Bức họa chết người - Agatha Christine (17 chương)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 9: buổi sáng tại chợ Basing

      Tất cả tốt đẹp, bà Copleigh, khi bà nhảy ra khỏi phòng. Ngày khác. Đó là những gì tôi luôn khi thức dậy.

      Ngày khác. Tuppence nghĩ, nhấp chén trà đen đậm. Mình tự hỏi mình có tự biến mình kẻ ngu ?... có thể lắm... ta ước Tommy ở đây để chuyện. Tối qua làm ta mụ .

      Trước khi rời phòng, Tuppence ghi vào sổ ghi chép từng đoạn ngắn từng kiện từng tên gọi khác nhau nghe tối hôm trước, mà lúc lên giường quá mệt làm được. Những câu chuyện mang tính bi kịch mê lô, của quá khứ, có lẽ hàm chứa những hạt giống đây đó nhưng hầu như chỉ là nghe lóm, chuyện tầm phào, ác ý, tính tưởng tượng lãng mạn.

      , Tuppence nghĩ, mình bắt đầu hiểu đời sống tình của số lượng người bước lùi vào thế kỉ mười tám, mình nghĩ thế. Nhưng tất cả lên tới cái gì đây? Và mình tìm kiếm cái gì? thậm chí mình biết nữa. Việc khủng khiếp nhất là mình vướng vào và mình thể lùi được nữa.

      mối nghi ngờ sắc bén rằng việc đầu tiên có thể gặp rắc rối là Bligh, người mà Tuppence nhận ra như là mối hăm dọa toàn thể Sutton Chancelor, tránh né tất cả những hiến tặng giúp đỡ bằng cách lái xe nhanh quá bưu điện chợ Basing, chỉ ngưng lại chốc, khi chiếc xe bị Bligh với những tiếng kêu lanh lảnh đường đột đến bắt chuyện, để giải thích với qúy kia rằng cuộc họp gấp... khi nào trở về? Tuppence mơ hồ - ăn trưa chứ? - Bligh rất tử tế, nhưng Tuppence sợ hãi.

      “Trà, được. 4g30 tôi đợi .” Đó hầu như là Mệnh lệnh Hoàng gia.

      Tuppence mỉm cười, gật đầu, khởi động máy cho xe chạy.

      Có khả năng, Tuppence nghĩ - từ những đại lí nhà tại chợ Basing, nếu kiếm được bất cứ cái gì đáng chú ý - Nellie Bligh có thể cung cấp thêm thông tin có ích. ta là loại phụ nữ tự kiêu về chuyện hiểu mọi người ở đây. Khó khăn bất ngờ là quyết định biết tất cả về Tuppence. Có thể vào buổi trưa này lần nữa Tuppence hồi phục lại khả năng bịa đặt của mình!

      “ Hãy nhớ lại bà Blenkinsop,” Tuppence , thận trọng vòng quanh khúc cua ngặt và ép vào hàng rào để tránh bị chiếc xe tải to như con bò mộng thích đùa thủ tiêu.

      Đến chợ Basing đậu xe vào khu đỗ xe chính, vào bưu điện và bước vào phòng điện thoại còn trống.

      Giọng Albert trả lời - dùng lối đáp thông thường của ta - tiếng độc nhất “ hallo” thốt ra nghi ngờ.

      - Nghe đây, Albert - tôi về nhà ngày mai. Đúng giờ ăn trưa - có lẽ sớm hơn. Ông Beresfold cũng về nữa, trừ phi ông ấy gọi điện. Cho chúng tôi món gì đó - gà nhé, tôi nghĩ thế.

      - , thưa bà. Bà ở đâu - Nhưng Tuppence tắt máy.

      Cuộc sống của chợ Basing dường như đặt trọng tâm tại khu quan trọng nhất của nó - Tuppence tham khảo tự điển cũ trước khi rời bưu điện và ba nhà trong số bốn nhà và những đại lí nhà đất có vị trí trong khu vực - nhà thứ tư ngự đường George.

      Tuppence viết tháu những cái tên rồi ra ngoài tìm.

      bắt đầu với nhà Messrs. Lovebody và Slicker ràng là uy nghi nhất.

      với những vết nám tiếp .

      - Tôi muốn hỏi về căn nhà.

      nhận tin này chút chú ý. Có lẽ Tuppence hỏi về số động vật quý hiếm nào đó.

      - Tôi biết, tôi bảo đảm, đáp, nhìn quanh xem có đồng nghiệp nào có thể traoTuppence lại .

      - căn nhà, Tuppence . là nhân viên đại lí nhà, phải ?

      - Đại lí nhà và bán đấu giá. Nhà bán đấu giá Cranberry mở cửa ngày thứ tư nếu đó là cái quan tâm, hai silling bảng danh mục.

      - Tôi lưu tâm chuyện bán đấu giá. Tôi muốn hỏi về căn nhà.

      - Có đồ đạc?

      - đồ đạc. Để mua - hay bán.

      Những nốt chấm sáng lên chút.

      - Tôi nghĩ tốt hơn nên gặp ông Slicker.

      Tuppence mạnh mẽ ủng hộ việc gặp gỡ ông Slicker và ngay sau đó ở trong văn phòng đối diện với người đàn ông mặc bộ đồ vải túyt ca rô có in hình ngựa, ông ta bắt đầu lật ra con số lớn những địa chỉ đăng kí đặc biệt đáng ao ước - thầm những lời bình luận ...’8 Mandeville Road - kiến trúc sư xây, ba phòng, bếp Mỹ - ồ , cái đó qua rồi - Nhà mướn Amabel - địa chỉ có khung cảnh, bốn mẫu - bán nhanh giảm bớt giá.

      Tuppence ngắt lời ông ta mạnh mẽ: ‘tôi thấy căn nhà quay về hướng tôi thích - tại Sutton Chancellor - hay hơn nữa, gần Sutton Chancellor - bên con kênh.

      - Sutton Chancellor, ông Sliker có vẻ nghi ngờ - tôi nghĩ tại trong hồ sơ chúng tôi có bất động sản nào ở đó cả.

      Dường như có bảng tên nào - có thể là Watersider. Rivermead - có lần được gọi là ngôi nhà bên cầu. Tôi hiểu, Tuppence , căn nhà chia hai phần. nửa cho thuê nhưng những người thuê nhà thể cho tôi biết về nửa kia, nửa quay ra con kênh và là nửa nhà tôi thích. ràng chỗ chưa có ai thuê.

      Ông Slicker lập tức rằng ông e là ông thể giúp được, nhưng hạ cố cung cấp thông tin nhà Messrs. Blodget và Burgess có thể làm được điều đó. Dựa vào giọng đó, vị thư kí hình như ám chỉ nhà Messrrs. Blodget và Burgess là hãng rất thấp kém.

      Tuppence đổi tuyến đường đến nhà Messr. Blodget và Burgess phía đối diện quảng trường - và bất động sản được đề cập đến của họ rất giống với bất động sản của nhà Messrs. Lovebody và Slicker - trong những cửa sổ bám đầy cáu bẩn của họ cùng loại những hoá đơn bán và những cuộc bán đấu giá sẵn có nếu cần. Mặt tiền vừa mới được sơn lại nhiều màu lục khác nhau rực rỡ hơn, nếu được coi như là hành động có khen thưởng.

      Những sắp xếp tiếp nhận khích lệ tương đương, Tuppence được chuyển qua ông Sprig, ông già tâm tình ràng chán nản. lần nữa Tuppence thuật lại những nhu cầu của mình và những điều kiện cần thiết.

      Ông Sprig chấp nhận nhận thức về địa chỉ đăng kí tại, nhưng hi vọng, hay hình như tới điểm nào đó, được quan tâm lắm.

      - Tôi e là căn nhà đó ở tại chơ. Người chủ nhà muốn bán.

      - Chủ nhà là ai?

      - ra tôi biết . Nó thường xuyên đổi chủ - lúc nào đó có tin đồn về đơn đặt hàng bắt buộc.

      - Chính quyền địa phương cần nó với mục đích gì?

      - , bà - è -( ông ta liếc nhìn tên Tuppence ghi nguyệch ngoạc trong tờ giấy thấm lớn của mình) - bà Beresford, nếu bà có thể trả lời được cho tôi câu hỏi này bà là người khôn hơn những vật tế thần gây ấn tượng nhất là những ngày này. Cách của hội đồng địa phương và việc lập kế hoạch xã hội luôn che phủ trong vòng bí mật. Phần hậu ngôi nhà có số sữa chữa cần thiết và được cho thuê giá cực kì rẻ - è - à vâng, ông và bà Perry. Phần liên quan đến người chủ thực tế của bất động sản, vị qúy tộc trong vấn đề sống ở nước ngoài hình như hết quan tâm đến nó. Tôi tưởng có số vấn đề về kế thừa ít quan trọng, và được những cố vấn pháp luật điều hành. số khó khăn về luật pháp dựng lên - luật pháp thiên về tốn kém, bà Beresford - tôi tưởng người chủ hoàn toàn bằng lòng việc căn nhà sụp đổ - thực sửa chữa nào ngoại trừ phần gia đình Perry ở. Tất nhiên, thực tế đất đai có giá trị hơn trong tương lai - việc sửa chữa những ngôi nhà bỏ hoang ít khi thích hợp. Nếu bà quan tâm đến bất động sản loại đó, tôi bảo đảm tôi có thể cung cấp cho bà số bất động sản có giá trị hơn cái của bà. Nếu tôi có thể hỏi, trong khu đất đó có cái gì đặc biệt lôi cuốn bà thế?

      - Tôi thích dáng vẻ bên ngoài của nó, Tuppence . Đó là ngôi nhà rất Đẹp - tôi nhìn thấy nó đầu tiên từ chuyến tàu.

      - Tôi hiểu - ông Sprig ghi dấu nhanh nhất cảm tưởng ông có thể có’ ngu ngốc của đàn bà thể tin được’ - và mềm mỏng ,’ tôi quên tất cả về nó nếu tôi là bà.’

      - Tôi cho rằng bà có thể hỏi ngừơi chủ nếu họ chuẩn bị bán - hay nếu bà cho tôi địa chỉ của họ - hay của ông ta?

      - Chúng tôi liên hệ với những cố vấn pháp luật của những chủ nhà nếu bà đòi hỏi - nhưng tôi thể đưa ra nhiều hi vọng lắm đâu.

      - Tôi cho rằng người ta phải thông qua các cố vấn pháp luật về mọi ngày hôm nay. Tuppence nghe vang vừa ngu ngốc vừa cáu kỉnh... và luật sư luôn luôn làm Chậm trễ mọi việc.

      - A vâng, luật pháp sinh sôi nảy nở nhiều trì hoãn.

      - Và Ngân hàng cũng vậy - tồi tệ!

      - Ngân hàng - Ông Sprig hơi giật mình.

      - Quá nhiều người cho bạn Địa chỉ ngân hàng. Điều này cũng mệt nữa.

      - Phải - phải - như - nhưng ngày nay người ta hiếu động quá và xê dịch quá nhiều - sống ở ngoại quốc và vậy đó. Ông mở ngăn kéo bàn giấy. Nào. Tôi có bất động sẳn ở đây, Crossgates - hai dặm từ chợ Basing - điều kiện rất tốt - vườn đẹp. - Tuppence đứng lên.

      - cám ơn.

      quả quyết chào tạm biệt ông Sprig rồi bước ra ngoài quảng trường.

      viếng thăm nhanh toà nhà thứ ba dường như là chỗ chính thức bán bò sữa, nông trại nuôi gà và đại để những nông trại trong tình trạng bỏ hoang.

      thăm lần cuối cùng nhà Messr. Robert và Wiley tại đường George - hình như là sở nhưng công việc túi bụi, do đòi hỏi của luật pháp mà bắt buộc phải lo - nhưng chung thú vị và biết Sutton Chancellor và lo bán những nơi cư trú chỉ mới xây nửa với giá tiền rất đắt kì dị - bức minh họa của chỗ khiến Tuppence rùn vai. Người đàn ông trẻ thấy khách hàng có thể ra, bèn chấp nhận sẵn lòng lắm hữu của nơi như Sutton Chancellor.

      - nhắc đến Sutton Chancellor. Tốt hơn nên thử hỏi nhà Blodget và Burgess tại khu vực. Họ nắm giữ số động sản trong tay xung quanh - nhưng tất cả đều ở trong tình trạng rât nghèo nàn - sụp đổ.

      - Có ngôi nhà tuyệt đẹp gần đó, bên chiếc cầu qua con kênh - tôi thấy nó từ chuyến tàu. Tại sao ai muốn sống ở đó?

      - Ô! Tôi biết chỗ ấy, đây - bờ sông - kiếm được ai ở đó - nó nổi danh là ngôi nhà bị ma ám.

      - Ông muốn - có ma?

      - Người ta vậy - nhiều câu chuyện về nó. Tiếng ồn ban đêm. Và tiếng rên rỉ. Nếu hỏi tôi, đó là tiếng con mọt nghiến.

      - Chao ôi, Tuppence . Đối với tôi nó có vẻ đẹp và hiu quạnh.

      - Đa số mọi người chỗ ấy quá hiu quạnh chứ sao. Ngập lụt vào mùa đông - hãy nghĩ đến điều ấy.

      - Tôi thấy có nhiều chuyện để nghĩ. Tuppence cay đắng .

      lẩm bẩm khi lê chân về quán Con Thỏ và Lá Cờ nơi định tăng cường bữa ăn trưa cho mình.

      ‘Nhiều chuyện để nghĩ - lụt, con mọt nghiến, ma, tiếng xích sắt vang rền, vắng mặt những chủ nhà và chủ đất, những cố vấn pháp luật, những ngân hàng - căn nhà ai cần hay thích - có lẽ ngoại trừ Ta - ồ, cái ta muốn bây giờ là Thức Ăn.

      Thức ăn tại Con Thỏ và Lá Cờ ngon và nhiều - món ăn thịnh soạn dành cho nông dân hơn là thực đơn giả tạo của Pháp dành cho du khách qua - súp đặc khai vị, chân heo với nước sốt táo, phó mát Stilton - mận và bánh kem sữa nếu bạn thích - mà Tuppence .

      Sau chuyến dạo quanh rời rạc, Tuppence trở lại xe hơi và lái về Sutton Chancellor - thế cảm thấy rằng buối sáng của mình có kết quả.

      Khi trở lại góc cuối cùng và nhà thờ Sutton Chancellor ra trong tầm mắt, Tuppence thấy dạng cha xứ nổi lên trong sân nhà thờ. Ông bước rất chậm. Tuppence lái đến gần ông.

      - Cha vẫn còn tìm nấm mộ đó à? hỏi.

      Cha cố đặt bàn tay lên cái lưng gầy gò.

      - Chao ơi, ông , mắt cha tốt lắm. Quá nhiều lời đề bia bị tẩy xóa. Lưng cha cũng làm cha đau. Quá nhiều đá bia nằm liệt đất. , khi cha cúi xuống, cha có cảm giác mình bao giờ đứng lên được nữa.

      - Con cũng làm chuyện ấy nữa, Tuppence . Nếu cha nhin vào bảng đăng kí của giáo xứ và chí có vậy, cha làm tất cả việc cần làm.

      - Cha hiểu, nhưng ông bạn khốn khổ dường như quá mong mỏi, quá tha thiết. Cha hoàn toàn tin chắc rằng tất cả chỉ là lao động phí thời gian thôi. Tuy nhiên, cha cảm thấy đó là nhiệm vụ của mình. Cha còn khoảng ngắn nữa cha chưa tìm, tứ cây thông đỏ bên kia đến bức tường đằng xa - mặc dù dù hầu hết bia mộ đều vào thế kỉ mười tám. Nhưng cha vẫn thích cái cảm giác cha làm xong nhiệm vụ của mình cách rốt ráo. Cha thể tự mình đến gần được. Tuy vậy, cha để lại đến ngày mai.

      - Hoàn toàn có lí. Tuppence . Cha nên làm quá nhiều việc trong ngày, con bảo cha nhé, thêm vào. Sau khi con uống trà với Bligh xong, con và tự con xem xét. Từ cây thông đỏ đến bức tường, cha thế phải ?

      - Nhưng cha thể đòi hỏi khả thể đó nơi con.

      - Chuyện đó ổn thôi. Con hoàn toàn thích làm. Con nghĩ lảng vảng quanh sân nhà thờ rất thú vị. Cha biết mà, những chữ khắc cổ cho ta bức tranh của người ở đây và tất cả mọi điều giải thích được. Con hoàn toàn tận hưởng điều đó, con thích mà. Hãy trở về và nghỉ ngơi cha.

      - Dĩ nhiên rồi, chiều nay cha ra phải làm cái gì đó về bài thuyết giáo của mình. Con là người bạn rất tốt bung. Cha tin chắc thế. người bạn Rất tử tế.

      Ông cười tươi với rồi vào nhà của cha xứ. Tuppence liếc nhìn đồng hồ tay. dừng lại cạnh nhà Bligh. ‘Cũng nên có ý định khắc phục’, Tuppence nghĩ. Cánh cửa trước mở Bligh vừa mang dĩa bánh x-côn mới nướng băng qua tiền sảnh vào phòng khách.

      - Ô! Bà đây rồi, bà Beresford thân mến. Tôi rẩt vui được gặp bà. Trà sẵn sàng rồi. nước bắc. Tôi chỉ mới bỏ trà. Tôi hi vọng bà mua sắm đủ thứ bà muốn. thêm vào, lưu ý nhìn chứng cớ trống rỗng cách đau đớn trong cái bị mua sắm cánh tay của Tuppence .

      - tôi có nhiều vận may, Tuppence , khoác bộ mặt lương thiện khi cần. biết đấy - chỉ thỉnh thoảng thôi - trúng cái ngày người ta tìm được màu sắc hay đồ vật đặc biệt mình cần. Nhưng tôi luôn luôn tận hưởng cái thú tham quan nơi mới lạ thậm chí dù nó thú vị gì.

      Tiếng còi ấm nước phát ra tiếng rít the thé đòi hỏi chú ý và Bligh ném mình trở vào bếp để theo dõi, rải bộ thư chờ gởi bưu điện cái bàn phòng đợi.

      Tuppence khom mình nhặt lên, khi đặt chúng bàn chú ý đỉnh bì thư đề địa chỉ gởi bà Yorke, Nhà Rosetrellis dành cho Quý bà Có Tuổi - gởi đến địa chỉ ở Cumberland.

      , Tuppence nghĩ, mình bắt đầu cảm thấy toàn xứ này có gì ngoài những Nhà Dưỡng lão! Tin chắc lâu nữa Tommy và mình ở trong nhà!”

      Chỉ có ngày kia, số người bạn tử tế và hữu ích viết thư giới thiệu chỗ rất dễ chịu tại Devon - những đôi vợ chồng - hầu hết là công chức nghỉ hưu. Nấu ăn tuyệt hảo - Bạn mua đồ đạc riêng và đồ đạc cá nhân.

      Bligh tái xuất với bình trà và hai người ngồi uống trà.

      Cuộc chuyện với Bligh bản chất ít kịch tính và sôi nổi hơn cuộc chuyện với bà Copleigh, liên can nhiều đến việc kiếm thông tin hơn là cung cấp.

      Tuppence được báo mơ hồ về những năm quá khứ của việc phục vụ ở ngọai quốc - khó khăn cuộc sống gia đình tại nước , cung cấp những chi tiết của đứa con trai và đứa con có chồng vợ với những đứa con và nhàng hướng câu chuyện về những hoạt động của Bligh tại Sutton Chancellor rất nhiều - Hội Phụ Nữ , Hướng Dẫn Viên, Hướng Đạo Sinh, Hội Bảo Vệ Phụ nữ, Thuyết Giảng, Nghệ Thuật Hy Lạp, Làm JamBông, Dạy Cắm Hoa, Câu Lạc Kịch, Hội Ai hữu Khảo cổ học - sức khoẻ của cha cố, cần thiết làm cho ông tự săn sóc sức khỏe bản thân, đãng trí của ông - bất hạnh là những ý kiến khác biệt của các cha tổng quản - Tuppence khen ngợi bánh xcôn, cám ơn tính hiếu khách của chủ và đứng dật từ giã.

      - Nghị lực của tuyệt vời, Bligh, làm thế nào giải quyết được tất cả chuyện này thế, tôi tưởng tượng nổi. Tôi phải thú nhận rằng sau ngày du ngoạn và mua sắm, tôi chỉ muốn nghỉ ngơi chút giường - chỉ nửa giờ hay nằm khép mắt cũng vậy - chiếc giường rất tiện nghi. Tôi phải cám ơn rất nhiều giới thiệu tôi với bà Copleigh. - phụ nữ đáng tin cậy nhất, dù tất nhiên bà ta rất nhiều.

      - Ô! Tôi thấy tất cả những câu chuyện địa phương của bà đều làm cho người ta vui.

      - Phân nửa thời gian bà ta biết mình gì! còn ở lại đây bao lâu?

      - Ô - ngày mai tôi về nhà. Tôi thất vọng tìm được bất động sản nào - tôi hi vọng ngôi nhà bên con kênh khung cảnh tuyệt đẹp ấy.

      - Tốt hơn bà mua nó. Nó trong tình trạng sửa chữa tồi. Vắng chủ đất - đó là nỗi nhục.

      - Thậm chí tôi biết ngôi nhà thuộc về ai. Tôi hi vọng hiểu. Hình như hiểu mọi việc ở đây.

      - Tôi chưa bao giờ chú ý đến ngôi nhà đó. Nó đổi chủ luôn - người ta thể theo kịp. Gia đình Perry ở nửa căn - căn kia lâm vào tình trạng suy sụp và sụp đổ.

      Tuppence lời tạm biệt và lái trở về nhà bà Copleigh. Căn nhà ràng yên tĩnh và trống trải. Tuppence lên phòng ngủ, đặt cái bị mua hàng trống rỗng xuống, rửa mặt và thoa phấn vào mũi. Lại nhón gót ra khỏi nhà, nhìn ngược xuôi đường phố, rời chỗ để xe, vòng nhanh qua góc phố, sử dụng lối dành cho người bộ xuyên qua cánh đồng phía sau làng, ngẫu nhiên lối ấy dẫn đến cái bậc trèo qua tường để vào sân nhà thờ.

      Tuppen trèo lên bậc cửa vào sân nhà thờ, mặt trời chiều thanh bình, và bắt đầu khảo sát tấm bia mộ như hứa. ra có động cơ kín đáo nào khi làm vậy. hi vọng có gì để khám phá ở đây. Về phía chỉ là lòng tử tế. Cha cố già hơi điếc, và muốn ông cảm thấy rằng lương tâm của ông được thỏa mãn hoàn toàn. mua cuốn sổ với cây bút trong trường hợp có gì đáng chú ý ghi cho ông. tin chắc chỉ tìm kiếm bia mộ có lẽ được dựng lên để tưởng niệm cái chết của số trẻ em ở lứa tuổi được quy định. Đa số những nấm mộ ở đây đều thuộc về thời cổ. Chúng đáng chú ý lắm, nó đủ cổ xưa để thu hút hay tác động đến hay chăm sóc những giòng chữ khắc. Đa số hoàn toàn là mộ của những người già. Tuy vậy cũng lần lữa chút khi qua, vẽ những phác hoạ tinh thần trong trí. Fane Elwood, ra 6 tháng giêng. William Marl, ra 5 tháng giêng, lòng thương tiếc sâu sắc. Mary Treves, năm tuổi. 14 tháng ba 1835. Điều đó lùi quá xa. ‘Niềm vui trọn vẹn trong tại’. Mary Treves là may mắn.

      Bây giờ hầu như đến bức tường đằng xa. Ở đây những nấm mộ bị quên lãng và cỏ mọc đầy, hình như ai chăm lo mảnh nghĩa địa này. Nhiều hòn đá còn đứng thẳng mà nằm dài mặt đất. Bức tường ở đây bị tàn phá và vỡ vụn ra từng mảnh. Có những chỗ nó bị sụp xuống.

      Đứng thẳng phía sau nhà thờ, từ ngoài đường lộ thể nhìn thấy - chắc chắn bọn trẻ đến đây có thể làm công việc phá hoại. Tuppence cúi xuống những phiến đá - những chữ gốc bị hỏng nặng thể đọc được - nhưng dùng hết sức mình dựng lên phía, Tuppence đọc thấy những chữ cái và những từ bò ngoằn ngoèo, cũng bởi cỏ mọc lấn từng phần.

      cúi xuống dùng ngón trỏ dò từng chữ, và rải rác kiếm được từ - Người nào mà... xúc phạm đến... trong những ngôi mộ này... Millstone... Millstone... Millstone... và phía dưới - được khắc bằng phẳng bởi bàn tay tài tử:

      Nơi đây an nghỉ Lily Waters.

      Tuppence hít hơi thở sâu - ý thức có bóng đen sau , nhưng trước khi có thể quay đầu lại - vật gì đó đánh vào sau đầu và té xuống mộ chí trong bóng tối và đau đớn.
      Prunus Ngọc thích bài này.

    2. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 10: cuộc hội kiến - Và sau đó...

      Beresfold. Ngài Thiếu Tướng Josiah Penn, K.M. G., Liên Đoàn công nghiệp , Huân Chương Công Vụ, với trọng lượng dòng chữ đầy ấn tượng kèm sau tên . ‘ nghĩ gì về những cái râu ria này?’

      Tommy hiểu câu hỏi của ông già Josh đó, khi sau lưng ông kiểu thiếu nể trọng, bị ấn tượng về hệ quả của cuộc hội nghị họ tham dự.

      - Trò chơi trốn tìm dịu , nhàng thôi, Sir Josiah , tiếp tục với những câu hỏi. Nhiều cuộc chuyện và có gì cả. Thỉnh thoảng nếu có ai đó cái gì đó nhạy cảm, khoảng bốn giây đậu đứng lên la ó phản đối liền. Tôi hiểu tại sao chúng ta bắt đầu những việc này. Ít ra, tôi biết. Tôi biết tại sao tôi làm vậy. có gì khác phải làm. Nếu tôi đến những cuộc trình diễn này, tôi phải ở nhà. có biết cái gì xảy ra với tôi ở đó ? Tôi bị khủng bố. Bị khủng bố bởi người quản gia, bị khủng bố bởi người làm vườn. Ông ta là người Scot già và thậm chí ông ta cũng để tôi đụng đến món lê. Vì vậy tôi đến đây, ném tung sức mạnh của mình và tôi còn đóng kịch với mình rằng tôi bảo vệ cho nền an ninh của xứ xở này! Vớ vẩn.

      - Còn ? người đàn ông khá trẻ. đến và phung phí giờ của mình vì cái gì? ai lắng nghe , dù cho cái gì đáng lắng nghe.

      Tommy, niềm vui thoáng qua mặc dù tuổi tác, như vẫn cho mình khôn trước tuổi, nay theo lời Ngài Thiếu Tướng Josiah Penn có thể được coi như là thanh niên, lắc đầu.

      - Nếu ngài có mặt ở đây có chuyện gì được giải quyết, thưa ngài.

      - Tôi cũng nghĩ thế. Vị Thiếu tướng . Tôi là con chó bun răng - nhưng tôi còn có thể sủa. Bà Tommy thế nào rồi? lâu gặp bà ấy.

      Tommy đáp Tuppence vẫn khỏe và linh hoạt.

      - ấy lúc nào cũng linh hoạt cả. ấy đôi khi làm tôi nghĩ đến con rồng bay. Luôn lao vọt như tên bắn sau số ý tưởng chừng như phi lí của ta rồi chúng tôi khám phá ra nó chẳng vô lí chút nào. tưởng tượng được! Thiếu tướng vẻ phấn khởi. giống như những phụ nữ trung niên nghiêm nghị bạn gặp ngày nay đâu, tất cả có Nguyên do với chữ C chính. Về phía các ngày nay - ông lắc đầu. như cái họ là khi tôi còn trai trẻ. Họ thường là, đẹp như bức tranh. Những vạt áo muslin! Những chiếc mũ chụp Hình chuông, họ thường mang lúc nào đó. Phải nhìn xuống bên dưới cái li ttrước khi bạn có thể nhìn thấy khuôn mặt của . Chiếc mũ để nhử mồi, và họ Biết điều đó! Bây giờ tôi nhứ lại - để tôi xem nào - người bà con của - có phái ấy là dì ? - dì Ada. Ada Fanshawe.

      - Dì Ada?

      - đẹp nhất tôi từng biết.

      Tommy tìm cách kềm chế ngạc nhiên dâng lên trong ông. Cái dì Ada ấy lại được coi như là đẹp vượt quá sức tưởng tượng. Ông già Josh lưỡng lự.

      - Phải, đẹp như bức tranh. Sung sức nữa! Vui vẻ! Khách hàng thường xuyên trêu cợt. A, tôi nhớ lại lần cuối cùng tôi gặp bà. Tôi là sĩ quan cấp uý vừa rời khỏi India. Chúng tôi dự cuộc chơi ngoài trời vào đêm trăng tròn bãi biển... ấy và tôi lang thang cùng nhau và ngồi tảng đá nhìn ra biển.

      Tommy chăm chú nhìn kĩ ông ta. Với cái cằm đôi, cái trán hói, lông mày dày rậm và cái bụng phệ khổng lồ. nghĩ đến dì Ada, đến bộ râu mép mới mọc, nụ cười lạnh lùng, mái tóc xám sắt, cái liếc nhìn ác ý của bà. Thời gian, ông nghĩ. Thời gian tác hại lên con người! thử hình dung sĩ quan cấp uý trẻ đẹp trai với thiếu nữ đẹp dưới ánh trăng. thất bại.

      - Lãng mạn. Ngài Josiah Penn với tiếng thở dài sâu. À vâng, lãng mạn. Tôi muốn cầu hôn ta tối hôm đó, nhưng thể cầu hôn nếu sĩ quan dưới cấp bậc đại uý. hợp chỉ số lương của bạn. Chúng tôi phải đợi năm năm trước khi chúng tôi cưới nhau. thể cầu bất cứ thiếu nữ nào chấp thuận cuộc đính hôn quá dài như vậy. A vâng! biết việc xảy ra như thế nào rồi. Tôi đến India và đó là thời gian dài trước khi tôi về nhà để từ giã. Chúng tôi viết thư cho nhau chút, rồi việc giảm lần. Như chuyện thường vẫn xảy ra, bao giờ tôi còn gặp ấy nữa. Tuy nhiên, biết đấy, tôi bao giờ quên . Mặc dầu thường xuyên nghĩ đến , tôi nhớ tôi hầu như chỉ viết cho lần, những năm sau này. Khi tôi còn lưu lại với vài người tôi nghe ở trong vùng phụ cận. Tôi nghĩ tôi tới gặp , như tôi có thể cho là thế. Rồi tôi lại nghĩ ‘thôi đừng là gã ngốc nữa. Đến bây giờ có lẽ ta trông hoàn toàn khác xưa sao.’

      Sau này tôi nghe được người bạn nhắc đến . Bảo tôi ta chưa bao giờ thấy phụ nữ xấu đến thế. Tôi khó mà tin được điều ấy khi tôi nghe ta vậy, nhưng bây giờ tôi nghĩ có lẽ bao giờ gặp lại nữa là điều may mắn cho tôi. làm gì bây giờ? Còn sống ?

      - . bà ấy chết cách đây hai hoặc ba tuần. Tommy đáp.

      - thế ư, ấy chết rồi sao? Phải, tôi tưởng rằng đúng vậy - cho tới bây giờ, bà ấy chắc 75 hay 76 rồi? Có lẽ già hơn nữa.

      - Dì ấy 80 tuổi. Tommy .

      - thể tưởng tượng được. Ada sống động tóc đen. ta chết ở đâu? Có phải sống trong nhà điều dưỡng hay sống với người bạn đồng hành - ta bao giờ cưới chồng, phải vậy ?

      - , Tommy . Dì ấy bao giờ kết hôn. Dì sống trong nhà dành cho những người già. chỗ khá đẹp, thế. Sunny Ridge là tên nó.

      - Ư, tôi cũng có nghe về ngôi nhà đó. Sunny Rigde. người mà chị tôi biết sống ở đó, tôi tin vậy. bà - bây giờ tên gì nhỉ - bà Carstairs? có tình cờ gặp bà ấy bao giờ chưa?

      - . Tôi ngẫu nhiên gặp bất cứ ai ở đó cả. Người ta chỉ thường đến viếng thăm người bà con đặc biệt của họ thôi.

      - Công việc cũng khó khăn nữa. Tommy . Dì ấy là người nóng tính, ông biết mà.

      - Hi vọng ấy là thế. Thiếu Tướng huýt gió. Khi còn là con khi ta muốn ta có thể là con qủy chính quy đấy.

      Ông thở dài.

      - Công việc đáng nguyền rủa, khiến người ta trở nên già. trong những người bạn của chị tôi thường có những tưởng tượng, sinh linh già nua khốn khổ. Thường bảo bà giết ai đó.

      - Chúa ơi, Tommy . Bà ấy có giết à?

      - , tôi cho là thế. Dường như ai nghĩ bà ấy giết người. Tôi cho là vậy. Thiếu Tướng , trầm ngâm khảo sát lại ý tưởng ấy. biết mà, tôi tin Có Thể bà ta giết người. Nếu quá vui vẻ những việc như thế, ai tin đâu, phải ? mặc dù rất thú vị, phải ?

      - Bà nghĩ bà giết ai nào?

      - Nếu tôi biết phước. Có lẽ người chồng chăng? biết ông ta là ai hay ông như thế nào. Lần đầu chúng tôi biết bà là quả phụ. Ông thêm vào với tiếng thở dài. Rất tiếc nghe về dì Ada. đọc tin trong báo. Nếu đọc được tôi mua hoa. bó hoa hồng hay hoa gì đó. Loại hoa con thường mang bộ đồ dạ hội của họ. bó những nụ hồng đính vai chiếc áo dài dạ hội. Rất đẹp. Tôi nhớ lại dì Ada có bộ đồ dạ hội - có phần màu hoa cẩm tú cầu, tím nhạt. Màu tím xanh và mang vai nụ hồng. lần có cho tôi nụ. Dĩ nhiên, chúng . Nghệ thuật thôi. Tôi giữ nó thời gian dài - hàng năm. Tôi biết. Ông thêm vào, bắt gặp ánh mắt Tommy. Làm cười khi nghĩ đến. Tôi bảo này, gã trai của tôi ạ, khi già và hay Cười như tôi này, lần nữa nhạy cảm cho coi. Tôi cho là tốt hơn mình nên ra về và trở lại hoạt động nghệ thuật của màn trình diễn kì khôi này. Khi về nhà gởi lời thăm tận tình đến bà T. giùm tôi.

      Trong chuyến xe lửa ngày hôm sau, Tommy hồi tưởng lại cuộc chuyện này, mỉm cười thử hình dung lại bức tranh bà dì đáng gờm của mình và vị Thiếu Tướng dữ dằn trong thời son trẻ của họ.

      - Mình phải bảo Tuppence chuyện này mới được. Nó làm cười mất, Tommy . Mình tự hỏi Tuppence làm gì trong khi mình xa đây?

      mỉm cười mình.

      chàng Albert trung thành mở cửa với nụ cười rạng rỡ.

      - Vui mừng được găp lại ông, thưa ông.

      - Tao cũng vui được trở về - Tommy giao cái va li của mình - bà Beresford đâu?

      - Chưa về, thưa ông.

      - Mày muốn xa sao?

      - ba bốn ngày rồi. Nhưng bà trở về ăn tối. Bà gọi điện ngày hôm qua thế.

      - Bà ấy đâu, Albert?

      - Con thể , thưa ông. Bà ấy dùng xe hơi, nhưng lại đem theo nhiều bảng hướng dẫn đường sắt. Có lẽ bà ở đâu đó, như ông có thể đoán.

      - ra tao có thể, Tommy với linh cảm. John’s Groats - hay Mũi Đất - và có lẽ quên điểm nối tại Little Dither đầm lầy đường trở về. Chúa ban phước cho Đường Sắt quốc. Mày , gọi điện báo hôm qua. gọi từ chỗ nào ?

      - .

      - Hôm qua vào giờ này sao?

      - Sáng hôm qua. Trước bữa trưa. Chỉ mọi việc ổn cả. hoàn toàn chắc mấy giờ đến nhà, nhưng nghĩ về nhà trước bữa ăn tối và gợi ý con gà. Cái đó ông đồng ý, phải , thưa ông?

      - Phải, Tommy , nhìn đồng hồ tay, nhưng bây giờ phải thực cho nhanh chứ.

      - Con bắt gà đây, Albert .

      Tommy cười. Ôn thôi, . Bắt nó đằng đuôi đấy. Mày thế nào, Albert? Ở nhà mạnh khỏe cả chứ?

      - Có sợ chứng lên sởi - nhưng ổn rồi. Bác sĩ đó chỉ là đám mụn như hạt đậu da.

      - Tốt, Tommy . lên lầu, huýt sáo điệu. vào phòng tắm, cạo râu rửa mặt, từ đó rảo bước vào phòng ngủ và nhìn quanh. Nó có cái vẻ kì dị của số phòng người ở khoác lên khi người chủ vắng bóng. Bầu khí lạnh lẽo và xa lạ. Mọi vật ngăn nắp hết sức tỉ mỉ và sạch hết sức tỉ mỉ. Tommy có cảm giác thất vọng mà con chó trung thành có thể có. Nhìn quanh mình, nghĩ như là Tuppence chưa bao giờ có mặt cả. có bột phấn chảy tràn ra, có sách ném mở với cái gáy xoè ra.

      - Thưa ông.

      Đó là Albert, đứng trong lề cửa.

      - Cái gì?

      - Con lo về con gà.

      - Qủy tha ma bắt con gà,Tommy . Hình như con gà ngự trị trong óc mày vậy.

      - Con bắt nó để ông và muộn hơn 8 giờ. trễ quá 8 giờ, con muốn ngồi vào bàn đấy.

      - Tao đáng lẽ phải nghĩ đến điều ấy, Tommy , nhìn đồng hồ tay lần nữa. Chúa ơi, gần 9 giờ kém 25 rồi.

      - Phải, thưa ông. Và con gà..

      - tiếp , mày lấy con gà ra khỏi lò nướng và tao với mày ăn nó. Phục vụ Tuppence đủ rồi. ra là trở về ngay trước bữa tối mới phải!

      - Dĩ nhiên số người ăn tối muộn, Albert trả lời. Con có Tây ban Nha lần rồi và tin con , ông thể có bữa ăn trước 10 giờ đúng. 10 giờ buổi chiều cơ đấy. Con xin ông! người ngoại đạo!

      - Được rồi, Tommy , vẻ lơ đãng. Nhân tiện luôn, mày có ý kiến việc ở đâu vào lúc này à?

      - Ông muốn bà chủ? Con biết, thưa ông. Con dám , vội gấp. Ý tưởng đầu tiên của là đến nhiều nơi bằng xe lửa, theo như con có thể chứng minh được. luôn luôn tìm trong bảng chữ cái và bảng thời gian biểu và những vật khác.

      - Tốt, Tommy , tất cả chúng ta đều có cách làm cho mình vui, tao tin thế. Hình như ấy du lịch bằng đường rầy xe lửa. Cũng thế thôi tao tự hỏi ở đâu. Ngồi trong Phòng đợi của Qúy bà tại Little Dither Marsh, rất có khả năng.

      - Dù vậy biết ông về nhà hôm nay, có phải thưa ông? về đây. Con bảo đảm.

      Tommy nhận ra rằng được tặng lòng trung thành. và Albert cùng liên kết phản đối Tuppence thử nghiệm hệ thống đường rầy xe lửa Quốc trong thời gian ngắn và quên trở về nhà đúng hẹn để chào đón chồng trở về.

      Albert quay để tháo con gà khỏi khả năng số phận bị hoả táng trong lò.

      Tommy định theo ta, rồi dừng lại nhìn về phía cái giá lò sưởi. chậm bước lại quan sát bức tranh treo đó. thể tin được, quá tin chắc rằng việc mình thấy ngôi nhà đặc biệt đó trước đây. Tommy cảm thấy khá chắc chắn là hề thấy nó. Dẫu sao, đó là ngôi nhà khá bình thường. Chắc phải có nhiều nhà như thế.

      vươn tay ra tới mức có thể đụng vào bức tranh, còn có thể được cái nhìn tốt hơn, tháo nó ra và đặt sát ngọn đèn để bàn. ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình. Có chữ kí người vẽ bên dưới. Tên bắt đầu với chữ B dù ông hiểu chính xác tên gì. Bosworth - Bouchier - kiếm cái gương phóng lớn và quan sát kĩ hơn. điệu nhạc chuông vui vẻ vọng lại từ tiền sảnh. Albert chứng tỏ cao độ những cái chuông phát ra nhạc họ mua về lúc này hay lúc khác từ Grindelwald. ta là ca sĩ thượng thặng về điều đó. Buổi tối dọn. Tommy đến phòng ăn. kì cục, nghĩ, đến bây giờ mà Tuppence vẫn chưa xuất . Dù có bị thủng lốp xe, mà hình như có thể lắm, hơi ngạc nhiên tại sao gọi điện để giải thích hay xin lỗi việc trễ muộn của mình chứ.

      có thể biết mình lo,’ Tommy mình. , dĩ nhiên rồi, từng lo - phải về Tuppence. Tuppence luôn luôn ổn, Albert phản bác lại trạng thái này.

      - Hi vọng bị tai nạn, ta lưu ý, trình trước Tommy dĩa cải bắp, và lắc đầu buồn bã.

      - Đem . Mày biết tao ưa ăn cải bắp.Tại sao lại phải có tai nạn? Bây giờ chỉ mới 9g30 thôi.

      - Bây giờ đường lộ việc giết người ràng. Bất cứ ai cũng có thể gặp tai nạn hết.

      Chuông điện thoại reo.“ ấy đấy,” Albert . Vội vã đặt dĩa cải bắp tủ chén, vội ra khỏi phòng. Tommy đứng lên, bỏ mặc dĩa thịt gà, theo Albert. vừa cất tiêng’ đây, tôi nghe’ Albert .

      - Vâng, thưa ông? vâng, ông Beresfold có nhà. Ông ấy đây ạ. quay đầu lại Tommy. Có bác sĩ Murray đợi ông, thưa ông.

      - Bác sĩ Murray? Tommy nghĩ ngợi chốc. Cái tên hình như thân thiện nhưng trong giây lát thể nhớ Dr. Murray là ai. Nếu Tuppence bị tai nạn - rồi với tiếng thở dài nhõm nhớ lại Dr. Murray là bác sĩ chuyên chăm sóc người già tại Sunny Rigde. Có lẽ, có cái gì đó liên can đến những hình thức lễ tang của dì Ada. Là đứa trẻ ở vào tuổi minh, Tommy ngay lập tức tin chắc rằng hẳn là vấn đề của hình thức này hay hình thức khác- cái gì kí nhận, hoặc Dr. Murray phải kí nhận.

      - Xin chào, ông , Beresfold nghe đây.

      - Tôi vui bắt được . Tôi hi vọng nhớ tôi chứ. Tôi chăm sóc dì , Fanshawe.

      - Tất nhiên tôi nhớ. Tôi có thể làm gì giúp?

      - tôi cần trao đổi vài lời với lúc nào đó. Tôi biết chúng ta có thể sắp sếp cuộc gặp gỡ được , có lẽ hôm nào đó trong thành phố?

      - Tôi mong thế, vâng. Hoàn toàn dễ thôi. Nhưng - è - è - cái gì đó ông thể qua điện thoại được sao?

      - Tôi thích qua điện thoại. vội ngay được. Tôi láo là có nhưng - nhưng tôi muốn có buổi chuyện gẫu với .

      - có gì sai lầm chứ? Tommy , và tự hỏi tại sao lại hỏi cách đó? Tại sao có cái gì sai lầm?

      - . Có lẽ tôi quan trọng hoá vấn đề. Có thể. Nhưng có những bành trướng hơi kì lạ tại Sunny Ridge.

      - có gì liên can đến bà Lancaster chứ?

      - Bà Lancaster? Vị bác sĩ hình như ngạc nhiên. Ô . Bà ấy rời khỏi đây cách đây thời gian. , trước khi dì mất. Đây là chuyện hoàn toàn khác.

      - Tôi vừa mới xa - mới trở về. Sáng mai tôi điện cho ông - rồi chúng ta có thể xếp đặt được.

      - Được. Tôi cho số điện thoại của tôi. Tôi ở phòng mổ của tôi đến 9 g sáng.

      - Tin xấu à? Albert hỏi Tommy khi trở lại phòng ăn.

      - Vì Chúa, đừng ồm ồm thế, Albert. Tommy cáu kỉnh. - dĩ nhiên phải tin xấu.

      - Tôi nghĩ có lẽ là chủ.

      - ấy ổn thôi, luôn như vậy. Có lẽ ba chân bốn cẳng chạy theo đầu mối cuộc đình công hay cái khác - mày hiểu thích cái chi mà. Tao lo nữa. Đem dĩa gà - mày cứ giữ nó nóng trong lò và dùng để ăn được. Mang cho tao ít cà phê. Rồi tao ngủ.

      Có lẽ mai lá thư. Trì hoãn trong bưu điện - mày biết bưu điện chúng ta như thế nào - hay cái điện tín - hay gọi điện.

      Nhưng ngày kế có thư - có điện thoại - điện tín.

      Albert mở to mắt nhìn Tommy, nhiều lần mở miệng rồi ngậm lại, phán đoán khá hợp lí rằng những dự báo bi quan của được chào đón.

      Cuối cùng Albert thương hại ta. nuốt miệng đầy bánh nướng và mứt, cho nó trôi xuống cổ với cà phê, và :

      - Được rồi. Albert, tao trước đây - Ở Đâu? Chuyện gì xảy ra với ? Chúng ta làm gì với điều này?

      - Đến cảnh sát, thưa ông?

      - Tao chắc. Mày thấy đấy - Tommy ngưng bặt.

      - Nếu bị tai nạn, có mang theo bằng lái xe và nhiều giấy tờ tuỳ thân, bệnh viện rất nhanh trong việc tường thuật lại những chuyện như thế, lập tức tiếp xúc với thân nhân, chỉ có vậy. Tao muốn thúc đẩy nhanh điều xấu - - muốn. Mày có ý kiến gì - ý kiến gì hết, Albert, đâu - gì sao? có chỗ - hay miền đặc biệt. nhắc đến số tên?

      Albert lắc đầu.

      - ấy có cảm giác như thế nào? Vui? Kích động? Bất hạnh? Lo âu?

      Câu trả lời của Albert đến ngay lập tức.

      - Rất vui mừng - nổ tung với nó.

      - Giống như con chó nhảy ra khỏi đường ray, Tommy .

      - Đúng thế, thưa ông - ông biết kiếm được như thế nào.

      - Về cái gì - bây giờ tao tự hỏi - Tommy ngưng lại suy nghĩ.

      cái gì đó xảy ra, và, như vừa với Albert, Tuppence nhảy bổ ra ngoài như con chó trong khung cảnh. Ngày trước hôm qua điện thoại báo tin trở về. Tại sao trở về? Vào phút này, có lẽ, Tommy nghĩ, ngồi nơi nào đó dối với mọi người quá cho đến nỗi nghĩ đến chuyện gì khác!

      Nếu gia tăng việc theo đuổi, cực độ bị phiền phức nếu , Tommy, lao bổ đến cảnh sát than vãn như con cừu chuyện vợ mình mất tích - có thể nghe Tuppence ’ làm sao có thể quá ngu ngốc khi làm việc như thế được! Tự em có thể săn sóc mình cách Hoàn Hảo mà. Lần này phải biết điều đó!( Nhưng có thể tự chăm sóc mình ?)

      Người ta bao giờ hoàn toàn bảo đảm óc tưởng tượng của Tuppence có thể đưa đến đâu.

      Vào Hiểm Nguy chăng? ràng, có bất cứ chứng cớ hiểm nguy nào trong công việc này cả - ngoài trừ, như trước, trong óc tưởng tượng của Tuppence.

      Nếu đến cảnh sát, vợ về nhà khi loan báo sắp về - cảnh sát ngồi đó, trông lịch mặc dù có thể bên trong họ cười, và rồi tin chắc, vẫn còn cung cách lịch , hỏi có những người bạn trai nào!

      - Mình tìm ấy’ Tommy tuyên bố. ấy ở Nơi nào đó. Như là hướng nam, bắc, đông hay tây tao có ý kiến - và là con gà điên lời khi gọi điện, là ở đâu.

      - băng nhóm bắt cóc , có lẽ thế - Albert .

      - Ô, đừng chuyện trẻ con, Albert, mày vẫn chịu trưởng thành sau từng ấy năm à!

      - Ông định làm gì, thưa ông?

      - Tao London, Tommy , liếc nhìn đồng hồ. Đầu tiên tao ăn trưa tại câu lạc bộ với Dr. Murray người gọi điện cho tao tối qua, và người có cái gì đó để với tao về những việc có liên can đến cái chết của bà dì sau này - có lẽ tao kiếm được ám chỉ có ích từ ông ấy - sau rốt, công việc này khởi tại Sunny Ridge. Tao cũng mang theo bức tranh treo giá trong phòng ngủ theo với tao.

      - Ông muốn ông mang nó đến Scotland Yard?

      - , Tommy đáp, tao mang nó đến đường Bond.

    3. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 11: Đường Bond và Murray

      Tommy nhảy ra khỏi taxi, trả tiền và ngiêng người vào buồng lái để lấy ra cái gói được gói vụng về ràng là bức tranh. Nhét gọn chừng nào tốt chừng nấy dưới cánh tay, bước vào Galleries New Athenian, trong những toà nhà trưng bày tranh lâu nhất và cổ nhất tại London.

      Tommy phải là khách hàng lớn của nghệ thuật nhưng phải đến New Athenian bởi vì người bạn làm việc ở đó.

      ‘Thi hành nhiệm vụ’ chỉ là cái từ để dùng bởi quan tâm tình cảm, giọng ít người biết, nụ cười vui vẻ, tất cả dường như mang tính giáo sĩ cao độ.

      người đàn ông trẻ tóc vàng lách mình ra tiến tới, khuôn mặt ông ta bừng sáng lên với nụ cười tiếp nhận.

      - Chào Tommy, . Lâu lắm gặp . kẹp cái gì dưới nách thế? Đừng bảo tôi bắt đầu thấy thấy thích tranh sơn dầu vào tuổi nhé? Nhiều người thế rồi - hậu quả thường đáng tiếc.

      - Tôi nghi ngờ nếu như sáng tạo nghệ thuật từng là hành động hoàn toàn theo ý muốn của tôi, Tommy . Mặc dù tôi phải chấp nhận ngày nọ tôi tự khám phá ra sức lôi cuốn mạnh mẽ từ cuốn sách về những giai đoạn thuần phác nhất của đứa trẻ lên năm tuổi làm thế nào nó có thể học được cách pha màu nước.

      - Chúa phù hộ chúng ta nếu sắp bắt đầu mến nó. Ngược lại với bà ngoại Moses.

      - với , Robert, tôi chỉ muốn thức tỉnh lãnh vực chuyên môn của về tranh. Tôi cần cho ý kiến về bức họa này.

      Khéo léo Robert đỡ lấy bức hoạ từ tay Tommy và tinh xảo tháo gỡ những giấy gói vụng về với tính chuyên nghiệp của người quen với việc giải quyết tháo và gói lại những công trình nghệ thuật đủ mọi kích cỡ.

      - Tốt, , thế nào? muốn biết về cái gì? muốn bán tranh à, phải vậy ?

      - , Tommy đáp, tôi muốn bán nó, Robert. Tôi muốn biết về nó. Bắt đầu, tôi muốn biết ai vẽ nó.

      - ra, Robert đáp, nếu muốn bán, ngày nay hoàn toàn có thể bán được. Cách đây mười năm . Nhưng Boscowan lại hợp thời trang lần nữa.

      - Boscowan? Tommy nhìn ông dò hỏi. Đó có phải là tên nhà nghệ sĩ? Tôi thấy nó được kí với chữ B đầu nhưng tôi đọc được cái tên .

      - Đó là Boscowan rồi. Tay họa sĩ rất được ưa chuộng cách đây hai mươi lăm năm. Bán đắt, có nhiều cuộc triển lãm. Người ta mua tranh ông đúng như mong muốn. hoạ sĩ kĩ thuật rất cao. Rồi, theo chu kì thông thường của những biến cố, tranh ông ta lại hợp thời trang. Cuối cùng, hầu như cầu nào dành cho tác phẩm, nhưng sau đó ông ta có cuộc hồi sinh. Ông, Stitchwort, và Fondella. Tất cả bọn họ đều đuổi kịp trào lưu.

      - Boscowan, Tommy lập lại.

      - B-o-s-c-o-w-a-n, Robert giọng sốt sắng.

      - Ông ta còn vẽ ?

      - . ông ta chết rồi. Chết cách đây vài năm. người khá già. Khi ông ta chêt, 65 tuổi, tôi nghĩ thế. nghệ sĩ sáng tác khá nhiều, biết . Nhiều tranh vẽ vải bạt khắp nơi. tế chúng tôi nghĩ đến cuộc triễn lãm tranh ông ta tại đây khoảng chừng năm tháng nữa. Chúng tôi phải phục hồi lại hết, tôi nghĩ thế. Tại sao lại chú ý đến ông ta?

      - Đó là cả câu chuyện dài để cho nghe, Tommy đáp. trong những ngày này tôi mời ra ngoài ăn trưa và cung cấp cho những hành động khởi đầu. Nó là cả câu chuyện dài, phức tạp và hơi lí tưởng. Tất cả những gì tôi muốn biết là về ông Boscowan và tôi tự hỏi có tình cờ biết ngôi nhà được vẽ trong bức tranh này bây giờ ở đâu .

      - Trong chốc tôi thể với đoạn cuối được. Đó là loại tranh ông ta vẽ giải thích được, biết đấy. Những ngôi nhà miền quê thường thường tại những nơi hoang vắng, đôi khi là nông trại, thỉnh thoảng chỉ hai con bò xung quanh. Đôi khi chỉ xe ngựa chở hàng, mà nếu thế, từ đàng xa. Những khung cảnh đồng quê tĩnh lặng. có gì phác thảo hay làm rối loạn. Đôi khi bề mặt hầu hết trông giống như sơn men. Đó là kĩ thuật kì dị và người ta thích nó. Khá nhiều tranh ông vẽ ở Pháp, đa số vẽ nhà thờ Normandy. Những nhà thờ. giờ tôi có bức của ông ở đây. Đợi phút tôi kiếm cho .

      Ông ta đến đầu cầu thang và hét xuống người nào bên dưới. Ngay sau đó ông trở lại với bức sơn dầu ông ta đỡ cái ghế khác.

      - Của đây, ông . Nhà thờ Normandy đấy.

      - Vâng, tôi hiểu. Cùng việc thể giải thích được. Vợ tôi ai từng sống trong căn nhà đó - bức tranh tôi mang theo đó. Bây giờ tôi hiểu muốn gì. Tôi thấy bất cứ ai tham gia phục vụ trong ngôi nhà thờ đó hay từng mơ ước.

      - Có lẽ vợ ông tìm thấy cái gì đó. nơi ở yên tĩnh, thanh bình mà có ai chiếm dụng. rồi, ông ta thường vẽ người. Đôi khi trong khung cảnh có hai người, nhưng thường xuyên . Tôi nghĩ điều đó cung cấp cho chúng vẻ quyến rũ đặc biệt. thứ cảm giác đơn độc mơ hồ. Như là ông ta tẩy xoá tất cả hữu con người, và tất cả cảnh thanh bình của miền quê tốt nhất là có nó. Bắt đầu suy nghĩ về nó , điều đó giải thích tại sao khiếu thẩm mỹ đối với ông ta được cái này mất cái kia. Ngày nay quá nhiều người, quá nhiều xe, quá nhiều tiếng ồn đường, quá nhiều tiếng động và rộn ràng. Hoà bình, thanh bình hoàn toàn. Để lại tất cả cho Thiên nhiên.

      - Vâng, tôi cũng ngạc nhiên. Ông ta là loại người gì?

      - Tôi tính cách cá nhân của ông ấy. Trước thời đại của tôi. Bằng mọi cách ông ta vui với chính mình. Mặc dù vậy ông ta là hoạ sĩ tài năng hơn cả cái ông ta là, có lẽ thế. Mang số lượng lớn. Dễ thương, hoàn toàn đáng mến. Chỉ quan tâm đến các .

      - Và có ý kiến gì về chốn đồng quê đặc biệt này ở đâu à? Tôi cho là, đó là quốc.

      - Tôi cũng nghĩ thế, vâng. muốn tôi tìm hiểu giùm cho chăng?

      - có thể ?

      - Có lẽ việc tốt nhất để làm là hỏi bà vợ, vợ goá của ông ta. Ông cưới Emma Wing, điêu khắc gia. Nổi tiếng. sản xuất nhiều. Sáng tạo những tác phẩm đầy sức sống. có thể mà hỏi bà ta. Bà ấy sống tại Hampstead. Tôi có thể cho địa chỉ. Sau này chúng tôi còn tùy thuộc nhiều vào bà trong vấn đề triễn lãm những tác phẩm của chồng bà mà chúng tôi làm. Chúng tôi cũng có ít tác phẩm điêu khắc của bà ấy nữa. Tôi lấy địa chỉ cho nhé.

      Ông trở lại bàn giấy, lật cuốn sổ cái, ghi nghệch ngoạc vái chữ tấm cạc và mang lại.

      - Của đây, Tommy. Tôi biết bí mật sâu thẳm này là cái gì. luôn luôn là con người bí mật, phải ? tử tế giới thiệu công trình nghệ thuật của Boscowan ở đây. Có lẽ chúng tôi cần dùng trong cuộc triển lãm. Tôi gởi hàng để nhắc gần thời gian hơn.

      - có biết bà Lancaster ?

      - Tôi nghĩ đến chuyện ngoài tầm tay. Bà ấy là nghệ sĩ à?

      - . Tôi nghĩ vậy. Bà ấy chỉ là bà già sống những ngày cuối đời trong nhà điều dưỡng dành cho người già. Bà ấy quan trọng bởi vì bức tranh này thuộc về bà cho đến khi bà tặng lại cho dì tôi.

      - Tôi thể cái tên có nghĩa gì với tôi. Tốt hơn nên chuyện với bà Boscowan.

      - Bà ấy như thế nào nhỉ?

      - Bà ấy trẻ hơn ông nhiều, tôi dám thế. Hơi có cá tính. Ông gật đầu hai lần. Phải, khá mạnh mẽ. tìm hiểu điều đó, tôi hi vọng thế.

      Ông lấy bức tranh, mang xuống lầu với những chỉ thị với người nào đó bên dưới để gói nó lại.

      - Có quá nhiều tay sai đắc lực để sai khiến tốt số . Tommy .

      nhìn quanh ông ta, lần đầu tiên chú ý tới những gì vây quanh.

      - nay có cái gì ở đây vậy? hỏi với vẻ nhờm tởm.

      - Paul Jaggerowski - người Sla trẻ thú vị ấy mà. Bảo sản xuất tất cả tác phẩm của ta dưới ảnh hưởng của thuốc đấy. thích ta à?

      Tommy tập trung chú ý vào cái túi xách đan bằng giây làm cho người nhìn bị vướng vào cánh đồng màu xanh đầy những con bò cái méo mó như kim loại.

      - điên khùng, .

      - Philistine đó, Robert . Ra ngoài ăn trưa chút .

      - Tôi thể vì còn có cuộc hẹn với bác sĩ tại câu lạc bộ của tôi.

      - bịnh chứ?

      - Tôi trong thời kì sung sức. Áp suất máu của tôi quá tốt nó làm các vị bác sĩ tôi nộp đơn đều bất mãn.

      - Thế muốn gặp bác sĩ để làm gì chứ?

      - Ô, Tommy vui vẻ - tôi vừa gặp bác sĩ về cái xác. Cám ơn giúp. Chào tạm biệt.







      Tommy chào Dr. Murray với ít tò mò - tin chắc có số vấn đề liên can đến cái chết của dì Ada, nhưng làm sao mà Dr. Murray lại hề nhắc đến chủ đích cuộc viếng thăm của ông qua điện thoại, Tommy thể hình dung được.

      - Tôi e là tôi hơi trễ, Dr. Murray , bắt tay, nhưng xe cộ tệ quá còn tôi chắc đúng địa điểm. Tôi thuộc đường lắm khu vực thuộc London này.

      - Chắc ông đoạn đường quá xấu ở đây, Tommy . Tôi có thể gặp ông nơi nào đó thuận tiện hơn, ông biết mà.

      - Vừa rồi rảnh chứ?

      - Chỉ lúc thôi, vâng. Cuối tuần tôi thường xa.

      - Phải, tôi tin ai đó bảo tôi vậy khi tôi gọi điện.

      Tommy chỉ cái ghế, gợi ý làm cho khoẻ lại, đặt xì gà và diêm bên cạnh Dr. Murray. Khi hai người đàn ông an toạ thoải mái Dr. Murray mới mở đầu câu chuyện.

      - Tôi chắc đánh thức trí tò mò của . ra chúng tôi ở vào thế khó xử tại Sunny Ridge. Đó là vấn đề khó khăn phức tạp và trong chừng mức nào đó liên can chi tới . Tôi tuyệt đối có quyền làm phiền nhưng có khả năng mơ hồ là có thể biết điều gì đó khả dĩ giúp được chúng tôi.

      - Tất nhiên, tôi làm cái gì đó. cái gì có dính líu tới dì Fanshawe?

      - trực tiếp, . Nhưng trong chừng mức nào bà ấy quan trọng. Tôi có thể tin cậy với chứ, có thể được , ông Beresfold?

      - Phải, chắc rồi.

      - ra là ngày nọ tôi có chuyện với người bạn chung của chúng tôi. ta với tôi vài chuyện về . Tôi biết vào cuối chiến tranh nhiệm vụ khá tế nhị.

      - Tôi cho rằng chuyện đó nghiêm trọng như thế. Tommy , trong phong cách vô tội nhất của mình.

      - Ô , tôi hoàn toàn hiểu đó phải là việc để .

      - ngày nay tôi nghĩ còn quan trọng nữa. Từ chiến tranh đó là thời kì tốt đẹp. Vợ tôi và tôi ngày ấy còn trẻ.

      - Dù sao, cái điều tôi muốn kể với , có gì liên can đến cái đó, nhưng ít ra tôi cảm thấy tôi có thể tự do với , tôi có thể với sợ nhắc lại với ai những gì tôi ngày hôm nay, mặc dù sau này tất cả có thể phơi bày ràng.

      - Sunny Ridge ở vào thế kẹt, có phải ông định thế ?

      - Phải. Cách đây lâu binh nhân của chúng tôi chết. bà Moody, tôi biết có từng gặp bà ấy chưa hay dì chuyện với bà ấy .

      - Bà Moody? Tommy suy nghĩ. , tôi nghĩ vậy. Dù sao, tôi chưa đến mức nhớ lại được.

      - Bà ấy là trong những bịnh nhân già của chúng tôi. Trong chừng mức nào đó bà ấy đau ốm chi nặng và ở tuổi dưới bảy mươi. Đó chỉ là trường hợp phụ nữ có bà con và ai chăm sóc trong phạm vi gia đình. Bà ấy rơi vào phạm trù mà tôi thường tự đặt là loài biết bay. Khi già đàn bà càng ngày càng tương tợ những con gà mái. Họ cục cục. Họ quên lãng mọi . Họ mắc vào những khó khăn và họ lo âu. Tuyệt đối có gì xảy ra họ cũng đánh thức mình dậy. Với họ rất ít vấn đề. cách nghiêm ngặt họ phải thuộc tình trạng tâm thần bình thường.

      - Nhưng họ chỉ cục cục. Tommy gợi ý.

      - Như , bà Moody chỉ cục cục. Bà gây cho các nữ y tá khá nhiều phiền phức mặc dù họ rất mến bà. Bà có thói quen quên khi bà ăn rồi, làm ồn lên bởi vì có bữa tối được dọn cho bà khi ra thực tế bà vừa mới có bữa ăn ngon.

      - Ô, Tommy , vụt sáng lên, bà Cocoa.

      - Xin lỗi?

      - Tôi rất tiếc, đó là cái tên vợ tôi và tôi đặt cho bà. ngày bà cãi nhau với y tá Jane chúng tôi ngang qua hành lang và bà chưa có cocoa. Là phụ nữ hơi điên khá đẹp. Và rồi bà chết.

      - ra tôi ngạc nhiên khi cái chết xảy ra. Dr. Murray . Có khả năng tiên đoán với tính chính xác khi nào bà già chết là thực tế thể. Sức khỏe phụ nữ có ảnh hưởng nghiêm trọng, người ta cảm thấy thế như hệ quả của khảo sát tâm lí, năm nào cũng vậy người khó mà kéo dài sống, đôi khi lại sống tốt trong mười năm khác. Họ tiếp tục bám chặt cuộc sống mà chỉ là tâm lí bất lực thể dập tắt được. Có những người khác sức khoẻ của họ tốt cách hợp lí và họ có thể tạo thành những bộ xương cổ, người ta nghĩ thế. cách khác, chứng viêm phế quản, cúm, dường như có khả năng hồi phục, và chết với yên bình đáng kinh ngạc. Vì vậy, như tôi , như nhân viên y tế đến nhà điều dưỡng dành cho người già, tôi ngạc nhiên khi cái có thể gọi là cái chết bất ngờ tốt đẹp xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp của bà Moody, hơi khác. Bà chết trong giấc ngủ mà phô bày ra bất cứ dấu hiệu đau ốm nào cả và tôi thể nguôi cái ý tưởng rằng cái chết của bà bất ngờ. Tôi dùng từ ngữ luôn luôn gợi tính tò mò trong tôi trong vở kịch của Shakespear, Macbeth. Tôi luôn luôn tự hỏi Macbeth muốn gì khi chàng với vợ,“ đáng ra phải chết từ đây”.

      - Phải, tôi nhớ lại lần ngạc nhiên tự hỏi Shakespeare gợi ý cái gì, Tommy . Tôi quên sản phẩm đó là của ai và ai đóng vai Macbeth, nhưng có gợi ý mạnh mẽ trong tác phẩm nghệ thuật đặc biệt này, và chắc chắn trong chừng mực nào đó Macbeth nước cờ này gợi ý chàng ám chỉ nhân viên y tế săn sóc sức khỏe vợ chàng là Lady Macbeth tốt hơn nên biến . Tin chắc nhân viên y tế hiểu được điều ám chỉ. Rồi Macbeth, cảm thấy an toàn sau cái chết của vợ, cảm thấy còn gây hại cho ông nữa, bởi thiếu thận trọng hay trí nhớ tàn lụi quá nhanh của , diễn tả thiện chí trung thực của mình và nỗi buồn cho .” đáng ra nên chết từ đây”.

      - Chính xác, Dr.Murray . Đó là cái tôi linh cảm ở trường hợp bà Moody. Tôi linh cảm bà phải chết từ đây. phải đúng ba tuần trước đây có nguyên do ràng -

      Tommy đáp. chỉ nhìn vị Dr dò hỏi.

      - Thuốc men điều trị của người chắc chắn có vấn đề. Nếu lúng túng về nguyên nhân cái chết của bịnh nhân chỉ có cách bảo đảm nhất để . Bằng xét nghiệm tử thi. Nhưng cuộc xét nghiệm tử thi được thân nhân người chết thông cảm, nhưng nếu bác sĩ cầu cuộc xét nghiệm tử thi và hệ quả là, có thể hoàn toàn là, trường hợp của những nguyên nhân tự nhiên, hay số người chết hay người bịnh luôn luôn cho những dấu hiệu bên ngoài hay triệu chứng bịnh, rồi tiếng tăm của bác sĩ có thể hoàn toàn bị ảnh hưởng nghiêm trọng do việc ông tạo ra mối nghi ngờ có vấn đề.

      - Tôi có thể hiểu rằng điều đó ắt phải khó khăn.

      - Thân nhân là những em họ xa, đó mới là vấn đề. Điều hệ trọng là lưu tâm đến thuốc men để tìm hiểu nguyên do cái chết tôi thừa nhận có được đồng ý của họ. Khi người bịnh chết trong giấc ngủ thêm vào hiểu biết thuốc men của con người là điều hợp lí. Nhắc nhớ, tôi hoàn thành việc đó khá khéo léo, tạo cho nó quá hình thức. May thay họ cũng bất cẩn. Trong tâm hồn tôi cảm thấy vô cùng nhõm. Mỗi lần cuộc khám nghiệm tử thi hoàn thành và nếu tất cả tốt đẹp, tôi có thể cho người chết giấy khai tử mà hề có nghi ngờ nào. Bất cứ ai vẫn có thể chết về chứng được gọi cách máy móc là suy tim, từ trong nhiều nguyên nhân khác nhau. Thực tế ở tuổi đó trái tim bà Moody còn rất khỏe. Bà chịu đau vì chứng viêm khớp, thấp khớp thỉnh thoảng gây phiền cho cuộc sống của bà, nhưng phải chứng này hoà hợp với chuyến xa của bà trong giấc ngủ.

      Dr. Murray dừng lại. Tommy mở miệng rồi ngậm lại. Vị bác sĩ gật đầu.

      - Phải, thưa ông Beresfold. Ông có thể hiểu những gì tôi theo đuổi. Cái chết là hiệu quả từ thuốc mê quá liều.

      - Chúa ơi! Tommy giật nảy và lời vọt ra khỏi cửa miệng .

      - Phải. Dường như đó là điều thể tin, nhưng vượt quá mức phân tích. Vấn đề là: ma túy được điều hành thế nào? Bà dùng thuốc giảm đau. Bà phải là người bịnh chịu nhiều đau đớn. Tất nhiên, có những khả thể. Có thể bà ấy lấy do tình cờ. thể. Có thể bà ấy giữ cầm nhầm số thuốc của bịnh nhân nhưng lại đặc biệt thể được. Bịnh nhân được giao phó việc dự trữ liều thuốc mê, chúng tôi chấp nhận những người nghiện ma tuý có thể dự trữ liều thuốc riêng. Có thể tự sát cố ý nhưng tôi còn lâu mới chấp nhận điều đó. Bà Moody mặc dầu là người hay quấy rầy, là kẻ tâm tính hoàn toàn vui vẻ và tôi hoàn toàn chắc bà ấy bao giờ nghĩ đến chuyện chấm dứt đời mình. Khả thể thứ ba thứ thuốc mê định mệnh quá liều đó được cố ý vận dụng cho bà. Nhưng bởi ai, và tại sao? Tất nhiên, Packard cán điều dưỡng quốc gia và nữ hộ lý, có dự bị thuốc giảm đau cất trong tủ đựng chén bát có khoá mà hoàn toàn có quyền sở hữu. Trong những trường hợp như thần kinh hông hay viêm khớp mãn tính có thể gây đau đớn nghiêm trọng và tuyệt vọng thỉnh thoảng thuốc giảm đau được vận dụng. Chúng tôi hi vọng rằng có thể ngẫu nhiên chúng tôi gặp vài trường hợp trong đó bà Moody do nhầm lẫn được cấp phát tổng số thuốc giảm đau nguy hiểm hay tự bà lấy do ảo tưởng nó trị liệu chứng khó tiêu và mất ngủ. Chúng tôi có khả năng tìm ra bất cứ trường hợp nào khả thể hơn thế. Việc kế tiếp chúng tôi giải quyết, theo gợi ý của Packard và tôi đồng ý với , nên cẩn thận nhìn vào bản báo cáo những cái chết như vậy xảy ra tại Sunny Ridge trong hai năm sau này. Tôi vui mà , nhiều lắm. Tôi nghĩ có bảy người, đó là mức trung bình đẹp nhất cho con người ở độ tuổi. Hai cái chết vì viêm phế quản, hoàn toàn trung thực, hai bịnh cúm, luôn luôn là kẻ giết người trong suốt những tháng mùa đông bởi vì sức đề kháng mỏng manh được hiến cho những phụ nữ có tuổi, yếu đuối. Và ba người khác.

      Ông dừng lại , ‘Ông Beresfold, tôi hài lòng về ba cái chết này, chắc chắn thoả mãn về hai người. Chúng hoàn toàn có thể xảy ra, chúng phải là bất ngờ, nhưng tôi đến tận cùng chỗ tôi biết để rằng chúng Thể xảy ra được. Chúng phải là những trường hợp mà suy nghĩ và truy tìm tôi hoàn toàn thỏa mãn. Người ta phải thừa nhận khả thể rằng, như nó hề xảy ra, có kẻ nào đó tại Sunnny Ridge, có thể vì lí do thần kinh, là kẻ giết người. kẻ sát nhân hoàn toàn bị nghi ngờ.

      Im lặng lát. Tommy thở dài.

      - Tôi nghi ngờ những gì ông cởi mở với tôi, , nhưng cũng vậy thôi, dường như thể tin được. Những việc này, bảo đảm, thể xảy ra.

      - Vâng, Dr.Murray buồn bã thốt. Chúng xảy ra thoả đáng. kiểm tra lại số trường hợp thuộc bịnh học. người đàn bà nhận làm ô xin. Bà ta nấu ăn trong nhiều gia đình khác nhau. Bà là người đẹp, dễ thương, phục vụ chủ trung thành, nấu ăn ngon, cùng thích ở với họ. Tuy nhiên, sớm hay muộn, những việc cứ xảy ra.Thường là dĩa săng uých. Đôi khi đồ ăn ngoài trời. Arsenic được thêm vào có động cơ rằng. Hiển nhiên chỉ là tình cờ kẻ khác được lịnh cầm lấy ăn. Hình như có trả thù cá nhân. Đôi khi có bi kịch xảy ra. Cùng phụ nữ đó ở chỗ ba bốn tháng và có dấu vết đau ốm gì. gì cả. rồi bà ta tìm chỗ làm khác, và trong chỗ làm tiếp đó, trong ba tuần, hai gia đình chết sau khi ăn thịt heo nướng buổi điểm tâm. kiện là tất cả những chuyện này xảy ra trong những vùng khác nhau của nước ở những thời khắc bất thường trước khi cánh sát tới gần bà. Mỗi lần bà ta dùng tên khác nhau, tất nhiên. Nhưng có quá nhiều phụ nữ trung niên vui tánh, có khả năng, có thể nấu ăn, khó có thể kiếm ra người đàn bà ấy là ai.

      - Tai sao bà ta làm vậy?

      - Tôi nghĩ ai biết được. Có nhiều lí thuyết khác nhau, dĩ nhiên đặc biệt về tâm lí. Bà ta là phụ nữ hơi sùng đạo và có thể có số hình thức tôn giáo điên rồ khiến bà cảm thấy bà có con qủy ra lịnh cho bà phải tẩy khỏi thế gian số người nhất định, dường như phải tại bà ta có bất cứ thù ghét nào đối với họ.

      - Rồi tiếp đến mụ người Pháp, Jeanne Gebron, gọi là Thiên Thần Nhân ái. Khi láng giềng có con nít đau mụ bối rối lắm, mụ vội vã săn sóc những trẻ em này. Mụ tận tụy bên giường chúng. lần nữa phải có thời gian trước khi người ta khám phá ra những đứa trẻ mụ săn sóc bao Giờ hồi phục cả. Thay vì vậy Chúng Chết hết. lần nữa tại sao? khi mụ còn trẻ mụ mất đứa con. Mụ ta ràng bị nỗi buồn đánh gục. Có lẽ đó là nguyên do tội ác trứ danh của mụ. Nếu đứa con Của mụ chết con người khác cũng chết. Hay có lẽ, như số người nghĩ, đứa con của bà cũng là nạn nhân.

      - Ông khiến tôi rúng động đến tận xương.Tommy .

      - Tôi lấy những ví dụ đầy kịch tính nhất. Vị bác sĩ . Có thể có cái đơn giản hơn. nhớ trường hợp Amstrong chứ, trong chừng mực nào đó bất cứ ai cưỡng bức hay lăng mạ ta hay, ra nếu ta nghĩ kẻ nào đó làm nhục mình, người đó nhanh chóng được mời uống trà và dùng bánh săng uých có arsenic. loại cảm xúc mãnh liệt. Tội ác đầu tiên của ta ràng chỉ là tội ác vì mối lợi cá nhân. Thừa kế tiền bạc. Tẩy xoá bà vợ để có thể cưới bà vợ khác.

      - Rồi đến vú Warriner người trông coi Nhà điều dưỡng. Họ sữa chữa lại những thủ thuật phải làm với bà ta, bảo đảm chỗ tiện nghi cho tuổi già đến khi chết - nhưng cái chết trì hoãn quá lâu. Lại cũng thuốc gây mê được tận dụng - phụ nữ rất dễ thương, nhưng đắn đo cân nhắc - tôi tin rằng, bà ta tự cho mình là người làm phúc.

      - Ông có ý kiến chi, nếu ông suy đoán về những cái chết này là , kẻ đó là ai?

      - . Dường như có mũi nhọn. Chưa có gì tiến triển cả. Lấy quan điểm kẻ sát nhân có thể điên, điên là điều rất khó nhận ra trong biểu lộ của nó. Chúng ta , ai đó thù ghét người già, bị đối xử bất công hay cuộc sống của bị suy sụp hay nghĩ thế, bởi kẻ già nua nào đó? Hay có thể ai đó có ý kiến về việc giết người như ân huệ và cho rằng người sáu mươi tuổi nên bị huỷ diệt cách tử tế. Dĩ nhiên, có thể là ai đó. bịnh nhân? Hay phần tử của nhóm - y tá hay người giúp việc?

      - Tôi thảo luận chuyện này rất lâu với Packard người điều khiển nhà an dưỡng. ấy là người có năng lực cao, thông minh, nghiêm túc, giám sát rất kĩ những người khách đến thăm ở đó và của riêng nhóm. qủa quyết dù bất kì chuyện gì cũng nghi ngờ và có đầu mối nào và tôi chắc đó là hoàn toàn.

      - Nhưng tại sao lại đến với tôi? Tôi có thể làm gì?

      - Dì của , Fanshawe ấy, là cư dân ở đó trong nhiều năm - bà là phụ nữ có khả năng tinh thần đáng kể, mặc dù bà thường khôn ngoan giả vờ. Bà có những cách độc đáo để tự làm mình vui bằng cách khoác lên vẻ già yếu. Nhưng thực tế bà rất có lí trí - cái điều tôi muốn ông cố gắng làm, ông Beresfold, là cố nghĩ cho gắt - ông và vợ ông nữa - Có khi nào ông nhớ đến điều gì đó Fanshawe từng ám chỉ hay , có thể cho chúng ta đầu mối - người nào đó với điều gì, cái gì mà tự nghĩ là kì dị. Những bà già thấy và chú ý nhiều, và người thông minh như Fanshawe biết nhiều chuyện đáng ngạc nhiên tiếp diễn tại chỗ như Sunny Ridge. Những bà già này bận rộn, nhưng ông hiểu, lúc nào họ cũng có đủ thời gian nhìn quanh thế giới và tạo những quá trình suy luận - thậm chí nhảy ngay vào kết luận - kết luận đó hình như có thể kì quái, nhưng đôi khi, kinh ngạc thay, nó lại hoàn toàn đúng.

      Tommy lắc đầu.

      - Tôi muốn hiểu những gì ông - nhưng tôi thể nhớ được.

      - Vợ ông xa, tôi hiểu. Ông nghĩ ấy có thể nhớ cái gì đó nảy ra trong trí ông sao?

      - Tôi hỏi ấy - nhưng tôi nghi ngờ điều đó. lưỡng lự, rồi quyết định. Nhìn đây, có cái gì đó khiến vợ tôi lo âu - về bà già, bà Lancaster nào đó.

      - Bà Lancaster ? vâng.

      - Vợ tôi cứ nhét vào đầu rằng bà Lancaster thình lình bị đem xa bởi số người được gọi là bà con. Thực tế là, bà Lancaster tặng cho dì tôi bức tranh làm quà, vợ tôi cảm thấy rằng phải tình nguyện trả lại bức tranh cho bà Lancaster, vì vậy cố gắng tiếp xúc với bà ấy. kiếm địa chỉ khách sạn nơi họ được giả định còn ở lại - bà Lancaster và những người bà con - nhưng ai có cái tên đó từng ở lại hay đăng kí phòng ở đó.

      - Ô? Cái đó khá lạ lùng đấy.

      - Phải, Tuppence nghĩ cái ấy khá lạ lùng. Họ để lại địa chỉ mới để chuyển tiếp thư tại Sunny Ridge. , chúng tôi làm nhiều cố gắng để tiếp xúc với bà Lancaster, hay với bà Joshson - tôi nghĩ đó là cái tên - nhưng hoàn toàn thể tiếp xúc với họ. Đó là cố vấn pháp luật tôi tin rằng trả tất cả ngân phiếu - và sắp xếp tất cả với Packard và chúng tôi yên trí liên hệ với ông ta. Nhưng ông ta chỉ có thể cho tôi địa chi nhà băng. Những ngân hàng, Tommy khô khan , cho bạn bất cứ thông tin nào.

      - nếu họ được bảo bởi các khách hàng, tôi đồng ý.

      - Vợ tôi viết thư cho bà Lancaster nhờ ngân hàng chuyển, và cũng viết cho bà Johnson, nhưngbà ấy bao giờ trả lời.

      - Điều này dường như hơi bất bình thường. Còn nữa, người ta luôn luôn trả lời thư. Có thể họ ngoại quốc.

      - Hoàn toàn chính xác - điều đó làm tôi lo. Nhưng lại làm vợ tôi lo. Hình như ấy tin chắc rằng cái gì xảy đến cho bà Lancaster. , trong suốt thời gian tôi vắng nhà, bảo điều tra hơn - tôi biết chính xác muốn làm gì, có lẽ xem khách sạn với tư cách cá nhân, hay ngân hàng, hay thử dùng luật sư cố vấn. Dù thế nào , thử và kiếm thêm ít thông tin.

      - Dr. Murray lịch ngó , nhưng trong cử chỉ mang dấu hiệu nóng nảy khó chịu.

      - Chính xác ấy nghĩ cái gì - ?

      - nghĩ rằng bà Lancaster bị nguy hiểm - thậm chí chuyện gì đó có thể xảy ra với bà ta.

      Đôi lông mày của vị bác sĩ dựng đứng.

      - Ô! thế à, tôi khó mà nghĩ được vậy.

      - Với ông điều này hình như hoàn toàn ngu ngốc, Tommy , nhưng ông hiểu cho, vợ tôi điện thoại bảo trở về tối hôm qua - và - Về.

      - khẳng định rằng trở về sao?

      - Phải. biết tôi về nhà, ông biết mà, từ hội nghị này. Vì thế gọi điện bảo người làm của chúng tôi, Albert, cho biết về ăn tối.

      - Và hình như đối với làm vậy là việc thể nào có đối với ? Dr. Murray hỏi. Bây giờ ông ta nhìn Tommy với chú tâm.

      - Phải, Tommy đáp. Điều đó Rất giống với Tuppence. Nếu trì hoãn hay thay đổi chương trình gọi điện hay đánh bữc điện chứ.

      - Và lo cho ?

      - Phải, tôi lo.

      - Hừm! hỏi ý kiến cảnh sát chưa?

      - Chưa, Tommy . Cảnh sát nghĩ gì? có vẻ như là tôi có lí do chi để tin rằng ấy gặp rắc rối hay nguy hiểm. Tôi muốn , nếu bị tai nạn và nằm bệnh viện, hay cái gì tương tự, ai đó liên hệ với chúng tôi ngay, phải nào?

      - Tôi thế - vâng - nếu như số giấy tờ căn cước.

      - mang theo bằng lái xe. Có thể thư từ và nhiều thứ khác nữa.

      Dr. Murray cau mày.

      Tommy vội vã tiếp tục.

      - Và bây giờ ông đến - đem theo mọi việc ở Sunny Ridge - Người ta chết khi họ phải chết. Giả sử hạt đậu già này nắm được cái gì đó - và bắt đầu tán gẫu về nó - trong cách nào đó bà phải im lặng, vì thế bất ngờ bà ấy bỏ , và đến nơi nào đó nơi bà thể bị theo dõi. Tôi thể cưỡng lại cảm tưởng toàn thể việc cột chặt với nhau dù sao chăng nữa -

      - kì lạ - chắc chắn kì lạ - sắp tới định làm gì ?

      - Tôi tự mình tìm kiếm chút - đầu tiên thử tiếp xúc với các luật sư - có thể họ hoàn toàn có lí, nhưng tôi thích nhìn bề ngoài các kiện mà xét, rồi có những kết luận riêng hơn.
      Prunus Ngọc thích bài này.

    4. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      BOOK 3: người vợ mất tích

      Chương 12: Tommy gặp người bạn cũ


      Từ phía đối diện của đường phố, Tommy ngắm nhìn cơ ngơi của nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale.

      Trông chúng nổi bật vẻ đáng kính và cổ điển. Tấm bảng đồng cũ rích nhưng còn bóng láng dễ thương. băng qua đường và được những thanh máy đánh chữ gõ nhanh câm lặng xuyên qua những cánh cửa mở đu đưa chào đón.

      hướng chú ý của mình lên cửa sổ bằng gỗ d ái ngựa bên tay phải mang những chữ ghi đồng xu Điều Tra. Bên trong là phòng nơi ba người phụ nữ đánh máy và hai thư kí nữ cúi mình những bàn giấy chép lại những tài liệu.

      bầu khí thoang thoảng mùi ẩm mốc với tính cách hợp pháp triệt để.

      phụ nữ ba mươi lăm tuổi, mái tóc vàng nhạt, cái kính kẹp mũi ngước lên từ bàn máy đánh chữ đến cửa sổ với vẻ nghiêm khắc.

      - Tôi có thể giúp gì được cho ông?

      - Tôi muốn gặp ông Eccles.

      Vẻ nghiêm khắc của người đàn bà tăng gấp đôi.

      - Ông có hẹn ?

      - Tôi e là . Tôi vừa mới đến London hôm nay.

      - Tôi e là ông Eccles sáng hôm nay hơi bận. Có lẽ người khác của hãng.

      - Tôi đặc biệt muốn gặp ông Eccles. Tôi có trao đổi thư từ với ông rồi.

      - Tôi hiểu. Có lẽ ông cho biết tên ông.

      Tommy cho tên và địa chỉ và người phụ nữ tóc vàng rút lui để dùng điện thoại xin ý kiến. Sau cuộc chuyện trở lại.

      - Thư kí của chúng tôi đưa ông vào phòng đợi. Ông Eccles có thể tiếp ông trong mười phút.

      Tommy được dẫn vào phòng đợi có kệ sách hơi cổ và những chồng sách luật trông buồn tẻ và bàn tròn phủ đầy giấy tờ thuộc tài chính khác nhau. Tommy ngồi đó và điểm lại trong đầu những phương pháp tiếp cận theo dự tính. tự hỏi ông Eccles như thế nào. Cuối cùng được dẫn vào và ông Eccles từ bàn giấy đứng lên đón, quả quyết ra là ông thích ông Eccles vì lí do đặc biệt nào cả. Ông cũng tự hỏi mình vì sao ông ưa ông Eccles. Dường như có lí do căn bản của thù ghét. Ông Eccles là người giữa bốn mươi và năm mươi tuổi với mái tóc màu xám tro hơi mỏng ở đỉnh đầu. Khuôn mặt ông ta dài hơi buồn với nét mặt đặc biệt như tạc bằng gỗ, đôi mắt sắc, nụ cười khá vui đôi khi cắt bớt cách bất ngờ nét buồn tẻ của hình dáng.

      - Ông Beresfold?

      - Vâng. ra là việc hơi tầm thường, nhưng vợ tôi lo âu. viết thư cho ông, tôi tin thế, hay có khả năng gọi điện, để tìm hiểu xem ông có thể cho ấy địa chỉ của bà Lancaster nào đó .

      - Bà Lancaster à, ông Eccles , giữ nguyên khuôn mặt hoàn toàn vô cảm. Thậm chí đó phải là câu hỏi. Ông chỉ để lại cái tên lơ lửng trong khí.

      - “ người đàn ông thận trọng,” Tommy nghĩ,” nhưng đó là bản chất thứ hai của những luật gia thận trọng. ra, nếu họ là luật sư riêng của ai người ta cũng thích họ thận trọng.”

      Ông tiếp tục:

      - Cho đến lúc sau này sống ở chỗ gọi là Sunny Ridge, cơ sở công cọng - và chỗ rất tốt - cho những bà già. , bà dì của chúng tôi ở đó là cực kì hạnh phúc và dễ chịu.

      - Ô vâng, dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên. Bây giờ tôi nhớ rồi. Bà Lancaster. Tôi nghĩ, bà còn sống ở đó nữa? Điều đó hợp lí, phải ?

      - Phải, Tommy đáp.

      - Có lúc tôi nhớ lại chính xác - ông ta đưa tay vói máy điện thoại - tôi vừa mới hồi phục kí ức.

      - Tôi có thể kể lại cho ông hoàn toàn đơn giản, Tommy . Vợ tôi cần địa chỉ của bà Lancaster bởi vì tình cờ sở hữu mảnh tài sản nguyên thủy thụôc về bà Lancaster. bức tranh, thế. Bà Lancaster tặng nó cho dì tôi, Fanshawe như món quà. Dì tôi vừa mới chết, và ít của nả của dì lọt vào quyền sở hữu của chúng tôi. Trong đó gồm có bức tranh được bà Lancaster tặng. Vợ tôi rất thích nó nhưng lại có cảm giác tội lỗi về cái ấy. nghĩ rằng có thể là bức tranh bà Lancaster đánh giá cao và trong trường hợp này cảm thấy mình phải tự nguyện trả lại cho bà ấy.

      - Tôi hiểu, ông Eccles . Bà nhà là giàu lương tâm đạo đức, tôi bảo đảm.

      - Người ta bao giờ hiểu, Tommy cười vui vẻ, người già có thể cảm giác gì về tài sản của họ. Có lẽ bà ấy cảm thấy vui từ khi dì tôi say mê bức tranh ấy và có nó, nhưng khi dì tôi chết ngay sau khi nhận bức tranh này, dường như hơi đẹp nếu bức tranh thuộc quyền sở hữu của người khác. tranh có đề mục đặc biệt. Nó trình bày ngôi nhà nào đó trong xứ. Vì tất cả điều tôi biết có thể là vài nhà thân cận liên can đến bà Lancaster.

      - Hoàn toàn, chính xác, ông Eccles , nhưng tôi nghĩ.

      Có tiếng gõ, cửa mở ra người thư kí vào đưa ra tờ giấy đặt xuống bàn trước mặt ông Eccles, ông Ecceles nhìn xuống.

      - Vâng, à vâng, bây giờ tôi nhớ. Vâng, tôi tin bà - ông liếc nhìn tấm cạc Tommy đặt bàn giấy - Berefold gọi điện vài lời với tôi. Tôi khuyên bà nên tiếp xúc với ngân hàng các quận phía bắc, chi nhánh Hammer. Đó là địa chỉ duy nhất chúng tôi biết, nhờ bà Richard Johnson chuyển tiếp. Tôi tin bà Johnson là người cháu hay em họ xa của bà Lancaster và bà ấy thu xếp mọi chuyện với tôi cho bà Lancaster được nhận vào ở Sunny Ridge. Từ khi bà ngẫu nhiên nghe được qua người bạn, bà cầu tôi điều tra đầy đủ về cơ sở công cọng, Người ta đó là cơ sở tuyệt vời và tôi tin người bà con của bà Johnson, bà Lancacster, sống nhiều năm hoàn toàn hạnh phúc.

      - Mặc dầu thế, bà ấy rời khỏi nơi đó quá bất ngờ. Tommy gợi ý.

      - Phải, phải, tôi tin rằng bà ấy làm thế. Bà Johnson dường như từ Đông Phi Châu trở về hơi bất ngờ - quá nhiều người làm thế! Bà và chồng bà ấy, cư trú tại Kenya trong nhiều năm. Họ tổ chức nhiều cuộc dàn xếp và cảm thấy có thể tin tưởng vào chăm sóc cá nhân dành cho người bà con của họ. Tôi e rằng tôi biết bà Johnson tại ở đâu. Tôi có lá thư của bà cám ơn tôi và thanh toán những khoản tín phiếu bà còn nợ tôi, và thẳng nếu cần liên hệ với bà tôi nên đề địa chỉ nhờ ngân hàng chuyển khi bà và chồng cũng chưa quyết định họ cư trú ở đâu. Tôi e, ông Beresfold, đó tất cả những gì tôi biết.

      Cử chỉ của ông ta dịu dàng nhưng quả quyết. Nó phô bày bối rối, lo phiền. Nhưng tính chất dứt khoát của giọng rất xác định. Rồi ông thẳng người lên và phong thái mềm lại chút.

      - tôi lo, ông Beresfold, ông biết mà, ông giọng khích lệ. Ô, tôi để cho bà nhà phải lo. Bà Lancaster, là bà già và có khuynh hướng hay quên, tôi tin thế. Có lẽ bà quên tuốt tất cả về bức tranh mà bà ấy tặng rồi. Bà ấy bảy mươi lăm hay bảy mươi sáu rồi chứ. Ở tuổi đó, người ta quên dễ dàng lắm, khỏi phải .

      - Ông có biết tính cách cá nhân của bà ấy ?

      - , tôi chưa bao giờ gặp bà ta.

      - Nhưng ông biết bà Johnson?

      - Tôi gặp bà ấy khi bà thỉnh thoảng đến đây để tư vấn tôi về những cuộc sắp xếp. Bà ấy hình như là người vui vẻ, nghiêm túc. Trong những cuộc sắp xếp bà ấy làm bà tỏ ra khá có năng lực. Ông đứng dậy , rất tiếc tôi thể giúp ông nữa, ông Beresfold.

      Đó là lối đuổi khách dịu dàng nhưng cương quyết.

      Tommy bước ra ngoài đường Bloomsybury và nhìn quanh tìm chiếc tắc xi. Cái gói mang, dù có sức nặng, là kích thước đáng kể. Trong chốc nhìn lên toà nhà vừa rời khỏi. Toà nhà được xây dựng từ lâu, tiếng tăm đáng kính. Ở đó có gì có thể lầm lẫn, ràng có gì có thể sai lầm với nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale, có gì sai lầm với ông Eccles, có dấu hiệu kinh hoảng hay chán nản, mập mờ hay bất ổn. Trong sách vở, Tommy buồn bã nghĩ, nhắc đến bà Lancaster hay bà Johnson chắc phải đến khởi đầu tội lỗi hay cái liếc nhìn gian xảo. cái gì đó trình bày những cái tên được đăng kí, tất cả tốt. Trong đời sống thực tế những việc xảy ra như vậy. Tất cả cái ông Eccles có trông giống như người đàn ông quá lịch lãm thể để cho giờ của mình bị phí phạm bởi cuộc điều tra như Tommy vừa mới làm.

      Tommy suy nghĩ, nhưng cũng vậy thôi, Ta Ưa Eccles. nhớ lại những kí ức lờ mờ về quá khứ, những người khác mà lí do nào đó thích. Những linh cảm thông thường này - vì tất cả đều là những linh cảm - có lí. Có lẽ nó giản dị hơn. Trong đời bạn nếu bạn có khá nhiều giao dịch buôn bán với những người nổi tiếng, bạn có cảm giác về họ, cũng như chuyên gia đồ cổ - lập tức biết ngay sở thích và vẻ ngoài và linh cảm làm giả trước khi bắt tay thử nghiệm và khảo sát mang tính chuyên nghiệp. kiện đúng là Sai Lầm. Bức tranh cũng Sai lầm. Tin chắc như thế với thủ quỹ trong ngân hàng họ cung cấp tờ giấy bạc giả mạo hạng nhất.

      nghe có lí; Tommy nghĩ. trông có lí, nghe có vẻ có lí, nhưng có khác gì - ”. điên cuồng vẫy chiếc tắc xi chiếc xe tặng cái nhìn trực diện lạnh lẽo, tăng tốc và mất. ‘đồ con lợn,’ Tommy nghĩ.

      Mắt láo liên nhìn ngược xuôi đường phố, tìm chiếc xe sắn lòng giúp đỡ. số lớn người bộ hè đường. vài người vội vã, vài người rảo bước, người đàn ông vừa tách khỏi băng qua đường nhìn chăm chăm tấm bảng đồng. Sau cuộc kiểm tra kĩ lưỡng, nhìn quanh và đôi mắt Tommy mở to chút. biết khuôn mặt đó. nhìn người đàn ông bộ xuống cuối con đường, ngừng lại, quay lại và bộ trở lại. người ra khỏi toà nhà phía sau Tommy; ngay lúc đó người đàn ông phía đối diện tăng tốc chút, vẫn tiếp tục bộ phía bên kia đường nhưng vẫn giữ cước bộ với người đàn ông ra khỏi cửa. Người đàn ông ra khỏi cửa nhà Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và cánh cửa của Partingdale là, Tommy nghĩ, trông phía sau hình người thụt lùi của ông ta, hầu như đoan chắc là ông Eccles. Cùng lúc đó chiếc tắc xi rề qua mời mọc vui vẻ, lái dọc theo. Tommy đưa tay lên, chiếc tắc xi trờ đến, mở cửa leo vào.

      - đâu?

      Tommy lưỡng lự chút, nhìn cái gói. Định cho địa chỉ đổi ý và ,’ 14 Lyon’.

      Mười lăm phút sau đến nơi. Sau khi trả tiền tắc xi rung chuông và hỏi ông Ivor Smith. Khi vào căn phòng ở tầng hai, người đàn ông ngồi ở cái bàn đối diện cửa sổ, quay ngoắt lại và với ngạc nhiên mơ hồ.

      - Chào, Tommy, tưởng được chuyện gặp . Lâu lắm rồi. làm gì ở đây thế? Chỉ lái xe cách thoải mái để tìm bạn sao?

      - hoàn toàn tốt như thế đâu, Ivor.

      - Vậy tôi tưởng về nhà sau hội nghị?

      - Vâng.

      - Và nhiều chuyện thông thường để hội đàm, tôi tưởng thế? có kết luận và có gì ích lợi để cả.

      - Đúng. Và tuyệt đối phí phạm thời gian.

      - Đa số lắng nghe lão già Bogie Waddock khoác lác, tôi nghĩ vậy. người rất tẻ nhạt. Càng năm càng tệ.

      - Ồ!

      Tommy ngồi xuống cái ghế được đẩy về phía , nhận điếu xì gà, và .

      - Tôi chỉ tự hỏi - đó là điều đoán thử để cầu may - ông có biết điều gì về người tên Eccles bản tính hay lăng mạ, luật sư cố vấn, hãng Messrs. Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale.

      - Tốt, tốt, tốt, người đàn ông tên Ivor Smith . Ông nhướng đôi lông mày lên. Đó là cặp chân mày rất tiện lợi khi nhướng lên. Phần cuối lông mày gần sóng mũi dựng lên còn phía đối diện với gò má rủ xuống trong ngạc nhiên tột độ. Chúng tạo cho ông vẻ hơi khiêu khích chút trông giống người bị cú sốc mạnh, nhưng thực tế chỉ là cử chỉ khá thông thường thôi. “ lại đương đầu với Eccles nơi nào đó à, phải ?”

      - Caí phiền là, Tommy , tôi biết gì về ta cả.

      - Vậy muốn biết gì đó về ?

      - Phải.

      - Hừm. Cái gì khiến đến gặp tôi thế?

      - Tôi thấy Anderson bên ngoài. Tôi gặp từ lâu, nhưng tôi nhận ra ngay. theo dõi ai đó. Người đó là ai, đó là kẻ trong toà nhà tôi vừa mới ra khỏi. Hai hãng luật sư làm việc ở đó và hãng thuộc nhân viên kế toán có năng lực hành nghề. Tất nhiên có thể là trong hai hãng hay phần tử nào đó của hãng. Nhưng có dọc xuống đường tôi trông giống Eccles. Và tôi chỉ tự hỏi bởi dịp may nào mà Anderson lại chú ý đến Eccles của tôi?

      - Hừm, Ivor Smith. Tommy, luôn là người suy đoán cực giỏi.

      - Eccles là ai?

      - biết à? có ý kiến gì sao?

      - Tôi có ý kiến, Tommy đáp. sâu vào câu chuyện lịch sử dài, tôi đến tìm ông ta vì thông tin về bà già vừa mới rời khỏi nhà điều dưỡng dành cho qúy bà. Vị cố vấn pháp luật được thuê để sắp xếp cho bà già ấy là luật sư Eccles. Y có vẻ thôi hẳn vụ đó với thái độ cư xử lịch thiệp và có hiệu quả. Tôi cần địa chỉ tại của bà ấy. có. Có thể có...nhưng tôi vẫn thắc mắc. là đầu mối duy nhất gần bà ấy mà tôi có.

      - Và cần tìm bà ta?

      - Phải.

      - Tôi nghĩ điều ra như có vẻ tôi cầu quá sức chịu đựng đối với . Eccles là người rất đáng kính trọng, luật sư nổi tiếng làm ra được lợi tức lớn, có khá nhiều khách hàng cao cấp đáng nể, làm việc cho những điền chủ, những tầng lớp chuyên nghiệp, lính tráng và thủy thủ nghỉ hưu, các vị đại tướng và đô đốc và tất cả những cái thể giải thích được. ta ở giai đoạn phát triển cao nhất của tôn kính. Từ những điều vừa tôi có thể tưởng tượng ra, rằng những hoạt động của tuyệt đối đúng luật.

      - Nhưng - chú ý đến , Tommy gợi ý.

      - Phải, chúng tôi rất chú ý đến ông James Eccles. Ông ta thở dài. Chúng tôi chú ý đến ông ta ít ra cũng sáu năm. Chúng tôi chưa tiến xa lắm.

      - Rất đáng chú ý, Tommy . Tôi hỏi ông lần nữa. Chính xác ông Eccles là ai?

      - muốn chúng tôi nghi ngờ Eccles về chuyện gì? Tốt, tắt câu, chúng tôi nghi trong những đầu não tổ chức giỏi nhất trong những hoạt động tội ác của xứ này.

      - Hoạt động tội ác? Tommy có vẻ kinh ngạc.

      - Ồ, vâng, vâng. áo choàng hay dao găm. có gián điệp, hoạt động chống gián điệp. , hoạt động tội ác đơn giản. người đàn ông theo chỗ chúng tôi biết có thể khám phá được là bao giờ thực tội ác nào trong cuộc đời. bao giờ ăn cắp, bao giờ làm giả giấy tờ, bao giờ rửa tiền, chúng tôi bao giờ có chứng cớ nào chống lại cả. Nhưng cũng thế bất cứ khi nào có tổ chức đánh cướp lớn có dự mưu, ở đó chúng tôi thấy, ông Eccles dẫn đầu cuộc sống lương thiện.

      - Sáu năm, Tommy giọng suy tưởng.

      - Thậm chí còn lâu hơn thế. Nó chiếm thời gian ngắn, để nắm bắt những mẫu kiện. Những vụ cướp ngân hàng, những vụ trộm tư trang, tất cả các loại kiện đem lại món tiền lớn. Tất cả các việc đều theo mẫu nhất định. thể ngừng suy nghĩ rằng cùng cái đầu tổ chức chúng. Người trực tiếp điều khiển và mang bao giờ phải làm bất cứ dự án nào. Chúng nơi chúng được báo, chúng làm những gì chúng được ra lịnh, chúng bao giờ phải suy nghĩ. kẻ nào khác suy nghĩ.

      - Và cái gì làm ông tình cờ nghĩ ra được sáng kiến Eccles?

      Ivor Smth lắc đầu suy nghĩ. Phải dài dòng để kể cho nghe. người có nhiều mối quan hệ, nhiều bạn. Có những người chơi gôn, có những người phục vụ cho xe hơi của , có những hãng môi giới cổ phần hoạt động cho . Có những công ty làm những việc có chi đáng chê trách mà trong việc đó bị chú ý. Dự án càng ràng nhưng vai trò của trong dự án ràng, trừ việc vắng mặt rất dễ nhận biết vào những dịp nào đó. vụ đánh cướp ngân hàng lớn được tổ chức thông minh( và có chi phí chia phần, nhắc đấy), củng cố chuyện dời khỏi nơi và tất cả phần còn lại, còn ông Eccles khi xảy ra chuyện ở đâu? Monte Carlo hay Thụy sĩ hay thậm chí câu cá hồi tại Na uy. Có thể bảo đảm ông Eccles bao giờ ở trong trăm dặm nơi những hoạt động tội ác xảy ra.

      - Tuy vậy ông vẫn nghi ngờ ?

      - Vâng. Tôi hoàn toàn chắc trong trí óc tôi. Nhưng khi nào chúng tôi bắt tôi biết. Người đàn ông đào đường hầm dưới nền nhà ngân hàng, người đàn ông đánh ngã người gác đêm, người thủ quỹ từ khởi đầu ở trong chuyện, người quản lí ngân hàng cung cấp tin tức, ai trong bọn họ biết Eccles, có lẽ họ bao giờ thấy lão nữa. Cả chuỗi xích dài dẫn xa - và hình như người nào biết gì hơn ngoài chuyện tự mình liên kết lại với nhau.

      - Kế họach cũ hay của băng nhóm?

      - Nhiều hay it, phải, nhưng có số suy nghĩ khởi thủy. ngày nào đó chúng tôi cơ hội. kẻ nào đó biết Cái gì, biết điều gì đó. điều gì đó trẻ con và tầm thường,có lẽ thế, nhưng cái gì đó khá kì lạ có thể là chứng cớ sau cùng.

      - cưới vợ - có gia đình chưa?

      - , bao giờ dám liều như vậy. sống mình với quản gia và người làm vườn và hầu phòng nam. Ơ chừng mức nào đó tiếp đãi dịu dàng vui vẻ, và tôi dám thề rằng mỗi người độc thân bước vào nhà như khách của đều vượt quá nghi ngờ.

      - Và ai trở nên giàu có à?

      - Đó là điểm hay mà vừa điểm mặt chỉ tên ra, Thomas. kẻ nào đó Phải trở nên giàu. kẻ nào đó phải được Thấy giàu lên. Nhưng phần này được xếp đặt quá thông minh. Tiền đầu tư vào những cổ phần và vốn kinh doanh, tất cả những việc đều tự nhiên, chỉ đủ tạo những số tiền lớn, và ràng tất cả đều là những công việc làm ăn trung thực. Có nhiều số tiền chất thành đống ở ngoại quốc trong những xứ và những chỗ khác nhau. Đó là số tiền lớn, khổng lồ, cơ hội kiếm tiền đáng ngại - và tiền luôn luôn chuyển dịch - từ chỗ này đến chỗ khác.

      - Tốt, Tommy , may cho ông. Tôi hi vọng ông bắt được gã đó.

      - Bắt bằng cách nào?

      - nguy hiểm, Ivor . Làm cho cảm thấy bị nguy hiểm. Làm cho cảm thấy ai đó hiểu được . Làm cho bất ổn, có thể làm điều gì đó ngu ngốc. có thể phạm sai lầm. Đó là cách bắt bọn tội phạm, biết mà. Nắm lấy gã đàn ông thông minh nhất, có thể vạch kế hoạch sáng chói và bao giờ phạm sai lầm. Để cho số kiện làm lo lắng hồi hộp và phạm sai lầm. Tôi hi vọng thế. Nào bây giờ hãy nghe câu chuyện của . có thể biết cái gì đó hữu ích chăng

      - có chi dính dáng tới tội phạm cả, tôi e là thế - mấy quan trọng.

      - Được, cứ nghe .

      Tommy kể lại câu chuyện của mình xin lỗi về tính cách quá tầm thường của nó. Ivor mà biết, phải là loại người khinh miệt tầm thường. Ivor, thẳng vào cái mũi nhọn mang Tommy đến chỗ sai lầm.

      - Và vợ biến mất, ?

      - Điều đó giống ấy.

      - Nghiêm trọng đấy.

      - Nghiêm trọng khá đủ với tôi.

      - Tôi có thể tưởng thế. Tôi chỉ gặp ấy có lần. thông minh.

      - Nếu đuổi theo ai giống như con hổ dữ theo mồi, Tommy .

      - vẫn chưa đến cảnh sát sao?

      - .

      - Tại sao ?

      - Đầu tiên bởi vì tôi tin rằng ổn thôi hoàn toàn gặp chuyện gì. Tuppence luôn luôn có lí. chỉ đuổi theo bất cứ con thỏ rừng nào tự phơi mình ra. thể có thời gian để liên hệ.

      - Mmm. Tôi thích cái ấy lắm. tìm kiếm ngôi nhà, ? Chỉ có cái đó là Có Thể đáng chú ý vì giữa những thứ đầu cua đuôi nheo chúng ta theo đuổi, ngẫu nhiên dẫn đến đâu, là dấu chỉ của đại diện nhà đất.

      - Đại lí nhà đất? Tommy có vẻ ngạc nhiên.

      - Phải. Những đại lí nhà đất đẹp, bình thường, hơi tầm thường trong những thị trấn miền núi tại những xứ khác nhau của quốc. Hãng của Eccles giải quyết nhiều việc cho và với những đại diện nhà đất. Đôi khi lão làm cố vấn cho người mua và đôi khi cho người bán, và thuê nhiều đại diện nhà đất khác nhau, vì quyền lợi của khách hàng. Đôi khi chúng tôi tự hỏi tại sao. có gì thích đáng cả, thấy đấy.

      - Nhưng ông nghĩ cái ấy có thể nghĩa là cái gì hay dẫn tới cái gì chăng?

      - Phải, nếu nhớ lại vụ cướp ngân hàng lớn phía Bắc London cách đây nhiều năm, có ngôi nhà trong xứ - ngôi nhà vắng vẻ. Đó là nơi hẹn của bọn cướp. Ơ đó chúng bị chú ý lắm, nhưng là nơi hàng hoá được mang đến và cất dấu của cải. Người trong miền phụ cận bắt đầu có vài câu chuyện về họ, và tự hỏi những kẻ đến và vào những giờ bất thường này là ai. Nhiều loại xe hơi khác nhau đến vào lúc nửa đêm và lại . Người ta tò mò về những người láng giềng trong xứ. Chắc chắn, cảnh sát kiểm tra đột xuất chỗ đó, họ bắt được ba người đàn ông, gồm người được nhận ra và xác minh.

      - Cái ấy có đưa ông đến nơi nào ?

      - ra . Bọn đàn ông khai, chúng được bảo vệ và được giới thiệu tốt, chúng bị kết án tống giam dài hạn và trong vòng năm rưỡi tất cả bọn chúng lại ra tù lần nữa. Những giải cứu rất thông minh.

      - Dường như tôi nhớ có đọc về cái đó. người đàn ông biến mất khỏi toà án tội ác nơi vừa được mang đến bởi hai người cai ngục.

      - Đúng. Tất cả được xếp đặt rất thông minh và số tiền khổng lồ chi cho việc trốn thoát.

      Nhưng chúng tôi nghĩ rằng bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm trong băng nhóm nhận ra ta làm việc sai lầm khi xử dụng căn nhà quá lâu, để cho người dân địa phương chú ý. Có lẽ, kẻ nào đó nghĩ rằng tốt hơn nếu kiếm những chi nhánh công ty kinh doanh vào ở, như nhiều ngôi nhà số 30 trong những Địa Điểm khác nhau. Người ta đến và thuê ngôi nhà, mẹ và con , quả phụ, hay người lính nghỉ hưu và vợ. Những người thầm lặng dễ thương. Họ sữa chữa căn nhà vài chỗ, kiếm thợ xây dựng địa phương vào và cải thiện ống nước, có lẽ vài hãng từ London xuống trang hoàng lại, rồi sau năm hay năm rưỡi điều kiện tài chánh khá giả, những người ở bán căn nhà và ra ngoại quốc sinh sống. Có chuyện như thế. Tất cả rất tự nhiên và vui vẻ. Trong suốt thời gian thuê nhà ngôi nhà đó được xử dụng có lẽ cho những mưu bất bình thường! Nhưng ai nghi ngờ việc như vậy cả. Những bạn bè đến thăm, thường xuyên lắm. Chỉ thỉnh thoảng thôi. đêm, có lẽ, buổi tiệc sinh nhật dành cho tuổi trung niên, hay đôi vợ chồng già; hay buổi họp mặt dành cho người đến tuổi trưởng thành. Nhiều xe hơi đến và . Người ta có năm vụ cướp trong vòng sáu tháng nhưng mỗi lần hàng hoá đều trót lọt, hoặc được cất giấu, chỉ trong những ngôi nhà này, mà đến năm nhà khác nhau trong năm chỗ khác nhau ở miền quê. Ây chỉ là giả thuyết cho đến bây giờ, nhưng chúng tôi bắt buộc phải làm việc. Hãy bà già của để lại bức tranh ngôi nhà nào đó từ tài sản của bà, giả sử đó là ngôi nhà Có ý Nghĩa. Giả sử đó là ngôi nhà mà ấy nhận ra nơi nào đó, và chạy bổ ra ngoài điều tra. Giả sử kẻ nào đó muốn ngôi nhà bị điều tra - có thể cột chặt với nhau nhiều kiện, biết đấy.

      - so sánh ấy khiên cưỡng.

      - Ô vâng - tôi đồng ý. Nhưng vào những thời đại này chúng ta sống trong những giai đoạn khiên cưỡng - trong thế giới đặc biệt này những chuyện thể tin được vẫn xảy ra.

      Tommy hơi mệt mỏi xuống chiếc tắc xi thứ tư trong ngày và nhìn những gì vây quanh , đánh giá. Chiếc tắc xi thả ông xuống ngõ cụt náu khiêm tốn dưới trong những chỗ nhô lên của Hampstead Heath. Ngõ cụt hình như có số ‘mở mang’ nghệ thuật. Mỗi ngôi nhà khác biệt ngôi nhà kế bên cách hoang dại. Ngôi nhà đặc biệt này chừng như có xưởng vẽ với ánh sáng mặt trời chiếu vào trong, và sát cạnh( trông giống như lợi răng bị sưng), phía là cụm ba phòng. cầu thang được sơn màu xanh lục tươi chạy thẳng bên ngoài toà nhà. Tommy mở cánh cổng chính , lên lối hẹp và thấy cái chuông nào khiến đành chuyên tâm vào chuyện gõ cửa. nghe lời đáp, im lặng vài phút rồi lại khởi gõ, lần này hơi lớn hơn.

      Bất ngờ cánh cửa mở ra khiến gần té về phía sau. phụ nữ đứng trong lề cửa. Ơ cái nhìn đầu tiên cảm tưởng đầu tiên của Tommy đây trong những người phụ nữ chất phác nhất mà gặp. Bà có khuôn mặt bằng phẳng, mặt giống cái bánh ngọt tròn, hai hố mắt rộng hình như có những màu khác nhau thể có, con màu xanh và con nâu, cái trán cao với mớ tóc dày xoã xuống hoang dại. Bà mặc áo choàng ngoài màu tím với những mảng lớn đất sét dính áo, và Tommy để ý đến bàn tay giữ cánh cửa mở là kiến trúc tuyệt đẹp.

      - Ô, bà . Giọng bà trầm và khá quyến rũ. Chuyện gì thế? Tôi bận.

      - Bà Boscowan?

      - Phải, ông muốn gì?

      - Tên tôi là Beresfold. Tôi tự hỏi xem có thể chuyện với bà vài phút được .

      - Tôi biết. sao, ông phải chuyện à? Cái gì kia - có vẻ là bức tranh? Mắt bà nhìn cái gói kẹp dưới cánh tay.

      - Phải. Đó là cái có dính líu tới tranh của chồng bà.

      - Ông muốn bán nó sao? Tôi còn nhiều tranh. Tôi muốn mua nữa. Xin mang tới những gallerie. Bây giờ họ bắt đầu mua lại tranh của ông ấy. Có vẻ như ông cần bán tranh mà.

      - Ồ , tôi muốn bán chi cả.

      Tommy cảm thấy khó khăn cực độ khi chuyện với người phụ nữ này. Mắt bà, mặc dù có gì sánh kịp, là cặp mắt rất đẹp bây giờ qua vai nhìn xuống đường với vẻ chú ý kì dị cái gì đó từ khoảng xa.

      - Xin làm ơn, Tommy . Tôi mong bà để tôi vào. Quá khó giải thích.

      - Nếu ông là hoạ sĩ tôi muốn chuyện với ông, bà Boscowan . Tôi luôn chán ngấy những hoạ sĩ.

      - Tôi phải là hoạ sĩ.

      - có vẻ là hoạ sĩ, chắc rồi. Mắt bà quét lên người từ xuống dưới. có vẻ giống công chức hơn. Bà phấn khởi gì.

      - Tôi có thể vào nhà , bà Boscowan?

      - Tôi chắc. Hãy đợi .

      Bà đưa đến lối từ cửa vào nhà, lên cầu thang hẹp vào phòng vẽ. Trong góc có hình tượng và nhiều dụng cụ khác nhau đứng bên cạnh. Những cái búa cái chàng. Cũng có đống đất sét. Toàn thể khung cảnh có vẻ như là vừa bị nhóm côn đồ vào tàn phá.

      - Ở đây bao giờ có chỗ ngồi đâu. Bà Boscowan .

      Bà ném nhiều món đồ khác nhau từ cái ghế đẩu có chân cao và đẩy nó về phía .

      - Đó. Ngồi xuống và chuyện với tôi .

      - Bà tử tế để tôi vào.

      - phần nào thôi, nhưng ông có vẻ lo lắng. Ông lo lắng về điều gì đó, phải ?

      - Vâng tôi lo.

      - Tôi nghĩ vậy. Ông lo chuyện gì vậy?

      - Vợ tôi, Tommy đáp, ngạc nhiên về câu trả lời của mình.

      - Ồ, lo cho vợ ông ư? Có cái gì bất thường trong đó thế. Đàn ông luôn luôn lo cho vợ họ. Có chuyện gì thế - có phải ấy với ai đó hay chỉ quan trọng hoá vấn đề thôi?

      - , có chi như thế cả.

      - hấp hối? Ung thư?

      - , Tommy đáp. Chỉ là tôi biết ấy ở đâu.

      - Và ông nghĩ tôi có thể biết? Tốt hơn ông nên với tôi tên và cái gì đó về nếu ông nghĩ tôi có thể tìm cho ông. Tôi chắc, ông nhớ cho, bà Boscowan , về điều tôi muốn làm. Tôi báo cho ông biết trước.

      - Cám ơn, Tommy , bà dễ chuyện hơn tôi nghĩ về bà trước đây.

      - Bức tranh liên hệ với cái gì? đó là bức tranh, phải , hình dáng ấy.

      Tommy tháo cái gói.

      - Đó là bức tranh chồng bà kí tên, Tommy . Tôi muốn bà cho tôi cái bà có thể biết về nó.

      - Tôi hiểu. Chính xác ông muốn về cái gì?

      - Khi nào nó được sơn và vẽ ở đâu.

      Bà Boscowan nhìn ông và lần đầu tiên trong mắt bà có nét chú tâm nhàng.

      - Cái đó khó, bà . Vâng, tôi có thể với ông về bức tranh. Nó được vẽ cách đây mười lăm năm - , nhiều hơn tôi nghĩ ra. Nó là trong những bức vẽ đầu tiên đẹp nhất của ông ấy. Cách đây hai mươi năm rồi, tôi dám thế.

      - Bà biết nó ở đâu - tôi muốn chỗ vẽ ấy?

      - Ồ vâng, tôi có thể nhớ rất . Tranh đẹp. Tôi luôn luôn nó. Đó là chiếc cầu với mái hình vòm cung và ngôi nhà và địa điểm là Sutton Chancellor. Cách chợ Basing chừng tám dặm. Từ Sutton Chancellor nhà cách hai dặm đường. Rất đẹp. Chỗ hẻo lánh.
      Bà bước tới bức tranh, cúi xuống nhìn chăm kĩ lúc. thể tin được. Bà . Phải, rất kì dị. Bây giờ tôi ngạc nhiên.

      Tommy mấy chú ý.

      - Tên ngôi nhà là gì?

      - Tôi thể nhớ. Ông biết mà, nó được đặt lại tên. Nhiều lần. Tôi biết có cái gì về nó. Có đôi việc bi kịch xảy ra ở đó, tôi nghĩ vậy, rồi người khác đến đặt tên lại. lần gọi là Ngôi nhà Con kênh, hay Bên kênh. lần nó được gọi là Nhà bên cầu rồi Meadowside - hay Bên sông là cái tên khác.

      - Ai sống ở đó - hay bây giờ ai sống ở đó? Bà biết ?

      - Tôi biết ai cả. Lần đầu tiên tôi thấy có ông và sống ở đó. Thường xuống hàng tuần. Tôi nghĩ họ lấy nhau. vũ công. Có lẽ là nghệ sĩ - , tôi nghĩ ấy là vũ công. Vũ ba lê. Khá đẹp nhưng hơi ngốc nghếch. Chấc phác, hầu như nghèo. Wiliam hoàn toàn mềm yếu trước ấy, tôi nhớ như thế.

      - Ông ấy có vẽ ?

      - . Ông thường vẽ người. Ông thường đôi khi ông muốn vẽ bản phác thảo về người, nhưng bao giờ ông vẽ nhiều. Ông luôn luôn điên về những .

      - Họ là những người ở đó khi chồng bà vẽ ngôi nhà sao?

      - Phải, tôi nghĩ vậy. Dù sao chỉ phần thời gian thôi. Họ chỉ xuống vào cuối tuần. Rồi cãi nhau. Tôi nghĩ, họ bất hòa, hay là ông ta xa bỏ lại hoặc ấy bỏ ông ấy lại. Tự mình tôi xuống đó. Tại Coventry tôi hoạt động rồi lập thành nhóm. Sau hết tôi nghĩ chỉ có gia sư và đứa trẻ trong nhà. Tôi biết đứa trẻ và đến từ đâu nhưng tôi cho rằng người gia sư chăm sóc ấy. Rồi tôi nghĩ có chuyện gì đó xảy ra với đứa trẻ. Hoặc bà gia sư mang con bé nơi nào đó hay đứa trẻ chết. Ông muốn biết cái gì về người sống trong ngôi nhà đó cách đây hai mươi năm sao? Với tôi hơi ngớ ngẩn.

      - Tôi muốn nghe bất cứ điều gì tôi có thể nghe về căn nhà đó. ấy bảo thấy ngôi nhà từ chuyến tàu.

      - Chính xác, bà Boscowan , hệ thống đường rầy xe lửa chỉ chạy bên kia chiếc cầu. Từ đó ông có thể nhìn thấy ngôi nhà rất , tôi hi vọng thế. Rồi bà , Tại sao ấy lại muốn tìm hiểu ngôi nhà?

      Tommy giải thích ngắn gọn - bà ta nhìn ông nghi ngờ.

      - Ông từ nhà thương điên ra chứ? Bằng lời hay bằng cái gì khác, bất kể thế nào người ta cũng gọi thế.

      - Tôi giả thiết tôi phải vọng chút như thế, nhưng hoàn toàn đơn giản. Vợ tôi muốn tìm hiểu ngôi nhà vì vậy ấy thử dùng nhiều cuộc hành trình khác nhau bằng xe lửa để tìm hiểu coi thấy ngôi nhà ở đâu. Tôi nghĩ ấy tìm ra. Tôi nghĩ đến chỗ này - Sutton Chancellor?

      - Sutton Chancellor, vâng. Thường chỗ rất tầm thường. Tất nhiên bây giờ có thể mở rộng hơn thậm chí thành thị trấn rồi.

      - Tôi mong có thể vậy. gọi điện trở về nhưng về. Tôi muốn biết chuyện gì xảy ra với . Tôi nghĩ ấy khởi điều tra căn nhà ấy và có lẽ - có lẽ gặp nguy hiểm.

      - Nguy hiểm về cái gì chứ?

      - Tôi biết. ai trong chúng tôi biết cả. Tôi thậm chí nghĩ thể có bất kì nguy hiểm nào trong chuyện đó, nhưng vợ tôi biết.

      - Khả năng ngoại cảm à?

      - Có thể. ấy hơi thế . có những linh tính. Bà bao giờ nghe hay biết bà Lancaster nào đó cách đây hai mươi năm à hay cách đây tháng?

      - Bà Lancaster ư? , tôi nghĩ vậy. Loại tên người ta có thể nhớ lại, có thể . bà Lancaster thế nào?

      - Bà là người chủ bức tranh. Bà ấy thân thiện tặng cho bà dì của tôi. Rồi thình lình bà ấy rời nhà điều dưỡng. Bà con của bà đem bà xa. Tôi cố gắng theo dấu nhưng dễ dàng gì.

      - Ai là người có óc tưởng tượng, ông hay vợ ông? Hình như ông nghĩ nhiều chuyện và trong tâm trạng lo lắng, nếu tôi có thể như vậy.

      - Vâng, bà có thể thế. Trong tâm trạng khá lo lắng và tuyệt đối về cái gì cả. Đó là những gì bà muốn , phải ? Tôi thiết tưởng bà cũng có lí.

      - , bà Boscowan. Giọng thay đổi nhàng. Tôi về cái có.

      Tommy nhìn bà dò hỏi.

      - Có việc kì dị về bức tranh này. Rất kì dị. Tôi nhớ khá . Tôi nhớ hầu hết tranh của William mặc dù ông vẽ nhiều.

      - Bà có nhớ nó được bán cho ai , nếu được bán?

      - , tôi nhớ. Phải, tôi nghĩ nó được bán. Có đợt triển lãm tranh ông bán sạch. Chúng trở lại ba bốn năm trước bức này và hai năm sau bức này. Khá nhiều tranh được bán. Hầu như bán hết. Nhưng bây giờ tôi thể nhớ nó bán cho ai. Tranh ông được hỏi quá nhiều.

      - Tôi rất cám ơn bà về tất cả điều bà nhớ.

      - Ông hỏi tôi tại sao tôi cái kì dị về bức tranh. Bức tranh ông mang đến đây.

      - Bà muốn phải của chồng bà - người nào đó vẽ?

      - Ô . Đó là bức tranh William vẽ.” Nhà bên con kênh,” tôi nghĩ đó là tên ông đặt trong danh mục. Nhưng có vẻ phải như vậy. Ông thấy đó, có cái gì đó sai lầm.

      - Sai lầm gì?

      Bà Boscowan đưa ngón tay còn dính đất sét và thọc mạnh điểm ngay chính bên dưới chiếc cầu bắt qua con kênh.

      - Kìa, bà . Ông thấy chứ? Có chiếc thuyền cột bên dưới chiếc cầu, phải ?

      - Phải, Tommy bối rối.

      - Chiếc thuyền có đó, lần cuối cùng khi tôi xem tranh có. William bao giờ vẽ chiếc thuyền ấy. Khi được triễn lãm BAO GIỜ CÓ CHIẾC CẦU.

      - Bà muốn người nào đó phải chồng bà sau đó sơn chiếc thuyền vào đây?

      - Vâng. Kì dị, phải nào? Tôi tự hỏi tại sao? Đầu tiên nhìn thấy chiếc thuyền ở đó tôi ngạc nhiên, nơi hề neo thuyền, rồi tôi có thể hiểu khá William bao giờ vẽ thuyền. Dù bất cứ lúc nào ông cũng vẽ. ai khác vẽ. Tôi tự hỏi là ai?

      Bà nhìn Tommy.

      - Và tôi ngạc nhiên tại sao?

      Tommy đưa ra kết luận. nhìn bà Boscowan. Dì Ada gọi bà là phụ nữ hơi điên còn Tommy nhìn bà dưới ánh sáng đó. Bà ta mơ hồ, với cách nhanh chóng nhảy từ vấn đề nọ sang vấn đề kia. Những việc bà hình như rất ít liên can đến việc cuối cùng bà mới cách đây phút. Tommy nghĩ, bà là hạng người có thể biết nhiều chuyện hơn cái điều bà tiết lộ. Bà có chồng hay ganh ghét với chồng hoặc coi thường chồng? Trong cử chỉ hay ra những lời của bà ta dù bất cứ cách nào cũng có đầu mối. Nhưng có cảm tưởng chiếc thuyền vẽ bên dưới chiếc cầu là nguyên do của nỗi bất an đó. Bà thích chiếc thuyền được cột ở đó. Thình lình nghĩ nếu lời phát biểu của bà là . Những năm về sau bà có nhớ lại như là Boscowan có vẽ chiếc thuyền bên dưới chiếc cầu hay ? dường như đó là chi tiết quan trọng. Nếu chỉ cách đây năm khi lần cuối cùng bà nhìn thấy bức tranh - nhưng ràng đó là thời gian còn lâu hơn thế. Và điều ấy làm bà Boscowan bất ổn. nhìn bà lần nữa và thấy bà nhìn . Đôi mắt tò mò của bà ngừng lại có tính đối kháng, mà chỉ trầm tư mặc tưởng. Rất, rất trầm tư.

      - Ông làm gì bây giờ? Bà .

      Ít ra điều đó cũng dễ dàng. Tommy khó khăn gì trong việc biết những điều mình .

      - Tối nay tôi về nhà - xem có tin gì của vợ tôi - vài lời từ ấy. Nếu , ngày mai tôi lại chỗ này, Sutton Chancellor. Hi vọng tôi có thể tìm thấy vợ tôi ở đó.

      - Cái ấy còn tuỳ. Bà Boscowan .

      - Còn tùy cái gì chứ? Tommy hỏi giọng sắc bén.

      Bà Boscowan cau mày. Rồi bà thầm, tôi hi vọng ấy bình an..

      - Tại sao được bình an? cho tôi hay, bà Boscowan, có cái gì lầm lẫn ở chỗ đó sao - với Sutton Chancellor?

      - Với Sutton Chancellor? Với cái chỗ ấy? Bà suy nghĩ. , tôi nghĩ vậy. phải với CHỖ ĐÓ.

      - Tôi thiết nghĩ tôi muốn căn nhà, căn nhà bên con kênh. phải làng Sutton Chancellor.

      - Ô, căn nhà ư, bà Boscowan , ra đó là căn nhà đẹp. Có nghĩa dành cho những người nhau, ông biết đấy.

      - Những tình nhân sống ở đấy sao?

      - Đôi khi. thường xuyên. Nếu căn nhà được xây cho những người tình, nó phải được những người tình cư ngụ.

      - dựng lên cho số người để ai đó xử dụng ư.

      - Ông nhanh cực kì. Ông hiểu điều tôi muốn , phải nào? Ông được dựng ngôi nhà để dành cho việc lại được sử dụng đúng chỗ. Tôi thích nếu ông làm thế.

      - Trong những năm sau này bà có biết gì về số người sống ở đó ?

      Bà ta lắc đầu. , , tôi biết chi về ngôi nhà hết. Ông hiểu cho, điều đó bao giờ quan trọng với tôi cả.

      - Nhưng bà nghĩ về cái gì - , người nào?

      - Phải, bà Boscowan đáp. Tôi cho rằng về điều này ông có lí. Tôi nghĩ đến - người nào đó.

      - Bà có thể cho tôi biết về người mà bà nghĩ?

      - có gì để cả, đôi khi, ông cũng mà, người ta chỉ tự hỏi người ở đâu. Có chi xảy đến cho họ hay họ có thể ra sao - suy rộng ra mà. Có loại linh cảm - bà vẫy tay - ông có cần con cá trích hun khói ? Bất ngờ bà hỏi.

      - con cá trích hun khói à? Tommy giật mình.

      - Tôi tình cờ có hai ba con cá trích ở đây. Tôi nghĩ có lẽ ông cần ăn cái gì đó trước khi ông bắt kịp xe lửa. Nhà ga là Waterloo, bà . Về Sutton Chancellor, tôi muốn nơi ấy. Ông thường phải đổi tàu tại chợ Basing. Tôi hi vọng ông làm vậy.

      Đó là lời đuổi khách. chấp nhận.

    5. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 13: Albert có đầu mối

      Tuppence nhấp nháy mắt. Quang cảnh dường như hơi lờ mờ. cố gắng nhấc đầu khỏi gối nhưng lại nhăn mặt khi đau đớn xuyên qua đầu, và để rơi đầu xuống gối lần nữa. khép mắt. Lập tức mở mắt ra và nhấp nháy mắt lần nữa.

      Với cảm giác đau đớn nhận ra những vật xung quanh.” Mình ở trong phòng bệnh,” Tuppence nghĩ. Thoả mãn với tình trạng tinh thần chỉ tiến triển đến mức ấy, cố gắng dùng trí óc suy luận nữa. ở trong phòng bệnh và đầu đau. Tại sao lại đau, tại sao ở trong phòng bệnh, hoàn toàn chắc. ‘tai nạn?’ Tuppence nghĩ.

      Nhiều y tá lại xung quanh giường. Điều này dường như khá bình thường. khép mắt và cố thử ít suy nghĩ thận trọng. cảnh lờ mờ về bóng người già nua trong bộ áo chùng thâm, tình cờ qua bức màn trí nhớ. ‘Cha?’ Tuppence nghi ngờ thầm. ‘Có phải cha ?’ thể nhớ. giả thiết vậy thôi.

      “ Nhưng ta làm gì để bị ốm trong bệnh viện chứ?” Tuppence nghĩ. “ta muốn , ta điều dưỡng trong bệnh viện, vậy ta phải mặc đồng phục. Đồng phục V.A.D. Trời ơi,” Tuppence .

      Ngay sau đó y tá xuất gần giường .

      Bây giờ cảm thấy khoẻ hơn chứ? Y tá với giọng vui vẻ giả tạo. Tốt rồi, phải ?

      Tuppence hoàn tòan chắc điều đó là Tốt. Người y tá cái gì về tách trà.

      - Dường như mình là bịnh nhân, Tuppence hơi bất mãn về chính mình. nằm đó bất động, cố phục hồi lại trong trí nhớ nhiều tư tưởng và từ khác nhau.

      - Lính, V.A.D. Tất nhiên. Mình là V.A.D.

      Người y tá mang trà vào trong thứ cốc cho ăn và giúp trong khi nhấp trà. đau đớn xuyên qua đầu lần nữa. ‘ V.A.D. đó là những gì ta là’ Tuppence lớn.

      Người y tá nhìn hiểu.

      - Đầu tôi đau, Tuppence , thêm vào phát biểu kiện.

      - tốt ngay thôi mà.

      lấy lại tách cho ăn, thuật lại với nữ y tá trưởng khi bà ngang. ‘Số 14 tỉnh rồi. ấy hơi rệu rã, tôi nghĩ thế.

      - ấy gì thế?

      - V.I.P, người y tá .

      Nữ y tá trưởng khịt mũi cái đó là điều vẫn cảm thấy về những bệnh nhân quan trọng họ tự cho mình là V.I.P.

      Chúng ta nên xem xét về cái đó, nữ y tá trưởng . Mau lên, y tá, đừng suốt ngày với cái tách cho ăn ấy nữa.

      Tuppence vẫn còn ngủ gà gật gối. vẫn chưa vượt qua tình trạng những ý tướng vụt nhanh qua trí nhớ như đám rước vô tổ chức.

      người nào đó phải ở đây chứ, cảm thấy thế, người nào đó hoàn toàn biết . Có cái gì rất xa lạ về bệnh viện này. phải bệnh viện nhớ. phải bệnh viện làm điều dưỡng.” Tất cả đều là lính. Khoa giải phẫu bệnh, mình làm bên dãy A và dãy B. mở mắt và nhìn quanh. tự quyết đó phải là bệnh viện trước kia thấy và càng liên hệ chi tới việc điều dưỡng những trường hợp giải phẫu cả, quân đội hay cái gì khác.

      - Mình tự hỏi đây là đâu. Chỗ nào? cố gắng nghĩ cái tên chỗ nào đó. Chỉ có những chỗ có thể nghĩ ra là London và Southampton.

      Người nữ y tá trưởng tái xuất bên giường.

      - Cảm thấy khoẻ hơn chứ, tôi hi vọng thế.

      - Tôi khỏe rồi, Tuppence đáp. Có chuyện gì với tôi thế?

      - bị thương ở đầu. Tôi hi vọng thấy bớt đau hơn, phải ?

      - Vẫn còn đau. Tôi ở đâu vậy?

      - Bệnh viện Hoàng gia Basing. Nó có nghĩa gì với cả.

      - vị cha cố. .

      - Xin lỗi?

      - Chúng tôi thể viết tên tờ giấy ăn kiêng được, nữa y ta trửơng .

      cầm cây bút may Biro sẵn sàng và nhìn Tuppence dò hỏi.

      - Tên tôi?

      - Phải, ta đáp. Để ghi lại, thêm tràn đầy hi vọng.

      Tuppence im lặng, suy nghĩ. Tên . Tên là gì?” điên làm sao, dường như mình quên nó rồi. Tuy nhiên mình phải có cái tên. Thình lình cảm giác nhõm yếu ớt chợt đến. Khuôn mặt của vị cha cố già bất ngờ bùng sáng lên qua trí nhớ và hạ quyết định.” Tất nhiên rồi, Tuppence.”

      - P-r-u-e-n-c-e.

      - Phải, Prudence.

      - Đó là tên thánh của . Còn họ?

      - Cowley. C-o-w-l-e-y.

      - Rất vui là . ta , và ra với vẻ của người mà bản ghi của họ còn làm cho lo lắng nữa.

      Tuppence cảm thấy mơ hồ vui. Pruden Cowley. Pruden Cowley trong V.A.D. và cha cha cố - Tại giáo xứ thời chiến tranh và..” thể tin được,” ‘mình dường như làm chuyện này hoàn toàn sai lầm. Dường như với mình tất cả xảy ra cách đây lâu lắm rồi.’ thầm.. ‘Có phải là đứa con tội nghiệp của ?’ tự hỏi. Có phải vừa điều đó hay kẻ nào khác ?

      Nữ y tá trưởng trở vào lần nữa.

      - Địa chỉ của , , - Cowley, hay bà Cowley? Có phải hỏi về đứa trẻ ?

      - Có phải đứa con tội nghiệp của ? có người nào đó với tôi hay tôi với họ?

      - Tôi nghĩ bây giờ nên ngủ chút nếu tôi là , thân mến ạ.

      - ra và đem thông tin kiếm được đến chỗ thích hợp.

      - Dường như ấy hồi sức, thưa bác sĩ. nhận xét, và tên là Prudence Cowley. Nhưng hình nhớ tên . cái gì đó về đứa trẻ.

      - Tốt, bác sĩ , với vẻ thờ ơ thường lệ. Chúng ta cho hai mươi bốn giờ. ta hồi phục tốt từ chấn thương sọ não.

      Tommy dò dẫm với chìa khoá cửa rập ngoài. Trước khi có thể xử dụng nó cửa mở ra và Abert đứng trong lề cửa mở rộng.

      - về chưa?

      Albert chậm chạp lắc đầu.

      - lời nào từ , thư điện thoại, thư viết - điện tín?

      - Tuyệt đối có gì để tôi kể với ông cả, thưa ông. Và có gì từ bất cứ ai khác. Chúng trốn tránh - nhưng chúng bắt . Đó là những gì tôi nghĩ. Chúng bắt .

      - Mày cái qủy gì thế - chúng bắt ? Tommy hỏi. Những chuyện mày đọc. Ai bắt ?

      - Ông hiểu điều tôi mà. Bọn băng nhóm.

      - Băng nhóm nào chứ?

      - trong những băng nhóm có thể múa dao. Hay tổ chức quốc tế.

      - Ngừng điều rác rưởi đó lại. Mày biết tao nghĩ gì hả?

      Albert nhìn ông dò hỏi.

      - Tao nghĩ thiếu thận trọng việc mày hề gởi lời hay cái gì đó cho chúng ta.

      - Ô, con hiểu điều ông . Con cho rằng ông Có Thể thế. Nếu ra làm ông hạnh phúc. thêm vào khá bất hạnh. lấy cái gói từ tay Tommy. Con biết ông lại mang cái này về.

      - Phải, tao mang bức tranh vấy máu ấy về, Tommy đáp. ích lợi gì.

      - Ông biết thêm cái gì từ đó sao?

      - hoàn toàn như thế. Tao Có biết đôi điều nhưng như là cái tao biết có ích với tao tao chịu. Dr. Murray gọi điện sao, tao tưởng thế, hay Packard từ nhà Điều Dưỡng Sunny Ridge? có tin gì à?

      - ai gọi điện trừ ông chủ cửa hàng thực phẩm bảo ông có bắp cà tím. Ông biết chủ thích cà tím. Ông luôn luôn cho hay. Nhưng tôi bảo ông bây giờ có thể ăn được. ta thêm. Tôi có làm con gà ăn tối.

      - kì là mày bao giờ có thể nghĩ ra cái gì khác ngoài những con gà. Tommy vẻ cau có.

      - Lần này đó là cái họ gọi Gà Mới Nở. Đầy xương.

      - Ừa.

      Điện thoại reo vang. Trong nháy mắt Tommy nhảy ra khỏi chỗ ngồi và nhào đến chỗ để máy.

      - Alô... Alô?

      giọng vang yếu ớt từ đàng xa. Ông Thomas Beresfold? Ông có thể nhận cú gọi cá nhân từ Invergashly?

      - Vâng.

      - Xin vui lòng giữ máy.

      Tommy đợi. kích động của ông bây giờ dịu xuống. Ông phải đợi lúc. Rồi giọng ông biết, ràng và kiên quyết, vang lên. Tiếng của con ông.

      - Hello, có phải cha đó ? Cha?

      - Deborah!

      - Vâng. Tại sao giọng cha như đứt hơi thế, cha vừa mới chạy sao?

      Những đứa con , Tommy nghĩ, luôn luôn bình phẩm.

      - Ở tuổi cha hơi khò khè chút. Con khoẻ , Deborah?

      - Ô, con ổn thôi, nhìn đây, Cha, con thấy cái gì đó trong báo. Có lẽ cha cũng thấy nữa. Con ngạc nhiên về nó. cái gì về người bị tai nạn trong bệnh viện.

      - Sao? Cha nghĩ cha thấy cái gì hết. Cha muốn , trong chừng mức nào đó để ý. Tại sao?

      - Nó - nó vang quá xấu. Con giả thiết đó là tai nạn xe hay cái gì đó như thế. Nó nhắc đến người đàn bà đó - bất kể là ai - cho biết tên là Prudence Cowley nhưng thể tìm ra địa chỉ của mình.

      - Pruden Cowley? Con muốn .

      - Vâng. Con chỉ - con chỉ ngạc nhiên. Đó là tên của Mẹ, phải ? con muốn đó là tên mẹ.

      - Tất nhiên rồi.

      - Con luôn luôn quên cái tên Prudence. Con muốn chúng ta bao giờ nghĩ tên me là Prudence, cha và con, hay là Derek.

      - , Tommy . Đó phải loại tên thánh gắn liền với mẹ con.

      - , con biết phải. Con chỉ nghĩ đó là - khá kì dị. Cha nghĩ đó có thể là số bà con của mẹ sao?

      - Cha cho là có thể. Cái tin này ở đâu?

      - Bệnh viện tại chợ Basing, con nghĩ báo viết thế. Họ muốn biết nhiều hơn về mẹ, con hiểu. Con chỉ tự hỏi - con biết điều đó điên rồ khủng khiếp, chắc phải có số lượng người gọi là Cowley và số lượng người gọi là Prudence. Nhưng con nghĩ con chỉ gọi điện tìm hiểu thôi. Bảo đảm, con muốn , mẹ ở nhà và khoẻ và chỉ có thế.

      - Cha hiểu, Tommy đáp, cha hiểu.

      - Rồi, tiếp , cha, me ở nhà phải ?

      - , mẹ ở nhà và cha biết mẹ có bình an hay nữa.

      - Cha gì thế? Deborah kêu lên. Thế mẹ làm gì chứ? Con lại tưởng cha đến London với cái hội cực kì bí mật kia vẫn còn tồn tại từ những ngày xa xưa, dông dài câu chuyện với những người bạn già.

      - Con hoàn toàn có lí. Tommy . Cha về từ tối qua.

      - Và cha khám phá ra mẹ vắng - hay cha biết mẹ vắng? Tiếp , cha, kể con nghe về chuyện đó . Cha lo âu. Con biết khi nào cha khá đủ với nỗi lo. Mẹ làm gì thế? Mẹ bận việc, phải ? con ước ở tuổi mẹ mẹ nên ngồi yên và đừng làm gì hết.

      - Mẹ lo âu. Lo về cái gì đó xảy ra có dính líu đến cái chết của dì Ada.

      - Loại chuyện gì chứ?

      - điều gì đó trong những bệnh nhân của nhà điều dưỡng với mẹ. Mẹ đâm lo về bà già ấy. Bà ấy khởi nhiều chuyện và mẹ lo về những chuyện bà ấy . Và vì thế, khi chúng ta xem kĩ những đồ đạc của dì Ada để lại chúng ta gợi ý chuyện với bà già này và hình như bà ấy bất ngờ ra .

      - Điều ấy hình như hoàn toàn bình thường, phải ?

      - số người bà con của bà ấy đến và đem bà ấy .

      - Điều ấy có vẻ hoàn toàn bình thường thôi, Deborah . Tại sao mẹ lại căng thẳng?

      - Bà ấy nhét vào trong đầu rằng có thể điều gì đó xảy đến cho bà già ấy.

      - Con hiểu.

      - Đừng đặt cược hết mức vào cái gì, như cách ngôn vẫn , hình như bà ấy biến mất. cách khá tự nhiên. Cha muốn , được các luật sư và nhà băng xác minh và chỉ có thế. Chỉ - chúng ta có khả năng tìm ra bà ở đâu.

      - Cha muốn mẹ chạy ra ngoài để tìm kiếm bà ta nơi nào đó?

      - Phải. Và mẹ trở về khi mẹ mẹ trở về cách đây hai ngày.

      - Và cha nghe tin tức chi về mẹ sao?

      - .

      - Con ước vì chúa lòng lành cha chăm sóc mẹ chu đáo cho với. Deborah cách nghiêm khắc.

      - ai trong chúng ta có khả năng chăm sóc mẹ con cách chu đáo cho được. Con cũng , Deborah, nếu bắt đầu làm thế. Đó cùng kiểu bà ra khỏi nhà trong thời chiến tranh và làm nhiều việc phải việc của bà.

      - Nhưng bây giờ khác. Con muốn , mẹ khá Già rồi. Mẹ phải ngồi tại nhà và tự săn sóc mình chứ. Con giả sử mẹ buồn chán thôi. Tất cả là chuyện dưới đáy.

      - Bệnh viện Basing, con ?

      - Melfoldshire. xe lửa từ London khoảng 1 giờ hay 1g rưỡi. Con nghĩ thế.

      - Chính xác. Có ngôi làng gần chợ Basing tên gọi là Sutton Chancellor.

      - Cái ấy liên can gì? Deborah hỏi.

      - Bây giờ sâu vào lâu. Tommy đáp. Ngôi làng ấy phải có dính líu tới bức tranh vẽ ngôi nhà gần chiếc cầu bắt qua con kênh.

      - Con nghĩ con nghe cha lắm. Cha về cái gì thế?

      - Đừng quan tâm. Cha gọi điện đến bệnh viện Basing và tìm hiểu vài thứ.

      Cha có linh cảm mẹ con ở đó, an toàn. Người ta, nếu bị chấn thương sọ não, đầu tiên thường nhớ lại những việc xảy ra khi còn , và chỉ chậm chạp tiến đến tại. Mẹ trở lại cái tên hồi con . Có thể mẹ bị tai nạn xe hơi, nhưng cha cũng ngạc nhiên nếu ai đó cho mẹ cú đấm vào đầu. Đó là loại việc thể giải thích được xảy ra với mẹ con. Mẹ vướng vào mọi chuyện. Cha cho con biết cha khám phá ra cái gì.

      Bốn mươi phút sau, Tommy Beresfold liếc nhìn đồng hồ tay và thốt ra tiếng thở dài mệt mỏi, khi đặt ống nghe với tiếng kêu lanh lảnh cuối cùng giá điện thoại. Albert tái xuất .

      - Bữa ăn tối của ông thế nào, thưa ông? Ông chưa ăn cái gì, và con lấy làm tiếc mà báo ông con quên mất con gà - cháy thành than rồi.

      - Tao cần ăn, Tommy . Cái tao cần là đồ uống. Mang cho tao hai li whisky.

      - Có ngay, thưa ông.

      Vài phút sau mang đồ tươi mát theo cầu đến chỗ Tommy ngồi thụp xuống trong cái ghế bành cũ nát nhưng còn tiện lợi dành riêng cho đặc biệt sử dụng.

      - Và bây giờ, tao giả thiết, mày muốn nghe mọi chuyện. Tommy .

      - là, thưa ông, Albert giọng nhàng xin lỗi, con biết hầu hết. Ông thấy đó, có vẻ như là vấn đề của chủ và chỉ có thế, con lạm phép nhấc ống điện thoại nhánh trong phòng ngủ. Con nghĩ ông để ý, thưa ông, có vẻ như là chủ.

      - Tao quở trách mày, Tommy . tế là, tao cám ơn mày. Nếu tao phải khởi giải thích.

      - Nắm được mọi người, phải ? Bệnh viện bác sĩ và y tá trưởng.

      - cần phải kiểm tra lại tất cả như thế.

      - Bệnh viện Basing, Albert . bao giờ hở ra lời về cái ấy, cũng . bao giờ để đằng sau địa chỉ hay cái gì tương tự.

      - có ý định để lại địa chỉ. Tới chừng mức tao có thể hiểu được có lẽ bị ai đánh vào đầu từ trường chỗ nào đó ngoài đường phố. kẻ nào đó chở trong chiếc xe hơi rồi đẩy xuống chỗ nào đó bên lề đường, được nhặt lên như cú tông xe và bỏ chạy thông thường. thêm vào, gọi tao dậy 6g30 sáng mai. Tao muốn khởi hành sớm.

      - Con xin lỗi con gà của ông lại bị cháy trong lò. Con chị định bỏ vào cho nóng rồi quên mất.

      - Đừng lo về con gà nữa. Tao luôn luôn nghĩ chúng là loài chim rất điên, chạy dưới bánh xe và cục tác ỏm tỏi. Ngày mai chôn cái xác và cho nó đám tang tử tế.

      - chết tại cửa nhà hay cái gì khác, phải ?

      - Dịu bớt sức tưởng tượng đầy kịch tính của mày , Tommy . Nếu mày thực bất cứ lắng nghe chính xác nào mày nghe lại về cách dễ thương, biết là ai hay là ai và ở đâu và người ta thề giữ ở đó chờ tao tới cho đến khi tao bắt đầu có trách nhiệm về lần nữa. Dù bất kì lí do gì cũng đừng nên cho phép mình lẻn và chạy bổ ra ngoài làm số việc trinh thám ngu ngốc ấy chứ.

      - về chuyện thám tử, Albert , và lưỡng lự với tiếng ho .

      - Tao đặc biệt muốn về chuyện đó, Tommy . Quên nó , Albert. Hãy tự dạy mày việc giữ sổ sách kế toán hay làm bồn hoa ngoài cửa sổ có hơn .

      - Con chỉ nghĩ - con muốn , như kiện những đầu mối.

      - Đầu mối gì?

      - Con nghĩ.

      - Đó là nơi tất cả xuất phát mọi ưu phiền của cuộc sống. Nghĩ .

      - Những đầu mối, Albert lại . Bức tranh đó, là ví dụ. Đó là đầu mối, phải ?

      Tommy để ý Albert treo bức tranh ngôi nhà bên con kênh lên bức tường.

      Nếu bức tranh ấy là manh mối về cái gì, ông nghĩ đó là manh mối cho cái gì? ta hơi đỏ mặt về tính khiếm nhã của cái ngữ ta vừa mới bung ra. Tôi muốn - cái đó là cái gì? nó phải có ý nghĩa nào đó. Điều tôi nghĩ đến, Albert , nếu ông tha thứ cho tôi nhắc đến.

      - Được phép tiến hành , Albert.

      - Cái con nghĩ đến là cái bàn giấy.

      - Bàn giấy à?

      - Vâng. Cái bàn đến từ đống đồ đạc được tẩy với cái bàn gia công và hai cái ghế cùng những thứ khác. Nó là tài sản gia đình, ông ?

      - Nó thuộc về sở hữu của dì Ada.

      - Đó là điều tôi muốn , thưa ông. Đó là thứ chỗ ông tìm thấy mọi đầu mối. Trong những cái bàn giấy cũ. Đồ cổ mà.

      - Có khả năng. Tommy đáp.

      - Đó phải việc của tôi, tôi biết, và tôi cho là tôi ra nên mà xáo trộn lên, nhưng trong khi ông xa, tôi thể nhịn được. Tôi phải và nhìn qua nó.

      - Cái gì - cái nhìn vào bàn giấy?

      - Phải, chỉ để xem coi có thể ở đó có manh mối. Ông hiểu cho, những cái bàn như vậy, thường có những ngăn kéo bí mật.

      - Có khả năng, Tommy .

      - Đó, của ông đây. Có lẽ có đầu mối ở đó, được che dấu. Khoá lại trong ngăn kéo mật.

      - Đó là ý kiến có thể đồng tình. Tommy . Nhưng có lí do chi tao có thể hiểu được dì Ada lại dấu đồ vật trong những ngăn kéo bí mật cả.

      - Ông bao giờ biết những bà già. Họ thích thu dấu đồ đạc. Họ giống như những con quạ mỏ xám, hay những con chim ác là, tôi quên đó là cái gì. Có thể trong đó có bản di chúc bí mật hay cái gì được viết bằng mực thể đọc được hay kho vàng. Chỗ mà ông tìm thấy kho tàng bị chôn dấu.

      - Tao rất tiếc, Albert à, nhưng tao nghĩ tao sắp phải bất đồng với mày. Tao cực kì bảo đảm có gì trong cái bàn giấy gia đình cũ kĩ dễ thương mà thời thuộc về ông chú William của tao. Ở tuổi già ông trở thành con người khác cáu kỉnh và lại điếc đặc và rất nóng nảy nữa.

      - Cái điều con nghĩ, Albert , nhìn gây bất cứ tổn hại nào, phải ? thêm vào cách thánh thiện, dù sao nó cũng cần được lau chùi. Ông biết những đồ cũ với các bà già là thế nào rồi. Họ dốc hết ra ngoài - khi mà họ bị thấp khớp và thấy khó mà lại được.

      Tommy im lặng hai phút. nhớ lại và Tuppence nhanh chóng nhìn qua những ngăn kéo bàn giấy, bỏ lại đồ đựng trong hai phong bì lớn và tẩy vài cuộn len, hai áo len đan, khăn quàng nhung đen và ba bao gối còn tốt từ những ngăn thấp hơn, chỗ đó họ để những vải vóc khác và những thứ linh tinh để tống khứ. Họ cũng xem xét kĩ những giấy tờ ở đó đựng trong những phong bì sau khi mang về nhà với họ. Ở đó có gì đặc biệt lưu tâm cả.

      - Chúng ta xem xét kĩ nội dung rồi, Albert, ông . Tiêu mất hai buổi tối đấy hay hai lá thư cũ đáng lưu tâm, số công thức dạy nấu món thịt nạc đun sôi, số công thức dạy giữ trái cây, số sổ lương thực và tem và những đồ có từ thời chiến tranh. có bất cứ cái chi đáng chú ý cả.

      - Cái đó chỉ là những giấy tờ và đồ vật, như ông có thể . Cái mà mọi người giữ trong những bàn giấy và những ngăn kéo thông thường chỉ là hết cái này tới cái khác. Tôi muốn món đồ bí mật cơ. Khi còn là gã trai, ông biết đấy, tôi làm việc sáu tháng với gã buôn đồ cổ - rất thường xuyên giúp ta làm giả đồ. Tôi bắt đầu biết về những ngăn kéo bí mật từ đó. Thường thường họ đạt tới cùng mẫu. Ba hay bốn loại nổi tiếng và thỉnh thoảng họ làm khác . Ông có nghĩ , thưa ông, ông phải nhìn qua cái? Tôi muốn , khi có ông ở đây tự tôi thích cố gắng. Nó được giả sử là đúng. nhìn Tommy với cái nhìn của con chó nài xin chủ.

      - Tiếp tục , Albert, Tommy , nhượng bộ. Hãy mà giả sử là đúng thôi.

      mảnh đồ dùng rất đẹp, Tommy nghĩ, khi đứng bên cạnh Abert, quan sát món thưa kế đặc biệt từ dì Ada. Được giữ gìn đẹp, nước sơn cũ còn bóng đẹp, phô bày công phu tài nghệ giỏi và điêu luyện của những ngày qua.’

      - Được rồi, Albert, mà tiến hành nào. Đây là chút hài hước của mày đấy. Nhưng đừng mà kéo căng nó nhé.

      - Con từng rất cẩn thận mà. Con đập vỡ nó đâu, hay trượt mũi dao vào hay làm cái gì tương tự. Đầu tiên chúng ta hạ mặt trước xuống và kéo hai tấm gỗ này ra rồi đặt nó lên. Được rồi, ông thấy đấy, cái nắp xuống đường này và đó là chỗ các bà già thường ngồi. Cái hộp giấy thấm đẹp khảm xà cừ dì Ada có. Nó ở trong ngăn kéo bên trái.

      - Có hai vật này. Tommy .

      kéo ra hai ngăn kéo thẳng đứng dán thành hai trụ giả.

      - Ô, thưa ông. ông có thể tuồn giấy tờ vào trong, nhưng có chi bí mật cả. chỗ thông thường nhất là mở cái tủ đựng chén bát phía giữa - đáy của nó thường có chỗ lõm bề mặt và ông tách phần đáy ra chỗ. Nhưng còn có những đường khác và những chỗ khác. Bàn giấy này là loại bàn có cái giếng bên dưới.

      - Nó bí mật lắm, phải ? mày vừa lấy ra miếng ván.

      - Cái điểm là, có vẻ như ông thấy tất cả đều tìm ra ở đó. Ông kéo lùi miếng ván, có khoang trống và ông có thể bỏ nhiều thứ ông muốn giữ khỏi bị sờ mó và chỉ có thế. Nhưng đó chưa phải là tất cả, ông có thể vậy. Bởi vì ông thấy, tại đây có mảnh gỗ phía trước, giống như cái gờ . Và ông có thể kéo nó lên, ông xem này.

      - Phải, Tommy , vâng, tao có thể thấy rồi. Mày cứ kéo lên .

      - Và ông có cái gờ ở đây, ngay sau phía giữa ổ khoá.

      - Nhưng có gi trong đó đâu.

      - , Albert , có vẻ thoả mãn. Nhưng nếu ông trườn bàn tay vào cái gờ đó và ông lắc lư dọc theo phải hay trái, có hai ngăn kéo mỏng, mỗi bên cái. Có hình bán nguyệt cắt xung quanh đỉnh, và ông có thể thọc ngón tay đó - dịu dàng kéo về phía ông - trong khi những câu này Albert dường như uốn eo lưng hầu như trong vị trí nghệ sĩ uốn dẻo. Đôi khi họ đâm thủng ít. Đợi - đợi - đến rồi.

      Albert thọc ngón tay kéo cái gì đó bên trong về phía . ta nhàng cào về phía trước cho đến khi ngăn kéo phô ra giữa khoảng . khều nó ra và đặt trước Tommy, với vẻ con chó mang xương đến cho chủ.

      - Bây giờ đợi phút, thưa ông. Ở đây có cái gì đó nữa, cái gì đó gói trong bì thư mỏng dài. Bây giờ chúng ta làm phía kia.

      - Có cái gì đây nữa.Albert . cái bì thư dán tem mà ai đó dấu ở đây lúc nào đó. Tôi mở ra đâu - tôi làm việc như vậy. Giọng thánh thiện cực độ. Tôi nhường cho ông - Nhưng cái tôi là - chúng có thể là đầu mối.

      và Tommy tách nội dung của những ngăn kéo đầy bụi ra. Đầu tiên và Tommy lấy ra bì thư có dán tem lăn theo chiều dài với giải ruban bằng nhựa dẻo vấn quanh. Ngay khi vừa sờ đến giải ruban tách ra ngay.

      - Trông giá trị đây, Albert .

      Tommy liếc nhìn phong bì. Bì thư mang giòng chữ ‘bí mật’.

      - Của ông đây, bí mật. Đó là đầu mối. Albert .

      Tommy tách những nội dung bên trong. Đó là tuồng chữ viết tay phai màu, tuồng chữ viết rất nguyệch ngoạc, có nửa tờ giấy tờ giấy viết thư. Tommy xoay đủ phía còn Albert dựa qua vai chủ, hơi thở nặng nề.

      - ‘Hoá đơn của bà MacDonald về kem Cá Hồi,Tommy đọc. ‘Dành cho tôi như ân huệ đặc biệt. Lấy hai pound cà hồi cắt khúc giữa, nửa lít kem Jersey, li uống ruợu Brandy và trái dưa chuột tươi.’ cắt ngang. Tao rất tiếc, Albert, đó là đầu mối dẫn chúng ta đến chỗ nấu ăn ngon mà thôi, nghi ngờ chi nữa.

      Albert thốt ra những thanh ám chỉ nhờm tởm và bất mãn.

      - Đừng lo, Tommy . Đây còn cái khác để thử nữ nè.

      Bì thư sau có dán tem mang vẻ là phong bì hoàn toàn cổ. Nó có hai con tem màu xám tro được dán cân đối, mỗi con tem mang hình đóa hồng dại.

      - Đẹp thât, Tommy , dì Ada khá là giàu óc tưởng tượng. Làm thế nào nấu món thịt bò băm đây, tao mong thế.

      Tommy xé phong bì. nhướng đôi mày lên. Mười tờ năm pound được xếp cẩn thận rơi ra ngoài.

      - Chín tờ mỏng đẹp, Tommy . Chúng là bạc cũ. Mày biết đấy, loại bạc người ta thường có trong chiến tranh. Giấy tốt. Có lẽ ngày nay còn hợp pháp nữa.

      - Tiền! Albert . Bà ấy cần tất cả số tiền ấy cho cái gì?

      - Ô, đó là tiền để dành của bà già,Tommy . Dì Ada luôn luôn có tiền để dành. Cách đây nhiều năm dì bảo tao rằng mỗi người đàn bà nên luôn luôn có năm mươi ngàn pound trong thứ giấy bạc năm pound của mình phòng trường hợp mà bà gọi là cấp cứu.

      - Tôi giả sử nó có ích khi cần tới.

      - Tao giả sử chúng tuyệt đối dùng được nữa. Tao nghĩ mày có thể sắp sếp đổi ở ngân hàng.

      - Đây còn phong bì nữa, Albert . Cái phong bì từ ngăn kéo kia.

      Phong bì tiếp cồng kềnh hơn. Dường như nội dung có nhiều hơn và có đến ba con tem lớn màu đỏ trông có vẻ quan trọng dán lên. Bên ngoài được viết cùng chữ viết tay nhọn đầu: ’Trong trường hợp tôi chết , bì thư này được gởi đến mà mở ra cho luật sư của tôi, ông Rockbury thuộc hãng Rockbury và Tomkins, hay cho cháu trai của tôi Thomas Beresfold. Bất cứ kẻ nào có thẩm quyền được mở ra.’

      Có nhiều tờ giấy viết tay sít nhau. Chữ viết tay rất xấu, rất nhọn và đây đó hơi khó đọc được. Tommy đọc lớn với ít khó khăn.


      Tôi, Ada Maria Fanshawe, viết ra đây những kiện chắc chắn mà do hiểu biết của tôi và do những người cư ngụ tại nhà điều dưỡng tên gọi là Sunny Ridge này kể lại với tôi. Tôi thể đưa bằng chứng tất cả thông tin này là đúng nhưng dường như có số lí do để tin rằng những nghi ngờ này - rất có thể thuộc về tội ác - những hoạt động xảy ra ở đây hay xảy ra ở chỗ khác. Elizabeth Moody, phụ nữ ngớ ngẩn, nhưng tôi nghĩ là thà, tuyên bố răng nhận ra ở đây tội ác trứ danh. Có thể có kẻ đầu độc hoạt động giữa chúng tôi. Bản thân tôi thích giữ tâm trí phóng khoáng, nhưng tôi còn quan sát. Tôi dự định viết ra đây bất cứ kiện nào đến với hiểu biết của tôi. Toàn thể việc có thể là ý tưởng hão huyền. Hoặc là luật sư của tôi hoặc cháu trai của tôi Thomas Beresfold, được cầu làm cuộc điều tra đầy đủ.’

      - Đó, Ablbert đắc thắng - bảo ông rồi mà! Đó là đầu mối!
      Prunus Ngọc thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :