phủ định: - Muốn vào phải qua mặt tôi, vì cửa văn phòng ở cuối hành lang, như ông thấy đấy. Poirot gật gù suy ngẫm. Carliìe tiếp, có vẻ cân nhắc từng chữ: - Tôi rất mừng là ngài Mayfield trông thấy tên trộm chạy ra qua cửa sổ, nếu tôi biết ăn thế nào. - yên tâm! - Ngài Mayfield vội - ai ngờ vực gì . - Cám ơn ngài có lòng tốt, song việc vẫn là việc, và ràng tôi ở tình thế mắc kẹt. Dù sao, tôi cầu các ông cứ lục soát các đồ đạc riêng của tôi, và cả thân tôi nữa. - Vớ vẩn! - Mayfield . - Ông muốn lục soát ? - Poirot hỏi. - Thà cứ thế là hơn. Poirot chăm chú nhìn thư ký, : - Thôi được… Phòng bà Vanderlyn ở chỗ nào so với văn phòng? - Dạ, ngay bên . - Có cửa sổ nhìn ra thềm? - Vâng. Poirot lại gật đầu: - Ta vào phòng khách, nhé? Ông khắp phòng, xem kỹ các cửa sổ đóng, và liếc nhìn những sổ ghi bài bridge, cuối cùng quay lại với Mayfield: - Vụ này có vẻ phức tạp hơn ta tưởng. Nhưng có điều chắc là bản tài liệu về sơ đồ vẫn còn trong nhà này. Ngài Mayfield giương đôi mắt kinh ngạc nhìn Poirot: - Nhưng, cái người mà tôi trông thấy ra... - Người ấy hề có. - Tôi trông thấy mà. - Thưa ngài Mayfield, dù rất kính trọng ngài, tôi vẫn phải rằng ngài bị ảo giác đánh lừa. Có thể là bóng của cành cây nào đó, thế rồi vụ mất cắp lại làm ngài đinh ninh là trông thấy người. - Ông Poirot, chả lẽ chính mắt tôi... Ngài George vội ngay: - mắt tôi kém gì mắt ông, mà tôi thấy gì... - Cho phép tôi được khẳng định điểm này, ngài Mayfiela ạ. có ai chạy qua thềm ra. bãi cỏ. Mặt Carlile tái nhợt. - Nếu ông Poirot đúng, mọi nghi ngờ tất phải hướng về tôi. Tôi là người duy nhất có thể lấy cắp. Ngài Mayfleld chồm dậy: - thể như thế! Ông Poirot gì , tôi đồng ý. Carlile, tôi tin vô tội, tôi bảo lãnh cho . Poirot giơ tay: - Nhưng tôi đâu có là nghi ông Carlile. - - Carlile cướp lời - nhưng thế khác nào bảo chỉ có tôi mới có thể ăn cắp. - Đâu có, đâu có! - Nhưng tôi có ai qua mặt tôi để vào văn phòng. - Đồng ý. Song người ta có thể vào qua cửa sổ. - Ô hay! chính ông vừa chứng minh việc đó thể có. - Tôi ai từ bên ngoài có thể vào hoặc ra mà để lại vết chân cỏ. Nhưng người từ bên trong vào được. Người đó qua cửa sổ phòng khách chẳng hạn, dọc thềm gạch rồi vào văn phòng qua cửa sổ mở, rồi trở ra cũng bằng đường ấy. Carlile có ý kiến: - Nhưng ngài Mayfield và ngài George đều ở ngoài thềm. - Đúng vậy, nhưng hai ông dạo từ đầu này đến đầu kia. Mắt ngài George có thể rất tinh, nhưng ngài có mắt sau gáy! Cửa sổ văn phòng ở cuối phía trái, và cửa sổ phòng khách tiếp ngay sau đó, mà thềm dọc qua tới ba, bốn phòng là ít. - Phòng ăn, phòng bi-a, phòng khách và phòng sách - ngài Mayfleld thêm. - Và các ông lại lại ngoài thềm bao nhiêu lần tất cả? - Ít nhất năm, sáu lần. - Do đó rất dễ, tên trộm chỉ cần rình lúc thích hợp! lát yên lặng. - Ông muốn là trong lúc tôi đứng ngoài sảnh trao đồi với hầu, tên trộm rình ở phòng khách? - Giả thuyết đó ít có khả năng - ngài Mayfield - Như thế rất mạo hiểm. Ngài thống chế quân lại có ý khác: - Ông Mayfield, tôi đồng ý với ông. Điều đó là có thể. Thế mà sao tôi đủ thông minh để nghĩ ra. - Bây giờ các ông hiểu tại sao tôi tin là tài liệu vẫn còn ở trong nhà - Poirot - Tìm xem nó giấu ở chỗ nào, đó là vấn đề. Ngài George cười gằn: - đơn giản. Hãy khám xét tất cả mọi người. Ngài Mayfleld ra hiệu phản đối, song Poirot kịp ngay: - , , đơn giản như vậy. Người lấy cắp ắt đoán có khám xét, dại gì dấu tài liệu trong phòng hoặc đồ đạc riêng. Phải tìm ở chỗ trung lập. - Chả lẽ chúng ta lại phải chơi trò ú tim trong khắp cái nhà này? Poirot cười: - , , cần dùng cái phương pháp thô thiển ấy. Ta có thể tìm ra chỗ giấu - hoặc người lấy cắp - bằng cách suy nghĩ và biện luận. Như vậy đơn giản hơn. Sáng mai, tôi định hỏi chuyện tất cả mọi người trong nhà, chứ ngay bây giờ tiện. Ngài Mayfield tỏ ý đồng tình: - Đúng. Ba giờ sáng mà dựng mọi người dậy, ắt sinh ra lắm điều bàn tán. Dù sao cũng phải tiến hành cách thận trọng, được để lộ mục đích. Việc này phải giữ kín, ông Poirot. Poirot cười xoà: - Ngài hãy tin ở Hercule Poirot này. Tôi mà dối ai cũng tưởng như . Vậy mai tôi tiếp tục điều tra. Nhưng ngay đêm nay tôi bắt đầu bằng việc hỏi ông trước, ngài George ạ, và cả ngài nữa, ngài Mayfield. Cả hai nghiêng mình đồng ý. - Ông hỏi... từng người ? - Ý định tôi là như vậy. Ngài Mayfield hơi cau mày: - Thế cũng được. Vậy ông ở lại với George. Khi nào cần tôi, ông cứ tìm ở văn phòng. Carlile, ta ra thôi. Ông chủ và thư ký ra và đóng cửa lại. * * * Ngài George ngồi xuống, châm điếu xì gà và nhìn Poirot với vẻ lưỡng lự, : - Quả , tôi hiểu nổi chuyện này. - Song cũng dễ giải thích thôi - Poirot vừa cười vừa - Có thể tóm trong hai từ: phụ nữ! - Ồ! Ông định bà Vanderlyn? - Đúng thế. Hỏi thẳng ông Mayfield điều này chưa tiện. Tại sao là bà Vanderlyn? Bà này nổi tiếng là gian. Và tại sao bà có mặt ở đây? Chỉ có ba cách giải thích: thứ nhất, ngài Mayfield thân với bà ta (đó là lý do tôi muốn gặp riêng ông, có mặt ngài Mayfield); thứ hai, bà Vanderlyn có thề là bạn thân của người nào khác trong nhà này? - Ông phải loại trừ tôi ra nhé - ngài George cười. - Nếu cả hai cách giải thích trúng, vấn đề đặt ra có hai mặt: Tại sao là bà Vanderlyn? Lờ mờ tìm ra lời giải đáp. Có lý do: có mặt của bà ta trong trường hợp này là do ngài Mayfleld cố tình sắp đặt nhằm đích nào đó. Đúng nào? - Ông đoán đúng - George - Mayfield đủ sáng suốt để bị bà ta cho vào bẫy. Ông ta muốn bà có mặt vì lý do hoàn toàn khác, tôi xin như sau. Và George kể lại câu chuyện giữa hai người tại phòng ăn sau khi ăn xong. Poirot chăm chú nghe rồi thốt lên : - À! Giờ tôi hiểu. Tuy nhiên bà phụ nữ tinh quái kia dường như đảo ngược các vai trò cách khéo léo. Ngài George buông ra lời văng tục trước con mắt thú vị của Poirot . - Vậy ông tin rằng vụ mất cắp này là tác phẩm của bà ta... Có nghĩa là bà ta chủ mưu, dù có trực tiếp hay trực tiếp nhúng tay vào? Rồi ngài George giật nảy mình: - Ồ ! còn nghi ngờ gì nữa. Còn ai khác lấy cắp các sơ đồ ấy để mưu lợi? Poirot ngước mắt nhìn lên trần: - A! Tuy nhiên, vừa lúc nãy, ta thống nhất rằng tập tài liệu ấy đáng giá món tiền lớn. Vậy còn ai trong nhà này ở trong tình trạng túng thiếu nữa ? Ngài George nhún vai: - Thời buổi này, ai mà túng? Tôi cũng túng, nhưng vì thế mà kết tội tôi. Ngài cười. Poirot lễ phép mỉm cười lại : - Tất nhiên, ông gì chẳng được, vì ông có chứng cứ ngoại phạm sờ sờ. - Nhưng tôi rất túng tiền! - Vâng, người như ông phải tiêu pha nhiều khoản, con trai ông lại ở cái tuổi đòi tiền... Ngài George: - Phải, thằng ấy cũng tiêu tiền, đôi khi mắc nợ nữa. Song nó phải đứa xấu. Poirot ngồi nghe với mối thiện cảm. Ông thông cảm với nỗi lo âu đời thường của vị thống chế quân, với vô tư yếu đuối của thế hệ trẻ, với nhu nhược của các bà mẹ quá nuông chiều con cái, với tính ham bài bạc của các mệnh phụ phu nhân nướng tiền tiếc tay vào cuộc đỏ đen. Ngài George bỗng ngừng lời: - Xin lỗi, tôi làm mất giờ ông vì những chuyện ngoài đề , nhất là vào lúc đêm khuya... gần sáng này. Ông đưa tay che cái ngáp dài. Poirot bảo: - Ngài cần ngủ thôi. Ngài giúp tôi thế là đủ. - Vâng, tôi lên gác đây. Liệu ông có thấy chút hy vọng nào tìm lại tài liệu? Poirot nhún vai : - Tôi thử, lý gì mà thành công. - Thế tốt! Chào ông! * * * George ra, Poirot ngồi suy nghĩ hồi lâu, rồi giở sổ, viết: Bà Valderlyn? Phu nhân Julia Carrington? Bà Macatta? Reggie Carrington? Carlile? Và bên dưới: Bà Valderlyn và Reggie Carrington? Bà Valderlyn và phu nhân Julia Carrington? Bà Valderyn và Carlile? Ông lắc đầu, hài lòng và lẩm bẩm: - thực đơn giản hơn nhiều. Và viết thêm : Mayfield có nhìn thấy bóng người ? Nếu , sao lại là có? George có nhìn thấy gì ? Sau khi mình xem xét lại vạt cỏ, ông ta bảo nhìn thấy gì. Chú thích: Mayfield cận thị, có thể đọc kính, nhưng nhìn xa phải có mục kỉnh. George viễn thị, vẫn đứng ở đầu này thềm, nên tin vào mắt ông ta hơn mắt Mayfield. Vậy mà ông này khẳng định có nhìn thấy, dù ông bạn phủ nhận cũng lay chuyển. Carlile có trong trắng như Mayfield , chỉ mà ông này còn khẳng định quá lời. Tại sao? Vì ông ta bí mật nghi ngờ thư ký, nhưng xấu hổ dám ra? Hay ông ta thực nghi cho người nào khác, nghĩa là người phải bà Vanderlyn? Poirot gấp sổ, vào văn phòng ngài Mayfield.
CHUƠNG V Ngài Mayfield viết. Thấy Poirot vào, ông đặt bút, hỏi: - A, ông chuyện xong với Carrington? Poirot ngồi xuống, cười: - Vâng, và ông ấy làm sáng tỏ vấn đề mà tôi băn khoăn. - Vấn đề gì vậy? - có mặt của Vanderlyn ở đây. Ông hiểu , tôi cho là có thể... Mayfield hiểu lý do khiến Poirot ngập ngừng: - Ông cho rằng tôi có chiều thân thiết với bà ta chứ gì? hề! Và buồn cười nữa là Carrington cũng nghĩ như ông. - Vâng, ông ấy kể lại câu chuyện hai người với nhau. Ngài Mayfield thở dài: - Ý đồ của tôi thành. là thú vị khi phải công nhận bị đàn bà đánh lừa. - A? Nhưng mọi việc xong đâu? - Ông vẫn cho rằng mình thắng? Nghe ông vậy, tôi hết sức mừng và rất muốn tin (Thở dài). Tôi hành động như thằng ngu... Thế mà thích thú là sắp đưa bà ta vào tròng. Hercule Poirot châm điếu thuốc lá: - Vậy cái cách ông định làm là thế nào vậy? Mayfield lưỡng lự: - Tôi chưa dụ tính hết các chi tiết. - Ông với ai chứ? - . - Cũng với cả Carlile? - . Poirot mỉm cười: - Ông muốn hành động mình. - Kinh nghiệm chứng tỏ như thế là tốt hơn. - Vâng, nên tin vào ai. Tuy nhiên ông có với George Carrington. - Đó là vì tôi hiểu rằng ông ấy rất lo lắng cho tôi. - Hai người là bạn thân? - Vâng, chúng tôi biết nhau hơn hai chục năm. - Và vợ ông ấy? - Tất nhiên, biết cả bà vợ. - Nhưng - xin lỗi nếu tôi tọc mạch - thân thiết bằng? - những quan hệ riêng tư ấy liên quan gì đến vụ này. - Ngược lại, thưa ngài Mayfield, tôi cho là có thể có tầm quan trọng. Ông chấp nhận giả thuyết của tôi có người rình sẵn ở phòng khách chờ dịp, là có khả năng? - Vâng, tôi đồng ý với ông là việc xẩy ra như thế! - Ta chớ nên khẳng định vội. Song trong trường hợp ấy, người rình ở phòng khách là ai? - Bà Vanderlyn, tất nhiên. Bà ta quay lại đây tìm sách, và rất có thể, dưới nhiều lý do riêng của phụ nữ: tìm túi, tìm khăn để quên, lại xuống lần thứ hai. Có thể bà ta bố trí trước với người hầu để này hét lên tiếng, nhử Carlile ra ngoài. Lúc đó bà ta lẻn vào rồi lại ra theo đường cửa sổ, như ông . - Ông quên rằng người đó thể là bà Vanderlyn. Carlile nghe tiếng bà ta gọi hầu từ gác hai. Ngài Mayfield cắn môi thất vọng: - Ừ phải, tôi quên mất. Poirot nhàng tiếp: - Nên nhớ là ta vẫn tiến triển. Mới đầu ta chỉ giải thích đơn giản là có kẻ cắp từ ngoài lẻn vào rồi lấy tài liệu mang . Ta bác bỏ khả năng đó. Rồi ta tới giả thuyết về bà Vanderlyn là điệp viện của nước ngoài, có vẻ rất ăn khớp về mặt nào đó. Song bây giờ giả thuyết này cũng là quá dễ... quá đơn giản, thể chấp nhận. - Ông hoàn toàn loại trừ bà Vanderlyn ra khỏi vụ này? - Bà ta có trong phòng khách. Có thể là tòng phạm của bà Vanderlyn lấy cắp, song tên này cũng có thể là tay chân của người hoàn toàn khác. Trường hợp đó, ta lại phải xem xét vẫn đề động cơ. - Liệu ông có tìm quá xa , ông Poirot? - Tôi tin. Ta thử xem các loại động cơ có thể có... Trước hết là vì hám lợi, ăn cắp tài liệu bán lấy tiền. Đó là thứ động cơ đơn giản nhất. Nhưng còn những động cơ khác. - Ví dụ... Poirot thong thả : - Vụ lấy cắp này có thể nhằm mục đích làm hại người nào đó. - Làm hai ai? - Ông Carlile chẳng hạn, vì ông ta mặc nhiên bị kết tội. Nhưng có thể kẻ cắp nhắm cao hơn; làm hại những người lãnh đạo của đất nước, họ bị dư luận xã hội công kích, lên án. - Có nghĩa là vụ lấy cắp nhằm mục đích làm hại tôi? Poirot gật đầu: - Nếu tôi lầm, ngài Mayfield ạ, năm năm trước đây ngài gặp khó khăn lớn khi bị nghi vấn là có quan hệ mờ ám với cường quốc nước ngoài. - Đúng vậy. - Trách nhiệm của chính khách thời nay là rất nặng nề, vừa phải theo đuổi chính sách nào có lợi nhất cho nước mình, vừa phải tính đến sức mạnh của dư luận quần chúng. Mà dư luận quần chúng vô cùng nhạy cảm, có thể đúng, có thể sai, nhưng thể nào bất chấp. - Ra ông rất hiểu gánh nặng trách nhiệm của chính khách. Người đó luôn luôn phải chiều theo dư luận quần chúng dù biết rằng dư luận ấy đôi khi sai lạc đến nguy hiểm. - Đó là lựa chọn mà ngài luôn phải đương đầu. Hồi đó người ta đồn đại là ngài bí mật thương lượng với nước đó. Cả nước, rồi báo chí đều chống lại ngài. May thay, ngài thủ tướng cực lực cải chính tin đó, và ngài cũng lên tiếng chối bỏ. - Tất cả đều đúng, nhưng ông nhắc lại chuyện cũ làm gì? - Vì tôi dự kiến khả năng có kẻ thù để ngài vượt qua khủng hoảng dễ như vậy, và muốn gây cho ngài khó khăn mới. Sau vụ đó, ngài mau chóng chiếm lại niềm tin của dư luận, và bây giờ ngài là nhân vật khá nổi tiếng chính trường. Người ta dự đoán ngài lên chức Thủ tướng khi Thủ tướng đương kim rút lui vì tuổi tác. - Vậy ông cho đây là mưu đánh vào uy tín của tôi? Vô lý? - Nhất định rồi. Khi mọi người biết sơ đồ kiểu máy bay ném bom mới của nước bị đánh cắp tại nhà ngài trong cuộc tiếp tân cuối tuần, có mặt phụ nữ nổi tiếng là nguy hiểm, dư luận nghĩ ra sao? Chỉ cần bài báo ám chỉ ngài có quan hệ mờ ám với người đàn bà đó, là uy tín của ngài bị đòn nặng. - Ai tin những chuyện vớ vẩn đó? - , ngài thừa biết là có. Để lay chuyển lòng tin của công chúng, thường tốn công bao nhiêu. - Đúng vậy - ngài Mayfield đột nhiên công nhận và tỏ vẻ lo lắng - Lạy Trời! Vụ này sao mà phức tạp! Ông tin là... nhưng thể... thể... - Ngài biết có người nào ganh ghét ngài? - Vớ vẩn. - Dù sao, ngài công nhận rằng những điều tôi về mối quan hệ riêng tư của ngài với các vị khách ngụ tại tư dinh của ngài, là vô ích. - Vậy có thể. Ông hỏi tôi về bà Julia Carrington, chẳng có gì nhiều để . Cả hai chúng tôi đều có nhiều cảm tình với nhau. Bà ấy là phụ nữ nông nồi, nóng nẩy, nhiều sở thích kỳ lạ, và chơi bài như điên. Bà thuộc loại người cổ xưa rồi, và vì tôi là người thành đạt bằng tự lực của mình chứ thuộc dòng dõi cao quý, nên bà coi thường tôi. Poirot ra ý hiểu: - Trước khi đến đây, tôi tra tên ngài trong cuốn Who’s who ( thứ danh bạ cung cấp thông tin về những người có danh trong các lĩnh vực). Ngài là chủ của nhà máy cơ khí nổi tiếng, bản thân ngài là kỹ sư hạng nhất. - Tôi từ dưới mà leo tất cả các bậc thang, nên rất am hiểu chuyên môn. Bỗng Poirot kêu: - Ô là là! Sao tôi quên mất... Ngu quá! Mayfleld sửng sốt: - Chuyện gì vậy? - phần bài toán bỗng nhiên trong tôi. Tôi bỏ sót khía cạnh... nay mọi thứ ăn khớp với nhau tuyệt vời. Mayfield thực ngạc nhiên, nhìn Poirot như muốn hỏi, nhưng thám tử lắc đầu, cười: - , , bây giờ chưa. Tôi còn phải sắp xếp mọi yếu tố cho hơn nữa (ông đứng lên). Xin chào ông. Có lẽ tôi biết bản sơ đồ ở đâu rồi. - Ông biết rồi? - ngài Mayfield kêu - Thế lấy lại ngay . Poirot giơ tay : - , , hấp tấp là hỏng việc. Ông cứ để Hercule Poirot này làm việc. Rồi ông ra. Mayfield nhún vai, vẻ coi thường, lẩm bẩm: - Cái chàng này chỉ mép. Và sau khi xếp lại giấy tờ, tắt đèn, ông lên gác ngủ.