Bức họa chết người - Agatha Christine (17 chương)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 5: bà già biến mất

      Vào thời điểm thích hợp những đồ của dì Ada được gởi đến. Cái bàn giấy đáng được lắp đặt. Chiếc bàn gia công truất quyền sở hữu những thứ linh tinh - chúng được bỏ riêng ra trong góc tối của phòng tiền sảnh. Bức tranh vẽ ngôi nhà màu hồng nhạt bên con kênh Tuppence treo giá lò sưởi trong phòng ngủ nơi có thể ngắm nhìn nó mỗi buổi sáng khi uống tách trà sáng sớm.

      Từ đó lương tâm còn làm phiền chút nữa, Tuppence viết lá thư giải thích bức tranh thuộc quyền sở hữu của họ như thế nào nhưng nếu bà Lancaster muốn đòi lui, để cho họ biết mà thu gom. Lá thư này gởi cho bà Lancaster, nhờ bà Johnson chuyển giúp đến khách sạn Cleveland, đường George, khu vực 1 hướng tây chuyển giúp.

      có hồi , nhưng tuần sau lá thư bị trả lại với dòng chữ “ biết địa chỉ người nhận’”ghi phong bì.

      - mệt làm sao, Tuppence .

      - Có lẽ họ chỉ ở lại hai đêm. Tommy phỏng đoán.

      - Nhưng em nghĩ họ để lại địa chỉ để chuyển thư chứ.

      - Em có ghi” vui lòng chuyển giúp” ?

      - Có, em có ghi. Em gọi điện cho họ để hỏi - chắc họ phải để lại địa chỉ trong sổ đăng kí khách sạn.

      - vứt bỏ nó nếu là em. Tại sao cứ quan trọng hoá tất cả chuyện này? hi vọng con mèo già đó quên mọi chyện về bức tranh rồi.

      - Em cũng có ý định thử xem.

      Tuppence ngồi xuống chỗ điện thoại và ngay lập tức liên hệ với khách sạn Cleveland.

      Vài phút sau quay trở lại phòng làm việc của Tommy.

      - khá kì cục, Tommy - họ từng Ở đó. có bà Johnson - có bà Lancaster - có phòng nào đăng kí cho họ cả. có bất cứ dấu vết nào chứng tỏ họ ở đó cả.

      - nghĩ Packard lấy cái tên khách sạn sai. Vội vàng ghi lại - rồi quên - và có lẽ đánh mất địa chỉ - hay nhớ lộn. Những việc như thế vẫn thường xảy ra, em biết mà.

      - Tại Sunny Ridge em hề nghĩ ra chuyện này. Packard luôn là người có năng lực.

      - Có lẽ họ đăng kí trước tại khách sạn và khách sạn đầy người, vì thế họ phải kiếm nơi khác. Em biết tiện nghi ở London là như thế nào rồi - có phải em định tiếp tục làm rùm beng lên ?

      Tuppence rút lui.

      Ngay sau đó trở lại.

      - Em biết những gì em sắp làm. Em gọi điện cho Packard và em lấy địa chỉ của luật sư.

      - Luật sư nào?

      - nhớ đến hãng những luật sư họ xếp đặt mọi thứ bởi vì gia đình Johnson đều ở ngoại quốc sao ?

      Tommy, người bận rộn với bài diễn văn phác thảo để đọc trong hiệp hội sắp tham dự, thầm - ‘chính trị đứng đắn nếu khả năng như thế phải nảy sinh’ - : em đánh vần từ Khả năng như thế nào hả, Tuppence?

      - Em có nghe những gì tôi ?

      - Phải, phải, ý kiến rất hay - tuyệt vời - huy hoàng - viết bài đó.

      Tuppence bước ra ngoài - lại đâm đầu vào :

      - K - H- A- M- A- N- G.

      - thể nào - em dùng từ sai.

      - viết cái gì thế?

      - Bài tham luận sắp đọc tại I.U.A.S. và muốn em để yên.

      - Xin lỗi.

      Tuppence rút lui. Tommy tiếp tục viết những hàng chữ rồi gạch bỏ. Khuôn mặt sáng bừng lên, như là ngòi bút tăng lên bước. lần nữa cánh cửa bật mở.

      - Nó đây, Tuppence . Partingdale, Harris, Lockeridge và Partingdale, dãy phố 32 khu Lincoln, Trung tâm phía Tây. Điện thoại Holborn 051386. Nhân viên điều hành của hãng là ông Eccles. đặt tờ giấy lên đầu gối Tommy. Bây giờ Chính đảm nhận việc này.

      - ! Tommy cương quyết đáp.

      - Phải! Nhưng bà ta là dì Ada Của .

      - Dì Ada bắt đầu từ đâu? Bà Lancaster phải là dì ruột của tôi.

      - Nhưng đó là những Luật sư. Tuppence nài nỉ. Việc của người đàn ông là tiếp xúc với những luật sư. Họ chỉ nghĩ rằng bọn đàn bà là điên rồi chịu lưu tâm đến.

      - quan điểm rất nhạy cảm đấy nhỉ.

      - Ô, Tommy - hãy Giúp em. và điện thoại còn em kiếm tự điển và tìm cách đánh vần chữ khả năng.

      Tommy nhìn vợ cái, nhưng cũng bước ra.

      Cuối cùng trở lại và giọng kiên quyết - công việc này bây giờ khép lại rồi, Tuppence.

      - gặp ông Eccles?

      - cách nghiêm túc tôi gặp ông Will nào đó nghi ngờ gì ông ta là người được giao công việc buồn chán của hãng Partingford, Lockjaw và Harrison. Nhưng lão ta dẻo miệng và thông báo đầy đủ. Tất cả thư từ và trao đổi thông tin theo đường Ngân hàng Các Quận phía Bắc, chi nhánh Hammersmith, họ chuyển giúp. Và đây, Tuppence, hãy để tôi với em, dấu vết chấm dứt rồi. Ngân hàng chuyển tất cả các vật - nhưng họ để lại bất cứ địa chỉ nào cho em hay bất cứ ai hỏi cả. Họ có những quy định bí mật và họ kiên trì đến cùng. Môi họ được dán chặt như vị Thủ tướng tự đại của chúng ta.

      - Được rồi. Em gởi lá thư nhờ ngân hàng chuyển vậy.

      - Hãy làm - và ơn Chúa, Để Tôi Mình - hay tôi bao giờ viết xong bài diễn văn.

      - Cám ơn, . Em biết làm gì khi . hôn vào đầu .

      - Đó là loại bơ ngon nhất đấy. Tommy .

      đến tối thứ sáu tiếp theo Tommy bất ngờ hỏi: Nhân tiện luôn, em có nhận được hồi từ lá thư em nhờ ngân hàng chuyển?

      - tử tế hỏi. Tuppence mỉa mai đáp. , em nhận được. thêm với giọng đầy suy tưởng. Tôi nghĩ chắc nhận được.

      - Tại sao ?

      - lưu ý đâu. Tuppence lạnh lẽo đáp.

      - Nhìn đây, Tuppence - Tôi biết tôi khá bận - tất cả tại cái I.U.A.S. này - Ơn Chúa, mỗi năm chỉ có lần.

      - Khởi đầu vào ngày thứ năm, phải ? Trong năm ngày.

      - Bốn ngày.

      - Và các xuống chỗ chỉ có vài người biết, ngôi nhà cực kì bí mật tại nơi nào đó ở miền quê, làm những bài diễn văn, đọc những bản tham luận và những người đàn ông đại diện cho Lực lượng Giám sát Bí mật tại châu Âu và xa hơn. Em quên I.U.A.S. bênh vực cho cái gì. Ngày nay họ có những cái thuộc về thuở ban đầu.

      - Liên Bang Hiệp Hội Bảo Vệ Quốc tế.

      - khó đọc! Hoàn toàn kì dị. Em mong toàn thể chỗ đó bị đặt máy ghi , mọi người đều biết những cụôc đối thoại bí mật nhất của kẻ khác.

      - Có khả năng xảy ra rất cao. Tommy với nụ cười.

      - Em giả thiết lấy làm thú vị?

      - Trong chừng mức nào đó có. Người ta gặp gỡ nhiều bạn cũ.

      - Bây giờ tất cả đều khá lẩn thẩn rồi, em nghĩ thế. Có ai làm chuyện gì tốt ?

      - Chúa ơi, câu hỏi khéo! Phải chăng người ta có thể tự tin rằng em có thể trả lời câu hỏi đó bằng tiếng Có và giản dị.

      - Vậy có bất kì ai trong số họ tốt chứ?

      - đáp Có. số người rất tốt.

      - Ông già Jose có đến đó ?

      - Vâng, ông ấy đến.

      - Trông ông ta dạo này thế nào ?

      - Điếc đặc, gần như mù, bại liệt vì chứng thấp khớp - và em ngạc nhiên vì những cái ấy đánh gục được ông ta.

      - Em hiểu rồi. suy nghĩ. Em ước chi mình được đến đó.

      Tommy có vẻ xin lỗi.

      - nghĩ em nên kiếm việc chi làm trong khi xa.

      - Em có thể. Tuppence đáp với vẻ trầm tư.

      Chồng nhìn với hiểu biết mơ hồ mà Tuppence luôn đánh thức trong ông.

      - Tuppence - em định làm gì?

      - có gì cả, tuy nhiên - em chỉ nghĩ đến mức ấy.

      - Về cái gì?

      - Sunny Ridge. Và bà già ngồi nhấp từng ngụm sữa và chuyện có vẻ lang bang về những đứa trẻ chết và những cái lò sưởi. Nó hấp dẫn em. Em nghĩ chuyến tới chúng ta đến thăm dì Ada em cố gắng tìm hiểu hơn về bà - nhưng có lần tới bởi vì dì Ada chết - và lần tới khi chúng ta ở Sunny Ridge - bà Lancaster - biến mất!

      - Em muốn người của bà mang bà xa? Đó phải là biến mất - điều này khá tự nhiên.

      - Đó là biến mất - dấu vết địa chỉ - phúc thư - đó là mât tích có dự mưu. Càng ngày em càng tin chắc về điều đó.

      - Nhưng...

      - Nghe đây, Tommy - giả sử lúc này hay lúc khác tội ác xảy ra - dường như tất cả được bao bọc an toàn - nhưng rồi giả sử ai đó trong gia đình thấy cái gì đó, hay biết chuyện gì đó - người nào đó có tuổi và ba hoa - người nào đó hay chuyện phiếm với kẻ khác - kẻ nào đó bất ngờ bạn nhận ra có thể gây nguy hiểm cho bạn - làm gì về chuyện này?

      - Arsenic trong súp? Tommy gợi ý cách vui vẻ. Đánh họ vào đầu - đẩy họ xuống cầu thang.

      - Cái ầy khá cực đoan. Những cái chết bất ngờ lôi cuốn chú ý. Nên tính toán số cách làm đơn giản hơn. viện dưỡng lão đẹp đáng kính trọng dành cho những quý bà có tuổi. thăm viếng, tự xưng mình là bà Johnson hay bà Robinson - hay tìm kẻ nào đó ở phía thứ ba ai nghi ngờ để tạo ra những xếp đặt - thông qua hãng cố vấn pháp luật đáng tin cậy quyết định những sắp xếp thuộc phạm vi tài chính. Có lẽ được ám chỉ rồi, người bà con có những liên tưởng và đôi khi những aỏ giác nhàng - khá nhiều bà già khác cũng như vậy - ai nghĩ là chuỵên khác thường - nếu bà ta tán gẫu về chuyện sữa bị nhiễm độc, những đứa trẻ chết sau lò sưởi hay vụ bắt cóc độc ác; ai lắng nghe. Họ chỉ nghĩ đó là bà A hay bà B có những liên tướng đấy thôi - người nào Chú ý hết.

      - Ngoại trừ bà Thomas Beresford.

      - Được rồi, Phải, em chú ý.

      - Nhưng tại sao?

      - Em hoàn toàn biết . Tuppence chậm rãi đáp. Nó giống như những câu chuyện thần tiên. Bằng Cách Cắn Vào Những Ngón tay Tôi - Điều Độc ác Theo Đường Này Đến. Thình lình em cảm thấy sợ hãi. Em luôn nghĩ đến Sunny Riđge như nơi chốn an bình hạnh phúc - rồi đột nhiên em cảm thấy ngạc nhiên... Đó chỉ là cách duy nhất em có thế . Em muốn tìm hiểu hơn. Bây giờ bà già khốn khổ Lancaster biến mất. ai đó lẹ làng bí mật đem bà ta .

      - Nhưng tại sao họ làm thế chứ?

      - Em chỉ có thể nghĩ vậy bởi vì ngày bà ta càng tệ hơn - xấu hơn xét quan điểm của họ - nhớ lại nhiều hơn, có lẽ thế, chuyện với người khác nhiều hơn, hay có lẽ nhận ra ai đó - hay kẻ nào đó nhận ra bà ấy - hay kể cho bà nghe điều gì đấy làm cho bà nảy ra ý kiến mới về chuyện xảy ra. Dù sao, vì lí do này hay lí do kia bà ta trở nên nguy hiểm đối với kẻ khác.

      - Nhìn đây, Tuppence, toàn thể việc này là tất cả những việc và những người nào đó. Đó chỉ là ý tưởng do em nghĩ ra mà thôi. cần thiết em phải theo đuổi những chuyện phải là việc của em rôi làm mình bị khủng hoảng tinh thần nhé.

      - có chi là khủng hoảng tinh thần theo lời cả, Tuppence đáp. Vậy cần lo chi hết.

      - Em hãy để Sunny Ridge yên.

      - Em đâu mình trở lại Sunny Ridge. Em nghĩ họ kể cho em nghe tất cả những gì họ biết ở đó rồi. Em cho rằng nếu ở lại bà ấy hoàn toàn được an toàn. Em muốn khám phá nơi bà ấy ở Bây giờ. Em muốn đến bất cứ nơi nào bà ta ở Đúng thời trước khi chuyện gì đó xảy đến cho bà.

      - Làm sao mà em lại nghĩ có chuyện gì xảy đến cho bà chứ?

      - Em thích suy nghĩ. Nhưng em theo dấu đây. Em lại là Pruden Beresford, Thám tử tư. có nhớ khi mình là đôi Thám tử Blunt rực sáng ?

      - Có, Tommy đáp. Em là Robinson, thư kí riêng của .

      - phải lúc nào cũng thế, dù sao, đó là những gì em sắp sửa làm trong khi diễn kịch tại Hoạt Động Gián Điệp Quốc Tế ở chỗ ít người biết Manor. Đó là vì” Bảo vệ bà Lancaster” mà em sắp bận rộn đấy thôi.

      - Có thể em tìm ra bà ta được ổn định hoàn toàn chứ sao.

      - Em hi vọng thế. ai vui hơn em đâu.

      - Em định bắt đầu như thế nào?

      - Như em với , em mới bắt đầu nghĩ ra. Có lẽ thông báo nào đó? , đó sai lầm.

      - Vậy, hãy cẩn thận. Tommy , hơi bất lực.

      Tuppence thậm chí đáp lại.

      Sáng thứ hai, Albert, người giúp việc chính của gia đình Beresford trong nhiều năm, từ khi ta còn là gã giữ thang máy tóc màu cà rốt được họ thuyết phục tham gia vào những hoạt động chống bọn tội phạm tăng thêm niềm vui cho họ, đặt khay trà buổi sáng chiếc bàn giữa hai giường, kéo các màn cửa, loan báo đó là ngày đẹp trời, rồi dời cái vẻ ngoài bệ vệ của ra khỏi phòng.

      Tuppence ngáp, ngồi dậy, dụi mắt, rót tách trà , cho lát chanh mỏng vào, lưu ý rằng đó ngày đẹp trời, mà bạn bao giờ biết..

      Tommy trở mình rên rỉ.

      - Dậy, Tuppence . Hãy nhớ hôm nay sắp nhiều chỗ.

      - Chúa ơi. Tommy . Tôi nhớ rồi.

      ngồi dậy và cũng tự mình rót tách trà. nhìn bức tranh giá với vẻ thưởng thức.

      - Tôi dám , Tuppence, bức tranh của em rất đẹp.

      - Đó là hướng mặt trời vào phía bên cửa sổ và thắp sáng ngôi nhà.

      - Thanh bình .

      - Nếu em có thể nhớ lại trước kia em nhìn thấy nó ở đâu.

      - hiểu điều ấy lại quan trọng như vậy. Em nhớ lại lúc này hay lúc khác thôi.

      - Cái ấy tốt. Em muốn nhớ lại bây giờ.

      - Nhưng tại sao?

      - hiểu à? Đó là đầu mối duy nhất mà em có. Đó là bức tranh của bà Lancaster.

      - Nhưng dù sao hai việc cũng liên can tới nhau. Tommy . muốn , lần bức tranh thuộc về bà Lancaster. Nhưng có thể đó chỉ là bức tranh bà ấy mua tại cuộc triển lãm hay ai đó trong gia đình bà ấy mua. Có thể là bức tranh ai đó tặng bà như món quà. Bà mang theo mình đến Sunny Ridge bởi vì bà nghĩ nó đẹp. có lí do gì bức tranh lại liên quan đến tư cách cá nhân bà ấy.

      - Đó là đầu mối duy nhất em có.

      - Đó là ngôi nhà đẹp thanh bình.

      - Cũng vậy thôi, em nghĩ đó là ngôi nhà trống.

      - Em sao, ngôi nhà trống?

      - Em nghĩ có ai sống ở đó. Em nghĩ có ai ló ra khỏi căn nhà đó. ai tình cờ bộ ngang cầu, ai nới giây buộc thuyền và chèo xa.

      - Lạy chúa tôi, Tommy nhìn chằm chằm. Có chuyện gì với em thế?

      - Lần đầu tiên nhìn thấy nó em nghĩ vậy. Em nghĩ” ngôi nhà đẹp để ở.” Và rồi em nghĩ” Nhưng ai sống đây cả, em chắc họ ở.” Điều này cho thấy rằng em nhìn thấy nó trứơc đây. Đợi phút. Đợi phút... nó đến. Nó đến.

      Tommy nhìn chằm chằm.

      - Ngoài Cửa sổ, Tuppence hụt hơi. Ngoài cửa chiếc xe hơi? , , đó là góc sai lầm. Chạy dọc theo con kênh... và chiếc cầu với vòm cung và những bức tường màu hồng của ngôi nhà, hai cây dương, hơn hai cây. Có Nhiều cây dương liễu. Ồ thân , nếu em có thể...

      - Ồ, thôi thoát ra , Tuppence.

      - Nó trở lại với em ngay.

      - Chúa lòng lành, Tommy nhìn đồng hồ tay. phải vội. Em và bức tranh Thấy rồi của em.

      nhảy ra khỏi giường chạy vội đến phòng tắm. Tuppence dựa lưng vào gối khép mắt lại, cố gắng cưỡng bách hồi nhớ chỉ tồn tại cách khó nắm bắt ngoài tầm với.

      Tommy rót tách trà thứ hai trong phòng ăn Tuppence ra đỏ mặt với chiến thắng.

      - Em nhớ lại rồi. Em biết nơi em nhìn thấy ngôi nhà. Nó ở ngoài cửa sổ đoàn tàu.

      - Khi nào? Ở đâu?

      - Em biết. Em phải nghĩ . Em nhớ tự nhủ:“ ngày nào đó ta trở lại căn nhà đó” - và em cố gắng nhìn xem tên từng nhà ga tiếp đó là gì. Nhưng biết ngày nay đường rầy xe lửa như thế nào rồi. Họ phá đổ phân nửa nhà ga - còn nhà ga kế tiếp mà chúng ta qua bị giật đổ hoàn toàn, cỏ mọc lấn sân ga, còn bảng hiệu hay cái gì khác.

      - Cái cặp đựng tài liệu của tôi đâu rồi, Albert!

      cuộc tìm kiếm cuồng nhiệt xảy ra.

      Gần đứt hơi Tommy trở lại để lời tạm biệt. Tuppence ngồi suy niệm trước dĩa trứng chiên.

      - Chào em, Tommy . Và vì Chúa, Tuppence, đừng có mà chõ mũi vào những việc phải việc của em.

      - Em nghĩ, Tuppence , trầm tư mặc tưởng. Những gì em làm, là cuộc hành trình vài ngày bằng xe lửa.

      Tommy có vẻ nhõm.

      - Phải đấy. giọng khích lệ, em thử xem sao. Mua cái vé định kì. Có số sơ đồ nơi em có thể du lịch qua ngàn dặm khắp các quần đảo quốc với số tiền phải chăng. Cuộc này rất thuận tiện cho em, Tuppence. Du hành bằng xe lửa em có thể nghĩ ra tất cả những phần có khả năng xảy ra. Chuyện đó ắt phải khiến em hạnh phúc cho đến khi trở về nhà.

      - Chuyển tình của em đến Josh nhé.

      - chuyển. thêm, nhìn vợ trong cử chỉ lo âu, ước em với . Đừng làm việc gì ngu ngốc nghe?

      - Dĩ nhiên . Tuppence đáp.
      piippPrunus Ngọc thích bài này.

    2. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 6: Tuppence theo dấu

      , Tuppence thở dài, ”. nhìn quanh với đôi mắt buồn rầu. tự với mình, chưa bao giờ cảm thấy khốn khổ như thế. Tất nhiên biết nhớ Tommy, nhưng có ý kiến mình nhớ Tommy bao nhiêu.

      Trong suốt cuộc hôn nhân lâu dài của họ khó mà có cuộc chia tay nào lâu. Khởi trước ngày cưới, họ tự gọi họ là “đôi phiêu lưu trẻ.” Họ cùng nhau trải qua những khó khăn nguy hiểm, họ lấy nhau, có hai con đúng vào lúc thế giới dường như buồn tẻ hơn và tuổi trung niên đến với họ, thế chiến thứ hai xảy ra và trong mức độ gần như phép lạ lần nữa họ lại thoát hiểm trong những vùng phụ cận của Cơ quan Tình báo Quốc. đôi hơi khác đời, họ được người tự xưng là ông ‘Carter’, người đàn ông trầm tĩnh, có đặc tính rệt, tuyển mộ, nhưng đối với lời của người này mọi người đều khuất phục. Họ có những cuộc phiêu lưu, và lần nữa lại có nhau. Nhân tiện luôn, việc này được ông Carter dự tính. Tommy mình được tuyển mộ. Nhưng Tuppence, phô diễn tất cả tính ngây thơ tự nhiên, trong phong cách như vậy tìm cách nghe trộm khi Tommy đến nhà khách bờ biển trong vai ông Meadows nào đó, người đầu tiên thấy ở đó là quý trung niên ngồi đan áo, ta ngước nhìn với đôi mắt ngây thơ và bắt buộc chào ta như là bà Blenkinsop. Vì vậy họ cùng nhau hoạt động như đôi.

      “Tuy nhiên, Tuppence nghĩ, lần này mình thể làm như thế được. có tổng số những chuyện nghe trộm, tính ngây thơ, hay bất cứ cái gì khác đem đến những ngõ ngách của chỗ ít người biết Manor hay chia cắt những chi tiết rối rắm của L.B.H.H.B.V.Q.T. Chỉ là hội những ông già, suy nghĩ cách bực bội. Thiếu Tommy căn hộ trở nên trống vắng, thế giới đơn độc, và ‘làm thế nào mà,’ Tuppence nghĩ,’ ta lại tự mình thu xếp được?’

      Đối với Tuppence khởi những bước đầu tiên những gì dự định thu xếp được vấn đề thuần tuý vô nghĩa. Lần này có vấn đề của hoạt động trí tuệ, hoạt động phản gián hay cái gì đó đại loại. có gì thuộc bản chất chuyên nghiệp cả. “Prudence Beresford, hãng Thám tử tư, đó là những gì ta là.” Tuppence tự nhủ mình.

      Sau bữa ăn trưa tồi được vội vã dọn sạch, chiếc bàn trong phòng ăn được rải lên những bảng giờ tàu đến, những sách hướng dẫn, những bản đồ, vài cuốn nhật kí cũ mà Tuppence tìm cách khai quật lên được.

      Trong khoảng thời gian ba năm sau này, lúc nào đó( chắc lâu lắm) dự cuộc hành trình bằng xe lửa, nhìn qua cửa sổ toa tàu, để ý ngôi nhà. Nhưng, cuộc hành trình bằng tuyến đường sắt nào?

      Như đa số cư dân thời đại, gia đình Beresford chủ yếu du lịch bằng xe hơi. Những chuyến du lịch bằng đường sắt họ ít khi dùng. Scotland, tất nhiên, khi họ đến ở lại với Deborah đứa con có chồng - Nhưng đó là cuộc hành trình ban đêm.

      Penzane - những ngày nghỉ hè - Tuppence biết khu vực đó bằng cả trái tim.

      , đây là cuộc hành trình ngẫu nhiên nhiều hơn.

      Với tánh siêng năng và kiên trì, Tuppence làm bảng danh sách tỉ mỉ tất cả những cuộc hành trình có thể có lẽ thích hợp với những gì tìm kiếm. hay hai lần tham gia những cuộc đua lớn, cuộc viếng thăm Northumberland, hai chỗ có thể tại xứ Wales, bữa đặt tên thánh, hai đám cưới, họ có tham gia cuộc bán giảm giá, có lần phát cho người bạn số chó con, cho chúng ăn và bị mắc phải bịnh cúm. Nơi gặp gỡ là xứ ít mưa chỗ các đường bộ giao nhau mà nhớ tên.

      Tuppence thở dài. Có vẻ như kết luận của Tommy là kết luận mà phải nhận. Mua cái vé vòng và thực tế du lịch hầu hết những nhánh thuộc khu vực đường rầy xe lửa.

      Trong cuốn sổ tay viết nhanh những đoạn ngắn bất cứ kí ức nào chộp được - những tia lửa mơ hồ - trong trường hợp chúng có thể trợ giúp.

      Ví dụ, cái mũ - phải, chiếc mũ ném cái giá để đồ. đội chiếc mũ - đám cưới hay lễ đặt tên thánh - chắc chắn phải là những con chó con.

      Và - tia lửa khác - đá văng đôi giày của - bởi vì chân bị đau. Phải - điều đó được xác định - nhìn thấy Ngôi nhà - và vì bị đau chân đá văng đôi giày.

      Vậy, nó xác định đó là nhiệm vụ xã hội mà hoặc là đến, hay trở về từ - trở về từ, dĩ nhiên rồi - bởi vì đôi chân đau nhức do việc đứng lâu trong đôi giày đẹp nhất của . Và loại mũ nào? Bởi vì điều đó trợ giúp - cái mũ hoa - đám cưới mùa hè - hay chiếc mũ nhung mùa đông?

      Tuppence bận ghi nhanh những chi tiết tứ Bảng chỉ Giờ đến của tuyến Đường sắt ở những khu vực khác nhau Albert bước vào hỏi cần gì trong bữa ăn tối - những món cần đặt từ cửa hàng thịt và cửa hàng thực phẩm.

      - Tôi nghĩ tôi xa trong vài ngày nữa. Tuppence . Chú cần đặt món chi cả. Tôi bằng xe lửa.

      - có cần ít bánh nhân thịt?

      - Có thể. Kiếm ít thịt băm hay món chi đó.

      - Có thể thêm trứng và bơ. Hay là có hộp patê trong tủ đựng thức ăn - cái hộp nằm đó thời gian lâu, quá thời hạn. Đó là tiến cử khá mỉa mai nhưng Tuppence cũng đáp. ‘được rồi, thế là đủ.’

      - Có cần thư nhờ chuyển?

      - Tôi thậm chí biết mình đâu nữa.

      - Tôi hiểu. Albert đáp.

      Việc dễ chịu về Albert là ta luôn chấp nhận mọi . có gì phải giải thích với cả.

      ra và Tuppence giải quyết chương trình của mình - những gì cần là: cuộc đính hôn có dính líu đến đôi giày dự tiệc và chiếc mũ. may mục thứ nhất lên danh sách vướng vào những khu vực đường sắt khác nhau. đám cưới ở tuyến đường sắt phía Nam, mục kia ở nam Bedford.

      Nếu có thể nhớ lại chút về khung cảnh... ngồi phía tay phải của xe lửa. nhìn thấy cái gì Trước con kênh? - Rừng? Cây? Cánh đồng? ngôi làng xa?

      Căng óc ra, cau mày nhìn lên - Albert trở lại. Vào giây phút đó còn xa mới hiểu Albert đứng đợi để lưu ý nhiều hơn hoặc ít hơn câu trả lời lời cầu xin.

      - Lại cái gì nữa, Albert?

      - Nếu ngày mai xa cả ngày.

      - Và cả hôm sau cũng thế.

      - Vậy tôi nghỉ làm có ổn ?

      - Phải, tất nhiên.

      - Ây là Elizabeth - nó ló ra những chấm ràng. Milly nghĩ nó bị sởi - Milly là vợ của Albert và Elizabeth là đứa con tuổi nhất của họ.

      - bạn, Milly cần ở nhà, dĩ nhiên rồi.

      Albert sống trong ngôi nhà xinh xắn cách đó hai con đường.

      - Chấm đỏ chưa nhiều- muốn tôi khuất mắt khi bận túi bụi - ấy thích tôi xáo tung mọi thứ lên - nhưng đó là những đứa con trai khác kia - tôi có thể mang chúng khuất mắt ấy tới nơi nào đó.

      - Dĩ nhiên rồi. Tất cả gia đình đều phải cách li kiểm dịch.

      - Vâng, đó là cách tốt nhất, và khỏi bệnh. Charlie bị lên sởi, Jean cũng thế. Dù sao, điều đó có ổn ?

      Tuppence bảo đảm với ta tất cả ổn.

      cái gì đó lay động dưới đáy sâu tiềm thức - dự đoán hạnh phúc - thừa nhận - chứng bịnh sởi - phải, tất nhiên rồi. cái gì đó có liên quan đến bịnh sởi.

      Nhưng tại sao ngôi nhà bên con kênh lại liên can đến bịnh sởi...?

      Dĩ nhiên! Anthea. Anthea là đứa con đỡ đầu của Tuppence - và Jane con của Anthea ở trường - học kì đầu - và đó là ngày Lễ phát thưởng và Anthea gọi điện - hai đứa hơn ló ra những chấm đỏ của chứng sới và có ai trong nhà để giúp còn Jane thất vọng nếu có ai đến - Tuppence có thể đến ?

      Tuppence đáp tất nhiên đến - có việc gì đặc biệt để làm - xuống trường đem Jane ra ngoài ăn trưa rồi trở về các hoạt động thể thao và tất cả những gì còn lại. Có chuyến tàu đặc biệt dành cho trường học.

      Mọi việc trở về trong trí nhớ với trạng thái ràng đáng kinh ngạc tờ báo mùa hè có in hinh những bông lúa!

      nhìn thấy căn nhà cuộc hành trình trở về.

      đường xuống đó bị hút vào tờ tạp chí mang theo, nhưng lúc trở về có gì để đọc, nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi, bị kiệt sức vì những hoạt động ban ngày và áp lực của đôi giày ngủ thiếp .

      Khi thức dậy đoàn tàu chạy bên con kênh. Đó là xứ sở từng phần là rừng, thỉnh thoảng nhịp cầu, đôi khi đường mòn uốn khúc hay con đường lớn - xa xa cánh đồng - có làng mạc.

      Đoàn tàu bắt đầu chạy chậm lại, có lí do gì chạy chậm, trừ dấu hiệu ngược lại. Nó giật lùi rồi dừng lại bên chiếc cầu, chiếc cầu có mái vòm cung bắt qua con kênh, con kênh dùng đến nữa, có thể đoán chừng như vậy. Phía bên bờ kênh, gần giòng nước, là ngôi nhà. ngôi nhà mà Tuppence nghĩ ngay là trong những ngôi nhà đẹp chưa từng thấy. ngôi nhà yên tĩnh, thanh bình, sáng bừng lên bởi ánh sáng vàng rực của mặt trời buổi chiều muộn.

      có người nào được nhìn thấy. có chó hay động vật nuôi. Tuy thế những cánh cửa lá sách màu lục chưa đóng chặt. Căn nhà hẳn có người ở, nhưng bấy giờ, vào lúc đó, ngôi nhà trống vắng.

      ‘Ta phải tìm hiểu ngôi nhà đó. Tuppence nghĩ. ngày nào đó ta phải trở lại và nhìn ngắm nó. Đó là loại nhà ta thích ở.’

      Với cái giật nảy đoàn tàu lắc lư tiến về phía trước.

      - Mình tìm xem tên của nhà ga tiếp đó - để mình biết ngôi nhà ở đâu.

      Nhưng có nhà ga nào phù hợp. Đó là thời điểm khi mọi việc bắt đầu xảy đến với xe lửa. Những nhà ga bị đóng cửa, thậm chí bị kéo đổ, cỏ lấn làm cho những sân ga mục nát. Trong hai mươi phút - nửa giờ - đoàn tàu vẫn chạy, nhưng có gì được nhìn thấy có thể xác minh được. Phía những cánh đồng, có lần Tuppence thấy chóp nhọn của nhà thờ.

      Đoạn tiếp đến số nhà máy phức tạp. Những ống khói cao - khu vực gồm những ngôi nhà tiền chế, rồi đồng quê rộng thoáng lần nữa.

      Tuppence nghĩ thầm - ngôi nhà trông hơi giống như trong giấc mơ! Có lẽ đó là giấc mơ - ta nghĩ ta từng và tìm kiếm nó - Quá khó khăn. Vả lại, đáng tiếc thay, có lẽ - ngày nào đó, có thể, ta tình cờ đến đó do tai nạn!

      Vì thế, quên tất cả về ngôi nhà, cho đến khi bức tranh treo tường đánh thức dậy kí ức ngủ quên.

      Và bây giờ, cám ơn lời thốt ra vô tình từ miệng Albert, cuộc tìm kiếm chấm dứt.

      Hay đúng hơn, cuộc tìm kiếm bắt đầu.

      Tuppence lựa ra ba bản đồ, cuốn sách hướng dẫn, và nhiều món phụ tùng khác.

      Bây giờ biết khu vực mình phải tìm kiếm còn sơ sài. Trường Jane đánh dấu thập lớn - nhánh của khu vực đường sắt chạy thẳng vào đường lớn London - Thời gian hết hiệu lực khi ngủ.

      Khu vực cuối cùng như dự tính gồm quãng đường đáng chú ý - hướng bắc Mechester, đông bắc chợ Basing là thành phố , nhưng hoàn toàn là nơi quan trọng chỗ các đường sắt giao nhau, có thể là hướng tây Shaleborough.

      dùng xe, và khởi hành vào sáng sớm hôm sau.

      đứng lên vào phòng ngủ quan sát bức tranh treo giá.

      Phải, còn nhầm lần gì nữa. Đó là căn nhà nhìn thấy từ chuyến tàu ba năm trước. Căn nhà hứa tìm lại ngày nào đó.

      Ngày nào đó đến. Ngày nào đó là ngày mai.

    3. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      BOOK 2: Ngôi nhà bên con kênh

      Chương 7: Mụ phù thủy thân thiện


      Trước khi rời khỏi nhà sáng hôm sau, Tuppence cẩn thận nhìn lần cuối cùng bức tranh treo trong phòng , gắn quá nhiều chi tiết bảo đảm của bức tranh vào trong trí, mà chỉ ghi nhớ vị trí trong phong cảnh của nó. Lần này nhìn nó phải từ cửa sổ đoàn tàu mà từ con đường cái. Góc cận cảnh hoàn toàn khác. Ở đó có thể có nhiều cầu vòm mái cong, nhiều kênh giống nhau còn dùng nữa. Có lẽ những căn nhà trông giống ngôi nhà này (nhưng Tuppence từ chối tin vào điều đó).

      Bức tranh được kí tên, nhưng chữ kí của nghệ sĩ đọc được. Có thể tất cả bắt đầu với chữ B.

      Rời bức tranh quay , Tuppence kiểm tra lại đồ dùng cá nhân của mình: bản đồ A. B. C. và hệ thống đường xe lửa liên hệ. trong những bản đồ quân vụ được tuyển chọn; những cái tên thăm dò từng khu vực - Medchester, Westleigh - chợ Basing- Middlesham - Inchwell. Chúng bao quanh khu tam giác ở giữa mà quyết định do thám. Với đem theo cái túi ngủ qua đêm từ khi có ba giờ lái xe trước khi đến khu vực điều tra, và sau đó, nghĩa là, kết luận, nhiều cuộc lái xe chậm dọc theo những con đường lộ và đường mòn trong xứ để tìm kiếm những con kênh có thể đúng.

      Sau khi dừng xe lại Medchester uống cà phê và bữa ăn , tiếp tục lái về phía trước bên con đường lộ loại hai nằm sát cạnh đường rầy xe lửa, băng qua miền thôn dã trồng rừng với nhiều con suối.

      Như hầu hết các miền quê ở nước , đầy rẫy những bảng chỉ đường, mang những cái tên Tuppence chưa hề nghe, bề ngoài có vẻ khó mà dẫn đến cái nơi được đề cập đến. vậy về phần này hình như có tinh xảo nào đó trong hệ thống đường bộ của nước . Đường lộ quanh co tách rời khỏi con kênh, và khi bạn đầy hi vọng nhanh về phía nơi bạn nghĩ chắc là con kênh, bạn chỉ vẽ khoảng trắng. Nếu bạn theo hướng khu vực trung tâm và vùng phụ cận Michedlen, bảng chỉ đường kế tiếp nơi bạn đến bắt bạn chọn lựa giữa hai con đường, đến Pennington Sparrow, ngả kia đến Farlingford. Bạn chọn Farlingford thực tế tìm cách bắt đầu đến chỗ như thế nhưng hầu như ngay lập tức bảng chỉ đường kế tiếp lại gởi bạn trở về Medchester, vì thế gần như bạn thụt lùi bước chân bạn. Trong thực tế Tuppence bao giờ tìm ra khu vực phụ cận và trung tâm Michelden, trong lúc lâu hoàn toàn có khả năng tìm ra con kênh thất lạc. Nếu có bất cứ ý tưởng nào về ngôi làng mà tìm, những việc có thể dễ dàng hơn. Theo dấu những con kênh bản đồ chỉ là chơi trò xếp hình. Thỉnh thoảng đến chỗ đường rầy xe lửa điều ấy khiến vui lên rồi tiếp tục lòng đầy hi vọng lái nhanh về phía Đồi ong, Nam Winterton và Farrell St. Edmund. Farrell St. Edmund lần có nhà ga, nhưng cách đây thời gian nó bị bãi bỏ! Tuppence nghĩ, nếu chỉ có con đường lộ vận hành sát con kênh, hay sát ven đường sắt, khiến việc tìm kiếm trở nên dễ dàng.

      Ngày tiếp tục trôi qua lặng lẽ và Tuppence càng lùc càng rối trí. Thỉnh thoảng lái đến nông trại kề sát bên con kênh nhưng con đường dẫn đến nông trại cứ nhất mực liên can gì đến con kênh mà chạy thẳng lên ngọn đồi đến chỗ tên là Westpenfold có nhà thờ với tháp vuông chẳng ích lợi gì cả.

      Từ đó trong lúc phiền muộn đuổi theo con lộ có dấu lún bánh xe dường như là con đường duy nhất ra khỏi Westpenfold trong ý thức về phương hướng của Tuppence( bây giờ cái ý thức đó càng lúc càng thể tin cậy được nữa) dường như dẫn về hướng ngược lại cái hướng muốn , bất ngờ đến chỗ nơi hai con đường chia nhánh phải và trái. Phía giữa còn tấm bảng chỉ đường, hai cánh tay của cái bảng gãy rời.

      - Đường nào? Tuppence hỏi. Ai biết? Ta biết.

      rẽ vào con đường bên trái.

      Con đường quanh co, uốn khúc sang trái rồi sang phải. Cuối cùng nó vòng ngắn quanh khúc quẹo, con đường mở rộng ra leo lên ngọn đồi, ló ra khỏi những cánh rừng rồi xuôi lần xuống vùng thôn dã thoáng mát. vượt lên được đỉnh dốc rồi nó lại xuống con dốc. Từ nơi xa lắm thanh não lòng vang lên.

      - vang như Chuyến tàu, Tuppence với hi vọng bất ngờ.

      Đó là đoàn tàu - rồi bên dưới là đường rầy xe lửa và đoàn tàu chở hàng vừa chạy vừa phát ra những tiếng còi hụ não lòng vừa nhả ra những làn khói. Phía xa là con kênh và bên kia con kênh là ngôi nhà mà Tuppence nhận ra, băng qua con kênh là cây cầu mái vòm cung, màu gạch hồng. Đường lộ chìm bên dưới đường sắt, nhô lên, về hướng chiếc cầu. Tuppence lái rất chậm bên chiếc cầu hẹp. Xa kia con đường tiếp tục chạy dài với ngôi nhà bên cánh phải. Tuppence vừa lái vừa tìm đường vào. Hình như có lối vào. bức tường cao vô tư che khuất nó khỏi con đường.

      Bây giờ căn nhà bên tay phải . dừng xe lại bộ trở lại cầu và từ đó quan sát được những gì có thể nhìn thấy ở ngôi nhà.

      Hầu hết những cửa sổ cao đều có những cánh cửa màu xanh lục đóng kín. Ngôi nhà có vẻ rất yên tĩnh và trống trải. Dưới ánh sáng mặt trời lặn trông thái bình và dễ chịu. có chi gợi ý có người ở đó. trở lại xe lái xa hơn chút. Bức tường, bức tường cao tầm thước, chạy dọc bên phải . Phía tay trái con đường chỉ là hàng rào chạy thẳng ra những cánh đồng.

      Ngay sau đó lái đến cánh cửa sắt rèn. đậu xe bên lề đường, bước ra nhìn qua cánh cửa sắt. Đứng nhón gót chân có thể xem xét kĩ lưỡng. Cái mà nhìn vào là khu vườn. Bây giờ chỗ đó chắc chắn phải là nông trại, mặc dù lần nó nông trại. Tin chắc khu vườn hướng thẳng ra cánh đồng đằng xa. Khu vườn được trồng trọt và chăm sóc. Nó được ngăn nắp lắm nhưng có vẻ như người nào đó cố gắng giữ cho khu vườn được sạch ngăn nắp mà thành công lắm.

      Từ cánh cổng sắt lối hẹp hình vòng cung xuyên qua khu vườn vòng quanh tòa nhà. Tin chắc đây là mặt tiền nhà, mặc dù trông nó giống như mặt tiền. khó nhận thấy mặc dù vững chắc - cánh cửa sau. Từ phía này ngôi nhà hoàn toàn khác. Khởi đầu, nó hoang vắng. Người ta sống ở đây. Cửa sổ mở, những màn cửa rung rinh quanh chúng, xô rác trước cánh cửa lớn. Cuối đằng xa khu vườn Tuppence có thể thấy người đàn ông to béo đào, người đàn ông có tuổi cao lớn ông ta chậm rãi kiên trì đào bới. Chắc chắn nhìn từ phía này ngôi nhà quyến rũ, nghệ sĩ nào muốn vẽ nó. Nó chỉ là ngôi nhà có người ở. Tuppence tự hỏi. lưỡng lự. Ta có nên tiếp tục và quên ngôi nhà? , khó mà làm được điều ấy, sau tất cả những rắc rối gặp phải. Mấy giờ rồi? nhìn đồng hồ nhưng đồng hồ tay đứng. thanh cánh cửa mở ra bên trong. chăm chú nhìn qua cánh cổng lần nữa.

      Cánh cửa nhà mở và phụ nữ bước ra. Bà ta đặt bình sữa xuống rồi đứng thắng người lên, liếc nhìn về phía cổng. Bà thấy Tuppence và lưỡng lự phút, rồi dường như quyết định, người đàn bà bước xuống lối về phía cổng. ‘sao thế, Tuppence lẩm bẩm, sao nhỉ, đó là mụ phù thuỷ thân thiện!’

      Đó là người đàn bà chừng năm mươi tuổi. Bà ta có mái tóc dài rối bời vì gió, bay tung phía sau. Nhắc Tuppence mơ hồ nhớ đến bức tranh( của Nevínon?) về mụ phù thuỷ trẻ cán chổi. Có lẽ điều đó giải thích vì sao thuật ngữ phù thuỷ đến trong trí . Nhưng người đàn bà này có gì trẻ đẹp. Bà ta trạc trung niên, nét mặt có vết nhăn, ăn mặc khá cẩu thả. Bà ta đội cái mũ hình tháp chuông mũi và cằm tới gần nhau. Như bà ta có thể ác nhưng bà ta có vẻ gì độc ác. Bà ta dường như có thiện tâm toả sáng vô hạn. ‘Phải, Tuppence thầm nghĩ, ‘chính xác bà Giống như là mụ phù thủy, nhưng bà là phù thuỷ Thân thiện. Tôi nghĩ bà là điều mà người ta thường gọi “ phù thủy trắng”.

      Người đàn bà ngập ngừng bước đến cánh cổng và . Giọng bà ta vui vẻ với thanh thôn dã yếu ớt.

      - Có phải tìm kiếm cái gì?

      - Tôi xin lỗi, Tuppence , hẳn bà nghĩ tôi rất thô lỗ khi nhìn vào vườn của bà bằng cách này, nhưng - nhưng tôi tự hỏi về căn nhà này.

      - có vui lòng vào và nhìn quanh vườn ? Mụ phù thuỷ thân mật .

      - Tốt - tốt - cám ơn bà nhưng tôi dám làm phiền.

      - có chi. Tôi có chi để làm cả. Buổi chiều đẹp chứ nhỉ?

      - Vâng, đúng thế.

      - Tôi nghĩ có lẽ lạc đường. Bà phù thủy thân thiện . Đôi khi người ta bị vậy.

      - Tôi chỉ nghĩ đây là ngôi nhà rất quyến rũ khi tôi xuống ngọn đồi phia bên kia chiếc cầu.

      - Đó là phía đẹp nhất. Thỉnh thoảng các nghệ sĩ đến vẽ phác hoạ. Hoặc họ quen với chuyện đó - lần thôi.

      - Vâng. Tôi nghĩ họ vẽ. Tôi tin là tôi - tôi nhìn thấy bức tranh - tại cuộc triển lãm nào đó, vội vã thêm vào. số căn nhà rất giống ngôi nhà này. Có lẽ Là ngôi nhà này đây.

      - Có thể. Khôi hài , biết chứ, các nghệ sĩ đến và vẽ tranh. Rồi các nghệ sĩ khác dường như cũng đến. Vẫn y như thế khi hàng năm họ đều có cuộc triển lãm tranh địa phương. Những nghệ sĩ hình như chọn cùng địa điểm. Tôi hiểu vì sao. hiểu vì sao. biết , hoặc là đồng cỏ và suối , hay cây sồi đặc biệt, hay bụi liễu, hay cùng quang cảnh nhà thờ Normand. Năm sáu tranh khác nhau vẽ cùng cảnh vật, đa số rất xấu, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi hiểu chi về nghệ thuật cả. Xin mời vào.

      - Bà tử tế lắm. Tuppence . Bà có khu vườn rất đẹp. thêm vào.

      - tệ lắm. Chúng tôi trồng ít rau, hoa và những món khác. Nhưng nay ông ấy thể lao động nhiều và tôi giờ cho việc này việc khác.

      - Tôi thấy ngôi nhà này lần từ xe lửa. Xe lửa chậm lại tôi thấy ngôi nhà này và tự hỏi có khi nào mình gặp lại nó . Cách đây khá lâu rồi.

      - Bây giờ bất ngờ lại xuống ngọn đồi bằng xe hơi và ngôi nhà đó là đây. thể tin được, những việc lại xảy ra như thế, phải nào?

      Tạ ơn Chúa. Người đàn bà này dễ chuyện cực kì. Người ta khó mà tưởng tượng ra cái gì đó để giải thích. Hấu như người ta có thể chỉ đúng những điều vừa nảy ra trong đầu.

      - thích căn nhà này ? Mụ phù thủy thân mật . Tôi có thể hiểu là có quan tâm. Đó là ngôi nhà hoàn toàn cổ, biết đấy. Tôi muốn , kiểu thời cuối Gerorgian, người ta nó vừa được gia cố thêm thôi. Dí nhiên, chúng tôi chỉ được ở nửa căn nhà thôi.

      - Tôi hiểu rồi, nhà được chia hai, phải ?

      - ra đây là phía sau. Mặt trước là phía kia, phía mà thấy tứ cái cầu. Cái lối chia nhà làm hai khó tin. Tôi nghĩ vậy. Tôi cho là chia nhà bằng cách khác dễ chịu hơn. Bên phải bên trái, vậy đó. sau hay trước. Tất cả phần này ra là phía sau.

      - Bà ở đây bao lâu rồi?

      - Ba năm. Sau khi chồng nghỉ hưu chúng tôi cần chỗ thôi ở nơi nào mà chúng tôi được yên tĩnh trong xứ. Đôi khi giá rẻ. Chỗ này rẻ bởi vì hiu quạnh. ở gần làng hay nơi nào khác.

      - Tôi có thấy nhà thờ chóp nhọn đằng xa.

      - Đó là Sutton Chancellor. Cách đây hai dặm rưỡi. Dĩ nhiên chúng tôi ở trong xứ đạo, nhưng có bất cứ ngôi nhà nào cho đến khi đến làng. Đấy cũng là ngôi làng . uống tách trà chứ? Mụ phù thuỷ thân thiện . Tôi chỉ vừa mới đặt ấm nước chưa quá hai phút nhìn ra và thấy . Bà đưa hai tay lên miệng hét lớn.” Armos”, bà gào,”Armos”.

      Từ đằng xa người đàn ông mập mạp quay đầu lại.

      - Trà trong mười phút nữa. Bà .

      Ông ta đưa bàn tay lên tỏ ý hiểu dấu hiệu. Bà quay lại, mở cánh cửa lớn và nhắc Tuppence bước vào.

      - Tên tôi là Perry. Giọng thân thiện. Perry.

      - Còn tôi Beresford. Tuppence . Bà Beresford.

      - Mời vào, bà Beresford, cứ nhìn quanh cho .

      Tuppence suy nghĩ chút. nghĩ” Đúng trong phút mình cảm thấy giống Hansel và Gretel. Mụ phù thuỷ cầu bạn vô nhà mụ. Có lẽ là ngôi nhà bằng bánh ga tô có mùi gừng... chắc là thế.”

      Rồi nhìn Alice Perry lần nữa và nghĩ đây phải là nhà của mụ phù thủy của Hansel và Gretel. Đây đúng là người phụ nữ hoàn toàn bình thường.

      , hoàn toàn bình thường lắm. Đối với bà có vẻ thân thiện hơi hoang dã đến kì. ‘có lẽ bà ấy có khả năng mê hoặc,’ Tuppence nghĩ,’ nhưng mình chắc chúng là những mê hoặc tốt.’ cúi đầu thấp xuống chút và bước lên bậc cửa vào nhà mụ phù thủy.

      Bên trong hơi tối. Những hành lang . Bà Perry dẫn xuyên qua cái bếp vào phòng khách bên kia ràng là phòng khách của gia đình. có chi gây hứng khởi về căn nhà này cả. Tuppence nghĩ, có lẽ đó là phần gia cố thêm kiểu thời cuối Victorian cho phần chính. Bề ngang hẹp. Dường như gồm có hành lang nằm ngang, hơi tối, đáp ứng nhu cầu dãy phòng. thầm nghĩ chắc chắn việc chia đôi căn nhà là kiểu khá kì dị, khác thường.

      - Mời ngồi và tôi mang trà vào. Bà Perry .

      - Để tôi giúp bà.

      - Đừng ngại, qua 1 phút đâu. Tất cả sẵn sàng khay rồi.

      tiếng còi rít lên từ bếp. ràng thời gian tĩnh của ấm nước đến độ cuối. Bà Perry ra ngoài và hai phút sau trở lại với khay trà, dĩa bánh xcôn, hũ mứt trái cây ba tách và bốn dĩa trà.

      - Tôi cho là bị thất vọng nên mới vô nhà.

      Đó là nhận xét thông minh rất gần .

      - Ồ . Tuppence đáp.

      - Nếu tôi là tôi cũng thế. Chúng cân xứng, phải nào? Tôi muốn phía trước và sau của toà nhà cân đối. Nhưng đây là chỗ ở dễ chịu. quá nhiều phòng, nhiều ánh sáng nhưng nó tạo ra giá khác biệt rất lớn.

      - Ai phân chia ngôi nhà này và tại sao?

      - Tôi tin cách đây khá lâu rồi. Tôi cho là bất cứ ai là chủ cũng nghĩ ngôi nhà quá lớn và quá bất tiện. Chỉ cần nơi nghỉ cuối tuần hay chỗ nào đó đại loại. Vì vậy họ giữ lại những căn phòng đẹp, phòng ăn phòng vẽ và làm cái bếp bên ngoài phòng đọc sách, hai phòng ngủ và phòng tắm ở lầu, rồi xây tường bít lại và chừa lại những cái bếp những căn phòng để rửa bát đĩa đồ đạc, sửa lại chút.

      - Ai ở trong những phòng kia? kẻ vừa mới xuống vào dịp nghỉ cuối tuần?

      - Bây giờ ai sống ở đó cả. Bà Perry đáp. cái bánh xcôn nữa nhé?

      - Cám ơn.

      - Trong hai năm qua it ra cũng ai đến đây. Bây giờ tôi biết nó thuộc về ai nữa.

      - Lần đầu tiên bà đến khi nào?

      - Có quý trẻ thường xuống đây. Người ta ấy là nghệ sĩ. Ít ra đó là những gì tôi nghe được. Nhưng chúng tôi bao giờ thấy ta. Thỉnh thoảng thấy thoáng qua. thường đến lúc muộn vào mỗi tối thứ bảy sau sô diễn. Chiều chủ nhật thường xa.

      - phụ nữ hoàn toàn bí mật. Tuppence giọng khích lệ.

      - hiểu đúng cách tôi thường nghĩ về ấy. Tôi hay dựng chuyện về ta trong đầu. Đôi khi tôi nghĩ ta là Greta Grabo. biết , cách ta quanh luôn đeo kính đen còn mũ kéo xuống tận mặt. Ơn Chúa, tôi có kiếm cho mình cái mũ chóp nhọn.

      Bà ta hất cái mũ đội đầu ra rồi cười.

      - Cái này cho vở kịch chúng tôi sắp diễn tại phòng giáo xứ Sutton Chancellor. loại truyện thần tiên dành cho hầu hết trẻ em. Tôi đóng vai phù thủy. Bà thêm.

      - Ô, Tuppence , rồi nhàng lùi lại, sau đó nhanh chóng thêm, vui nhỉ.

      - Phải, vui , chứ à? Chính xác dành cho phù thủy, phải nào? Bà ta cười vỗ vào má. Tôi cố kiếm khuôn mặt hợp với vai. Hy vọng nhét ý kiến vào trong đầu người khác. Họ nghĩ rằng tôi có con mắt qủy.

      - Tôi cho họ nghĩ như vậy về bà. Tôi tin bà phù thủy được tin cậy.

      - Tôi vui nghĩ thế. Như tôi , nữ nghệ sĩ này - bây giờ tôi nhớ tên ta - tôi nghĩ tên là Marchement, hay có thể cái tên khác - tin những kiện tôi thường dựng lên về ta. , tôi khó mà thấy hay chuyện với ta. Đôi khi tôi nghĩ chính xác ta nhút nhát kinh khủng và loạn thần kinh. Những phóng viên báo chí xuống đây theo với những chuyện như thế, nhưng ta bao gìờ gặp họ. Những lúc khác tôi thường nghĩ - bảo tôi ngu - tôi thường nghĩ những chuyện hung hiểm về ấy - biết đấy, ta sợ bị Nhận Diện. Có lẽ cảnh sát tìm . Có lẽ tội phạm nào đó. Thỉnh thoảng nó kích động, tạo thành những chuyện trong đầu. Đặc biệt khi gặp nhiều người.

      - có người nào từng xuống đây với ấy hay sao?

      - Tôi chắc. Dĩ nhiên những bức vách ngăn họ dựng lên khi chia đôi căn nhà rất mỏng, thỉnh thoảng người ta nghe những giọng và những kiện như vậy. Tôi nghĩ thỉnh thoảng vào dịp nghỉ cuối tuần ta đưa xuống đây kẻ nào đó. Bà ta gật đầu. người đàn ông. Điều này giải thích vì sao họ cần nơi yên tĩnh như thế này.

      - người đàn ông có vợ. Tuppence , làm ra vẻ giả vờ quan tâm.

      - Phải, người đàn ông có vợ, phải ?

      - Có lẽ đó là người chồng đến với ta. Ông ta thuê chỗ này trong vùng quê bởi vì ông ta cần giết ta và có lẽ ông ta chôn trong vườn.

      - Trời ơi! tưởng tượng quá lớn. Tôi chưa bao giờ nghĩ như thế.

      - Tôi giả sử có Ai đó phải hiểu rất về ấy. Tôi muốn những đại lí nhà. Những người như vậy.

      - Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng tôi thích mình đừng biết hơn nếu hiểu những gì tôi muốn .

      - Vâng. Tuppence đáp, tôi hiểu chứ.

      - Ngôi nhà này có bầu khí quyển, biết . Tôi muốn cảm tưởng trong đó, cảm tưởng rằng có cái gì đó xảy ra.

      - ta có ai đến dọn dẹp nhà hay làm cái gì như thế?

      - Khó kiếm người ở đây lắm. Gần đây có ai đâu.

      Cửa ngoài bật mở. Người đàn ông to lớn vừa đào đất trong vườn bước vào. Ông ta đến chỗ rửa bát vặn vòi nước, ràng rửa tay. Rồi qua phòng khách.

      - Đây là chồng tôi. Bà Perry giới thiệu. Amos. Chúng ta có người khách, Amos. Đây là bà Beresford.

      - Ông có khỏe ? Tuppence .

      Amos Perry là người có tướng cà nhắc, cao. Ông ta to lớn và đầy quyền lực hơn Tuppence hiểu. Mặc dù có tướng cà nhắc và bước rất chậm, lão là người đàn ông to lớn vai u thịt bắp. Lão , ‘vui lòng được gặp bà, bà Beresford.’

      Giọng lão vui và lão ta cười, nhưng Tuppence trong thoáng tự hỏi lão có là cái điều gọi là ‘lành mạnh’ . Có tính chất phác đáng ngạc nhiên trong cặp mắt và cũng tự hỏi bà Perry có cần chỗ yên tĩnh để sống bởi thiếu năng lực tinh thần hiển nhiên của chồng mình .

      - Ông ấy vườn lắm. Bà Perry .

      Do việc lão vào cuộc đối thoại lắng xuống. Bà Perry gần hết nhưng cá tính của bà dường như có thay đổi. Bà trò chuyện với tính nhút nhát hơn và đặc biệt chú ý đến chồng. Tuppence nghĩ, để khuyến khích ông, trong chừng mức nào đó mà người mẹ có thể bơm cho đứa trẻ nhút nhát có thể chuyện, trình diễn mặt tốt nhất của mình ra trước người khách, mà vì hơi nhút nhát có lẽ ông ta đủ khả năng. Khi uống trà xong, Tuppence đứng lên. ’ Tôi phải . Cám ơn, bà Perry, rất cám ơn lòng hiếu khách của bà.’

      - Bà xem vườn trước khi bà chứ. Ông Perry đứng dậy. Nào, thôi. Tôi chỉ cho bà thấy.

      với lão ra ngoài và lão dẫn đến cái góc đằng xa lão đào.

      - Những cây hoa này có đẹp ? Đây có số hoa hồng lỗi thời - xem cái này, màu đỏ và trắng có sọc.

      - Commandant Bearepaire. Tuppence .

      - Chúng tôi gọi nó là’ York và Lancaster’. Chiến tranh giữa các hoa hồng. Mùi ngọt, hả?

      - Mùi thơm tuyệt vời.

      - Thơm hơn chúng là Hybrid Teas kiểu mới.

      Trong chừng mực nào đó khu vườn hơi tương xứng. Những hạt giống kiểm tra thiếu hoàn hảo, còn hoa được cột cẩn thận kiểu nghệ sĩ.

      - Những màu sáng, lão Perry . Tôi thích những màu sáng. Chúng tôi thường đem người tới coi vườn, vui mừng là đến.

      - Cám ơn ông rất nhiều. Tôi nghĩ vườn và nhà ông rất dẹp.

      - phải xem phía kia nữa.

      - Nó để vậy hay để bán? Vợ ông hỏi. Bây giờ ai ở gần đây cả.

      - Chúng tôi biết. Chúng tôi thấy ai, có biển treo và ai từng đến thăm bên đó.

      - Tôi nghĩ, đó ngôi nhà đẹp để ở.

      - cần căn nhà à?

      - Phải, Tuppence đáp, quyết định nhanh. Vâng, chúng tôi tìm quanh trong xứ chỗ , dành cho khi chồng tôi về hưu. Có lẽ năm tới, nhưng tôi thích tìm quanh đây khi còn có thời gian.

      - Nếu thích yên ở đây yên tĩnh rồi.

      - Tôi cho là vậy, tôi có thể hỏi đại lí nhà địa phương. Có phải đó là cách ông kiếm nhà?

      - Đầu tiên chúng tôi đọc thông báo báo. Rồi mới đến đại lí nhà.

      - Chỗ ấy ở đâu - trong Sutton Chacellor? Đó là làng ông, phải ?

      - Sutton Chancellor? . Những văn phòng đại lí đặt ở chợ Basing. Russell và Thompson, đó là cái tên. có thể gặp họ mà hỏi.

      - Vâng, Tuppence đáp, tôi làm. Từ đây đến chợ Basing bao xa?

      - Mất hai dặm đến chợ Basing và bảy dặm đến Sutton Chancellor. Có con lộ chính từ Sutton Chancellor còn quanh đây toàn là đường mòn.

      - Tôi hiểu. Xin tạm biệt, ông Perry, cám ơn rất nhiều cho tôi xem vườn ông.

      - Đợi chút. Lão ta cúi xuống, cắt cái hoa khổng lồ và nắm ve áo Tuppence, lão nhét qua lỗ nút áo . Đó, của đó. Trông đẹp quá.

      Trong phút Tuppence cảm thấy nỗi kinh hoàng bất ngờ. Người đàn ông cao lớn, cà nhắc, tánh nết tốt bụng này làm sợ chết khiếp. Lão ta nhìn cười. Cười khá là hoang dã, gần như đểu cáng. ‘Trông rất đẹp,’ lão lại .’ Đẹp.’

      Tuppence nghĩ.“ Ta vui ta còn là thiếu nữ... ta nghĩ ta thích lão cài bông hoa lên áo ta.” lần nữa lời tạm biệt rồi vội vã quay gót.

      Cánh cửa ngôi nhà chợt mở và Tuppence vào tạm biệt bà Perry. Bà Perry ở trong bếp, lau chùi đồ trà còn Tuppence hầu như tự động kéo tấm vải ra khỏi lò nướng bắt đầu lau khô.

      - Cám ơn nhiều. . Bà và chồng bà. Bà quá tử tế và hiếu khách đối với tôi - Cái gì kia?

      Từ nơi bức tường nhà bếp, hay đúng ra phía sau bức tường chỗ trước kia dãy bếp lò cũ đứng, vọng ra tiếng thét lớn đồng lúc với tiếng kêu quang quác và tiếng cào rạch.

      - Con quạ cổ xám đấy. Nó rơi xuống từ ống khói căn nhà bên kia. Lần nào trong năm nó cũng làm thế. Tuần qua nó rơi xuống ống khói nhà tôi. hiểu , chúng làm tổ trong ống khói.

      - Còn cái gì trong nhà kia vậy?

      - Phải, lại nó lần nữa.

      lần nữa tiếng quang quác và tiếng la của con chim lâm cảnh khốn cùng đến tai họ. Bà Perry . có ai trong ngôi nhà trống để chịu khó bỏ công ra, hiểu chứ. Những ống khói phải được chùi dọn và những thứ tương tự.

      Tiếng kêu quang quác tiếng cào cấu vẫn tiếp tục.

      - Con chim khốn khổ.

      - Tôi biết. Tôi thể đem nó lên nữa đâu.

      - Bà muốn chết ở đó à?

      - Như tôi nó bay xuống ống khói của chúng tôi. Hai con, thế. con chim non. Chúng tôi lôi nó lên và nó bay được, nó ổn rồi. Con kia chết.

      Tiếng kêu quang quác và cuộc xô đẩy cuồng dại vẫn tiếp tục.

      Ông Perry qua cánh cửa vào. Chuyện gì thế? Ông , nhìn người nọ đến người kia.

      - Có con chim, Amos. Nó hẳn kẹt trong ống khói nhà bên kia. Nghe ?

      - Ê, nó đến từ tổ con quạ cổ xám mà.

      - Tôi ước chúng ta vào đó được.

      - A, bà thể làm được gì sất. Chúng chết vì sợ, nếu có chi khác.

      - Nó bốc mùi.

      - Ơ đây nên ngửi bất cứ cái gì. mềm yếu lắm. Ông ta tiếp tục nhìn người nọ đến người kia,” giống như tất cả bọn đàn bà ”, nếu bà muốn tôi lấy nó ra.

      - Sao, có cánh cửa sổ mở à?

      - Có thể vào qua cửa lớn.

      - Cửa nào?

      - Trong sân bên ngoài này. Chìa khóa treo ở đó.

      Lão ta bước ra dọc đến cuối vườn, mở cánh cửa lớn ở đó. ra đó là nhà kho ươm cây giống, nhưng cánh cửa lớn lại dẫn vào phía nửa ngôi nhà kia và gần cửa lớn của kho ươm cây giống sáu bảy chiếc chìa khóa rỉ treo cái đinh.

      - Đây là cái chìa khớp. Lão Perry .

      Lão lấy cái chìa xuống tra vào ổ, sau khi nhiều lần phỉnh phờ gây sức ép và cưỡng bức, chìa khoả rỉ sét trong ổ.

      - Trước tôi vào đây lần, lão , khi tôi nghe tiếng nước chảy. người nào đó quên khóa vòi nước cho khớp.

      Lão vào và hai người phụ nữ theo sau. Cánh cửa dẫn vào phòng gồm những chậu bông khác nhau những cái kệ và chậu rửa chén có vòi nước.

      - phòng để hoa, tôi ngạc nhiên mà. Nơi người ta thường chuẩn bị bông. Xem nào? Có nhiều chậu ở đây.

      cánh cửa mở ra ngoài phòng để hoa. Cửa này khoá. Lão mở cửa qua. Tuppence nghĩ, giống như vào thế giới khác. Đường hành lang phía ngoài được phủ đống thảm. lối dọc theo có cánh cửa lớn khép hờ và từ đó vọng đến tiếng đập cánh của con chim khốn khổ. Perry xô cửa mở ra và vợ lão cùng Tuppence bước vào.

      Những cửa sổ khép chặt nhưng có phía cánh cửa chớp treo lủng lẳng và ánh sáng lọt vào. Mặc dù căn phòng mờ tối, vẫn có tấm thảm tuyệt đẹp sàn nhà, màu xanh lục đậm. Có cái kệ dựa vào tường nhưng có bàn ghế. Đồ đạc chắc chắn dời , những bức màn và thảm để lại như những đồ đạc cố định trao cho người thuê tiếp.

      Bà Perry về phía lò sưởi. Con chim nằm trong vỉ chắn lò vùng vẫy thốt ra những tiếng kêu quang quác lớn trong cảnh túng cùng. Bà ta cúi xuống, nhặt con chim lên và . Mở cửa sổ ra nếu ông có thể, Amos.

      Amos bước qua, kéo cửa chớp sang bên, mở khoá phía bên kia rồi đẩy mạnh chốt cửa. Ông bực bội nâng tấm cửa thấp có khung trợt lên. Ngay khi cửa mở ông Perry chồm ra ngoài thả con quạ. Nó lắc lư cỏ, nhảy nhanh vài bước.

      - Tốt hơn giết nó , nó bị thương rồi. Perry .

      - Để nó đó chút, bà vợ . bao giờ hiểu. Loài chim hồi phục rất nhanh. sợ hãi khiến chúng có vẻ như bại liệt đó thôi.

      Quả thế, vài phút sau với sức chiến đấu cuối cùng, con quạ mỏ khoang đập cánh bay .

      - Tôi chỉ hi vọng, Alice Perry , nó xuống ống khói nữa. Những sinh vật mâu thuẫn, loài chim ấy. hiểu chuyện ấy có gì hay cho chúng. Bay vào căn phòng, bao giờ chúng tự bay ra được. Ô, bà ta thêm vào, là hỗn độn.

      Bà, Tuppence và ông Perry ba người chăm chăm nhìn vào tấm vỉ chắn lò. Từ ống khói là đống mồ hóng, rác rưởi kì lạ và những viên gạch bể rớt xuống. ràng cách đây ít lâu nó được sửa chữa tồi.

      - ai đó đến sống ở đây. Bà Perry nhìn quanh.

      - ai đó phải chăm sóc ngôi nhà, Tuppence đồng ý với bà. kĩ sư xây dựng phải xem xét và làm cái gì đó hoặc toàn bộ ngôi nhà sụp đổ.

      Có lẽ nước chảy qua mái nhà vào đỉnh những căn phòng. Phải, nhìn cái trần nhà kìa, nước xuyên qua đó.

      - đáng xấu hổ. Tuppence . Làm đổ sụp căn nhà đẹp - căn phòng đẹp, phải ?

      và bà Perry cùng nhìn nhau thông cảm. Xây vào khoảng 1970 nó có tất cả sang trọng của ngôi nhà thời đó. Nó có nguyên mẫu những lá liễu in giấy dán tường màu.

      - Nó sụp đổ bây giờ đấy.

      Tuppence cời đống đổ nát vào cái rá lò.

      - Người ta nên quét nhà mới phải.

      - Bây giờ bà muốn gì khi làm phiền mình với ngôi nhà thuộc về bà? Chồng bà . Để nó yên, thưa bà. Sáng ngày mai nó lại trong tình trạng như cũ cho coi.

      Với ngón chân Tuppence chuyển động nhàng những viên gạch sang bên.

      - Ô, kêu lên tiếng nhờm tởm.

      Có hai con chim chết nằm trong lò sưởi. Bằng vẻ bên ngoài của chúng chúng chết khá lâu.

      - Cái gì đây? Tuppence hỏi.

      dùng đầu ngón chân khều vật gì đó nằm trong đống rác. Rồi cúi xuống và nhặt lên.

      - Đừng đụng vào con chim chết ấy.

      - Nó phải là con chim. cái gì khác ắt phải rơi xuống ống khói. Tôi chưa bao giờ, thêm vào, nhìn chăm chăm vật ấy. Đó là con búp bê. Con búp bê trẻ em.

      Họ nhìn xuống. Tả tơi, rách rưới, quần áo là những mảnh vụn, đầu nó thõng xuống vai, nguyên thủy hẳn là búp bê của đứa trẻ. con mắt thủy tinh rơi ra ngoài. Tuppence vẫn còn giữ nó.

      - Tôi tự hỏi, , tôi tự hỏi làm sao con búp bê lại lên ống khói được chứ. Phi thường lạ lùng quá.
      Prunus Ngọc thích bài này.

    4. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 8: Sutton chancellor

      Sau khi rời khỏi ngôi nhà bên con kênh, Tuppence lái xe dọc son đường uốn khúc hẹp đoán chắc đưa mình đến làng thuộc Sutton Chancellor. Đó là con đường cách biệt. Từ đó nhìn thấy nhà - chỉ có những cánh cổng chắn từ đó những con đường mòn đầy bùn dẫn thẳng ra cánh đồng. Xe cộ rất ít - Có xe máy kéo chạy dọc theo con đường, chiếc xe tải chở hàng với bức tranh ổ bánh khổng lồ trông thiếu tự nhiên kiêu hãnh loan báo nó mang theo niềm hoan lạc của người Mẹ. Tháp chuông nhà thờ nhìn thấy từ xa dường như hòan toàn biến mất - nhưng cuối cùng tái hoàn toàn khá gần tầm tay sau khi con đường mòn thình lình uốn khúc và vòng rất gắt quanh đai cây. Tuppence liếc nhìn đồng hồ đo tốc độ xe thấy mình chạy được hai dặm từ ngôi nhà bên con kênh.

      Đó là nhà thờ cổ quyến rũ tọa lạc trong khu sân nhà thờ khá lớn với vài cây thông đỏ đứng kề bên.

      Tuppence để xe ngoài cổng có mái che, để dành vài phút đứng ngắm nhà thờ và sân nhà thờ vây quanh. Đoạn bước tới cánh cửa lớn có vòm cung kiểu Normand nâng tay nắm nặng nề lên. Cửa khóa bước vào trong.

      Bên trong đẹp. Chắc chắn nhà thờ là nơi cũ kĩ nhưng được nhiệt tình sơn quét và chùi dọn sạch . Ngoài sân những ghế băng bằng gỗ thông có lưng dựa màu đỏ rực rỡ và những cửa sổ có kính màu xanh lục phai tàn phần nào vẻ đẹp cổ xưa nó lần sở hữu. phụ nữ trung niên trong chiếc áo choàng và váy đầm bằng vải tuýt cắm hoa trong những cái bình đồng xung quanh bục giảng kinh. Làm xong việc bàn thờ nhìn Tuppence dò hỏi đề cao cảnh giác. Tuppence bước lên lối giữa hai dãy ghế nhìn những phiến đá làm bia kỉ niệm gắn những bức tường. Trong những năm xưa hình như gia đình Warrender nào đó được giới thiệu đầy đủ nhất. Tất cả đều thuộc Tu Viện, Sutton Chancellor. Đại uý Warrender, Thiếu tá Warrender, Sarah Elizabeth Warrender, người vợ của George Warrender. phiến đá mới ghi nhận cái chết của Julia Starke( người vợ khác) của Philip Starke, cũng thuộc về tu viện, Sutton Chancellor - dường như gia đình Warrender chết sạch. ai trong gia đình họ được gợi ý hay chú ý đặc biệt cả. Tuppence lại ra bên ngoài nhà thờ lần nữa. Theo Tuppence, bên ngoài quyến rũ hơn bên trong.” Thời tiền Perp. Và Dec,” Tuppence người được nuôi dạy với những khái niệm kiến trúc Cơ đốc giáo quen thuộc cho mình nghe. đặc biệt ưa thời tiền Perp.

      Đó là ngôi nhà thờ kích thước cân xứng và nghĩ rằng có lần chắc chắn ngôi làng của Sutton Chancellor là trung tâm quan trọng của cuộc sống thôn dã khá hơn bây giờ. để xe lại đó bộ tới làng. Làng có cửa hàng bưu điện và độ chừng mười hai nóc nhà hoặc nhà tranh. hai ngôi nhà lợp mái rơm còn những nhà khác đơn giản đẹp. Có sáu trụ sở hội đồng địa phương cuối làng nhìn hơi thiếu tự nhiên. tấm bảng đồng treo cửa lớn thông báo:“ Arthur Thomse, chùi ống khói.”

      Tuppence tự hỏi có bất cứ đại diện nhà đất đáng kính nào kí hợp đồng sửa chữa ngôi nhà bên con kênh chắc chắn cần đến họ. nghĩ mình điên biết bao hỏi tên ngôi nhà.

      chậm rãi bộ trở lại phía nhà thờ, và xe, ngừng lại quan sát sân nhà thờ kĩ. thich sân nhà thờ hơn. Trong sân có rất ít mộ mới chôn. Hầu hết các bia đá kỉ niệm đều là mộ chôn thời Victorian, và thời kì trước - nửa bị hư bởi địa y và thời gian. Những hòn đá xưa rất đẹp. số đá với những tiểu thiên sứ đứng đỉnh bị để đại lên, và những vòng hoa chung quanh chúng. loanh quanh, xem nhừng lời ghi mộ chí. Lại gia đình Warrender. Mary Warrender, tuổi 47, Alice Warrender, tuổi 33, Đại tá John Warrender bị giết ở Afghanistan. Những đứa trẻ khác nhau của giòng họ Warrender - lòng thương tiếc sâu sắc - những vần thơ hùng biện đầy hi vọng tốt đẹp. hỏi mình có ai mang họ Warrender còn sống nơi đây . ràng họ thôi còn được chôn ở đây nữa. thể tìm ra bất cứ bia mộ nào muộn hơn năm 1843. Vòng quanh cây thông đỏ cao chợt thấy tu sĩ già cúi mình dãy bia mộ cũ gần bức tường sau nhà thờ. Ông đứng thẳng người lên khi Tuppence đến gần.

      - Xin chào, ông vui vẻ .

      - Xin chào. Tuppence đáp rồi thêm. Con ngắm nhà thờ.

      - Bị sụp đổ bởi thời Victorian phục hưng. Tu sĩ .

      Ông có giọng vui vẻ và nụ cười dễ mến. Ông khoảng chừng 70 nhưng Tuppence tin chắc ông chưa hoàn toàn đến tuổi đó, dầu vẻ như ông bị thấp khớp và đôi chân đứng vững.

      - Qúa nhiều tiền thời Victorian, ông buồn bã . Quá nhiều ông chủ đúc sắt. Họ là những tu sĩ, bất hạnh thay, chẳng có ý thức chi về nghệ thuật. có khiếu thẩm mỹ. có thấy cái cửa sổ hướng đông kia ? Ông ta rùng mình.

      - Vâng. Tuppence đáp. Đáng sợ .

      - Tôi thể đồng ý với nữa. Tôi là cha cố, ông thêm.

      - Con cũng nghĩ thế. Tuppence lich đáp. Cha ở đây bao lâu?

      - Mười năm. Đó là giáo xứ. Những gì của họ đều tốt. Ở đây tôi rất hạnh phúc. Họ ưa những bài thuyết giáo của tôi lắm. Ông buồn bã thêm. Tôi làm cái tốt nhất tôi có thể, nhưng tất nhiên cha thể giả vờ đại được. Ngồi xuống đây. Ông thêm vẻ hiếu khách, phẩy tay chỉ phiến bia mộ bên cạnh.

      Tuppence ngồi xuống đầy biết ơn còn cha cố ngồi tấm đá bia gần đó.

      - Cha thể chịu đựng lâu được nữa. Ông giọng xin lỗi. Cha có thể làm gì cho con hay con chỉ ngang thôi?

      - ra con chỉ ngang. Tuppence đáp. Con nghĩ con chỉ nhìn nhà thờ. Đắm mình trong xe hơi lang thang quanh những con đường hẹp.

      - Phải. Phải. Rất khó tìm ra con đường lớn quanh đây. Nhiều bảng chỉ đường bị bể, còn Hội Đồng địa phương đáng lẽ sửa chữa họ làm. Cha biết rằng việc đó vô cùng hệ trọng. chung người ta lái xe xuống những con đường mòn này thường cố tìm nơi nào khác. Họ bị dính chặt vào những đường lộ chính. Đáng sợ. Ông lại thêm. Đặc biệt đường xa lộ cao tốc. Ít nhất, cha nghĩ vậy. Tiếng ồn, tốc độ và những tay lái thiếu thận trọng. Ô, hề chú ý đến cha. Cha là người già cục cằn. Con đừng bao giờ đoán cha làm chi ở đây. Ông tiếp.

      - Con thấy cha khảo sát những bia mộ. Có thói phá hoại những công trình văn hoá nào ? Có tụi mười ba nào đập vỡ bia?

      - . Ngày nay cách suy nghĩ riêng hướng về qúa nhiều hộp điện thoại bị phá hỏng và tất cả những vật khác mà những tên phá hoại các công trình văn hoá ấy làm. Những đứa trẻ khốn khổ. Chúng biết chi về điều thiện, cha cho là thế. Đáng buồn, phải ? Rất buồn. . Nơi đây phá hoại ấy. Xét toàn thể trai tráng quanh đây tốt. À , cha chỉ tìm ngôi mộ đứa trẻ.

      Tuppence chuyển mình tấm đá bia. Mộ đứa trẻ ư?

      - Phải. người nào đó viết cho cha. Thiếu tá Waters nào đó. Ông ta hỏi coi có khả năng đứa trẻ được chôn ở đây . Tất nhiên, cha nhìn lên bảng đăng kí, nhưng có bảng ghi nào có tên ấy cả. Cũng vậy thôi, cha ra ngoài quay lại nhìn những bia mộ. Cha nghĩ, con biết đấy, người viết thư nắm cái tên sai, hay có nhầm lẫn.

      - Tên thánh là gì vậy? Tuppence hỏi.

      - Ông ta biết. Có lẽ Julia lấy tên mẹ.

      - Đứa trẻ mấy tuổi rồi?

      - Ông ta lại chắc. Toàn thể việc hơi mơ hồ, cha nghĩ người đàn ông có ý nghĩ hoàn toàn sai lạc về ngôi làng. Cha chưa bao giờ nhớ gia đình họ Water sống ở đây hay nghe đến tên họ.

      - Còn gia đình Warrender? Tuppence hỏi, trí nhớ trở về những cái tên trong nhà thờ. Nhà thờ dường như đầy những bảng đá dành cho họ và tên của họ rất nhiều những mộ chí ngoài này.

      - A, gia đình ấy bây giờ chết sạch rồi. Họ có gia sản lớn, Tu viện cũ thế kỉ 14. Nó bị cháy sạch. Cách đây trăm năm, vì thế cha nghĩ bất cứ người Warrender nào ở lại đều rời - xa mà trở về. người họ Victorian giàu có tên Starke xây ngôi nhà mới công trường. ngôi nhà rất xấu nhưng tiện nghi, người ta như thế. Rất tiện nghi. Những phòng tắm, và tất cả. Cha cho rằng điều giải thích được ấy Mới quan trọng.

      - việc hình như rất kì dị, ai đó viết thư và hỏi cha về ngôi mộ đứa trẻ. người nào đó - bà con?

      - Cha tưởng đến cha của đứa trẻ, trong những bi kịch của chiến tranh. đám cưới bị tan vỡ khì người chồng phục vụ ở hải ngoại. Người vợ trốn với tình nhân khi người chồng phục vụ ở ngoại quốc. Có đứa con, đứa con chưa bao giờ ông nhìn thấy. Bây giờ hẳn lớn bộn, nếu bé còn sống. Chắc phải cách đây hai mươi năm hay hơn thế.

      - Sau khi tìm kiếm ta phải là thời gian dài sao?

      - ràng chỉ vừa mới đây thôi ông ta hay tin Có đứa con. Mẫu tin đến với ông ta thuần tuý ngẫu nhiên. Toàn thể việc, câu chuyện lạ lùng .

      - Cái gì làm ông ấy nghĩ đứa trẻ được chôn ở đây?

      - Cha nghĩ ai đó tình cờ gặp vợ ông ta trong chiến tranh kể cho ông ta nghe rằng vợ ông ấy sống ở Sutton Chancellor. Con biết đấy, tình cờ thôi. Con gặp ai đó, người bạn hay người quen con chưa hề gặp trong nhiều năm, đôi khi họ có thể cung cấp cho con tin tức mà dù thế nào con cũng kiếm ra. Nhưng bây giờ chắc chắn ta còn ở đây - từ khi cha ở đây. Hoặc trong vùng phụ cận xa chừng nào mà cha biết được. Dĩ nhiên, Có thể người mẹ ra dưới cái tên khác. Tuy vậy, cha biết người cha thuê những cố vấn pháp luật và những đại diện điều tra, và những cái ra được, rất có thể họ có khả năng thu được kết quả sau cùng. Điều ấy cần thời gian.

      - Có Phải đó Là Đứa Trẻ Tội Nghiệp Của ? Tuppence thào.

      - Xin lỗi, con gì?

      - có gì, Tuppence đáp. Ngày nọ ai đó với con điều gì đó. “ Có Phải Đó Là Đứa trẻ Tội Nghiệp Của ?” Bất ngờ mà nghe đó là việc gây giật mình. Nhưng con biết bà già câu ấy có hiểu mình .

      - Cha hiểu. Cha hiểu. Cha cũng thường như vậy. Cha những điều mà cha hiểu ý nghĩa điều mình . là rối rắm.

      - Con hi vọng cha biết mọi việc về những người Bây Giờ họ sống ở đây chứ?

      - Chắc chắn nhiều. Vâng. Tại sao? Có phải con muốn tìm hiểu về người nào đó?

      - Con tự hỏi có bà Lancaster nào đó sống ở đây ?

      - Lancaster? . Cha nghĩ cha có nhớ lại cái tên ấy .

      - Và có ngôi nhà - hôm nay con lái xe mục đích - chủ ý đặc biệt mình định đâu, chỉ lái theo những con đường mòn -
      - Cha hiểu. Rất đẹp, những con đường mòn quanh đây. Và con có thể tìm thấy những mẫu vật hoàn toàn hiếm. Cha muốn , thực vật học ấy. Trong những bụi cây ở đây. Tại những bụi cây này ai hái hoa đâu. bao giờ chúng ta có du khách quanh đây điều đó chưa giải thích được. Ừ, thỉnh thoảng cha cũng tìm ra số mẫu vật rất quý hiếm. Vi dụ, Cranesbell đầy bụi.

      - Có ngôi nhà bên con kênh, Tuppence , từ chối bị đưa theo dấu chuyện thực vật. Gần cây cầu có mái vòm cung. Cách đây chừng hai dặm. Con tự hỏi tên nhà là gì.

      - Để cha xem nào. Cầu nhịp hình vòm cung bắt qua con kênh. A... có nhiều ngôi nhà như vậy lắm. Trại Merricol.

      - Đó phải là nông trại.

      - Cha hi vọng đó là nhà của Perry vậy - Amos và Alice Perry.

      - Chính xác. Tuppence la lên. ông và bà Perry.

      - Bà ta là người trông đập vào mắt, phải nào? Đáng chú ý, cha luôn luôn nghĩ thế. Rất đáng chú ý. Khuôn mặt thời trung cổ, con có nghĩ vậy ? Bà sắp đóng vai mụ phù thủy trong vở kịch chúng tôi dàn dựng. Con biết đấy, trường trung học trẻ em mà. Có phải bà ấy trông giống mụ phù thủy?

      - Dạ đúng. mụ phù thủy thân thiện.

      - Như lời con , tuyệt đối hợp li. Phải, mụ phù thủy thân thiện.

      - Nhưng ông ta - Phải, người bạn khốn khổ, cha cố . Tinh thần hoàn toàn bình thường - nhưng tổn hại đến ông ta.

      - Họ rất dễ thương. Họ mời con vào vì tách trà. Nhưng điều con muốn biết là Tên của ngôi nhà. Con quên hỏi họ. Họ chỉ sống trong nửa căn nhà, phải thế ?

      - Phải, phải. Trong những góc thường quen dùng như bếp cũ. Họ gọi nó là” Waterside,” cha nghĩ thế, mặc dù cha tin cái tên cũ là ‘Watermead’. cái tên khá vui, cha nghĩ vậy.

      - Phía kia của ngôi nhà thuộc về ai?

      - Toàn toàn thể ngôi nhà nguyên thủy thuộc về gia đình Bradley. Cách đây khá nhiều năm rồi. Phải, ít ra ba bốn chục năm, cha phải nghĩ thế. Rồi nó được bán, rồi bán lần nữa sau đó để trống trong nhiều năm. Khi cha tới đây nó chỉ được dùng như nơi nghỉ cuối tuần. nghệ sĩ nào đấy - Margrave, cha tin thế. ta ở đây nhiều. Chỉ thỉnh thoảng xuống. Cha bao giờ biết . bao giờ nhà thờ. Thỉnh thoảng cha thấy từ xa. xinh đẹp. con người rất đẹp.

      - Bây Giờ ngôi nhà thuộc về ai? Tuppence khăng khăng.

      - Cha có ý kiến. Có thể hãy còn thuộc về ta. Phần nhà gia đình Perry ở chỉ là nhà thuê.

      - Con nhận ra điều đó, còn phải hỏi. Ngay khi con vừa nhìn thấy, bởi vì con có bức tranh về ngôi nhà.

      - sao? Đó chắc phải là tranh của Boscombe, hay tên ông ta là Boscobel - bây giờ cha thể nhớ. cái tên như thế. người Cornish, nghệ sĩ rất nổi tiếng, cha tin thế. Bây giờ cha tưởng tượng chết rồi. Phải, thường xuống đây thường xuyên. ta thường phác hoạ tất cả khu vực quanh đây. Tại đây ta cũng vẽ sơn dầu nữa. số tranh phong cảnh rất đẹp.

      - Bức tranh đặc biệt này được tặng cho bà dì già của con chết cách đây tháng. Nó lại được bà Lancaster nào đó tặng. Đó là lí do tại sao con hỏi cha có biết tên của ngôi nhà?

      Nhưng lần nữa cha cố lắc đầu.

      - Lancaster? Lancaster. . Hình như cha nhớ cái tên. A! Nhưng có người con phải hỏi. Bligh thân mến của chúng ta. Bligh ấy rất năng động. biết tất cả về giáo xứ. điều khiển mọi việc. Hội phụ nữ, Hướng đạo sinh, Người hướng dẫn - mọi việc. Con hỏi ấy . ta rất năng động, thực rất năng động.

      Cha cố thở dài. Hoạt động của Bligh hình như làm ông lo âu.’ Nellie Bligh, trong làng họ gọi như vậy. Đôi khi những cậu con trai hát theo . Nellie Bligh. Nellie Bligh. Đó phải cái tên gốc của . Nó là cái tên như Gretrude hay Graldine gì đó.

      Bligh, người phụ nữ mặc chiếc áo choàng bằng vải tuýt Tuppence thấy trong nhà thờ, rảo bước nhanh đến gần họ, hãy còn cầm can đựng nước. Khi đến gần, chiếu tướng Tuppence với cái nhìn tò mò sâu sắc, gia tăng cước bộ và khởi cuộc chuyện trước khi đến gần họ.

      - Tôi xong việc rồi, vui vẻ tuyên bố. Hôm nay hơi có vấn đề. Ô vâng, hơi có vấn đề. Tất nhiên, cha biết đấy, thưa cha, con thường làm việc nhà thờ buổi sáng. Nhưng hôm nay có cuộc họp khấn cấp tại những phòng giáo xứ và cha tin được nó mất thời gian thế nào! Quá nhiều cuộc tranh luận. ra con nghĩ đôi khi người ta phản đối lại chỉ vì niềm vui được làm như thế. Bà Partington đặc biệt nổi cáu. Muốn mọi việc được thảo luận đầy đủ, cha biết mà, và tự hỏi như là chúng tôi có kiếm đủ giá khác biệt từ những phim khác biệt . Con muốn , toàn thể công việc dù sao là giá thấp, vài si-ling đây đó thể tạo ra khác biệt được. Và Burkenheads luôn luôn đáng tin cậy nhất. Con nghĩ, thưa cha, cha phải ngồi tấm bia mộ như thế.

      - Có lẽ, bất kính .

      - Ô , , dĩ nhiên con muốn chuyện đó Tới Bất Cứ Mức nào, thưa cha. Con muốn Hòn đá, ẩm ướt thấm qua và với chứng thấp khớp của cha - mắt lướt về phía Tuppence dò hỏi.

      - Hãy để cha giới thiệu con với Bligh. Cha cố . Đây là - đây là - cha lưỡng lự.

      - Bà Beresfold, Tuppence đáp.

      - A vâng, Bligh trả lời. Tôi thấy bà trong nhà thờ, biết có nhầm , vừa mới đây thôi, nhìn quanh khảo sát. Tôi muốn đến và chuyện với bà, gọi chú ý của bà đến hai điểm đáng lưu tâm, nhưng tôi lại vội làm cho xong việc.

      - Đúng ra tôi phải đến và giúp , Tuppence giọng ngọt ngào nhất. Nhưng điều đó ích gì, bởi vì tôi thấy biết chính xác nơi nào những bông hoa phải đến.

      - Rất dễ thương cho vậy, đó hoàn toàn là . Tôi làm việc cắm hoa nhà thờ trong - ồ tôi biết bao nhiêu năm rồi. Chúng tôi để học sinh tự làm những bình hoa dại đặc biệt cho lễ hội, dĩ nhiên mặc dù chúng chút ý kiến, tụi khốn khổ. tôi nghĩ đến Ít lời hướng dẫn, nhưng bà Peake bao giờ có bất cứ chỉ thị nào. Bà ấy quá kì dị. Bà ấy điều đó làm hỏng sáng kiến của chúng. định ở lại đây à? hỏi Tuppence.

      - Tôi định đến chợ Basing. Tuppence đáp. Có lẽ có thể chỉ cho tôi khách sạn đẹp yên tĩnh để ở lại?

      - Tôi nghĩ hiểu chuyện ấy hơi được vui. Đó chỉ là phố chợ. Nó cung cấp dịch vụ buôn bán xe hơi. Khách sạn Rồng xanh hai sao nhưng đôi khi tôi nghĩ những sao này Trong Bất Kì cách nào cũng có ý nghĩa gì hết. Tôi nghĩ tốt hơn nên đến khách sạn Con Thỏ. Yên tĩnh hơn. còn ở đây lâu ?

      - , chỉ hai ngày trong khi tôi tham quan miền phụ cận.

      - Tôi e, có chi nhiều để xem. có di tích thời cổ đại nào đáng chú ý hay cái gì như thế. Chúng tôi ở miền thuần túy thôn dã và trồng trọt. Cha cố . Nhưng thanh bình, còn phải , rất thanh bình. Như cha với con, số hoa rừng lại đáng chú ý.

      - A vâng, Tuppence đáp, con nghe và con lo hái vài mẫu trong những khoảng nghỉ khi thực ít việc săn bắn dễ chịu.

      - Thú vị lắm, Bligh . có nghĩ chuyện ổn định cuộc sống trong vùng phụ cận này ?

      - chung chúng tôi chưa xác quyết ràng ở miền phụ cận nào. Tuppence . Chúng tôi vội. Trong mười tám tháng nữa ông ấy vẫn chưa về hưu. Nhưng cũng luôn phải kiếm tìm quanh đây. Với tư cách cá nhân, cái điều tôi thích làm là ở lại trong miền phụ cận bốn năm ngày, kiếm danh sách những bất động sản thích hợp với mình và lái xe xem. Từ London xuống ngày để coi ngôi nhà đặc biệt rất mệt, tôi hiểu vậy.

      - Ô vâng, mang theo xe đến đây à?

      - Phải, Tuppence . Tôi phải kiếm đại diện nhà tại chợ Basing sáng mai. Tôi giả thiết, có nơi nào ở lại trong làng, phải ?

      - Tất nhiên, có nhà bà Copleigh, Bligh . Mùa hè bà ấy cho mọi người thuê. Khách mùa hè. Bà ấy chùi dọn đẹp đẽ. Tất cả các phòng. Dĩ nhiên, bà ta chỉ làm giường và bữa sáng và có lẽ bữa an buổi tối. Nhưng cha nghĩ bà ấy cho nhiều người thuê vào tháng tám hay tháng sáu vào thời kì sớm nhất.

      - Có lẽ con có thể và tìm hiểu vậy.

      - Bà ấy là phụ nữ có giá nhất đấy. Cha cố . Lưỡi bà thích đùa. Bà bao giờ ngừng , phút nào.

      - nhiều chuyện tầm phào và tán gẫu luôn luôn xảy ra trong những ngôi làng này. Bligh . Tôi nghĩ ý kiến hay nếu tôi giúp được bà Beresfold. Con có thể dẫn bà ấy đến bà Copleigh và chỉ xem coi có cơ hội .

      - rất tử tế.

      - Vậy chúng ta , Bligh nhanh. Chào cha. Còn tìm kiếm sao? bài thử nghiệm đáng buồn và quá khó thành công được. Con nghĩ đó là đòi hỏi vô lí Nhất.

      Tuppence lời tạm biệt cha cố và bảo vui lòng giúp ông nếu có thể.

      - Con có thể dễ dàng xử dụng hai giờ khảo sát những bia mộ khác nhau. Tuổi con mắt còn tinh lắm. Có phải cha chỉ tìm cái tên Waters?

      - . Cha cố đáp. Cha nghĩ, tuổi mới quan trọng. đứa trẻ độ chừng bảy tuổi. . Thiếu tá Waters nghĩ rằng có thể vợ ông đổi tên con và rất có thể người ta chỉ biết cái tên mới đổi ấy. Khi ông biết tên con là gì, việc càng khó thêm.

      - Tới chừng mức con có thể hiểu, toàn thể việc thể tin được. Bligh . Chưa bao giờ cha phải rằng cha làm việc như thế, thưa cha. Điều đó vô nhân đạo, gợi ý việc như thế.

      - Người bạn khốn khổ dường như rất bối rối. Lịch sử đều buồn, tới chừng nào cha có thể hiểu được. Nhưng cha giữ con.

      Khi được Bligh dẫn Tuppence nghĩ thầm việc bà Copleigh nổi tiếng nhiều quan trọng, bà khó mà nhiều hơn Blligh. dòng thác thông tin nhanh và độc tài tuôn ra từ môi .

      Túp lều của bà Copleigh chứng tỏ là nơi ở thú vị có nhiều phòng xây lưng khỏi đường làng với phía trước vườn hoa xinh xắn, bậc cửa sơn trắng và tay nắm bằng đồng đánh bóng. Hình như đối với Tuppence bà Copleigh giống như nhân vật với vẻ đáng nể bước ra từ những trang truyện của Dicken. Bà ta rất nhắn và rất tròn, vì vậy bà ta lăn về phía bạn trông giống như trái banh cao su. Cặp mắt bà ta sáng lấp lánh, mái tóc vàng hoe cuốn thành những lọn xúc xích đỉnh đầu và vẻ mạnh mẽ lạ thường. Sau khi trình diễn chút nghi ngờ đế bắt đầu với - ‘tôi thường trực. biết mà. . Chồng tôi và tôi ” khách mùa hè, đó là khác.” Ngày nay mọi người đều làm thế nếu họ có thể làm. Và phải làm, tôi tin chắc. Nhưng tháng này trong năm, chúng tôi có nhiều khách. cho đến tháng sáu. Tuy nhiên, nếu chỉ ở vài ngày và quý bà ngại điều kiện ở hơi thô , có lẽ - ’Tuppence ngại đồ đạc thô sơ và bà Copleigh, quan sát kĩ lưỡng, ngừng tiếng róc rách của dòng suối đối thoại, bảo có lẽ quý bà vui lòng lên xem phòng, và rồi đồ đạc được sắp xếp.

      Ngay lúc đó Bligh tự xé rào với ít tiếc nuối bởi vì có khả năng rút thêm nhiều thông tin cần thiết từ Tuppence mà cần. Như là bà đến từ đâu, chồng bà làm gì, bà mấy tuổi, bà có con chưa và những vấn đề đáng quan tâm khác. Nhưng ràng cuộc họp sắp chủ tọa và kinh khủng đánh liều để cho kẻ khác nắm lấy địa vị đáng thèm khát đó.

      - hoàn toàn ổn với bà Copleigh rồi, bảo đảm với Tuppence. Bà ấy săn sóc , tôi tin thế. Nào còn xe hơi của bà đâu?

      - Ô, tôi tìm nó ngay. Tupppnce đáp. Bà Copleigh cho tôi biết chỗ đậu. tôi có thể để xe bên ngoài và đây phải là con đường hẹp, phải thế ?

      - Chồng tôi có thể giúp việc đó tốt hơn. Ông ấy đậu xe trong cánh đồng cho . Chỉ vòng quanh con đường hẹp phía bên này thôi, và rồi hoàn toàn ổn. Có cái kho để hàng ông có thể đưa xe vào đó.

      cơ sở đó mọi việc được xếp đặt tử tế và Bligh vội vàng đến chỗ hẹn. Vấn đề bữa ăn tối sau đó được đặt ra.

      - Chúng tôi có gì khi quý bà đến, bà Copleigh , nhưng nếu bà hài lòng với hai quả trứng khoanh mỏng thịt nạc và có thể ít bánh mì với jambông ở nhà làm

      - Tuppence đáp điều đó tuyệt. Phòng nhưng vui mắt dễ chịu với giấy dán tường hoa hồng và giường ngủ tiện nghi và làn khí chung sạch vết nhơ.

      - Vâng, đó là loại giấy dán tường đẹp, thưa . Bà Copleigh , người dường như đồng ý với tình trạng đơn chiếc của Tuppence. Chúng tôi chọn loại giấy đó để cho bất cứ cặp vợ chồng mới cưới nào đến đây vào tuần trăng mật. Lãng mạn, nếu bà hiểu điều tôi .

      Tuppence đồng ý lãng mạn là điều rất đáng mơ ứơc trong cuộc sống.

      - Ngày nay người ta kiếm được nhiều để tiêu, những cặp mới lấy nhau ấy. phải là điều họ quen. Hầu hết những người biết đấy tiết kiệm tiền mua nhà hay làm giảm bớt những món phải trả. Hay họ bắt đầu mua sắm số đồ đạc trong khi mua trả góp và điều này làm họ còn tiền cho tuần trăng mật sang trọng hay cái gì như thế. Khỏi phải , đa số người trẻ ấy đều thận trọng. Họ cố thử hết tiền của họ.

      Bà ta rổn rảng xuống lầu và bà ta còn nhanh lúc , Tuppence nằm xuống giường và ngủ nửa giờ sau ngày mệt mỏi. Tuy nhiên, hy vọng lớn lao nhằm vào bà Copleigh, cảm thấy lần được nghỉ ngơi đầy đủ, có khả năng dẫn cuộc chuyện đến những đề mục có thể gặt hái được thành công. Tin chắc mình lắng nghe, tất cả mọi chuyện về ngôi nhà bên con kênh, ai sống ở đó, trong vùng phụ cận kẻ nào từng nổi tiếng là ma quỷ hay thiên thần, ở đó có vụ tai tiếng nào và những đề mục tương tự. Khi được giới thiệu với ông Copleigh càng được thuyết phục về điều này hơn bao giờ, người đàn ông mở miệng vừa đủ. Cuộc đối thoại của ông gồm những tiếng hự đáng , thường mang ý nghĩa xác định. Đôi khi bất đồng, trong giọng câm hơn.

      Tới chừng mức Tuppence có thể hiểu được ông ta hài lòng để vợ . Ông ta hầu như tách rời chú ý của mình, phần lớn thời gian bận rộn cho ngày kế tiếp có vẻ là phiên chợ.

    5. snowbell

      snowbell Well-Known Member

      Bài viết:
      1,358
      Được thích:
      286
      Chương 8: SUTTON CHANCELLOR (Tiếp)

      Cho đến tận lúc Tuppence có gì tốt hơn để có thể đưa ra liên hệ. Nó có thể được phân biệt bởi câu châm ngôn - ‘ muốn thông tin, có’. Bà Copleigh là vô tuyến điện hay là cái ti vi. Bà chỉ cần bấm nút là những lời lẽ tuôn ra kèm theo những cử chỉ và nhiều biểu lộ bằng nét mặt. chỉ con người bà như trái banh hơi của đứa trẻ, khuôn mặt bà cũng làm bằng cục tẩy cao su. Những con người khác nhau được bà đến hầu như sống động trong tranh biếm họa trước mắt Tuppence.

      Tuppence ăn thịt heo nguội và trứng và vài khoanh bánh mì dày phết bơ và ca ngợi món mứt quả mâm xôi ở nhà làm, món sở thích của , thành loan báo, và nhanh chóng hấp thu tốt nhất dòng suối thông tin để có thể ghi vào sổ tay sau này. Toàn cảnh quá khứ của miền này dường như giăng ra trước mặt .

      có diễn tiến theo thứ tự nào xuất điều đó làm cho việc khó khăn. Bà Copleigh nhảy từ mười lăm năm đến cách đây hai năm đến tháng qua, rồi trở lại điểm nào đó từ số hai mươi. Tất cả điều này được phân loại nhiều. Tuppence tự hỏi cuối cùng mình có gặt hái được gì .

      Nút đầu tiên bà ấn cho kết quả gì. Đó là nhắc nhở đến bà Lancaster.

      - Tôi nghĩ bà ấy đến từ đâu đó, Tuppence , chấp nhận nhiều nét mơ hồ thể qua giọng của mình. Bà ấy có bức tranh - bức tranh được vẽ rất đẹp do hoạ sĩ tôi tin từng xuống đây.

      - Bà ai thế?

      - Bà Lancaster.

      - , tôi nhớ bất cứ bà Lancaster nào trong những vùng này. Lancaster. Lancaster. người quý tộc bị tai nạn xe hơi, tôi nhớ. , đó là tôi nghĩ đến chiếc xe hơi. Đó là chiếc Lancaster. phải bà Lancaster. Cũng phải Bolton, phải ? Tôi nghĩ bây giờ ta khoảng bảy mươi tuổi. Có thể cưới ông Lancaster. ấy xa và du lịch ra ngoại quốc rồi và tôi có nghe ta cưới người khác.

      - Bức tranh bà ấy tặng dì tôi do ông Boscobel vẽ - tôi nghĩ đó là cái tên, Tuppennce . Món mứt tuyệt.

      - Giống như hầu hết mọi người đều làm, tôi cho táo vào. Mọi người như thế làm mứt đông hơn, nhưng khiến mùi hương còn.

      - Phải, tôi hoàn toàn đồng ý với bà. Nó mất hương vị.

      - Hồi này ai? Nó bắt đầu bằng chứ B nhưng tôi chưa hoàn toàn nắm bắt được.

      - Boscobel, tôi nghĩ thế.

      - Ô, tôi nhớ ông Boscowan rất . Nào hãy coi lại. Chắc phải là - ông ta xuống đây cách đây ít nhất cũng mười lăm năm. Ông ta đến liên tục trong nhiều năm . Ông thích chỗ này. Thực tế có thuê túp lều. Đó là trong những túp lều của Nông phu Hart, cái nhà ông ta giữ lại cho người làm thuê. Nhưng họ xây ngôi nhà mới. Nhà hội đồng ấy. Bốn nhà tranh đặc biệt dành cho người làm thuê.

      - Ông B là nghệ sĩ bình thường, bà Copleigh . Ông thường mặc cái áo choàng tin được. Loại vải nhung hay vải to sợi dày có sọc. Trong khủy tay áo có nhiều lỗ rách và ông mặc áo sơ mi màu xanh lục hay màu vàng. Ông ấy hả, rất thú vị.Tôi thích tranh ông ta. năm ông ấy có triển lãm. Thời gian khoảng gần lễ Giáng sinh. , dĩ nhiên , phải là vào hè cơ. Mùa đông ông ấy ở đây. Phải, rất đẹp. Nếu hiểu điều tôi , có gì gợi hứng cả. Chỉ có căn nhà với hai cái cây và hai con bò cái nhìn qua hàng rào. Nhưng tất cả đều dễ chịu yên tĩnh và những màu sắc đều đẹp. giống như số bạn trẻ ngày hôm nay.

      - Bà có nhiều nghệ sĩ xuống đây ?

      - . Ô , đừng đến chuyện đó. hai qúy bà đến đây vào mùa hè và thỉnh thoảng làm vài bức phác thảo, nhưng tôi nghĩ nhiều về họ. Cách đây năm tôi có người bạn trẻ, tự xưng là nghệ sĩ. đẽo gọt thích đáng. Tôi thể tôi thích tranh ta nhiều. Dù sao tất cả những màu sắc đều cuốn xoáy mơ hồ. thể nhận thức được chút gì. Hơn nữa ta bán nhiều tranh. Nhắc , là chúng rẻ.

      - Chắc phải năm pound. Lần đầu tiên ông Copleigh thình lình xen vào cuộc đối thoại khiến Tuppence nhảy nhổm.

      - Cái chồng tôi nghĩ là, bà Copleigh lấy lại vị trí của mình như để lí giải giùm cho chồng. Ông ấy nghĩ có tranh nào quá năm pound. Sơn dầu đắt như vậy. Đó là những gì ông muốn , phải , George?

      - A. George trả lời.

      - Ông Boscobwan sơn căn nhà bên cây cầu có mái hình cung và con kênh - Waterside hay Watermead, nó được gọi thế nào? Hôm nay tôi đến hướng đó.

      - dọc theo con đường đó sao? Nó phải là con lộ, phải nào? Rất hẹp. Ngôi nhà đơn độc, tôi luôn nghĩ thế. Quá hiu quạnh. Ông có nghĩ thế , George?

      George tạo thanh diễn tả bất đồng yếu ớt và có thể khinh bỉ nhát gan của phụ nữ.

      - Đó là nơi Alice Perry sống mà.

      Tuppence đành bỏ qua tìm kiếm tin tức ông Boscowan để tán thành với ý kiến về gia đình Perry. nhận thấy rằng, điều này tốt hơn là theo bà Copleigh người luôn nhảy từ vấn đề này sang vấn đế khác.

      - Họ là đôi kì dị.

      George làm thanh đồng ý.

      - Họ giữ bí mật cho nhau. Như , hoà trộn lẫn nhau. ta quanh trông giống như có gì đời này, Alice Perry đấy.

      - Điên. Ông Copleigh nhận xét.

      - Tôi biết tôi có thế . Bà ấy trông có vẻ điên rồi. Tóc bay tung. Hầu hết thời gian bà ấy mặc áo choàng đàn ông mang ủng cao su lớn. Bà những chuyện kì quặc và nhiều khi trả lời khi hỏi bà câu. Nhưng tôi bảo bà ấy điên. Kì quặc, chỉ thế thôi.

      - Mọi người có thích bà ta ?

      - Hầu như ai biết bà, mặc dù họ ở đây nhiều năm. Có đủ loại chuyện kể về bà ta nhưng rồi , đó luôn là những câu chuyện kể.

      - Loại chuyện nào?

      Những câu hỏi trực tiếp bao giờ khién bà Copleigh lưỡng lự, người chào đón họ như kẻ vì quá háo hức thể đáp lại.

      - Người ta , gọi những hồn ma ban đêm. Ngồi quanh bàn tròn. Và những câu chuyện về những ngọn đèn di chuyển xung quanh toà nhà buổi tối. Họ , ấy đọc nhiều sách trinh thám. Trong sách nhiều kiện được vẽ ra - những ngôi sao, những vòng tròn. Nếu hỏi tôi, đó là Amos Perry là người hoàn toàn ổn định.

      - Ông ta chỉ chấc phác thôi. Ông Copleigh dễ dãi .

      - Có thể về điều đó ông có lí. Nhưng lần có câu chuyện kể về ông ta. Thích làm vườn, nhưng nhiều.

      - Dầu vậy đó chỉ là nửa căn nhà thôi, phải ? Tuppence . Bà Perry mời tôi vào rất tử tể.

      - Bà ấy làm thế à? sao? Tôi biết tôi có thích vô cái nhà ấy nữa. Bà Copleigh .

      - Phần nhà của họ ổn rồi. Ông Copleigh đáp.

      - Còn phần kia có ổn ? Tuppence . Mặt tiền ngó ra con kênh ấy.

      - Hừm, thường có nhiều câu chuyện về nó đấy. Tất nhiên, trong nhiều năm ai ở đó. Người ta bảo có nhiều chuyện kì dị về nó. Nhiều câu chuyện được kể lại. Nhưng khi đến đó, có câu chuyện nào trong kí ức người ở đây. Cách đây lâu lắm rồi, khỏi phải . Nó được xây dựng cách đây trăm năm. Người ta kể đầu tiên có công nương tuyệt đẹp đến giữ chỗ đó, trong những người qúy tộc tại triều đình xây cho .

      - Triều đại Victoria? Tuppence hỏi với chú ý.

      - Tôi nghĩ thuộc triều đại của bà. Bà Hoàng già là người đặc biệt. , tôi là triều đại trước cơ. trong những người thuộc triều đình vua George. Vị qúy tộc này thường xuống đây thăm công nương còn những câu chuyện tiếp tục như là họ cãi nhau và ông ta đêm cắt cổ .

      - Kinh khủng quá! Họ treo cổ ông ta sao? Tuppence .

      - . Ô , có chi. Chuyện kể là, ông ta phải tẩy cái xác và xây tường bít lại phía trong lò sưởi.

      - Chôn ấy trong lò sưởi!

      - Người ta kể theo số cách, người ta bảo ấy là nứ tu và chạy trốn khỏi tu viện đó là lí do tại sao ấy bị xây tường bít lại. Người ta thường làm thế ở các tu viện.

      - Nhưng phải những nữ tu sĩ xây tường bít ta lại.

      - , . Chính ông ta làm. Người tình của , cái kẻ tóm cổ . Ông ta xây gạch quanh lò sưởi, đóng đinh tấm sắt lớn lò. Dù thế nào , bao giờ trông thấy nữa, linh hồn khốn khổ, dạo quanh trong những bộ đồ dài đẹp nhất. Tất nhiên, số người bảo rằng xa với ông ta. Ra sống tại thành phố hay trở về nơi nào khác. Người ta thường nghe những tiếng động và trông thấy những ánh đèn trong nhà, khi đêm xuống nhiều người dám đến gần.

      - Nhưng chuyện gì xảy ra sau đó? Tuppence hỏi, cảm thấy lùi lại quá xa vào triều đại Nữ Hoàng Victoria hình như hơi quá sâu vào thời quá khứ so với những gì tìm kiếm.

      - Tôi biết nhiều chuyện ở đó. nông dân tên Blodgid tiếp nhận chỗ đó khi nó được đề cập đến chuyện bán, tôi tin thế. Ông ta cũng ở lâu. Họ gọi đó là nông dân qúy tộc. Điều đó giải thích tại sao ông ta thích căn nhà, tôi cho là thế, nhưng đất nông trại quen lắm với ông, và ông ta biết giải quyết thế nào. Và thế lại bán lần nữa. Ngôi nhà bị đổi chủ quá nhiều lần - những người xây dựng luôn đến theo và sứa sang lại - những phòng tắm mới - điều mơ hồ giải thích được - có lần, cặp vợ chồng biến thành trại nuôi gà. Nhưng biết , nó có cái tên, vì may. Nhưng trước thời đại của tôi tất cả đáng kể. Tôi tin ông Boscowan có lần có ý định mua căn nhà đó. Đó là lúc ông ta vẽ ngôi nhà.

      - Khi xuống đây ông Boscowan bao nhiêu tuổi?

      - Bốn mươi, hay có thể lớn hơn chút. Trong chừng mức nào đấy đẹp trai. Tới mức hơi béo. Ông ta là người vĩ đại đối với các .

      - A, ông Copleigh . Lần này là tiếng lầm bầm báo hiệu.

      - Tất cả chúng tôi đều biết các nghệ sĩ giống nhau thế nào. Bà Copleigh , bao gồm Tuppence trong hiểu biết này. Qua Pháp nhiều lần, học cách của người Pháp, họ là thế đấy.

      - Ông ta cưới vợ ư?

      - Khi đó ông ta chưa. Khi ông ta xuống đây cơ ông ta vẫn chưa có vợ. Ông ta say mê con bà Charrington, nhưng có gì cả. Mặc dầu ta là tuyệt đẹp, nhưng quá trẻ đối với ông. ấy chưa tới hai mươi lăm tuổi.

      - Bà Charrington là ai? Lời giới thiệu những nhân vật mới này làm Tuppence cảm thấy lúng túng.

      - Mình làm cái qủy gì ở đây thế? Bất tình lình nghĩ khi những làn sóng mệt mỏi chụp lên mặt - ta chỉ lắng nghe nhiều chuyện tầm phào về mọi người, và tưởng tượng những việc như chuyện sát nhân có gì cả. Bây Giờ ta Mới hiểu - chuyện khởi khi con mèo gì xinh đẹp nhưng hết minh mẫn nhét mớ hỗn độn trong đầu hồi tưởng lại những câu chuyện về ông Boscowan này, hay kẻ nào khác giống ông ta tặng cho bà bức tranh, kể về ngôi nhà và những truyền thuyết xung quanh nó, về người nào đó bị chôn sống trong cái lò sưởi và vì lí do nào đó bà nghĩ rằng đó là đứa trẻ. Và đến đây ta bắt đầu điều tra quanh khám phá kì thú nhưng vô giá trị. Tommy bảo mình là đứa ngu, và ta hoàn toàn có lí - ta Là kẻ ngu.

      Tuppence chờ đợi bà Copleigh cắt ngang dòng thác đối thoại, để có thể đứng dậy, lời chúc ngủ ngon lịch và lên lầu ngủ.

      Bà Copleigh vẫn còn say sưa hạnh phúc.

      - Bà Charrington? Bà sống ít tại Watermead, bà và con bà. Bà Charrington là phụ nữ qúy tộc xinh đẹp. Quả phụ sĩ quan quân đội. Tôi tưởng thế. Túng tiền, mà căn nhà cho thuê giá rẻ. Làm vườn nhiều. Bà rất thích việc làm vườn. thạo việc giữ nhà cửa cho sạch , bà ấy làm được. hai lần tôi đến làm ơn cho bà, nhưng thể duy trì mãi được. Tôi phải xe đạp, mà đường hai dặm. Dọc con đường đó có xe búyt.

      - Nhưng bà ở đó có lâu ?

      - hơn hai ba năm, tôi nghĩ thế. Tôi cho rằng, bị khiếp sợ sau khi những rắc rối xảy đến. Bà cũng có những mối lo riêng về con nữa, Lillian, tôi nghĩ đó là tên .

      Tuppence uống hơi tách trà đậm nhờ nó bữa ăn được tăng cường, tìm cách chấm dứt chuyện bà Charrington trước khi tìm nghỉ ngơi.

      - Bà ấy có mối lo gì về con ? Ông Boscowan chăng?

      - , phải ông Boscowan là người gây ra nỗi lo phiền. Tôi bao giờ tin điều đó. Đó là người khác.

      - Người kháclà ai? Tuppence hỏi. người khác họ sống ở đây à?

      - Tôi nghĩ ông ta sống trong những miền này. người ta gặp ở London. biết có phải ta đến đó để học vũ ba lê ? Hay nghệ thuật? Ông Boscowan sắp xếp cho học trường nào đó ở đó. Tôi nghĩ tên là Slate.

      - Slate? Tuppence gợi ý.

      - Có thể. Loại tên đó mà. Dù sao, ấy thường đến đó và đó là cách biết ông bạn, ông ấy là ai. Bà mẹ thích chuyện ấy. Bà cấm gặp ông. Đúng như mong đợi điều ấy ích lợi chút nào. Trong chừng mức naò đó bà là phụ nữ điên. Giống như nhiều vợ của các sĩ quan quân đội thời đó. Bà ấy cho rằng các làm những gì họ được bảo làm. Trễ hơn thời gian quy định, ấy vâng lời. Sống tại Ấn độ và những miền đất này, nhưng khi đó là vấn đề của chàng trẻ tuổi đẹp trai và bạn rời mắt khỏi con , bạn thấy con làm những gì mình bảo nó. phải ta. Ông ta thỉnh thoảng thường xuống đây và họ lại gặp nhau bên ngoài.

      - Và rồi vướng vào chuyện rắc rối, phải ? Tuppence , dùng lời khéo nổi danh, hi vọng dưới hình thức đó làm tổn thương ý thức đạo đức của bà Copleigh.

      - Chắc phải là ông ta, tôi nghĩ vậy. Dẫu sao, điều ấy hiển nhiên. Tôi thấy chuyện đó kéo dài thế nào trước khi mẹ biết. ta là con người đẹp. Cao tròn lẳng và đẹp . Nhưng tôi nghĩ ấy là hạng người có thể chịu đựng mọi . ấy suy sụp, biết . thường lang thang bên ngoài như kẻ dại, lẩm bẩm mình. Nếu hỏi ông ta xử tệ với ấy, đúng thế. Đí xa và bỏ mặc ấy khi ông ta khám phá ra những gì xảy ra. Tất nhiên, người mẹ như người mẹ tìm ta chuyện với và khiến cho hiểu phận của nằm ở đâu, nhưng bà Charrington có đủ tinh thần làm điều đó. Dù sao, bà mẹ khôn ngoan, bà đem con xa. Khóa cửa nhà lại, sau đó bà dựng bảng bán nhà. Họ trở về đóng gói đồ đạc, tôi tin thế, nhưng họ bao giờ về làng hay chuyện với ai. Có số câu chuyện đồn đãi quanh đây. Tôi bao giờ biết có phần nào .

      - số cư dân dựng lên chuyện gì đó. Ông Copleigh bất ngờ .

      - Tốt, có lí đó, George. Có lẽ chúng còn là . Những chuyện như thế vẫn xảy ra. Và như , ấy đối với tôi có cái đầu ổn định lắm.

      - Chuyện gì nữa thế. Tuppence hỏi.

      - ư, tôi thích ra đâu. Từ đó là cả thời gian dài và tôi thích cái gì minh chắc. Đó là Louise của Bà Badcok kẻ gây bối rối. ấy là kẻ dối cực kì. Những chuyện ta . Bất cứ cái gì dựng nên câu chuyện hay.

      - Mà chuyện gì cơ chứ?

      - rằng con bà Charrington giết đứa trẻ rồi sau đó tự sát. Bảo rằng mẹ gần như hoá điên với nỗi buồn và bà con ấy nhốt ấy trong nhà bảo dưỡng.

      lần nữa Tuppence cảm thấy bối rối vọt lên trong đầu. cảm thấy hầu như mình lắc lư trong ghế tựa. Phải chăng bà Charrington là bà Lancaster? Đổi tên, hơi điên rồ rồi, ám ảnh bới vận mạng của con . Giọng của bà Copleigh tiếp tục ngăn lại được.

      - Tôi chưa bao giờ tin lời nào. Badcok cái gì đó. Chúng tôi chưa bao giờ lắng nghe lời đồn đãi và những câu chuyện như vậy - chúng tôi có những việc khác để lo. Chúng tôi hãy còn sợ chết khiếp, khắp vùng quê bởi vì những việc xảy ra - những việc có .

      - Tại sao? Những gì xảy ra? Tuppence hỏi, kinh ngạc trước những kiện hình như sắp xảy ra, đặt trọng tâm quanh ngôi làng nom thanh bình của Sutton Chancellor.

      - Tôi dám đọc tất cả về câu chuyện trong các báo vào thời đó. Xem nào, có thể gần hai mươi năm qua rồi. Chắc chắn có đọc về câu chuyện ấy. Tội giết trẻ em. Đầu tiên những em cỡ chín tuổi. ngày sau buổi học về nhà. Toàn thể vùng phụ cận đổ ra ngoài tìm kiếm. bé được tìm thấy tại Dingley Copse. bé bị treo cổ. Việc đó làm tôi rùng mình mỗi lần nghĩ đến. Đó là tội ác đầu tiên, rồi ba tuần sau lại tội ác nữa. Phía bên kia chợ Basing. Nhưng trong vùng phụ cận, như có thể . người đàn ông với chiếc xe có thể làm điều đó dễ dàng.

      - Và rồi những tội ác khác. Đôi khi tới tháng hay hai. Tiếp lại tội ác nữa. Từ đây quá hai dặm. Dầu thế, hầu như ngay trong làng mình.

      - có cảnh sát - có người nào biết kẻ nào gây ra sao?

      - Họ cố gắng khá vất vả rồi. Bà Copleigh đáp. Họ bắt giam giữ người đàn ông ngay sau đó. người từ phía bên kia chợ Basing. Bảo ông ta giúp cảnh sát điều tra. biết điều đó có nghĩ gì rồi. Họ nghĩ họ bắt được ta. Đầu tiên họ lừa được người rồi người khác nhưng luôn luôn sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ hay họ phải thả ta ra. Khám phá ra ta thể làm điều đó hay có trong những miền này hay ai đó cho ta chứng cớ ngoại phạm.

      - Bà biết, Liz, ông Copleigh . Có thể họ biết rất kẻ nào làm việc đó. Tôi dám cá họ Biết. Đó thường là cái hướng, hay tôi nghe thế. Cảnh sát biết người đó là ai nhưng họ có bằng chứng.

      - Đó là những người vợ, người mẹ hay thậm chí những người cha. Ngay cả cảnh sát cũng coi là hệ trọng cái điều họ có thể nghĩ ra. người mẹ ’ tối qua thằng con tôi ăn tối ở đây” hay vợ trẻ đêm hôm đó coi phim với ông ta, và suốt thời gian đó ông ở với , hay người cha ông và con trai ông ở ngoài trời trong cánh đồng xa làm việc gì đó - bạn thể làm chi để chống lại điều đó cả. Họ có thể nghĩ ông bố hay người mẹ hay tình nhân của ông ta dối, nhưng trừ phi kẻ nào đó đến và khai ta thấy gã trai hay người đàn ông hay bất kể thứ gì trong chỗ nào đó, họ thể làm gì được. Đó là giai đoạn kinh khủng. Tất cả chúng tôi quanh đây đều bồn chồn ngồi đứng yên.

      - A, đúng vậy. Ông Copleigh .

      - Khi cùng nhau tụ tập họ ra ngoài kiếm tìm. Thỉnh thoảng họ tìm thấy ngay bé và đôi khi họ tìm kiếm hàng tuần. Đôi khi ta ở khá gần nhà trong chỗ nghĩ chúng tôi chắc xem xét rồi. Tôi cho rằng chắc phải có ma thuật. khủng khiếp. Bà Copleigh giọng đạo đức, ‘ kinh khủng, có những bọn đàn ông như thế. Chúng đáng bị xử bắn. Chúng phải bị treo cổ. Và nếu người ta để tôi làm, tôi treo cổ chúng. Bất cứ bọn đàn ông nào giết và tấn công trẻ em. Cách tốt nhất là đem nhốt chúng vào nhà thương điên và đối xử chúng với dịu dàng cùng mọi tiện nghi gia đình. Rồi sớm hay muộn họ lại cho chúng ra ngoài, bảo rằng chúng được chữa trị và đưa chúng về nhà. Điều này xảy ra nơi nào đó tại Norfold. Chị tôi sống ở đó và chị kể cho tôi nghe chuyện này. trở về nhà và hai ngày sau gây vụ khác. Những ông bác sĩ này, họ điên cả rồi, vài người trong bọn họ, bảo ta được chữa lành rồi trong khi chúng chưa lành.

      - Và bà chưa có ý tưởng về ai xuống đây? Tuppence . Bà có nghĩ đó là người ngoại quốc ?

      - Với chúng tôi có lẽ là người nước ngoài. Nhưng chắc chắn phải là kẻ sống trong vùng - Ồ! Tôi tầm xe được hai dặm xung quanh. Trong ngôi làng này nó thể ở đây được.

      - Bà luôn nghĩ như vậy, Liz.

      - Ông bồn chồn ngồi đứng yên, bà Copleigh . Ông nghĩ chắc ở đây trong miền phụ cận của ông bởi vì ông sợ hãi, tôi tưởng thế. Tôi thường xem xét mọi người. Ông cũng vậy, George. Ông tự bảo mình rằng tôi ngạc nhiên nếu có thể người bạn Kia ở đây, sau cùng hình như khá kì dị. bình thường.

      - Tôi giả thiết ta có vẻ kì quái gì hết. Tuppence . Có thể trông giống hệt mọi người khác.

      - Đúng vậy, có khả năng kiếm được cái gì đó ở đây. Tôi nghe họ cái điều biết đâu, và bất kể người nào hình như chưa bao giờ mắc chứng điên khùng gì cả, còn những người khác trong mắt bọn chúng luôn luôn có những cái nhìn trừng trừng giận dữ khủng khiếp.

      - Jeffreys, ông là Trung uý cảnh sát ở đây, ông Copleigh , ông luôn thường rằng ông ta có ý kiến hay nhưng có gì để làm cả.

      - Họ bao giờ bắt gã sao?

      - . sáu tháng, gần năm. Toàn thể việc ngưng lại. Từ đó có gì xảy ra quanh đây nữa. , tôi nghĩ chắc trốn rồi. Cùng xa với nhau. Đó là cái điều làm mọi người nghĩ có thể họ biết là ai.

      - Bà muốn vì dân chúng mà rời khỏi khu vực à?

      - Tất nhiên cái ấy khiến người ta vậy, khỏi phải . Họ có thể là người nào đó.

      Tupence lưỡng lự định hỏi câu kế tiếp, nhưng cảm thấy với đam mê trò chuyện của bà Copleigh điều này cần thiết.

      - Bà nghĩ đó là ai? hỏi.

      - Cách đây khá lâu tôi khó mà muốn ra. Nhưng có những cái tên được nhắc đến. biết , đến và xem xét. số tên như có lẽ là ông Boscowan.

      - sao?

      - Phải, là nghệ sĩ, và tất cả nghệ sĩ đều kì quặc. Họ thế. Nhưng tôi nghĩ đó là ông.

      - Nhiều người là Amos Perry, ông Copleigh lại xen vào.

      - Chồng bà Perry ư?

      - Phải. Lão ấy hơi kì dị, đầu óc ngớ ngẩn. Ông ta là loại người có thể làm điều đó.

      - Gia đình Perry sống ở đây à?

      - . phải tại Watermead. Họ có túp lều cách đây chừng bốn năm dặm. Cảnh sát trông chừng họ, tôi bảo đảm.

      - thế kiếm được gì từ lão ấy đâu. Bà Copleigh . Vợ ông luôn luôn về ông. Buổi tối ở nhà với bà. Bà ấy thế, luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng đến quán rượu vào tối thứ bảy, vì vậy trong chuyện này có gì. vả lại, Alice Perry là loại người bạn tin cậy khi bà ấy cho chứng cứ. Bà ấy bao giờ giảm bớt cường độ hay chùn lại. Bạn thể sợ hãi bà ấy là người trong bọn chúng. Dù sao, Lão ấy phải là tội phạm. Tôi bao giờ nghĩ vậy. Tôi biết tôi có gì để tiếp tục nhưng tôi có cảm tưởng rằng nếu tôi phải điểm mặt chỉ tên người nào đó ra tôi phải đánh cá vào Sir Phillip.

      - Sir Phillip? Đầu Tuppence lần nữa choáng váng. nhân vật khác nữa chưa được giới thiệu. Sir Phillip. Phillip là ai? hỏi.

      - Phillip Starke - tận hưởng cuộc sống trong nhà Warrender. Thường được gọi là Cổ tu viện khi gia đình Warrender ở đó - trước khi nó cháy rụi. có thể thấy những ngôi mộ nhà Warrender trong sân nhà thờ và những tấm bảng đề tên trong nhà thờ nữa. Thực tế gia đình Warrender luôn ở đây từ thời vua James.

      - Sir Phillip Starke bà con với gia đình Warrender à?

      - . Kiếm tiền bằng những phương tiện lớn, tôi tin vậy, hay cha ông ta làm vậy. Nhà máy thép hay cái gì như thế. Phillip là loại đàn ông kì dị. Công việc đâu đó về hướng bắc, còn ông ta ở đây. Ông ta giao thiệp. Cái mà người ta gọi là phục hồi lại - phục hồi lại - cáí gì.

      - Người sống dật. Tuppence gợi ý.

      - Đó là từ tôi tìm kiếm. Ông ta xanh xao, biết , người gầy ốm đầy xương và rất thích hoa. Ông là nhà thực vật học. Thường sưu tầm các loại hoa dại như trẻ con, loại hoa nhìn đến hai lần. Ông ta thậm chí có viết cuốn sách về chúng, tôi tin thế. Vâng, ông ta thông minh, rất thông minh. Vợ ông là công nương dễ thương, và rất đẹp, nhưng trông buồn lắm. Tôi luôn luôn nghĩ thế.

      Ông Copleigh thốt tiếng hự. ‘Bà ngốc, ông . Lại nghĩ chuyện đó có thể là sir Philllip. Sir Phillip là người trẻ con. Cho chúng trứng gà - tất cả dâu tây và bữa ăn gồm trà, bánh nướng, mứt trái cây, kem đặc. Ông có con, hiểu chứ. Thường ông ta chận chúng lại trong đường hẹp và cho chúng kẹo và đồng sáu xu để mua kẹo. Nhưng tôi hiểu. Tôi nghĩ ông ta lạm dung điều đó. Ông ta là người đàn ông kì dị. Tôi nghĩ có cái gì đó sai lầm khi vợ ông bất ngờ nhanh chóng bỏ ông mà .

      - Vợ ông ta bỏ khi nào?

      - Sau tất cả chuyện rắc rối này chừng sáu tháng. Kế đó ba đứa trẻ bị giết. Phu nhân Starke thình lình xa về mìền bắc nước Pháp bao giờ trở về. Bà ấy phải là hạng người làm việc đó, thế. Bà ấy là công nương trầm tĩnh, đáng kính. có vẻ như là bà từ bỏ ông vì người đàn ông khác. , bà phải là hạng người làm được việc ấy. Thế Tại Sao bà nhanh chóng từ bỏ ông? Tôi luôn luôn bởi vì bà ấy biết cái gì đó - khám phá ra điều gì đó - Ông ta còn ở đây ?

      - thường xuyên. năm ông ta xuống đây hai lần nhưng ngôi nhà lúc nào cũng đóng cửa với quản gia. Bligh trong làng - ấy vẫn là thư kí của ông - trông coi mọi việc cho ông.

      - Và vợ ông?

      Bà ấy chết rồi, công nương tội nghiệp. Chết ngay sau khi ngoại quốc. Trong nhà thờ có tấm bảng dựng cho . Nó là điều khủng khiếp cho . Có lẽ lần đầu chắc, rồi có lẽ bắt đầu nghi ngờ chồng, rồi có lẽ tới chỗ hoàn toàn chắc chắn. thể chịu nổi điều đó và xa.

      - Những chuyện bọn đàn bà tưởng tượng ra. Ông Copleigh .

      - Tất cả điều tôi có thể là Có Cái gì Đó đúng về sir Phillip. Ông ta quá trẻ, tôi nghĩ thế, và đó phải là thiên hướng bình thường.

      - Tưởng tượng của bọn đàn bà. Ông Copleigh .

      Bà Copleigh đứng dậy và bắt đầu mang đồ đạc khỏi bàn.

      - Về giờ giấc, chồng bà , bà cho qúy bà này những ác mộng nếu bà cứ tiếp tục những câu chuyện cách đây nhiều năm.

      - Nghe rất thích thú, Tuppence . Nhưng tôi buồn ngủ quá rồi, tôi nghĩ tốt hơn mình nên ngủ bây giờ.

      - Tốt, chúng tôi thường ngủ sớm. Bà Copleigh . Và mệt sau ngày dài trải qua đấy.

      - Tôi mệt. Tôi buồn ngủ kinh khủng. Tuppence ngáp dài. Chúc ngủ ngon và cám ơn bà rất nhiều.

      - có cần tôi gọi dậy với tách trà buổi sáng ? 8 giờ đúng có quá sớm cho ?

      - , tốt thôi. Tuppence đáp. Nhưng xin đừng lo nếu việc ấy gây phiền cho bà.

      - phiền gì cả. Bà Copleigh .

      Tuppence mệt nhọc lê mình đến giường. mở va li, lấy ra vài thứ cần dùng, cởi bỏ áo quần, tắm rửa rồi thả rơi mình xuống giường. Những gì với bà Copleigh là . mệt lử. Những kiện được nghe qua trí óc như những hình người di động trong cái kính vạn hoa và tất cả những tưởng tượng khủng khiếp. Những đứa trẻ chết - quá nhiều trẻ chết. Tuppence chỉ cần đứa trẻ chết sau lò sưởi. Có lẽ cái lò sưởi phải liên can đến Waterside. Con búp bê của đứa bé. đứa trẻ bị giết bởi trẻ giận điên lên bởi người bỏ rơi lái khỏi bộ óc khá là yếu đuối của mình. Ô tôi thân mến, tôi dùng thứ ngôn ngữ là bi kịch kia. Tất cả là đống hỗn độn - bảng liệt kê theo thứ tự thời gian đảo lộn - rồi sau đó người ta thể chắc cái gì xảy tới.

      ngủ và nằm mơ. Có công nương Shalott nào đó nhìn ra ngoài cửa sổ toà nhà. Có tiếng cào rạch đến từ ống khói. Từ sau tấm chắn bằng sắt bị đóng đinh vào lò sưởi vọng lại những cú đánh. vang của chiếc rìu kêu vang rền. Clang, clang, clang. Tuppence thức giấc. Bà Copleigh cánh cửa. Bà nhanh nhẹn bước vào, đặt khay trà xuống cạnh giường Tuppence, kéo màn cửa, hi vọng Tuppence ngủ ngon. ai trông vui vẻ hơn bà Copleigh, Tuppence nghĩ, bà ta có những cơn ác mộng!
      piippPrunus Ngọc thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :