Bụi Lý Chua Máu - Arnaldur Indriđason [Trinh Thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      20

      Elínborg nhận được điện thoại của Sigurdur Óli khi vừa đến sở. với rằng Benjamín có lẽ phải là cha của đứa trẻ trong bụng vợ chưa cưới của mình, và chính điều này phá hủy cuộc hôn nhân của họ. Thêm vào đó, bố của Sólveig treo cổ tự vẫn sau khi nghe tin con mất tích chứ phải trước đó như lời Bára .

      Elínborg ghé vào Cục Thống kê Quốc gia để xem xét các giấy chứng tử trước khi lái xe đến Grafarvogur. rất ghét bị lừa dối, nhất là bởi những mụ già hợm hĩnh.

      Trong lúc Bára nghe Elínborg thuật lại những gì mà Elsa về người cha chưa danh tính của đứa con trong bụng Sólveig, khuôn mặt bà ta vẫn lạnh như tiền.

      “Bà từng nghe qua chuyện này chưa?” Elínborg hỏi.

      “Chuyện gì ? Rằng chị tôi là con điếm à? , tôi chưa bao giờ nghe thấy và tôi hiểu tại sao bây giờ lại điều đó với tôi. Sau ngần ấy năm. Tôi hiểu nổi. phải để cho hương hồn của chị tôi được yên. Chị ấy đáng bị đem ra bàn tán như thế. Cái bà… bà Elsa này nghe câu chuyện ấy từ đâu thế?”

      “Từ mẹ bà ấy,” Elínborg đáp.

      “Và bà ta lại nghe từ Benjamín?”

      “Phải. Mãi cho đến lúc lâm chung, ông ấy mới kể ra chuyện đó.”

      “Các tìm được lọn tóc của chị tôi ở nhà ông ta chưa?”

      “Chúng tôi tìm rồi, và thấy.”

      “Vậy các xét nghiệm nó cùng với bộ xương à?”

      “Đúng vậy.”

      “Và các cho rằng ông ta giết chị ấy ư? Cãi lão Benjamín, cái cục bột ấy mà dám giết vợ chưa cưới của mình ư? Tôi nghĩ chuyện đó nực cười. Quá nực cười! Tôi hiểu nổi tại sao lại tin chuyện đó.”

      Bára ngừng lại và ra chiều đăm chiêu suy nghĩ.

      “Chuyện này có bị phanh phui lên báo ?” bà ta hỏi.

      “Tôi biết,” Elínborg đáp. “Vụ bộ xương thu hút quan tâm của đông đảo người dân.”

      “Ý tôi là chuyện chị tôi bị giết ấy?”

      “Nếu đó là kết luận cuối cùng. Bà có biết ai là cha đứa trẻ ?”

      “Benjamín là người duy nhất.”

      “Liệu có người nào khác được nhắc đến ? Chị bà kể với bà về người đàn ông khác à?”

      Bára lắc đầu.

      “Chị tôi phải là con điếm.”

      Elínborg hắng giọng.

      “Bà với tôi rằng bố bà tự tử trước khi chị bà mất tích.”

      Họ đưa mắt nhìn nhau.

      “Tôi nghĩ là được rồi đấy,” Bára và đứng lên.

      “Tôi phải là người khơi ra câu chuyện về bố bà trước. Tôi kiểm tra giấy chứng tử của ông ấy ở Cục Thống kê Quốc gia. giống như số người, Cục Thống kê bao giờ dối.”

      “Tôi chẳng còn gì để với nữa,” Bára nhưng còn vẻ kiêu căng như trước nữa.

      “Tôi nghĩ bà đề cập đến bố mình trừ khi bà muốn về ông ấy. Sâu trong thâm tâm bà ấy.”

      là hết sức vớ vẩn!” bà ta thốt lên. “ đóng vai nhà tâm lý học đấy à?”

      “Ông ấy chết sáu tháng sau khi chị bà mất tích. Giấy chứng tử của ông ấy rằng ông ấy tự tử. nguyên nhân cái chết. Có lẽ dùng từ “tự vẫn” hơi xa hoa quá. Chết bất đắc kỳ tử tại nhà, giấy tờ vậy.”

      Bára xoay lưng về phía Elínborg.

      “Bà có thể cho tôi biết được ?” Elínborg và cũng đứng lên. “Bố bà có liên quan gì? Tại sao bà lại nhắc đến ông ấy? Ai khiến cho Sólveig có thai? Có phải là ông ấy ?”

      nhận được câu trả lời. yên lặng giữa hai người dường như có thể sờ thấy được. Elínborg nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang, những thứ đồ đẹp đẽ, những bức chân dung của Bára và chồng, những đồ nội thất đắt tiền, chiếc đàn piano đen bóng, bức ảnh được đặt ở vị trí nổi bật chụp Bára và người đứng đầu Đảng cấp tiến. cuộc sống trống rỗng, thầm nghĩ.

      phải mỗi gia đình đều có bí mật riêng hay sao?” cuối cùng Bára , lưng vẫn quay về phía Elínborg.

      “Tôi cũng nghĩ vậy,” Elínborg đáp.

      “Người đó phải là bố tôi,” Bára lưỡng lự . “Tôi biết tại sao mình lại dối về cái chết của ông ấy. Chuyện đó cứ tự diễn ra thôi. Nếu muốn đóng vai nhà tâm lý học, có thể rằng từ sâu thẳm tôi muốn thú nhận với tất cả mọi chuyện. Rằng tôi giữ im lặng quá lâu cho đến khi bắt đầu về Sólveig, tôi muốn trút hết tâm của mình. Tôi biết tại sao lại thế.”

      “Vậy người đó là ai?”

      “Cháu trai của bố tôi,” Bára đáp. “Con trai của bác tôi, ở Fljót. Chuyện ấy xảy ra trong lần chị tôi đến thăm nơi đó.”

      “Làm thế nào mà gia đình bà phát ra?”

      “Khi trở về, chị ấy trở nên khác hẳn. Mẹ... mẹ chúng tôi để ý ngay lập tức, và tất nhiên là chuyện đó giấu được lâu.”

      “Bà ấy có cho mẹ bà biết chuyện xảy ra ?”

      “Có. Rồi bố tôi lên miền Bắc. Tôi biết gì thêm về chuyện đó. Khi ông ấy đến nơi người cháu trai đó nước ngoài. Người dân ở đó vậy. Ông tôi quản lý trang trại rất lớn. Ông bà tôi chỉ có hai người con. Bố tôi chuyển về miền Bắc này lập nghiệp kinh doanh và trở nên giàu có. Ông là trụ cột của xã hội.”

      “Vậy chuyện gì xảy ra với người cháu trai đó?”

      “Chẳng có gì cả. Sólveig rằng nó cưỡng hiếp chị ấy. Bố mẹ tôi biết phải làm gì, họ muốn kiện tụng vì sợ dính dáng đến chính quyền và dư luận bàn ra tán vào. Sau vài năm người cháu họ đó quay về nước và định cư tại Reykjavík rồi lập gia đình. Nó chết cách đây hai mươi năm rồi.”

      “Thế còn Sólveig và đứa bé sao?”

      “Chúng tôi cầu Sólveig phá thai nhưng chị ấy từ chối. Chị ấy muốn từ bỏ đứa bé. Rồi ngày chị ấy mất tích.”

      Bára quay mặt lại đối diện Elínborg.

      có thể hiểu rằng chuyện đó hủy hoại chúng tôi, cái chuyến nghỉ hè của chị tôi đến Fljót ấy. Hủy hoại cả gia đình tôi. Chuyện đó ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ cuộc đời tôi. Chúng tôi che đậy chuyện đó lại vì lòng tự tôn và niềm kiêu hãnh của gia đình. Đó là điều cấm kỵ. Chúng tôi bao giờ được phép đến chuyện đó. Mẹ tôi đảm bảo cho điều đó xảy ra. Nhưng về sau chị tôi có lại với Benjamín và giải thích mọi chuyện với ông ấy. Điều này khiến cho ai ngó ngàng gì đến cái chết của Sólveig. Đó là việc riêng của chị ấy, có vậy thôi. Bí mật riêng của chị ấy, lựa chọn của chị ấy. Chúng tôi vẫn bình thường. Vẫn trong sạch và đáng kính. Chị ấy bị điên và tự lao mình ra biển.”

      Elínborg nhìn Bára và đột nhiên thấy thương cảm cho bà ta khi buộc phải sống với câu chuyện dối trá đó.

      “Tự chị ấy gây ra mọi chuyện,” Bára tiếp. “Chúng tôi chẳng liên can. Đó là việc của chị ấy.”

      Elínborg gật đầu.

      “Chị ấy nằm đồi đâu,” Bára . “Chị ấy nằm dưới đáy biển, trong suốt hơn hai mươi năm khủng khiếp.”

      Erlendur ngồi xuống bên cạnh Eva Lind sau khi chuyện với bác sĩ của con bé. Ông ta vẫn như trước: tình trạng của con bé vẫn có gì suy chuyển, chỉ còn biết chờ vào thời gian thôi. Ông ngồi bên giường bệnh của con, nghĩ xem nên gì với nó bây giờ, nhưng ông nghĩ ra nổi. Thời gian cứ thế trôi . Khu chăm sóc đặc biệt hoàn toàn tĩnh lặng.

      Thỉnh thoảng có bác sĩ qua cửa hoặc y tá mang giầy mềm trắng lại loẹt quẹt lớp vải lót nền.

      Cái tiếng kêu kin kít ấy.

      Erlendur nhìn con, và gần như là vô thức, giọng ông trầm xuống khi về người bị mất tích khiến ông trăn trở trong thời gian dài và có lẽ, sau ngần ấy năm, ông vẫn chưa thể hiểu được.

      Ông bắt đầu kể về cậu bé chuyển đến Reykjavík cùng bố mẹ, nhưng cậu ta luôn nhớ đến quê hương. Đứa bé đó còn quá , nó thể hiểu được tại sao nhà mình lại phải chuyển lên thành phố, mà hồi ấy Reykjavík chưa hẳn là thành phố, đó chỉ là thị trấn lớn bên bờ biển. Về sau nó nhận ra rằng quyết định đó là do nhiều nhân tố tác động.

      Ngôi nhà mới của nó khác lạ ngay từ đầu. Nó lớn lên giữa cuộc sống thôn quê mộc mạc và riêng biệt, với mùa hè ấm áp, mùa đông khắc nghiệt và những câu chuyện về những người từng sống ở khắp các miền quê. Hầu hết họ hàng của nó đều là chủ các trang trại và nghèo khổ trong nhiều thế kỷ liền. Đối với nó, họ là những người hùng. Nó nghe chuyện về họ mỗi ngày, những câu chuyện kể kể lại hết năm này qua năm khác, từ thập kỷ này sang thập kỷ khác. Những câu chuyện về những cuộc hành trình gian nan và đầy thảm họa. Những câu chuyện về cuộc sống vui nhộn khiến cho người kể phải thở lấy thở để vì cười đến mức oằn cả người và ho sặc sụa. Rồi những câu chuyện về những người mà nó biết và nó sống cùng, cũng có thể là những người từng sống ở làng quê từ thế hệ này sang thế hệ khác: các chú, các bác, các bà và các cụ bà, các ông và các cụ ông… Nó biết tất cả những người ấy, mặc dù họ chết từ lâu và được chôn cất tại khu nghĩa trang bên cạnh nhà thờ xứ đạo: các bà đỡ lội qua những dòng sông băng để giúp những người phụ nữ sinh con, những người nông dân dũng bảo vệ mùa màng qua cơn bão tàn khốc, những người tá điền chết cóng lối ra chuồng cừu, những thầy tu say xỉn, những loài ma quỷ... Những câu chuyện là phần cuộc sống của nó.

      Thằng bé mang tất cả những câu chuyện này theo mình khi theo bố mẹ lên thành phố. Họ mua nhà tắm công cộng thời chiến do quân đội xây ở vùng ngoại ô thành phố và sửa nó thành ngôi nhà bởi vì đó là tất cả những gì họ có thể mua. Cuộc sống nơi thành thị phù hợp với bố nó, ông bị suy tim và mất lâu sau khi chuyển đến đây. Mẹ nó bán ngôi nhà, mua căn hộ chật hẹp dưới tầng hầm cách xa bến cảng cho lắm, bà làm việc ở nhà máy chế biến cá. Đứa con biết phải làm gì sau khi khi học xong chương trình giáo dục phổ cập. Lao động chân tay, xây dựng các công trình hay theo các thuyền đánh cá? Cuối cùng nó nhìn thấy thông báo tuyển người vào lực lượng cảnh sát.

      Thằng bé còn được nghe những câu chuyện kể nữa, dần dần chúng phai mờ trong tâm trí nó. Tất cả những người nó biết ra , bị chôn vùi và quên lãng ở những miền quê hẻo lánh. Còn nó trôi dạt đến thành phố mà có việc để làm. Nó biết mình phải là người thành thị. biết đích xác mình là cái gì nữa. Nhưng nó chưa bao giờ thôi khao khát cuộc sống khác, nó cảm thấy mất gốc và thanh thản. Khi mẹ mất, nó cảm nhận được sợi dây liên kết duy nhất của nó với quá khứ đứt hoàn toàn.

      đến sàn nhảy. Và ở trong số những sàn nhảy đó, Glaumbaer, gặp người phụ nữ. biết nhiều người nhưng tất cả chỉ là những cuộc gặp xã giao thông thường. Nhưng người này khác, có gì đó chắc chắn hơn, và cảm thấy ấy có thể điều khiển mọi thứ. Mọi thứ xảy ra quá nhanh khiến kịp hiểu. ấy cầu làm mọi việc và hoàn thành mà cần động lực nào khác. Và trước khi kịp hiểu ra điều đó, cưới và họ có với nhau đứa con . Họ thuê căn hộ . có những kế hoạch lớn cho tương lai của họ và về việc sinh thêm con cái, mua căn hộ. nhanh với giọng điệu đầy hứng khởi như thể nhìn thấy cuộc đời mình yên ổn chứ hề gặp trắc trở nào. nhìn và chợt nhận ra mình chẳng hiểu gì về người phụ nữ này hết.

      Họ có thêm đứa con nữa và càng lúc càng nhận ra xa cách đến thế nào. Khi con họ chào đời, chỉ khá vui khi thấy mình được làm cha lần nữa và bắt đầu rằng mình muốn kết thúc tất cả những chuyện này, muốn ra . cảm nhận được điều đó. hỏi rằng có phải có người phụ nữ nào khác , nhưng chỉ nhìn chằm chằm trống rỗng mà để ý gì đến câu hỏi. chưa bao giờ suy nghĩ về câu hỏi đó. “Chắc chắn là có người đàn bà khác,” . “ phải thế,” đáp và bắt đầu giải thích với cảm giác và suy nghĩ của mình, nhưng muốn nghe. có hai đứa con của thể chuyện cách nghiêm túc về việc rời bỏ được. Rời bỏ chúng. Những đứa con của .

      Các con . Eva Lind và Sindri Snaer. Tên của những con vật nuôi mà chọn cho chúng. coi chúng là phần của mình. chút cảm nhận nào về tình phụ tử, nhưng cảm thấy mình phải có trách nhiệm và nghĩa vụ với chúng. Tuy nhiên việc đó chẳng liên quan gì đến mẹ chúng hay mối quan hệ với ta. rằng mình muốn chu cấp cho các con và ly hôn cách nhàng. thể có chuyện nhàng ở đây được, sau đó bế lấy Eva Lind và ôm chặt nó. có cảm giác dùng con cái để trói buộc mình, và điều đó càng củng cố thêm quyết định thể chung sống với người phụ nữ này được nữa. Tất cả mọi chuyện đều là sai lầm ngay từ lúc ban đầu và đáng lý ra nên làm thế này từ lâu lắm rồi. biết hồi đó mình nghĩ gì. Nhưng đến lúc này tất cả kết thúc.

      cố gắng thuyết phục để cho mình ở với các con số ngày trong tuần hoặc tháng, nhưng ta từ chối thẳng thừng và rằng nếu quyết tâm rời bỏ , bao giờ được gặp lại chúng nữa. ta quyết tâm làm điều đó.

      Rồi biến mất. Biến mất khỏi cuộc đời của đứa con bé bỏng mới lên hai tuổi. Con bé vẫn còn đeo tã lót, tay cầm hình nộm và dõi theo bố bước ra khỏi nhà. Cái hình nộm màu trắng kêu lên kin kít mỗi lần con bé cắn vào đó.

      “Chúng ta sai rồi,” Erlendur .

      Cái tiếng kêu kín kít ấy.

      Ông cúi đầu và nghĩ rằng y tá lại qua cửa lần nữa.

      “Bố biết chuyện gì xảy ra với người đàn ông đó,” Erlendur rất khó nghe. Ông nhìn mặt con , trông nó bình thản hơn bao giờ hết. Các đường nét ràng hơn. Ông nhìn những thiết bị giúp cho nó sống. Sau đó ông lại nhìn xuống sàn nhà. lúc lâu như thế trôi qua cho đến lúc ông đứng lên, cúi xuống và hôn lên trán con .

      “Ông ta biến mất và bố nghĩ ông ta mất tích rồi, mất tích lâu rồi. Bố biết ông ta có thể được tìm thấy . Đó phải là lỗi của con. Chuyện đó xảy ra trước khi con ra đời. Bố nghĩ người đó tìm lại chính mình, nhưng ông ta biết tại sao hay đích xác là mình tìm kiếm cái gì, và ràng là ông ta bao giờ tìm thấy nó.”

      Erlendur nhìn xuống Eva Lind.

      “Trừ khi con giúp ông ta.”

      Khuôn mặt con bé trông giống như cái mặt nạ lạnh giá trong ánh đèn tỏa ra từ chiếc đèn để bàn gần giường nó nằm.

      “Bố biết con tìm ông và bố biết rằng nếu có ai đó có thể tìm thấy ông ta người đó chính là con.”

      Ông quay người, chuẩn bị bước nhìn thấy vợ cũ đứng ngoài cửa. Ông biết bà ta đứng đó được bao lâu rồi, biết bà ta nghe được những gì từ câu chuyện ông với Eva Lind. Bà ta vẫn mặc áo khoác màu nâu như lần trước, bên trong mặc bộ quần áo tập chạy bộ, nhưng lần này thêm đôi giày cao gót khiến bà ta trông lố bịch. Erlendur rất ít khi nhìn thấy vợ cũ trong hơn hai mươi năm, và ông thấy bà ta già đến thế nào sau ngần ấy thời gian. Gương mặt bà ta mất những đường nét sắc sảo, hai má phính ra còn cằm bắt đầu chẻ làm đôi.

      “Bà dối Eva Lind cách trắng trợn về việc phá thai,” Erlendur rít lên đầy giận dữ.

      “Để tôi yên,” Halldóra . Giọng bà ta cũng già nữa, bây giờ nó trở nên khàn khàn vì hút thuốc quá nhiều.

      “Bà còn dối các con những chuyện gì nữa?”

      “Cút ,” Halldóra và đứng tránh sang bên để ông có thể qua.

      “Halldóra…”

      “Biến ngay,” bà ta nhắc lại. “ , để cho tôi yên.”

      “Chúng ta đều muốn có con.”

      “Ông hối hận sao?” bà .

      Erlendur đáp.

      “Ông nghĩ rằng chúng có nhiệm vụ phải ra đời à?”

      “Chuyện gì xảy ra?” Erlendur hỏi. “Chuyện gì khiến bà trở nên như thế này?”

      “Cút ,” bà ta . “Ông bỏ giỏi lắm cơ mà? Vậy ! Để tôi được yên bên con bé.”

      Erlendur nhìn bà chằm chằm.

      “Halldóra...”

      ngay, tôi rồi đấy.” Bà ta to hơn. “ ngay khỏi đây. Ngay bây giờ. ! Tôi muốn ông quanh quẩn ở đây! Tôi bao giờ muốn nhìn thấy bản mặt của ông nữa!”

      Erlendur qua bà ta ra khỏi phòng, rồi bà ta đóng cửa lại sau lưng ông.


      21

      Tối đó, Sigurdur Óli hoàn tất công việc tìm kiếm trong tầng hầm mà chẳng phát thêm được điều gì về những người thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín đồi. quan tâm. chỉ thấy sung sướng khi được thoát ra khỏi đó. Khi về đến nhà, Bergthóra chờ . mua ít rượu vang đỏ và nhấm nháp nó trong bếp. lấy ra cái cốc khác và đưa nó cho .

      giống Erlendur,” Sigurdur Óli . “Đừng bao giờ bất kỳ điều gì tồi tệ như thế về .”

      “Nhưng muốn giống ông ta,” Bergthóra . nấu mì và đốt nến trong phòng ăn. “ khung cảnh đẹp cho buổi hành hình,” Sigurdur Óli thầm nghĩ.

      “Đàn ông nào chẳng muốn giống ông ta,” Bergthóra .

      “Nào nào, sao em lại thế?”

      “Để mặc cho mình tự làm những gì mình thích.”

      phải thế đâu. Em thể hình dung được là Erlendur sống cuộc sống đáng thương như thế nào đâu.”

      “Ít nhất là em muốn làm mối quan hệ của chúng ta,” Bergthóra trong lúc rót rượu vào cốc của Sigurdur Óli.

      “Được, chúng ta hãy cùng làm mối quan hệ giữa em và .” Sigurdur Óli chưa bao giờ gặp người phụ nữ nào thực tế hơn Bergthóra. Cuộc chuyện này đề cập gì đến tình trong cuộc sống của họ.

      “Chúng ta ở cùng nhau đến nay là, xem nào, ba, bốn năm rồi, và chẳng có chuyện gì xảy ra cả. nhăn mặt lại mỗi khi em nhắc đến bất cứ điều gì có dính dáng đến trách nhiệm. Chúng ta vẫn độc lập về tài chính. đám cưới ở nhà thờ là điều tưởng; em biết có còn kiểu nào khác nữa . Chúng ta vẫn chưa đăng ký sống thử. Việc có con với xa vời giống như thiên hà xa lơ xa lắc vậy. Thế nên câu hỏi của em là: Giữa chúng ta còn lại gì?”

      Trong lời của Bergthóra có dấu hiệu nào cho thấy giận dữ. Cho đến lúc này, vẫn chỉ cố gắng hiểu mối quan hệ của họ và băn khoăn nó tiến đến đâu. Sigurdur Óli quyết định tận dụng điều này trước khi vấn đề trở nên khó kiểm soát. có rất nhiều thời gian để nghiền ngẫm những câu hỏi đó trong lúc làm công việc chán nản ở tầng hầm của Benjamín.

      “Điều còn lại là hai chúng ta,” Sigurdur Óli . “Hai chúng ta.”

      tìm đĩa CD, đặt nó vào đầu quay và chọn bài hát ám ảnh từ khi Bergthóra gây sức ép về trách nhiệm với . Tên bài hát có tựa đề Lòng chung thủy của Marianne, thể bởi Lucy Jordan, về người nội trợ mơ đến việc lái xe thể thao vòng quanh Paris với làn gió lạnh lùa vào mái tóc.

      “Chúng ta về chuyện này đủ lâu rồi,” Sigudur Óli .

      “Sao cơ?” Bergthóra .

      “Cuộc du ngoạn của chúng ta.”

      “Ý là đến Pháp ư?”

      “Phải.”

      “Sigurdur…”

      “Chúng mình Paris và thuê chiếc xe thể thao thôi,” Sigurdur Óli .

      ***

      Erlendur bị cuốn vào cơn bão tuyết xoáy kinh hoàng. Tuyết phủ lên người ông và tấp vào mặt ông, hơi lạnh và bóng tối trói chặt lấy ông. Ông cố chống cự lại cơn bão nhưng làm được, vì thế ông quay lưng lại luồng gió và cúi mình khi tuyết lại phủ kín người ông. Ông biết rằng mình chết và thể làm được gì hết.

      Chuông điện thoại vẫn cứ tiếp tục réo, nó đâm thủng cơn bão tuyết cho đến khi cơn bão gào rú bỗng trở nên yên lặng, ông tỉnh dậy và nhận thấy mình nằm chiếc ghế trong nhà. bàn, chiếc điện thoại réo càng lúc càng nhẫn tâm.

      Erlendur khó nhọc lết đến chỗ cái bàn, định nhấc ống nghe lên tiếng chuông dừng lại. Ông đứng bên điện thoại, chờ cho nó reo lần nữa nhưng chẳng có gì cả. Nó quá cũ rồi, hiển thị số của người gọi được nên Erlendur biết ai liên lạc với mình. Ông tưởng tượng ra người tiếp thị qua điện thoại cố bán chiếc máy hút bụi với lò nướng bên trong cho tiện sử dụng. Ông thầm cảm ơn người nhân viên tiếp thị đó kéo ông ra khỏi cơn bão tuyết.

      Ông vào bếp. Lúc đó là tám giờ tối. Ông cố xua ánh sáng của buổi tối mùa xuân ra khỏi nhà bằng cách kéo rèm nhưng nó vẫn cố len qua. Những tia nắng mặt trời mang theo vô số bụi bẩn chiếu sáng ngôi nhà tối tăm ảm đạm. Mùa xuân và mùa hè phải là thời gian ưa thích của ông. Chúng quá sáng. Quá phù phiếm. Ông thích mùa đông nặng nề và tăm tối. tìm được thứ gì để ăn, ông ngồi xuống cạnh bàn, tay chống cằm.

      Ông vẫn còn choáng váng vì cơn ác mộng. Sau khi rời viện về nhà lúc khoảng sáu giờ, ông ngồi xuống ghế, ngủ gật và lơ mơ đến tận tám giờ. Ông nghĩ đến trận bão tuyết trong giấc mơ, về việc chống lại nó và chờ chết. Ông thường gặp giấc mơ này nhưng theo những kiểu khác nhau. Tuy nhiên lúc nào cũng có trận bão tuyết dữ dội và rét buốt đến thấu xương. Ông biết rằng giấc mơ đó tiếp tục nếu như có tiếng chuông điện thoại phá vỡ giấc ngủ của mình.

      Chuông điện thoại lại vang lên, Erlendur biết có nên lờ nó . Cuối cùng ông đứng xổ lên, ra phòng khách và nhấc ống nghe.

      “Erlendur phải ?”

      “Phải,” Erlendur đáp và hắng giọng. Ông nhận ra giọng người gọi ngay lập tức.

      “Tôi là Jim ở Đại sứ quán đây. Tha lỗi cho tôi vì gọi số máy bàn của ông.”

      “Lúc ban nãy ông vừa gọi cho tôi phải ?”

      “Ban nãy ư? , chỉ cuộc gọi này thôi. Tôi chuyện với Ed và tôi nghĩ tôi cần phải liên lạc với ông.”

      “Thế à? Có gì mới ?”

      “Ông ấy điều tra vụ việc đó cho ông và tôi muốn báo cho ông tin đó. Ông ấy gọi sang Mỹ, xem lại cuốn nhật ký của mình và chuyện với nhiều người, và ông ấy cho rằng mình biết ai tố cáo vụ ăn cắp ở doanh trại.”

      “Người đó là ai?”

      “Ông ấy . Ed nhờ tôi cho ông biết và rằng chờ điện thoại của ông.”

      “Tối nay ư?”

      “Phải, à , buổi sáng ấy. Để sáng mai tốt hơn. Ông ấy ngủ rồi. Ed thường ngủ sớm.”

      “Đó là người Iceland à? Ai chỉ điểm họ nhỉ?”

      “Ông ấy cho ông biết. Chúc ông ngủ ngon, và tôi xin lỗi vì làm phiền ông.”

      Erlendur vẫn còn đứng bên cạnh điện thoại nó lại reo lên. Người gọi là Skarphédinn. Ông ta đồi.

      “Chúng tôi đào đến bộ xương vào ngày mai.” Skarphédinn úp mở.

      “Cũng đến lúc rồi,” Erlendur . “Lúc nãy ông vừa gọi cho tôi phải ?”

      . Ông vừa về đến nhà à?”

      “Phải,” Erlendur dối. “Ông tìm ra điều gì hữu ích đó chưa?”

      “Chưa, chưa có gì. Tôi chỉ muốn với ông là… xin chào, xin chào, ừm, hãy để tôi giúp bà, bà nhé… ờ, xin lỗi, chúng ta đến đâu rồi nhỉ?”

      “Ông rằng các ông đào đến chỗ bộ xương vào ngày mai.”

      “Phải, khoảng chiều tối gì đó, tôi hy vọng vậy. Chúng tôi vẫn chưa tìm ra đầu mối nào để xác minh cách người ta chôn bộ xương ở đó. Có lẽ chúng tôi tìm ra điều gì đó bên dưới.”

      “Hẹn gặp lại ông ngày mai.”

      “Tạm biệt.”

      Erlendur đặt điện thoại xuống, ông vẫn chưa hoàn toàn tỉnh táo. Ông nghĩ đến Eva Lind và thắc mắc biết có chuyện gì ông lọt vào tai con bé . Ông nghĩ đến Halldóra và căm thù mà bà ta vẫn dành cho mình sau chừng ấy năm qua. Rồi ông suy ngẫm cả triệu lần về việc cuộc sống của họ như thế nào nếu ông quyết định ra . Nhưng chưa bao giờ ông tìm được câu trả lời.

      Ông nhìn đích xác vào vật gì. tia nắng hiếm hoi buổi tối lọt qua rèm cửa phòng khách, rạch vết cắt vào bóng tối ảm đạm vây quanh ông. Erlendur nhìn vào những tấm rèm cửa. Chúng được làm bằng vải nhung kẻ dày, rủ thẳng xuống dưới sàn. Những tấm rèm cửa dày, màu xanh lục, để xua ánh sáng ban đêm của mùa xuân.

      Xin chào.

      Xin chào.

      Hãy để tôi giúp bà.

      Erlendur nhìn chăm chú vào màu xanh lục của tấm rèm cửa.

      Méo mó.

      Màu xanh lục.

      “Skarphédinn …?” Erlendur đứng phắt dậy và vồ lấy điện thoại. nhớ số di động của Skarphédinn, ông liều mạng gọi cho tổng đài tư vấn. Sau đó ông gọi cho nhà khảo cổ.

      “Skarphédinn! Skarphédinn!” Tiếng ông om sòm qua điện thoại.

      “Gì thế? Lại là ông à?”

      “Ông vừa ‘xin chào’ với ai? Ông vừa mới giúp ai cơ?”

      “Sao cơ?”

      “Lúc vừa rồi ông chuyện với ai thế?”

      “Tại sao ông lại kích động đến vậy?”

      “Lúc đó ai ở đó cùng ông?”

      “Ý ông là tôi chào ai ấy à?”

      “Đây phải là cuộc điện thoại truyền hình. Tôi thể nhìn thấy ông đồi được. Tôi nghe ông có ‘xin chào’ với ai đó. Có ai ở đó với ông thế?”

      phải với tôi. Bà ta đâu đó, chờ chút, bà ta đứng ở chỗ bụi cây.”

      “Bụi cây ư? Ý ông là mấy bụi cây lý chua ư? Bà ấy đứng chỗ mấy bụi cây lý chua à?”

      “Phải.”

      “Trông bà ta như thế nào?”

      “Bà ta… ông biết bà ta à? hốt hoảng này là gì thế?”

      “Trông bà ta như thế nào?” Erlendur nhắc lại, cố gắng giữ bình tĩnh.

      “Bình tĩnh nào.”

      “Bà ta bao nhiêu tuổi?”

      “Khoảng tầm bảy mươi gì đó. , có vẻ như tầm tám mươi đúng hơn. Khó lắm.”

      “Bà ta mặc đồ gì?”

      “Bà ta mặc áo khoác dài màu xanh lục, dài chấm gót. quý bà cao ngang tôi. Bà ta bị què.”

      “Bị què như thế nào cơ?”

      “Bà ta khập khiễng. Thực ra là hơn thế. Bà ta có vẻ như... tôi biết nữa...”

      “Sao cơ?! Sao! Ông định gì cơ?”

      “Tôi biết phải mô tả bà ta thế nào nữa… Tôi… cứ như bà ta bị... hơn cả khập khiễng vậy.”

      Erlendur ném điện thoại xuống và lao ra ngoài, quên nhắc Skarphédinn giữ bà ta lại bằng mọi giá.

      ***

      Ngày Grímur về nhà, Dave đến nhà họ mấy ngày liền.

      Mùa thu đến với đợt gió phương Bắc lạnh buốt tràn về kéo theo lớp tuyết mỏng phủ mặt đất. Ngọn đồi cao hơn mực nước biển khá nhiều nên mùa đông đến đây sớm hơn so với những vùng đất thấp của Reykjavík. Símon và Tómas bắt xe bus của trường đến Reykjavík vào buổi sáng và trở về vào buổi tối. Hàng ngày, mẹ chúng bộ đến Gufunes, nơi chăm sóc bò sữa và làm các công việc nông trại thông thường khác. trước các con nhưng luôn luôn trở về trước chúng. Mikkelína ở nhà cả ngày, hết sức buồn khổ vì đơn. Mỗi khi mẹ về đến nhà, nó giấu nổi niềm vui sướng, và hân hoan của nó còn tăng lên gấp bội khi Símon và Tómas lao vào nhà và ném cặp sách vào góc.

      Dave là vị khách thường xuyên ghé thăm nhà họ. Mẹ chúng và Dave càng lúc càng hiểu nhau dễ dàng hơn, và họ thường ngồi chuyện với nhau rất lâu ở bàn ăn. Họ muốn hai thằng con trai và Mikkelína để họ được ở riêng với nhau. Thỉnh thoảng, khi họ muốn bị quấy rầy cách tuyệt đối, họ vào phòng ngủ và đóng cửa lại.

      Có đôi lần Símon thấy Dave vuốt má mẹ nó hoặc vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trước mặt mẹ. Hoặc ta vuốt tay mẹ. Họ bộ cùng nhau rất lâu quanh hồ Reynisvatn và lên những ngọn đồi xung quanh đó, có số lần họ còn đến tận Mosfellsdalur và Helgufoss. Họ mang theo đồ ăn cùng vì chuyến chơi như vậy phải mất cả ngày trời. Đôi khi họ đưa lũ trẻ theo, và Dave cõng Mikkelína lưng mà tốn chút sức lực nào. Símon và Tómas rất ngạc nhiên khi thấy Dave gọi chuyến chơi của họ là “picnic”. Chúng bập bẹ với nhau: pic-nic, pic-nic, pic-nic.

      Đôi khi Dave và mẹ chúng ngồi chuyện rất nghiêm túc, trong những chuyến picnic của họ hoặc bên bàn ăn, và trong phòng ngủ trong lần Símon mở cửa. Họ ngồi mép giường, Dave cầm tay mẹ, họ nhìn ra cửa và mỉm cười với Símon. Nó biết họ về chuyện gì, nhưng nó biết chuyện đó dễ chịu gì, bởi vì nó thấy khuôn mặt mẹ khi bà cảm thấy vui.

      Và sau đó, vào ngày mùa đông lạnh giá, tất cả mọi chuyện chấm dứt.

      Grímur quay trở về vào sáng sớm khi mẹ chúng đến nông trại còn Símon và Tómas đường bắt xe bus. đồi trời lạnh thấu xương. Hai em nó gặp Grímur khi bộ về nhà. Grímur quấn chặt cái áo khoác rách tả tơi vào người để giữ ấm trong cơn gió lạnh. lờ chúng . Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sớm mùa đông, chúng nhìn mặt bố, nhưng Símon vẫn hình dung ra khuôn mặt lạnh lùng, khắc nghiệt của ông ta khi về nhà. Hai đứa chờ ông ta về mấy ngày nay. Mẹ chúng rằng Grímur được ra tù sau thời gian thụ án và ông ta quay trở về đồi cùng họ. Họ phải sẵn sàng đón ông ta về bất cứ lúc nào.

      Símon và Tómas dõi theo Grímur bước về phía ngôi nhà và nhìn nhau. Cả hai đứa nó đều nghĩ như nhau. Mikkelína ở nhà mình. Chị nó luôn luôn tỉnh giấc mỗi khi mẹ và hai em thức dậy, nhưng sau đó lại ngủ đến hết buổi sáng. Mikkelína phải đón Grímur mình. Símon cố gắng đoán phản ứng của Grímur khi thấy mẹ chúng ở nhà, cả hai em nó cũng thế, chỉ có Mikkelína, người mà ông ta luôn luôn căm ghét.

      Xe bus của trường đến và bóp còi hai lần. Mặc dù người lái xe nhìn thấy hai cậu bé đồi, nhưng khi thể chờ chúng thêm được nữa, ông ta lái và chiếc xe lại biến mất dưới con đường. Chúng đứng bất động, nhìn nhau, lời nào, sau đó từ từ về nhà.

      Chúng muốn để Mikkelína ở nhà mình.

      Símon nghĩ đến việc đuổi theo mẹ hoặc bảo Tómas tìm mẹ về, nhưng nó lại tự nhủ rằng vội gì để cho họ phải gặp nhau, mẹ chúng có thể chỉ còn ngày bình yên này nữa thôi. Hai đứa trẻ nhìn Grímur bước vào nhà và đóng cửa lại, sau đó chúng chạy hộc tốc về nhà. Chúng biết ở đó xảy ra chuyện gì. Tất cả những gì mà chúng nghĩ là Mikkelína ngủ chiếc giường đôi – nơi chị nó được phép bị nhìn thấy trong bất cứ hoàn cảnh nào.

      Cẩn thận mở cửa, chúng rón rén bước vào nhà: Símon trước, Tómas theo sát đằng sau, nắm lấy tay . Khi bước vào bếp, chúng thấy Grímur đứng ở bàn nấu ăn. quay lưng lại phía hai đứa bé. khịt mũi và khạc đờm vào bồn rửa. bật đèn bàn khiến hai em nó chỉ trông thấy hình dạng cái đèn.

      “Mẹ chúng mày đâu?” , lưng vẫn quay về phía bọn trẻ.

      Símon nghĩ rằng để ý đến hai em nó đường lên đồi và nghe thấy tiếng chúng vào nhà.

      “Mẹ làm,” Símon đáp.

      làm á? Làm ở đâu?” Grímur hỏi.

      “Ở cơ sở sản xuất sữa Gufunes,” Símon đáp.

      “Nó biết là hôm nay tao về à?” Grímur quay mặt về phía chúng và bước ra ánh sáng. Hai em nó nhìn chằm chằm vào khi ra từ bóng tối. Mắt chúng mở to thô lố khi nhìn thấy khuôn mặt Grímur dưới ánh sáng mờ mờ. Có chuyện gì đó xảy ra với . Dọc bên má của vết bỏng kéo dài đến mắt. Cái mắt đó khép lại nửa vì mí mắt dính liền vào da.

      Grímur cười.

      “Trông Bố đẹp trai à?”

      Hai em nó nhìn chằm chằm vào khuôn mặt biến dạng của .

      “Đầu tiên chúng pha cà phê cho mày, rồi sau đó chúng hất cà phê vào mặt mày.”

      tiến gần hơn đến hai đứa bé.

      phải bởi vì chúng muốn mày thú tội. Chúng biết cả rồi, bởi vì có ai đó cho chúng biết. Đó phải là lý do chúng hất cà phê vào mặt mày. Đó phải là lý do chúng phá hủy cái bản mặt của mày.”

      Hai thằng bé hiểu chuyện gì xảy ra.

      tìm mẹ chúng mày ngay,” Grímur quát lên. nhìn Tómas lúc này đứng rúm ró sau lưng . “ đến cửa hàng bán sữa chó chết đó và mang con bò ngu ngốc về đây cho tao.”

      Nhìn qua khóe mắt, Símon thấy có chuyển động trong phòng ngủ, nhưng cả đời nó cũng dám nhìn vào bên trong. Mikkelína rời khỏi giường. Con bé có thể đứng bằng chân và có thể tự mình lại, nhưng nó dám vào bếp.

      “Cút!” Grímur quát. “Ngay lập tức!”

      Tómas nhảy dựng lên. Símon biết em nó có tìm được đường . Tómas đến nông trại đó hai lần cùng với mẹ vào mùa hè, nhưng lúc này ngoài trời tối và rét hơn, còn Tómas vẫn là đứa trẻ.

      “Con ,” Símon .

      “Mày được phép nửa bước,” Grímur gầm gừ.

      “Cút nhanh!” quát Tómas. Thằng bé mở cửa bước ra ngoài trời lạnh lẽo và cẩn thận đóng cửa lại.

      “Nào, Símon, con trai bố, lại đây ngồi xuống với bố nào,” Grímur . Cơn giận dữ của dường như đột ngột tan biến.

      Símon dò dẫm bước vào bếp và ngồi lên ghế. Nó lại nhìn thấy chuyển động trong phòng ngủ. Nó hy vọng Mikkelína bước ra ngoài. Có cái chạn thức ăn ở hành lang, nó nghĩ chị nó có thể trốn vào trong đó mà bị Grímur để ý.

      “Con nhớ người bố già cả của con à?” Grímur trong lúc ngồi xuống đối diện với nó. Símon thể rời mắt ra khỏi vết bỏng mặt . Nó gật đầu.

      “Cả mùa hè vừa rồi mọi người làm những việc gì?” Grímur hỏi, và Símon nhìn chằm chằm vào lời nào. Nó biết phải bắt đầu dối như thế nào. Nó thể với ông ta về Dave, về những cuộc viếng thăm của ta và những cuộc gặp gỡ bí mật với mẹ, những chuyến chơi, những cuộc picnic. Nó thể rằng mấy mẹ con nó đều ngủ chiếc giường lớn cùng nhau, lúc nào cũng thế. Nó thể về việc mẹ nó trở thành người hoàn toàn khác đến thế nào kể từ khi Grímur , tất cả là nhờ Dave. Dave mang lại cho mẹ niềm vui sống. Nó thể cho biết việc mẹ nó trang điểm vào buổi sáng. Về vẻ bề ngoài thay đổi của bà. Về chuyện bà trở nên xinh đẹp hơn sau mỗi ngày ở cùng Dave.

      “Sao, có gì à?” Grímur . “Cả mùa hè mà có chuyện gì xảy ra à?”

      “Thời… thời… thời tiết rất đẹp,” Símon lắp bắp, mắt nó vẫn dán chặt vào vết bỏng.

      “Thời tiết đẹp. Thời tiết rất đẹp,” Grímur gật gù. “Và con chơi ở gần khu doanh trại. Con có biết ai ở đó ?”

      ,” Símon buột ra. “ có ai cả.”

      Grímur mỉm cười.

      “Mùa hè vừa rồi con học được cách dối rồi đấy. Thử tưởng tượng xem người ta có thể học cách dối nhanh đến thế nào. Símon, mùa hè vừa rồi con có học cách dối ?”

      Môi dưới của Símon bắt đầu run lên. Nó thể nào kiểm soát được.

      “Chỉ có người thôi,” nó đáp. “Nhưng con biết chú ấy lắm.”

      “Con biết người. Tốt, tốt. Con bao giờ được dối, Símon ạ. Những người như con mà dối chỉ chuốc lấy rắc rối mà thôi, và còn gây cả rắc rối cho người khác nữa đấy.”

      “Vâng ạ,” Símon , hy vọng chuyện này sớm kết thúc. Nó hy vọng Mikkelína ra và quấy rầy họ. Nó băn khoăn biết có nên cho Grímur biết rằng Mikkelína ở hành lang và ngủ giường của ông ta .

      “Con biết ai ở doanh trại ??” Grímur , và Símon có thể cảm thấy mình dần dần chìm sâu hơn vào vũng lầy.

      “Chỉ có người thôi,” nó đáp.

      “Chỉ có người thôi,” Grímur nhắc lại, vuốt má và lấy ngón tay trỏ cào vào vết bỏng. “Người này là ai? Bố rất mừng vì chỉ có người này thôi.”

      “Con biết. Thỉnh thoảng chú ấy câu cá ở hồ. Thỉnh thoảng chú ấy cho nhà mình những con cá hồi mà chú ấy câu được.”

      “Và chú ấy còn tốt với các con nữa chứ?”

      “Con biết,” Símon , nó biết rằng Dave là người đàn ông tốt nhất mà nó từng gặp. So với Grímur, Dave là thiên thần từ trời xuống để cứu mẹ chúng.

      Dave đâu nhỉ? Símon nghĩ. Giá mà Dave ở đây. Nó nghĩ về Tómas trong tiết trời lạnh giá đến Gufunes, nghĩ về mẹ – người thậm chí còn chưa biết rằng Grímur quay trở về. Và nó nghĩ đến Mikkelína ở hành lang.

      “Chú ấy có thường đến đây ?”

      , chỉ thỉnh thoảng thôi.”

      “Chú ấy có đến đây trước khi bố bị đưa vào nhà đá ? Khi con bị đưa vào nhà đá, Símon ạ, có nghĩa là con có tội và con phải tù, chỉ đơn giản là có ai đó đưa con vào tù. Và mất thời gian lắm đâu, họ cho con biết về luật lệ. Người Iceland được ăn cắp đồ của quân đội. Đó là việc làm ghê tởm. Nên họ phải bỏ tù bố. Con có hiểu ? Mọi người phải học được điều gì đó từ lỗi lầm của bố. Nhưng tất cả bọn chúng đều ăn cắp. Tất cả bọn chúng đều làm điều đó, và chúng kiếm tiền. Chú ấy có đến đây trước khi bố bị đưa vào tù ?”

      “Ai cơ?”

      “Người lính ấy. Chú ấy có đến đây trước khi bố vào tù ?”

      “Thỉnh thoảng chú ấy có câu ở hồ trước khi bố .”

      “Và chú ấy đưa những con cá hồi mà chú ấy câu được cho mẹ con ư?”

      “Phải.”

      “Chú ấy có bắt được nhiều cá ?”

      “Thỉnh thoảng. Nhưng chú ấy phải là người câu cá giỏi. Chú ấy chỉ ngồi bên hồ và hút thuốc. Bố bắt được nhiều cá hơn chú ấy nhiều. Bố còn có cả lưới nữa. Với cái lưới đó bố luôn bắt được nhiều cá hơn. Bố...”

      “Và khi chú ấy đưa cá cho mẹ con, chú ấy có ghé vào nhà ? Chú ấy có vào uống cà phê ? Chú ấy có ngồi xuống bàn này ?”

      ,” Símon , biết lời dối của nó có lộ liễu quá . Thằng bé sợ hãi và bối rối đến nỗi phải đưa tay lên môi để giữ cho nó khỏi run lên và cố gắng trả lời theo cách mà nó nghĩ rằng Grímur muốn. Nhưng thằng bé đổ tội cho mẹ nó nếu nó điều gì đó mà nó nghĩ rằng Grímur biết. Bố nó chưa bao giờ chuyện với nó nhiều đến thế trước đây khiến thằng bé mất cảnh giác. Símon lúng túng. Nó biết Grímur biết được bao nhiêu phần rồi, nhưng nó cố gắng hết sức mình để bảo vệ mẹ.

      “Chú ấy chưa từng vào đây à?” Grímur , giọng chuyển từ nhàng và khéo léo sang nghiêm nghị và cứng rắn.

      “Chỉ có hai lần thôi, hình như thế.”

      “Và chú ấy làm gì?”

      “Chỉ vào thôi.”

      “Ồ, hóa ra là vậy. Con lại bắt đầu dối đấy phải ? Con lại dối bố đấy phải ? Bố về đây sau bao nhiêu tháng ngày bị đối xử như cứt chỉ để nghe toàn những lời dối. Con lại dối bố phải ?”

      Những câu hỏi của quất vào mặt Símon khác nào cái roi da.

      “Vậy trong tù bố làm gì?” Símon lưỡng lự hỏi với hy vọng mong manh là có thể về chuyện gì đó khác Dave và mẹ nó. Sao Dave đến nhỉ? Họ biết là Grímur ra tù rồi ư? Họ chưa thảo luận về chuyện này trong những cuộc chuyện bí mật của mình khi Dave vuốt má và vén tóc mẹ nó sao?”

      “Trong tù á?” Grímur , giọng lại đổi sang ngọt ngào, nhàng. “Bố nghe người ta kể chuyện trong tù. Tất cả các loại chuyện. Ở đó, con nghe thấy rất nhiều và muốn nghe rất nhiều vì ai đến thăm con và tin tức duy nhất mà con biết về nhà mình là những điều con nghe thấy ở đó, bởi vì họ luôn luôn tống người khác vào tù và con phải biết những người quản tù, họ cho con biết vài điều gì đó. Và con có hàng tá thời gian để nghĩ về những câu chuyện đó.”

      tấm ván sàn kêu cọt kẹt ở hành lang, Grímur dừng lại, sau đó lại tiếp tục như thể chẳng có chuyện gì xảy ra cả.

      “Tất nhiên là, con còn quá … à, con bao nhiêu tuổi rồi, Símon nhỉ?”

      “Con mười bốn, sắp sang mười lăm rồi.”

      “Con sắp thành người lớn rồi, nên có thể con hiểu những gì bố . Mọi người đều nghe chuyện về những Iceland bám lấy lính. Kiểu như họ thể kiểm soát nổi bản thân mình khi nhìn thấy thằng đàn ông mặc quân phục vậy. Con còn nghe chuyện kể về người lính lịch đến thế nào, cởi mở ra sao, họ lịch và muốn được nhảy như thế nào, họ bao giờ say xỉn, họ còn có những điếu thuốc lá, cà phê và cả tá thứ đại loại như vậy mà nào cũng muốn. Còn chúng ta, Símon ạ, chúng ta là lũ nhếch nhác. Chỉ là những kẻ quê mùa, Símon ạ, đến nỗi chẳng nào thèm ngó ngàng cả. Đó là lý do tại sao bố muốn biết thêm về người lính thường câu ở hồ, Símon ạ, và con làm bố thất vọng.”

      Símon nhìn Grímur và cơ hồ như toàn bộ sức lực trong người nó bị rút cạn.

      “Bố nghe rất nhiều về người lính đó đồi này, còn con chưa bao giờ nghe chuyện về chú ấy cả. Tất nhiên là trừ khi con dối bố, và bố nghĩ là chuyện này hay ho cho lắm – dối bố khi người lính đến đây mỗi ngày và dạo với vợ của bố suốt cả mùa hè. Con biết gì về chuyện đó ư?”

      Símon gì.

      “Con biết gì về chuyện đó ư?” Grímur nhắc lại.

      “Đôi khi họ dạo với nhau,” Símon , mắt ngân ngấn nước.

      rồi,” Grímur . “Bố biết chúng ta vẫn là bạn bè. Có thể con cũng cùng họ nữa chứ?”

      Dường như chuyện này bao giờ kết thúc vậy. Grímur nhìn thằng bé với khuôn mặt bỏng và mắt gần như khép lại. Símon cảm thấy nó thể giấu giếm mãi được nữa.

      “Thỉnh thoảng mọi người ra hồ và chú ấy đưa mấy mẹ con con chơi. Cũng giống như lúc bố mang về những cái hộp mà bố lấy cái chìa khóa để mở ấy.”

      “Và chú ấy có hôn mẹ con ? Ở dưới hồ ấy?”

      ,” Símon , thanh thản vì phải dối. Nó chưa bao giờ thấy Dave và mẹ nó hôn nhau.

      “Vậy họ làm những chuyện gì? Nắm tay nhau phải ? Còn con lúc ấy làm gì? Tại sao con lại để người đàn ông đó đưa mẹ con dạo xuống hồ? Con bao giờ nghĩ rằng bố phản đối à? Con bao giờ nghĩ thế sao?”

      “Vâng,” Símon đáp.

      ai nghĩ đến bố trong lúc chơi như thế. Phải vậy ?”

      “Phải,” Símon đáp.

      Grímur nghiêng mình dưới ánh đèn khiến vết sẹo bỏng màu đỏ càng lộ ra hơn.

      “Vậy tên của người đàn ông ăn cắp gia đình của người khác và nghĩ rằng ai phản ứng gì về chuyện đó là gì?”

      Símon trả lời.

      “Cái gã hất cà phê vào mặt bố, Símon ạ, cái gã hất cà phê vào mặt bố như thế này này, con có biết tên ta ?”

      ,” giọng Símon đến mức khó nghe.

      đánh bố và làm bố bị bỏng, nhưng người ta chẳng bao giờ tống vào tù vì chuyện đó hết. Con nghĩ về chuyện đó như thế nào? Cứ như chúng là thần thánh vậy, cái lũ lính ấy. Con có nghĩ chúng là thần thánh ?”

      ,” Símon đáp.

      “Mùa hè vừa rồi mẹ con có béo ra ?” Grímur hỏi như thể là bất thình lình ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu óc . “ phải là vì mẹ con làm việc ở trang trại sữa, Símon ạ. Mà vì ta dạo cùng với người lính ở doanh trại. Con có nghĩ là ta béo lên ?”

      ,” Símon đáp.

      “Bố lại nghĩ là có thể lắm. Chúng ta xem sau. Người đàn ông hất cà phê vào mặt bố ấy. Con có biết tên ta ?”

      ,” Símon đáp.

      có những ý nghĩ rất lạ, bố hiểu lấy chúng từ đâu ra, rằng bố đối xử tử tế với mẹ con. Rằng bố làm những chuyện bẩn thỉu với ta. Con biết rằng đôi lúc bố phải dạy mẹ con. ta biết điều đó, nhưng hiểu tại sao. thể hiểu được rằng những con điếm như mẹ con cần phải biết ai là người có quyền, ai là chồng mình và mình phải cư xử như thế nào cho phải. hiểu được rằng đôi lúc con cần phải dạy dỗ những con đàn bà đó. Khi chuyện với bố, rất tức giận. Bố biết chút tiếng vì bố có số người bạn tốt ở doanh trại và bố hiểu gần hết những điều . Và điên tiết với bố về chuyện của mẹ con.”

      Hai mắt Símon vẫn dán chặt vào vết bỏng.

      “Người đàn ông này, Símon ạ, tên là Dave. Bố muốn con dối bố: người lính cư xử rất tốt với mẹ con, ở đây từ mùa xuân đến mùa hè và đến tận mùa thu. Có thể nào tên là Dave ?”

      Símon vắt óc suy nghĩ, mắt vẫn nhìn chằm chằm vào vết sẹo.

      “Người ta giải quyết ,” Grímur .

      “Giải quyết ư?” Símon hiểu ý Grímur là gì, nhưng chắc chắc đó phải là chuyện tốt.

      “Con chuột cống ở hành lang à?” Grímur và hất đầu về phía cánh cửa.

      “Sao cơ ạ?” Símon hiểu Grímur gì.

      “Con què ấy? Con có nghĩ là nó nghe chúng ta ?”

      “Con biết nữa,” Símon . Đó là .

      “Có phải tên là Dave , Símon?”

      “Có lẽ vậy,” Símon dứt khoát.

      “Có thể ư? Con chắc à? gọi con là gì, Símon? Khi chuyện với con, hoặc có thể là ôm hoặc xoa đầu con, những lúc ấy gọi con là gì?”

      “Chú ấy chưa bao giờ xoa...”

      “Tên là gì?”

      “Dave!” Símon đáp.

      “Dave! Cảm ơn con, Símon.”

      Grímur dựa lưng ra sau, chìm vào bóng tối. .

      “Con biết , bố nghe được rằng ngủ với mẹ con.”

      Đúng lúc đó cửa mở ra, người mẹ bước vào, và đến Tómas, luồng gió lạnh giá theo sau họ khiến Símon cảm thấy lạnh toát sống lưng đầm đìa mồ hôi của nó...

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      22

      Mười lăm phút sau khi chuyện với Skarphédinn, Erlendur có mặt đồi.

      Ông mang điện thoại di động theo, nếu ông gọi bảo Skarphédinn giữ người đàn bà đó lại cho tới lúc mình đến. Ông cảm thấy chắc chắn rằng đây chính là người phụ nữ mà Róbert nhìn thấy ở gần mấy bụi cây lý chua, người phụ nữ bị khập khiễng mặc đồ màu xanh.

      Giao thông ở Miklabraut đông đúc lắm, Erlendur lái xe lên đoạn dốc ở Ártúnsbrekka với tốc độ nhanh nhất của chiếc xe, sau đó ông dọc con đường ra khỏi Reykjavík – nơi ông rẽ phải sang Grafarholt. Skarphédinn chuẩn bị lái xe dừng lại. Erlendur ra khỏi xe và nhà khảo cổ kéo cửa kính xuống.

      “Sao cơ? Ông ở đây rồi cơ à? Tại sao ông lại giội điện thoại vào mặt tôi cơ chứ? Có chuyện gì à? Sao ông lại nhìn tôi như thế?”

      “Người phụ nữ vẫn ở đây chứ?” Erlendur hỏi.

      “Người phụ nữ nào cơ?”

      Erlendur nhìn lên hướng mấy bụi cây mà nghĩ rằng mình trông thấy chuyển động.

      “Bà ấy phải ?” ông hỏi và liếc mắt. Ông nhìn được từ khoảng cách như vậy. “Người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục ấy. Bà ta vẫn ở đó chứ?”

      “Phải, bà ấy ở đó,” Skarphédinn đáp. “Có chuyện gì thế?”

      “Tôi với ông sau.” Erlendur đáp và bỏ .

      Những bụi cây lý chua trở thành mục tiêu khi ông tiến gần đến chúng và màu xanh lục bắt đầu ra. Như thể lo lắng người phụ nữ biến mất bất cứ lúc nào, ông rảo bước nhanh hơn. Bà ta đứng bên cạnh những bụi cây trụi lá, nhấc nhánh lên và nhìn về núi Esja, ràng bà ta chìm đắm trong suy nghĩ.

      “Chào bà,” Erlendur khi ông đến tầm nghe của bà.

      Người phụ nữ quay lại.

      “Chào ông,” bà .

      “Tối nay thời tiết đẹp,” Erlendur .

      “Mùa xuân luôn là thời gian đẹp nhất đồi này,” người phụ nữ đáp.

      Bà ta phải cố gắng lắm mới được. Đầu bà ta lúc lắc, và Erlendur có thể thấy bà ta tập trung rất cao độ vào từng từ mình ra. Chúng hòa hợp về sắc với nhau cho lắm. cánh tay của bà giấu trong ống tay áo. Ông có thể thấy chân bị dị tật của bà thò ra bên dưới cái áo choàng màu xanh lục, mái tóc dài ngang vai dày và có màu xám. Khuôn mặt bà thân thiện nhưng buồn bã, Erlendur để ý thấy đầu bà lúc lắc như phản xạ với co giật liên tục. Dường như nó bao giờ giữ yên chỗ.

      “Bà ở khu này à?” Erlendur hỏi.

      “Và bây giờ thành phố mở rộng đến tận đây rồi,” bà trả lời vào câu hỏi. “Ông bao giờ mong muốn điều đó đâu.”

      “Phải, thành phố này bò ra mọi chỗ,” Erlendur .

      “Ông điều tra về bộ xương đó à?” bà đột ngột hỏi.

      “Phải,” Erlendur đáp.

      “Tôi thấy ông chương trình thời . Thỉnh thoảng tôi lại lên đây, nhất là vào mùa xuân. Cũng như bây giờ, khi mọi thứ chìm trong yên tĩnh, và chỉ còn rơi rớt chút ánh nắng mùa xuân dễ chịu này.”

      “Ở đồi đẹp,” Erlendur . “Bà sống ở đây à? Hay ở gần đây?”

      “Thực ra, tôi đến đây để gặp ông,” người phụ nữ , vẫn trả lời câu hỏi. “Tôi định đến gặp ông ngày mai. Nhưng tốt khi ông lại tìm tôi. Cũng đến lúc rồi.”

      đến lúc ư?”

      “Đến lúc câu chuyện được hé lộ.”

      “Câu chuyện gì cơ?”

      “Chúng tôi từng ở đây, gần những bụi cây này. Ngôi nhà gỗ đó biến mất lâu rồi. Tôi biết chuyện gì xảy ra với nó. Nó cứ thế dần dần đổ nát. Mẹ tôi trồng những bụi cây lý chua này và làm mứt vào mùa thu, nhưng bà chỉ muốn dùng chúng để làm mứt. Bà muốn có hàng rào để bảo vệ khu vườn của mình, nơi bà có thể trồng rau và những cây hoa xinh đẹp hướng về phía mặt trời, muốn dùng ngôi nhà để che chắn những cơn gió phương bắc. Nhưng ông ta cho phép. Chuyện đó cũng giống như bao nhiêu chuyện khác thôi.”

      Bà nhìn Erlendur, đầu giật giật mỗi khi bà lên tiếng.

      “Chúng nó thường đưa tôi ra đây mỗi khi trời nắng,” bà mỉm cười. “Các em trai tôi ấy. Tôi thích gì hơn là được ngồi sưởi nắng, và tôi thường hét lên vì vui sướng mỗi khi tôi ra vườn. Chúng tôi còn chơi trò chơi nữa. Lúc nào hai đứa nó cũng nghĩ ra đủ thứ trò để chơi cùng tôi, bởi vì tôi di chuyển được nhiều. Vì tôi bị khuyết tật, hồi đó bệnh của tôi nặng hơn bây giờ nhiều lắm. Hai đứa nó cố gắng đưa tôi tham gia vào mọi trò của chúng. Điều mà chúng học được từ mẹ. Cả hai đứa nó, lúc đầu ấy.”

      “Họ học được gì từ mẹ bà?”

      “Lòng tốt.”

      ông cụ với chúng tôi về người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục, bà ấy đôi khi lên đây để chăm sóc mấy bụi cây. Những mô tả của ông ấy hợp với bà. Chúng tôi nghĩ đó có thể là người từng sống ở ngôi nhà gỗ.”

      “Ông biết về ngôi nhà gỗ ư?”

      “Phải. Và biết cả số người thuê nhà nữa, nhưng phải tất cả. Chúng tôi nghĩ rằng gia đình có năm người từng sống ở đây trong suốt thời chiến, họ có thể là những nạn nhân của bạo hành gia đình. Bà đến mẹ và hai em trai của mình, và nếu bà là người con trong nhà, điều đó phù hợp với những thông tin mà chúng tôi có.”

      “Ông ấy về người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục à?” bà mỉm cười.

      “Phải. Người phụ nữ mặc đồ xanh lục.”

      “Xanh lục là màu ưa thích của tôi. Lúc nào cũng thế.”

      “Có phải người ta thường rằng những người thích màu xanh lục là những người thực tế ?”

      “Có thể lắm,” bà mỉm cười. “Tôi rất thực tế.”

      “Bà có biết về gia đình này ?”

      “Chúng tôi từng sống ở ngôi nhà ấy.”

      “Bạo lực gia đình à?”

      Bà nhìn Erlendur.

      “Phải, bạo lực gia đình.”

      “Chuyện đó có thể…”

      “Tên ông là gì?” bà cắt ngang lời Erlendur.

      “Tên tôi là Erlendur,” ông đáp.

      “Ông có gia đình chứ?”

      , à có, gần như là vậy, tôi cho là thế.”

      “Ông chắc? Ông đối xử với gia đình mình có

      tốt ?”

      “Tôi nghĩ là…” Erlendur lưỡng lự. Ông lường trước được là mình bị hỏi nên biết phải gì. Ông có đối xử với gia đình của mình tốt ? Gần như , ông tự nhủ.

      “Có lẽ ông ly dị rồi,” nguời phụ nữ khi nhìn vào bộ quần áo nhếch nhác của Erlendur.

      “Đúng vậy,” ông đáp. “Tôi định hỏi bà… Tôi... tôi định hỏi bà về bạo lực gia đình.”

      “Đó cụm từ hay để về những kẻ giết chết tâm hồn người khác. cụm từ vô hại đối với những người biết đằng sau đó là cái gì. Ông có biết nó như thế nào ? Cái việc phải sống mà cứ nơm nớp sợ hãi suốt cả cuộc đời ấy?”

      Erlendur đáp.

      “Sống mà ngày nào cũng chất chứa căm thù, chuyện đó bao giờ chấm dứt. Dù ông có làm gì chăng nữa ông vẫn bao giờ thay đổi được nó, cho đến lúc ông mất ý thức tự chủ của mình và chỉ biết chờ đợi. Chờ đợi và hy vọng... rằng lần đánh đập tiếp theo dã man như những lần đánh trước.”

      Erlendur biết phải gì.

      “Dần dần những đòn đánh chuyển thành tàn ác, bởi vì thứ sức mạnh duy nhất mà tên vũ phu ấy có thế giới này là sức mạnh đối với vợ , và thứ sức mạnh đó là tuyệt đối vì biết rằng ấy thể làm được gì. ấy hoàn toàn vô hại và hoàn toàn lệ thuộc vào bởi vì chỉ dọa dẫm, hành hạ ấy bằng lòng căm thù và tức giận với ấy, mà còn ghê tởm cả những đứa con của ấy nữa. còn thẳng thừng rằng mình làm hại chúng nếu ấy cố thoát khỏi tay . Tất cả những bạo hành về thể xác, những cơn đau và cú đánh, những mẩu xương bị gẫy, những vết thương, những vết bầm tím, những con mắt sưng húp, những đôi môi nứt toác – chúng chẳng có nghĩa lý gì khi so với hành hạ về tinh thần. Nỗi sợ hãi thường xuyên khi nào biến mất. Trong những năm đầu, khi mẹ tôi còn có dấu hiệu ham sống, bà cố gắng trốn chạy, cố gắng tìm người giúp đỡ, nhưng bắt được bà và thào vào tai bà rằng giết con bà và chôn nó dưới chân núi. Và bà biết rằng có khả năng làm chuyện đó, nên bà từ bỏ. Bà từ bỏ và phó thác mạng sống của mình vào tay .”

      Người phụ nữ nhìn ra xa, nơi có ngọn núi Esja và hướng ra phía Tây, nơi có bóng hình của dòng sông băng Snaefellsnesjökull.

      “Và cuộc đời bà trở thành cái bóng núp dưới cuộc đời ,” người phụ nữ tiếp. “Bà còn sức kháng cự, còn niềm ham sống, cuộc đời bà trở thành cuộc đời , và bà còn sống nữa, bà chết rồi, bà như thây ma mò mẫm trong bóng tối bất tận để tìm kiếm lối thoát cho mình. lối thoát, để thoát khỏi những trận hành hạ, thoát khỏi dày vò, và thoát khỏi cuộc đời . Bởi vì bà còn sống cuộc sống của riêng mình nữa mà chỉ tồn tại như thứ để trút bỏ căm ghét.”

      “Cuối cùng hủy hoại bà. Và bà còn cách nào khác là phải chết. Bà chẳng khác nào thây ma lúc còn sống.”

      Người phụ nữ trở nên trầm lặng, đưa tay vuốt ve những cành cây trụi lủi.

      “Cho đến mùa xuân năm đó. Trong thời kỳ chiến tranh.”

      Erlendur gì.

      “Ai phán xử những kẻ giết chết linh hồn người khác?” bà tiếp. “Ông có thể cho tôi biết được ? Làm thế nào ông có thể buộc tội người vì giết chết linh hồn người khác, đưa ra tòa và tuyên án ?”

      “Tôi biết,” Erlendur đáp, hiểu lắm ý của bà.

      “Các ông đào đến chỗ bộ xương chưa?” bà hỏi, trí óc để tận đâu đâu.

      “Ngày mai,” Erlendur đáp. “Bà có biết gì về người bị chôn dưới đó ?”

      “Bà ấy trở nên giống những bụi cây này,” người phụ nữ yếu ớt .

      “Ai cơ?”

      “Giống như những bụi cây lý chua vậy. Chúng cần người khác phải trông nom gì đến. Chúng đặc biệt giỏi chịu đựng, chúng chống chọi với tất cả các loại thời tiết, với những mùa đông khắc nghiệt nhất, nhưng chúng luôn luôn xanh tươi trở lại vào mùa hè, và những quả mọng mà chúng sinh ra vẫn đỏ và ngọt ngào như thể là chẳng có chuyện gì từng xảy ra hết. Như thể là mùa đông chưa bao giờ đến.”

      “Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tên bà là gì?” Erlendur hỏi.

      “Người lính ấy mang bà ấy trở lại cuộc sống.”

      Người phụ nữ dừng lại và nhìn chằm chằm vào bụi cây như thể là đến nơi khác, ở thời điểm khác.

      “Bà là ai?” Erlendur hỏi.

      “Mẹ màu xanh lục. Bà rằng màu xanh là màu hy vọng.”

      thoát khỏi cơn mê.

      “Tên tôi là Mikkelína,” bà đáp. Trông bà gần như mất sức sống. “ con quỷ,” bà đáp. “Lúc nào cũng đầy lòng hận thù và căm ghét.”


      23

      Lúc đó gần mười giờ đêm, nhiệt độ đồi hạ xuống nên Erlendur hỏi Mikkelína liệu họ có nên vào trong xe của ông . Hay ngày mai họ chuyện tiếp. Bây giờ khá muộn rồi và…

      “Thế vào xe của ông ,” bà và bước . Bà chậm và nghiêng người về bên mỗi lần bà bước bằng cái chân tật nguyền của mình. Erlendur trước bà chút và đưa bà đến xe của mình, mở cửa và giúp bà ngồi vào trong. Sau đó ông đến chỗ đầu xe, hiểu làm thế nào mà Mikkelína có thể lên đồi. Có vẻ như bà ta xe đến.

      “Bà taxi đến đây à?” ông hỏi trong lúc ngồi xuống ghế sau. Ông nổ máy, lúc này máy vẫn còn nóng, và họ nhanh chóng cảm nhận được hơi ấm.

      “Símon cho tôi nhờ,” bà đáp. “Nó đến đón tôi sớm thôi.”

      “Chúng tôi cố gắng thu thập thông tin về những người từng sống đồi – tôi nghĩ rằng đó là gia đình bà – và số thông tin mà chúng tôi nghe được, chủ yếu là từ những người già, nghe có vẻ rất lạ. trong số đó là câu chuyện về Nhà máy sản xuất khí đốt ở gần Hlemmur.”

      chọc tức bà về chuyện ở Nhà máy sản xuất khí đốt,” Mikkelína , “nhưng tôi nghĩ rằng bà ấy là kết quả của cuộc vui điên cuồng trước ngày tận thế như . Rất có thể đó là cũng nên. Tôi nghĩ rằng có lần người ta sỉ nhục , có thể từng bị người ta chọc ghẹo, có thể là hồi còn trẻ, có thể là sau này, và đổ lên đầu bà ấy.”

      “Vậy bà cho rằng bố bà là trong những đứa trẻ sinh ra sau vụ Nhà máy sản xuất khí đốt?”

      “Đó phải là bố tôi,” Mikkelína . “Bố tôi mất tích ở biển. Ông ấy là ngư dân và mẹ tôi ông ấy. Đó là niềm an ủi duy nhất đời khi tôi còn là đứa trẻ. Rằng phải là bố tôi. đặc biệt ghét tôi. người què quặt. Năm ba tuổi, tôi mắc căn bệnh, nó khiến tôi bị liệt và mất khả năng . nghĩ rằng tôi bị chậm phát triển, nhưng trí tuệ của tôi vẫn bình thường. Tôi chưa bao giờ được điều trị – điều mà ngày nay người ta coi là chuyện bình thường. Và tôi chưa bao giờ với ai điều đó, tôi luôn sống trong nỗi sợ hãi . có gì là bất thường khi đứa trẻ phải chịu đựng cú sốc rồi sau đó trở nên trầm lặng, thậm chí là câm. Tôi nghĩ chuyện đó xảy đến với tôi. Mãi sau này tôi mới tập lại, chuyện và học. Bây giờ tôi tấm bằng. Về tâm lý học.”

      Bà dừng lại.

      “Tôi điều tra ra bố mẹ ta,” bà tiếp. “Tôi tìm kiếm. Để hiểu xem chuyện gì xảy ra và tại sao lại thế. Tôi cố gắng đào xới số chuyện liên quan đến quá khứ của . từng là tá điền ở khắp nơi, và nơi cuối cùng là ở Kjós trong khoảng thời gian gặp mẹ. Phần cuộc đời của thu hút tôi nhiều nhất là ở Mýrarsýla, trang trại có tên là Melur. Bây giờ nơi đó còn nữa. Hai vợ chồng từng sống ở đó sinh được ba người con, hội đồng giáo xứ trả tiền cho họ để nuôi thêm những đứa trẻ khác nữa. Những vùng nông thôn hồi đó vẫn còn có rất nhiều người nghèo khổ. Hai vợ chồng đó khét tiếng là đối xử tệ bạc với những đứa trẻ nghèo. Họ bị kiện ra tòa sau khi đứa trẻ họ nuôi chết vì suy dinh dưỡng và bị bỏ mặc. Người ta tiến hành khám nghiệm tử thi ở trang trại đó trong điều kiện rất lạc hậu. Đứa trẻ đó lên tám. Họ tháo cánh cửa ra khỏi bản lề và khám nghiệm tử thi ngay đó. Họ rửa nội tạng của cậu bé ở con suối trong trang trại và phát ra cậu bé phải chịu ‘ đối xử nhẫn tâm quá đáng’, như người ta từng gọi vậy, nhưng họ thể chứng minh được cậu bé chết vì nguyên nhân đó. chắc hẳn chứng kiến tất cả. Có lẽ họ là bạn của nhau. cũng được nuôi nấng ở Melur cùng khoảng thời gian đó. Các tài liệu đề cập đến là: thiếu ăn, bị thương ở lưng và hai chân.”

      Bà ngừng lại.

      phải là tôi cố gắng giải thích cho những việc làm với chúng tôi và cái cách mà đối xử với chúng tôi,” bà . “ có lời bào chữa nào cho chuyện đó hết. Mà tôi chỉ muốn biết là ai.”

      Bà lại dừng lại.

      “Vậy còn mẹ bà?” Erlendur hỏi, mặc dù ông cảm nhận được rằng Mikkelína có ý định kể cho ông nghe tất cả những gì mà bà cho là quan trọng và làm điều đó theo cách của riêng mình. Ông muốn gây áp lực cho bà. Bà phải kể câu chuyện theo nhịp độ của mình.

      “Bà ấy bất hạnh,” Mikkelína quả quyết như thể đây là kết luận đúng đắn duy nhất. “Mẹ tôi bất hạnh khi phải lấy người như . Chỉ đơn giản có thế. Bà có gia đình, nhưng nhìn chung bà được nuôi nấng tử tế ở Reykjavík. Khi gặp , bà là hầu cho gia đình đáng kính. Tôi vẫn chưa tìm ra bố mẹ bà là ai. Nếu như người ta có ghi chép lại giấy tờ cũng mất rồi.”

      Mikkelína nhìn Erlendur.

      “Nhưng bà tìm được tình đích thực của mình trước khi quá muộn. Ông ấy bước vào cuộc đời bà đúng lúc, tôi nghĩ vậy.”

      “Ai cơ? Ai bước vào cuộc đời bà ấy?”

      “Và Símon. Em trai tôi nữa. Chúng tôi nhận ra nó cảm thấy thế nào. căng thẳng mà nó phải trải qua trong suốt từng ấy năm. Tôi cảm nhận được tàn nhẫn mà bố dượng trút lên đầu mẹ tôi và tôi cùng chịu đựng nó với bà, nhưng tôi mạnh mẽ hơn Símon. Símon, Símon tội nghiệp. Và cả Tómas nữa. Bố nó ảnh hưởng quá nhiều đến nó. Quá nhiều lòng căm thù.”

      “Xin lỗi, tôi hiểu. Ai bước vào cuộc đời mẹ bà cơ?”

      “Ông ấy ở New York. người Mỹ. Ở Brooklyn.”

      Erlendur gật đầu.

      “Mẹ tôi cần tình , cần được thương , ngưỡng mộ và hiểu biết rằng bà vẫn tồn tại, vẫn là con người. Dave làm sống lại lòng tự tôn của bà, biến bà trở lại thành người. Chúng tôi thường băn khoăn biết tại sao ông ấy lại dành nhiều thời gian bên mẹ đến thế. Điều gì ông ấy nhìn thấy ở bà mà ai khác thấy được ngoại trừ bố dượng tôi là người chỉ biết đánh bà nhừ tử. Sau đó ông ấy cho mẹ biết tại sao ông ấy lại muốn giúp bà. Ông ấy mình cảm nhận được ngay điều đó vào cái lúc ông nhìn thấy bà vào lần đầu tiên ông mang cá hồi đến. Hồi đó ông ấy thường câu cá ở hồ Reynisvatn. Ông ấy nhận ra tất cả những dấu hiệu của bạo hành gia đình. Ông ấy có thể nhìn thấy nó trong mắt, khuôn mặt và cả những cử chỉ của bà nữa. Ngay lập tức ông ấy hiểu ra toàn bộ cuộc đời bà.”

      Mikkelína dừng lại và nhìn lên đồi về phía những bụi cây lý chua.

      “Dave quen với chuyện đó. Ông ấy lớn lên trong hoàn cảnh cũng giống như Símon, Tómas và tôi. Bố ông ấy chưa bao giờ bị xét xử, chưa bao giờ bị trừng phạt vì đánh vợ cho đến ngày bà ấy chết. Họ sống trong cảnh vô cùng nghèo khổ, bà ấy bị lao phổi và chết. Bố ông ấy đánh bà nhừ tử ngay trước khi bà ấy qua đời. Lúc đó Dave mới là thiếu niên, nhưng ông ấy hợp với bố mình chút nào. Ông ấy bỏ nhà ra vào cái hôm mẹ mất và sau đó bao giờ trở lại nữa. Mấy năm sau ông ấy xin gia nhập quân đội trước khi chiến tranh nổ ra. Họ điều ông ấy đến Reykjavík suốt thời kỳ chiến tranh, ông ấy ở đồi này, nơi ông ấy bước vào căn nhà lán và gặp lại khuôn mặt của mẹ mình.”

      Họ ngồi yên lặng.

      “Lúc đó ông ấy đủ lớn để làm điều gì đó…” Mikkelína .

      chiếc xe chầm chậm qua họ và dừng lại ở khu móng nhà. Người lái xe bước ra và nhìn đến chỗ mấy bụi cây lý chua.

      “Símon đến để đón tôi đấy,” Mikkelína . “ muộn rồi. Ngày mai chúng ta tiếp được ? Ông có thể đến nhà tôi nếu ông muốn.”

      Bà mở cửa xe và gọi người đàn ông. Người này quay lại.

      “Bà có biết ai bị chôn dưới đó ?” Erlendur hỏi.

      “Ngày mai,” Mikkelína đáp. “Chúng ta chuyện vào ngày mai. cần thiết phải vội vàng,” bà . “ phải vội về bất cứ chuyện gì.”

      Lúc này người đàn ông đến chỗ cái xe để giúp Mikkelína.

      “Cảm ơn Símon,” bà và bước ra khỏi xe.

      Erlendur vươn người ra ghế để nhìn ông ta hơn. Sau đó ông mở cửa xe và ra ngoài.

      “Đó thể là Símon được,” ông với Mikkelína khi nhìn người đàn ông giúp bà. ta còn chưa đến ba mươi lăm tuổi.

      “Sao cơ?” Mikkelína hỏi.

      “Símon phải là em trai bà sao?” Erlendur hỏi và nhìn người đàn ông.

      “Phải,” Mikkelína đáp, sau đó dường như hiểu ra băn khoăn của Erlendur. “Ồ, người này phải là Símon đó,” bà và mỉm cười. “Đây là con trai tôi, tôi đặt tên nó theo tên em trai tôi.”


      24

      Buổi sáng hôm sau Erlendur gặp Elínborg và Sigurdur Óli ở văn phòng của mình, ông cho họ biết về Mikkelína và những điều bà . Ông cũng rằng hôm nay mình gặp bà. Ông chắc chắn rằng bà ấy cho mình biết ai bị chôn đồi, ai làm điều đó và tại sao. Và điều nữa là bộ xương được khai quật lên vào tối hôm nay.

      “Tại sao ông lại hỏi bà ấy ngày hôm qua?” Sigurdur Óli hỏi, thức dậy đầy khỏe khoắn sau buổi tối yên ả với Bergthóra. Họ bàn về tương lai, gồm cả chuyện con cái, và họ nhất trí về phương án tốt nhất cho mọi chuyện; cũng như chuyến du lịch đến Paris và chiếc xe thể thao họ thuê.

      “Và chúng ta có thể chấm dứt chuyện quái quỷ này,” ta thêm. “Tôi chán ngấy với những khúc xương này rồi. Chán ngấy cái tầng hầm của Benjamín rồi. Chán ngấy hai người rồi.”

      “Tôi muốn đến gặp bà ấy cùng ông,” Elínborg . “Ông có nghĩ rằng bà ấy là người phụ nữ bị khuyết tật mà Ed nhìn thấy trong ngôi nhà của người đàn ông mà ông ta bắt ?”

      “Rất có thể là như vậy. Bà ấy có hai em cùng mẹ khác cha, Símon và Tómas. Điều đó phù hợp với hai cậu bé mà ông ấy nhìn thấy. Và còn có người lính Mỹ có tên là Dave nữa. Ông ta giúp họ theo cách nào đó. Tôi chuyện với Ed về ông ta. Tôi biết tên họ của ông ta là gì.”

      “Tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp cận cách nhàng chuyện này, vì bà ấy cho chúng ta những điều chúng ta muốn biết. cần thiết phải vội vã.”

      Ông nhìn Sigurdur Óli.

      “Cậu xong việc ở tầng hầm của Benjamín rồi chứ?”

      “Phải, xong hôm qua rồi. Chẳng tìm thấy gì hết.”

      “Cậu có bác bỏ giả thuyết rằng vợ chưa cưới của Benjámin bị chôn ở đó ?”

      “Có, tôi nghĩ vậy. ta tự lao mình xuống biển.”

      “Có cách nào để xác minh vụ cưỡng hiếp ?” Elínborg băn khoăn.

      “Tôi nghĩ là chứng cứ nằm dưới đáy biển rồi,” Sigurdur Óli .

      “Họ gọi đó là gì nhỉ, chuyến chơi hè đến Fljót à?” Erlendur hỏi.

      lãng mạn đích thực của đồng quê,” Sigurdur Óli và mỉm cười.

      “Đồ ngu!” Erlendur .

      Ed đón Erlendur và Elínborg ở cửa chính và mời họ vào phòng khách. Mặt bàn phủ kín những giấy tờ, tài liệu liên quan đến kho quân nhu. Có những bản fax và những bản sao sàn nhà, cả cuốn nhật ký để mở cùng với rất nhiều sách bày la liệt khắp phòng. Erlendur có cảm giác ông ấy thực cuộc điều tra lớn. Ed lướt qua chồng giấy tờ bàn.

      “Tôi có danh sách những người Iceland từng làm việc ở kho quân nhu,” ông . “Đại sứ quán tìm thấy nó.”

      “Chúng tôi tìm ra được trong số những người thuê ngôi nhà mà ông tới,” Erlendur . “Tôi nghĩ đó là bị khuyết tật mà ông nhắc đến.”

      “Tốt rồi,” Ed , mê mải với việc tìm kiếm của mình. “Tốt rồi. Nó đây rồi.”

      Ông đưa cho Erlendur danh sách viết tay tên chín người Iceland từng làm việc ở kho quân nhu. Erlendur nhận ra danh sách đó. Jim đọc nó cho ông qua điện thoại và sắp gửi cho ông bản sao nữa. Erlendur nhớ là mình quên hỏi tên bố dượng của Mikkelína.

      “Tôi tìm ra ai là người tố cáo,” Ed .

      “Người ấy am hiểu về trộm cắp. Ông đồng nghiệp già của tôi từng làm việc trong quân cảnh ở Reykjavík giờ ở Minneapolis. Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn liên lạc với nhau nên tôi gọi điện cho ông ấy. Ông ấy còn nhớ vụ đó nên cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra tên của người cung cấp tin.”

      “Vậy người đó là ai?” Erlendur hỏi.

      “Tên ông ta là Dave, David Welch, ở Brooklyn. binh nhì.”

      Giống với cái tên mà Mikkelína , Erlendur nghĩ.

      “Ông ta còn sống ?” ông hỏi.

      “Chúng tôi biết. Bạn tôi cố gắng tìm kiếm thông tin về ông ta thông qua Lầu Năm Góc. Có thể ông ta bị cử ra mặt trận.”

      Elínborg nhờ Sigurdur Óli điều tra danh tính của những công nhân từng làm việc ở kho quân nhu và nơi ở của họ cũng như con cháu họ. Erlendur cầu gặp lại ông vào buổi chiều trước khi đến gặp Mikkelína. Trước hết ông muốn đến bệnh viện thăm Eva Lind.

      Ông xuống hành lang trong khu chăm sóc đặc biệt và nhìn vào bên trong, con bé vẫn nằm yên như mọi khi, mắt nó nhắm lại. Ông thấy vô cùng nhõm khi thấy Halldóra ở đó. Ông nhìn xuống khu điều trị đến chỗ mình tình cờ ngang qua và có cuộc chuyện kỳ quái với người phụ nữ bé về cậu bé trong cơn bão tuyết. Bước dần đến căn phòng trong cùng, ông thấy nó trống . Người phụ nữ mặc áo da thú giường cũng thấy người đàn ông nằm giữa thế giới bên này và bên kia. Người phụ nữ tự xưng là bà đồng cũng , và Erlendur thắc mắc biết chuyện đó có thực xảy ra , hay đó chỉ là giấc mơ. Ông đứng ở cửa ra vào thoáng, sau đó quay người và đến phòng con , nhàng đóng cửa lại. Ông muốn khóa nó lại, nhưng lại có ổ khóa nào ở đó. Ông ngồi xuống bên Eva Lind, yên lặng, và nghĩ về cậu bé trong cơn bão tuyết.

      lúc lâu trôi qua, cuối cùng Erlendur cũng thu hết can đảm, và ông trút tiếng thở dài.

      “Cậu ấy mới tám tuổi,” ông với Eva Lind. “Kém bố hai tuổi.”

      Ông nghĩ về điều bà đồng nọ , rằng cậu bé chấp nhận điều đó, rằng đó phải là lỗi của ai hết. Những từ đơn giản và bất ngờ như thế chẳng có nghĩa gì với ông cả. Ông chống chọi với cơn bão tuyết suốt cuộc đời mình, và thời gian càng trôi , điều đó càng mạnh mẽ hơn.

      “Bố mất kiểm soát,” ông với Eva Lind.

      Ông nghe thấy tiếng hét trong cơn bão.

      “Bố và người ấy thể nhìn thấy nhau,” ông . “Hai người phải cầm lấy tay nhau để tạo ra khoảng cách, nhưng bố vẫn thể nhìn thấy cậu ấy qua cơn bão được. Và rồi bố mất kiểm soát.”

      Ông dừng lại.

      “Đó là lý do tại sao con được từ bỏ. Đó là lý do tại sao con phải vượt qua điều này và khỏe mạnh trở lại. Bố biết cuộc sống của con chưa bao giờ là dễ dàng, nhưng con phá hủy nó như thể nó vô nghĩa vậy. Như thể con cũng vô nghĩa vậy. Nhưng phải thế đâu. Con nghĩ như vậy là sai rồi. Và con được phép nghĩ như thế.”

      Erlendur nhìn con dưới ánh sáng mờ mờ tỏa ra từ chiếc đèn bên cạnh.

      “Cậu ấy tám tuổi. Bố điều đó chưa? đứa con trai, cũng như những đứa con trai khác, chơi rất vui và luôn luôn mỉm cười, bọn bố là bạn của nhau. Con thể coi chuyện đó là bình thường được đâu. Bình thường kình địch. Đánh nhau, khoác và tranh cãi. Nhưng chuyện đó xảy ra giữa bố và cậu ấy. Có thể là vì bọn bố hoàn toàn khác nhau. Cậu ấy khiến người khác mến. cách vô tình. Còn bố . Có điều gì đó ở những người ấy phá vỡ tất cả mọi rào cản, bởi vì họ cư xử hoàn toàn theo đúng con người của họ, có gì phải giấu giếm, bao giờ che giấu điều gì, họ chỉ là chính họ, rất trung thực. Những đứa bé như thế…”

      Erlendur chìm vào yên lặng.

      “Đôi lúc con làm bố nhớ đến cậu ấy,” ông tiếp. “Mãi đến sau này bố mới nhận ra điều đó. Khi con tìm ra bố sau từng ấy năm. Có điều gì đó ở con khiến bố nhớ đến cậu ấy. Điều gì đó mà con phá hủy, và đó là lý do tại sao bố lại thấy đau trước cái cách con đối xử với cuộc đời mình, nhưng dường như bố thể can thiệp gì vào chuyện đó. Bố vô dụng đối với con cũng như khi bố đứng giữa cơn bão đó và cảm thấy mình mất tỉnh táo. Bọn bố nắm tay nhau, bố mất kiểm soát, giống như chuyện đó diễn ra mà lại thấy đó là kết thúc. Bọn bố cùng chết. Tay bố và cậu ấy lạnh cóng và bọn bố thể cầm cự được nữa. Bố thể cảm nhận được bàn tay cậu ấy, trừ cái giây phút bố giữ nổi nó nữa.”

      Erlendur ngừng lại và nhìn xuống sàn nhà.

      “Bố biết liệu đó có phải là lý do cho tất cả những điều này hay . Hồi ấy bố mới mười tuổi và bố vẫn luôn tự trách mình từ ngày đó. Bố thể giũ bỏ chuyện này được. muốn giũ bỏ nó đúng hơn. Nỗi đau giống như pháo đài vây quanh nỗi buồn mà bố muốn từ bỏ. Có lẽ bố phải làm điều đó từ lâu rồi, chấp nhận cuộc sống được người ta cứu và cho nó mục đích. Nhưng điều đó xảy ra và rất khó xảy ra ở tầm tuổi này. Chúng ta đều có những gánh nặng của mình. Có thể nỗi đau của bố lớn hơn nỗi đau của bất kỳ người nào khi họ phải mất người thân của mình, nhưng bố thể chịu đựng nổi.

      “Có thứ gì đó tắt trong bố. Bố bao giờ tìm lại được cậu ấy và bố luôn mơ về cậu ấy, bố biết rằng cậu ấy vẫn còn ở đâu đó, lang thang trong bão tuyết, độc, bị bỏ rơi và lạnh cóng người, cho đến khi cậu ấy ngã xuống nơi mà ai có thể tìm thấy, và cơn bão đổ tới tấp xuống lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy bị chôn vùi dưới tuyết trong nháy mắt, bất kể bố có tìm kiếm và gào thét khản cổ thế nào, bố vẫn thể tìm ra cậu ấy, cậu ấy cũng bao giờ nghe thấy bố, và với bố, cậu ấy mãi mãi.”

      Erlendur nhìn Eva Lind.

      “Chuyện đó... giống như cậu ấy thẳng đến chỗ Chúa vậy. Bố được tìm thấy, bố sống sót và bố mất cậu ấy. Bố thể với họ điều gì. thể được nơi bố để lạc cậu ấy ở đâu. thể nhìn xuyên qua cơn bão kinh khủng ấy được. Bố mới lên mười tuổi, bố suýt chết cóng, và bố thể cho họ điều gì. Họ điều đội tìm kiếm , họ lùng sục khắp nơi, mang theo đèn từ sáng đến đêm hết ngày này qua ngày khác, gọi cậu ấy và lấy gậy cào tuyết ra, họ chia nhau tìm, mang theo cả chó, mọi người nghe thấy tiếng gọi và tiếng chó sủa, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. bao giờ.”

      “Cậu ấy bao giờ được tìm thấy nữa.”

      “Rồi trong khu điều trị bệnh ở đây, bố gặp người phụ nữ, ta rằng có thông điệp gửi cho bố từ cậu bé trong cơn bão tuyết. ta rằng đó phải là lỗi của bố và bố đừng tự dằn vặt mình. Điều đó có nghĩa là gì? Bố tin những chuyện đó, nhưng bố phải nghĩ thế nào đây? Cả cuộc đời bố lỗi lầm, mặc dù bố biết rất , biết từ rất lâu rồi, rằng hồi đó bố còn quá để có thể gánh vác trách nhiệm như vậy. Nhưng tội lỗi cứ dằn vặt bố như căn bệnh ung thư, cuối cùng rồi nó giết chúng ta mất.”

      “Bố bao giờ mất kiểm soát với đứa bé nào nữa!”

      “Bởi vì đứa bé trong cơn bão tuyết đó… chính là em trai bố.”

      ***

      Người mẹ đóng sầm cửa lại, trong ánh sáng mờ lờ trong căn bếp, có thể trông thấy Grímur ngồi đối diện với Símon bên bàn ăn. trông mặt . Đây là lần đầu tiên gặp lại chồng kể từ khi bị đưa , nhưng ngay khi cảm nhận được có mặt của trong nhà và gặp lại lúc chạng vạng, nỗi sợ hãi liền bủa vây lấy . chờ về suốt mùa thu, nhưng biết chắc khi nào được thả. Khi nhìn thấy Tómas chạy đến chỗ mình, ngay lập tức hiểu chuyện gì xảy ra.

      Símon dám cử động, lưng nó vẫn giữ nguyên tư thế, chỉ quay đầu ra cửa và thấy mẹ nhìn hai bố con nó chằm chằm. Mẹ buông Tómas ra, thằng bé lẩn vào hành lang nơi Mikkelína đứng. nhìn thấy kinh hoàng trong đôi mắt Símon.

      Grímur ngồi ghế bất động. thoáng trôi qua, chỉ có tiếng gió gào rú bên ngoài và tiếng mẹ nó thở hổn hển sau khi chạy lên đồi. Nỗi sợ hãi của về Grímur biến mất từ mùa xuân nay lại trỗi lên y như trước, lại thấy mình quay trở về tình trạng cũ. Như thể là chưa có chuyện gì xảy ra trong suốt thời gian tù. Đôi chân mềm nhũn, cơn đau cào cấu trong dạ càng lúc càng mạnh hơn, lòng tự trọng vừa mới được hồi phục của lại biến mất, khom người xuống, thu mình lại. Phục tùng. Ngoan ngoãn. Sẵn sàng chờ đợi điều tồi tệ nhất. Những đứa trẻ nhìn thấy đổi thay của mẹ nó khi đứng ở cửa bếp.

      “Tao và Símon vừa mới chuyện với nhau,” Grímur , quay đầu về phía ánh sáng để lộ ra vết bỏng. Người mẹ lưỡng lự khi nhìn thấy vết sẹo đỏ hỏn mặt . há miệng như thể sắp hoặc hét lên, nhưng thanh nào phát ra, chỉ nhìn chằm chằm vào Grímur, choáng váng.

      “Mày nghĩ là trông nó khá đẹp à?” .

      Có điều gì đó rất lạ ở Grímur. Điều gì đó mà Símon thể hiểu được. Tự tin hơn. Ngạo mạn hơn. tên bạo chúa, điều đó thể rất qua thái độ của với gia đình mình và luôn luôn là như thế, nhưng còn có điều gì khác, điều gì đó nguy hiểm, và Símon băn khoăn biết chuyện gì diễn ra khi đứng lên khỏi bàn.

      bước đến chỗ mẹ bọn trẻ.

      “Símon kể cho tao chuyện về người lính tên là Dave, cái thằng vẫn thường mang cá đến cho mày ấy.”

      Người mẹ gì.

      “Cũng là thằng lính tên là Dave làm chuyện này với tao,” và chỉ tay vào vết sẹo. “Tao thể mở to mắt vì thằng đó nghĩ rằng việc hất cà phê vào mặt tao là đúng đắn. Đầu tiên nó đun nóng cà phê lên trong cái bình cho đến khi nước nóng đến độ nó phải lấy cái giẻ để cầm cái bình. Và khi tao nghĩ rằng nó chuẩn bị rót cà phê cho hai đứa tao nó hất thẳng toàn bộ nước trong cái ấm vào mặt tao.”

      Người mẹ đưa mắt nhìn xuống sàn nhà nhưng dám cử động.

      “Người ta đưa nó vào khi tay tao bị còng sau lưng. Tao nghĩ họ biết thằng đó làm gì với tao.”

      hầm hầm bước đến chỗ Mikkelína và Tómas đứng. Símon ngồi bên bàn như bị ghim chặt vào đó. Grímur quay lại chỗ mẹ chúng.

      “Cứ như chúng khen thưởng thằng chó chết đó vậy,” . “Mày có biết tại sao ?”

      ,” người mẹ lí nhí đáp.

      ,” Grímur nhại lại. “Mày còn bận ngủ với thằng đó quá mà.”

      mỉm cười.

      “Tao ngạc nhiên nếu thấy thằng đó nổi lềnh phềnh giữa hồ đâu. Như kiểu nó ngã xuống nước trong lúc câu cá ấy.”

      Grímur đứng thẳng lên đối diện với vợ và thô bạo đặt tay vào bụng .

      “Mày có nghĩ là nó để lại thứ gì ?” giọng thầm đầy đe dọa. “Thứ gì đó sau những chuyến dạo xuống hồ ấy? Mày có nghĩ thế ? Mày có cho rằng nó để lại thứ gì ? Tao báo cho mày biết, nếu nó để lại thứ gì đó. Tao giết nó. Ai mà biết được. Tao thiêu cháy nó, như là nó làm bỏng mặt tao.”

      “Đừng thế,” người mẹ .

      Grímur nhìn .

      “Làm thế nào mà thằng con hoang đó biết chúng tao ăn cắp?” hỏi. “Mày nghĩ là ai cho nó biết những việc chúng tao làm? Có thể chúng tao cẩn thận cho lắm, có thể nó nhìn thấy chúng tao. Hoặc có thể nó cho mấy con cá hồi và nhìn thấy hàng trong nhà, rồi nó băn khoăn biết chúng ở đâu ra và hỏi con điếm bé xem nó có biết ai sống ở đây .”

      Grímur túm chặt lấy bụng .

      “Mày thể trông thấy bộ quân phục mà tụt quần lót ra.”

      cách lặng lẽ, Símon đứng ngay đằng sau bố nó.

      “Mày gì về cốc cà phê?” Grímur với mẹ lũ trẻ. “Mày gì về cốc cà phê nóng, thơm ngon vào bữa sáng? Nếu Dave cho phép chúng ta. Mày có nghĩ rằng cho chúng ta làm thế ?”

      Grímur phá lên cười.

      “Có thể ghé vào đây cùng chúng ta. Mày mong nó đến phải ? Mày nghĩ là nó đến cứu mày ư?”

      được,” Símon đằng sau .

      Grímur bỏ tay ra khỏi bụng mẹ nó và quay ra chỗ Símon.

      được làm thế,” Símon .

      “Símon,” mẹ nó hét lên. “Dừng lại ngay!”

      “Để mẹ yên,” Símon giọng run run.

      Grímur quay lại phía mẹ nó. Mikkelína và Tómas vẫn đứng nhìn ở hành lang. cúi xuống chỗ thầm.

      “Có thể ngày nào đó mày cũng biến mất giống như bạn của Benjamín vậy.”

      Người mẹ nhìn Grímur, sẵn sàng cho cú đòn mà thể né tránh.

      “Ông biết gì về chuyện đó?” hỏi.

      “Người ta mất tích. Tất cả các loại người. Kể cả những kẻ thượng lưu. Nên cái loại cặn bã như mày cũng có thể mất tích lắm chứ. Ai thèm hỏi về mày cơ chứ? Trừ khi con mẹ mày ở Nhà máy sản xuất khí đốt tìm mày. Mày có nghĩ là mụ ấy làm thế ?”

      “Để mẹ yên,” Símon , vẫn đứng bên bàn ăn.

      “Símon ư?” Grímur . “Tao nghĩ là chúng ta là bạn. Mày, tao, và Tómas.”

      “Để mẹ yên,” Símon . “Ông thôi hành hạ mẹ . Ông thôi ngay và . , đừng bao giờ quay về nữa.”

      Grímur đến chỗ nó, nhìn chằm chằm vào nó như thể là thằng bé là người lạ.

      “Tao rồi. Tao sáu tháng rồi và chào đón mà tao nhận được là thế này đây. Con vợ đàng điếm với bọn lính và Símon bé muốn tống cổ thằng bố nó ra ngoài. Mày có đủ khỏe để đánh lại bố mày , Símon? Mày nghĩ thế sao? Mày có nghĩ rằng mày đủ lớn để đánh nổi tao ?”

      “Símon!” người mẹ . “ có gì đâu. Đưa Tómas và Mikkelína xuống Gufunes và chờ mẹ ở đó. Con có nghe thấy , Símon. Làm như lời mẹ bảo .”

      Grímur cười khẩy vào mặt Símon.

      “Và bây giờ mụ vợ thân diễn toàn bộ vở kịch. Mụ ta cho mình là cái thá gì cơ chứ? nực cười, cả lũ chúng mày thay đổi chỉ trong thời gian ngắn.”

      Grímur nhìn xuống hành lang dẫn đến các phòng.

      “Thế còn những kẻ được chuộng? Con què, mày nghe lời chứ? Đáng lý ra tao phải bóp chết nó lâu rồi. Đây là lời cảm ơn mà tao nhận được phải ? Đây là lời mày cảm ơn tao phải ?” quát lên về phía hành lang tối om. Tómas vẫn đứng đó nhìn Grímur, mỉm cười nhìn nó.

      “Nhưng tao và Tómas là bạn,” Grímur .

      “Tómas bao giờ phản bội lại bố nó. Lại đây nào, con trai. Đến với bố nào.”

      Tómas đến chỗ .

      “Mẹ gọi điện,” nó .

      “Tómas!” người mẹ quát lên.


      25

      “Tôi nghĩ Tómas có ý định giúp ta. Có thể nó nghĩ rằng nó giúp mẹ. Có lẽ nó muốn dọa bố để giúp mẹ. Nhưng tôi nghĩ khả năng lớn nhất là nó biết nó làm gì. Nó còn quá , thằng bé tội nghiệp.”

      Mikkelína nhìn Erlendur. Ông và Elínborg ngồi trong phòng khách nhà bà và nghe bà kể câu chuyện về người mẹ đồi, họ gặp nhau như thế nào và lần đầu tiên đánh bà ấy ra sao, bạo hành cứ thế tăng lên như thế nào và hai lần bà cố gắng trốn thoát khỏi tay , rồi dọa giết các con bà như thế nào. Mikkelína kể cho họ nghe về cuộc sống đồi của họ, về kho quân nhu, về những vụ ăn cắp, về người lính tên Dave thường câu ở hồ, về mùa hè người cha dượng bị bắt, rồi mẹ bà và người lính nhau, về chuyện hai em trai đưa Mikkelína ra sưởi nắng thế nào, Dave đưa họ chơi ra sao, và về cả buổi sáng mùa thu lạnh lẽo khi cha dượng bà quay về nữa.

      Mikkelína dành tất cả thời gian của mình để kể câu chuyện, cố gắng để sót phần nào trong lịch sử gia đình mình mà bà nghĩ là có ích. Erlendur và Elínborg ngồi nghe, uống cà phê Mikkelína pha cho họ và ăn bánh bà nướng vì bà rằng, bà biết Erlendur đến. Bà chào Elínborg nồng hậu và hỏi liệu có nhiều nữ thám tử như .

      “Hiếm như lá mùa thu,” Elínborg mỉm cười.

      là sai lầm,” Mikkelína và mời ngồi. “Phụ nữ nên tham gia vào mọi lĩnh vực mới phải chứ.”

      Elínborg nhìn Erlendur, ông cười mỉm.

      Buổi chiều đến đón ông ở văn phòng, biết rằng ông vừa từ bệnh viện đến. Trông ông ủ rũ lạ thường. hỏi về sức khỏe của Eva Lind và nghĩ rằng có lẽ con bé yếu , nhưng Erlendur rằng sức khỏe con bé ổn định. Khi hỏi ông cảm thấy thế nào và liệu mình có giúp gì được cho ông , ông chỉ lắc đầu và rằng lúc này mình chỉ biết chờ đợi. có cảm giác rằng việc chờ đợi là căng thẳng ghê gớm với ông, tuy nhiên dám động chạm gì đến chuyện đó. Kinh nghiệm lâu năm mách bảo rằng Erlendur hề muốn chuyện về bản thân mình với người khác chút nào.

      Mikkelína sống ở tầng trệt của khu chung cư ở Breidholt. Ngôi nhà của bà nhưng ấm cúng, và trong lúc bà pha cà phê trong bếp, Erlendur xung quanh phòng khách xem xét những bức ảnh mà ông cho là của gia đình bà. có nhiều ảnh lắm và dường như có bức nào chụp đồi cả.

      Bà bắt đầu tóm tắt lại cuộc đời mình khi loay hoay trong bếp còn họ ngồi nghe ở phòng khách. Bà học muộn, lúc bà gần hai mươi tuổi – cùng thời gian với lần điều trị đầu tiên của bà. Và bà tiến bộ vượt bậc. Erlendur nghĩ rằng bà nên lướt nhanh qua câu chuyện đó, nhưng ông ra. Sau khi Mikkelína học xong bậc Trung học phổ thông ở ngoài thành phố, bà đỗ Đại học và tốt nghiệp ngành Tâm lý học. Đến lúc đó bà bốn mươi tuổi. Bây giờ về hưu.

      Bà nhận nuôi đứa con trai và đặt tên nó là Símon trước khi vào Đại học. Bà muốn có gia đình vì những lý do mà bà tiện ra, bà thế, với nụ cười cay đắng.

      Bà thường xuyên đến thăm ngọn đồi vào mùa hè và mùa xuân để ngắm nhìn những bụi cây lý chua, vào mùa thu bà bứt trái cây về làm mứt. Vẫn còn ít mứt trong lọ làm từ đợt quả cuối cùng của mùa thu năm trước nên bà mời họ ăn thử. Elínborg, chuyên gia về nấu ăn, khen bà làm rất khéo. Mikkelína bảo giữ lấy chỗ mứt còn lại đó và xin lỗi vì còn quá ít.

      Sau đó bà kể cho họ việc mình chứng kiến thành phố phát triển ra sao sau nhiều năm và thập kỷ, đầu tiên nó trải rộng ra đến Breidholt rồi đến Grafarvogur, sau đó kéo dài ra dọc đường Mosfellsbaer cách chớp nhoáng và cuối cùng là lên đến Grafarholt – ngọn đồi nơi bà từng sống và có những kỷ niệm đau thương nhất cuộc đời.

      “Thực ký ức của tôi về nơi đó toàn những điều tồi tệ,” bà . “Ngoại trừ mùa hè ngắn ngủi ấy.”

      “Bà bị khuyết tật như thế này là do bẩm sinh ạ?” Elínborg hỏi.

      cố gắng tìm cách diễn đạt câu hỏi cách lịch nhất có thể, nhưng thấy có cách nào để làm điều đó.

      ,” Mikkelína đap. “Tôi bị ốm năm tôi lên ba tuổi. Tôi được đưa đến bệnh viện. Mẹ tôi với tôi rằng bố mẹ được vào khu điều trị cùng con mình. Bà hiểu nổi cái quy định nhẫn tâm và độc địa ấy: được phép vào thăm con mặc dù nó bị ốm nặng hoặc thậm chí là sắp chết. Phải mất mấy năm bà mới nhận ra rằng tôi có thể lấy lại được những gì mất bằng liệu pháp trị bệnh. Nhưng bố dượng tôi bao giờ cho phép bà chăm sóc cho tôi, cho tôi khám bác sĩ hay tìm nguồn cứu chữa. Tôi nhớ kỷ niệm xảy ra trước khi tôi bị ốm, tôi biết đó là giấc mơ hay – mặt trời tỏa sáng và tôi ở trong khu vườn của ngôi nhà, có thể đó là nơi mẹ tôi làm hầu . Lúc đó tôi chạy tán loạn, la hét, và hình như mẹ đuổi theo tôi. Tôi nhớ được gì nữa. Chỉ nhớ rằng tôi có thể chạy nhảy theo ý muốn của mình.”

      Mikkelína mỉm cười.

      “Tôi thường mơ giấc mơ đó. Khi tôi khỏe mạnh và có thể lại bất cứ khi nào mình muốn, lắc đầu liên tục mỗi khi , và tôi có thể kiểm soát được các cơ mặt của mình, chúng kéo mặt của tôi ra khắp mọi chỗ.”

      Erlendur đặt cốc xuống bàn.

      “Hôm qua bà với tôi rằng bà đặt tên con trai mình theo tên của người em trai cùng mẹ khác cha, Símon.”

      “Símon là đứa con trai tuyệt vời. Chẳng có nét nào của bố nó cả. Ít nhất là tôi chưa bao giờ nhìn thấy điều đó. Nó giống y như mẹ. Tốt bụng, cảm thông và hay giúp đỡ. Nó bất hạnh vô cùng, thằng bé tội nghiệp. Nó ghét bố nó, và lòng căm thù ấy làm tổn thương thằng bé. Đáng lý ra nó cần phải ghét bỏ bất cứ điều gì. Và cũng giống như tất cả chúng tôi, nó bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nỗi sợ hãi suốt thời thơ ấu. Nó kinh hoàng khi thấy bố lên cơn thịnh nộ. Nó nhìn mẹ chúng tôi bị đánh bầm dập. Tôi thường phải vùi đầu vào chăn, nhưng tôi thấy đôi lúc Símon đứng nhìn những trận đòn như thể nó muốn rèn luyện cho mình kiên cường để sau này chống lại bố nó, khi nó đủ lớn để chống lại bố nó. Nó đủ lớn để xử lý ông ta.

      “Đôi lúc nó cố gắng xen vào. Nó đứng trước mặt mẹ tôi, coi thường bố nó. Mẹ sợ điều đó còn hơn cả bị đánh đập. Bà thể chịu đựng được khi có bất cứ chuyện gì xảy đến với các con mình.

      đứa trẻ tốt đến lạ thường, Símon ấy.”

      “Bà đến Símon như thể ông ấy vẫn còn là đứa trẻ,” Elínborg . “Ông ấy mất rồi ạ?”

      Mikkelína mỉm cười nhưng gì.

      “Vậy còn Tómas?” Erlendur . “Chỉ có ba người thôi mà.”

      “Phải, Tómas,” Mikkelína . “Nó khác Símon. Bố chúng nó có thể nhận ra điều đó.”

      Mikkelína yên lặng.

      “Mẹ bà gọi điện đâu?” Erlendur hỏi. “Trước khi quay trở lại đồi ấy?”

      trả lời cả Erlendur, Mikkelína đứng lên và vào phòng ngủ. Elínborg và Erlendur liếc nhìn nhau. lúc sau Mikkelína trở lại, cầm theo mẩu giấy. Bà mở mẩu giấy ra, đọc nó và đưa cho Erlendur.

      “Mẹ đưa cho tôi mẩu giấy này,” bà . “Tôi nhớ rất rằng Dave đưa mẩu giấy này qua bàn cho mẹ tôi, nhưng chúng tôi bao giờ được phép biết nó gì. Mãi về sau này mẹ mới cho tôi xem. Nhiều năm về sau.”

      Erlendur đọc mẩu giấy đó.

      “Dave nhờ người Iceland hoặc người lính tiếng Iceland viết mẩu giấy này giúp mình. Mẹ luôn luôn giữ nó, và, tất nhiên là tôi mang nó xuống mồ cùng với mình.”

      Erlendur nhìn mẩu giấy, mặc dù lời nhắn được viết bằng những chữ cái viết hoa vụng về, các từ vẫn rất ràng.

      “TÔI BIẾT NHỮNG ĐIỀU MÀ LÀM VỚI

      “Mẹ và Dave về việc bà liên lạc với ông ngay sau khi dượng tôi ra khỏi tù, và ông ấy đến để giúp bà. Tôi biết họ sắp xếp với nhau cụ thể thế nào.”

      có ai ở Gufunes có thể giúp được bà ấy sao?” Elínborg hỏi. “Chắc chắn phải có rất nhiều người làm việc ở đó chứ ạ?”

      Mikkelína nhìn .

      “Mẹ tôi chịu đựng hành hạ của trong thập kỷ rưỡi. Đó là tra tấn về thể xác, đánh bà, thường là tàn bạo đến mức nhiều ngày sau bà vẫn còn nằm liệt giường. Đó còn là tra tấn về tâm hồn nữa. Và điều này còn tệ hại hơn cả bạo lực về thể xác, bởi vì như hôm qua tôi với Erlendur, nó khiến cho mẹ tôi trở thành vô nghĩa. Bà bắt đầu khinh thường mình y như chồng bà xem thường bà; thời gian dài bà chỉ nghĩ đến tự vẫn, nhưng phần vì chúng tôi, các con bà, bà bao giờ làm gì vượt quá việc nghĩ đến nó. Dave cũng góp phần vào chuyện này trong sáu tháng ông ấy ở bên bà, và ông ấy là người duy nhất mà bà có thể trông cậy. Bà bao giờ với bất kỳ ai về những chuyện bà trải qua trong ngần ấy năm và tôi nghĩ rằng bà chuẩn bị tinh thần cho việc bị đánh đập. Tệ nhất cũng là đánh bà, và rồi mọi thứ lại trở lại y như cũ.”

      Mikkelína nhìn Erlendur.

      “Dave bao giờ đến.”

      Bà nhìn Erlendur.

      “Và chẳng có chuyện gì trở lại như cũ cả.”

      ***

      “Nó gọi điện phải ?”

      Grímur vòng tay quanh người Tómas.

      “Nó gọi điện cho ai hả Tómas? Chúng ta nên giữ bí mật. Có lẽ mẹ con nghĩ rằng mụ ta có thể giữ được bí mật, nhưng đó là sai lầm lớn. Giữ bí mật rất nguy hiểm.”

      “Đừng có lợi dụng thằng bé,” người mẹ .

      “Bây giờ mụ ta còn ra lệnh cho bố nữa cơ đấy,” Grímur và xoa xoa vai thằng bé. “Mọi chuyện thay đổi nhanh quá. biết còn gì nữa đây?”

      Símon ra đứng bên cạnh mẹ. Mikkelína len lỏi đến chỗ họ. Tómas bắt đầu khóc. dòng chất lỏng chảy ra từ đũng quần thằng bé.

      “Có ai nghe điện thoại ?” Grímur hỏi. Nụ cười biến mất mặt , giọng mỉa mai cũng còn, mặt trông đáng sợ. Họ thể rời mắt ra khỏi vết sẹo mặt .

      ai nghe máy cả,” người mẹ đáp.

      có Dave nào đến đây cứu à?”

      có Dave nào,” người mẹ .

      “Tao biết ai chỉ điểm tao,” Grímur . “Sáng nay người ta cử thuyền . Đông nghẹt lính. Chắc chắn là châu Âu cần lính. Họ thể để lũ ăn ngồi rồi ở Iceland, cái nơi mà chúng có việc gì khác ngoài việc ngủ với vợ chúng tao. Hoặc có thể họ bắt . Đó là vấn đề lớn hơn tao tưởng. Người ta ra quyết định. Bọn lính hài lòng lắm đâu.”

      đẩy Tómas ra.

      “Chúng hài lòng với chuyện đó chút nào.”

      Símon đứng gần mẹ hơn.

      “Chỉ còn điều trong toàn bộ việc này mà tao hiểu,” Grímur . Đến lúc này đứng ngay trước mặt người mẹ, và họ có thể ngửi thấy mùi hôi thối bốc ra từ người . “Tao thể hiểu nổi chuyện đó. Tao biết mày tụt quần lót ra trước thằng đàn ông đầu tiên nhìn mày khi tao . Mày chỉ là con điếm. Nhưng thằng ấy nghĩ gì cơ chứ?”

      Họ gần như chạm vào nhau.

      “Nó nhìn thấy gì ở mày cơ chứ?”

      giơ cả hai tay ra mà túm lấy đầu .

      “Hả con đàn bà xấu xa nhếch nhác khốn kiếp này?”

      ***

      “Chúng tôi nghĩ là lần ấy đánh mẹ và giết chết bà. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng cho chuyện đó. Tôi run lên vì sợ và Símon cũng thế. Tôi tìm cách lấy được con dao trong bếp. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Họ đưa mắt nhìn nhau, và thay vì đánh đập bà, lại lùi ra xa.”

      Mikkelína dừng lại.

      “Tôi chưa bao giờ sợ hãi như thế trong đời. Và sau chuyện đó Símon hoàn toàn khác. Nó càng ngày càng xa cách chúng tôi. Símon tội nghiệp.”

      Bà nhìn xuống sàn nhà.

      “Dave ra khỏi cuộc đời chúng tôi cũng đột ngột y như khi ông ấy đến,” bà . “Mẹ bao giờ nghe được tin gì về ông ấy nữa.”

      “Tên họ của ông ấy là Welch,” Erlendur . “Và chúng tôi cho điều tra chuyện gì xảy ra với ông ấy. Tên của bố dượng bà là gì?”

      “Tên là Thórgrímur,” Mikkelína . “Chúng tôi luôn luôn gọi là Grímur.”

      “Thórgrímur,” Erlendur nhắc lại. Ông nhớ cái tên này trong danh sách những người làm việc ở kho quân nhu.

      Chuông điện thoại của ông reo lên trong túi áo khoác. Người gọi là Sigurdur Óli, ta ở chỗ khai quật đồi.

      “Ông phải lên đây ngay,” Sigurdur Óli .

      “Lên đây?” Erlendur . “ Nhưng ‘đây’ là đâu cơ?”

      “Tất nhiên là đồi rồi,” Sigurdur Óli . “Họ đến chỗ bộ xương và tôi nghĩ là chúng tôi tìm ra ai bị chôn ở đó.”

      “Là ai?”

      “Vợ chưa cưới của Benjamín.”

      ‘Tại sao? Tại sao cậu lại cho rằng đó là bà ấy?” Erlendur đứng lên và vào bếp để có chút riêng tư.

      “Đến đây mà xem,” Sigurdur Óli . “Đó thể là ai khác. Ông tự đến mà xem.”

      Sau đó ta tắt máy.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      22
      Mười lăm phút sau khi chuyện với Skarphédinn, Erlendur có mặt đồi.
      Ông mang điện thoại di động theo, nếu ông gọi bảo Skarphédinn giữ người đàn bà đó lại cho tới lúc mình đến. Ông cảm thấy chắc chắn rằng đây chính là người phụ nữ mà Róbert nhìn thấy ở gần mấy bụi cây lý chua, người phụ nữ bị khập khiễng mặc đồ màu xanh.
      Giao thông ở Miklabraut đông đúc lắm, Erlendur lái xe lên đoạn dốc ở Ártúnsbrekka với tốc độ nhanh nhất của chiếc xe, sau đó ông dọc con đường ra khỏi Reykjavík – nơi ông rẽ phải sang Grafarholt. Skarphédinn chuẩn bị lái xe dừng lại. Erlendur ra khỏi xe và nhà khảo cổ kéo cửa kính xuống.
      “Sao cơ? Ông ở đây rồi cơ à? Tại sao ông lại giội điện thoại vào mặt tôi cơ chứ? Có chuyện gì à? Sao ông lại nhìn tôi như thế?”
      “Người phụ nữ vẫn ở đây chứ?” Erlendur hỏi.
      “Người phụ nữ nào cơ?”
      Erlendur nhìn lên hướng mấy bụi cây mà nghĩ rằng mình trông thấy chuyển động.
      “Bà ấy phải ?” ông hỏi và liếc mắt. Ông nhìn được từ khoảng cách như vậy. “Người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục ấy. Bà ta vẫn ở đó chứ?”
      “Phải, bà ấy ở đó,” Skarphédinn đáp. “Có chuyện gì thế?”
      “Tôi với ông sau.” Erlendur đáp và bỏ .
      Những bụi cây lý chua trở thành mục tiêu khi ông tiến gần đến chúng và màu xanh lục bắt đầu ra. Như thể lo lắng người phụ nữ biến mất bất cứ lúc nào, ông rảo bước nhanh hơn. Bà ta đứng bên cạnh những bụi cây trụi lá, nhấc nhánh lên và nhìn về núi Esja, ràng bà ta chìm đắm trong suy nghĩ.
      “Chào bà,” Erlendur khi ông đến tầm nghe của bà.
      Người phụ nữ quay lại.
      “Chào ông,” bà .
      “Tối nay thời tiết đẹp,” Erlendur .
      “Mùa xuân luôn là thời gian đẹp nhất đồi này,” người phụ nữ đáp.
      Bà ta phải cố gắng lắm mới được. Đầu bà ta lúc lắc, và Erlendur có thể thấy bà ta tập trung rất cao độ vào từng từ mình ra. Chúng hòa hợp về sắc với nhau cho lắm. cánh tay của bà giấu trong ống tay áo. Ông có thể thấy chân bị dị tật của bà thò ra bên dưới cái áo choàng màu xanh lục, mái tóc dài ngang vai dày và có màu xám. Khuôn mặt bà thân thiện nhưng buồn bã, Erlendur để ý thấy đầu bà lúc lắc như phản xạ với co giật liên tục. Dường như nó bao giờ giữ yên chỗ.
      “Bà ở khu này à?” Erlendur hỏi.
      “Và bây giờ thành phố mở rộng đến tận đây rồi,” bà trả lời vào câu hỏi. “Ông bao giờ mong muốn điều đó đâu.”
      “Phải, thành phố này bò ra mọi chỗ,” Erlendur .
      “Ông điều tra về bộ xương đó à?” bà đột ngột hỏi.
      “Phải,” Erlendur đáp.
      “Tôi thấy ông chương trình thời . Thỉnh thoảng tôi lại lên đây, nhất là vào mùa xuân. Cũng như bây giờ, khi mọi thứ chìm trong yên tĩnh, và chỉ còn rơi rớt chút ánh nắng mùa xuân dễ chịu này.”
      “Ở đồi đẹp,” Erlendur . “Bà sống ở đây à? Hay ở gần đây?”
      “Thực ra, tôi đến đây để gặp ông,” người phụ nữ , vẫn trả lời câu hỏi. “Tôi định đến gặp ông ngày mai. Nhưng tốt khi ông lại tìm tôi. Cũng đến lúc rồi.”
      đến lúc ư?”
      “Đến lúc câu chuyện được hé lộ.”
      “Câu chuyện gì cơ?”
      “Chúng tôi từng ở đây, gần những bụi cây này. Ngôi nhà gỗ đó biến mất lâu rồi. Tôi biết chuyện gì xảy ra với nó. Nó cứ thế dần dần đổ nát. Mẹ tôi trồng những bụi cây lý chua này và làm mứt vào mùa thu, nhưng bà chỉ muốn dùng chúng để làm mứt. Bà muốn có hàng rào để bảo vệ khu vườn của mình, nơi bà có thể trồng rau và những cây hoa xinh đẹp hướng về phía mặt trời, muốn dùng ngôi nhà để che chắn những cơn gió phương bắc. Nhưng ông ta cho phép. Chuyện đó cũng giống như bao nhiêu chuyện khác thôi.”
      Bà nhìn Erlendur, đầu giật giật mỗi khi bà lên tiếng.
      “Chúng nó thường đưa tôi ra đây mỗi khi trời nắng,” bà mỉm cười. “Các em trai tôi ấy. Tôi thích gì hơn là được ngồi sưởi nắng, và tôi thường hét lên vì vui sướng mỗi khi tôi ra vườn. Chúng tôi còn chơi trò chơi nữa. Lúc nào hai đứa nó cũng nghĩ ra đủ thứ trò để chơi cùng tôi, bởi vì tôi di chuyển được nhiều. Vì tôi bị khuyết tật, hồi đó bệnh của tôi nặng hơn bây giờ nhiều lắm. Hai đứa nó cố gắng đưa tôi tham gia vào mọi trò của chúng. Điều mà chúng học được từ mẹ. Cả hai đứa nó, lúc đầu ấy.”
      “Họ học được gì từ mẹ bà?”
      “Lòng tốt.”
      ông cụ với chúng tôi về người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục, bà ấy đôi khi lên đây để chăm sóc mấy bụi cây. Những mô tả của ông ấy hợp với bà. Chúng tôi nghĩ đó có thể là người từng sống ở ngôi nhà gỗ.”
      “Ông biết về ngôi nhà gỗ ư?”
      “Phải. Và biết cả số người thuê nhà nữa, nhưng phải tất cả. Chúng tôi nghĩ rằng gia đình có năm người từng sống ở đây trong suốt thời chiến, họ có thể là những nạn nhân của bạo hành gia đình. Bà đến mẹ và hai em trai của mình, và nếu bà là người con trong nhà, điều đó phù hợp với những thông tin mà chúng tôi có.”
      “Ông ấy về người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục à?” bà mỉm cười.
      “Phải. Người phụ nữ mặc đồ xanh lục.”
      “Xanh lục là màu ưa thích của tôi. Lúc nào cũng thế.”
      “Có phải người ta thường rằng những người thích màu xanh lục là những người thực tế ?”
      “Có thể lắm,” bà mỉm cười. “Tôi rất thực tế.”
      “Bà có biết về gia đình này ?”
      “Chúng tôi từng sống ở ngôi nhà ấy.”
      “Bạo lực gia đình à?”
      Bà nhìn Erlendur.
      “Phải, bạo lực gia đình.”
      “Chuyện đó có thể…”
      “Tên ông là gì?” bà cắt ngang lời Erlendur.
      “Tên tôi là Erlendur,” ông đáp.
      “Ông có gia đình chứ?”
      , à có, gần như là vậy, tôi cho là thế.”
      “Ông chắc? Ông đối xử với gia đình mình có
      tốt ?”
      “Tôi nghĩ là…” Erlendur lưỡng lự. Ông lường trước được là mình bị hỏi nên biết phải gì. Ông có đối xử với gia đình của mình tốt ? Gần như , ông tự nhủ.
      “Có lẽ ông ly dị rồi,” nguời phụ nữ khi nhìn vào bộ quần áo nhếch nhác của Erlendur.
      “Đúng vậy,” ông đáp. “Tôi định hỏi bà… Tôi... tôi định hỏi bà về bạo lực gia đình.”
      “Đó cụm từ hay để về những kẻ giết chết tâm hồn người khác. cụm từ vô hại đối với những người biết đằng sau đó là cái gì. Ông có biết nó như thế nào ? Cái việc phải sống mà cứ nơm nớp sợ hãi suốt cả cuộc đời ấy?”
      Erlendur đáp.
      “Sống mà ngày nào cũng chất chứa căm thù, chuyện đó bao giờ chấm dứt. Dù ông có làm gì chăng nữa ông vẫn bao giờ thay đổi được nó, cho đến lúc ông mất ý thức tự chủ của mình và chỉ biết chờ đợi. Chờ đợi và hy vọng... rằng lần đánh đập tiếp theo dã man như những lần đánh trước.”
      Erlendur biết phải gì.
      “Dần dần những đòn đánh chuyển thành tàn ác, bởi vì thứ sức mạnh duy nhất mà tên vũ phu ấy có thế giới này là sức mạnh đối với vợ , và thứ sức mạnh đó là tuyệt đối vì biết rằng ấy thể làm được gì. ấy hoàn toàn vô hại và hoàn toàn lệ thuộc vào bởi vì chỉ dọa dẫm, hành hạ ấy bằng lòng căm thù và tức giận với ấy, mà còn ghê tởm cả những đứa con của ấy nữa. còn thẳng thừng rằng mình làm hại chúng nếu ấy cố thoát khỏi tay . Tất cả những bạo hành về thể xác, những cơn đau và cú đánh, những mẩu xương bị gẫy, những vết thương, những vết bầm tím, những con mắt sưng húp, những đôi môi nứt toác – chúng chẳng có nghĩa lý gì khi so với hành hạ về tinh thần. Nỗi sợ hãi thường xuyên khi nào biến mất. Trong những năm đầu, khi mẹ tôi còn có dấu hiệu ham sống, bà cố gắng trốn chạy, cố gắng tìm người giúp đỡ, nhưng bắt được bà và thào vào tai bà rằng giết con bà và chôn nó dưới chân núi. Và bà biết rằng có khả năng làm chuyện đó, nên bà từ bỏ. Bà từ bỏ và phó thác mạng sống của mình vào tay .”
      Người phụ nữ nhìn ra xa, nơi có ngọn núi Esja và hướng ra phía Tây, nơi có bóng hình của dòng sông băng Snaefellsnesjökull.
      “Và cuộc đời bà trở thành cái bóng núp dưới cuộc đời ,” người phụ nữ tiếp. “Bà còn sức kháng cự, còn niềm ham sống, cuộc đời bà trở thành cuộc đời , và bà còn sống nữa, bà chết rồi, bà như thây ma mò mẫm trong bóng tối bất tận để tìm kiếm lối thoát cho mình. lối thoát, để thoát khỏi những trận hành hạ, thoát khỏi dày vò, và thoát khỏi cuộc đời . Bởi vì bà còn sống cuộc sống của riêng mình nữa mà chỉ tồn tại như thứ để trút bỏ căm ghét.”
      “Cuối cùng hủy hoại bà. Và bà còn cách nào khác là phải chết. Bà chẳng khác nào thây ma lúc còn sống.”
      Người phụ nữ trở nên trầm lặng, đưa tay vuốt ve những cành cây trụi lủi.
      “Cho đến mùa xuân năm đó. Trong thời kỳ chiến tranh.”
      Erlendur gì.
      “Ai phán xử những kẻ giết chết linh hồn người khác?” bà tiếp. “Ông có thể cho tôi biết được ? Làm thế nào ông có thể buộc tội người vì giết chết linh hồn người khác, đưa ra tòa và tuyên án ?”
      “Tôi biết,” Erlendur đáp, hiểu lắm ý của bà.
      “Các ông đào đến chỗ bộ xương chưa?” bà hỏi, trí óc để tận đâu đâu.
      “Ngày mai,” Erlendur đáp. “Bà có biết gì về người bị chôn dưới đó ?”
      “Bà ấy trở nên giống những bụi cây này,” người phụ nữ yếu ớt .
      “Ai cơ?”
      “Giống như những bụi cây lý chua vậy. Chúng cần người khác phải trông nom gì đến. Chúng đặc biệt giỏi chịu đựng, chúng chống chọi với tất cả các loại thời tiết, với những mùa đông khắc nghiệt nhất, nhưng chúng luôn luôn xanh tươi trở lại vào mùa hè, và những quả mọng mà chúng sinh ra vẫn đỏ và ngọt ngào như thể là chẳng có chuyện gì từng xảy ra hết. Như thể là mùa đông chưa bao giờ đến.”
      “Xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tên bà là gì?” Erlendur hỏi.
      “Người lính ấy mang bà ấy trở lại cuộc sống.”
      Người phụ nữ dừng lại và nhìn chằm chằm vào bụi cây như thể là đến nơi khác, ở thời điểm khác.
      “Bà là ai?” Erlendur hỏi.
      “Mẹ màu xanh lục. Bà rằng màu xanh là màu hy vọng.”
      thoát khỏi cơn mê.
      “Tên tôi là Mikkelína,” bà đáp. Trông bà gần như mất sức sống. “ con quỷ,” bà đáp. “Lúc nào cũng đầy lòng hận thù và căm ghét.”

      23
      Lúc đó gần mười giờ đêm, nhiệt độ đồi hạ xuống nên Erlendur hỏi Mikkelína liệu họ có nên vào trong xe của ông . Hay ngày mai họ chuyện tiếp. Bây giờ khá muộn rồi và…
      “Thế vào xe của ông ,” bà và bước . Bà chậm và nghiêng người về bên mỗi lần bà bước bằng cái chân tật nguyền của mình. Erlendur trước bà chút và đưa bà đến xe của mình, mở cửa và giúp bà ngồi vào trong. Sau đó ông đến chỗ đầu xe, hiểu làm thế nào mà Mikkelína có thể lên đồi. Có vẻ như bà ta xe đến.
      “Bà taxi đến đây à?” ông hỏi trong lúc ngồi xuống ghế sau. Ông nổ máy, lúc này máy vẫn còn nóng, và họ nhanh chóng cảm nhận được hơi ấm.
      “Símon cho tôi nhờ,” bà đáp. “Nó đến đón tôi sớm thôi.”
      “Chúng tôi cố gắng thu thập thông tin về những người từng sống đồi – tôi nghĩ rằng đó là gia đình bà – và số thông tin mà chúng tôi nghe được, chủ yếu là từ những người già, nghe có vẻ rất lạ. trong số đó là câu chuyện về Nhà máy sản xuất khí đốt ở gần Hlemmur.”
      chọc tức bà về chuyện ở Nhà máy sản xuất khí đốt,” Mikkelína , “nhưng tôi nghĩ rằng bà ấy là kết quả của cuộc vui điên cuồng trước ngày tận thế như . Rất có thể đó là cũng nên. Tôi nghĩ rằng có lần người ta sỉ nhục , có thể từng bị người ta chọc ghẹo, có thể là hồi còn trẻ, có thể là sau này, và đổ lên đầu bà ấy.”
      “Vậy bà cho rằng bố bà là trong những đứa trẻ sinh ra sau vụ Nhà máy sản xuất khí đốt?”
      “Đó phải là bố tôi,” Mikkelína . “Bố tôi mất tích ở biển. Ông ấy là ngư dân và mẹ tôi ông ấy. Đó là niềm an ủi duy nhất đời khi tôi còn là đứa trẻ. Rằng phải là bố tôi. đặc biệt ghét tôi. người què quặt. Năm ba tuổi, tôi mắc căn bệnh, nó khiến tôi bị liệt và mất khả năng . nghĩ rằng tôi bị chậm phát triển, nhưng trí tuệ của tôi vẫn bình thường. Tôi chưa bao giờ được điều trị – điều mà ngày nay người ta coi là chuyện bình thường. Và tôi chưa bao giờ với ai điều đó, tôi luôn sống trong nỗi sợ hãi . có gì là bất thường khi đứa trẻ phải chịu đựng cú sốc rồi sau đó trở nên trầm lặng, thậm chí là câm. Tôi nghĩ chuyện đó xảy đến với tôi. Mãi sau này tôi mới tập lại, chuyện và học. Bây giờ tôi tấm bằng. Về tâm lý học.”
      Bà dừng lại.
      “Tôi điều tra ra bố mẹ ta,” bà tiếp. “Tôi tìm kiếm. Để hiểu xem chuyện gì xảy ra và tại sao lại thế. Tôi cố gắng đào xới số chuyện liên quan đến quá khứ của . từng là tá điền ở khắp nơi, và nơi cuối cùng là ở Kjós trong khoảng thời gian gặp mẹ. Phần cuộc đời của thu hút tôi nhiều nhất là ở Mýrarsýla, trang trại có tên là Melur. Bây giờ nơi đó còn nữa. Hai vợ chồng từng sống ở đó sinh được ba người con, hội đồng giáo xứ trả tiền cho họ để nuôi thêm những đứa trẻ khác nữa. Những vùng nông thôn hồi đó vẫn còn có rất nhiều người nghèo khổ. Hai vợ chồng đó khét tiếng là đối xử tệ bạc với những đứa trẻ nghèo. Họ bị kiện ra tòa sau khi đứa trẻ họ nuôi chết vì suy dinh dưỡng và bị bỏ mặc. Người ta tiến hành khám nghiệm tử thi ở trang trại đó trong điều kiện rất lạc hậu. Đứa trẻ đó lên tám. Họ tháo cánh cửa ra khỏi bản lề và khám nghiệm tử thi ngay đó. Họ rửa nội tạng của cậu bé ở con suối trong trang trại và phát ra cậu bé phải chịu ‘ đối xử nhẫn tâm quá đáng’, như người ta từng gọi vậy, nhưng họ thể chứng minh được cậu bé chết vì nguyên nhân đó. chắc hẳn chứng kiến tất cả. Có lẽ họ là bạn của nhau. cũng được nuôi nấng ở Melur cùng khoảng thời gian đó. Các tài liệu đề cập đến là: thiếu ăn, bị thương ở lưng và hai chân.”
      Bà ngừng lại.
      phải là tôi cố gắng giải thích cho những việc làm với chúng tôi và cái cách mà đối xử với chúng tôi,” bà . “ có lời bào chữa nào cho chuyện đó hết. Mà tôi chỉ muốn biết là ai.”
      Bà lại dừng lại.
      “Vậy còn mẹ bà?” Erlendur hỏi, mặc dù ông cảm nhận được rằng Mikkelína có ý định kể cho ông nghe tất cả những gì mà bà cho là quan trọng và làm điều đó theo cách của riêng mình. Ông muốn gây áp lực cho bà. Bà phải kể câu chuyện theo nhịp độ của mình.
      “Bà ấy bất hạnh,” Mikkelína quả quyết như thể đây là kết luận đúng đắn duy nhất. “Mẹ tôi bất hạnh khi phải lấy người như . Chỉ đơn giản có thế. Bà có gia đình, nhưng nhìn chung bà được nuôi nấng tử tế ở Reykjavík. Khi gặp , bà là hầu cho gia đình đáng kính. Tôi vẫn chưa tìm ra bố mẹ bà là ai. Nếu như người ta có ghi chép lại giấy tờ cũng mất rồi.”
      Mikkelína nhìn Erlendur.
      “Nhưng bà tìm được tình đích thực của mình trước khi quá muộn. Ông ấy bước vào cuộc đời bà đúng lúc, tôi nghĩ vậy.”
      “Ai cơ? Ai bước vào cuộc đời bà ấy?”
      “Và Símon. Em trai tôi nữa. Chúng tôi nhận ra nó cảm thấy thế nào. căng thẳng mà nó phải trải qua trong suốt từng ấy năm. Tôi cảm nhận được tàn nhẫn mà bố dượng trút lên đầu mẹ tôi và tôi cùng chịu đựng nó với bà, nhưng tôi mạnh mẽ hơn Símon. Símon, Símon tội nghiệp. Và cả Tómas nữa. Bố nó ảnh hưởng quá nhiều đến nó. Quá nhiều lòng căm thù.”
      “Xin lỗi, tôi hiểu. Ai bước vào cuộc đời mẹ bà cơ?”
      “Ông ấy ở New York. người Mỹ. Ở Brooklyn.”
      Erlendur gật đầu.
      “Mẹ tôi cần tình , cần được thương , ngưỡng mộ và hiểu biết rằng bà vẫn tồn tại, vẫn là con người. Dave làm sống lại lòng tự tôn của bà, biến bà trở lại thành người. Chúng tôi thường băn khoăn biết tại sao ông ấy lại dành nhiều thời gian bên mẹ đến thế. Điều gì ông ấy nhìn thấy ở bà mà ai khác thấy được ngoại trừ bố dượng tôi là người chỉ biết đánh bà nhừ tử. Sau đó ông ấy cho mẹ biết tại sao ông ấy lại muốn giúp bà. Ông ấy mình cảm nhận được ngay điều đó vào cái lúc ông nhìn thấy bà vào lần đầu tiên ông mang cá hồi đến. Hồi đó ông ấy thường câu cá ở hồ Reynisvatn. Ông ấy nhận ra tất cả những dấu hiệu của bạo hành gia đình. Ông ấy có thể nhìn thấy nó trong mắt, khuôn mặt và cả những cử chỉ của bà nữa. Ngay lập tức ông ấy hiểu ra toàn bộ cuộc đời bà.”
      Mikkelína dừng lại và nhìn lên đồi về phía những bụi cây lý chua.
      “Dave quen với chuyện đó. Ông ấy lớn lên trong hoàn cảnh cũng giống như Símon, Tómas và tôi. Bố ông ấy chưa bao giờ bị xét xử, chưa bao giờ bị trừng phạt vì đánh vợ cho đến ngày bà ấy chết. Họ sống trong cảnh vô cùng nghèo khổ, bà ấy bị lao phổi và chết. Bố ông ấy đánh bà nhừ tử ngay trước khi bà ấy qua đời. Lúc đó Dave mới là thiếu niên, nhưng ông ấy hợp với bố mình chút nào. Ông ấy bỏ nhà ra vào cái hôm mẹ mất và sau đó bao giờ trở lại nữa. Mấy năm sau ông ấy xin gia nhập quân đội trước khi chiến tranh nổ ra. Họ điều ông ấy đến Reykjavík suốt thời kỳ chiến tranh, ông ấy ở đồi này, nơi ông ấy bước vào căn nhà lán và gặp lại khuôn mặt của mẹ mình.”
      Họ ngồi yên lặng.
      “Lúc đó ông ấy đủ lớn để làm điều gì đó…” Mikkelína .
      chiếc xe chầm chậm qua họ và dừng lại ở khu móng nhà. Người lái xe bước ra và nhìn đến chỗ mấy bụi cây lý chua.
      “Símon đến để đón tôi đấy,” Mikkelína . “ muộn rồi. Ngày mai chúng ta tiếp được ? Ông có thể đến nhà tôi nếu ông muốn.”
      Bà mở cửa xe và gọi người đàn ông. Người này quay lại.
      “Bà có biết ai bị chôn dưới đó ?” Erlendur hỏi.
      “Ngày mai,” Mikkelína đáp. “Chúng ta chuyện vào ngày mai. cần thiết phải vội vàng,” bà . “ phải vội về bất cứ chuyện gì.”
      Lúc này người đàn ông đến chỗ cái xe để giúp Mikkelína.
      “Cảm ơn Símon,” bà và bước ra khỏi xe.
      Erlendur vươn người ra ghế để nhìn ông ta hơn. Sau đó ông mở cửa xe và ra ngoài.
      “Đó thể là Símon được,” ông với Mikkelína khi nhìn người đàn ông giúp bà. ta còn chưa đến ba mươi lăm tuổi.
      “Sao cơ?” Mikkelína hỏi.
      “Símon phải là em trai bà sao?” Erlendur hỏi và nhìn người đàn ông.
      “Phải,” Mikkelína đáp, sau đó dường như hiểu ra băn khoăn của Erlendur. “Ồ, người này phải là Símon đó,” bà và mỉm cười. “Đây là con trai tôi, tôi đặt tên nó theo tên em trai tôi.”

      24
      Buổi sáng hôm sau Erlendur gặp Elínborg và Sigurdur Óli ở văn phòng của mình, ông cho họ biết về Mikkelína và những điều bà . Ông cũng rằng hôm nay mình gặp bà. Ông chắc chắn rằng bà ấy cho mình biết ai bị chôn đồi, ai làm điều đó và tại sao. Và điều nữa là bộ xương được khai quật lên vào tối hôm nay.
      “Tại sao ông lại hỏi bà ấy ngày hôm qua?” Sigurdur Óli hỏi, thức dậy đầy khỏe khoắn sau buổi tối yên ả với Bergthóra. Họ bàn về tương lai, gồm cả chuyện con cái, và họ nhất trí về phương án tốt nhất cho mọi chuyện; cũng như chuyến du lịch đến Paris và chiếc xe thể thao họ thuê.
      “Và chúng ta có thể chấm dứt chuyện quái quỷ này,” ta thêm. “Tôi chán ngấy với những khúc xương này rồi. Chán ngấy cái tầng hầm của Benjamín rồi. Chán ngấy hai người rồi.”
      “Tôi muốn đến gặp bà ấy cùng ông,” Elínborg . “Ông có nghĩ rằng bà ấy là người phụ nữ bị khuyết tật mà Ed nhìn thấy trong ngôi nhà của người đàn ông mà ông ta bắt ?”
      “Rất có thể là như vậy. Bà ấy có hai em cùng mẹ khác cha, Símon và Tómas. Điều đó phù hợp với hai cậu bé mà ông ấy nhìn thấy. Và còn có người lính Mỹ có tên là Dave nữa. Ông ta giúp họ theo cách nào đó. Tôi chuyện với Ed về ông ta. Tôi biết tên họ của ông ta là gì.”
      “Tôi nghĩ rằng chúng ta nên tiếp cận cách nhàng chuyện này, vì bà ấy cho chúng ta những điều chúng ta muốn biết. cần thiết phải vội vã.”
      Ông nhìn Sigurdur Óli.
      “Cậu xong việc ở tầng hầm của Benjamín rồi chứ?”
      “Phải, xong hôm qua rồi. Chẳng tìm thấy gì hết.”
      “Cậu có bác bỏ giả thuyết rằng vợ chưa cưới của Benjámin bị chôn ở đó ?”
      “Có, tôi nghĩ vậy. ta tự lao mình xuống biển.”
      “Có cách nào để xác minh vụ cưỡng hiếp ?” Elínborg băn khoăn.
      “Tôi nghĩ là chứng cứ nằm dưới đáy biển rồi,” Sigurdur Óli .
      “Họ gọi đó là gì nhỉ, chuyến chơi hè đến Fljót à?” Erlendur hỏi.
      lãng mạn đích thực của đồng quê,” Sigurdur Óli và mỉm cười.
      “Đồ ngu!” Erlendur .
      Ed đón Erlendur và Elínborg ở cửa chính và mời họ vào phòng khách. Mặt bàn phủ kín những giấy tờ, tài liệu liên quan đến kho quân nhu. Có những bản fax và những bản sao sàn nhà, cả cuốn nhật ký để mở cùng với rất nhiều sách bày la liệt khắp phòng. Erlendur có cảm giác ông ấy thực cuộc điều tra lớn. Ed lướt qua chồng giấy tờ bàn.
      “Tôi có danh sách những người Iceland từng làm việc ở kho quân nhu,” ông . “Đại sứ quán tìm thấy nó.”
      “Chúng tôi tìm ra được trong số những người thuê ngôi nhà mà ông tới,” Erlendur . “Tôi nghĩ đó là bị khuyết tật mà ông nhắc đến.”
      “Tốt rồi,” Ed , mê mải với việc tìm kiếm của mình. “Tốt rồi. Nó đây rồi.”
      Ông đưa cho Erlendur danh sách viết tay tên chín người Iceland từng làm việc ở kho quân nhu. Erlendur nhận ra danh sách đó. Jim đọc nó cho ông qua điện thoại và sắp gửi cho ông bản sao nữa. Erlendur nhớ là mình quên hỏi tên bố dượng của Mikkelína.
      “Tôi tìm ra ai là người tố cáo,” Ed .
      “Người ấy am hiểu về trộm cắp. Ông đồng nghiệp già của tôi từng làm việc trong quân cảnh ở Reykjavík giờ ở Minneapolis. Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn liên lạc với nhau nên tôi gọi điện cho ông ấy. Ông ấy còn nhớ vụ đó nên cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra tên của người cung cấp tin.”
      “Vậy người đó là ai?” Erlendur hỏi.
      “Tên ông ta là Dave, David Welch, ở Brooklyn. binh nhì.”
      Giống với cái tên mà Mikkelína , Erlendur nghĩ.
      “Ông ta còn sống ?” ông hỏi.
      “Chúng tôi biết. Bạn tôi cố gắng tìm kiếm thông tin về ông ta thông qua Lầu Năm Góc. Có thể ông ta bị cử ra mặt trận.”
      Elínborg nhờ Sigurdur Óli điều tra danh tính của những công nhân từng làm việc ở kho quân nhu và nơi ở của họ cũng như con cháu họ. Erlendur cầu gặp lại ông vào buổi chiều trước khi đến gặp Mikkelína. Trước hết ông muốn đến bệnh viện thăm Eva Lind.
      Ông xuống hành lang trong khu chăm sóc đặc biệt và nhìn vào bên trong, con bé vẫn nằm yên như mọi khi, mắt nó nhắm lại. Ông thấy vô cùng nhõm khi thấy Halldóra ở đó. Ông nhìn xuống khu điều trị đến chỗ mình tình cờ ngang qua và có cuộc chuyện kỳ quái với người phụ nữ bé về cậu bé trong cơn bão tuyết. Bước dần đến căn phòng trong cùng, ông thấy nó trống . Người phụ nữ mặc áo da thú giường cũng thấy người đàn ông nằm giữa thế giới bên này và bên kia. Người phụ nữ tự xưng là bà đồng cũng , và Erlendur thắc mắc biết chuyện đó có thực xảy ra , hay đó chỉ là giấc mơ. Ông đứng ở cửa ra vào thoáng, sau đó quay người và đến phòng con , nhàng đóng cửa lại. Ông muốn khóa nó lại, nhưng lại có ổ khóa nào ở đó. Ông ngồi xuống bên Eva Lind, yên lặng, và nghĩ về cậu bé trong cơn bão tuyết.
      lúc lâu trôi qua, cuối cùng Erlendur cũng thu hết can đảm, và ông trút tiếng thở dài.
      “Cậu ấy mới tám tuổi,” ông với Eva Lind. “Kém bố hai tuổi.”
      Ông nghĩ về điều bà đồng nọ , rằng cậu bé chấp nhận điều đó, rằng đó phải là lỗi của ai hết. Những từ đơn giản và bất ngờ như thế chẳng có nghĩa gì với ông cả. Ông chống chọi với cơn bão tuyết suốt cuộc đời mình, và thời gian càng trôi , điều đó càng mạnh mẽ hơn.
      “Bố mất kiểm soát,” ông với Eva Lind.
      Ông nghe thấy tiếng hét trong cơn bão.
      “Bố và người ấy thể nhìn thấy nhau,” ông . “Hai người phải cầm lấy tay nhau để tạo ra khoảng cách, nhưng bố vẫn thể nhìn thấy cậu ấy qua cơn bão được. Và rồi bố mất kiểm soát.”
      Ông dừng lại.
      “Đó là lý do tại sao con được từ bỏ. Đó là lý do tại sao con phải vượt qua điều này và khỏe mạnh trở lại. Bố biết cuộc sống của con chưa bao giờ là dễ dàng, nhưng con phá hủy nó như thể nó vô nghĩa vậy. Như thể con cũng vô nghĩa vậy. Nhưng phải thế đâu. Con nghĩ như vậy là sai rồi. Và con được phép nghĩ như thế.”
      Erlendur nhìn con dưới ánh sáng mờ mờ tỏa ra từ chiếc đèn bên cạnh.
      “Cậu ấy tám tuổi. Bố điều đó chưa? đứa con trai, cũng như những đứa con trai khác, chơi rất vui và luôn luôn mỉm cười, bọn bố là bạn của nhau. Con thể coi chuyện đó là bình thường được đâu. Bình thường kình địch. Đánh nhau, khoác và tranh cãi. Nhưng chuyện đó xảy ra giữa bố và cậu ấy. Có thể là vì bọn bố hoàn toàn khác nhau. Cậu ấy khiến người khác mến. cách vô tình. Còn bố . Có điều gì đó ở những người ấy phá vỡ tất cả mọi rào cản, bởi vì họ cư xử hoàn toàn theo đúng con người của họ, có gì phải giấu giếm, bao giờ che giấu điều gì, họ chỉ là chính họ, rất trung thực. Những đứa bé như thế…”
      Erlendur chìm vào yên lặng.
      “Đôi lúc con làm bố nhớ đến cậu ấy,” ông tiếp. “Mãi đến sau này bố mới nhận ra điều đó. Khi con tìm ra bố sau từng ấy năm. Có điều gì đó ở con khiến bố nhớ đến cậu ấy. Điều gì đó mà con phá hủy, và đó là lý do tại sao bố lại thấy đau trước cái cách con đối xử với cuộc đời mình, nhưng dường như bố thể can thiệp gì vào chuyện đó. Bố vô dụng đối với con cũng như khi bố đứng giữa cơn bão đó và cảm thấy mình mất tỉnh táo. Bọn bố nắm tay nhau, bố mất kiểm soát, giống như chuyện đó diễn ra mà lại thấy đó là kết thúc. Bọn bố cùng chết. Tay bố và cậu ấy lạnh cóng và bọn bố thể cầm cự được nữa. Bố thể cảm nhận được bàn tay cậu ấy, trừ cái giây phút bố giữ nổi nó nữa.”
      Erlendur ngừng lại và nhìn xuống sàn nhà.
      “Bố biết liệu đó có phải là lý do cho tất cả những điều này hay . Hồi ấy bố mới mười tuổi và bố vẫn luôn tự trách mình từ ngày đó. Bố thể giũ bỏ chuyện này được. muốn giũ bỏ nó đúng hơn. Nỗi đau giống như pháo đài vây quanh nỗi buồn mà bố muốn từ bỏ. Có lẽ bố phải làm điều đó từ lâu rồi, chấp nhận cuộc sống được người ta cứu và cho nó mục đích. Nhưng điều đó xảy ra và rất khó xảy ra ở tầm tuổi này. Chúng ta đều có những gánh nặng của mình. Có thể nỗi đau của bố lớn hơn nỗi đau của bất kỳ người nào khi họ phải mất người thân của mình, nhưng bố thể chịu đựng nổi.
      “Có thứ gì đó tắt trong bố. Bố bao giờ tìm lại được cậu ấy và bố luôn mơ về cậu ấy, bố biết rằng cậu ấy vẫn còn ở đâu đó, lang thang trong bão tuyết, độc, bị bỏ rơi và lạnh cóng người, cho đến khi cậu ấy ngã xuống nơi mà ai có thể tìm thấy, và cơn bão đổ tới tấp xuống lưng cậu ấy cho đến khi cậu ấy bị chôn vùi dưới tuyết trong nháy mắt, bất kể bố có tìm kiếm và gào thét khản cổ thế nào, bố vẫn thể tìm ra cậu ấy, cậu ấy cũng bao giờ nghe thấy bố, và với bố, cậu ấy mãi mãi.”
      Erlendur nhìn Eva Lind.
      “Chuyện đó... giống như cậu ấy thẳng đến chỗ Chúa vậy. Bố được tìm thấy, bố sống sót và bố mất cậu ấy. Bố thể với họ điều gì. thể được nơi bố để lạc cậu ấy ở đâu. thể nhìn xuyên qua cơn bão kinh khủng ấy được. Bố mới lên mười tuổi, bố suýt chết cóng, và bố thể cho họ điều gì. Họ điều đội tìm kiếm , họ lùng sục khắp nơi, mang theo đèn từ sáng đến đêm hết ngày này qua ngày khác, gọi cậu ấy và lấy gậy cào tuyết ra, họ chia nhau tìm, mang theo cả chó, mọi người nghe thấy tiếng gọi và tiếng chó sủa, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. bao giờ.”
      “Cậu ấy bao giờ được tìm thấy nữa.”
      “Rồi trong khu điều trị bệnh ở đây, bố gặp người phụ nữ, ta rằng có thông điệp gửi cho bố từ cậu bé trong cơn bão tuyết. ta rằng đó phải là lỗi của bố và bố đừng tự dằn vặt mình. Điều đó có nghĩa là gì? Bố tin những chuyện đó, nhưng bố phải nghĩ thế nào đây? Cả cuộc đời bố lỗi lầm, mặc dù bố biết rất , biết từ rất lâu rồi, rằng hồi đó bố còn quá để có thể gánh vác trách nhiệm như vậy. Nhưng tội lỗi cứ dằn vặt bố như căn bệnh ung thư, cuối cùng rồi nó giết chúng ta mất.”
      “Bố bao giờ mất kiểm soát với đứa bé nào nữa!”
      “Bởi vì đứa bé trong cơn bão tuyết đó… chính là em trai bố.”
      ***
      Người mẹ đóng sầm cửa lại, trong ánh sáng mờ lờ trong căn bếp, có thể trông thấy Grímur ngồi đối diện với Símon bên bàn ăn. trông mặt . Đây là lần đầu tiên gặp lại chồng kể từ khi bị đưa , nhưng ngay khi cảm nhận được có mặt của trong nhà và gặp lại lúc chạng vạng, nỗi sợ hãi liền bủa vây lấy . chờ về suốt mùa thu, nhưng biết chắc khi nào được thả. Khi nhìn thấy Tómas chạy đến chỗ mình, ngay lập tức hiểu chuyện gì xảy ra.
      Símon dám cử động, lưng nó vẫn giữ nguyên tư thế, chỉ quay đầu ra cửa và thấy mẹ nhìn hai bố con nó chằm chằm. Mẹ buông Tómas ra, thằng bé lẩn vào hành lang nơi Mikkelína đứng. nhìn thấy kinh hoàng trong đôi mắt Símon.
      Grímur ngồi ghế bất động. thoáng trôi qua, chỉ có tiếng gió gào rú bên ngoài và tiếng mẹ nó thở hổn hển sau khi chạy lên đồi. Nỗi sợ hãi của về Grímur biến mất từ mùa xuân nay lại trỗi lên y như trước, lại thấy mình quay trở về tình trạng cũ. Như thể là chưa có chuyện gì xảy ra trong suốt thời gian tù. Đôi chân mềm nhũn, cơn đau cào cấu trong dạ càng lúc càng mạnh hơn, lòng tự trọng vừa mới được hồi phục của lại biến mất, khom người xuống, thu mình lại. Phục tùng. Ngoan ngoãn. Sẵn sàng chờ đợi điều tồi tệ nhất. Những đứa trẻ nhìn thấy đổi thay của mẹ nó khi đứng ở cửa bếp.
      “Tao và Símon vừa mới chuyện với nhau,” Grímur , quay đầu về phía ánh sáng để lộ ra vết bỏng. Người mẹ lưỡng lự khi nhìn thấy vết sẹo đỏ hỏn mặt . há miệng như thể sắp hoặc hét lên, nhưng thanh nào phát ra, chỉ nhìn chằm chằm vào Grímur, choáng váng.
      “Mày nghĩ là trông nó khá đẹp à?” .
      Có điều gì đó rất lạ ở Grímur. Điều gì đó mà Símon thể hiểu được. Tự tin hơn. Ngạo mạn hơn. tên bạo chúa, điều đó thể rất qua thái độ của với gia đình mình và luôn luôn là như thế, nhưng còn có điều gì khác, điều gì đó nguy hiểm, và Símon băn khoăn biết chuyện gì diễn ra khi đứng lên khỏi bàn.
      bước đến chỗ mẹ bọn trẻ.
      “Símon kể cho tao chuyện về người lính tên là Dave, cái thằng vẫn thường mang cá đến cho mày ấy.”
      Người mẹ gì.
      “Cũng là thằng lính tên là Dave làm chuyện này với tao,” và chỉ tay vào vết sẹo. “Tao thể mở to mắt vì thằng đó nghĩ rằng việc hất cà phê vào mặt tao là đúng đắn. Đầu tiên nó đun nóng cà phê lên trong cái bình cho đến khi nước nóng đến độ nó phải lấy cái giẻ để cầm cái bình. Và khi tao nghĩ rằng nó chuẩn bị rót cà phê cho hai đứa tao nó hất thẳng toàn bộ nước trong cái ấm vào mặt tao.”
      Người mẹ đưa mắt nhìn xuống sàn nhà nhưng dám cử động.
      “Người ta đưa nó vào khi tay tao bị còng sau lưng. Tao nghĩ họ biết thằng đó làm gì với tao.”
      hầm hầm bước đến chỗ Mikkelína và Tómas đứng. Símon ngồi bên bàn như bị ghim chặt vào đó. Grímur quay lại chỗ mẹ chúng.
      “Cứ như chúng khen thưởng thằng chó chết đó vậy,” . “Mày có biết tại sao ?”
      ,” người mẹ lí nhí đáp.
      ,” Grímur nhại lại. “Mày còn bận ngủ với thằng đó quá mà.”
      mỉm cười.
      “Tao ngạc nhiên nếu thấy thằng đó nổi lềnh phềnh giữa hồ đâu. Như kiểu nó ngã xuống nước trong lúc câu cá ấy.”
      Grímur đứng thẳng lên đối diện với vợ và thô bạo đặt tay vào bụng .
      “Mày có nghĩ là nó để lại thứ gì ?” giọng thầm đầy đe dọa. “Thứ gì đó sau những chuyến dạo xuống hồ ấy? Mày có nghĩ thế ? Mày có cho rằng nó để lại thứ gì ? Tao báo cho mày biết, nếu nó để lại thứ gì đó. Tao giết nó. Ai mà biết được. Tao thiêu cháy nó, như là nó làm bỏng mặt tao.”
      “Đừng thế,” người mẹ .
      Grímur nhìn .
      “Làm thế nào mà thằng con hoang đó biết chúng tao ăn cắp?” hỏi. “Mày nghĩ là ai cho nó biết những việc chúng tao làm? Có thể chúng tao cẩn thận cho lắm, có thể nó nhìn thấy chúng tao. Hoặc có thể nó cho mấy con cá hồi và nhìn thấy hàng trong nhà, rồi nó băn khoăn biết chúng ở đâu ra và hỏi con điếm bé xem nó có biết ai sống ở đây .”
      Grímur túm chặt lấy bụng .
      “Mày thể trông thấy bộ quân phục mà tụt quần lót ra.”
      cách lặng lẽ, Símon đứng ngay đằng sau bố nó.
      “Mày gì về cốc cà phê?” Grímur với mẹ lũ trẻ. “Mày gì về cốc cà phê nóng, thơm ngon vào bữa sáng? Nếu Dave cho phép chúng ta. Mày có nghĩ rằng cho chúng ta làm thế ?”
      Grímur phá lên cười.
      “Có thể ghé vào đây cùng chúng ta. Mày mong nó đến phải ? Mày nghĩ là nó đến cứu mày ư?”
      được,” Símon đằng sau .
      Grímur bỏ tay ra khỏi bụng mẹ nó và quay ra chỗ Símon.
      được làm thế,” Símon .
      “Símon,” mẹ nó hét lên. “Dừng lại ngay!”
      “Để mẹ yên,” Símon giọng run run.
      Grímur quay lại phía mẹ nó. Mikkelína và Tómas vẫn đứng nhìn ở hành lang. cúi xuống chỗ thầm.
      “Có thể ngày nào đó mày cũng biến mất giống như bạn của Benjamín vậy.”
      Người mẹ nhìn Grímur, sẵn sàng cho cú đòn mà thể né tránh.
      “Ông biết gì về chuyện đó?” hỏi.
      “Người ta mất tích. Tất cả các loại người. Kể cả những kẻ thượng lưu. Nên cái loại cặn bã như mày cũng có thể mất tích lắm chứ. Ai thèm hỏi về mày cơ chứ? Trừ khi con mẹ mày ở Nhà máy sản xuất khí đốt tìm mày. Mày có nghĩ là mụ ấy làm thế ?”
      “Để mẹ yên,” Símon , vẫn đứng bên bàn ăn.
      “Símon ư?” Grímur . “Tao nghĩ là chúng ta là bạn. Mày, tao, và Tómas.”
      “Để mẹ yên,” Símon . “Ông thôi hành hạ mẹ . Ông thôi ngay và . , đừng bao giờ quay về nữa.”
      Grímur đến chỗ nó, nhìn chằm chằm vào nó như thể là thằng bé là người lạ.
      “Tao rồi. Tao sáu tháng rồi và chào đón mà tao nhận được là thế này đây. Con vợ đàng điếm với bọn lính và Símon bé muốn tống cổ thằng bố nó ra ngoài. Mày có đủ khỏe để đánh lại bố mày , Símon? Mày nghĩ thế sao? Mày có nghĩ rằng mày đủ lớn để đánh nổi tao ?”
      “Símon!” người mẹ . “ có gì đâu. Đưa Tómas và Mikkelína xuống Gufunes và chờ mẹ ở đó. Con có nghe thấy , Símon. Làm như lời mẹ bảo .”
      Grímur cười khẩy vào mặt Símon.
      “Và bây giờ mụ vợ thân diễn toàn bộ vở kịch. Mụ ta cho mình là cái thá gì cơ chứ? nực cười, cả lũ chúng mày thay đổi chỉ trong thời gian ngắn.”
      Grímur nhìn xuống hành lang dẫn đến các phòng.
      “Thế còn những kẻ được chuộng? Con què, mày nghe lời chứ? Đáng lý ra tao phải bóp chết nó lâu rồi. Đây là lời cảm ơn mà tao nhận được phải ? Đây là lời mày cảm ơn tao phải ?” quát lên về phía hành lang tối om. Tómas vẫn đứng đó nhìn Grímur, mỉm cười nhìn nó.
      “Nhưng tao và Tómas là bạn,” Grímur .
      “Tómas bao giờ phản bội lại bố nó. Lại đây nào, con trai. Đến với bố nào.”
      Tómas đến chỗ .
      “Mẹ gọi điện,” nó .
      “Tómas!” người mẹ quát lên.

      25
      “Tôi nghĩ Tómas có ý định giúp ta. Có thể nó nghĩ rằng nó giúp mẹ. Có lẽ nó muốn dọa bố để giúp mẹ. Nhưng tôi nghĩ khả năng lớn nhất là nó biết nó làm gì. Nó còn quá , thằng bé tội nghiệp.”
      Mikkelína nhìn Erlendur. Ông và Elínborg ngồi trong phòng khách nhà bà và nghe bà kể câu chuyện về người mẹ đồi, họ gặp nhau như thế nào và lần đầu tiên đánh bà ấy ra sao, bạo hành cứ thế tăng lên như thế nào và hai lần bà cố gắng trốn thoát khỏi tay , rồi dọa giết các con bà như thế nào. Mikkelína kể cho họ nghe về cuộc sống đồi của họ, về kho quân nhu, về những vụ ăn cắp, về người lính tên Dave thường câu ở hồ, về mùa hè người cha dượng bị bắt, rồi mẹ bà và người lính nhau, về chuyện hai em trai đưa Mikkelína ra sưởi nắng thế nào, Dave đưa họ chơi ra sao, và về cả buổi sáng mùa thu lạnh lẽo khi cha dượng bà quay về nữa.
      Mikkelína dành tất cả thời gian của mình để kể câu chuyện, cố gắng để sót phần nào trong lịch sử gia đình mình mà bà nghĩ là có ích. Erlendur và Elínborg ngồi nghe, uống cà phê Mikkelína pha cho họ và ăn bánh bà nướng vì bà rằng, bà biết Erlendur đến. Bà chào Elínborg nồng hậu và hỏi liệu có nhiều nữ thám tử như .
      “Hiếm như lá mùa thu,” Elínborg mỉm cười.
      là sai lầm,” Mikkelína và mời ngồi. “Phụ nữ nên tham gia vào mọi lĩnh vực mới phải chứ.”
      Elínborg nhìn Erlendur, ông cười mỉm.
      Buổi chiều đến đón ông ở văn phòng, biết rằng ông vừa từ bệnh viện đến. Trông ông ủ rũ lạ thường. hỏi về sức khỏe của Eva Lind và nghĩ rằng có lẽ con bé yếu , nhưng Erlendur rằng sức khỏe con bé ổn định. Khi hỏi ông cảm thấy thế nào và liệu mình có giúp gì được cho ông , ông chỉ lắc đầu và rằng lúc này mình chỉ biết chờ đợi. có cảm giác rằng việc chờ đợi là căng thẳng ghê gớm với ông, tuy nhiên dám động chạm gì đến chuyện đó. Kinh nghiệm lâu năm mách bảo rằng Erlendur hề muốn chuyện về bản thân mình với người khác chút nào.
      Mikkelína sống ở tầng trệt của khu chung cư ở Breidholt. Ngôi nhà của bà nhưng ấm cúng, và trong lúc bà pha cà phê trong bếp, Erlendur xung quanh phòng khách xem xét những bức ảnh mà ông cho là của gia đình bà. có nhiều ảnh lắm và dường như có bức nào chụp đồi cả.
      Bà bắt đầu tóm tắt lại cuộc đời mình khi loay hoay trong bếp còn họ ngồi nghe ở phòng khách. Bà học muộn, lúc bà gần hai mươi tuổi – cùng thời gian với lần điều trị đầu tiên của bà. Và bà tiến bộ vượt bậc. Erlendur nghĩ rằng bà nên lướt nhanh qua câu chuyện đó, nhưng ông ra. Sau khi Mikkelína học xong bậc Trung học phổ thông ở ngoài thành phố, bà đỗ Đại học và tốt nghiệp ngành Tâm lý học. Đến lúc đó bà bốn mươi tuổi. Bây giờ về hưu.
      Bà nhận nuôi đứa con trai và đặt tên nó là Símon trước khi vào Đại học. Bà muốn có gia đình vì những lý do mà bà tiện ra, bà thế, với nụ cười cay đắng.
      Bà thường xuyên đến thăm ngọn đồi vào mùa hè và mùa xuân để ngắm nhìn những bụi cây lý chua, vào mùa thu bà bứt trái cây về làm mứt. Vẫn còn ít mứt trong lọ làm từ đợt quả cuối cùng của mùa thu năm trước nên bà mời họ ăn thử. Elínborg, chuyên gia về nấu ăn, khen bà làm rất khéo. Mikkelína bảo giữ lấy chỗ mứt còn lại đó và xin lỗi vì còn quá ít.
      Sau đó bà kể cho họ việc mình chứng kiến thành phố phát triển ra sao sau nhiều năm và thập kỷ, đầu tiên nó trải rộng ra đến Breidholt rồi đến Grafarvogur, sau đó kéo dài ra dọc đường Mosfellsbaer cách chớp nhoáng và cuối cùng là lên đến Grafarholt – ngọn đồi nơi bà từng sống và có những kỷ niệm đau thương nhất cuộc đời.
      “Thực ký ức của tôi về nơi đó toàn những điều tồi tệ,” bà . “Ngoại trừ mùa hè ngắn ngủi ấy.”
      “Bà bị khuyết tật như thế này là do bẩm sinh ạ?” Elínborg hỏi.
      cố gắng tìm cách diễn đạt câu hỏi cách lịch nhất có thể, nhưng thấy có cách nào để làm điều đó.
      ,” Mikkelína đap. “Tôi bị ốm năm tôi lên ba tuổi. Tôi được đưa đến bệnh viện. Mẹ tôi với tôi rằng bố mẹ được vào khu điều trị cùng con mình. Bà hiểu nổi cái quy định nhẫn tâm và độc địa ấy: được phép vào thăm con mặc dù nó bị ốm nặng hoặc thậm chí là sắp chết. Phải mất mấy năm bà mới nhận ra rằng tôi có thể lấy lại được những gì mất bằng liệu pháp trị bệnh. Nhưng bố dượng tôi bao giờ cho phép bà chăm sóc cho tôi, cho tôi khám bác sĩ hay tìm nguồn cứu chữa. Tôi nhớ kỷ niệm xảy ra trước khi tôi bị ốm, tôi biết đó là giấc mơ hay – mặt trời tỏa sáng và tôi ở trong khu vườn của ngôi nhà, có thể đó là nơi mẹ tôi làm hầu . Lúc đó tôi chạy tán loạn, la hét, và hình như mẹ đuổi theo tôi. Tôi nhớ được gì nữa. Chỉ nhớ rằng tôi có thể chạy nhảy theo ý muốn của mình.”
      Mikkelína mỉm cười.
      “Tôi thường mơ giấc mơ đó. Khi tôi khỏe mạnh và có thể lại bất cứ khi nào mình muốn, lắc đầu liên tục mỗi khi , và tôi có thể kiểm soát được các cơ mặt của mình, chúng kéo mặt của tôi ra khắp mọi chỗ.”
      Erlendur đặt cốc xuống bàn.
      “Hôm qua bà với tôi rằng bà đặt tên con trai mình theo tên của người em trai cùng mẹ khác cha, Símon.”
      “Símon là đứa con trai tuyệt vời. Chẳng có nét nào của bố nó cả. Ít nhất là tôi chưa bao giờ nhìn thấy điều đó. Nó giống y như mẹ. Tốt bụng, cảm thông và hay giúp đỡ. Nó bất hạnh vô cùng, thằng bé tội nghiệp. Nó ghét bố nó, và lòng căm thù ấy làm tổn thương thằng bé. Đáng lý ra nó cần phải ghét bỏ bất cứ điều gì. Và cũng giống như tất cả chúng tôi, nó bị ảnh hưởng sâu sắc bởi nỗi sợ hãi suốt thời thơ ấu. Nó kinh hoàng khi thấy bố lên cơn thịnh nộ. Nó nhìn mẹ chúng tôi bị đánh bầm dập. Tôi thường phải vùi đầu vào chăn, nhưng tôi thấy đôi lúc Símon đứng nhìn những trận đòn như thể nó muốn rèn luyện cho mình kiên cường để sau này chống lại bố nó, khi nó đủ lớn để chống lại bố nó. Nó đủ lớn để xử lý ông ta.
      “Đôi lúc nó cố gắng xen vào. Nó đứng trước mặt mẹ tôi, coi thường bố nó. Mẹ sợ điều đó còn hơn cả bị đánh đập. Bà thể chịu đựng được khi có bất cứ chuyện gì xảy đến với các con mình.
      đứa trẻ tốt đến lạ thường, Símon ấy.”
      “Bà đến Símon như thể ông ấy vẫn còn là đứa trẻ,” Elínborg . “Ông ấy mất rồi ạ?”
      Mikkelína mỉm cười nhưng gì.
      “Vậy còn Tómas?” Erlendur . “Chỉ có ba người thôi mà.”
      “Phải, Tómas,” Mikkelína . “Nó khác Símon. Bố chúng nó có thể nhận ra điều đó.”
      Mikkelína yên lặng.
      “Mẹ bà gọi điện đâu?” Erlendur hỏi. “Trước khi quay trở lại đồi ấy?”
      trả lời cả Erlendur, Mikkelína đứng lên và vào phòng ngủ. Elínborg và Erlendur liếc nhìn nhau. lúc sau Mikkelína trở lại, cầm theo mẩu giấy. Bà mở mẩu giấy ra, đọc nó và đưa cho Erlendur.
      “Mẹ đưa cho tôi mẩu giấy này,” bà . “Tôi nhớ rất rằng Dave đưa mẩu giấy này qua bàn cho mẹ tôi, nhưng chúng tôi bao giờ được phép biết nó gì. Mãi về sau này mẹ mới cho tôi xem. Nhiều năm về sau.”
      Erlendur đọc mẩu giấy đó.
      “Dave nhờ người Iceland hoặc người lính tiếng Iceland viết mẩu giấy này giúp mình. Mẹ luôn luôn giữ nó, và, tất nhiên là tôi mang nó xuống mồ cùng với mình.”
      Erlendur nhìn mẩu giấy, mặc dù lời nhắn được viết bằng những chữ cái viết hoa vụng về, các từ vẫn rất ràng.
      “TÔI BIẾT NHỮNG ĐIỀU MÀ LÀM VỚI
      “Mẹ và Dave về việc bà liên lạc với ông ngay sau khi dượng tôi ra khỏi tù, và ông ấy đến để giúp bà. Tôi biết họ sắp xếp với nhau cụ thể thế nào.”
      có ai ở Gufunes có thể giúp được bà ấy sao?” Elínborg hỏi. “Chắc chắn phải có rất nhiều người làm việc ở đó chứ ạ?”
      Mikkelína nhìn .
      “Mẹ tôi chịu đựng hành hạ của trong thập kỷ rưỡi. Đó là tra tấn về thể xác, đánh bà, thường là tàn bạo đến mức nhiều ngày sau bà vẫn còn nằm liệt giường. Đó còn là tra tấn về tâm hồn nữa. Và điều này còn tệ hại hơn cả bạo lực về thể xác, bởi vì như hôm qua tôi với Erlendur, nó khiến cho mẹ tôi trở thành vô nghĩa. Bà bắt đầu khinh thường mình y như chồng bà xem thường bà; thời gian dài bà chỉ nghĩ đến tự vẫn, nhưng phần vì chúng tôi, các con bà, bà bao giờ làm gì vượt quá việc nghĩ đến nó. Dave cũng góp phần vào chuyện này trong sáu tháng ông ấy ở bên bà, và ông ấy là người duy nhất mà bà có thể trông cậy. Bà bao giờ với bất kỳ ai về những chuyện bà trải qua trong ngần ấy năm và tôi nghĩ rằng bà chuẩn bị tinh thần cho việc bị đánh đập. Tệ nhất cũng là đánh bà, và rồi mọi thứ lại trở lại y như cũ.”
      Mikkelína nhìn Erlendur.
      “Dave bao giờ đến.”
      Bà nhìn Erlendur.
      “Và chẳng có chuyện gì trở lại như cũ cả.”
      ***
      “Nó gọi điện phải ?”
      Grímur vòng tay quanh người Tómas.
      “Nó gọi điện cho ai hả Tómas? Chúng ta nên giữ bí mật. Có lẽ mẹ con nghĩ rằng mụ ta có thể giữ được bí mật, nhưng đó là sai lầm lớn. Giữ bí mật rất nguy hiểm.”
      “Đừng có lợi dụng thằng bé,” người mẹ .
      “Bây giờ mụ ta còn ra lệnh cho bố nữa cơ đấy,” Grímur và xoa xoa vai thằng bé. “Mọi chuyện thay đổi nhanh quá. biết còn gì nữa đây?”
      Símon ra đứng bên cạnh mẹ. Mikkelína len lỏi đến chỗ họ. Tómas bắt đầu khóc. dòng chất lỏng chảy ra từ đũng quần thằng bé.
      “Có ai nghe điện thoại ?” Grímur hỏi. Nụ cười biến mất mặt , giọng mỉa mai cũng còn, mặt trông đáng sợ. Họ thể rời mắt ra khỏi vết sẹo mặt .
      ai nghe máy cả,” người mẹ đáp.
      có Dave nào đến đây cứu à?”
      có Dave nào,” người mẹ .
      “Tao biết ai chỉ điểm tao,” Grímur . “Sáng nay người ta cử thuyền . Đông nghẹt lính. Chắc chắn là châu Âu cần lính. Họ thể để lũ ăn ngồi rồi ở Iceland, cái nơi mà chúng có việc gì khác ngoài việc ngủ với vợ chúng tao. Hoặc có thể họ bắt . Đó là vấn đề lớn hơn tao tưởng. Người ta ra quyết định. Bọn lính hài lòng lắm đâu.”
      đẩy Tómas ra.
      “Chúng hài lòng với chuyện đó chút nào.”
      Símon đứng gần mẹ hơn.
      “Chỉ còn điều trong toàn bộ việc này mà tao hiểu,” Grímur . Đến lúc này đứng ngay trước mặt người mẹ, và họ có thể ngửi thấy mùi hôi thối bốc ra từ người . “Tao thể hiểu nổi chuyện đó. Tao biết mày tụt quần lót ra trước thằng đàn ông đầu tiên nhìn mày khi tao . Mày chỉ là con điếm. Nhưng thằng ấy nghĩ gì cơ chứ?”
      Họ gần như chạm vào nhau.
      “Nó nhìn thấy gì ở mày cơ chứ?”
      giơ cả hai tay ra mà túm lấy đầu .
      “Hả con đàn bà xấu xa nhếch nhác khốn kiếp này?”
      ***
      “Chúng tôi nghĩ là lần ấy đánh mẹ và giết chết bà. Chúng tôi chuẩn bị sẵn sàng cho chuyện đó. Tôi run lên vì sợ và Símon cũng thế. Tôi tìm cách lấy được con dao trong bếp. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Họ đưa mắt nhìn nhau, và thay vì đánh đập bà, lại lùi ra xa.”
      Mikkelína dừng lại.
      “Tôi chưa bao giờ sợ hãi như thế trong đời. Và sau chuyện đó Símon hoàn toàn khác. Nó càng ngày càng xa cách chúng tôi. Símon tội nghiệp.”
      Bà nhìn xuống sàn nhà.
      “Dave ra khỏi cuộc đời chúng tôi cũng đột ngột y như khi ông ấy đến,” bà . “Mẹ bao giờ nghe được tin gì về ông ấy nữa.”
      “Tên họ của ông ấy là Welch,” Erlendur . “Và chúng tôi cho điều tra chuyện gì xảy ra với ông ấy. Tên của bố dượng bà là gì?”
      “Tên là Thórgrímur,” Mikkelína . “Chúng tôi luôn luôn gọi là Grímur.”
      “Thórgrímur,” Erlendur nhắc lại. Ông nhớ cái tên này trong danh sách những người làm việc ở kho quân nhu.
      Chuông điện thoại của ông reo lên trong túi áo khoác. Người gọi là Sigurdur Óli, ta ở chỗ khai quật đồi.
      “Ông phải lên đây ngay,” Sigurdur Óli .
      “Lên đây?” Erlendur . “ Nhưng ‘đây’ là đâu cơ?”
      “Tất nhiên là đồi rồi,” Sigurdur Óli . “Họ đến chỗ bộ xương và tôi nghĩ là chúng tôi tìm ra ai bị chôn ở đó.”
      “Là ai?”
      “Vợ chưa cưới của Benjamín.”
      ‘Tại sao? Tại sao cậu lại cho rằng đó là bà ấy?” Erlendur đứng lên và vào bếp để có chút riêng tư.
      “Đến đây mà xem,” Sigurdur Óli . “Đó thể là ai khác. Ông tự đến mà xem.”
      Sau đó ta tắt máy.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      26

      Mười lăm phút sau, Erlendur và Elínborg có mặt ở Grafarholt. Họ vội vã tạm biệt Mikkelína khiến bà nhìn theo đầy ngạc nhiên khi họ ra khỏi cửa. Erlendur cho bà biết điều mà Sigurdur Óli vừa mới qua điện thoại về vợ chưa cưới của Benjamín, chỉ rằng mình phải lên đồi vì cuối cùng, bộ xương cũng được khai quật. Ông xin lỗi và rằng họ chuyện sau.

      “Tôi cũng nên cùng hai người chứ?” Mikkelína hỏi từ tiền sảnh, bà vẫn đứng đó nhìn họ qua cửa chính. “Tôi …”

      phải lúc này,” Erlendur ngắt lời bà. “Chúng ta chuyện sau. Có hướng điều tra mới.”

      Sigudur Óli đợi họ đồi, đưa họ đến chỗ Skarphédinn. Lúc này ông ta đứng gần ngôi mộ.

      “Erlendur,” nhà khảo cổ cất tiếng chào. “Chúng tôi đào đến đó rồi. Cuối cùng cũng mất nhiều thời gian đến thế.”

      “Các ông tìm thấy những gì?” Erlendur hỏi.

      “Đó là người phụ nữ,” Sigurdur Óli ra vẻ quan trọng. “ còn nghi ngờ gì nữa.”

      “Sao biết?” Elínborg . “ trở thành bác sĩ từ khi nào vậy?”

      “Chuyện này phải cần đến bác sĩ,” Sigurdur Óli . “Nó quá ràng.”

      “Có hai bộ xương trong ngôi mộ,” Skarphédinn . “ là của người lớn, có lẽ là người phụ nữ, bộ xương còn lại là của đứa bé, đứa bé tí hon, có thể là chưa được sinh ra. Nó nằm như thế, bên trong bộ xương lớn.”

      Erlendur nhìn ông ta đầy ngạc nhiên.

      “Hai bộ xương ư?”

      Ông liếc nhìn Sigurdur Óli, bước về phía trước hai bước và nhòm xuống ngôi mộ, và ông nhìn thấy những gì Skarphédinn ngay lập tức. Bộ xương lớn gần như lộ thiên, nó phơi ra trước mắt ông với tay giơ lên khí, miệng há hốc, đầy đất cát, và xương sườn bị gẫy. Đất phủ đầy hai hốc mắt, cụm tóc trước trán còn chưa phân hủy hết.

      Ở bên bộ xương đó có bộ xương khác, cuộn lại ở vị trí bào thai. Các nhà khảo cổ cẩn thận phủi hết bụi ra khỏi bộ xương đó. Hai cánh tay và xương đùi có kích thước như những cây bút chì còn xương sọ to bằng kích thước của quả bóng tennis. Nó nằm dưới xương sườn của bộ xương lớn, đầu hướng xuống dưới.

      “Đó còn có thể là ai được nữa?” Sigurdur Óli hỏi. “Đó phải là người vợ chưa cưới của Benjamín sao? Bà ta mang thai. Tên bà ta là gì ấy nhỉ?”

      “Sólveig,” Elínborg . “Bào thai của bà ta phát triển đến thế này ư?” như thể với chính mình, mắt nhìn chằm chằm vào những bộ xương.

      “Ở giai đoạn này người ta gọi nó là đứa trẻ hay bào thai?” Erlendur hỏi.

      “Tôi biết,” Sigurdur Óli đáp.

      “Tôi cũng ,” Erlendur . “Chúng ta cần chuyên gia. Chúng tôi có thể đưa nguyên trạng bộ xương về nhà xác ở Barónsstígur được ?” ông hỏi Skarphédinn.

      “Ý ông là gì, nguyên trạng ư?”

      “Bộ xương bé nằm bộ xương lớn ấy.”

      “Chúng tôi vẫn phải tiếp tục khai quật bộ xương lớn. Nếu phủi bớt đất bằng chổi và bàn chải cách cẩn thận, chúng tôi có thể nhấc được cả bộ xương lên. Tôi nghĩ là được. Ông muốn bác sĩ đến đây xem xét à? Ở vị trí này này?”

      , tôi muốn đưa chúng vào nhà,” Erlendur . “Chúng ta cần xét nghiệm chúng trong những điều kiện tối ưu.”

      Đến giờ ăn tối, hai bộ xương được nhấc lên hoàn toàn. Erlendur, Sigurdur Óli và Elínborg nhìn người ta nhấc chúng lên. Các nhà khảo cổ làm việc hết sức chuyên nghiệp và Erlendur hề hối hận khi mời họ đến. Skarphédinn điều khiển quá trình nhấc bộ xương lên cũng chuẩn xác và hiệu quả kém gì quá trình khai quật nó. Ông ta bảo Erlendur rằng họ khá mến bộ xương này nên gọi nó là “Người Thiên Niên Kỷ” trước kính trọng của Erlendur, và rằng họ nhớ nó. Nhưng họ vẫn chưa làm xong việc của mình. Trong quá trình làm việc, Skarphédinn bắt đầu thích ngành tội phạm học nên ông ta có ý định rằng cả đội lùng sục trong đất để tìm kiếm những bằng chứng về vụ việc xảy ra đồi cách đó ngần ấy năm. Ông ta chụp ảnh và quay phim mỗi giai đoạn của quá trình khai quật. Skarphédinn rằng chuyện này trở thành bài giảng thú vị ở trường, đặc biệt là nếu Erlendur tìm ra cách bộ xương nằm ở đó, ông ta thêm, với nụ cười để lộ ra mấy cái răng nanh.

      Hai bộ xương được đưa đến nhà xác ở Barónsstígur. Ông bác sĩ ở đó nghỉ cùng gia đình ở Tây Ban Nha và ít nhất tuần nữa mới trở về. Ông ta với Erlendur như thế qua điện thoại vào buổi chiều hôm đó. “Lại tắm nắng và say đến cả chấy đây mà”, ông thám tử nghĩ. khi khai quật những bộ xương lên và đưa vào xe tải, nhân viên y tế giám sát quá trình vận chuyển và đảm bảo rằng chúng được bảo quản ở nơi tốt nhất trong nhà xác.

      Theo đúng như cầu của Erlendur, thay vì bị tách đôi, hai bộ xương được vận chuyển cùng nhau để giữ được vị trí tại của chúng. Các nhà khảo cổ phải cạo rất nhiều đất giữa hai bộ xương . Vì thế trước mặt Erlendur và nhân viên y tế quận, dưới ánh sáng trắng của chiếc đèn huỳnh quang trong phòng giải phẫu, trông chúng chẳng khác nào đống xương đặt bàn. Hai bộ xương được gói trong tấm vải trắng lớn. Hai người đứng quan sát và suy ngẫm về chúng.

      “Điều quan trọng nhất mà chúng ta cần làm có lẽ là xác định tuổi của các bộ xương,” Erlendur và quay sang nhìn người nhân viên y tế.

      “Phải,” ông ta trầm ngâm . “Ông biết rằng thực giữa bộ xương của người đàn ông và người phụ nữ có rất ít khác nhau, ngoại trừ xương chậu. Nhưng ở đây chúng ta thể nhìn được ở bộ xương và phần đất giữa hai bộ xương đó. Như chúng ta biết, xương sườn bị gẫy. Nó khá lớn, có vẻ như đây là người phụ nữ khá cao. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi, nhưng thực ra tôi muốn liên quan gì đến chuyện này. Ông vội lắm à? Ông chờ thêm được tuần nữa ư? Tôi phải là chuyên gia về khám nghiệm hay xác định tuổi của xác chết. Có thể tôi để lỡ nhiều thông tin quan trọng mà bác sĩ chính quy chú ý, cân nhắc và cảm nhận. Nếu ông muốn công việc được tiến hành cẩn thận và chính xác, ông nên chờ. Có cần phải vội ? Chuyện này dời lại được à?” ông ta nhắc lại.

      Erlendur để ý thấy mồ hôi chảy ròng ròng trán người nhân viên y tế, ông nhớ có lần ai đó rằng ông ta luôn luôn trốn tránh quá nhiều trách nhiệm.

      “Cả hai đều ,” Erlendur đáp. “ cần phải vội. Tôi nghĩ thế. Trừ khi vụ khai quật khui ra những điều mà chúng ta chưa biết, bi kịch chẳng hạn.”

      “Ý ông là có ai đó theo dõi cuộc khai quật nên biết chuyện gì diễn ra, và người này ráp nối lại các kiện?”

      “Rồi chúng ta biết,” Erlendur . “Phải chờ ông bác sĩ khám nghiệm về thôi. Đó phải là vấn đề sống còn. Nhưng cứ thử xem ông có thể làm được gì cho chúng tôi. Hãy kiểm tra chúng khi nào ông thấy thuận tiện nhất. Ông có thể dời vị trí của bộ xương nhưng được phá hủy bất kỳ chứng cứ nào.”

      Nhân viên y tế gật đầu ra vẻ biết mình phải làm gì tiếp theo.

      “Để xem tôi làm được gì,” ông ta .

      Erlendur quyết định chuyện với cháu của Benjamín ngay thay vì chờ đến sáng hôm sau. Và ngay tối hôm đó, ông và Sigurdur Óli đến thăm bà ta. Elsa ra mở cửa và mời họ vào phòng khách. Ba người cùng ngồi xuống. Erlendur thấy Elsa trông có vẻ mệt mỏi, ông e ngại khi phải chứng kiến phản ứng của bà lúc biết chuyện khai quật hai bộ xương. Ông nghĩ rằng việc đào bới lại câu chuyện cũ này sau bao nhiêu năm và phát ra rằng bác mình có dính dáng đến vụ giết người khiến Elsa vô cùng căng thẳng.

      Ông cho bà biết về phát của các nhà khảo cổ đồi: có thể đó là vợ chưa cưới của Benjamín. Elsa nhìn hai thám tử trong lúc Erlendur hết câu chuyện, và bà thể giấu nổi hoài nghi của mình.

      “Tôi tin ông đâu,” bà khóc. “Ông rằng bác Benjamín giết vợ chưa cưới của mình ư?”

      “Có khả năng là…”

      “Và chôn ấy đồi gần ngôi nhà gỗ sao? Tôi tin đâu. Tôi hiểu ông lấy những chuyện này ở đâu ra. Chắc chắn là phải có nguyên nhân khác. Đơn giản là phải có. Bác Benjamín thể là kẻ giết người, tôi có thể đảm bảo điều đó. Ông được tự do xem xét ngôi nhà này và lục lọi căn hầm theo ý mình, nhưng chuyện này quá xa rồi. Ông nghĩ rằng tôi để ông vào căn hầm nếu như tôi, nếu như cả dòng họ tôi, có gì phải giấu giếm ư? , chuyện này quá xa rôi. Ông hãy ,” bà và đứng lên. “Ngay bây giờ!”

      “Chuyện này có nghĩa là bà có liên can,” Sigurdur Óli . và Erlendur vẫn ngồi yên. “ phải bà biết điều gì đó nhưng bà giấu chúng tôi chứ? Hay…?”

      “Ý các người là gì?” Elsa . “Rằng tôi biết điều gì đó ư? Các người buộc cho tôi tội đồng lõa phải ? Các người định bắt tôi à? Các người muốn bỏ tù tôi à? Các người ăn ở như thế đấy!” Bà nhìn chằm chằm vào Erlendur.

      “Bình tĩnh nào,” Erlendur . “Chúng tôi tìm ra bộ xương của đứa trẻ nằm trong bộ xương của người lớn. Chúng ta biết rằng vợ chưa cưới của Benjamín có thai. Kết luận rút ra cách tự nhiên là đó là bà ấy. Bà nghĩ thế ư? Chúng tôi chẳng bóng gió điều gì. Chúng tôi chỉ cố giải quyết vụ này thôi. Bà rất hợp tác và chúng tôi đánh giá cao điều đó. phải là ai cũng làm được những điều như bà làm. Tuy nhiên, là bác bà, ông Benjamín là đối tượng đáng nghi nhất sau khi chúng tôi khai quật được bộ xương.

      “Các ông hiểu lầm rồi,” bà . “Và các ông nhận ra điều đó nếu các ông cũng hiểu Benjamín như tôi. Ông ấy còn bao giờ đụng đến cả con ruồi. bao giờ.”

      “Ông ấy phát ra vợ chưa cưới của mình mang thai,” Sigurdur Óli . “Họ sắp cưới nhau. ràng là ông ấy bà ta say đắm. Dự định cho tương lai của Benjamín chủ yếu hướng đến tình , gia đình mà ông ấy chuẩn bị gây dựng, công việc làm ăn, địa vị trong xã hội của ông ấy. Rồi ông ấy sụp đổ hoàn toàn. Có thể ông ấy quá xa. Thi thể của bà ấy chưa bao giờ được tìm thấy. Người ta cho rằng bà ấy tự gieo mình xuống biển. Bà ấy biến mất. Và có thể chúng tôi vừa mới tìm ra bà ấy.”

      “Bà với Sigurdur Óli rằng Benjamín biết ai làm bà ấy mang thai,” Erlendur thận trọng . Ông biết có phải họ quá vội vàng hay và nguyền rủa ông bác sĩ ở Tây Ban Nha. Có lẽ họ nên dời chuyến viếng thăm này lại. Chờ đến lúc có kết quả chính xác .

      “Đúng vậy,” Elsa . “Ông ấy biết.”

      “Chúng tôi nghe mẹ của Sólveig đến gặp và kể cho ông ấy nghe chuyện đó. Khi mọi chuyện trôi qua. Sau khi Sólveig mất tích.”

      Thái độ của Elsa chuyển sang ngạc nhiên.

      “Tôi biết chuyện đó,” bà . “Khi nào cơ?”

      “Sau này,” Erlendur . “Tôi biết chính xác. Sólveig giữ bí mật về cha của đứa trẻ. Vì lý do nào đó, bà ấy ra điều đó. Bà ấy cho Benjamín biết chuyện gì xảy ra. Bà ấy chỉ hủy hôn ước và ai là cha đứa trẻ. Có thể là để bảo vệ gia đình mình. Bảo vệ danh dự cho cha mình.”

      “Ý ông là gì? ‘Danh dự của cha mình’ ư?”

      “Cháu trai ông ta cưỡng hiếp Sólveig khi ấy đến thăm người thân ở Fljót.”

      Elsa ngồi phịch xuống ghế và vô thức đặt tay lên miệng đầy kinh ngạc.

      thể nào tin được,” bà thở dài.

      Cùng lúc đó, ở đầu kia thành phố, Elínborg chuyện với Bára những phát về ngôi mộ đồi và giả thuyết có khả năng nhất là đó là xác của Sólveig, vợ chưa cưới của Benjamín. Rằng Benjamín có thể chôn bà ấy ở đó. Elínborg nhấn mạnh rằng tất cả những gì mà cảnh sát có trong tay là ông ấy là người cuối cùng thấy bà ấy còn sống và đứa trẻ được phát cùng với bộ xương đó đồi. Tất cả những phân tích về hai bộ xương vẫn còn chưa có. Bára nghe Elínborg chớp mắt. Như thường lệ, bà ta vẫn sống trong ngôi nhà rộng thênh thang, bao bọc trong nhung lụa, và hề có phản ứng nào.

      “Bố tôi muốn chị ấy phá thai,” bà ta . “Mẹ tôi muốn đưa chị ấy về quê, để chị ấy sinh đứa bé ở đó, cho đứa bé rồi quay trở lại như thể là có chuyện gì xảy ra, rồi sau đó cưới Benjamín. Bố mẹ tôi bàn bạc chuyện đó rất lâu, rồi sau đó gọi Sólveig vào chuyện.” Bára đứng lên.

      “Sau này mẹ tôi mới cho tôi biết điều đó.”

      Bà ta bước đến cái tủ bằng gỗ sồi sang trọng, mở ngăn kéo ra và mấy ra cái khăn tay màu trắng rồi chấm vào mũi.

      “Họ đưa ra hai phương án cho chị ấy. Họ chưa bao giờ bàn bạc về phương án thứ ba sinh đứa bé và biến nó trở thành phần của gia đình chúng tôi. Sólveig cố gắng thuyết phục họ, nhưng bố mẹ tôi muốn nghe điều đó. muốn biết chuyện đó. Họ chủ ý muốn giết đứa bé hoặc cho nó . còn lựa chọn nào khác.”

      “Thế còn Sólveig?”

      “Tôi biết,” Bára . “Sólveig tội nghiệp! Chị ấy muốn sinh đứa bé, chị ấy nghĩ được chuyện khác. Chị ấy vẫn chỉ là trẻ. Và chị ấy chẳng khác nào đứa trẻ.”

      Erlendur nhìn Elsa.

      “Benjamín có thể cho đó là hành động phản bội ?” ông hỏi. “Nếu Sólveig từ chối tên cha đứa trẻ ấy?”

      ai biết chuyện gì xảy ra giữa họ trong cuộc gặp cuối cùng đó,” Elsa . “Benjamín với mẹ tôi những chi tiết chính, nhưng bà biết ông ấy có kể tất cả các chi tiết quan trọng hay . Có đúng là chị ấy bị cưỡng hiếp ? Lạy Chúa tôi!”

      Elsa hết nhìn Erlendur lại sang Sigurdur Óli.

      “Benjamín rất có thể coi đó là hành động phản bội,” bà .

      “Xin lỗi, bà vừa gì cơ ạ?” Erlendur hỏi.

      “Benjamín rất có thể cho rằng chị ấy phản bội mình,” Elsa nhắc lại. “Nhưng điều đó có nghĩa là ông ấy giết chết Sólveig và chôn chị ấy đồi.”

      “Bởi vì bà ấy ,” Erlendur .

      “Phải, bởi vì chị ấy ra,” Elsa đáp. “Chị ấy tiết lộ tên cha đứa bé. Ông ấy biết gì về vụ cưỡng hiếp hết. Tôi nghĩ chuyện đó rất có thể xảy ra.”

      “Có khi nào ông ấy có tòng phạm ?” Erlendur hỏi. “Có thể ông ấy thuê ai đó làm chuyện ấy cho mình chẳng hạn?”

      “Tôi hiểu.”

      “Ông ấy cho kẻ chuyên đánh vợ, đồng thời là tên ăn cắp thuê ngôi nhà ở Grafahort. Bản thân chuyện đó có nghĩa gì với chúng ta, nhưng dù sao nó cũng là .”

      “Tôi hiểu ông đến chuyện gì. kẻ chuyên đánh vợ ư?”

      , có lẽ hôm nay như thế là đủ rồi. Có thể chúng tôi quá vội vàng, bà Elsa ạ. Có lẽ tốt nhất là chúng ta nên chờ kết quả xét nghiệm của bác sĩ. Thứ lỗi cho chúng tôi nếu chúng tôi…”

      , phải đâu, , cảm ơn các ông báo tin cho tôi. Tôi rất trân trọng điều đó.”

      “Chúng tôi báo cho bà diễn tiến của vụ điều tra,” Sigurdur Óli .

      “Và các ông có lọn tóc,” Elsa . “Để nhận dạng.”

      Elínborg đứng lên. Hôm nay ngày rất dài và muốn về nhà. cảm ơn Bára và xin lỗi vì quấy rầy bà vào tối muộn như thế. Bára đừng bận tâm. Bà ta tiễn Elínborg đến cửa và đóng nó lại. lát sau chuông cửa reo lên, Bára ra mở cửa.

      “Bà ấy có cao ?” Elínborg hỏi.

      “Ai cơ?” Bára hỏi lại.

      “Chị bà ấy,” Elínborg . “Bà Sólveig rất cao, tầm thước hay thấp? Tạng người bà ấy thế nào?”

      , chị ấy cao,” Bára và gần như mỉm cười. “Ngược lại là khác. Chị ấy rất thấp. Dáng người rất mảnh dẻ. Người được nhúm xương, mẹ tôi thường vậy. Nhìn chị ấy dạo với Benjamín và nắm tay nhau mới buồn cười, bởi vì ông ta cao đến nỗi vượt hẳn lên so với chị ấy.”

      Ngay trước lúc nửa đêm, nhân viên y tế quận gọi điện cho Erlendur, lúc này ông ngồi bên con trong bệnh viện.

      “Tôi ở nhà xác,” ông ta , “và tôi vừa mới tách hai bộ xương ra. Tôi hy vọng là mình phá hỏng thứ gì. Tôi phải là bác sĩ. Đất phủ đầy bàn và sàn nhà, đống hỗn độn bẩn thỉu.”

      “Và?” Erlendur hỏi.

      “Vâng, tôi xin lỗi. Chúng ta có bộ xương của bào thai ít nhất là bảy tháng tuổi.”

      “Phải,” Erlendur sốt ruột .

      “Và có gì khác thường cả. Trừ…”

      tiếp .”

      “Rất có thể là nó được sinh ra trước khi chết. Hoặc có thể là chết non. Rất khó xác định chuyện đó. Nhưng người nằm dưới đó phải là mẹ nó.”

      “Chờ chút… Sao ông thế?”

      “Người mẹ thể nằm bên dưới đứa trẻ hay bị chôn cùng với nó được, mặc dù ông muốn cho là như thế.”

      phải là người mẹ ư? Ý ông là gì? Thế người đó là ai?”

      còn nghi ngờ gì nữa,” nhân viên y tế . “Xương chậu lên tất cả.”

      “Xương chậu ư?”

      “Bộ xương lớn là của người đàn ông. Người bị chôn dưới đứa bé là người đàn ông.”


      27

      Mùa đông đồi dài và khắc nghiệt.

      Mẹ bọn trẻ vẫn làm việc ở trang trại sữa Gufunes và hai đứa con trai vẫn bắt xe bus đến trường mỗi sáng. Grímur quay trở lại công việc giao than. Sau khi vụ bê bối bị phát , quân đội cho làm việc ở đó nữa. Kho quân nhu bị đóng cửa và cả doanh trại bị chuyển xuống Hálogaland. Chỉ còn lại hàng rào và cột rào ở đó, cả mảnh sân bê tông trước doanh trại nữa. Khẩu đại bác cũng được tháo ra khỏi boong-ke. Người ta rằng chiến tranh sắp kết thúc. Người Đức rút quân khỏi Nga và người ta cho rằng cuộc phản công lớn chuẩn bị diễn ra ở mặt trận phía Tây.

      Grímur gần như lờ tịt vợ suốt mùa đông đó. rất ít khi , trừ lúc đánh mắng . Họ còn ngủ chung giường. Người mẹ ngủ trong phòng Símon, còn Grímur muốn Tómas ở trong phòng mình. Tất cả mọi người, trừ Tómas, đều để ý thấy bụng dần dần phình ra suốt mùa đông đó cho đến khi nó nhô lên giống như kỷ niệm về những điều ngọt ngào và cay đắng trong mùa hè năm đó. Và đó là cách nhắc nhở kinh hoàng về những điều xảy ra nếu như Grímur thực những lời đe dọa của mình.

      tìm mọi cách che giấu tình trạng của mình.

      Grímur dọa dẫm thường xuyên. rằng để giữ đứa bé lại. giết nó ngay khi nó ra đời. rằng nó đứa chậm phát triển y như Mikkelína và tốt nhất là nên giết nó ngay lập tức. “ đứa chó đẻ người Mỹ,” . Nhưng đánh đập suốt mùa đông năm đó. tấn công trực diện, chỉ vờn quanh như con quái vật chuẩn bị vồ mồi.

      cố gắng về việc ly hôn, nhưng Grímur chỉ cười chế giễu. về hoàn cảnh của mình với những người cùng làm ở Gufunes và cũng để lộ ra việc mình có thai. Có lẽ, cho đến tận lúc cuối, vẫn nghĩ rằng Grímur công khai thừa nhận sai lầm, rằng lời đe dọa của chỉ là đe dọa, và rằng cư xử như người cha đối với đứa trẻ, bất chấp mọi chuyện.

      Cuối cùng viện đến những phương cách liều lĩnh. phải là trả thù Grímur, mặc dù có cả tá lý do, mà chỉ bảo vệ bản thân và đứa trẻ mình sắp sinh.

      Suốt mùa đông khắc nghiệt đó, Mikkelína cảm nhận rất căng thẳng giữa mẹ và Grímur và nó thấy ở Símon có thay đổi đáng lo ngại kém. Nó vẫn luôn mẹ, nhưng giờ đây nó rời mẹ nửa bước từ lúc nó về học và mẹ nó xong việc ở Gufunes. Nó lo lắng nhiều hơn từ sau khi Grímur ra tù vào cái buổi sáng mùa thu lạnh lẽo ấy. Nó tránh bố nó càng xa càng tốt, và mỗi ngày trôi qua, nỗi lo lắng về mẹ lại dày vò nó nhiều hơn. Đôi lúc Mikkelína nghe thấy Símon tự mình và đôi lúc cứ như là nó chuyện với ai mà con bé nhìn thấy – người có lẽ ở trong ngôi nhà: người tưởng tượng. Đôi lúc nó nghe thằng bé to những điều nó phải làm để bảo vệ mẹ và đứa bé của người bạn Dave mà mẹ sắp sinh. về trách nhiệm của nó phải bảo vệ mẹ khỏi bàn tay Grímur. Về cuộc sống của đứa bé phụ thuộc thế nào vào nó. ai khác có thể làm được điều đó. Người bạn Dave của nó bao giờ quay lại. Símon rất để tâm đến lời đe dọa của Grímur. Nó tin chắc rằng Grímur cho đứa bé sống. Rằng Grímur lấy đứa bé và họ bao giờ được trông thấy nó.

      Tómas vẫn lặng lẽ như mọi khi, nhưng Mikkelína cảm thấy nó có thay đổi khi mùa đông qua. Grímur cho phép Tómas ngủ trong phòng mình sau khi cấm mẹ lũ trẻ ngủ chiếc giường đôi và bắt phải ngủ ở giường Tómas. Cái giường đó quá thoải mái. Mikkelína biết Grímur gì với Tómas, nhưng chẳng bao lâu sau, thằng bé tỏ thái độ rất khác với chị mình. Nó chẳng liên quan gì đến chị và tự tách mình ra khỏi Símon, mặc dù trước đây chúng hết sức thân thiết. Người mẹ cố gắng chuyện với Tómas nhưng nó luôn luôn tránh xa bà, nó tức giận, yên lặng và vô dụng.

      “Símon thay đổi rất nực cười,” có lần Mikkelína nghe Grímur với Tómas. “Nó trở nên buồn cười y như mẹ mày. Hãy đề phòng thằng đó. Nhớ là đừng có thích nó. Nếu mày cũng trở thành thằng buồn cười như nó đấy.”

      lần Mikkelína nghe mẹ nó chuyện với Grímur về đứa trẻ, lần duy nhất cho phép bà lên suy nghĩ của mình, theo như Mikkelína biết. Bụng mẹ nó phình lên và cấm mẹ nó được làm ở trang trại sữa nữa.

      “Mày bỏ việc và hãy rằng mày phải chăm lo cho gia đình,” Mikkelína nghe ra lệnh cho mẹ.

      “Nhưng ông có thể nó là của ông cơ mà,” .

      Grímur cười nhạo .

      “Ông có thể thế.”

      “Câm .”

      Mikkelína thấy Símon cũng nghe trộm.

      “Ông có thể dễ dàng rằng đó là con của ông,” người mẹ nhàng .

      “Đừng có cố,” Grímur .

      “Người ta chẳng cần phải biết chuyện gì. Chẳng ai cần quan tâm.”

      “Bây giờ quá muộn để sửa chữa sai lầm rồi. Đáng lẽ ra mày phải nghĩ đến chuyện ấy khi mày tằng tịu với thằng người Mỹ chó chết đó.”

      “Hoặc là tôi nhận nó làm con nuôi,” thận trọng . “Tôi phải là người đầu tiên làm chuyện này mà.”

      “Chắc chắn là rồi,” Grímur . “Nửa cái thành phố khốn kiếp này ăn nằm với chúng. Nhưng đừng có nghĩ rằng điều đó có ích gì.”

      “Ông bao giờ phải nhìn thấy nó. Tôi đưa nó xa ngay sau khi sinh nó ra và ông bao giờ phải trông thấy nó.”

      “Tất cả mọi người đều biết chuyện vợ tao ngủ với bọn lính Mỹ,” Grímur .

      ai biết đâu,” . “ ai biết mà. ai biết chuyện giữa Dave và tôi đâu.”

      “Thế mày nghĩ làm thế nào mà tao biết được chuyện đó, con đĩ? Vì mày với tao chắc? Mày nghĩ là những chuyện như vậy lan à?”

      “Có, nhưng ai biết ấy là bố đứa trẻ. ai biết đâu.”

      “Câm mồm ,” Grímur . “Câm ngay nếu …”

      Tất cả mọi người đều chờ xem mùa đông dài đằng đẵng đó mang đến điều gì và chuyện gì, theo cách khủng khiếp nào đó, là tránh được.

      Mọi chuyện bắt đầu khi Grímur dần dần đổ bệnh.

      ***

      Mikkelína nhìn Erlendur chằm chằm.

      “Bà ấy bắt đầu đầu độc ta vào mùa đông năm đó.”

      “Đầu độc ư?” Erlendur .

      “Bà ấy biết mình làm gì nữa.”

      “Bà ấy đầu độc ông ta như thế nào?”

      “Ông có nhớ vụ Dúkskot ở Reykjavík ?”

      “Vụ người phụ nữ trẻ giết trai mình bằng thuốc chuột đấy ư? Có, vụ đó diễn ra vào khoảng đầu thế kỷ trước.”

      “Mẹ định giết bằng loại thuốc đó. Bà chỉ muốn bị ốm thôi. Nhờ vậy bà có thể sinh đứa bé và để nó thoát khỏi tầm tay trước khi phát ra là đứa bé biến mất. Người phụ nữ ở Dúkskot đầu độc mình bằng cách cho ông ta ăn thuốc chuột. Bà ta tống cả đống vào sữa của ông ta, thậm chí ông ta nhìn thấy em mình làm thế, ông ta vẫn biết đó là cái gì. Ông ta cố gắng cho người khác biết bởi vì mấy ngày sau ông ta mới chết. Bà ta đưa rượu sơ-nap cùng với sữa cho ông ta để che giấu vị lạ. Trong cuộc điều tra, người ta phát ra phốt pho trong xác ông ta, chất này có độc tính phát tác chậm. Mẹ chúng tôi biết câu chuyện đó, đó là vụ giết người gây chấn động Reykjavík. Bà phụ trách trông nom thuốc chuột ở trại sữa Gufunes. Bà ăn cắp những liều thuốc và trộn vào đồ ăn của . Mỗi lần bà chỉ dùng ít nên cảm thấy vị lạ hay nghi ngờ bất cứ điều gì. Thay vì giữ thuốc độc ở nhà, bà mang theo ít bên người mỗi lần dùng đến, nhưng khi bỏ việc ở trang trại, bà mang về nhà liều lớn và giấu nó . Bà biết tác dụng của nó lên người Grímur như thế nào, biết liệu với liều lượng như thế chúng có tác dụng hay . Nhưng sau thời gian, chúng bắt đầu phát tác. yếu dần , thường ốm hoặc mệt mỏi và nôn mửa. làm nổi. Chỉ nằm giường chịu bệnh.”

      “Ông ta có nghi ngờ gì ?” Erlendur hỏi.

      , mãi đến khi quá muộn,” Mikkelína . “ tin vào bác sĩ. Và tất nhiên là mẹ giục khám bệnh rồi.”

      “Thế còn việc ông ta ‘chăm sóc’ Dave sao? Ông ta có nhắc lại chuyện đó ?”

      , bao giờ,” Mikkelína . “Thực chỉ lừa gạt thôi. chỉ để dọa mẹ thôi. biết mẹ Dave.”

      Erlendur và Elínborg ngồi trong phòng khách nhà Mikkelína và nghe câu chuyện bà kể. Họ cho bà biết rằng bộ xương đồi là của người đàn ông, đó có bộ xương của đứa bé. Mikkelína lắc đầu, nếu họ vội vã ra lý do, bà có thể cho họ biết chuyện đó.

      Bà muốn biết về bộ xương của đứa trẻ và khi Erlendur hỏi lúc nào bà muốn nhìn nó, bà .

      “Nhưng tôi muốn biết khi nào các ông cần đến nó nữa,” bà . “ đến lúc bé được yên nghỉ trong lòng đất linh thiêng rồi.”

      bé ư?”

      “Phải. bé,” Mikkelína .

      ***

      Sigurdur Óli cho Elsa biết phát của nhân viên y tế: bộ xương nằm dưới ngôi mộ thể là vợ chưa cưới của Benjamín. Elínborg gọi điện cho em của Sólveig, Bára để báo tin tương tự.

      Khi Erlendur đường đến gặp Mikkelína với Elínborg Ed gọi để báo rằng ông ta vẫn chưa tìm ra chuyện gì xảy đến với Dave Welch. Ông ta cũng chưa biết liệu ông ta có bị chuyển khỏi Iceland , hay khi nào chuyện đó xảy ra. Ông ta rằng mình tiếp tục điều tra.

      Sáng sớm hôm đó Erlendur đến khu chăm sóc đặc biệt để thăm con . Tình trạng của con bé vẫn chưa có gì tiến triển, Erlendur ngồi bên Eva Lind lâu và kể lại câu chuyện của mình về người em chết cóng trong khu làng ở Eskifjördur khi Erlendur mới lên mười tuổi. Lúc đó họ lùa cừu về cùng bố cơn bão ập đến. Hai em nhìn thấy bố và ngay sau đó nhìn thấy nhau nữa. Người bố quay trở về nông trại, kiệt sức. Rất nhiều toán tìm kiếm bủa .

      “Rất tình cờ họ tìm thấy bố,” Erlendur . “Bố biết tại sao. Bố nhanh trí đào chỗ trú cho mình trong đống tuyết. Khi họ chọc vào tuyết và đầu gậy đâm vào vai bố, bố thừa sống thiếu chết. Sau đó bố chuyển , thể sống được ở đó nữa, mặc dù biết rằng em bố vẫn ở đó. Mọi người cố gắng bắt đầu cuộc sống mới ở Reykjavík… nhưng vô ích.”

      Đúng lúc đó bác sĩ nhìn vào. Ông ta và Erlendur chào nhau và trao đổi ngắn gọn về tình trạng của Eva Lind. Vẫn có gì thay đổi, ông bác sĩ . có dấu hiệu phục hồi hay con bé dần lấy lại ý thức. Họ yên lặng. Rồi chào tạm biệt. Ông bác sĩ quay ra cửa, Erlendur cười lạnh nhạt.

      Lúc này Erlendur ngồi đối diện Mikkelína, nghĩ đến con nằm trong bệnh viện và em trai nằm trong tuyết. Những từ Mikkelína cứ chậm rãi chảy vào tâm trí ông.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “Mẹ tôi phải là kẻ giết người,” bà .

      Erlendur nhìn bà.

      “Bà ấy giết người,” Mikkelína nhắc lại. “Bà ấy nghĩ rằng mình có thể cứu được đứa bé. Bà ấy lo sợ cho con mình.”

      Mikkelína liếc nhìn Elínborg.

      “Cuối cùng, cũng chết,” bà . “ chết vì trúng độc.”

      “Nhưng bà rằng nghi ngờ gì cho đến khi quá muộn cơ mà?” Elínborg .

      “Phải,” Mikkelína . “Lúc đó quá muộn.”

      ***

      Vào cái đêm chuyện đó xảy ra, Grímur dường như đỡ hơn sau ngày dài nằm giường, khốn khổ vì đau.

      Người mẹ thấy đau bụng, đến tối trở dạ và co thắt tử cung rất nhanh. biết rằng như thế này là quá sớm. Đứa bé bị đẻ non. bảo hai đứa con mang đệm từ giường của chúng và -văng của Mikkelína trong bếp đến, và đến giờ cơm tối, sinh con những tấm đệm đó.

      bảo Símon và Mikkelína chuẩn bị sẵn vải sạch và nước nóng để tắm cho em bé. Sau khi sinh ba đứa con, biết các thủ tục cần thiết.

      Lúc đó vẫn là mùa đông, trời vẫn tối, nhưng thời tiết lại đột ngột trở nên ấm áp và mưa suốt cả ngày. Mùa xuân đến sớm. Cả ngày hôm đó người mẹ ở ngoài dọn giường chiếu quanh những bụi cây lý chua và cắt tỉa cành khô. những quả mọng rất ngon khi làm mứt vào mùa thu đó. Símon để cho mẹ rời khỏi tầm mắt của mình, nó đến chỗ bụi cây cùng mẹ. cố gắng khuyên nhủ nó bình tĩnh lại và rằng mọi chuyện ổn thôi.

      “Chẳng có gì ổn cả,” Símon và nhắc lại. “Chẳng có gì ổn cả. Mẹ được sinh đứa bé đó. Mẹ được phép. Ông ta rồi, ông ta giết chết nó. Ông ta thế. Lúc nào đứa bé ra đời?”

      “Con đừng lo,” mẹ nó . “Khi đứa bé ra đời, mẹ đưa nó ra thành phố và ông ta bao giờ trông thấy nó. Ông ta nằm giường cả ngày nên chẳng làm gì được đâu.”

      “Nhưng lúc nào đứa bé mới ra đời?”

      “Bất cứ lúc nào,” mẹ nó . “Có thể hơi sớm chút. Sau đó mọi chuyện qua và được giải quyết êm đẹp. Con đừng sợ, Símon. Con phải mạnh mẽ lên. Vì mẹ, Símon ạ.”

      “Sao mẹ đến bệnh viện? Sao mẹ khỏi đây để sinh em bé?”

      “Ông ta cho đâu,” . “Ông ta tìm mẹ về và bắt mẹ sinh ở nhà. Ông ta muốn bất kỳ ai biết chuyện. Chúng ta rằng chúng ta giao nó cho những người tốt chăm sóc. Đó là điều ông ta muốn. Mọi chuyện rồi ổn thôi.”

      “Nhưng ông ta rằng giết nó.”

      “Ông ta làm thế đâu.”

      “Con sợ lắm,” Símon . “Chuyện này cứ phải như thế này ư? Con biết phải làm gì nữa. Con biết phải làm gì nữa,” nó nhắc lại, và thấy nó bị nỗi sợ hãi làm cho mụ mẫm.

      Lúc này nó đứng nhìn mẹ, nằm đệm ở trong bếp. Trừ cái phòng ngủ đôi ra, đây là nơi duy nhất trong nhà đủ rộng, và bắt đầu rặn trong yên lặng tuyệt đối.

      Tómas ở trong phòng bố. Símon rón rén lại gần cánh cửa và đóng nó lại.

      Mikkelína nằm bên mẹ, mẹ nó cố gắng trong đau đớn để tạo ra tiếng động nào. Cánh cửa phòng ngủ đôi mở ra, Tómas bước tới hành lang và vào bếp. Grímur ngồi mép giường rên rỉ. bảo Tómas vào bếp để lấy tô cháo đặc mà chưa động đến. cũng bảo nó xúc cháo giúp nữa.

      Khi Tómas qua chỗ mẹ nó, Símon và Mikkelína, nó thấy cái đầu của đứa bé lộ ra. Mẹ nó rặn với tất cả sức lực của mình cho đến khi hai vai đứa bé cũng chui ra.

      Tómas bê tô cháo, và qua khóe mắt mẹ nó chợt trông thấy thằng bé định ăn thìa đầy.

      “Tómas! Vì Chúa, con đừng động đến món cháo đó!!!” hét lên đầy tuyệt vọng.

      im lặng chết chóc bao trùm xuống ngôi nhà, những đứa trẻ nhìn mẹ chúng chằm chằm, lúc này ngồi bế đứa bé và nhìn chằm chằm vào Tómas. Thằng bé ngạc nhiên quá đến nỗi làm rơi cả tô cháo khiến nó tan thành trăm mảnh.

      Cái giường cọt kẹt.

      Grímur bước ra hành lang và vào bếp.

      nhìn xuống thấy vợ ngồi bế đứa trẻ mới sinh trong tay. Mặt lên ghê tởm. nhìn sang Tómas, rồi đến tô cháo sàn.

      “Có khi nào lại thế ?” giọng Grímur và đầy kinh ngạc, như thể là đột nhiên tìm ra câu trả lời cho điều bí mà bấy lâu nay mình trăn trở. lại nhìn xuống chỗ vợ ngồi.

      “Mày đầu độc tao có phải ?” quát lên.

      Người mẹ ngước mắt lên nhìn Grímur. Mikkelína và Símon dám nhìn. Tómas đứng bất động tô cháo chảy chan chứa sàn.

      “Tao mảy may nghi ngờ điều đó! Những cơn hôn mê đó. Cơn đau đó. Những trận ốm đó…”

      Grímur nhìn quanh bếp. Sau đó nhảy đến chỗ cái tủ ly và giật mạnh để mở ngăn kéo. điên lên. đổ tất cả những thứ trong cái tủ ra sàn nhà. cầm cái túi đựng bột ngô lên và ném nó vào tường. Khi cái túi vỡ ra, nghe có tiếng lọ thủy tinh vỡ và rơi ra khỏi đó.

      “Cái đó đây có phải ?” quát và nhặt lấy cái lọ. “Mày làm chuyện này bao lâu rồi?” rít lên.

      Mẹ lũ trẻ nhìn vào mắt chằm chằm. ngọn nến cháy sàn bên cạnh . Khi tìm thuốc độc, nhanh chóng cầm lấy cái kéo mà đặt bên cạnh mình để hơ lửa, sau đó cắt dây rốn và buộc nó lại bằng đôi tay run rẩy.

      “Trả lời tao !” Grímur gào lên.

      cần phải trả lời. có thể biết được qua đôi mắt . Qua thái độ của . Qua cái cách luôn coi thường , từ sâu trong lòng, cách điềm nhiên, bất chấp việc có đánh đập thường xuyên đến thế nào, nhìn thấy điều đó qua bất tuân lặng lẽ, qua ánh mắt thách thức chọc thẳng vào trong lúc vẫn ôm đứa con hoang của thằng lính Mỹ trong tay.

      Thấy điều đó qua việc ôm đứa bé vào ngực của mình.

      “Để mẹ được yên,” Símon thấp giọng .

      “Đưa nó cho tao!” Grímur hét lên. “Đưa đứa bé cho tao, con rắn khốn kiếp!”

      “Để mẹ yên,” Símon , to hơn.

      “Đưa nó đây,” Grímur gào lên, “nếu tao giết cả hai bây giờ. Tao giết sạch! Giết sạch! Giết sạch!”

      Mồm sùi cả bọt mép vì tức giận.

      “Con điếm khốn nạn! Mày định giết tao phải ? Mày nghĩ là mày có thể giết được tao à?”

      “Thôi !” Símon quát lên.

      Người mẹ ôm chặt đứa con bằng tay và mò mẫm cái kéo bằng tay còn lại nhưng tìm thấy nó. hoảng loạn nhìn quanh để tìm nhưng nó biến mất rồi.

      ***

      Erlendur nhìn Mikkelína.

      “Ai cầm cái kéo?” ông hỏi.

      Lúc này Mikkelína đứng bên cửa sổ. Erlendur và Elínborg liếc nhìn nhau. Họ đều nghĩ đến điều.

      “Bà là người duy nhất còn sống để kể câu chuyện này phải ?” Erlendur hỏi.

      “Phải,” Mikkelína đáp. “ còn ai khác.”

      “Ai cầm cái kéo?” Elínborg hỏi.


      28

      “Ông có muốn gặp Símon ?” Mikkelína hỏi. Hai mắt bà mọng nước.

      “Símon ư?” Erlendur hỏi, biết bà thế là có ý gì.

      Sau đó ông nhớ ra người đàn ông đến đón bà ở đồi. “Ý bà là con trai bà ư?”

      , phải con tôi, mà là em trai tôi,” Mikkelína . “Em trai Símon của tôi.”

      “Ông ấy còn sống ư?”

      “Phải, nó còn sống.”

      “Vậy chúng ta phải chuyện với ông ấy,” Erlendur .

      “Hai người hỏi nó được nhiều đâu,” Mikkelína mỉm cười.

      “Nhưng dù sao cũng cứ đến gặp nó. Nó thích được người khác ghé thăm lắm!”

      “Bà định kể nốt câu chuyện sao?” Elínborg hỏi. “Gã đó là loại quái vật gì thế? Tôi thể tin nổi có ai đó lại cư xử như thế.”

      Erlendur nhìn sang .

      “Tôi kể đường ,” Mikkelína . “Chúng ta gặp Símon thôi.”

      ***

      “Símon!” người mẹ hét lên.

      “Để mẹ yên,” Símon hét lên, giọng nó run run, và trước khi họ kịp hiểu ra chuyện gì, nó cắm phập cây kéo vào ngực Grímur.

      Símon giật tay lại và thấy cái kéo cắm sâu lút cán. Grímur tin nổi khi nhìn vào con trai, như thể là vẫn chưa thực hiểu chuyện vừa diễn ra. nhìn xuống cây kéo, nhưng dường như thể cử động nổi. lại nhìn Símon.

      “Mày giết tao ư?” rên rỉ và quỳ sụp xuống. Máu phun từ vết thương xuống sàn nhà. Grímur từ từ lùi lại và đập mạnh lưng vào tường.

      Người mẹ ôm chặt đứa bé trong nỗi kinh hoàng nín lặng.

      Mikkelína nằm yên bên mẹ. Tómas vẫn đứng yên chỗ nó vừa đánh rơi tô cháo. Símon bắt đầu run rẩy, nó đứng bên cạnh mẹ. Grímur cử động.

      Mọi thứ trở nên yên lặng.

      Cho đến khi người mẹ ré lên tiếng kêu thét đầy đau đớn.

      ***

      Mikkelína dừng lại.

      “Tôi biết có phải đứa bé bị chết non hay do mẹ ôm chặt quá đến mức nó chết ngạt trong vòng tay mẹ. Đứa bé ra đời quá sớm. Bà nghĩ rằng nó chào đời vào mùa xuân, nhưng cuối đông bà sinh nó rồi. Chúng tôi bao giờ nghe thấy thanh nào phát ra từ nó. Mẹ làm sạch cổ họng cho nó, bà còn dụi mặt nó vào áo mình vì sợ. Bà sợ rằng Grímur cướp mất đứa bé khỏi tay mình.”

      Theo chỉ dẫn của Mikkelína, Erlendur đỗ xe gần ngôi nhà riêng trông khá giản dị.

      “Ông ta chết vào mùa xuân đó à?” Erlendur hỏi. “Bố dượng của bà ấy? Mẹ bà có nghĩ đến chuyện đó ?”

      “Tôi nghĩ thế,” Mikkelína . “Bà ấy đầu độc ông ta ba tháng. Như thế chưa đủ.”

      Erlendur dừng xe lại và tắt máy.

      “Hai người nghe đến chứng bệnh thanh xuân chưa?” bà hỏi trong lúc mở cửa xe.

      ***

      Người mẹ nhìn chằm chằm vào đứa bé chết tay mình, điên cuồng lắc đứa bé, khóc òa lên nức nở.

      Có vẻ như để ý gì đến mẹ, Símon nhìn chằm chằm vào xác bố nó như thể tin vào mắt mình. vũng máu dần hình thành bên dưới . Símon run lên bần bật.

      Mikkelína cố gắng an ủi mẹ nhưng được. Tómas bước qua họ vào phòng ngủ và đóng cửa lại mà năng gì. Biểu mặt nó hề thay đổi.

      khoảng thời gian khá lâu trôi qua.

      Cuối cùng, Mikkelína cũng làm cho mẹ nó bình tĩnh lại. Khi bình tâm và thôi khóc nữa, nhìn thấy Grímur nằm vũng máu, thấy Símon run rẩy bên mình, thấy nỗi đau đớn khuôn mặt Mikkelína. Sau đó bắt đầu tắm cho đứa bé bằng nước nóng mà Símon chuẩn bị, kỳ cọ cho nó cách kỹ càng, chậm rãi. Dường như biết phải làm gì mà cần phải suy nghĩ. đặt đứa bé xuống, đứng lên và ôm lấy Símon, thằng bé đứng chôn chân tại chỗ, thôi run rẩy nữa mà thay vào đó là những tiếng nức nở nghẹn ngào. đưa nó đến chỗ cái ghế và bảo nó ngồi xuống, quay lưng lại cái xác. Sau đó đến chỗ Grímur, lấy cái kéo ra khỏi vết thương và ném vào bồn rửa bát. Cuối cùng ngồi xuống ghế, kiệt sức sau khi sinh.

      với Símon về những việc họ phải làm, với cả Mikkelína nữa. Họ cuộn Grímur vào cái chăn và kéo xác ra cửa trước. ra ngoài cùng Símon và họ cách nhà đoạn khá xa, nơi nó bắt đầu đào cái hố.

      Cơn mưa tạnh suốt cả ngày bây giờ lại tiếp tục rơi. Cơn mưa mùa đông to và lạnh. Đất mới chỉ cứng lại phần. Símon cuốc đất bằng cái cuốc chim, và sau hai tiếng đồng hồ đào bới, họ đưa cái xác ra và lôi nó xuống mộ. Họ kéo chăn lên cái hố, cái xác rơi xuống và họ giật mạnh cái chăn bên dưới. Cái xác nằm dưới mộ với bàn tay trái giơ lên trung, nhưng cả Símon và mẹ nó đều thể di chuyển được nó.

      Người mẹ nặng nề bước về nhà và ôm lấy đứa bé, bế nó dưới cơn mưa lạnh lẽo và đặt nó xuống chỗ xác của Grímur.

      định làm dấu chợt ngừng lại.

      “Ông ta tồn tại,” .

      Sau đó họ bắt đầu lấp đất lên hai xác chết.

      Símon đứng bên ngôi mộ nhìn những xẻng đất ướt nhẹp màu đen rơi phịch xuống hai cái xác và thấy chúng dần dần biến mất. Mikkelína bắt đầu thu dọn nhà bếp. ai trông thấy Tómas đâu.

      Khi lớp bùn dày phủ lên ngôi mộ, Símon bất chợt cảm thấy rằng Grímur cử động. Nó rùng mình nhìn mẹ nó, bà để ý gì cả, sau đó nó nhìn xuống ngôi mộ và nó kinh hoàng khi thấy khuôn mặt bị đất che nửa cử động.

      Hai con mắt mở ra.

      Símon cứng người lại.

      Grímur ở dưới mộ nhìn nó chằm chằm.

      Símon hét toáng lên khiến mẹ nó dừng tay lại. nhìn Símon, sau đó nhìn xuống ngôi mộ và thấy Grímur vẫn còn sống. đứng bên miệng ngôi mộ. Khi những hạt mưa rơi xuống, chúng rửa trôi đất cát mặt Grímur. Họ nhìn vào mắt nhau thoáng, sau đó môi Grímur mấp máy.

      “Làm ơn!”

      Hai mắt khép lại.

      nhìn Símon. Rồi nhìn xuống ngôi mộ. Rồi lại nhìn Símon. Sau đó cầm xẻng và tiếp tục lấp cái hố như thể có chuyện gì xảy ra. Grímur biến mất, bị chôn dưới lòng đất.

      “Mẹ,” Símon khóc.

      “Về nhà , Símon,” . “Mọi chuyện qua rồi. Về nhà và giúp Mikkelína Símon. Nào, Símon. Con về nhà .”

      Símon nhìn mẹ nó, bà khom người, tay vẫn cầm xẻng, toàn thân ướt sũng dưới cơn mưa trong lúc lấp cho xong ngôi mộ. Sau đó nó quay lời.

      ***

      “Có lẽ Tómas nghĩ rằng tất cả là lỗi của nó,” Mikkelína . “Nó bao giờ đến chuyện đó và chuyện với chúng tôi. Nó rút mình vào vỏ. Khi mẹ hét lên làm nó đánh rơi cái bát sàn, chuyện đó khởi đầu cho chuỗi những kiện làm thay đổi toàn bộ cuộc đời của chúng tôi và dẫn đến cái chết của bố nó.”

      Họ ngồi trong phòng khách gọn gàng chờ Símon. Ông ra ngoài dạo quanh khu nhà, người ta bảo họ vậy, nhưng ông về sớm thôi.

      “Ở đây đều là những người rất tốt,” Mikkelína . “ ai có thể đối xử với nó tốt hơn được nữa.”

      ai nhớ gì đến Grímur sao, hay…?” Elínborg hỏi.

      “Mẹ dọn ngôi nhà từ trong ra ngoài, bốn ngày sau bà rằng chồng mình bộ qua Hellisheidi đến Selfoss, nhưng bà nghe thấy tin tức gì từ đó. ai biết rằng bà mang thai, hoặc ít nhất ai hỏi bà về chuyện đó. Người ta cử các đội tìm kiếm quanh khu vực nhưng tất nhiên là chẳng ai tìm ra xác .”

      “Người ta có hỏi Grímur có việc gì ở Selfoss ?”

      “Mẹ bao giờ bị hỏi những câu liên quan đến những chuyến của . tên tù. kẻ trộm. Họ quan tâm gì đến việc làm ở Selfoss à? Họ chẳng buồn bận tâm về . chút nào. Họ còn nhiều việc phải nghĩ. Cái ngày mẹ trình báo là mất tích, có mấy người lính Mỹ bắn chết người Iceland.”

      Mikkelína cười nửa miệng.

      “Mấy ngày trôi qua. Rồi thành nhiều tuần. xuất . Bị xóa sổ. Rồi mất tích. Cũng giống như trường hợp mất tích điển hình kiểu Iceland của các ông thôi mà.”

      Bà thở dài.

      “Người mà mẹ khóc nhiều nhất là Símon.”

      ***

      Khi mọi chuyện qua , dường như ngôi nhà yên lặng cách kỳ quái.

      Người mẹ ngồi bên bàn ăn, người vẫn còn ướt sũng vì mưa rào, nhìn chằm chằm vào khoảng . Hai tay lấm lem bùn đất đặt bàn, chú ý gì đến các con.

      Mikkelína ngồi bên, xoa tay mẹ. Tómas vẫn ở trong phòng ngủ chịu ra ngoài. Símon đứng trong bếp nhìn ra ngoài trời mưa, nước mắt lăn dài xuống má. Nó nhìn mẹ và Mikkelína, rồi lại nhìn qua cửa sổ nơi nó có thể nhìn thấy thấp thoáng dáng bụi cây lý chua. Sau đó nó ra ngoài.

      Cả người nó ướt đẫm, lạnh và run lên dưới cơn mưa khi nó bước đến chỗ những bụi cây. Nó dừng lại và vuốt ve những cành cây trơ trụi. Nó nhìn lên bầu trời, mặt hướng lên những giọt mưa. Bầu trời đen kịt, sấm chớp rền vang.

      “Con biết,” Símon . “Con thể nào làm khác được.” Nó ngừng lại và cúi đầu, cơn mưa tuôn xối xả lên người nó. “Mọi chuyện khó khăn. Mọi chuyện rất khó khăn và tồi tệ quá lâu. Tôi hiểu tại sao ông ta lại như thế. Tôi biết tại sao mình phải giết ông ta.”

      “Con chuyện với ai thế, Símon?” người mẹ hỏi.

      theo con ra ngoài, vòng tay ôm lấy nó.

      “Con là kẻ sát nhân,” Símon . “Con giết ông ta.”

      “Trong mắt mẹ phải thế, Símon ạ. Con bao giờ có thể là kẻ giết người trong mắt mẹ. Con thể khác mẹ được. Có thể đó là số phận mà ông ta tự chuốc lấy cho mình. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là con có phải chịu đựng ông ta hay . Bây giờ ông ta chết rồi.”

      “Con giết ông ta, mẹ ạ.”

      “Bởi vì con thể làm gì khác được. Con phải hiểu điều đó, Símon ạ.”

      “Nhưng con cảm thấy khủng khiếp.”

      “Mẹ biết, Símon, mẹ biết mà.”

      “Con thấy ổn lắm. Con chưa bao giờ làm thế, mẹ à.”

      nhìn những bụi cây.

      “Vào mùa thu, những bụi cây này lại ra quả mọng và mọi thứ lại trở lại bình thường. Con nghe thấy chưa, Símon. Mọi thứ lại bình thường.”


      29

      Họ nhìn ra cửa chính của ngôi nhà khi nó mở ra và người đàn ông bước vào, ông ta khoảng bảy mươi tuổi, người khom xuống với mái tóc mỏng bạc trắng và khuôn mặt thân thiện, tươi cười. Ông mặc cái áo len dày rất đẹp cùng chiếc quần màu xám. trong số những người giúp việc của ông thông báo là ông có khách. Símon về phía phòng khách. Erlendur và Elínborg đứng lên. Mikkelína lại chỗ người đàn ông và ôm lấy ông ấy, ông mỉm cười với bà, khuôn mặt bừng sáng như đứa trẻ.

      “Mikkelína,” người đàn ông với giọng trẻ trung đáng kinh ngạc.

      “Chào Símon,” bà . “Chị đưa mấy vị khách đến đây, họ muốn gặp em. Đây là Elínborg còn đây là Erlendur.”

      “Tên tôi là Símon,” người đàn ông và bắt tay họ. “Mikkelína là chị tôi.”

      Erlendur và Elínborg gật đầu.

      “Símon rất vui vẻ,” Mikkelína . “Thậm chí nếu chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc, Símon vẫn rất vui, và đó mới là điều quan trọng.”

      Símon ngồi xuống cùng họ, ông cầm lấy tay Mikkelína và vuốt ve mặt chị, ông mỉm cười với Erlendur và Elínborg nữa.

      “Những người này là ai?” ông hỏi.

      “Họ là bạn chị,” Mikkelína đáp.

      “Ông ở đây có thoải mái ?” Erlendur hỏi.

      “Tên ông là gì?”

      “Tôi tên là Erlendur.”

      Símon mỉm cười.

      “Tôi là em trai của Mikkelína.”

      Mikkelína xoa tay ông.

      “Họ là thám tử, Símon ạ.”

      Símon hết nhìn Erlendur lại nhìn Elínborg.

      “Họ biết chuyện gì xảy ra,” Mikkelína .

      “Mẹ mất rồi,” Símon .

      “Phải, mẹ mất rồi,” Mikkelína đáp.

      “Chị ra,” ông đầy khẩn khoản. “Chị cho họ biết.” Ông nhìn chị và tránh Erlendur và Elínborg.

      “Được rồi, Símon,” Mikkelína . “Chị đến thăm em sau nhé.”

      Símon mỉm cười và đứng lên, ông ra sảnh chính và bước xuống hành lang.

      “Bệnh thanh xuân,” Mikkelína .

      “Bệnh thanh xuân ư?” Erlendur hỏi.

      “Ngày đó chúng tôi biết nó là gì,” Mikkelína . “Như thể nó lớn lên nữa vậy. Nó vẫn là cậu bé tốt bụng, hiền lành, nhưng cảm xúc của nó lớn lên theo cơ thể. Bệnh thanh xuân là biến thể của chứng tâm thần phân liệt. Símon giống y như Peter Pan vậy. Đôi khi nó liên quan đến tuổi dậy . Có lẽ nó ốm từ trước rồi. Nó luôn rất nhạy cảm và khi những chuyện khủng khiếp đó xảy ra, nó dường như mất khả năng kiềm chế vốn có. Nó luôn sống trong sợ hãi và cảm thấy gánh nặng trách nhiệm. Nó nghĩ mình phải bảo vệ mẹ, đơn giản bởi vì ai có thể làm được nữa. Nó là người khỏe mạnh và lớn nhất trong số chúng tôi, thậm chí ngay cả khi nó là người nhất và yếu nhất.”

      “Và ông ấy ở viện ngay từ thời còn trẻ ạ?” Elínborg hỏi.

      , nó sống với mẹ tôi và tôi cho đến khi bà mất. Bà mất, xem nào, cách đây hai sáu năm. Những người như Símon là những bệnh nhân rất dễ quản lý, tiếp xúc với họ thường rất dễ dàng và thoải mái, nhưng họ cần được chăm sóc rất nhàng, và mẹ làm điều đó cho đến khi bà mất. Nó làm việc bất cứ khi nào có thể. Nó bộ dọc Reykjavík và giúp mọi người nhặt rác, dọn rác. Như vậy đấy!”

      Họ ngồi yên lặng lúc.

      “David Welch bao giờ liên lạc lại ạ?” cuối cùng Elínborg hỏi.

      Mikkelína nhìn .

      “Mẹ chờ ông ấy đến khi bà mất,” bà . “Ông ấy bao giờ quay lại.”

      Bà ngừng lại lúc.

      “Bà gọi cho ông ở trại sữa vào cái buổi sáng bố dượng tôi quay trở về,” cuối cùng bà . “Và bà chuyện với ông ấy.”

      “Nhưng,” Erlendur , “tại sao ông ấy lại lên đồi?”

      Mikkelína mỉm cười.

      “Họ chia tay nhau,” bà . “Ông ấy sắp về châu lục. Tàu của ông ấy chuẩn bị rời bến sáng hôm đó và bà gọi điện cho ông phải để về mối hiểm nguy mà để tạm biệt ông và rằng mọi chuyện đều ổn cả. Ông ấy ông ấy quay lại. Có thể ông ấy chết trong trận chiến. Bà bao giờ nghe được tin gì của ông, ông ấy trở về sau chiến tranh…”

      “Nhưng tại sao…”

      “Bà nghĩ rằng Grímur giết ông ấy. Đó là lý do tại sao bà quay trở lại đồi mình. Bà muốn ông ấy giúp mình. Đó là việc riêng mà bà cần tự mình giải quyết.”

      “Dave chắc chắn phải biết rằng bố dượng của bà sắp ra tù, và người ta đồn thổi về ông ấy và mẹ bà,” Erlendur . “Bố dượng của bà biết chuyện đó, ông ta nghe được điều gì đó.”

      “Họ hiểu tại sao ta lại biết. Đó là bí mật. Chúng tôi biết tại sao lại phát ra.”

      “Còn đứa bé…?”

      “Người ta biết mẹ tôi mang thai.”

      Erlendur và Elínborg ngồi yên suy nghĩ lời Mikkelína .

      “Còn Tómas?” Erlendur hỏi. “Chuyện gì xảy ra với ông ấy?”

      “Tómas mất rồi. Nó chỉ thọ được năm mươi hai tuổi. Nó ly dị hai lần. Có ba con, đều là trai cả. Tôi liên lạc với chúng.”

      “Sao lại ?”

      “Tómas cũng giống như bố nó.”

      “Giống thế nào cơ ạ?”

      “Nó sống cuộc đời khốn khổ.”

      “Xin lỗi?”

      “Cuộc sống khiến cho Tómas giống như bố nó.”

      “Ý bà là…?” Elínborg nhìn Mikkelína đầy băn khoăn.

      “Bạo lực ấy. Nó đánh vợ. Đánh các con. Uống rượu nữa.”

      “Thế còn mối quan hệ giữa ông ấy và bố dượng bà? Nó có…?”

      “Chúng tôi biết,” Mikkelína . “Tôi nghĩ vậy. Tôi hy vọng là . Tôi cố nghĩ đến chuyện đó.”

      “Ý của bố bà khi dưới mộ ‘Làm ơn!’ là gì? Có phải ông ta muốn bà ấy cứu mình ? Ông ta cầu xin lòng thương hại ư?”

      “Chúng tôi về chuyện đó rất nhiều, mẹ tôi và tôi. Và bà có cách giải thích làm khiến chúng tôi cảm thấy hài lòng.”

      “Đó là gì vậy?”

      “Grímur biết là ai.”

      “Tôi hiểu,” Erlendur .

      “Grímur biết là ai, và tôi nghĩ đó là lý do khiến thành ra như thế, mặc dù chưa bao giờ đến nó. Chúng tôi biết trải qua tuổi thơ đầy gian khổ. Grímur từng là đứa trẻ và chắc chắn phải có sợi dây liên hệ gì với đứa trẻ đó, phần trong tâm hồn kêu gọi . Thậm chí ngay cả khi cơn thịnh nộ vượt quá tầm kiểm soát đứa trẻ đó vẫn hét lên ngăn lại.”

      “Mẹ bà là người phụ nữ dũng cảm khác thường,” Elínborg .

      “Tôi có thể chuyện với ông ấy được ?” Erlendur sau phút yên lặng ngắn ngủi.

      “Ý ông là với Símon phải ?” Mikkelína .

      “Được ạ? Nếu tôi đến và gặp ông ấy mình?”

      “Nó chưa bao giờ đến những chuyện đó. Chưa bao giờ. Mẹ nghĩ rằng tốt nhất nên coi như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Sau khi bà mất, tôi cố gắng giúp Símon mở lòng mình, nhưng tôi biết ngay điều đó là vô vọng. Cứ như thể nó chỉ có trí nhớ sau chuyện đó. Giống như thể mọi chuyện biến mất vậy. Nhưng nếu tôi ép nó, nó vài câu. Nếu nó hoàn toàn khép kín. Nó thuộc về thế giới khác, yên bình hơn mà nó tự tạo ra cho chính mình.”

      “Bà cho phép chứ?” Erlendur .

      “Chuyện đó tốt thôi,” Mikkelína .

      Erlendur đứng lên, ra tiền sảnh và xuống hành lang. Hầu hết các cửa dẫn vào các phòng đều mở. Ông thấy Símon ngồi mép giường nhìn ra cửa sổ. ErlenduEr gõ cửa và Símon quay lại.

      “Tôi vào được ?” Erlendur , chờ ông mời vào.

      Símon nhìn ông và gật đầu, quay lại cửa sổ và nhìn ra ngoài.

      Mặc dù có cái ghế cạnh bàn, Erlendur đến chỗ giường và ngồi xuống bên cạnh Símon. bàn có mấy bức ảnh. Erlendur nhận ra Mikkelína và nghĩ rằng người phụ nữ già hơn trong bức ảnh có thể là mẹ họ. Ông vươn ra và cầm nó lên. Người phụ nữ ngồi bên cái bàn trong bếp, bà mặc bộ áo choàng bằng nylon trang trí bằng những hoa văn nhiều màu. Đây là kiểu quần áo rất phổ biến cho những người phụ nữ ở tuổi bà mặc hồi đó. Bà mỉm cười nhàng, lặng lẽ trước ống kính. Símon ngồi bên cạnh bà, cười rất tươi. Erlendur nghĩ bức ảnh này được chụp ở bếp nhà Mikkelína.

      “Đây là mẹ ông phải ?” ông hỏi Símon.

      Símon nhìn vào bức ảnh.

      “Phải. Mẹ tôi đấy. Bà mất rồi.”

      “Tôi biết.”

      Símon lại nhìn ra cửa sổ, Erlendur đặt bức ảnh lại mặt bàn. Họ ngồi yên lặng lúc lâu.

      “Ông nhìn gì thế?” Erlendur hỏi.

      “Mẹ với tôi rằng mọi chuyện đều ổn cả,” Símon , mắt vẫn nhìn ra cửa sổ.

      “Mọi chuyện ổn rồi,” Erlendur .

      “Ông sắp đưa tôi phải ?”

      , tôi đưa ông đâu cả. Tôi chỉ muốn gặp ông thôi.”

      “Có lẽ chúng ta có thể làm bạn.”

      “Chắc chắn rồi,” Erlendur .

      Họ ngồi yên lặng và lúc này cả hai đều nhìn ra cửa sổ.

      “Ông có người bố tốt chứ?” Símon bất chợt hỏi.

      “Phải,” Erlendur đáp. Ông ấy là người tốt.”

      Họ lại yên lặng.

      “Ông kể cho tôi nghe về ông ấy chứ?” cuối cùng Símon .

      “Được, lúc nào đó tôi kể cho ông nghe về ông ấy,” Erlendur . “Ông ấy…”

      Erlendur dừng lại.

      “Sao cơ?”

      “Ông ấy bị mất đứa con trai.”

      Họ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ.

      “Có điều tôi muốn biết,” Erlendur .

      “Điều gì vậy?” Símon hỏi.

      “Tên bà ấy là gì?”

      “Ai cơ?”

      “Mẹ ông.”

      “Tại sao ông lại muốn biết?”

      “Mikkelína kể cho tôi nghe về bà ấy, nhưng chưa bao giờ tên bà ấy.”

      “Tên bà ấy là Margrét.”

      “Margrét.”

      Lúc đó Mikkelína xuất ở bậc cửa và khi Símon nhìn thấy bà, ông đứng lên và lại chỗ chị.

      “Chị có mang quả đến cho em ?” ông hỏi. “Chị mang quả lý chua đến cho em chứ?”

      “Mùa thu năm nay chị mang cho em,” Mikkelína . “Mùa thu này. Chị mang quả mọng cho em.”


      30

      Đúng vào lúc ấy, giọt nước mắt bé bắt đầu dâng lên trong đôi mắt Eva Lind, nằm đó, bất động trong bóng tối ảm đạm của phòng chăm sóc đặc biệt. Giọt nước mắt lớn dần lên rồi từ từ qua khóe mắt chảy dài xuống khuôn mặt , dưới chiếc mặt nạ oxy, và dọc theo đôi môi lặng lẽ.

      Vài phút sau, đôi mắt ướt của từ từ mở ra...

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :