Bụi Lý Chua Máu - Arnaldur Indriđason [Trinh Thám]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      11

      Người ta quyết định rằng Erlendur, Sigurdur Óli và Elínborg phải tự thụ lý vụ Bí Mật Những Khúc Xương – theo như giới truyền thông gọi nó. Cục điều tra hình thể điều thêm thám tử cho vụ được ưu tiên như thế. vụ điều tra quy mô lớn về ma túy diễn ra khẩn trương nên ngốn rất nhiều thời gian và nhân lực, vì thế họ thể cử thêm người vào vụ nghiên cứu lịch sử này được, theo đúng như lời ông giám đốc Hrólfur . ai có thể đảm bảo chắc chắn rằng nó có phải là vụ liên quan đến tội phạm hay .

      Erlendur ghé qua bệnh viện vào sáng sớm hôm sau đường đến sở. Ông ngồi bên con hai tiếng đồng hồ. Tình trạng của con bé ổn định. có dấu hiệu nào cho thấy mẹ nó đến đây. Erlendur ngồi yên lặng như thế khá lâu, ngắm nhìn gương mặt gầy, xương xẩu của con và nhớ lại thời quá khứ. Ông cố gắng nhớ về khoảng thời gian ông ở cùng con bé khi nó còn rất . Eva Lind mới lên hai tuổi bố mẹ nó ly hôn, và ông nhớ rằng con bé luôn nằm ngủ giữa hai người. Nó muốn nằm ở cái cũi của mình vì họ chỉ sống trong căn hộ rất với phòng ngủ đơn, phòng khách và nhà bếp, nhà bếp kết hợp luôn trong phòng ngủ. Con bé leo ra khỏi cũi, nằm phịch xuống cái giường đôi và rúc vào giữa bố mẹ.

      Ông nhớ hình ảnh con bé đứng trước cửa nhà mình, lúc đó đến tuổi vị thành niên, sau khi lần theo dấu vết của bố. Halldóra thẳng thừng từ chối cho ông gặp mặt các con. Cứ khi nào ông sắp xếp để gặp chúng là bà lại chửi mắng ông thậm tệ và ông có cảm giác rằng mỗi lời bà ra đều là . Dần dần ông còn gọi cho chúng nữa. Ông gặp Eva Lind trong ngần ấy thời gian và đột ngột con bé đứng ở đó, ô cửa nhà ông. Bộ dạng của nó trông rất quen thuộc. Khuôn mặt nó giống bên nội nhiều.

      “Bố mời con vào nhà sao?” con bé khi thấy bố nhìn mình chằm chằm lúc lâu. Con bé mặc chiếc áo da đen, quần bò rách rưới, môi tô son đen kịt. Móng tay sơn đen. Con bé hút thuốc và nhả khói qua mũi.

      mặt nó vẫn còn có nét trẻ con, gần như là tinh khôi.

      Ông run lập cập. Giật mình. Rồi mời con bé vào nhà.

      “Mẹ do dự khi thấy con là con gặp bố,” con bé khi bước qua chỗ ông, kéo theo khói thuốc và ngồi phịch xuống cái ghế bành. “Bà ấy gọi bố là đồ tồi. Lúc nào cũng thế. Với con và Sindri Snaer. ‘ thằng tồi khốn kiếp, thằng bố của chúng mày ấy.’ Và rồi: ‘Chúng mày cũng chỉ giống như ông ta thôi, lũ tồi khốn nạn’.”

      Eva Lind phá ra cười. Nó tìm cái gạt tàn để vứt điếu thuốc, nhưng Erlendur cầm lấy đầu lọc và dập tắt cho con bé.

      “Tại sao…” ông bắt đầu, nhưng thể hết câu.

      “Con chỉ muốn đến thăm bố,” con bé . “Chỉ muốn xem bố trông như thế quái nào thôi.”

      “Vậy trông bố như thế nào?” ông hỏi.

      Con bé nhìn bố.

      “Giống như đồ tồi vậy,” nó đáp.

      “Vậy chúng ta khác nhau rồi,” ông .

      Con bé nhìn ông chằm chằm rất lâu và ông nghĩ rằng mình trông thấy nụ cười của con bé.

      ***

      Khi Erlendur đến sở, Elínborg và Sigurdur Óli cùng ngồi xuống và kể rằng họ chẳng thu thập được thêm thông tin gì từ người chủ nhà tại của ngôi nhà của Róbert. Theo như lời họ họ chưa bao giờ thấy có người phụ nữ méo mó nào đồi cả. Vợ của Róbert chết cách đây mười năm. Họ có hai con. Người con trai sáu mươi tuổi chết cùng mẹ vào năm đó, còn người phụ nữ bảy mươi tuổi chờ Elínborg gọi cho mình.

      “Thế còn Róbert sao? Chúng ta có hỏi được thêm gì từ ông ta ?” Erlendur hỏi.

      “Tối qua Róbert ra ,” Elínborg đáp, giọng đượm vẻ hối lỗi. “Ông ấy sống đủ rồi. là như thế. Tôi nghĩ rằng ông ấy cũng còn muốn sống nữa. Ông ấy tự gọi mình là cây rau già úa đáng thương và vô dụng. Lạy Chúa, tôi ghét phải chết dần chết mòn trong bệnh viện như thế.”

      “Ông ấy viết được vài từ trong cuốn sổ ngay trước khi chết,” Sigurdur Óli . “ ấy giết tôi.”

      “Thôi , đùa hơi quá rồi đấy,” Elínborg rên rỉ.

      “Hôm nay phải gặp ta nữa đâu,” Erlendur và hất đầu về phía Sigurdur Óli. “Tôi và ta đến tầng hầm của Benjamín để tìm kiếm vài dấu vết.”

      “Ông mong tìm thấy gì ở đó cơ chứ?” Sigurdur Óli hỏi, nụ cười toe toét mặt lập tức chuyển sang nhăn nhó.

      “Chắc chắn là ông ta phải viết ra điều gì đó nếu cho thuê ngôi nhà. Chuyện đó có gì phải bàn cãi. Chúng ta cần tên của những người từng sống ở đó. Cục Thống kê Quốc gia dường như khó có thể tìm ra nó cho chúng ta. khi có tên của họ rồi, chúng ta có thể tra cứu danh sách những người mất tích và xem có ai trong số họ còn sống hay . Và chúng ta cần phân tích để xác định giới tính và tuổi tác ngay sau khi bộ xương được khai quật hoàn toàn.”

      “Róbert có đến ba người con,” Elínborg . “Ít nhất trong số họ phải còn sống chứ.”

      “Xem nào, đây là điều mà chúng ta cần quan tâm,” Erlendur đáp.

      “Và cũng có gì nhiều: gia đình năm người sống trong ngôi nhà gỗ ở Grafarholt, hai vợ chồng với ba đứa con vào thời điểm nào đó trước, trong hoặc sau chiến tranh. Họ là những người duy nhất sống trong ngôi nhà đó mà chúng ta biết, nhưng còn có những người khác có thể sống ở đó nữa. Do đó, cho đến bây giờ chúng ta chỉ có thể đoán rằng trong số họ bị chôn ở đó, hoặc có ai đó liên quan đến họ. Và có số người có quan hệ đến họ  chính là người phụ nữ mà Róbert còn nhớ, thường đến đó…”

      “Thường đến và sau này, và bị méo mó,” Elínborg nốt câu của ông. “Bị méo mó có thể hiểu là chân ta bị khập khiễng ?”

      “Vậy tại sao lúc đó ông ta viết là “bị què”?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Có chuyện gì xảy ra với ngôi nhà đó nhỉ?” Elínborg hỏi. “ còn dấu vết nào của nó đồi cả.”

      “Có thể tìm ra điều đó cho chúng ta trong căn hầm của Benjamín hoặc từ cháu của ông ta,” Erlendur với Sigurdur Óli. “Tôi quên bẵng hỏi chuyện đó.”

      “Tất cả những gì chúng ta cần là tên của những người sống trong ngôi nhà đó và xem xét lại chúng trong danh sách những người mất tích trong thời gian đó, và đến lúc ấy tất cả được khớp lại với nhau. Chuyện đó phải rất ràng sao?” Sigurdur Óli .

      “Chưa đâu,” Erlendur đáp.

      “Tại sao?”

      chỉ mới đến những người được báo cáo là mất tích thôi.”

      “Còn ai mất tích mà tôi chưa đến nữa?”

      “Những trường hợp mất tích mà được trình báo. đảm bảo được là tất cả mọi người báo cho cảnh sát nếu có ai đó bị mất tích. Có số người chuyển đến vùng nông thôn và chẳng còn ai nhìn thấy họ nữa. Có số người rời bỏ đất nước và dần dần rơi vào quên lãng. Và còn có những người du lịch rồi bị chết cóng. Nếu chúng ta có danh sách của những người được trình báo là mất tích và chết trong khu vực này vào thời gian đó, chúng ta cũng cần kiểm chứng lại danh sách đó nữa.”

      “Tôi nghĩ tất cả chúng ta có thể nhất trí rằng đây phải là trường hợp như thế,” Sigurdur Óli với giọng đầy quyền uy và ngay lập tức nó bắt đầu tác động đến dây thần kinh của Erlendur. “ thể có chuyện người đàn ông này, hay bất kỳ ai nằm dưới đó, bị đóng băng đến chết. Đó là hành động có chủ ý. Có ai đó chôn ta xuống đó.”

      “Ðó chính xác là những gì tôi muốn ,” Erlendur – pho từ điển sống về những thử thách của thiên nhiên hoang dã – đáp. “Ví dụ như ai đó bắt đầu khởi hành từ trang trại. Lúc đó là vào mùa đông và theo như dự báo, thời tiết rất tồi tệ. Tất cả mọi người đều cố gắng ngăn cản ta. Tuy nhiên người này lại bỏ ngoài tai hết mọi lời khuyên can, cứ khăng khăng là mình làm được. Điều lạ lùng nhất trong câu chuyện về những người chết cóng là họ bao giờ nghe những lời khuyên. Giống như thần chết dụ dỗ họ vậy. Dường như họ buộc phải chấp nhận số phận bi đát của mình. Như thể họ muốn chống lại số phận nhưng được. Dù có thế nào chăng nữa.

      Người đàn ông này nghĩ rằng mình thành công. Trừ khi cơn bão tan , tình hình tồi tệ hơn ta tưởng rất nhiều. ta mất hết phương hướng và bị lạc. Cuối cùng, ta bị phủ dưới đống tuyết và chết cóng. Đến lúc đó ta hoàn toàn mất dấu vết. Đó là lý do tại sao xác của ta bao giờ được tìm thấy. ta bị mất tích hoàn toàn.”

      Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nhau, hiểu Erlendur định điều gì.

      “Đó là trường hợp mất tích điển hình ở Iceland mà chúng ta có thể giải thích và hiểu được, bởi vì chúng ta sống ở đất nước này và biết khi nào thời tiết bất ngờ chuyển sang xấu, biết câu chuyện về người khách bộ hành đó đôi khi được lặp lại cách đều đặn mà ai thắc mắc. Đó là Iceland, người ta nghĩ thế, và lắc đầu. Tất nhiên, chuyện đó xảy ra thường xuyên hơn trong quá khứ khi mà hầu hết tất cả mọi người đều bộ. Có cả bộ sách kể về chuyện đó; tôi phải là người duy nhất quan tâm đến điều này. Các hình thức du lịch mới chỉ thực thay đổi trong vòng sáu mươi đến bảy mươi năm qua. Người ta thường bị mất tích, và mặc dù bao giờ chấp nhận chuyện đó, vẫn hiểu được số phận của họ. Người ta thường cho rằng những vụ mất tích đó có liên quan đến tội phạm hay cảnh sát.”

      “Ý ông là gì?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Cả bài thuyết trình vừa rồi là về chuyện gì thế?” Elínborg cũng hỏi.

      “Nếu như ngay từ đầu, những người đàn ông hay phụ nữ này khởi hành từ trang trại sao?”

      “Ông muốn đến điều gì?” Elínborg hỏi.

      “Nếu như người ta lại khai báo rằng những người này đến khu đất hoang hoặc trang trại khác hoặc thả lưới bắt cá ở cái hồ nào đó và bao giờ trở về nữa sao? cuộc điều tra diễn ra, nhưng người đó bao giờ được tìm thấy và bị mất tích mãi mãi.”

      “Vậy là tất cả những người trong gia đình có mưu giết người này sao?” Sigudur Óli , nghi ngờ về giả thuyết của Erlendur.

      “Tại sao lại ?”

      “Vậy là ta bị đâm hoặc đánh hoặc bắn và bị chôn trong vườn sao?” Elínborg thêm vào.

      “Cho đến ngày Reykjavík phình ra quá lớn đến nỗi ta thể yên nghỉ dưới đó được nữa,” Erlendur .

      Sigurdur Óli và Elínborg nhìn nhau rồi lại nhìn qua Erlendur.

      “Benjamín Knudsen có người vợ chưa cưới bị mất tích trong hoàn cảnh rất khó hiểu,” Erlendur . Trong khoảng thời gian ngôi nhà được xây dựng. Người ta rằng ấy tự lao mình ra biển và Benjamín bao giờ còn như trước nữa. Dường như trước đó ông ta có kế hoạch làm cách mạng cho việc kinh doanh lẻ ở Reykjavík, nhưng Benjamín hoàn toàn suy sụp khi biến mất và tham vọng làm giàu của ông ta tan thành mây khói.”

      “Theo như giả thuyết mới của ông ấy hề biến mất phải ?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Có chứ, ấy biến mất.”

      “Nhưng ông ta giết ấy.”

      “Thực ra tôi thấy chuyện đó rất khó,” Erlendur đáp. “Tôi đọc vài bức thư Benjamín viết cho vợ chưa cưới và thấy rằng ông ta động đến sợi tóc của ấy.”

      “Vậy đó là vì ghen tuông rồi,” Elínborg – độc giả cuồng nhiệt của các câu chuyện tình – nhận xét. “Ông ta giết ấy vì lòng ghen tuông. Tình của ông ta dành cho ấy có thể là . Chôn ấy dưới đó và bao giờ quay trở lại đó nữa. Thế là hết.”

      “Tôi nghĩ là,” Erlendur , “chẳng lẽ việc người đàn ông trẻ tuổi suy sụp khi biết người của mình chết tay mình lại là quá đáng ư? Thậm chí nếu ấy tự tử sao? Tôi thấy rằng Benjamín là người đàn ông đau khổ sau khi ấy mất tích. Có còn gì khác ngoài điều đó nữa hay ?”

      “Ông ta có thể giữ mớ tóc của ấy lắm chứ?” Elínborg phân vân. Erlendur nghĩ vẫn còn chìm đắm trong mớ ảo tưởng nhão nhoẹt. “Có thể là trong khung ảnh hoặc hộp lồng ảnh chẳng hạn,” thêm. “Nếu ông ta ấy đến thế.”

      mớ tóc ư?” Sigudur Óli nhắc lại.

      “Ông ta là tối dạ,” Erlendur khi bắt kịp được dòng suy nghĩ của Elínborg.

      “Ý ông là gì, mớ tóc ư?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Nó cho biết ta là ai, nếu như còn lại dấu vết nào khác.”

      “Ai cơ?” Sigurdur Óli nhìn hết người này đến người khác. “Hai người đến DNA ư?”

      “Còn có người phụ nữ đồi nữa,” Elínborg . “Chúng ta phải lần ra ta.”

      “Người phụ nữ màu xanh lục,” Erlendur trầm ngâm , ràng là lẩm bẩm mình.

      “Erlendur,” Sigudur Óli .

      “Sao cơ?”

      ràng là ấy thể có màu xanh được.”

      “Sigurdur Óli.”

      “Sao?”

      nghĩ là tôi là kẻ ngu ngốc lắm à?”

      Điện thoại bàn Erlendur vang lên. Người gọi là Skarphédinn, nhà khảo cổ.

      “Chúng tôi xuống gần đến nơi rồi,” Skarphédinn . “Chúng tôi có thể khai quật toàn bộ bộ hài cốt trong vòng hai ngày nữa hoặc gần thế.”

      “Hai ngày cơ à!” Erlendur gầm lên.

      “Hoặc gần vậy. Chúng tôi vẫn chưa tìm ra thứ gì có vẻ như vũ khí cả. Ông có thể nghĩ rằng chúng tôi làm việc quá tỉ mỉ, nhưng tôi cho là làm việc cẩn thận tốt hơn. Ông có muốn đến xem ?”

      “Có, tôi đường đến đây,” Erlendur đáp.

      “Ông có thể mua ít bánh ngọt đường đến đây ?” Skarphédinn , và Erlendur có thể tưởng tượng ra cái răng nanh màu vàng của ông ta.

      “Bánh ngọt ư?”

      “Bánh ngọt Đan Mạch ấy,” Skarphédinn đáp.

      Erlendur sập mạnh điện thoại, bảo Elínborg cùng mình đến Grafarhort và cử Sigurdur Óli đến tầng hầm của Benjamín để cố tìm kiếm điều gì đó về ngôi nhà gỗ – ngôi nhà mà người thương nhân xây nhưng còn quan tâm gì đến nó nữa sau khi cuộc đời ông rơi vào bế tắc.

      đường đến Grafahort, Erlendur vẫn còn vẩn vơ nghĩ đến những người mất tích và chết trong những cơn bão tuyết. Ông nhớ đến câu chuyện về Jón Austman. Ông ta bị chết cóng, có lẽ là ở Blöndugil năm 1780. Con ngựa của ông ta bị phát với cái cổ họng bị xé toạc, nhưng tất cả những gì còn lại của Jón chỉ là bàn tay.

      Nó được bao bọc trong cái găng tay len màu xanh.

      ***

      Bố của Símon là con quái vật xuất trong tất cả những cơn ác mộng của nó. Theo trí nhớ của nó luôn là như vậy. Thằng bé sợ con quái vật hơn mọi thứ đời, và khi nó tấn công mẹ mình, tất cả những gì mà Símon có thể nghĩ đến là trở thành người bảo vệ cho mẹ. Nó tưởng tượng ra cuộc chiến đấu tất yếu giữa bên là chàng hiệp sĩ oai dũng và bên kia là con rồng khè ra lửa. Giống như trong các câu chuyện phiêu lưu, chàng hiệp sĩ luôn đánh bại con quái vật, còn trong những giấc mơ của mình, Símon chưa bao giờ chiến thắng.

      Con quái vật trong giấc mơ của Símon có tên là Grímur. Nó bao giờ là người Cha thân của thằng bé, chỉ là Grímur mà thôi.

      Símon tỉnh dậy khi Grímur lần ra ba mẹ con họ trong khu tập thể của nhà máy chế biến cá ở Siglufjördur, nó nghe thấy tiếng ông ta thào vào tai mẹ nó về việc ông ta đưa Mikkelína lên núi và giết chị. Nó nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt mẹ, và nó thấy mẹ nó đột nhiên mất tự chủ, lao người vào đầu giường và bất tỉnh. Sau đó Grímur bình tĩnh lại. Nó thấy lúc Grímur tát liên tục vào mặt mẹ nó để gọi mẹ tỉnh dậy. Thằng bé ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc phát ra từ Grímur, nó vùi mặt vào tấm nệm. Sợ quá, Símon cầu xin Jesus hãy mang nó lên thiên đàng ngay lập tức.

      Símon nghe thấy Grímur thào gì với mẹ nó nữa. Chỉ nghe thấy tiếng mẹ khóc thút thít. Đầy kìm nén, giống như tiếng của con thú bị thương hòa cùng những tiếng rủa xả của Grímur. Qua khe mắt, thằng bé thấy Mikkelína nhìn chằm chằm vào bóng tối trong nỗi hoảng sợ thốt thành lời.

      Símon thôi cầu xin vị Chúa của mình, thôi còn chuyện với “người em tốt Jesus” nữa, dù cho mẹ nó có rằng được đánh mất niềm tin vào Ngài. Tuy bị mẹ thuyết phục nhưng Símon cũng còn với mẹ về hành động bất tín của mình. Qua biểu của mẹ, nó có thể thấy rằng mình làm mẹ phật lòng. Nó biết ai, thậm chí là tất cả các vị thần thánh đời, có thể giúp mẹ nó chống lại được Grímur. Theo như những điều mà nó nghe được, Chúa là đấng sáng tạo quyền năng và toàn trí ở cả thiên đường và mặt đất, Chúa tạo ra Grímur cũng giống như tất cả mọi người, Chúa để cho con quái vật đó sống và hành hạ mẹ mình, kéo tóc mẹ lôi quanh sàn bếp và khạc nhổ vào mặt mẹ. Và đôi khi Grímur còn đánh cả Mikkelína, “con què khốn kiếp”, ta gọi như vậy trong lúc đánh đập và nhạo báng chị nó. Thỉnh thoảng đánh cả nó, đá đít hoặc đấm nó, có lần Rrímur đánh mạnh quá đến mức nó bị bật cái răng hàm và chảy máu.

      “Lạy người em tốt Jesus, người bạn của trẻ em…”

      Grímur sai lầm khi cho rằng Mikkelína chậm phát triển trí tuệ. Símon có cảm giác rằng chị mình thông minh hơn tất cả mọi người trong nhà cộng lại. Nhưng chị ấy chẳng bao giờ nửa lời. Thằng bé chắc chắn rằng chị mình có thể , nhưng chỉ là muốn mà thôi.

      Chắc chắn chị nó chọn cách yên lặng, vì cái cách mà Mikkelína sợ Grímur cũng giống y như hai em nó, có thể còn hơn thế vì đôi lúc Grímur đến chuyện ném Mikkelína vào đống rác cùng với cái xe đẩy tạm bợ của chị nó. Dù gì Mikkelína cũng là “kẻ vô dụng” và Grímur chán ngấy việc cứ phải nhìn “con què” ăn thức ăn do làm ra mà chẳng được tích gì, ngoại trừ việc trở thành gánh nặng. rằng Mikkelína biến họ thành cái nhà kho nực cười, cả gia đình và cả nữa, chỉ vì Mikkelína là con què.

      Grímur chắc chắn Mikkelína có thể nghe thấy những điều này, và cười sằng sặc khi thấy vợ cố gắng cách yếu ớt để át những lời chửi rủa. Mikkelína chẳng nề hà gì việc bị ta quát mắng hay sỉ nhục, nó chỉ muốn mẹ phải chịu đựng khổ sở vì mình. Símon có thể thấy điều đó khi nhìn chị. Giữa Mikkelína và nó có mối quan hệ rất gắn bó, gắn bó hơn rất nhiều so với Tómas – đứa khó hiểu và chỉ thui thủi mình.

      Người mẹ biết rằng Mikkelína hề bị chậm phát triển trí tuệ hay thể chất. thường xuyên luyện tập cùng con bé, nhưng chỉ vào những lúc Grímur có nhà. giúp con khởi động đôi chân, nhấc cánh tay cứng ngắc, quắt queo bị vặn vào phía trong của nó lên và lấy thuốc mỡ mình tự chế từ thảo dược đồi để xoa bóp nửa người bị liệt cho con. Người mẹ thậm chí còn cho rằng ngày nào đó con mình có thể lại được. vòng tay con bé quanh người mình và dìu nó chập chững tới lui sàn nhà, giục giã nó, động viên nó.

      Người mẹ luôn chuyện với Mikkelína giống như với đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, còn cầu Símon và Tómas cũng phải làm như thế. chưa bao giờ loại con bé ra khỏi những công việc mà mấy mẹ con họ cùng làm mỗi khi Grímur ra ngoài. Mẹ và con luôn luôn hiểu lẫn nhau. Và các em của nó cũng hiểu nó như thế, hiểu từng cử chỉ, từng biểu khuôn mặt của nó. chuyện là việc cần thiết, thậm chí nếu Mikkelína biết về ngôn ngữ, con bé cũng bao giờ sử dụng. dạy nó đọc và nó còn ưa thích đọc sách hơn cả việc được đưa ra ngoài sưởi nắng.

      Và rồi ngày lời của Mikkelína bắt đầu bật ra, ngày mùa hè sau khi thế giới lâm vào cảnh chiến tranh và quân đội đến dựng lều đồi, khi ấy Símon đưa Mikkelína vào nhà tránh nắng. Cả ngày hôm đó con bé sôi động khác thường, nó lắc lư cái đầu, há miệng và thè lưỡi ra ngoài. Símon chuẩn bị đặt chị lên chiếc -văng trong bếp vì trời sắp tối và bắt đầu trở lạnh bất thình lình con bé phát ra tiếng khiến mẹ nó giật mình đến nỗi đánh rơi cả cái đĩa vào bồn rửa bát và vỡ tan tành. Quên khuấy nỗi hoảng sợ của con bé sau vụng về đó, quay lại và nhìn con chớp mắt.

      “EMAAEMAAA,” Mikkelína nhắc lại.

      “Mikkelína!” mẹ thốt lên đầy kinh ngạc.

      “EMAAEMAAA,” Mikkelína hét lên, lắc đầu quầy quậy đầy phấn khích khi thấy mình làm được.

      Người mẹ từ từ lại chỗ con bé như thể tin nổi vào tai mình, sau đó nhìn con, miệng há hốc, còn Símon dường như thấy mắt mẹ ầng ậng nước.

      “Maammmmaa,” Mikkelína . bế nó từ tay Símon rồi chầm chậm và nhàng đặt nó lên giường, xoa xoa vào đầu con bé. Trước đây Símon chưa bao giờ thấy mẹ nó khóc, mặc cho Grímur có làm gì với mẹ chăng nữa, mẹ cũng bao giờ khóc. Mẹ nó chỉ kêu thét vì đau, gọi người cứu, van xin ông ta dừng tay lại hoặc là chịu đòn trong câm lặng, nhưng Símon chưa bao giờ thấy mẹ khóc.

      Nghĩ rằng mẹ thất vọng, nó vòng tay quanh người mẹ, nhưng mẹ lại bảo nó đừng lo lắng. Đây là điều tuyệt vời nhất mà mẹ từng có trong đời. Thằng bé chắc chắn rằng mẹ nó khóc phải chỉ vì sức khỏe của Mikkelína mà còn vì nỗ lực của chị nó nữa. Và điều này làm mẹ nó hạnh phúc hơn tất thảy những gì mẹ nó cho phép mình cảm nhận được từ trước đến giờ.

      Đó là chuyện cách đây hai năm, và Mikkelína dần dần bổ sung thêm vào vốn từ vựng của mình, giờ đây con bé được cả câu hoàn chỉnh, mặt nó giống như củ cải lớn, thè lưỡi ra và lắc đầu nguầy nguậy cách điên cuồng khiến họ nghĩ rằng cái đầu rơi ra khỏi cơ thể ốm yếu quặt quẹo của con bé mất. Grímur biết rằng con bé được. Mikkelína bao giờ hé miệng khi có ta ở nhà và người mẹ cũng giấu , bởi vì chưa bao giờ để mảy may chú ý gì đến con bé, thậm chí là thành quả tuyệt vời như thế. Mẹ con họ giả vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra hay thay đổi. Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ nó cách rất thận trọng với Grímur về việc họ phải tìm người giúp đỡ Mikkelína. rằng con bé có thể trở nên linh hoạt và khỏe mạnh hơn theo thời gian, và nó tỏ ra có năng khiếu học. Nó có thể đọc và học viết bằng bàn tay lành.

      “Nó là con què,” Grímur đáp. “Đừng bao giờ nghĩ rằng nó có thể làm được gì khác hơn ngoài con què. Và đừng bao giờ nhắc đến nó trước mặt tao nữa.”

      Vậy nên thôi nữa, bởi vì tuân theo từng lời của . Nguồn giúp đỡ duy nhất mà Mikkelína nhận được là từ mẹ nó, Símon và Tómas khi hai em nó bế chị ra ngoài và chơi đùa cùng chị.

      Símon tránh bố càng xa càng tốt, nhưng dần dần ta bắt nó phải cùng mình. Khi Símon lớn lên, thằng bé có vẻ hữu ích đối với Grímur nên đưa nó lên Reykjavík và bắt nó khuân đồ dự trữ về nhà. Chuyến lên thành phố mất hai tiếng đồng hồ, họ xuống Grafarvogur, qua cầu ở Ellidaár và men theo các quận Sund và Laugarnes. Đôi lúc họ theo dốc đến Háaleiti và qua Sogamýri. Símon cách Grímur khoảng bốn năm bước, còn bao giờ hé răng nửa lời hay để ý gì đến thằng bé cho đến khi tống lên người nó cả đống đồ rồi bắt nó tải về nhà. Quãng đường về nhà mất ba hoặc bốn tiếng đồng hồ, phụ thuộc vào sức nặng của đống hàng mà Símon phải vác. Đôi lúc Grímur ở lại thành phố và về đồi trong nhiều ngày liền.

      Khi chuyện đó xảy ra, cả nhà họ bừng lên niềm vui khôn tả.

      đường đến Reykjavík, Símon phát ra đặc điểm của Grímur mà nó mất khá lâu để cố gắng tìm hiểu mà vẫn hiểu hết. Ở nhà, Grímur cáu kỉnh và hung tợn, ghét người khác chuyện với mình, khi buộc phải , ăn tục tĩu và gọi vợ con bằng những cái tên thô bỉ. bắt vợ con phải phục tùng tất cả mọi nhu cầu của mình và chửi mắng những ai làm tròn nhiệm vụ. Nhưng khi tiếp xúc với người ngoài, con quái vật dường như náu mình sau lớp vỏ và lại trở thành con người thực thụ. Trong chuyến đầu tiên của Símon đến Reykjavík, nó nghĩ rằng Grímur cư xử giống như với mẹ con nó ở nhà, lúc nào cũng cằn nhằn và đấm, thụi. Nó rất sợ chuyện đó, nhưng điều đó bao giờ xảy ra. Mà ngược lại. Đầy bất ngờ, Grímur muốn làm vừa lòng tất cả mọi người. ta chuyện râm ran với người lái buôn, cúi rạp đầu chào kính cẩn với tất cả những người đến cửa hàng. ta gọi tên họ cách trịnh trọng, thậm chí còn mỉm cười, bắt tay họ nữa. Đôi lúc Grímur tình cờ gặp những người ta quen, cười lên ha hả chứ phải là điệu cười khàn khàn kỳ cục và khô khốc thường bật ra khi phỉ báng vợ mình. Khi mọi người chỉ vào Símon, Grímur đưa tay lên đầu thằng bé và “Vâng, con trai tôi đấy, lớn tướng rồi.” Lần đầu Símon cúi đầu né tránh vì sợ bị đòn, nhưng Grímur lại đùa cợt với người ta về điều đó.

      Símon phải mất rất nhiều thời gian mới hiểu ra hai mặt kỳ cục của Grímur. Nó thể nhận ra được vẻ bề ngoài lạ lùng của bố nó. Nó thể hiểu được tại sao Grímur có thể là người như thế ở nhà nhưng khi ra đường lại là con người hoàn toàn khác. Símon thể hiểu được tại sao lại có thể bợ đỡ, khúm núm và cúi đầu lịch đến thế, trong khi đó ở nhà ta giống như người có quyền uy tối thượng, ban ra sống và cái chết. Khi Símon lại chuyện này với mẹ, bà chỉ lắc đầu chán nản và nhắc nhở thằng bé, y như mọi khi, là phải cảnh giác với Grímur, chú ý được kích động . cần biết ai là người làm ta điên lên, Símon, Tómas hay Mikkelína, hay chuyện gì xảy ra khi Grímur ở nhà khiến ta lồng lộn, Grímur luôn luôn đánh đập vợ mình.

      Đôi khi những vụ đánh đập xảy ra cách nhau mấy tháng liền, thậm chí là cả năm trời, nhưng có khi chúng lại diễn ra khá thường xuyên, thậm chí là hàng tuần. Tần suất giận dữ của cũng biến đổi khôn lường. Có khi là quả đấm bất thình lình, có khi rơi vào cơn thịnh nộ kiểm soát nổi đến nỗi đánh vợ gục xuống sàn và đá thương tiếc.

      Đè nặng lên cả gia đình chỉ là bạo hành về thân thể. Ngôn ngữ mà ta dùng giống như cái roi quất vào mặt. Tất cả đều là những lời đả kích thậm tệ nhắm vào Mikkelína, rằng nó là con què vô tích , rồi nguyền rủa Tómas là thằng chuyên đái dầm vào ban đêm và chửi bới Símon hành động chẳng khác nào thằng con hoang lười như hủi. Kể cả những điều mẹ nó bị buộc phải nghe trong khi mấy em nó cố gắng bịt tai lại để tránh.

      Grímur thèm đếm xỉa gì đến chuyện con cái chứng kiến đánh đập hay sỉ nhục vợ bằng những từ sắc như dao cạo.

      Thời gian còn lại, gần như bao giờ chú ý gì đến chúng, cư xử cứ như thể còn ai tồn tại ngoài . Thỉnh thoảng lắm mới chơi bài với hai đứa con trai và thậm chí còn để Tómas thắng. Đôi lúc, vào ngày Chủ nhật, cả nhà họ kéo nhau lên Reykjavík và còn mua kẹo cho chúng nữa. Rất hiếm khi Mikkelína được cho cùng, và trong những lần như thế, Grímur bố trí nhờ chiếc xe tải chở than đá để khỏi phải bế con bé từ đồi xuống. Trong những chuyến rất hiếm hoi và cách nhau rất xa ấy, Símon có cảm giác bố nó gần như là con người thực , gần như là người cha.

      Có vài lần Símon nhìn nhận bố mình giống như kẻ bạo ngược, ông ta bí và khó hiểu. lần ngồi uống cà phê ở bàn ăn trong lúc quan sát Tómas chơi sàn nhà, xoa xoa bàn tay lên mặt bàn và bảo Símon mang cho mình cốc cà phê khác khi nó chuẩn bị lẻn ra khỏi bếp. Và khi Símon rót cà phê cho , :

      “Cứ nghĩ về chuyện đó là tao lại phát điên lên.”

      Símon dừng tay lại, hai tay bê lấy bình cà phê và đứng bên cạnh bố.

      “Phát điên lên được,” trong lúc tay vẫn xoa xoa mặt bàn.

      Símon chầm chậm lùi về đằng sau và đặt cái bình xuống mặt lò nướng.

      Nhìn Tómas chơi sàn, Grímur :

      “Tao phát điên lên khi nghĩ rằng mình thể lớn tuổi hơn thằng đó.”

      Símon chưa bao giờ tưởng tượng ra bố nó trông như thế nào nếu trẻ hơn, hay là có gì khác. Giờ đây, đột ngột, bố nó trở thành đứa trẻ cũng giống như Tómas, và khía cạnh hoàn toàn mới mẻ trong tính cách của bố nó được bộc lộ.

      “Mày và Tómas là bạn bè phải ?”

      Símon gật đầu.

      “Phải ?” nhắc lại, và Símon “Vâng.”

      Bố nó vẫn xoa cái bàn.

      “Chúng tao cũng từng là bạn.”

      Sau đó im lặng.

      “Người phụ nữ đó,” cuối cùng Grímur . “Tao bị gửi đến đó. Lúc bằng tuổi Tómas bây giờ. Ở đó rất nhiều năm.” lại im lặng.

      “Và chồng ấy.”

      thôi xoa mặt bàn nữa mà xiết chặt tay lại.

      “Thằng chó đẻ ấy. Thằng chó đẻ khốn kiếp ấy.”

      Símon chầm chậm lùi ra sau. Sau đó bố nó dường như lấy lại bình tĩnh.

      “Ngay cả tao cũng hiểu chuyện đó,” Grímur . “Và tao thể kiểm soát được nó.”

      uống hết cà phê, đứng lên, vào phòng ngủ và đóng cửa. đường , nhấc Tómas từ sàn nhà lên và đưa nó cùng mình.

      Thời gian trôi , Símon cảm thấy có thay đổi ở mẹ nó khi nó dần lớn lên, trưởng thành hơn và cảm thấy có trách nhiệm hơn. Chuyện đó xảy ra nhanh chóng giống như khi Grímur đột ngột lột xác và trở thành người bình thường; ngược lại, mẹ nó thay đổi từ từ và ít , trong khoảng thời gian nhiều năm. Và nó nhận ra ý nghĩa đằng sau thay đổi đó, trong nó dấy lên cảm giác muốn phủ nhận tất cả. Cảm giác của nó càng ngày càng rệt rằng thay đổi của mẹ nó rất nguy hiểm, thua kém gì so với Grímur, và chắc chắn nó phải có trách nhiệm can thiệp trước khi quá muộn. Mikkelína quá yếu còn Tómas còn quá . mình nó cũng có thể giúp được mẹ.

      Símon khó có thể hiểu được thay đổi này, càng hiểu thay đổi như thế có nghĩa là gì, nhưng nó dần dần để ý đến chuyện đó nhiều hơn trong khoảng thời gian Mikkelína phát ra được tiếng đầu tiên. tiến bộ của Mikkelína khiến mẹ nó vui mừng khôn xiết. Có đôi lúc trông dường như mất hẳn vẻ u uẩn thường ngày, cười và ôm tất cả các con vào lòng. Thời gian sau đó dạy Mikkelína học cách và vui sướng trước những tiến triển thậm chí là nhất của con .

      Nhưng chẳng bao lâu sau, mẹ nó lại trở về thói quen như cũ, như thể là u uất trước đây rời bỏ bây giờ lại quay trở lại với cường độ mạnh hơn rất nhiều lần. Đôi khi ngồi bên giường, nhìn chằm chằm vào khoảng nhiều giờ liền sau khi lau chùi từng hạt bụi trong ngôi nhà bé của họ. nhìn trừng trừng chớp, hai mắt lim dim trông khổ sở, gương mặt sầu thảm, đầy độc. Có lần, sau khi Grímur đấm vào mặt xong và lao ra ngoài, Símon thấy mẹ nó cầm con dao thái thịt, lòng bàn tay ngửa lên và lướt lưỡi dao quanh cổ tay. Khi thấy con nhìn mình, mỉm cười nhăn nhó và đặt con dao trở lại vào ngăn kéo.

      “Mẹ lấy dao ra làm gì thế?” Símon hỏi.

      “Mẹ kiểm tra xem nó có sắc ấy mà. Ông ấy luôn cầu dao phải được mài sắc.”

      “Ở thành phố trông ông ấy khác hẳn,” Símon . “Ông ấy chẳng cáu giận chút nào.”

      “Mẹ biết.”

      “Ở đó ông ta rất vui vẻ, lại còn cười nữa mẹ ạ.”

      “Ừ.”

      “Tại sao ở nhà ông ấy lại như thế nhỉ? Với chúng ta ấy?”

      “Mẹ biết. Ông ấy thấy thoải mái cũng nên.”

      “Con ước là ông ta như thế này. Con ước ông ta chết .”

      Mẹ nó nhìn nó.

      được thế. Con đừng năng giống như ông ta. Con được nghĩ như thế. Con giống ông ta và bao giờ giống hết. Cả con và Tómas. bao giờ. Con nghe chưa? Con được phép.”

      Símon nhìn mẹ.

      “Mẹ kể về bố của chị Mikkelína cho con nghe ,” nó . Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ kể về người đàn ông đó với Mikkelína và nó cố gắng hình dung ra xem mẹ nó như thế nào nếu ông ấy chết và để lại mẹ nó mình. Nó tưởng tượng mình là con của người đàn ông đó, hình dung ra gia đình mà bố nó phải là con quái vật, ông ấy là người bạn, người thân luôn hết lòng thương con cái của mình.

      “Ông ấy chết rồi,” mẹ nó đáp, giọng đầy tiếc nuối. “Và chỉ thế thôi.”

      “Nhưng ông ấy khác,” Símon . “Mẹ sống khác.”

      “Nếu như ông ấy chết ư? Nếu như Mikkelína bị ốm ư? Nếu mẹ gặp bố con ư? Nghĩ như thế có ích gì cơ chứ?”

      “Tại sao ông ấy lại luôn cáu giận như vậy hả mẹ?”

      Thằng bé cứ hỏi hỏi lại điều này. Đôi khi mẹ nó trả lời, đôi khi mẹ nó chẳng câu nào như thể chính cũng cố tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó trong nhiều năm ròng mà chưa bao giờ giải đáp được. chỉ nhìn chằm chằm vào khoảng , chìm đắm vào thế giới riêng của mình và tự mình đầy buồn bã và xa vắng, như thể là mình có hay làm gì chăng nữa cũng chẳng ích gì.

      “Mẹ biết. Mẹ chỉ biết rằng chúng ta có lỗi gì hết. Đó phải là lỗi của chúng ta. Mọi chuyện là tại ông ta cả. Lúc đầu mẹ tự đổ lỗi cho mình, cố gắng tìm xem mình có làm gì sai trái khiến ông ta tức giận , và mẹ cố gắng thay đổi điều đó. Nhưng mẹ bao giờ hiểu được nguyên nhân đó là gì, và mẹ có làm gì chăng nữa cũng chẳng có gì khác cả. Mẹ còn tự trách mình nhiều năm rồi và mẹ muốn con, Tómas hay Mikkelína nghĩ rằng vì mình mà ông ta cư xử như vậy. Ngay cả khi ông ta nguyền rủa hay sỉ nhục các con cũng thế. Đó phải là lỗi của các con.”

      Bà nhìn Símon.

      “Cái thứ sức mạnh bé mà ông ta có đời này là cai trị chúng ta, và ông ta bao giờ có ý định từ bỏ nó. bao giờ.”

      Símon nhìn vào cái ngăn kéo đựng dao.

      “Chúng ta làm được gì sao mẹ?”

      .”

      “Mẹ định lấy dao làm gì thế?”

      “Mẹ với con rồi mà. Mẹ chỉ kiểm tra xem nó sắc đến đâu thôi. Ông ta muốn dao trong nhà phải sắc.”

      Símon tha thứ cho việc mẹ nó dối, vì nó biết rằng bà cố gắng, như bà vẫn luôn như thế, bảo vệ ông ta, che chở cho ông ta và tìm cách để cho cuộc sống gia đình khủng khiếp của họ ít ảnh hưởng bởi ông ta nhất.

      ***

      Buổi tối hôm đó, khi Grímur về đến nhà, người ngợm đen thui vì bụi than, tinh thần thoải mái đến kỳ lạ. kể cho vợ điều gì đó nghe được ở Reykjavík. Grímur ngồi xuống ghế đẩu, bảo vợ mang cà phê cho mình và rằng người ta nhắc đến tên trong xưởng làm việc của . hiểu tại sao, nhưng những người thợ mỏ rằng trong số những đứa trẻ được sinh ra sau ngày tận thế ở nhà máy sản xuất khí đốt.

      xoay lưng về phía Grímur và năng gì. Símon đứng cạnh bàn còn Tómas và Mikkelína ra ngoài.

      “Ở nhà máy sản xuất khí đốt ư!?”

      Sau đó Grímur cười khùng khục. Đôi khi ho ra những cục đờm đen kịt vì bụi than, quanh miệng, mắt và tai, chỗ nào cũng màu tối thui.

      “Trong cuộc vui điên cuồng ở cái kho chứa ga khốn kiếp!” quát lên.

      phải đâu,” nhàng , và Símon rất ngạc nhiên vì rất ít khi nó thấy mẹ nó phản đối những gì Grímur . Nó nhìn mẹ chằm chằm, cảm thấy cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.

      “Bọn chúng làm tình và uống say túy lúy suốt đêm vì chúng nghĩ ngày tận thế đến, và đó là lý do tại sao mày được sinh ra, đồ đĩ ạ.”

      “Họ dối đấy,” , kiên quyết hơn lúc trước, nhưng vẫn nhìn lên mà chỉ tập trung vào công việc của mình ở bồn rửa bát. Lưng vẫn xoay về phía Grímur, hai bờ vai bé nhô lên như thể muốn trốn vào giữa chúng.

      Grímur thôi cười nữa.

      “Mày gọi tao là thằng láo phải ?”

      ,” , “nhưng chuyện đó đúng. Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi.”

      Grímur đứng lên.

      “Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi,” nhại lại lời .

      “Em biết thời gian người ta xây cái kho chứa ga mà. Em được sinh ra trước đó.”

      “Tao lại nghe thấy thế. Tao nghe là mẹ mày là con điếm còn bố mày là gã lang thang, bọn chúng vứt mày vào thùng rác sau khi đẻ ra mày.”

      Lúc đó ngăn kéo mở, nhìn chằm chằm xuống đó và Símon thấy mẹ nó liếc nhìn con dao thái thịt to bản. nhìn Símon rồi lại nhìn xuống con dao, và đó là lần đầu tiên nó tin rằng mẹ nó có khả năng sử dụng con dao đó.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      12

      Skarphédinn cho dựng cái lều lớn màu trắng khu vực khai quật và khi Erlendur bước vào trong để tránh ánh nắng mặt trời mùa xuân, ông được tận mắt chứng kiến tiến triển chậm chạp đến khó tin của họ. Chỗ móng nhà, họ cắt ra khu vực rộng mười mét vuông và bộ xương chìm vào rìa của đống đất đó. Cánh tay vẫn chĩa lên như trước, hai người đàn ông quỳ xuống, tay cầm bàn chải và thìa, cào cào chỗ đất bẩn và quét nó vào những cái đĩa.

      “Làm thế này phải là mất công lắm sao?” Erlendur hỏi khi thấy Skarphédinn lại chỗ mình để chào. “Các ông mà cứ làm thế này chẳng bao giờ xong được.”

      “Các ông bao giờ cẩn thận trong cuộc khai quật cả,” Skarphédinn vẫn đầy ngạo mạn. Ông ta tự hào vì phương pháp của mình mang lại kết quả. “Và các ông, tất cả mọi người, phải chú ý đến điều đó,” ông ta thêm.

      “Các ông phải là thực tập đấy chứ?”

      “Thực tập ư?”

      “Môn khảo cổ học ấy? Đây phải là lớp ông dạy ở đại học sao?”

      “Nghe này, Erlendur. Chúng tôi làm việc có phương pháp. còn cách nào khác cả. Tin tôi .”

      “Phải, có thể cần phải vội vã,” Erlendur đáp.

      “Cuối cùng rồi chúng tôi cũng đến nơi thôi,” Skarphédinn , liếm lưỡi vào chỗ răng nanh.

      “Người ta với tôi rằng ông bác sĩ ở Tây Ban Nha,” Erlendur . “Ông ấy trở về trong vài ngày nữa. Nên chúng ta có nhiều thời gian, tôi nghĩ vậy.”

      “Ai có thể nằm ở dưới đó chứ?” Elínborg hỏi.

      “Chúng tôi thể xác định được đó là đàn ông hay đàn bà, người trẻ hay người già,” Skarphédinn đáp. “Và có lẽ đó phải là việc của chúng tôi. Nhưng tôi cho rằng còn nghi ngờ gì nữa, đây là vụ giết người.”

      “Đó có thể là người phụ nữ trẻ mang thai ?” Erlendur hỏi.

      “Chúng tôi giải quyết chuyện đó sớm thôi.” Skarphédinn .

      “Sớm ư?” Erlendur hỏi. “ thể được nếu tiến độ của chúng ta cứ chậm mãi thế này.”

      “Kiên nhẫn là đức hạnh,” Skarphédinn . Hãy nhớ điều đó.”

      Nếu Elínborg xen vào Erlendur cho ông ta biết phải cắm cái đức hạnh của mình vào đâu.

      “Vụ giết người nhất thiết là phải liên quan đến chỗ này,” đột ngột . đồng ý với phần đa những điều mà Sigurdur Óli ngày hôm qua khi ta chỉ trích Erlendur vì quá mải mê với linh cảm đầu tiên của mình về những mẩu xương: rằng cái người nằm dưới đó từng sống đồi, thậm chí là ở trong số những ngôi nhà gỗ đó. Theo ý kiến của Sigurdur Óli, là ngu ngốc nếu họ chỉ tập trung vào ngôi nhà từng ở đó và vào những người từng sống ở đó. Trong lúc Erlendur đến bệnh viện Sigurdur Óli thao thao trình bày bài thuyết giáo của mình, nhưng Elínborg vẫn quyết định nghe theo cái nhìn của Erlendur về vấn đề này.

      “Người này có thể bị giết ở... xem nào, ở phía Tây thành phố và được mang đến đây,” . “Chúng ta thể chắc chắn được là vụ giết người diễn ra đồi. Tôi thảo luận vấn đề này với Sigurdur Óli ngày hôm qua.”

      Erlendur lục lọi trong túi áo khoác của mình cho đến khi tìm thấy cái bật lửa và bao thuốc. Skarphédinn nhìn ông với ánh mắt khinh khỉnh.

      “Ông được hút thuốc trong lều,” ông ta gầm gừ.

      “Chúng ta ra ngoài,” Erlendur với Elínborg. “Chúng ta nên làm cho đức hạnh mất kiên nhẫn vốn có của nó.”

      Họ ra khỏi lều và Erlendur châm thuốc.

      “Tất nhiên là hai người đúng,” ông . “ có gì đảm bảo chắc chắn là vụ giết người, nếu đó đúng là vụ giết người , xảy ra ở đây. Theo quan sát của tôi,” ông tiếp sau khi thở ra hơi khói đặc, “chúng ta có ba giả thuyết hợp lý như nhau. Thứ nhất, người đó là vợ chưa cưới của Benjamín Knudsen, ta có thai, biến mất, và tất cả mọi người đều nghĩ rằng ta lao ra biển. Vì số lí do nào đó, có thể là vì ghen tuông như , ông ta giết vợ chưa cưới của mình rồi giấu xác ở ngôi nhà này, rồi sau đó trở thành con người hoàn toàn khác trước. Thứ hai, có người nào đó bị giết ở Reykjavík, thậm chí là ở Keflavík, Akranes hay bất cứ đâu quanh thành phố, sau đó bị mang xác đến chôn ở đây rồi bị lãng quên. Thứ ba, có khả năng những người sống đồi này phạm tội giết người, họ chôn xác chết ở ngưỡng cửa nhà mình vì họ còn nơi nào khác để chôn nữa. Đó có thể là người du lịch, vị khách, hoặc trong số những người đến đây trong chiến tranh và dựng trại ở phía bên kia quả đồi, cũng có thể là trong số những người Mỹ tiếp quản vùng này từ người , hoặc có thể là thành viên trong gia đình.” Erlendur ném cái đầu lọc xuống gần chân và dập tắt nó. “Cá nhân tôi, hiểu tại sao, lại nghiêng về giả thuyết cuối cùng hơn cả. Giả thuyết về người vợ chưa cưới của Benjamín có vẻ dễ dàng nhất, nếu chúng ta có thể so sánh mẫu DNA của ấy với bộ xương. Giả thuyết thứ ba có vẻ khó nhằn nhất, vì chúng ta đến người bị mất tích, cứ cho là vụ mất tích đó được trình báo, ở khu vực rộng lớn, đông dân cư, cách đây quá lâu rồi. Phương án đó rất rộng.”

      “Nếu chúng ta tìm ra được phôi thai cùng với bộ xương, phải là chúng ta gần như có câu trả lời ư?” Elínborg .

      “Đó là giải pháp gọn gàng nhất, như tôi . Việc phụ nữ mang bầu có được lưu trong hồ sơ ?” Erlendur hỏi.

      “Ý ông là sao?”

      “Chúng ta có thể biết đích xác chuyện đó ?”

      “Ý ông là Benjamín có thể dối ư? Và ta phải là mang thai ư?”

      “Tôi biết. ấy có thể mang thai , nhưng nhất thiết là bởi ông ta.”

      ta lừa dối ông ấy sao?”

      “Chúng ta cứ tha hồ mà suy đoán cho đến khi mấy ông khảo cổ cung cấp cho chúng ta vài thông tin nào đó.”

      “Chuyện gì có thể xảy ra với người đó nhỉ?” Elínborg thở dài, băn khoăn về bộ xương nằm dưới đất.

      “Có thể là họ đáng bị như thế,” Erlendur đáp.

      “Sao cơ?”

      “Người đó ấy. Dù sao chăng nữa cũng cứ hy vọng là như thế. Hãy cứ hy vọng rằng người đó phải là vô tội.”

      Suy nghĩ của ông hướng về Eva Lind. Con bé có đáng phải nằm như thế ở khu chăm sóc đặc biệt, thừa sống thiếu chết như thế ? Đó có phải là lỗi của mình ? Có ai phải chịu trách nhiệm ngoài con bé ? Có phải việc nó rơi vào hoàn cảnh này là do tất cả những gì nó gây ra ? Chuyện nó nghiện ma túy có phải là việc riêng của nó ? Hay là chính bản thân ông cũng có phần trong đó? Con bé khẳng định là ông có lỗi, nó với ông như thế khi cảm thấy ông công bằng với mình.

      “Đáng lý ra bố bao giờ nên rời bỏ chúng con,” có lần nó quát vào mặt ông như thế. “Được thôi, bố khinh thường con. Nhưng ngay cả bố cũng chẳng tốt đẹp hơn con đâu. Bố cũng chỉ là kẻ đồi bại chết tiệt!”

      “Bố khinh thường con,” ông , nhưng con bé thậm chí còn chẳng thèm nghe ông .

      “Bố nhìn con như đống phân vậy,” nó quát lên, “Như thể là bố quan trọng hơn con vậy. Như kiểu bố giỏi giang, tốt đẹp hơn vậy. Như kiểu bố tốt đẹp hơn con, mẹ và Sindri vậy. Bỏ ba mẹ con con như thể bố là kẻ xuất chúng lắm, rồi lờ tịt chúng con . Giống như là, giống như bố là lão Thượng đế khốn kiếp.”

      “Bố cố gắng…”

      “Bố chẳng cố gắng cái quái gì cả! Bố cố gắng làm gì mới được chứ? Chẳng có gì cả. Mẹ kiếp. Lủi như lẻ lén lút vậy.”

      “Bố chưa bao giờ khinh thường con,” ông . “ phải thế đâu. Bố hiểu tại sao con lại thế.”

      “Ồ vâng, bố có đấy. Thế nên bố mới bỏ . Bởi vì chúng con quá tầm thường. Tầm thường đến mức tệ hại, khiến bố thể chịu đựng được. Hỏi mẹ mà xem! Bà ấy biết đấy. Bà ấy rằng tất cả là do lỗi của bố. Tất cả. Lỗi của bố. Ngay cả hoàn cảnh của con lúc này cũng thế. Bố nghĩ thế nào về chuyện đó, thưa ngài Thượng đế khốn nạn?”

      phải tất cả những điều mẹ con đều đúng. Bà ấy tức giận và cay nghiệt và…”

      “Tức giận và cay nghiệt! Giá mà bố biết được bà ấy tức giận, cay nghiệt, ghét cay ghét đắng bố và con cái bà ấy đến mức nào, bởi vì việc bố bỏ phải là lỗi của bà ấy. Bởi vì bà ấy là Đức mẹ đồng trinh Mary khốn kiếp. Đó là lỗi CỦA CHÚNG CON. Sindri và con. Bố hiểu đâu, lão già ngu ngốc khốn kiếp ạ. Bố thể hiểu được đâu, lão già ngu ngốc khốn kiếp ạ…”

      “Erlendur?”

      “Gì thế?”

      “Ông sao chứ?”

      “Ổn mà. Tôi rất ổn là đằng khác.”

      “Tôi ghé qua nhà con Róbert chút.” Elínborg huơ huơ tay trước mặt ông như thể ông bị thôi miên. “Ông chuẩn bị đến Đại sứ quán hả?”

      “Sao cơ?” Erlendur quay trở về thực tại. “Được, cứ làm như thế ,” ông mơ hồ. “Cứ làm như thế . Và còn điều này nữa, Elínborg.”

      “Sao cơ?”

      “Gọi nhân viên y tế quận đến đây để kiểm tra về những khúc xương khi chúng được đào hết lên. Skarphédinn dốt đặc cán mai. Càng lúc ông ta càng nhắc cho tôi nhớ đến kẻ quái dị trong câu chuyện của em nhà Grimm.”


      13

      Trước khi Erlendur đến Đại sứ quán , ông lái xe đến quận Vogar và đỗ cách căn hộ dưới tầng hầm mà Eva Lind từng sống ở đó đoạn ngắn. Ông nhớ lại đứa bé mà ông tìm thấy ở căn hộ với những vết bỏng do thuốc lá gây ra người. Ông biết rằng đứa bé được mang xa khỏi mẹ nó và được chăm sóc tử tế, và ông cũng biết rằng người đàn ông sống cùng ta là bố đứa trẻ. cuộc điều tra nhanh hé lộ rằng năm ngoái người mẹ hai lần đến bệnh viện Tai Nạn và Cấp cứu, lần bị gẫy tay và lần khác bị thương toàn thân mà ta rằng do bị tai nạn đường.

      cuộc kiểm tra đơn giản cũng chỉ ra rằng chồng ta có tên trong sổ cảnh sát, mặc dù phải là vì bạo lực. ta chờ án tù vì tội trộm cướp và buôn ma túy. Có lần ta phải ngồi tù do nhiều tội góp lại. trong số đó là ăn cắp trong các cửa hàng.

      Erlendur ngồi trong xe lúc lâu để theo dõi cửa ra vào của ngôi nhà. Ông cố nhịn hút thuốc và chuẩn bị lái xe cánh cửa mở ra. gã đàn ông bước ra, khói thuốc lá mờ mịt, ta búng điếu thuốc vào khu vườn phía trước. cao tầm thước, dáng người đô con, tóc đen, dài, mặc đồ đen từ đầu đến chân. Hình dáng giống hệt như mô tả trong hồ sơ của cảnh sát. Khi biến mất ở góc đường, Erlendur lặng lẽ lái xe .

      Con Róbert đón Elínborg ở cửa ra vào. Elínborg gọi điện từ trước. Người phụ nữ đó tên là Harpa, bà ta ngồi cố định chiếc xe đẩy, đôi chân teo tóp và khô héo, nhưng thân mình và hai tay vẫn còn khỏe mạnh.

      Elínborg có đôi chút ngỡ ngàng nhưng gì. Harpa mỉm cười và mời vào nhà. Bà để cửa mở, Elínborg theo sau và đóng cửa lại. Ngôi nhà nhưng ấm áp, được xây phù hợp với điều kiện của chủ nhân.

      “Tôi rất tiếc về chuyện của bố bà,” Elínborg trong lúc theo bà vào phòng khách.

      “Cảm ơn ,” người phụ nữ ngồi xe lăn đáp. “Ông ấy già lắm rồi. Tôi mong là mình thọ đến thế. Tôi ghét điều gì bằng việc cuối đời trở thành bệnh nhân trong bệnh viện, chờ mòn mỏi để được ra . Chết dần chết mòn trong đó.”

      “Chúng tôi điều tra về những người từng sống trong ngôi nhà gỗ ở Grafarholt, bên mạn Bắc,” Elínborg . “ cách xa nhà bà lắm. Trong thời chiến hoặc khoảng thời gian đó. Chúng tôi chuyện với bố bà ngay trước khi ông ấy mất và ông ấy có rằng ông biết gia đình sống ở đó, nhưng đáng tiếc là ông ấy thể thêm được gì nữa.”

      Elínborg nhớ lại cái mặt nạ mặt Róbert, hụt hơi và đôi tay xanh xao của ông ta.

      rằng các tìm thấy vài khúc xương,” Harpa trong lúc vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trước trán. “Chương trình thời có đưa tin.”

      “Phải, chúng tôi phát ra bộ xương ở đó và cố gắng điều tra xem người đó là ai. Bà có nhớ gia đình mà bố bà nhắc đến ?”

      “Hồi chiến tranh lan đến Iceland, tôi mới có bảy tuổi,” Harpa . “Tôi nhớ những người lính ở Reykjavík. Chúng tôi sống trong nội thành, nhưng tôi biết tất cả chuyện đó là gì. Họ cũng ở đồi, phía Nam ấy. Họ cho dựng doanh trại và boong-ke. boong-ke có khe hở dài, nòng của khẩu đại bác chĩa ra ở đó. Tất cả những điều đó rất ấn tượng. Bố mẹ bảo em tôi được đến gần chỗ đó. Tôi nhớ mang máng là có hàng rào bao quanh đó. Dây thép gai phải. Chúng tôi bằng đường đó nhiều lắm. Phần lớn thời gian chúng tôi ở trong ngôi nhà bố xây, chủ yếu là vào mùa hè, và dĩ nhiên là chúng tôi biết rất ít về hàng xóm xung quanh.”

      “Bố bà rằng trong ngôi nhà đó có ba đứa trẻ. Có thể họ ngang tầm tuổi bà.” Elínborg liếc nhìn xuống cái xe đẩy của Harpa. “Có thể bà lại nhiều.”

      “Ồ, chắc chắn rồi,” Harpa , gõ gõ khớp ngón tay vào chiếc xe đẩy. “Về sau chuyện này mới xảy ra. Hồi ba mươi tuổi tôi bị tai nạn xe hơi. Tôi nhớ có đứa trẻ nào đồi cả. Tôi nhớ những đứa khác ở những ngôi nhà khác, nhưng nhớ đứa nào đó.”

      “Có mấy bụi cây lý chua gần chỗ ngôi nhà cũ nơi chúng tôi phát ra bộ xương. Bố bà có đến thường đến đó, sau này, tôi nghĩ vậy. ấy đến đó rất nhiều lần… Tôi nghĩ rằng ông ấy thế… có thể mặc đồ màu xanh lục và ấy bị méo mó.”

      “Bị méo mó ư?”

      “Ông ấy vậy, hoặc đúng ra là viết vậy.”

      Elínborg lấy ra tờ giấy mà Róbert viết và đưa nó cho Harpa.

      “Hình như đây là thời gian mà bà vẫn còn sở hữu ngôi nhà đó,” Elínborg . “Tôi biết là bà bán nó sau năm 1970.”

      “1972,” Harpa .

      “Bà có để ý thấy người phụ nữ này ?”

      , và tôi chưa bao giờ nghe thấy bố tôi về ấy. Tôi rất tiếc vì giúp được gì cho , nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy ấy và biết gì về ấy cả, mặc dù tôi có nhớ những người sống ở nơi mà đến.”

      “Bà có hiểu ý của bố bà khi ông ấy là ‘bị méo mó’ ?”

      “Đúng như ý nghĩa của nó thôi. Ông ấy luôn những gì mình nghĩ, chẳng có gì khác cả. Ông ấy là người rất kỹ tính. người đàn ông tốt. Tốt với tôi. Nhất là sau vụ tai nạn xảy đến với tôi. Và khi chồng tôi bỏ rơi tôi – ông ta chịu đựng chuyện đó khoảng ba năm sau vụ tai nạn, rồi ông ta ra .”

      Elínborg nghĩ rằng mình thấy nụ cười, nhưng chẳng có nụ cười nào lên mặt bà ta cả.

      Nhân viên Đại sứ quán chào đón Erlendur với phép lịch đứng đắn chuẩn mực đến mức ông gần như phải cúi đầu cảm ơn ông ta. Người này rằng mình là thư ký. Ông ta mặc bộ vest đẹp hoàn hảo, giày da đen kêu kin kít, thân hình gầy và cao kỳ lạ, tiếng Iceland chuẩn chê vào đâu được làm Erlendur rất thích vì ông và nghe tiếng rất kém. Ông thở phào nhõm khi nhận ra rằng nếu có ai đó cảm thấy chút gì thoải mái trong cuộc trò chuyện của họ người đó là viên thư ký.

      Văn phòng làm việc cũng đẹp hoàn hảo như chính người thư ký vậy, nó khiến Erlendur nghĩ đến nơi làm việc của chính mình, lúc nào trông nó cũng như vừa bị đánh bom. Viên thư ký – “Hãy cứ gọi tôi là Jim,” ông ta – mời ông ngồi.

      “Tôi rất thích tác phong thoải mái của người Iceland các ông,” Jim .

      “Ông ở đây lâu chưa?” Erlendur hỏi, hiểu sao mình lại cư xử giống như bà già ở tiệc trà.

      “Vâng, gần được hai mươi năm rồi,” Jim gật đầu. “Cảm ơn ông hỏi thăm. Và khi Thế chiến thứ hai nổ ra, nó là mối quan tâm đặc biệt của tôi. Ý tôi là Thế chiến thứ hai ở Iceland ấy. Tôi bảo vệ luận án Thạc sĩ về chủ đề này ở Trường Kinh tế học London. Khi ông gọi điện hỏi về những doanh trại ở đó, tôi nghĩ là mình có thể giúp được phần nào.”

      “Ông tiếng Iceland rất sõi đấy!”

      “Cảm ơn ông, vợ tôi là người Iceland.”

      “Vậy những doanh trại đó là thế nào?” Erlendur hỏi, thẳng vào chủ đề chính.

      “Vâng, tôi có nhiều thời gian, nhưng tôi tìm được số báo cáo của Đại sứ quán về những doanh trại chúng tôi cho dựng trong chiến tranh. Chúng ta có thể cần đến nhiều thông tin hơn. Ông có thể quyết định điều đó. Có hai doanh trại ở chỗ mà nay là sân golf Grafahort.”

      Jim lấy ra số giấy tờ bàn và đọc lướt qua chúng.

      “Ở đó còn có, biết các ông gọi là gì, cái công . Hay là boong-ke? cái tháp. khẩu đại bác khổng lồ. trung đội từ Tiểu đoàn 12 ở Tyneside Scotland giữ vị trí ở khẩu đại bác, nhưng tôi vẫn chưa tìm ra ai sống trong các doanh trại cả. Tôi nghĩ rằng đó là kho quân . Tôi biết tại sao nó lại được đặt đồi, nhưng có các doanh trại và boong-ke khắp nơi đó, đường đến Mosfellsdalur, ở Kollafjördur và Hvalfjördur.”

      “Chúng tôi băn khoăn về người bị mất tích đồi, như tôi trao đổi với ông qua điện thoại. Ông có biết liệu có người lính nào bị mất tích hay bị trình báo là mất tích ?”

      “Ông cho rằng bộ xương mà các ông tìm thấy có thể là người lính sao?”

      “Có thể phải như vậy, nhưng chúng tôi cho rằng bộ xương bị chôn ở đó trong thời kỳ chiến tranh và nếu như người từng ở khu vực đó rất có khả năng đó là trong số họ.”

      “Tôi kiểm tra điều đó giúp ông, nhưng tôi biết họ giữ những tài liệu đó bao lâu. Tôi nghĩ rằng người Mỹ tiếp quản doanh trại cũng như tất cả những thứ khác sau khi chúng tôi để lại năm 1941. Phần lớn quân đội của chúng tôi được đưa sang các nước khác, nhưng phải là tất cả.”

      “Vậy là người Mỹ cai quản doanh trại đó?”

      “Tôi xem lại chuyện đó. Tôi có thể trao đổi với tòa đại sứ Mỹ và xem họ gì. Điều đó đỡ phiền cho ông hơn.”

      “Các ông từng có quân cảnh ở đây.”

      “Chính xác. Đó có thể là điểm khởi đầu thuận lợi nhất. Chuyện này mất vài ngày đấy. Có thể là hàng tuần.”

      “Chúng tôi có nhiều thời gian mà,” Erlendur và nghĩ đến Skarphédinn.

      Lục lọi trong đống tài sản của Benjamín, Sigurdur Óli chán phát ngấy lên được. Elsa chào ta khi mở cửa, chỉ đường cho ta đến tầng hầm và để ta ở đó, rồi ta mất bốn tiếng đồng hồ mở tất cả các tủ ly, ngăn kéo và vô số hộp mà biết đích xác là mình tìm cái gì. Bergthóra choán hết tâm trí của . băn khoăn biết có còn cuồng dâm khi trở về nhà giống như mấy tuần gần đây . quyết định hỏi thẳng xem liệu có lý do đặc biệt nào giải thích cho ham muốn đột ngột của , và liệu có phải tất cả chỉ vì muốn có con . Nhưng câu hỏi đó, biết, có nghĩa là dẫn đến vấn đề khác mà đôi lần họ chuyện nhưng chẳng đến đâu: đến lúc họ tổ chức đám cưới với đầy đủ nghi lễ và những thủ tục thích hợp chưa?

      Câu hỏi đó cháy bỏng môi giữa những nụ hôn nồng nàn phủ lên . vẫn còn suy nghĩ về vấn đề đó và luôn luôn né tránh trả lời. Suy nghĩ của như sau: họ sống cùng nhau rất tốt, tình của họ nảy nở, tại sao lại phải phá hủy nó bằng việc kết hôn? Tất cả đều nhặng xị. bữa tiệc toàn đàn ông trước khi cưới. lối ở giáo đường. Tất cả khách khứa. Những chiếc bao cao su bơm phồng trong bộ váy dâu. là lỗi thời thể tả. Bergthóra muốn có đám cưới thông thường vớ vẩn. ấy về pháo hoa và những kỷ niệm đẹp để sưởi ấm tuổi già. Sigurdur Óli lầm bầm, nghĩ rằng bây giờ vẫn còn quá sớm để nghĩ đến chuyện cưới xin. Vậy là vấn đề vẫn cứ bế tắc, ràng là Sigurdur Óli phải tự quyết định chuyện đó và biết mình cần gì, ngoại trừ việc có đám cưới trong nhà thờ và làm tổn thương Bergthóra.

      Cũng như Erlendur, khi đọc được những bức thư của Benjamín, cảm nhận được tình mến mộ chân thành của ông dành cho mà bỗng dưng ngày biến mất đường phố Reykjavík và bị cho là rơi xuống biển. “Tình của . Em thương . nhớ em quá.”

      Tất cả tình đó, Sigurdur Óli nghĩ.

      Nó có khả năng giết người ?

      Có cả núi giấy tờ liên quan đến của hàng của Knudsen, và khi Sigurdur Óli mất hết mọi hy vọng tìm ra thứ gì đó khả quan lôi ra được tờ giấy từ ngăn kéo chứa tài liệu. tờ giấy có ghi:

      Höskuldur Thórarinsson.

      trả trước tiền thuê nhà ở Grafaholt.

      8 krónur.

      Benjamín Knudsen ký.

      Erlendur đường rời đại sứ quán điện thoại kêu.

      “Tôi tìm thấy người thuê,” Sigurdur Óli . “Tôi nghĩ vậy.”

      “Thuê cái gì cơ?” Erlendur hỏi.

      “Thuê ngôi nhà gỗ. Tôi ra khỏi tầng hầm của Benjamín. Chưa bao giờ tôi thấy cái đống lổn ngổn kinh khủng như thế trong đời. Tôi tìm thấy tờ giấy ám chỉ rằng người nào đó tên là Höskuldur Thórarinsson trả tiền thuê nhà ở Grafarhort.”

      “Höskuldur ư?”

      “Phải. Thórarinsson.”

      “Ngày tháng ghi tờ giấy là gì?”

      có ngày tháng gì cả. Thực ra nó chỉ là hóa đơn của cửa hàng của Knudsen. Hóa đơn thuê được viết ở đằng sau. Và tôi còn tìm thấy những hóa đơn có thể là về vật liệu xây dựng ngôi nhà nữa. Tất cả đều tính phí cho cửa hàng và những hóa đơn có ghi năm 1938. Có thể ông ta bắt đầu xây ngôi nhà trong khoảng thời gian đó hoặc là xây dở nó.”

      “Vợ chưa cưới của ông ta mất tích khi nào nhỉ?”

      “Chờ chút, tôi ghi lại rồi.” Erlendur chờ trong lúc Sigurdur Óli kiểm tra lại. ta ghi chép lại nội dung các cuộc họp – công việc mà chưa bao giờ Erlendur biến nó trở thành thói quen.

      Ông có thể nghe thấy tiếng Sigudur Óli lướt qua các trang giấy và quay trở lại chiếc điện thoại.

      “Bà ta biến mất năm 1940. Vào mùa xuân.”

      “Vậy là Benjámin xây nhà đến khoảng thời gian đó, sau đó dừng lại và cho thuê.”

      “Và Höskuldur là trong số những người thuê nhà.”

      có tìm được gì về nhân vật Höskuldur này ?”

      “Chưa, vẫn chưa. Chúng ta bắt đầu với người này chứ?” Sigurdur Óli hỏi, hy vọng được thoát khỏi tầng hầm.

      “Tôi điều tra về ông ta,” Erlendur , và Sigudur Óli chán nản khi ông thêm: “Kiểm tra xem có tìm thêm được gì về ông ta hay bất kỳ ai trong đống rác ấy . Nếu có giấy tờ, rất có thể là có nhiều hơn thế.”


      14

      Erlendur ngồi bên giường Eva Lind hồi lâu sau khỉ trở về từ Đại sứ quán, trong đầu ông trăn trở biết phải gì. Ông biết phải gì với con . Ông cố gắng vài lần nhưng thành. Từ lúc ông bác sĩ rằng tốt hơn nếu ông chuyện với con bé, Erlendur lúc nào cũng băn khoăn biết phải gì với con , và cuối cùng cũng chẳng rút ra được kết luận gì.

      Ông bắt đầu chuyện về thời tiết, nhưng rồi nhanh chóng từ bỏ. Sau đó ông kể về Sigurdur Óli và về chuyện gần đây trông ta mệt mỏi thế nào. Nhưng rồi cũng chẳng có gì nhiều để mà kể nữa. Ông cố gắng tìm chuyện về Elínborg để kể nhưng rồi lại thôi. Sau đó ông kể với con về vợ chưa cưới của Benjamín Knudsen, người bị cho là nhảy xuống biển tự tử, và về những bức thư tình mà ông tìm thấy ở tầng hầm của người thương nhân.

      Ông với Eva Lind rằng mình gặp mẹ con bé ngồi bên giường bệnh của nó.

      Sau đó ông yên lặng.

      “Có chuyện gì giữa bố và mẹ cơ chứ?” Eva Lind có lần hỏi khi đến thăm ông. “Sao bố gì?” Sindri Snaer cùng nó nhưng ở lâu, để lại hai bố con họ với nhau khi bóng tối ập xuống. Lúc đó là tháng Mười hai, đài phát mấy bài hát Giáng sinh nên Erlendur tắt , nhưng Eva Lind lại bật lên và rằng nó muốn nghe chúng. Lúc đó con bé mang thai được mấy tháng rồi, thời gian ấy nó hoàn lương và như thường lệ, cứ mỗi lần ngồi xuống với bố, nó lại bắt đầu kể lể về gia đình mà nó có. Sindri Snaer chưa bao giờ kể về chuyện đó, về mẹ nó, về chị nó hay về tất cả những chuyện chưa bao giờ xảy ra. Nó luôn yên lặng và lãnh đạm khi bố chuyện với mình. Nó quan tâm đến bố. Đó là khác nhau giữa Sindri Snaer và chị . Eva Lind muốn hiểu về bố hơn và ngần ngại khi quy trách nhiệm cho bố.

      “Mẹ con ư?” Erlendur . “Chúng ta có thể tắt mấy cái bài hát Giáng sinh đó được ?”

      Erlendur cố gắng đẩy lùi thời gian. Việc Eva luôn tìm kiếm trong quá khứ lúc nào cũng khiến ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ông biết câu trả lời cho những câu hỏi liên quan đến cuộc hôn nhân ngắn ngủi của họ, những đứa con của họ và tại sao ông lại ra . Ông trả lời tất cả các câu hỏi của con bé, và đôi khi chuyện đó khiến cho nó tức giận. Cứ mỗi lần động đến chuyện gia đình là tính nó lại nóng như lửa.

      , con muốn nghe nhạc Giáng sinh,” Eva Lind , và Bing Crosby lại tiếp tục mơ về Giáng sinh trắng xóa. “Con chưa bao giờ nghe mẹ điều gì tốt đẹp về bố, nhưng chắc hẳn là bà ấy nhìn thấy điều gì đó ở bố. Lần đầu tiên. Khi bố mẹ gặp nhau. Đó là cái gì?”

      “Con hỏi bà ấy chưa?”

      “Rồi.”

      “Vậy bà ấy sao?”

      “Chả gì cả. Thế có nghĩa là bà ấy phải điều gì đó tốt đẹp về bố và bà ấy thể làm thế được. thể chịu được cái ý nghĩ là ở bố có điều gì tốt đẹp. Đó là cái gì vậy? Tại sao hai bố mẹ lại như thế?”

      “Bố biết,” Erlendur , và đúng là như thế. Ông cố gắng thành thực. “Bố mẹ gặp nhau ở vũ hội. Bố biết. Chuyện đó được dự trù từ trước. Nó cứ thế xảy ra thôi.”

      “Lúc ấy trong đầu bố nghĩ gì?”

      Erlendur trả lời. Ông nghĩ về những đứa trẻ bao giờ biết mặt cha mẹ, bao giờ khám phá ra mình thực là ai. Chúng bước vào đời mà hề biết chút gì về cha mẹ chúng. bao giờ khám phá ra những bí mật riêng tư của họ, kết quả là bố mẹ chúng cũng là người lạ như bao người khác chúng gặp đường đời. Ông băn khoăn hiểu làm thế nào mà những người làm cha làm mẹ đó có thể bỏ rơi con cái của mình như thế, để rồi tất cả những gì mà chúng học được là từ cuộc sống chứ phải từ tình thương thực .

      “Lúc đó trong đầu bố nghĩ gì thế?” câu hỏi của Eva Lind khơi ra những nỗi đau mà nó luôn luôn chỉ trích.

      “Bố biết,” Erlendur đáp và giữ khoảng cách với nó giống như mọi lần. Con bé cảm nhận được điều đó. Có thể nó làm thế để xem ông phản ứng thế nào, để chắc chắn hơn, để cảm nhận xem khoảng cách giữa bố với mình xa đến đâu và mình hiểu bố được đến đâu.

      “Chắc chắn là bố cũng nhìn thấy điều gì đó ở mẹ.”

      Làm sao mà con bé hiểu được khi ngay cả bản thân ông có lúc cũng còn hiểu?

      “Bố mẹ gặp nhau ở vũ hội,” ông nhắc lại. “Bố mong là chuyện đó có kết quả gì trong tương lai.”

      “Và rồi bố bỏ .”

      “Bố bỏ ,” Erlendur . “Chuyện phải như thế. Nhưng cuối cùng bố ra và mọi chuyện kết thúc. Bố mẹ làm chuyện đó… Bố biết. Có thể có cách nào đúng cả. Nếu có, bố mẹ cũng tìm ra.”

      “Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc,” Eva Lind .

      ,” Erlendur . Ông vẫn nghe Bing Crosby hát đài. Qua khung cửa sổ, ông lặng ngắm những bông tuyết lớn rơi xuống mặt đất. Rồi ông nhìn con , những quầng thâm quanh mắt nó, cái khuyên mũi nó, đôi giày quân đội nó gác bàn uống nước, những vết cáu bẩn trong móng tay nó, cái bụng kẹp lép bên dưới cái áo phông đen của nó bắt đầu phình ra.

      “Mọi chuyện bao giờ kết thúc cả,” ông .

      Höskuldur Thórarinsson sống ở căn hộ dưới tầng hầm trong ngôi nhà riêng trang nhã của con mình ở Árbaer, ông ta trông có vẻ hài lòng với số phận của mình. Đó là người đàn ông con, linh lợi với mái tóc bạc và chòm râu bạc quanh cái miệng . Ông ta mặc chiếc áo lao động kẻ ca-rô và quần nhung màu be. Elínborg tìm ra ông ta. Trong sổ đăng ký quốc gia có nhiều người có tên là Höskuldur qua độ tuổi về hưu. gọi điện cho hầu hết những người đó, họ sống ở khắp nơi toàn Iceland, và người đàn ông đặc biệt có tên là Höskuldur ở Árbaer này cho biết, chắc chắn là ông ta thuê nhà Benjamín Knudsen, về người đàn ông tội nghiệp dễ mến ấy. Höskuldur vẫn còn nhớ ngôi nhà đó rất mặc dù ông ta ở đó lâu.

      Erlendur và Elínborg ngồi trong phòng khách của Höskuldur, ông ta pha cà phê và mời họ. Sau đó ba người ngồi chuyện phiếm. Höskuldur kể rằng ông ta sinh ra và lớn lên ở Reykjavík, sau đó ông than phiền về việc những kẻ bảo thủ khốn kiếp bóp nghẹt cuộc sống của những người được trợ cấp như thế nào, nhìn nhận họ như thể họ là lũ vô công rồi nghề thể tự nuôi sống bản thân mình vậy. Erlendur quyết định để cho ông ta dông dài thêm nữa.

      “Tại sao ông lại chuyển đến ngọn đồi? Ở đó phải là khá thôn dã so với Reykjavík sao?”

      “Chắc chắn là thế rồi,” Höskuldur khi rót cà phê vào cốc. “Nhưng còn cách nào khác cả. Ngày ấy thể tìm nổi chỗ trú thân ở bất cứ đâu tại Reykjavík. Suốt chiến tranh, người ta ở nhồi ở nhét trong những căn phòng bé tí. Đột nhiên, tất cả những người nhà quê đều có thể lên thành phố để kiếm tiền chứ còn phải nhận những cục sữa đông và chai rượu nữa. Họ cũng có thể ngủ trong các căn lều nếu buộc phải làm như vậy. Giá nhà cao ngút trời nên tôi phải chuyển lên đồi. Những khúc xương mà các ông tìm thấy là gì vậy?”

      “Ông chuyển lên đồi khi nào?” Elínborg hỏi.

      “Hồi đó là khoảng năm 1943, tôi nghĩ vậy. Hay năm 44 gì đó. Hình như lúc ấy là mùa thu. Giữa cuộc chiến tranh.”

      “Ông sống ở đó bao lâu?”

      “Tôi ở đó trong vòng năm. Cho đến mùa thu năm sau.”

      “Ông sống mình sao?”

      “Với vợ tôi. Ellý già thân . Bà ấy qua đời rồi.”

      “Bà ấy mất năm nào?”

      “Cách đây ba năm. Các ông nghĩ là tôi chôn bà ấy đồi à? Tôi trông giống loại người đó lắm sao?”

      “Chúng tôi tìm được ghi chép nào về những người từng sống ở đó cả,” Elínborg trả lời câu hỏi của ông ta. “Về ông hay bất kỳ ai cũng . Ông đăng ký cư ngụ tại đó.”

      “Tôi thể nhớ nổi chuyện đó như thế nào nữa. Chúng tôi chẳng bao giờ đăng ký cả. Chúng tôi là những kẻ vô gia cư. Những người khác luôn luôn sẵn sàng trả giá cao hơn chúng tôi, sau đó tôi nghe về ngôi nhà gỗ của Benjamín nên tôi chuyện với ông ấy. Những người thuê nhà ở đó vừa mới chuyển nên ông ấy làm phúc cho tôi.”

      “Ông có biết những người thuê nhà đó là ai ? Những người đến trước ông ấy?”

      , nhưng tôi nhớ rằng ngôi nhà hoàn toàn sạch khi chúng tôi đến đó.” Höskuldur uống nốt cốc cà phê, lại rót đầy rồi nhấp thêm ngụm. “Sạch như chùi.”

      “Ông ‘sạch như chùi’ nghĩa là gì?”

      “Tôi nhớ là Ellý đặc biệt nhận xét về điều đó. Bà ấy thích thế. Mọi thứ đều được lau chùi, đánh bóng và chẳng có lấy hạt bụi. Cứ như là đến ở khách sạn vậy. phải là chúng tôi thô lỗ gì đâu, xin hai vị nhớ cho. Nhưng chỗ đó được lau chùi sạch lạ lùng. Chắc chắn là bà nội trợ nào đó rất giỏi làm công việc của mình, Ellý của tôi vậy.”

      “Vậy ông chưa bao giờ nhìn thấy dấu hiệu bạo lực hay điều gì đó tương tự à?” Erlendur hỏi, từ đầu đến giờ ông mới lên tiếng. “Ví dụ như vết máu tường chẳng hạn?”

      Elínborg nhìn ông. Chẳng lẽ Erlendur trêu tức ông ta sao?

      “Máu ư? tường ư? , chẳng thấy vết máu nào cả.”

      “Vậy là mọi thứ đều ngăn nắp?”

      “Mọi thứ đều ngăn nắp. Chắc chắn là vậy.”

      “Hồi ông đến có bụi cây nào gần nhà ?”

      “Có những bụi cây lý chua, có đấy. Tôi nhớ chúng rất vì chúng trĩu quả vào mùa thu đó, chúng tôi còn lấy quả làm mứt nữa.”

      “Ông trồng chúng sao? Hay là vợ ông, bà Ellý ấy?”

      , chúng tôi trồng. Khi chúng tôi đến thấy chúng ở đó rồi.”

      “Ông có thể hình dung ra bộ xương đó là ai ?” Erlendur hỏi.

      “Đó là lý do tại sao các ông đến đây à? Để xem tôi có giết ai chứ gì?”

      “Chúng tôi cho rằng bộ xương đó bị chôn ở đồi trong thời gian chiến tranh hoặc gần như thế. Nhưng ông bị tình nghi giết người. Hoàn toàn . Ông có bao giờ chuyện với Benjamín về những người từng thuê nhà trước ông ?”

      “Tình cờ thôi,” Höskuldur đáp. “Có lần khi tôi trả tiền thuê nhà và khen ngợi về sạch tuyệt đối mà những người thuê nhà trước đó để lại. Nhưng dường như ông ấy quan tâm cho lắm. người đàn ông bí . Mất vợ. Nghe bà ấy tự gieo mình xuống biển.”

      “Vợ chưa cưới đúng hơn. Họ chưa kết hôn. Ông có nhớ những doanh trại của quân đội đồi ? Hoặc của Mỹ hồi cuối chiến tranh ấy?”

      “Quân đội rút sau vụ chiếm đóng năm 1940. Họ cho dựng doanh trại ở phía bên kia quả đồi và có khẩu đại bác để chống lại quân Reykjavík. Tôi luôn luôn nghĩ đó chỉ là trò đùa, nhưng Ellý bảo tôi rằng đừng có lấy đó làm trò cười. Sau đó quân và quân Mỹ đến tiếp quản. Hồi tôi đến đó, họ cũng dựng lều trại đồi. Quân bỏ nhiều năm trước đó rồi.”

      “Ông có biết họ ?”

      biết chút nào. Họ chỉ biết họ với nhau thôi. Họ bốc mùi như quân , Ellý của tôi thế. Họ sạch và tử tế hơn nhiều. Lịch nữa. Lịch hơn người nhiều lắm. Y như trong phim ấy. Kiểu như Clark Gable hay Cary Grant vậy.”

      Cary Grant là người , Erlendur nghĩ, nhưng ông chẳng buồn tranh cãi với cái ông-biết-tuốt ấy. Ông thấy Elínborg cũng lờ để ý.

      “Họ cũng dựng những doanh trại chắc chắn hơn nữa,” Höskuldur khẳng định chắc nịch. “Những doanh trại của họ tốt hơn nhiều so với của người . Người Mỹ đổ sàn bê tông chứ dùng ván lót sàn mục rữa như người . nơi ở lý tưởng. Tất cả những thứ mà người Mỹ động vào làm đều tốt hơn và khéo léo hơn rất nhiều.”

      “Ông có biết sau khi ông và bà Ellý rời khỏi ngôi nhà, ai đến thuê nó ?” Erlendur hỏi.

      “Có, chúng tôi đưa họ quanh ngôi nhà. ta làm việc tại nông trại ở Gufunes, có vợ và hai con cùng với con chó. Họ là những người rất dễ mến, nhưng dù có cố đến mấy tôi cũng thể nào nhớ nổi tên họ.”

      “Ông có biết gì về những người sống ở đó trước ông ? Những người coi sóc ngôi nhà cẩn thận ấy?”

      “Tôi chỉ biết những điều mà Benjamín khi tôi khen ngợi việc ngôi nhà của ông ấy được giữ gìn cẩn thận và rằng Ellý với tôi cũng đặt ra những tiêu chuẩn cao như vậy.”

      Erlendur vểnh tai lên nghe còn Elínborg ngồi ngay người lại ghế. Nhưng Höskuldur chẳng gì thêm.

      “Sao cơ?” Erlendur hỏi.

      “Những điều ông ấy ư? Đó là về người vợ.” Höskuldur ngừng lại lúc và nhấp ngụm cà phê. Erlendur sốt ruột chờ ông ta kết thúc câu chuyện. sốt sắng của ông qua nổi mắt của Höskuldur, và ông ta biết rằng vị thám tử này phải van xin mình.

      “Chuyện đó rất thú vị, chắc chắn là như vậy,” Höskuldur . Cảnh sát khỏi đây với hai bàn tay trắng đâu. Ông ta lại nhấp thêm ngụm cà phê nữa và lừng chừng rất lâu.

      Lạy Chúa tôi, Elínborg nghĩ. Lão già này có định lảng sang chuyện khác đây? Mình phải chịu đựng quá đủ những kẻ hủ lậu hoặc là chết cách khốn khổ vì mình hoặc là ra vẻ phách lối với mình rồi.

      “Ông ấy nghĩ rằng người chồng hành hạ vợ mình.”

      “Hành hạ ư?” Erlendur nhắc lại.

      “Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ? Bạo hành gia đình phải ?”

      ta đánh vợ à?” Erlendur .

      “Đó là Benjámin vậy. Kẻ vô lại đó đánh vợ và con mình. Tôi chưa bao giờ đụng ngón tay vào Ellý.”

      “Ông ta có cho ông biết tên của họ ?”

      , mà nếu ông ấy có tôi cũng quên lâu rồi. Nhưng ông ấy có điều mà từ đó tới bây giờ tôi chưa từng quên. Ông ấy rằng ta – vợ người đàn ông ấy – được sinh ra trong nhà máy sản xuất khí đốt ở Raudarárstígur. Ở mạn dưới Hlemmur. Ít nhất đó cũng là những gì người ta . Cũng giống như kiểu người ta rằng Benjamín giết vợ mình ấy mà. À ý tôi là vợ chưa cưới ấy.”

      “Benjamín? Nhà máy sản xuất khí đốt? Ông đến chuyện gì thế?” Erlendur hoàn toàn mất phương hướng. “Người ta rằng Benjamín giết vợ chưa cưới của mình ư?”

      “Có số người nghĩ vậy. Vào hồi đó ấy. Tự ông ấy cũng vậy.”

      “Rằng ông ta giết ấy à?”

      “Rằng người ta nghĩ là ông ấy làm gì đó với ấy. Ông ấy rằng mình giết vợ chưa cưới. Ông ấy chưa bao giờ thế. Tôi hiểu về ông ấy chút nào. Nhưng ông ấy chắc chắn rằng người ta nghi ngờ mình và tôi nghe là vì ghen tuông gì đó.”

      “Chuyện ngồi lê đôi mách sao?”

      “Tất nhiên rồi. Chúng tôi rất giỏi chuyện đó. Giỏi buôn chuyện về những điều xấu xa mà người khác làm.”

      “Hượm chút, chuyện về nhà máy sản xuất khí đốt là thế nào?”

      “Đó là lời đồn đại hay hớm nhất. Ông chưa nghe qua chuyện đó à? Người ta nghĩ rằng ngày tận thế của trái đất sắp đến nên họ tổ chức đêm trụy lạc ở nhà máy đó. Sau đó có mấy đứa trẻ được sinh ra và người phụ nữ này là trong số họ, hoặc đó là suy nghĩ của Benjámin. Họ được gọi là những đứa trẻ của ngày tận thế.”

      “Ông đùa tôi đấy à?”

      Höskuldur lắc đầu.

      “Đó là vì xuất của sao chổi. Người ta nghĩ rằng nó va vào trái đất.”

      “Sao chổi nào cơ?”

      “Sao chổi Halley, tất nhiên là thế rồi!” ông-biết-tuốt gần như quát lên vì tức giận trước ngu độn của Erlendur. “Sao chổi Halley ấy! Người ta nghĩ là nó va vào trái đất và tất cả bị tiêu hủy bởi lửa địa ngục!”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      15

      Lúc trước đó Elínborg tìm ra nơi ở của em vợ chưa cưới của Benjamín. Khi và Erlendur rời khỏi nhà Höskuldur, với ông rằng mình muốn đến chuyện với bà ta. Erlendur gật đầu và rằng ông đến Thư viện Quốc gia để tìm xem có bài báo nào về sao chổi Halley hay . Giống như tất cả các nhà-biết-tuốt, té ra Höskuldur cũng chẳng biết lắm về chuyện xảy ra. Ông ta vòng vo quanh quẩn cho đến khi Erlendur buồn nghe nữa và ra về khá đột ngột.

      nghĩ sao về những điều Höskuldur vừa mới ?” Erlendur hỏi khi họ lên xe.

      “Câu chuyện về nhà máy sản xuất khí đốt ấy lố bịch,” Elínborg đáp. “ rất thú vị nếu ông tìm được thông tin về vụ đó đấy. Nhưng tất nhiên là những điều mà ông ta về chuyện ngồi lê đôi mách sai tẹo nào. Chúng ta rất thích thú khi kể những câu chuyện xấu xa về người khác. Những lời đồn đại đó chẳng thể lên được gì về chuyện Benjamín có phải là tên sát nhân thực hay , và ông cũng hiểu điều đó mà.”

      “Phải, nhưng còn câu thành ngữ ‘ có lửa làm sao có khói’ sao?”

      “Những thành ngữ,” lẩm bẩm. “Tôi hỏi em bà ấy. chuyện khác . Eva Lind thế nào rồi?”

      “Con bé vẫn nằm giường bệnh. Bác sĩ bảo tôi phải chuyện với con bé.”

      chuyện với nó ư?”

      “Ông ấy cho rằng nó có thể nghe được qua cơn hôn mê, và điều đó rất tốt cho nó.”

      “Vậy ông gì với nó?”

      “Chẳng có gì nhiều,” Erlendur . “Tôi chẳng biết phải gì cả.”

      Em vợ chưa cưới của Benjamín nghe những lời đàm tiếu nhưng bà ta phủ nhận thẳng thừng những tin đồn đó. Tên bà ta là Bára, vẫn còn khá trẻ so với chị mình. Bà ta sống trong ngôi nhà riêng ở Grafarvogur cùng chồng là doanh nhân giàu có. Cuộc sống của họ rất xa xỉ, phong lưu với đủ các đồ nội thất hoa mỹ bày biện trong nhà. Bà ta đeo những đồ trang sức đắt tiền và tỏ ra hợm hĩnh trước mặt Elínborg – người thám tử ngồi trong phòng khách. Elínborg qua điện thoại những điều mà muốn hỏi và nghĩ rằng người đàn bà này chưa bao giờ phải lo lắng về tiền bạc, bà ta luôn thỏa mãn mọi nhu cầu của mình và bao giờ giao du với những người dưới đẳng cấp. Có lẽ bà ta còn phải lo lắng về bất cứ điều gì từ lâu lắm rồi. Elínborg có cảm giác rằng đây là cuộc đời chờ đợi trước mắt chị Bára trong khoảng thời gian biến mất.

      “Chị tôi thực Benjamín, nhưng tôi thể hiểu nổi tại sao. Đối với tôi ông ta chỉ là kẻ tẻ nhạt tầm thường. Tất nhiên là vô giáo dục, nhà Knudsen là dòng họ lâu đời nhất ở Reykjavík. Nhưng ông ta phải là loại người hấp dẫn.”

      Elínborg mỉm cười. hiểu ý bà ta là gì.

      Bára thấy điều đó.

      kẻ mơ mộng. Chẳng mấy khi thực tế, chỉ biết nghĩ ra những điều to lớn về việc buôn bán lẻ, và những điều này trôi vào dĩ vãng quá lâu rồi. Ông ta cũng chẳng sống được để mà hưởng những thứ đó. Ông ta lại còn đối tốt với bọn dân thường nữa chứ. Người hầu kẻ hạ trong nhà cũng chẳng phải gọi ông ta là ‘ngài’. Bây giờ người ta gọi thế nữa rồi. Chẳng còn chút lịch nào cả. Và cũng chẳng còn người hầu nào nữa.”

      Bára lau những hạt bụi vô hình chiếc bàn uống nước.

      Elínborg thấy có số bức tranh lớn ở cuối gian phòng cùng những bức chân dung riêng của Bára và chồng. Ông ta trông có vẻ cau có và mệt mỏi, suy nghĩ tận đâu đâu. Gương mặt nghiêm khắc của Bára dường như ngầm cười toe toét khiến Elínborg thể nghĩ rằng trong cuộc hôn nhân này bà ta là người thắng cuộc. thấy thương hại cho người đàn ông trong ảnh.

      “Nhưng nếu các người nghĩ là ông ta giết chị tôi lầm to rồi,” Bára . “Những mẩu xương mà các người tìm thấy gần ngôi nhà gỗ phải là của chị ấy.”

      “Tại sao bà biết?”

      “Tôi biết thế. Vì Benjamín thậm chí còn bao giờ động đến cả con ruồi. kẻ yếu đuối dễ sợ. kẻ viển vông, như tôi rồi đấy. Chuyện đó càng ràng hơn khi chị tôi biến mất. Ông ta sụp đổ hoàn toàn, còn quan tâm gì đến việc kinh doanh nữa, cũng chẳng thèm giao du với ai và từ bỏ mọi thứ. Benjamín bao giờ vượt qua nổi cú sốc đó. Mẹ tôi gửi trả lại cho ông ta những bức thư tình mà ông ta gửi cho chị tôi. Bà đọc mấy bức và rằng chúng tha thiết.”

      “Bà và chị có thân thiết với nhau ?”

      , tôi cho là thế. Tôi ít tuổi hơn chị ấy quá nhiều. Từ khi tôi còn bé tí, chị ấy trưởng thành rồi. Mẹ tôi luôn rằng chị rất giống bố tôi: giàu trí tưởng tượng và hay buồn phiền nữa. Ông ấy cũng làm như thế.”

      Điệu bộ của Bára khiến người ta có cảm giác rằng bà ta sơ suất khi ra câu cuối.

      “Cũng làm như thế ư?”

      “Phải,” Bára cáu kỉnh . “Cũng tự tử như vậy.” Bà ta đầy thơ ơ. “Nhưng ông ấy mất tích như chị tôi. . Ông ấy treo cổ ở phòng ăn, cái móc đèn chùm ấy. Tất cả mọi người đều trông thấy rất . Ông ấy quan tâm đến gia đình thế đấy.”

      “Chuyện đó chắc khiến gia đình bà khổ tâm lắm,” Elínborg lấy lệ. Bára nhìn chòng chọc vào Elínborg với vẻ cáo buộc khi bà ta ngồi xuống đối diện với , như thể chính khơi mào ra khiến bà ta phải nhắc lại chuyện đó vậy.

      “Chuyện đó đối với chị tôi là khó khăn nhất. Họ rất thân nhau. Chuyện đó để lại nỗi đau trong lòng mọi người. Người phụ nữ tội nghiệp.”

      Trong thoáng giọng bà ta có pha chút cảm thông.

      “Đó có phải…”

      “Chuyện này xảy ra trước khi chị tôi mất tích vài năm,” Bára . Elínborg nhận thấy bà ta cố gắng che giấu điều gì đó. Như thể câu chuyện của bà ta được chuẩn bị từ trước vậy, nó được lọc hết mọi cảm xúc trong đó. Nhưng có lẽ bà ta chỉ đơn giản là con người như vậy. Hống hách, nhẫn tâm và ngu độn.

      “Về phần mình, Benjamín đối xử với chị ấy rất tốt,” Bára tiếp. “Ông ta viết thư tình cho chị ấy, đại loại là vậy. Ngày đó, người Reykjavík có thể dạo cùng nhau khá lâu khi họ đính hôn. Đó là tìm hiểu lẫn nhau rất bình thường. Họ gặp nhau ở khách sạn Borg, nơi hẹn hò chủ yếu của trai thời đó. Họ rủ nhau dạo, du lịch, và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn như bao đôi lứa khác. Ông ta cầu hôn chị tôi, và rồi trước đám cưới chỉ khoảng hai tuần chị tôi mất tích, tôi đoán thế.”

      “Tôi nghe người ta đồn rằng bà ấy tự gieo mình xuống biển,” Elínborg .

      “Phải, họ tốn khá nhiều công để thêu dệt nên câu chuyện đó. Người ta bủa tìm chị ấy khắp Reykjavík. Hàng tá người tham gia vào cuộc tìm kiếm nhưng họ tìm thấy dù chỉ là sợi tóc của chị ấy. Mẹ tôi báo tin cho tôi biết rằng sáng hôm đó chị ấy ra . Chị ấy mua sắm và đến số nơi khác nữa, hồi đó có nhiều cửa hàng lắm, nhưng chị ấy mua thứ gì. Chị tôi gặp Benjamín ở của hàng của ông ta, sau đó chia tay, rồi từ đó còn ai trông thấy chị ấy đâu nữa. Ông ta với cảnh sát và chúng tôi rằng họ cãi nhau. Đó là lý do tại sao ông ấy đổ lỗi cho mình về việc xảy ra và rất đau khổ về chuyện đó.”

      “Tại sao người ta lại đến biển?”

      số người cho là họ trông thấy người phụ nữ ra phía biển – điểm tận cùng của Tryggvagata ngày nay. ấy mặc áo khoác giống như chị tôi, cũng cao như thế. Tất cả chỉ có thế.”

      “Thế họ cãi nhau vì chuyện gì?”

      “Mấy chuyện linh tinh thôi, liên quan đến việc chuẩn bị cho đám cưới. Hoặc chí ít Benjamín như vậy.”

      “Bà cho rằng có chuyện gì khác sao?”

      “Tôi biết.”

      “Vậy bà nghĩ rằng có khả năng bộ xương chúng tôi tìm thấy đồi là của chị mình?”

      “Phải, thể có khả năng đó. Tôi có cơ sở gì, tất nhiên rồi, tôi cũng chẳng chứng minh được gì, nhưng tôi thấy chuyện đó khó tin. Đơn giản là tôi thể tin nổi điều đó.”

      “Bà có biết gì về những người từng thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín ở Grafarholt ? Có thể là những người ở đó trong chiến tranh chẳng hạn? Có khả năng đó là gia đình có năm người, hai vợ chồng với ba đứa con. Chuyện đó có gợi cho bà nhớ đến điều gì ?”

      . Nhưng tôi biết người ta đến ở ngôi nhà của ông ấy trong suốt thời kỳ chiến tranh, vì hồi đó nhà cửa lên cơn sốt mà.”

      “Bà có kỷ vật nào của chị mình ? mớ tóc chẳng hạn? Để trong cái hộp ấy?”

      , nhưng Benjamín có lọn tóc của chị ấy đấy. Tôi thấy chị ấy cắt nó cho ông ta. Benjamín hỏi xin chị ấy vật lưu niệm vào mùa hè chị tôi xuống miền Nam đến Fljót để thăm họ hàng trong hai tuần.”

      Khi Elínborg vào trong xe, gọi điện cho Sigurdur Óli. ta ra khỏi tầng hầm của Benjamín sau ngày làm việc dài đằng đẵng và chán ngắt. bảo Sigurdur Óli để ý tìm lọn tóc của vợ chưa cưới của Benjamín. Có thể nó nằm trong cái hộp xinh xắn, . Elínborg nghe thấy tiếng Sigurdur Óli rên rỉ. “Nào,” Elínborg , “nếu tìm được lọn tóc đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ chuyện người đó có phải là bà ta hay . Chỉ đơn giản có thế thôi,” rồi cúp máy. Đúng lúc Elínborg chuẩn bị lái xe trong đầu chợt nảy ra suy nghĩ. Sau hồi cân nhắc và bồn chồn cắn môi, quyết định hành động.

      Khi Bára ra mở cửa, bà ta rất ngạc nhiên khi lại gặp Elínborg.

      quên gì à?” bà ta hỏi.

      , tôi chỉ muốn hỏi câu này nữa thôi,” Elínborg ngượng nghịu . “Rồi tôi ngay.”

      “Được rồi, muốn hỏi gì?” Bára sốt ruột .

      “Bà rằng chị mình có mặc chiếc áo khoác vào cái hôm bà ấy mất tích phải ?”

      “Vậy sao?”

      “Đó là loại áo khoác gì?”

      “Loại nào ư? Chỉ là cái áo khoác bình thường mà mẹ tôi tặng chị ấy thôi.”

      “Ý tôi là màu gì ấy. Bà có biết ?”

      “Sao lại hỏi thế?”

      “Tôi tò mò thôi.” Elínborg , muốn giải

      thích thêm.

      “Tôi nhớ.”

      “Vâng, tất nhiên rồi,” Elínborg . “Tôi hiểu. Cảm ơn bà và xin lỗi vì làm phiền.”

      “Nhưng mẹ tôi là nó màu xanh lục”.

      ***

      Có quá nhiều thứ thay đổi trong những năm tháng kỳ lạ ấy.

      Tómas thôi còn tè dầm ra giường và làm cho bố nó nổi điên lên nữa. Símon hiểu tại sao Grímur lại bắt đầu chú ý đến em nó. Nó cho rằng bố nó thay đổi kể từ lúc quân lính đến. Hoặc có lẽ Tómas thay đổi cũng nên.

      Mẹ của Símon chưa bao giờ đến nhà máy sản xuất khí đốt, còn Grímur rất lấy làm thích thú khi nhạo báng về chuyện đó, nhưng mãi cuối cùng cũng phải chán. gọi là “đồ con hoang” hay “đồ đầu ga”, ngớt về cái bình ga lớn và cái đêm truy hoan trác táng trước ngày tận thế của Trái đất. Mặc dù chẳng hiểu gì về những điều bố , Símon vẫn thấy điều đó làm mẹ nó buồn lắm. Símon biết rằng mỗi lời ra đều khiến mẹ nó đau y như bị dần cho trận đòn nhừ tử.

      lần Símon cùng bố ra thành phố, đường qua nhà máy sản xuất khí đốt, Grímur cười phá lên và chỉ vào cái thùng lớn, rằng đó là nơi mẹ chúng nó sinh ra. Sau đó cười to hơn. Nhà máy sản xuất khí đốt là trong những tòa nhà lớn nhất ở Reykjavík và Símon thấy nó phiền phức. Thằng bé quyết tâm hỏi mẹ về tòa nhà và cái bình ga lớn gây tò mò đó.

      “Đừng nghe ông ta vớ vẩn,” bà . “Đến bây giờ con phải biết cách mắng chửi của ông ta rồi chứ. Con nên tin bất cứ điều gì ông ta . Bất cứ điều gì.”

      “Vậy chuyện gì xảy ra ở nhà máy đó hả mẹ?”

      “Theo như mẹ biết chẳng có gì cả. Tự ông ta dựng ra mọi chuyện đấy. Mẹ biết ông ta nghe được câu chuyện đó từ đâu.”

      “Nhưng ông bà ngoại đâu hả mẹ?”

      yên lặng nhìn con trai. trăn trở với câu hỏi đó suốt cả cuộc đời và lúc này đây con trai lại vô tình hỏi câu đó. biết phải trả lời nó thế nào. chưa bao giờ biết mặt bố mẹ mình. Khi còn , hỏi người ta về họ nhưng chẳng bao giờ nhận được câu trả lời.

      Những ký ức đầu tiên của là ở trong ngôi nhà có rất nhiều trẻ em ở Reykjavík. Khi lớn lên, được kể lại rằng mình chẳng có bố mẹ hay người thân nào hết, may nhờ hội từ thiện giúp đỡ mới được ở đây. cứ ngẫm nghĩ về những lời đó và cho đến mãi sau này mới hiểu ra. ngày được đưa ra khỏi ngôi nhà đó và về làm người ở cho đôi vợ chồng già. Đến khi trưởng thành, đến làm việc cho người lái buôn. Đó là toàn bộ cuộc đời trước khi gặp Grímur. có bố mẹ hay nơi nào đó để gọi là nhà, gia đình với họ hàng, dì chú bác, ông bà, em. Trong giai đoạn từ thiếu nữ trở thành phụ nữ, ngừng băn khoăn về việc mình và bố mẹ mình là ai. biết phải tìm câu trả lời ở đâu nữa.

      hình dung ra rằng họ chết trong vụ tai nạn. Đây là điều tự đặt ra để mà an ủi chính mình, vì thể chịu đựng được khi nghĩ rằng họ bỏ rơi – đứa con bé bỏng của họ. tưởng tượng ra rằng họ cứu mình và chết, thậm chí là hy sinh cuộc đời mình cho con. luôn luôn nhìn họ bằng thứ ánh sáng ấy – giống như những vị hùng chiến đấu để bảo vệ cho cuộc sống của mình và con . thể hình dung ra được là bố mẹ mình còn sống. Đối với , điều đó thể tưởng tượng nổi.

      Khi gặp thanh niên ngư dân – bố Mikkelína, nhờ người đó tìm câu trả lời giúp mình, và họ đến loạt các văn phòng nhưng vẫn biết chút thông tin gì về cả, ngoại trừ rằng đứa trẻ mồ côi. Người ta ghi là “trẻ mồ côi”. Giấy khai sinh của cũng có thông tin gì về bố mẹ. và người đàn ông đó đến gia đình mà từng ở với những đứa trẻ khác, họ chuyện với người phụ nữ trước đây là mẹ nuôi của nhưng bà ta cũng chẳng nhớ được gì.

      “Họ trả tiền cho ,” bà ta . “Còn chúng tôi cần tiền.”

      Bà ta chưa bao giờ thắc mắc về quá khứ của .

      Trước khi Grímur về nhà và rằng mình biết bố mẹ là ai và làm thế nào mà có mặt thế giới này, thôi còn băn khoăn xem họ là ai từ lâu lắm rồi. Nhìn Grímur về cái đêm thác loạn ở nhà máy sản xuất khí đốt, có thể thấy thỏa mãn bệnh hoạn của .

      Tất cả những suy nghĩ này lướt qua đầu óc của khi nhìn Símon, và trong thoáng như chực ra điều quan trọng với thằng bé trước khi kịp đột ngột bảo nó được đặt những câu hỏi liên miên như thế nữa.

      Gần như cả thế giới sôi lên trong chiến tranh. Nó lan đến tất cả các con đường dẫn đến phía bên kia ngọn đồi – nơi các đơn vị chiếm cứ của bắt đầu cho xây các công trình trông giống như ổ bánh mỳ mà họ gọi là doanh trại. Símon hiểu từ đó là gì. Bên trong các doanh trại được cho là chứa thứ gì đó có tên khó hiểu kém. cái kho quân .

      Đôi khi nó cùng Tómas chạy lên đồi để xem binh lính. Họ vận chuyển gỗ, xà nhà, tôn sóng, hàng rào, dây thép gai, xi măng, máy trộn xi măng và xe ủi đất để dọn chỗ cho các doanh trại lên đồi. Họ cũng xây cái boong-ke bao quát toàn bộ Grafarvogur, và ngày, hai em trông thấy người đưa khẩu đại bác lên đồi. Khẩu súng được lắp vào boong-ke, cái nòng khổng lồ của nó chĩa thẳng lên phải đến vài mét qua khe hở. Nhìn nó người ta có cảm tưởng khẩu súng sẵn sàng bắn kẻ thù tan xác thành trăm mảnh. Họ đến để giúp Iceland chiến đấu chống lại quân Đức – những kẻ tuyên chiến và giết tất cả những người chúng bắt được, thậm chí là cả những đứa bé như Símon hay Tómas.

      Những người lính dựng hàng rào bao quanh tám doanh trại và xây cái cổng có đề dòng chữ bằng tiếng Iceland “ PHẬN MIỄN VÀO”. lính canh luôn bồng súng đứng ở chòi gác ngay tại cổng. Họ quan tâm đến hai đứa bé, còn hai đứa nó luôn chú ý giữ khoảng cách an toàn. Khi đẹp trời, Símon và Tómas lại đưa chị chúng lên đồi, đặt chị xuống đám rêu để xem những người lính xây gì, chúng còn chỉ cho Mikkelína thấy cái nòng súng chĩa lên từ boong-ke. Mikkelína nằm xuống và nhìn mọi thứ xung quanh mình, nhưng con bé yên lặng và trầm mặc khiến Símon có cảm giác như chị nó sợ trước những gì mình trông thấy: binh lính và khẩu đại bác khổng lồ.

      Tất cả quân lính đều mặc quần áo kaki có thắt lưng, chân những đôi ủng đen chuyên dụng cao đến mắt cá, số còn đội mũ bảo hiểm và đeo súng trường hoặc súng ngắn trong bao. Khi trời ấm áp, họ cởi áo khoác và áo phông ra, cởi trần nằm phơi nắng. Các thao tác tập luyện quân diễn ra rất thường xuyên đồi, khi đó các binh lính nằm giấu mình, chạy lên từ vị trí nấp, lao mình lên mặt đất và bắn. Tiếng ồn ào và nhạc nổi lên ở doanh trại về đêm. Đôi khi họ bật cái máy phát nhạc lạo xạo còn tiếng hát loảng xoảng. Có những lúc quân lính hát đến khuya những bài hát của đất nước họ mà Símon biết là nước , còn Grímur rằng đó là đế chế.

      Chúng kể cho mẹ nghe tất cả những gì diễn ra ở phía bên kia ngọn đồi, nhưng chú tâm lắm. Tuy nhiên, có lần, chúng đưa mẹ lên đỉnh đồi và quan sát doanh trại của quân khá lâu, sau đó khi về nhà, về tất cả những nguy hiểm ở đó và cấm ba đứa được lảng vảng quanh khu vực đó nữa, bởi vì chúng bao giờ có thể biết được chuyện gì xảy ra khi người ta có súng trong tay và muốn chúng gặp bất kỳ mối nguy hiểm nào.

      Thời gian cứ thế trôi , bỗng dưng hôm doanh trại của quân tràn ngập binh lính Mỹ, gần như tất cả quân rời . Grímur rằng họ bị đưa giết còn người Mỹ rất thảnh thơi ở Iceland, chẳng cần phải lo gì hết.

      Grímur nghỉ làm than, bây giờ chuyển sang làm việc cho lính Mỹ đồi vì ở doanh trại đó có rất nhiều tiền, công việc phải làm ở đó cũng nhiều kém. ngày, bộ lên đồi và xin làm việc ở kho quân nhu, và phải mất nhiều công sức, được nhận vào làm ở đó và nhà ăn tập thể. Kể từ đó trở , bữa ăn trong gia đình được cải thiện hơn chút. Grímur mang về cái hộp màu đỏ có chìa khóa bên cạnh. lấy chìa khóa mở cái nắp hộp ra và dốc ngược nó xuống, ngay lập tức tảng thịt màu hồng có phủ nước thịt đông trong suốt rơi xuống cái đĩa. Tảng thịt rung rinh và có vị mặn rất ngon.

      “Thịt giăm-bông,” Grímur . “Chính hiệu Hoa Kỳ đấy.”

      Símon chưa bao giờ được ăn thứ gì ngon như thế trong đời. Lúc đầu nó chẳng băn khoăn lắm về chuyện tại sao món ăn đó lại xuất ở nhà mình, nhưng nó thấy vẻ mặt lo lắng của mẹ khi Grímur mang về nhà thùng chứa đầy hộp thịt và giấu chúng trong nhà. Đôi khi Grímur Reykjavík, mang theo hẳn bao tải chứa đầy những chiếc hộp như thế và nhiều loại hàng hóa khác nữa mà Símon biết là gì. Khi trở về, đổ tiền ra mặt bàn rồi đếm, những lúc như thế Símon thấy rất hạnh phúc – điều mà từ trước tới nay Símon chưa từng chứng kiến. Grímur còn quá hằn học với mẹ chúng nữa, về nhà máy sản xuất khí đốt, và còn xoa đầu Tómas nữa.

      Thời gian cứ thế trôi , lúc này trong ngôi nhà của họ ngập đầy các món hàng hóa của Mỹ: thuốc lá, thực phẩm đóng hộp, hoa quả, và thậm chí là cả bít tất ni-lông mà theo như mẹ chúng , đó là niềm mơ ước của tất cả phụ nữ ở Reykjavík.

      Chẳng có món đồ nào ở nhà họ được lâu. Có lần Grímur mang về nhà cái gói với mùi thơm điếc mũi nhất mà Símon từng được ngửi. Grímur mở nó ra cho cả nhà cùng thử và rằng đó là thứ mà người Mỹ nhai suốt, như là bò nhai cỏ vậy. “Chúng mày được nuốt, sau lúc phải nhổ nó ra rồi lấy miếng mới.” Símon, Tómas, và thậm chí cả Mikkelína cũng được đưa cho miếng màu hồng thơm phức. Chúng nhai lấy nhai để, sau đó nhổ bã ra và lại được lấy thêm miếng nữa.

      “Cái này có tên là kẹo cao su,” Grímur .

      Grímur nhanh chóng học được cách chuyện bằng tiếng và kết bạn với lính. Thỉnh thoảng khi họ được nghỉ, Grímur lại mời họ về nhà chơi, và mỗi lần như thế, Mikkelína lại phải giam mình trong nhà kho chật chội, hai thằng con trai phải chải tóc đàng hoàng, còn mẹ chúng phải mặc váy tử tế và ra trình diện. Những người lính đến chơi cư xử rất lịch thiệp, họ chào cả nhà bằng những cái bắt tay siết chặt, tự giới thiệu về mình và cho kẹo mấy đứa . Sau đó họ ngồi chè chén với nhau. Tàn cuộc, họ lên xe Jeep về Reykjavík và sau đó mọi thứ trong ngôi nhà lại chìm vào yên ắng, bởi vì ngoài họ ra chẳng còn ai đến đây chơi nữa.

      Tuy nhiên, thông thường, những người lính thẳng đến Reykjavík rồi đến đêm lại quay về và ca hát. Tiếng họ la hét và gọi nhau í ới làm náo động cả ngọn đồi, và có hai lần tiếng súng vang lên nhưng phải là tiếng đại bác vì, theo như Grímur , điều đó có nghĩa là: “Bọn Đức quốc xã khốn kiếp ở Reykjavík và chúng giết tất cả chúng ta trong nháy mắt.” thường đến thành phố với bọn lính cả đêm và khi trở về, hát những bài hát Mỹ. Símon chưa bao giờ nghe Grímur hát trước mùa hè năm đó.

      lần, Símon chứng kiến lạ.

      Hôm đó, có người lính Mỹ lên đồi, tay cầm cần câu, dừng lại ở bờ hồ Reynisvatn và quăng dây câu cá hồi. Sau đó ta xuống đồi, cầm theo cần câu và huýt sáo suốt dọc đường đến hồ Hafravatn, rồi ta quanh quẩn ở đó cả ngày. Hôm đó là ngày mùa hè đẹp trời, ta quanh hồ và thả câu bất cứ khi nào thấy thích. Thay vì câu được nhiều cá, ta lại có vẻ thích được ở bên hồ trong tiết trời đẹp như thế hơn. ta ngồi xuống, hút thuốc và tắm nắng.

      Đến khoảng ba giờ, dường như nghỉ ngơi đủ, ta thu dọn cần câu và cái túi đựng ba con cá hồi rồi bộ lên đồi. Nhưng thay vì qua ngôi nhà, ta dừng lại và điều gì đó mà Símon hiểu. Từ đầu đến giờ thằng bé theo dõi sát sao mọi cử động của ta và lúc này nó đứng ở cửa chính.

      “Bố mẹ cháu có ở nhà ?” người lính mỉm cười hỏi Símon bằng tiếng và ngó vào bên trong. Cứ mỗi khi đẹp trời là cửa nhà lại mở. Tómas đưa Mikkelína ra khoảng đất nắng sau nhà và nằm ở đó cùng chị. Người mẹ dọn dẹp ở trong nhà.

      Símon hiểu người lính gì.

      “Cháu hiểu à?” Người lính . “Tên chú là Dave. Chú là người Mỹ.”

      Hiểu rằng tên ta là Dave, Símon gật đầu.

      Dave giơ cái túi ra trước mặt thằng bé, để xuống đất, mở nó ra và lấy ra ba con cá hồi.

      “Chú cho cháu cái này. Cháu có hiểu ? Cho nhà cháu đấy. Chúng rất ngon đấy!”

      Símon nhìn Dave chằm chằm hiểu gì. Dave mỉm cười, phô ra hàm răng trắng bóng. ta thấp và gầy, khuôn mặt xương, mái tóc dày màu đen chải gọn gàng sang bên.

      “Mẹ cháu có nhà ?” ta hỏi. “Hay bố cháu cũng được?”

      Símon ngơ ngác. Dave cởi cúc túi áo, lấy ra quyển sổ màu đen và lật nhanh đến trang cần tìm. ta bước lại chỗ Símon và chỉ vào câu trong đó.

      “Cháu có biết đọc ?”

      Símon đọc cái câu mà Dave chỉ tay vào. Nó hiểu được vì câu này viết bằng tiếng Iceland, nhưng bên dưới là cái gì đó của nước ngoài mà nó hiểu được. Dave đọc to câu viết bằng tiếng Iceland, cẩn thận hết sức

      có thể.

      “My name is Símon,” nó mỉm cười và . Dave còn cười to hơn. ta tìm câu khác và chỉ cho thằng bé xem.

      “Quý có khỏe ?” Símon đọc.

      “Phải, nhưng phải là quý , hỏi cháu cơ mà,” Dave cười to, nhưng Símon hiểu. Dave tìm từ khác và đưa cho Símon xem. “Mẹ,” Símon đọc to, và Dave chỉ vào nó kèm theo cái gật đầu.

      “Ở đâu?” Dave hỏi bằng tiếng Iceland, và Símon hiểu là ta hỏi về mẹ mình. Símon ra hiệu cho Dave theo mình và dẫn ta vào bếp, nơi mẹ nó ngồi vá tất ở bàn. mỉm cười khi thấy Símon bước vào, nhưng khi thấy người đàn ông lạ sau thằng bé, nụ cười của khựng lại, làm rơi cái tất và nhảy lên ghế. Dave, lúc này cũng lùi lại, bước về phía trước và xua tay rối rít.

      “Xin lỗi,” ta . “Tôi rất xin lỗi. Tôi muốn làm kinh động đến .”

      Mẹ Símon lao đến chỗ bồn rửa bát và nhìn chằm chằm xuống dưới như thể dám nhìn lên.

      “Símon, con hãy đưa ta ra ngoài , Símon,” .

      “Vâng, tôi ,” Dave . “ có gì đâu. Tôi xin lỗi. Tôi đây. Xin , tôi…”

      “Símon, đưa ta ,” người mẹ nhắc lại.

      Lúng túng trước phản ứng của mẹ, Símon hết nhìn người này lại nhìn người kia, sau đó nó thấy Dave khỏi bếp ra ngoài sân.

      “Tại sao con lại làm thế với mẹ?” và quay sang Símon. “Con dám đưa người đàn ông vào đây. Tại sao con lại làm thế?”

      “Con xin lỗi,” Símon . “Con tưởng là chuyện đó cũng bình thường. Tên chú ấy là Dave.”

      ta muốn gì?”

      “Chú ấy muốn cho chúng ta cá,” Símon . “Những con cá chú ấy câu được ở hồ. Con nghĩ chuyện đó cũng bình thường thôi. Chú ấy chỉ muốn cho chúng ta cá thôi mà.”

      “Lạy Chúa, chết mất thôi! Ôi Chúa ơi, chết mất thôi! Con bao giờ được làm như thế nữa. bao giờ! Mikkelína và Tómas đâu?”

      “Ở sau nhà ạ.”

      “Chúng sao chứ?”

      “Tất nhiên rồi mẹ. Mikkelína muốn sưởi nắng.”

      “Con bao giờ được làm như thế nữa,” nhắc lại trong lúc ra chỗ Mikkelína. “Con nghe chưa? bao giờ.”

      ra chỗ góc nhà và thấy người lính đứng chỗ Tómas và Mikkelína, ta nhìn chằm chằm vào bé đầy bối rối. Mikkelína nghển cổ lên xem ai đứng trước mặt mình. Con bé thể nhìn thấy khuôn mặt của người lính vì ta đứng quay lưng về phía mặt trời. Người lính nhìn mẹ bé, rồi lại nhìn Mikkelína quằn quại mặt đất.

      “Tôi…” Dave ấp úng. “Tôi biết chuyện này,” ta . “Tôi xin lỗi. Thực xin lỗi. Đây phải là việc của tôi. Tôi xin lỗi.”

      Sau đó ta quay người và bước nhanh, họ nhìn theo bóng ta cho đến khi nó dần biến mất đồi.

      “Các con sao chứ?” người mẹ hỏi trong lúc quỳ xuống bên Mikkelína và Tómas. Lúc này bình tĩnh hơn khi thấy ràng là người lính làm gì hại bọn trẻ cả. bế Mikkelína lên, đưa nó vào nhà và đặt nó chiếc -văng trong bếp. Símon và Tómas theo mẹ.

      “Dave phải là người xấu,” Símon . “Chú ấy khác.”

      “Tên ta là Dave à?” người mẹ hỏi trống rỗng.

      “Dave,” nhắc lại. “Cái tên đó cũng gần như Davíd trong tiếng Iceland phải ?” hỏi, gần như là hỏi chính mình chứ phải ai khác. Và lúc ấy chuyện đó xảy ra, chuyện hết sức kỳ lạ đối với Símon.

      Mẹ nó mỉm cười.

      Tómas lúc nào cũng bí hiểm, lặng lẽ như kẻ độc vậy, nó có vẻ nhút nhát và hay xấu hổ, thuộc típ người trầm. Mùa đông năm trước, dường như Grímur thấy điều gì đó ở thằng bé khiến ta quan tâm đến nó hơn là Símon. chú ý đến thằng bé và đưa nó vào phòng khác. Khi Símon hỏi em xem bố vừa với nó chuyện gì, Tómas chẳng nửa lời, nhưng Símon cứ khăng khăng hỏi, nên sau hồi nịnh nọt em, nó biết rằng họ chuyện về Mikkelína.

      “Ông ta gì với em về chị Mikkelína?” Símon hỏi.

      có gì đâu,” Tómas đáp.

      “Có, ông ấy có . gì nào?” Símon hỏi.

      mà,” Tómas , khuôn mặt nó thoáng vẻ bối rối như thể cố gắng giấu điều gì đó.

      cho biết .”

      “Em muốn. Em muốn ông ta chuyện với em. Em muốn ông ta làm thế.”

      “Em muốn ông ta chuyện với em à? Vậy ý em là em muốn ông ta ra những điều đó phải ? Ý em là thế phải ?”

      “Em chẳng muốn gì cả, thế thôi,” Tómas đáp. “Và cũng đừng có chuyện với em nữa.”

      Nhiều tuần và tháng trôi qua, Grímur thể quan tâm của mình đối với thằng con út bằng nhiều cách khác nhau. Mặc dù Símon bao giờ góp mặt vào cuộc trò chuyện của họ, vào buổi tối cuối hè nó phát ra điều mà họ làm. Grímur chờ để lấy hàng từ người lính có tên là Mike. Mike có chiếc xe jeep riêng và họ dự định chất hàng lên đó để đem lên thành phố bán. Người mẹ nấu những đồ ăn lấy từ doanh trại. Mikkelína nằm giường.

      Símon để ý thấy Grímur đẩy Tómas đến chỗ Mikkelína, thào vào tai nó và mỉm cười giống như khi nhận xét đầy ác ý về hai thằng bé. Mẹ chúng để ý còn Símon thực hiểu chuyện gì xảy ra cho đến khi Tómas đến chỗ Mikkelína (Grímur ngừng giục giã nó) và :

      “Đồ chó cái.”

      Sau đó nó chạy lại chỗ Grímur khiến cười hả hê và vỗ vào đầu thằng bé.

      Símon nhìn ra bồn rửa bát chỗ mẹ nó đứng. Dù chắc chắn nghe thấy nhưng lúc đầu vẫn cử động và có phản ứng gì, như thể cố lờ chuyện đó. Ngoại trừ việc thằng bé để ý thấy tay mẹ nó vẫn cầm dao gọt vỏ khoai tây, những khớp ngón tay của hằn lên trắng bệch khi xiết chặt cán dao. Sau đó từ từ quay lại, tay vẫn cầm dao và nhìn Grímur chằm chằm.

      “Đó là điều mà bao giờ được làm,” , giọng run run.

      Grímur nhìn , điệu cười toe toét khựng lại mặt.

      “Tao á?” Grímur . “Ý mày là sao, bao giờ được làm ư? Tao chẳng làm gì cả. Thằng bé làm đấy chứ! Tómas con trai tao làm đấy chứ!”

      Người mẹ bước bước đến gần chỗ Grímur, tay vẫn nắm chặt cán dao.

      “Để Tómas được yên.”

      Grímur đứng lên.

      “Mày định làm gì với con dao đó?”

      “Đừng có làm thế với thằng bé,” , và Símon cảm thấy mẹ nó chùn lại. Nó nghe tiếng xe jeep bên ngoài.

      “Ông ta đến rồi,” Símon hét lên. “Mike đến rồi.”

      Grímur nhìn qua cửa sổ rồi lại nhìn người vợ, trong thoáng khí căng thẳng chùng xuống. đặt dao xuống. Mike xuất ở bậc cửa. Grímur mỉm cười.

      Đêm hôm đó khi quay về đánh vợ bất tỉnh. Buổi sáng hôm sau, mắt tím bầm, còn chân cà nhắc. Mấy đứa trẻ nghe tiếng bố chửi bới khi đấm mẹ thùm thụp. Tómas bò đến giường Símon và nhìn qua màu đen kịt của bóng tối, nó choáng váng, miệng lẩm bẩm liên hồi như thể làm như thế xóa bỏ được những chuyện diễn ra.

      “…xin lỗi, em cố ý, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…”


      16

      Elsa mở cửa cho Sigurdur Óli và mời ta uống trà. Trong lúc nhìn Elsa pha trà trong bếp, nghĩ về Bergthóra. Sáng hôm đó, trước khi làm họ cãi nhau. Sau khi từ chối những hành động đắm đuối của , vụng về đến những điều mình trăn trở cho đến khi Bergthóra trở nên kích động mạnh.

      “Ồ, chờ chút,” . “Vậy là chúng ta bao giờ kết hôn phải ? Đấy là kế hoạch của à? Ý là chúng ta chỉ lấp lửng thế thôi chứ có giấy tờ gì ràng buộc, và con của chúng ta mãi mãi chỉ là những đứa con hoang phải ?”

      “Con hoang ư?”

      “Phải.”

      “Em lại nghĩ đến đám cưới lớn đấy à?”

      “Xin lỗi nếu chuyện đó khiến cảm thấy phiền.”

      “Em thực muốn vào giáo đường à? Mặc váy cưới, tay cầm hoa và…”

      khinh thường ý nghĩ đó phải ?”

      “Vậy chuyện này liên quan gì đến con cái chứ?” Sigurdur Óli hỏi, và ngay lập tức hối hận khi thấy mặt Bergthóra tối sầm lại.

      bao giờ muốn có con à?”

      “Có, à , à có chứ, ý là, chúng ta vẫn chưa thảo luận chuyện đó,” Sigurdur Óli . “ nghĩ chúng ta cần bàn bạc chuyện này. Em thể tự mình quyết định về việc chúng ta có nên sinh con hay . Như thế là công bằng và muốn thế. phải bây giờ. phải lúc này.”

      “Rồi đến lúc đó,” Bergthóra . “Mong là như thế. Chúng ta ba mươi lăm tuổi rồi. Chẳng còn bao lâu nữa trước khi quá muộn đâu. Bất kỳ lúc nào em định về chuyện đó lại đổi đề tài. muốn bàn bạc gì hết. muốn có con, muốn cưới hay bất cứ thứ gì. chẳng muốn gì cả. Càng ngày càng trở nên tồi tệ y như ông già Erlendur rồi đấy.”

      “Sao cơ?” Sigurdur Óli sững sờ. “Em vừa cái gì cơ?”

      Nhưng Bergthóra chuẩn bị làm, để Sigurdur Óli lại mình với những ý nghĩ u ám về tương lai.

      Elsa thấy Sigurdur Óli mải nghĩ tận đâu đâu trong lúc ngồi nhìn cốc trà chằm chằm.

      “Cậu dùng thêm trà nhé?” bà hỏi .

      , cảm ơn bà,” Sigurdur Óli đáp. “Elínborg – người cùng giải quyết vụ này với cháu, nhờ cháu hỏi liệu bà có biết ông Benjamín có giữ lọn tóc nào của vợ chưa cưới . Ông ấy có thể để trong cái hộp hoặc thứ gì đó tương tự như vậy.”

      Elsa đăm chiêu.

      ,” bà đáp, “tôi nhớ có lọn tóc nào cả, nhưng tôi hoàn toàn chắc chắn là ở dưới kia có những gì đâu.”

      “Elínborg rằng rất có thể ông ấy giữ lọn. Em vợ chưa cưới của ông Benjamín với Elínborg rằng bà ấy trao cho Benjamín lọn tóc khi bà ấy đâu đó, tôi nghĩ vậy.”

      “Tôi chưa bao giờ nghe đến lọn tóc hay bất cứ thứ gì như thế cả. Dòng họ tôi chưa bao giờ lãng mạn đến thế.”

      “Vậy trong tầng hầm có món đồ nào của bà ấy ? Của người vợ chưa cưới ấy?”

      “Tại sao các cậu lại muốn tìm lọn tóc?” Elsa hỏi thay vì trả lời. mặt bà ánh lên vẻ tò mò khiến Sigurdur Óli lưỡng lự. biết Erlendur với Elsa những gì rồi, nhưng câu tiếp theo của bà khiến phải hỏi nhiều.

      “Vì nhờ nó, cảnh sát có thể xác minh xem người bị chôn đó có phải là bà ấy ,” bà . “Nếu như có trong tay món đồ gì đó của bà ấy, các cậu có thể tiến hành xét nghiệm DNA để xem liệu đó có phải là bà ấy . Và nếu đúng như vậy, các người tuyên bố rằng bác tôi giết vợ chưa cưới của mình và chôn bà ấy ở đó. Tôi thế có đúng ?”

      “Chúng cháu chỉ điều tra theo tất cả các hướng có thể thôi,” Sigurdur Óli , bằng mọi giá cố tránh làm Elsa tức giận vì cách đó mới giờ đồng hồ, châm ngòi nổ khiến Bergthóra điên tiết. Ngày hôm nay khởi đầu tệ hại. Rất tệ hại.

      “Có thám tử khác đến đây, mặt mày ủ rũ, bóng gió rằng Benjamín phải chịu trách nhiệm trước cái chết của vợ chưa cưới của mình. Và bây giờ tất cả các người xác thực được điều đó nếu các người tìm ra lọn tóc của bà ấy. Tôi thể hiểu nổi. Làm sao mà các ông có thể nghĩ rằng bác Benjamín có khả năng giết người phụ nữ đó. Tại sao ông ấy phải làm thế? Động cơ gì mới được chứ? . Hoàn toàn có động cơ nào hết.”

      , tất nhiên là rồi,” Sigurdur Óli để trấn tĩnh bà. “Nhưng chúng cháu cần biết bộ xương thuộc về ai, và cho đến giờ phút này chúng cháu vẫn chưa có nhiều manh mối lắm ngoại trừ là Benjamín là chủ của ngôi nhà và vợ chưa cưới của ông ấy biến mất. Chắc chắn là bản thân bà cũng tò mò về chuyện đó. Chắc chắn bà cũng muốn biết những mẩu xương ấy là của ai.”

      “Tôi nghĩ là mình muốn,” Elsa đáp, có vẻ như trấn tĩnh hơn.

      “Nhưng cháu có thể tiếp tục tìm trong tầng hầm chứ ạ?” .

      “Tất nhiên rồi. Tôi khó mà ngăn làm chuyện đó được.”

      uống nốt trà rồi xuống căn hầm, đầu óc vẫn vẩn vơ nghĩ đến Bergthóra. Mình chẳng giữ món tóc nào của ấy trong hộp, cũng chẳng cần thứ gì để nhắc mình nhớ về ấy. Thậm chí mình còn chẳng để ảnh của ấy trong ví nữa, giống như số ông mà mình biết thường hay để ảnh vợ con vào đó và luôn mang theo người. Mình cảm thấy tồi tệ. Mình cần phải chuyện với ấy. Giải quyết dứt điểm mọi chuyện.

      Mình chẳng muốn giống Erlendur chút nào.

      Sigurdur Óli lục lọi đống đồ của Benjamín cho đến giữa trưa mới nghỉ tay, sau đó vọt ra cửa hàng bán đồ ăn nhanh, mua chiếc hamburger và nhấm nháp nó trong lúc đọc báo và uống cà phê. Đến khoảng hai giờ, quay trở lại tầng hầm và nguyền rủa Erlendur vì tính khí ngoan cố của ông. vẫn chưa tìm ra chút manh mối nào giải thích tại sao vợ chưa cưới của Benjamín mất tích, cũng chẳng phát ra tí chứng cứ nào liên quan đến những người thuê nhà trong thời chiến ngoại trừ Höskuldur. vẫn chưa nhìn ra lọn tóc mà Elínborg chắc chắn là phải có sau khi đọc xong cả đống tiểu thuyết diễm tình. Đây là ngày thứ hai Sigurdur Óli phải làm việc ở căn hầm rồi, sức chịu đựng của sắp cạn.

      Khi Sigurdur Óli quay trở lại Elsa đứng ở cửa, sau đó bà mời vào nhà. cố gắng tìm ra lý do để khước từ lời mời nhưng kịp ngăn hành động thô lỗ đó lại. bước theo Elsa vào trong nhà.

      “Cậu tìm được gì dưới đó chưa?” bà hỏi, và Sigurdur Óli hiểu rằng đằng sau những lời hỏi han ân cần này, bà ta cố gắng lấy thông tin từ mình. Sigurdur Óli nhận ra rằng có thể Elsa sống mình, cảm giác mà Erlendur nhận thấy chỉ vài phút sau khi ông bước chân vào ngôi nhà ảm đạm của bà.

      “Cháu vẫn chưa tìm được lọn tóc đó,” Sigurdur Óli đáp và nhấp ngụm trà. Bà chờ đến.

      Sigurdur Óli nhìn người phụ nữ, băn khoăn biết chuyện gì diễn ra tiếp theo.

      ,” bà . “Cậu lập gia đình chưa? Xin lỗi, tất nhiên là đó phải là việc của tôi.”

      “Cháu chưa... đó là... mà có, mà chưa, cháu chưa kết hôn nhưng cháu sống cùng người ,” Sigurdur Óli cách lúng túng.

      “Có con chưa?”

      “Chưa, chưa có con,” Sigurdur Óli đáp. “Vẫn chưa ạ.”

      “Tại sao chưa?”

      “Sao cơ ạ?”

      “Tại sao hai người vẫn chưa sinh con?”

      Chuyện quái gì diễn ra thế nhỉ? Sigurdur Óli nghĩ, nhấp ngụm trà để lấy thời gian.

      “Áp lực, cháu nghĩ vậy. Chúng cháu bận công việc suốt ngày. Chúng cháu đều làm những công việc đòi hỏi rất khắt khe, và, thế đấy, chúng cháu có thời gian.”

      có thời gian cho con cái ư? Thế hai người có gì hay ho hơn để làm à? Bạn cậu làm nghề gì?”

      ấy là nhân viên trong công ty máy tính,” Sigurdur Óli đáp và sắp sửa cảm ơn bà vì mời trà và rằng mình cần phải tiếp tục công việc của mình. có ý định để già quen biết thẩm vấn về đời tư của mình, bằng cái cách mà những người phụ nữ như bà cuối cùng cũng làm, đó là chỉ biết chĩa mũi vào chuyện riêng của người khác.

      ấy là người phụ nữ tốt chứ?” Elsa hỏi.

      “Tên ấy là Bergthóra,” Sigurdur Óli đáp, sắp trở nên thô lỗ. “ ấy là người phụ nữ cực kỳ tốt.” mỉm cười. “Tại sao bà lại…?”

      “Tôi chưa bao giờ có gia đình,” Elsa . “Chưa bao giờ có con. Chồng cũng thế. Tôi quan tâm đến chuyện đó, nhưng tôi thích có con cái. Có lẽ giờ đây chúng ba mươi rồi. Đôi lúc tôi lại nghĩ thế. Chúng trưởng thành, có con riêng. Tôi thực biết chuyện gì xảy ra. Bỗng nhiên chúng ta bước vào độ tuổi trung niên. Tôi là bác sĩ. Hồi tôi thi vào trường Y, có mấy phụ nữ học về Y dược cả. Tôi cũng giống như hai người, tôi có thời gian, tôi thậm chí còn có thời gian cho cuộc sống của riêng bản thân mình. Những gì làm lúc này phải là cuộc sống của . Đó chỉ là công việc mà thôi.”

      “Vâng, được rồi, cháu nghĩ là cháu nên…”

      “Benjamín cũng có gia đình,” Elsa tiếp. “Tất cả những gì mà ông ấy muốn là gia đình. Cùng bà ấy.”

      Elsa đứng lên, và Sigurdur Óli cũng thế. chờ bà ấy tạm biệt, nhưng thay vào đó, Elsa lại bước đến cái tủ lớn làm bằng gỗ sồi, trang trí bằng những ô cửa kính và những ngăn kéo được khảm rất đẹp mắt. Bà mở ngăn kéo và mang ra chiếc hộp nữ trang kiểu Trung Quốc, nhấc cái nắp lên và lấy ra cái hộp bằng bạc.

      “Ông ấy có giữ lọn tóc của bà ấy,” bà . “Trong cái hộp này còn có bức ảnh của bà ấy nữa. Tên bà ấy là Sólveig.” Elsa mỉm cười. “Người dấu của Benjamín. Tôi nghĩ là bác tôi lại chôn bà ấy đồi. Tôi chịu được cái suy nghĩ đó. Điều đó có nghĩa là Benjamín hãm hại bà ấy. Ông ấy làm thế. thể làm thế. Tôi chắc chắn điều đó. Lọn tóc này chứng minh điều đó.”

      Bà đưa cái hộp cho Sigurdur Óli. ngồi xuống, cẩn thận mở nó ra và thấy lọn tóc màu đen bức ảnh của chủ nhân nó. chạm vào mớ tóc, khéo léo đẩy nó lên chỗ cái vòng cổ để có thể xem được bức ảnh. Trong ảnh là khuôn mặt của chừng hai mươi tuổi, mái tóc đen, lông mày lá liễu lượn đôi mắt lớn nhìn cách bí vào ống kính. Đôi môi cương nghị, cằm , khuôn mặt thanh tú, đáng . Vợ chưa cưới của Benjamín, Sólveig.

      “Xin thứ lỗi cho tôi vì giấu nó,” Elsa . “Tôi nghĩ kỹ chuyện này, cân nhắc nó và tôi thể tự bắt mình hủy lọn tóc đó được. Cho dù cuộc điều tra có hé lộ ra điều gì chăng nữa.”

      “Tại sao bà lại giấu nó?”

      “Tôi cần phải xem xét mọi chuyện.”

      “Vâng, nhưng thậm chí…”

      “Tôi khá sốc khi đồng nghiệp của – Erlendur phải nhỉ? – bóng gió rằng có thể là bà ấy nằm đó, nhưng khi nghĩ đến chuyện đó kỹ càng hơn…” Elsa nhún vai như thể cam chịu.

      “Thậm chí nếu kết quả DNA là dương tính,” Sigurdur Óli , “ cũng nhất thiết là Benjamín giết bà ấy. Kết quả phân tích thể giải đáp được điều đó. Nếu đó là vợ chưa cưới của ông ấy, có thể có lý do nào khác ngoài Benjamín…”

      Elsa cắt ngang lời .

      “Bà ấy… ngày nay người ta gọi là gì nhỉ… bỏ rơi ông ấy. ‘Hủy hôn ước’ có thể là từ cũ rồi. Vào cái thời mà người ta còn hay đính hôn với nhau ấy. Bà ấy làm điều đó vào cái ngày bà ấy biến mất. Mãi sau này Benjamín mới tiết lộ chuyện đó cho mẹ tôi biết lúc ông ấy lâm chung. Bà kể lại cho tôi. Trước đây tôi chưa từng với ai chuyện đó. Và tôi mang bí mật đó xuống mồ nếu như các tìm thấy bộ xương. Các biết đó là đàn ông hay đàn bà chưa?”

      “Vẫn chưa ạ,” Sigurdur Óli đáp. “Ông ấy có tại sao bà ấy lại hủy hôn ước giữa họ ? Tại sao bà ấy lại bỏ Benjamín?”

      cảm nhận được lưỡng lự của Elsa. Họ nhìn vào mắt nhau và biết bà ra quá nhiều, thể dừng lại được nữa. cảm thấy Elsa muốn cho mình tất cả những gì bà biết. Như thể là bà phải gánh chịu nỗi đau khổ nặng nề và bây giờ đến lúc cởi bỏ nó. Cuối cùng cũng đến lúc, sau ngần ấy năm trời.

      “Đó phải là con ông ấy,” bà đáp.

      phải là con của Benjamín ư?”

      .”

      “Thế bà ấy có thai với Benjámin ư?”

      .”

      “Vậy đó là con của ai?”

      “Cậu phải hiểu là thời đó rất khác bây giờ,” Elsa . “Ngày nay phụ nữ phá thai như đến gặp nha sĩ. Hôn nhân chẳng có nghĩa lý gì đặc biệt, ngay cả khi người ta muốn có con. Họ sống cùng nhau. Rồi chia tay. Rồi lại bắt đầu sống cùng người khác. Có thêm con. Lại chia tay. Nhưng hồi đó như thế. Sinh con ngoài giá thú là điều thể chấp nhận đối với người phụ nữ. Đó là chuyện đáng xấu hổ, họ bị cả xã hội ruồng bỏ. Hồi đó người ta rất nhẫn tâm, họ gọi những người phụ nữ như thế là ‘đồ đĩ thõa’.”

      “Cháu hiểu rồi,” Sigurdur Óli đáp. Tâm trí hướng đến Bergthóra và dần dần vỡ ra lý do tại sao Elsa lại hỏi về đời tư của mình.

      “Benjamín chuẩn bị cưới bà ấy,” Elsa tiếp. “Hoặc ít nhất đó cũng là điều mà ông ấy với mẹ tôi về sau này. Sólveig muốn thế. Bà ấy muốn hủy đính ước của hai người và thẳng với ông ấy điều đó. Chỉ thế thôi. Mà hề báo trước.”

      “Vậy ai là cha đứa trẻ?”

      “Khi ra , bà ấy xin Benjamín tha thứ vì bỏ rơi ông ấy. Nhưng ông ấy làm được. Ông ấy cần thêm thời gian.”

      “Và bà ấy biến mất?”

      “Sau khi chia tay Benjamín, ai còn nhìn thấy ấy nữa. Buổi tối hôm đó, khi Sólveig về nhà, họ bắt đầu bổ tìm, còn Benjamín tham gia tìm kiếm hết mình. Nhưng bà ấy bao giờ xuất nữa.”

      “Thế còn cha đứa trẻ?” Sigurdur Óli hỏi lại. “Ông ta là ai?”

      “Bà ấy cho Benjámin biết. Bà ấy để cho ông ấy biết. Đó là những điều ông ấy lại với mẹ tôi, ít ra là như vậy. Nếu ông ấy biết, chắc chắn ông ấy cũng chẳng bao giờ cho mẹ tôi biết.”

      “Ai có thể là người đó được nhỉ?”

      “Có thể ư?” Elsa nhắc lại. “Chuyện ông ta có thể là ai quan trọng. Điều duy nhất quan trọng ở đây là ông ta là ai.”

      “Ý bà là người cha có liên quan đến vụ mất tích của bà ấy ư?”

      nghĩ sao?” Elsa hỏi.

      “Bà và mẹ bà chưa bao giờ nghi ngờ ai sao?”

      , ai cả. Theo như tôi biết, cả Benjamín cũng .”

      “Có khả năng tự ông ấy tự thêu dệt nên câu chuyện ?”

      “Tôi chắc, nhưng Benjamín chưa từng dối lần trong đời.”

      “Ý cháu là, để người ta chú ý đến ông ấy.”

      “Tôi mảy may nghĩ là bác ấy bị nghi ngờ chút nào. Mãi đến tận sau này bác ấy mới với mẹ tôi cơ mà. Ngay trước khi chết ấy.”

      “Ông ấy chưa bao giờ thôi nghĩ về bà ấy.”

      “Mẹ tôi vậy.”

      Sigurdur Óli nghĩ ngợi hồi.

      “Có thể là vì xấu hổ mà bà ấy tự tử ?”

      “Chắc chắn rồi. Bà ấy chỉ phản bội Benjamín mà còn có thai nhưng cha đứa trẻ là ai.”

      “Elínborg – nữ cảnh sát cùng làm việc với tôi, chuyện với em bà ấy. Bà ta rằng bố mình tự tử. Treo cổ. Chuyện đó khủng khiếp với Sólveig bởi vì họ rất gần gũi với nhau.”

      “Khủng khiếp đối với Sólveig ư?”

      “Phải.”

      là kỳ quặc!”

      “Sao lại thế ạ?”

      “Đúng là ông ta treo cổ , nhưng chuyện đó chẳng mấy ảnh hưởng đến Sólveig.”

      “Ý bà là sao?”

      “Người ta rằng ông ta vì quá đau buồn mà làm thế.”

      “Đau buồn ư?”

      “Phải, đó là tôi cảm nhận thế.”

      “Đau buồn vì chuyện gì cơ ạ?”

      “Vì mất tích của con ,” Elsa đáp. “Ông ta treo cổ sau khi bà ấy mất tích mà.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      17

      Mãi về sau, Erlendur mới tìm được chuyện để với con . Ông nghiên cứu rất kỹ ở Thư viện Quốc gia, tập hợp thông tin báo chí – những ấn bản được phát hành năm 1910 – năm mà sao chổi Halley băng qua Trái đất với cái đuôi mà người ta cho rằng chứa đầy chất độc xy-a-nua. Ông được đặc cách cho phép đọc giấy tờ thay vì đọc máy vi phim. Ông thích được vùi đầu vào sách vở và báo cũ, thích nghe tiếng những trang giấy sột soạt, thích hít thở mùi giấy ố vàng và cảm nhận mùi thời gian để lại những trang giấy cứng, bây giờ và mãi mãi.

      Khi Erlendur ngồi xuống bên giường bệnh của Eva Lind và bắt đầu kể cho con bé nghe về việc phát ra bộ xương ở Grafarholt, trời bắt đầu sập tối. Ông kể cho nó nghe chuyện các nhà khảo cổ phân chia khu đất có bộ xương thành các khu vực , kể chuyện Skarphédinn có những chiếc răng nanh khiến ông ta thể ngậm miệng lại được. Ông về những bụi cây lý chua và những miêu tả lạ lùng của ông già Róbert về méo mó mặc đồ màu xanh. Ông kể về Benjamín Knudsen và vợ chưa cưới của ông ta – người bỗng dưng ngày biến mất, và tác động của việc đó đối với chàng trai. Ông cũng nhắc đến Höskuldur, người thuê ngôi nhà gỗ trong chiến tranh, và kể về việc Benjamín rằng có người phụ nữ sống đồi được sinh ra ở thùng chứa ga sau cái đêm mà tất cả mọi người cho rằng thế giới bị hủy diệt.

      “Đó là năm Mark Twain mất,” Erlendur .

      Sao chổi Halley lao thẳng xuống trái đất với tốc độ kinh hoàng, đuôi của nó chứa đầy khí độc. Thậm chí nếu Trái đất bị vỡ vụ thành những mảnh sau vụ va chạm, người ta vẫn tin rằng cái đuôi sao chổi quét qua trái đất và tất cả mọi sinh vật chết hết. Những người lo sợ nhất cho rằng họ bị lửa và axit thiêu rụi. Cơn hoảng loạn bùng nổ, chỉ ở Iceland mà ở khắp nơi toàn thế giới. Ở Áo, Trieste và Dalmatia, người ta bán tất cả tài sản của mình chỉ trong nháy mắt để lao vào những trò tiêu khiển trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của mình. Ở Thụy Sĩ, các trường tư thục dành cho nữ sinh vắng bóng người vì các gia đình cho rằng họ nên ở bên nhau vào giây phút ngôi sao chổi hủy diệt trái đất. Giới tu sĩ được dạy cách theo các thuật ngữ thông thường về thiên văn học để xoa dịu nỗi sợ hãi của con người.

      Ở Reykjavík, người ta rằng phụ nữ trốn vào gầm giường vì sợ ngày tận thế, rất nhiều người tin rằng “mùa xuân lạnh lẽo năm đó là do sao chổi gây nên”, theo như tờ báo . Người già bắt đầu về chuyện thời tiết tồi tệ như thế nào trong lần sao chổi đến gần Trái đất trước đó.

      Vào khoảng thời gian đó, ở Reykjavík, khí đốt được cho là chìa khóa dẫn đến tương lai. Đèn khí đốt được sử dụng rộng rãi trong thành phố, mặc dù nó phổ biến đến mức trở thành đèn thắp sáng đường phố nhưng người dân vẫn đốt chúng trong nhà mình. Bước tiếp theo trong kế hoạch là xây dựng nhà máy sản xuất khí đốt đại ở vùng ngoại ô để đáp ứng toàn bộ nhu cầu tiêu thụ gas của người dân trong nhiều thập kỷ tới. Thị trưởng thành phố Reykjavík đàm phán với công ty của Đức, và Carl Franke – kỹ sư – từ Bremen đến Reykjavík cùng với nhóm chuyên gia khác để xây dựng nhà máy sản xuất khí đốt Reykjavík. Nó vào hoạt động vào mùa thu năm 1910.

      Bản thân cái thùng là cái máy khổng lồ với dung tích lên đến nghìn năm trăm mét khối. Nó được gọi là “thùng chuông” vì nó có thể nổi mặt nước ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào lượng khí đốt bên trong. Chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì kỳ lạ như thế, người dân đổ xô đến xem nó được xây dựng như thế nào.

      Khi cái thùng sắp sửa được làm xong, nhóm người tụ tập bên trong vào cái đêm ngày mười tám tháng Năm. Họ tin rằng cái thùng đó là nơi duy nhất ở Iceland có thể bảo vệ được con người thoát khỏi luồng khí độc của đuôi sao chổi. Người ta kháo nhau rằng trong cái thùng ấy diễn ra bữa tiệc và những người ở đó cố gắng tận hưởng nốt đêm trụy lạc ngay trước ngày tận thế.

      vài ngày sau, chuyện xảy ra ở cái thùng chứa ga lan nhanh như lửa cháy. Người ta đồn rằng những người say xỉn trong cái đêm thác loạn ấy chơi bời thả cửa đến tận rạng đông – khi họ nhận ra rằng ràng là Trái đất bị hủy diệt, va chạm gì với sao chổi cũng như chẳng có ngọn lửa địa ngục nào phát từ cái đuôi của nó hết. Người ta còn rằng có số đứa trẻ được sinh ra từ sau cái đêm hôm đó, và Erlendur băn khoăn liệu có phải nhiều năm sau đó, trong số chúng chết ở Grafarholt và được chôn cất tại đó .

      “Văn phòng quản lý Nhà máy đó đến nay vẫn còn,” ông với Eva Lind, biết nó có nghe được mình hay . “Nhưng ngoài cái đó ra, mọi dấu vết của Nhà máy mất hết. Cuối cùng, nguồn năng lượng của tương lai hóa ra lại là điện chứ phải khí đốt, con ạ. Cái nhà máy ấy ở Raudarárstígur, ngày nay biến thành trạm xe bus Hlemmur, và nó vẫn hoạt động tốt bất kể trong quá khứ nó có là cái gì chăng nữa. Vào những ngày rét cắt da cắt thịt, những người vô gia cư vẫn thường đến đó, ngồi bên ngọn đèn sưởi ấm, nhất là vào ban đêm. Và vào thời kỳ đen tối nhất của mùa đông, nơi đó thường có rất đông người đến.”

      Eva Lind chẳng có phản ứng gì khi Erlendur kể câu chuyện đó. Ông cũng chẳng mong chờ điều ấy xảy ra. Ông mong chờ vào phép màu.

      “Nhà máy sản xuất khí đốt được xây dựng mảnh đất có tên là Elsumýrarblettur,” ông tiếp và mỉm cười trước mỉa mai của Thượng đế. “Nhiều năm sau khi nhà máy đó bị phá hủy và cái thùng chứa bị dời , Elsumýrarblettur bị sa sút rất nhiều. Sau đó lô văn phòng được xây dựng mảnh đất đó, đối diện với trạm xe bus. Cái lô đó bây giờ là trụ sở cảnh sát Reykjavík. Văn phòng của bố ở đó. Ở đúng vị trí của cái thùng chứa trước đây.”

      Erlendur ngừng lại.

      “Tất cả chúng ta đều chờ đến ngày cuối cùng của thế giới,” ông . “ cần biết đó là ngôi sao chổi hay thứ gì. Tất cả chúng ta đều có ngày tận thế của riêng mình. số người tự mang nó đến với mình. số người né tránh nó. Hầu hết chúng ta đều sợ nó, có phần kính nể nó. Nhưng phải là con. Con bao giờ sợ hãi bất cứ điều gì. Và con cũng sợ cả cái ngày tận thế bé của mình.”

      Erlendur ngồi yên nhìn con , biết việc mình chuyện với con – trong khi dường như nó chẳng nghe được lời nào – có ý nghĩa gì . Ông nhớ lại lời ông bác sĩ và cảm thấy khuây khỏa đôi chút khi chuyện với con như thế này. Rất ít khi ông có thể chuyện với nó cách bình tĩnh và dễ dàng. căng thẳng nhuốm lên toàn bộ mối quan hệ giữa hai bố con khiến họ rất hiếm khi ngồi xuống để chuyện nhàng với nhau.

      Nhưng cũng chẳng mấy khi họ chuyện, Erlendur cười nhăn nhó. Ông cứ còn con bé cứ nghe. Về chuyện đó chẳng có gì thay đổi giữa họ cả. Có thể đó là những điều con bé muốn nghe. Việc phát ra bộ xương, nhà máy khí đốt, ngôi sao chổi và vụ ăn chơi thác loạn. Có thể con bé muốn nghe ông về chuyện gì đó hoàn toàn khác. Về bản thân ông. Hoặc về gia đình họ.

      Ông đứng lên, cúi xuống hôn vào trán nó rồi ra khỏi phòng. Erlendur vẫn chìm đắm trong dòng suy nghĩ, và thay vì rẽ phải xuống cầu thang ra khỏi khu điều trị, ông lại theo hướng ngược lại đến khu chăm sóc đặc biệt, qua những căn phòng chiếu sáng lờ mờ nơi các bệnh nhân khác nằm, cơ thể họ được nối với tất cả những thiết bị tối tân nhất. Ông chỉ sực tỉnh khỏi cơn mê khi đến cuối hành lang. Ông định quay lại người phụ nữ bé ra từ căn phòng trong cùng và đụng phải ông.

      “Xin lỗi,” ta bằng giọng hơi gắt.

      , tôi mới phải xin lỗi,” Erlendur bối rối nhìn quanh. “Tôi định lối này. Tôi định ra khỏi khu điều trị cơ.”

      “Tôi được gọi đến đây,” người phụ nữ thấp bé . Tóc ta mỏng quẹt, bộ ngực khổng lồ chỉ được che đậy dưới cái áo phông màu tím, người ta tròn lẳn với khuôn mặt thân thiện. Erlendur thấy hàng ria đen ở mép ta. Erlendur liếc vào trong phòng nơi người phụ nữ này vừa ra và thấy ông già nằm đắp chăn giường, khuôn mặt gầy guộc, xanh xao. người phụ nữ khoác áo lông thú đắt tiền ngồi bên cạnh giường bệnh, bà ta đưa bàn tay đeo găng chặm khăn lên mũi.

      “Vẫn còn có số người tin vào các ông đồng bà cốt,” người phụ nữ , như thể là với chính mình.

      “Xin lỗi, tôi hiểu…”

      “Tôi được gọi đến đây,” ta nhàng đưa Erlendur ra xa căn phòng. “Ông ta sắp chết rồi. Họ thể làm gì được nữa. Vợ ông ta ở đó. Bà ta nhờ tôi liên hệ với ông ta. Ông ta bị hôn mê và người ta rằng họ làm hết sức mình, nhưng ông ta muốn chết. Như kiểu là ông ta muốn ra ấy. Bà ta nhờ tôi giúp, nhưng tôi thể tìm ra ông ta.”

      “Tìm ra ông ta?” Erlendur hỏi.

      “Ở thế giới bên kia ấy.”

      “Bên kia... bà đồng ư?”

      “Bà ta hiểu rằng chồng mình hấp hối. Cách đây mấy ngày ông ta ra ngoài và điều tiếp theo mà bà ta biết là cảnh sát gọi đến và thông báo có vụ tai nạn ô tô xảy ra đường West. Lúc đó ông ta đường đến Borgarfjördu. chiếc xe tải chệch sang làn đường của ông ta. Họ rằng việc cứu ông ta là vô vọng. Não chết.”

      ta nhìn lên Erlendur, còn ông nhìn ta chằm chằm hiểu gì.

      “Bà ta là bạn tôi.”

      Erlendur biết ta về chuyện gì và tại sao ta lại với mình tất cả những chuyện này ở hành lang tối lờ mờ với giọng thầm bí . Ông lời tạm biệt cụt lủn với người phụ nữ mà ông chưa từng gặp trước đây. Ông chuẩn bị bước ta túm lấy tay ông.

      “Chờ lát,” ta .

      “Xin lỗi?”

      “Chờ lát.”

      “Xin lỗi, nhưng đây phải là việc của tôi…”

      “Có cậu bé ở đó,” người phụ nữ bé .

      Erlendur nghe ta gì.

      “Có cậu bé trong trận bão tuyết,” ta tiếp.

      Erlendur nhìn ta đầy kinh ngạc và giật tay ra như thể ông vừa bị đâm nhát.

      gì cơ?” ông hỏi.

      “Ông có biết đó là ai ?” người phụ nữ hỏi và nhìn lên Erlendur.

      “Tôi hiểu chút nào về những điều ,” Erlendur ngắt lời ta, quay người và xuống hành lang dẫn ra ngoài.

      “Ông phải sợ gì cả,” ta đằng sau. “Cậu ta chấp nhận điều đó. Cậu ta chấp nhận những gì xảy ra. Đó phải là lỗi của ai hết.”

      Erlendur dừng lại, chầm chậm quay lưng và nhìn chằm chằm vào người phụ nữ bé ở đầu kia của hành lang. Ông hiểu tại sao ta lại cứ khăng khăng như vậy.

      “Thằng bé đó là ai?” hỏi. “Tại sao nó lại với ông?”

      “Chẳng có đứa bé nào hết,” Erlendur khịt mũi. “Tôi hiểu ý . Tôi hề quen biết và tôi cũng chẳng biết đến đứa bé nào. Để tôi yên!” ông quát lên.

      Sau đó ông quay người và lao ra khỏi khu điều trị.

      “Để tôi yên,” ông rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      18

      Edward Hunter từng là nhân viên trong lực lượng quân đội thời chiến của Mỹ, ông ta là trong số rất ít những quân nhân rời sau khi hòa bình lập lại. Jim, viên thư ký ở Tòa Đại sứ tìm ra ông ta mà mất nhiều công sức nhờ có Tòa Đại sứ Mỹ. Jim tìm kiếm những thành viên của lực lượng chiếm đóng của và Mỹ, nhưng theo như Ủy ban Nhà đất London, có rất ít người còn sống. Hầu hết những người lính đến Iceland thiệt mạng trong cuộc chiến ở Nam Phi và Ý hay chiến trường miền Tây, trong cuộc xâm lược của Normandy năm 1944. Sau đó chỉ có vài người Mỹ đóng quân tại Iceland ra chiến trường, còn lại hầu hết là ở lại trong suốt chiến tranh. Có vài người lưu lại Iceland và lấy vợ ở đây rồi cuối cùng đổi sang quốc tịch Iceland. trong số họ là Edward Hunter. Erlendur nhận được điện thoại của Jim vào sáng sớm.

      “Tôi chuyện với Đại sứ quán Mỹ và họ chỉ cho tôi đến chỗ ông Hunter này. Để tránh phiền phức cho ông, tôi chuyện với ông ta. Tôi hy vọng chuyện đó được ông cho phép.”

      “Cảm ơn ông,” Erlendur đáp.

      “Ông ấy sống ở Kópavogur.”

      “Ông ấy ở đó từ hồi chiến tranh à?”

      “Rất tiếc là tôi biết điều đó.”

      “Nhưng ông ta vẫn sống ở đây, cách khác, cái ông Hunter này ấy,” Erlendur trong lúc đưa tay dụi mắt.

      Tối hôm đó Erlendur ngủ ngon, ông chỉ lơ mơ và gặp toàn ác mộng. Những lời mà người phụ nữ bé ở bệnh viện chiều hôm trước vẫn cứ ám ảnh ông. Ông tin chuyện những người hầu đồng có thể trở thành cầu nối giữa cõi dương và cõi , và ông cũng tin rằng họ có thể nhìn thấy những điều người khác nhìn thấy. Ngược lại, ông cho rằng họ chỉ là những kẻ chuyên lừa đảo, họ đủ thông minh để có thể lấy được thông tin từ mọi người và giải mã ngôn ngữ cơ thể để dựng lên chi tiết về những người họ quan tâm, và gần như nửa trong số chúng là đúng, nửa còn lại có thể sai lè – khả năng đơn giản. Erlendur từng chế giễu chuyện đó là vô bổ khi người ta bàn tán về nó trong sở, điều này khiến Elínborg rất chán nản. tin vào đồng cốt và sống sau cái chết, vì số lý do nào đó hy vọng ông cởi mở hơn với những chuyện đại loại như thế. Có thể là vì ông xuất thân từ nông thôn. Đó hóa ra lại là hiểu lầm nghiêm trọng. Chắc chắn Erlendur bao giờ chấp nhận những chuyện siêu nhiên. Tuy nhiên có điều gì đó về người phụ nữ ông gặp ở bệnh viện và những điều ta khiến Erlendur cứ nghĩ mãi, và kết quả là nó quấy nhiễu giấc ngủ của ông.

      “Phải, bây giờ ông ta vẫn ở đây,” Jim và cực kỳ hối lỗi vì đánh thức Erlendur dậy. Ông ta nghĩ rằng người Iceland dậy sớm. Bản thân ông ta cũng thế, ánh sáng ban ngày bất tận của mùa xuân chẳng làm cho ông ta vui vẻ chút nào.

      “Hượm , vậy là ông ta kết hôn với người Iceland sao?”

      “Tôi chuyện với ông ta,” Jim nhắc lại bằng ngữ điệu của mình như thể chưa nghe thấy câu hỏi. “Ông ta chờ ông gọi điện. Đại tá Hunter phục vụ thời gian trong quân cảnh ở Reykjavík và ông ta nhớ có vụ việc xảy ra ở kho quân nhu đồi mà ông ta sắp kể với ông.”

      “Vụ việc nào cơ?” Erlendur hỏi.

      “Ông ta kể cho ông nghe. Và tôi tiếp tục tìm thêm thông tin về những người lính chết hoặc mất tích ở đây. Ông cũng nên hỏi Đại tá Hunter về điều đó nữa.”

      Họ chào tạm biệt nhau, Erlendur chậm chạp vào bếp pha cà phê. Ông vẫn đắm chìm trong suy nghĩ. Liệu đồng có thể được người ở bên nào của ranh giới giữa sống và cái chết ? thể chấp nhận được điều đó, ông tự nhủ rằng nếu đó là cách để an ủi những người vừa mới mất người thân , ông phản đối nó nữa. Bản thân an ủi mới là quan trọng, chứ phải là vấn đề nó đến từ đâu.

      Cà phê sôi sùng sục làm Erlendur bỏng cả lưỡi khi ông vừa nhấp ngụm. Ông tránh nghĩ đến cái điều dày vò mình cả đêm và sáng hôm đó, cố gắng nhớ đến nó nữa.

      ít nhiều.

      Cựu Đại tá quân đội Mỹ Edward Hunter mang dáng dấp của người Iceland hơn là người Mỹ khi ăn vận chiếc áo len kín đáo và nuôi bộ râu mảnh màu trắng. Ông ta mời Erlendur và Elínborg vào ngôi nhà riêng của mình ở Kópavogur. Mái tóc ông ta rối bù và bẩn, tuy nhiên thái độ vẫn rất thân thiện và lịch khi bắt tay hai thám tử và bảo họ cứ gọi mình là Ed. Kiểu cách đó khiến Erlendur nhớ đến Jim. Ông ta rằng vợ mình thăm chị của ông ta ở Mỹ. Còn bản thân ông ta ngày càng ít đến đó.

      đường đến thăm Ed, Elínborg với Erlendur rằng theo như lời Bára , khi vợ chưa cưới của Benjamín mất tích, ta mặc chiếc áo khoác màu xanh lục. Elínborg cho rằng điều này rất thú vị, nhưng Erlendur chặn cuộc chuyện bằng cách khá sẵng rằng ông tin vào ma quỷ. Elínborg có cảm giác rằng chủ đề câu chuyện khép lại.

      Ed đưa họ vào phòng khách rộng, và khi nhìn quanh lượt, Erlendur thấy có rất ít bằng chứng về cuộc sống quân ngũ của ông ta: trước mặt ông là hai bức tranh phong cảnh Iceland ảm đạm, những bức tượng đá của Iceland và những bức ảnh gia đình được lồng khung. Chẳng có gì khiến Erlendur nhớ đến quân đội hay Thế chiến thứ hai.

      Vì biết họ đến nên Ed chuẩn bị sẵn cà phê, trà và bánh quy. Sau mấy phút chuyện xã giao miễn cưỡng, người lính già thẳng vào vấn đề và hỏi mình có thể giúp được gì. Ông ta thứ tiếng Iceland hoàn hảo với những cụm từ ngắn và chính xác, như thể kỷ luật quân đội dạy ông ta phải biết giữ lại những gì quan trọng nhất.

      “Ông Jim ở Đại sứ quán cho chúng tôi biết rằng ông phục vụ ở đây trong suốt chiến tranh và ông có liên quan đến vụ việc dính dáng đến kho quân nhu ở vị trí nay của sân golf Grafahort.”

      “Phải, giờ tôi vẫn thường xuyên đến đó chơi golf,” Ed . “Tôi nghe tin tức về những mẩu xương đồi. Jim với tôi các ông cho rằng có thể chúng thuộc về trong số những người của chúng tôi. Người hoặc Mỹ.”

      “Có vụ việc gì xảy ra ở kho quân nhu thế?” Erlendur hỏi.

      “Họ thường ăn cắp đồ,” Ed . “Chuyện đó xảy ra ở hầu hết các kho quân nhu, tôi nghĩ rằng các ông gọi đó là ‘ hao hụt’. nhóm binh lính ăn cắp đồ dự trữ và bán chúng cho người Iceland. Chuyện này bắt đầu xảy ra với quy mô , nhưng dần dần họ bạo gan hơn và cuối cùng nó trở thành vụ làm ăn lớn. Người sĩ quan hậu cần cũng tham gia cùng với họ. Tất cả những người ấy đều phải tù. Phải rời bỏ đất nước. Tôi nhớ chuyện đó rất . Tôi có giữ cuốn nhật ký và đọc lại nó sau khi Jim gọi điện. Tất cả những chuyện đó như sống lại trong tôi, việc ăn trộm ấy. Tôi cũng gọi cho bạn tôi từ thời đó, Phil, ông ấy là thượng cấp của tôi. Chúng tôi cùng nhau ôn lại chuyện cũ.”

      “Làm thế nào mà vụ trộm cắp đó bị phát ?” Elínborg hỏi.

      “Lòng tham khiến họ mờ mắt. Trộm cắp với số lượng lớn như thế khó che giấu lắm. Rồi tin đồn về phá kỷ luật bắt đầu lan .”

      “Có những ai liên lụy?” Erlendur lấy ra điếu thuốc lá và Ed gật đầu ra dấu rằng ông cứ hút tự nhiên. Còn Elínborg nhìn Erlendur đầy trách cứ.

      “Dân thường. Gần như là vậy. Sĩ quan hậu cần bị kết tội nặng nhất. Và ít nhất là có người Iceland. người đàn ông sống đồi. Ở phía bên kia của kho quân nhu.”

      “Ông có nhớ tên ta ?”

      . ta sống cùng gia đình trong ngôi nhà tuềnh toàng được sơn. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều hàng hóa lấy từ kho quân nhu ở đó. Tôi viết trong nhật ký rằng ta có ba con, trong số đó là bị tật nguyền. Hai đứa còn lại là con trai. Người mẹ…”

      Ed yên lặng.

      “Người mẹ sao?” Elínborg .

      “Tôi nghĩ là ấy sống rất khổ sở.” Ed lại yên lặng và trầm ngâm suy nghĩ như thể đưa mình quay trở lại thời xa xôi đó, khi mà ông điều tra vụ ăn cắp, bước vào ngôi nhà của người Iceland và gặp người phụ nữ mà ông hiểu rằng là nạn nhân của bạo lực gia đình. Và chỉ là nạn nhân của trận đánh gần đây; ràng phải chịu đựng ngược đãi thường xuyên và có hệ thống, cả về thể chất lẫn tinh thần.

      Ông hầu như chú ý đến ấy khi bước vào ngôi nhà cùng bốn cảnh sát quân đội khác. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt ông là bị tật nguyền nằm chiếc -văng cũ kỹ trong bếp. Ông thấy hai thằng con trai đứng bên bé, sững sờ và kinh ngạc khi thấy quân lính xộc vào nhà. Ông nhìn thấy người đàn ông nhảy dựng lên từ bàn ăn. Họ đến mà thông báo trước và ràng là ta mong chờ cuộc viếng thăm này. Chỉ cần liếc mắt họ cũng biết người nào cứng đầu, người nào có khả năng nguy hiểm. Người đàn ông này khó có thể gây khó khăn cho họ.

      Sau đó ông thấy người phụ nữ. Lúc đó mới là đầu xuân, trời rất ảm đạm, phải mất lúc ông mới quen với bóng tối trong nhà. Như thể lẩn trốn, người phụ nữ đứng ở chỗ mà ông nghĩ rằng mình có thể trông thấy hành lang dẫn đến các phòng khác. Lúc đầu, ông bắt ấy vì nghĩ trong số những tên trộm và cố chạy trốn. Ông tiến lại chỗ hành lang, rút súng ra khỏi bao. Ông hét lên và chĩa súng vào bóng tối. Đứa bé bị què bắt đầu hét lên. Hai thằng con trai lao vào ông ngay lập tức và hét lên những câu mà ông hiểu. Và người phụ nữ bước ra khỏi bóng tối, người mà ông bao giờ quên cho đến cuối đời.

      Ngay lập tức ông nhận ra lý do tại sao lại giấu mình. Khuôn mặt bị bầm tím rất nặng, môi phồng lên còn mắt bị sưng đến mức thể mở ra được. nhìn ông bằng tia nhìn sợ hãi của con mắt còn lại, sau đó cúi đầu xuống như thể theo bản năng. Như thể sợ ông ta chuẩn bị đánh mình. mặc chiếc váy rách tả tơi phủ bên ngoài chiếc khác, đôi tất và đôi giầy cũ kỹ bẩn thỉu. Mái tóc bẩn của xõa xuống vai thành mớ dày. Ông thấy khập khiễng. Đây là sinh vật khốn khổ nhất mà ông từng thấy trong đời.

      Ông nhìn trong lúc cố gắng bảo các con bình tĩnh lại và hiểu rằng phải cố gắng che giấu vẻ bề ngoài của mình.

      ấy che giấu xấu hổ.

      Những đứa trẻ yên lặng. Thằng đứng đằng trước, quay lưng về phía mẹ. Ed nhìn sang chỗ gã chồng, tiến lại và tát vào mặt phát nổ đom đóm mắt.

      “Chuyện là như thế,” Ed kết thúc câu chuyện của mình. “Tôi thể kiềm chế bản thân mình được. hiểu chuyện gì diễn ra. Tôi hiểu chuyện gì xảy đến với mình. Thực , tôi hiểu nổi. Chúng ta được huấn luyện, hai người biết đấy, được huấn luyện để đối mặt với tất cả mọi chuyện. Được huấn luyện để giữ bình tĩnh, cho dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa. Hai người có thể hình dung rằng, điều quan trọng nhất là phải kiểm soát được mình ở mọi nơi mọi lúc, trong khi chiến tranh xảy ra và tất cả những chuyện khác nữa. Nhưng khi tôi nhìn người phụ nữ đó… khi tôi thấy những gì ấy phải chịu đựng – và chắc chắn là chỉ có thế – tôi có thể hình dung ra cuộc sống của ấy dưới bàn tay tên khốn đó. Và có điều gì đó chợt xảy đến trong tôi. Có điều gì đó diễn ra mà tôi thể nào kiểm soát nổi.”

      Ed dừng lại.

      “Tôi làm cảnh sát ở Baltimore hai năm trước khi chiến tranh nổ ra. Hồi ấy chuyện đó được gọi là bạo lực gia đình, nhưng nó cũng thế cả thôi. Tôi cũng bắt gặp điều đó, ở ngôi nhà đó và tôi luôn luôn ghê tởm nó. Tôi có thể hình dung ra ngay những gì mà làm, lại còn ăn cắp của chúng tôi nữa… nhưng, thế đấy, lại bị xử bởi tòa án của các ông,” Ed như thể cố gắng đẩy những hình ảnh về người phụ nữ đồi ra khỏi tâm trí của mình. “Tôi nghĩ là phải chịu bản án nặng. Chắc chắn lại quay về nhà và đánh đập người vợ đáng thương trước khi cái thời hạn hai tháng trôi qua.”

      “Như vậy, ông về bạo lực gia đình nghiêm trọng,” Erlendur .

      “Chuyện tồi tệ nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra. Ánh mắt của người phụ nữ đó, nó kinh hoàng,” Ed . “Rất kinh hoàng. Như tôi , tôi có thể biết ngay tức khắc chuyện gì xảy ra. Tôi cố gắng chuyện với ấy nhưng ấy hiểu từ tiếng nào hết. Tôi với cảnh sát Iceland về ấy, nhưng họ rằng họ cũng làm được gì nhiều. Chuyện đó cũng chẳng biến chuyển nhiều, tôi hiểu vậy.”

      “Ông nhớ tên của họ à?” Elínborg hỏi. “Ông ghi vào nhật ký à?”

      , nhưng các ông phải có báo cáo về việc đó. Về vụ ăn trộm ấy. Và lại làm việc trong kho quân nhu. Chắc chắn là phải có danh sách những người được thuê làm ở đó, những người Iceland ở doanh trại đồi. Nhưng có thể là quá lâu rồi.”

      “Thế còn những người lính sao?” Erlendur hỏi. “Những người mà tòa án của các ông xử ấy?”

      “Họ bị phạt tù. Ăn cắp của kho quân nhu là tội rất nặng. Sau đó họ bị đưa ra chiến trường. bản án tử hình hoàn hảo.”

      “Và các ông bắt họ sót ai?”

      “Ai mà biết được? Nhưng sau đó còn nạn ăn cắp nữa. Việc kiểm kê hàng hóa lại trở lại bình thường. Vấn đề được giải quyết.”

      “Vậy ông cho rằng chuyện này có chút dính líu gì đến bộ xương mà chúng tôi tìm thấy à?”

      “Tôi dám chắc.”

      “Ông nhớ có ai bị mất tích trong lực lượng của ông hay của người à?”

      “Ý ông là kẻ đào ngũ ư?”

      . vụ mất tích khó giải thích ấy. Vì bộ xương đó. Có thể là lính Mỹ ở kho dự trữ ?”

      “Tôi biết thông tin nào hết.”

      Họ chuyện với Ed thêm lúc lâu nữa. Ông ta tỏ ra thích trò chuyện với hai thám tử. Dường như ông ta thích hồi tưởng lại những ngày xưa cũ với giúp đỡ của cuốn nhật ký của mình. Chẳng mấy chốc họ chuyện về những năm chiến tranh ở Iceland và những ảnh hưởng của có mặt của quân đội cho đến khi Erlendur tỉnh táo lại. Mình được phung phí thời gian như thế. Ông đứng lên và Elínborg cũng thế, cả hai người họ cảm ơn Ed cách chân thành.

      Ed đứng lên để tiễn họ ra ngoài.

      “Làm thế nào mà các ông phát được vụ ăn cắp?” Erlendur hỏi ở bậc cửa.

      “Phát ra ư?” Ed nhắc lại.

      “Các ông lấy manh mối ở đâu?”

      “À, tôi hiểu rồi. cuộc điện thoại. Có ai đó gọi điện đến sở chỉ huy và báo cáo về vụ đánh cắp lớn ở kho dự trữ.”

      “Ai tố cáo nhỉ?”

      “Chúng tôi bao giờ tìm ra, tôi e vậy. bao giờ biết người đó là ai.”

      ***

      Símon đứng bên cạnh mẹ và quan sát, nó điếng cả người khi người lính vòng quanh nhà với vẻ mặt đầy ngạc nhiên và giận dữ, ông ta thẳng qua bếp và tát bố nó nổ đom đóm mắt đến nỗi bố nó ngã lăn ra sàn nhà.

      Ba người lính còn lại đứng yên ở cửa ra vào trong lúc người vừa tấn công Grímur đứng bên và quát nạt ông ta bằng những lời lẽ mà người Iceland hiểu nổi. Símon thể tin nổi vào mắt mình. Nó nhìn Tómas, khiếp đảm trước những gì diễn ra, và sau đó nhìn sang Mikkelína, chị nó nhìn chằm chằm đầy hoảng loạn vào Grímur – người lúc này nằm sàn nhà. Nó nhìn lên mẹ nó và thấy mắt mẹ rưng rưng nước.

      Grímur được phòng bị từ trước. Khi họ nghe thấy tiếng hai chiếc xe jeep đỗ bên ngoài nhà, người mẹ lẩn nhanh vào trong hành lang để ai nhìn thấy mình, nhìn thấy hốc mắt tím bầm và đôi môi nứt toác. Grímur thậm chí còn chưa đứng lên khỏi bàn ăn, như thể lo lắng gì về việc trộm cắp của và những tên ăn cắp vặt có ngày bị phát . chờ những người bạn lính của mình mang đến chuyến hàng mà họ dự định giấu trong nhà và buổi tối vào thành phố bán chiến lợi phẩm của mình. Grímur có rất nhiều tiền và bắt đầu đến chuyện chuyển khỏi ngọn đồi, mua căn hộ, và thậm chí cả việc mua ô tô, nhưng chỉ khi nào tinh thần rất thoải mái mới những chuyện như thế.

      Những người lính dẫn Grímur ra khỏi nhà, tống lên trong hai chiếc xe jeep và giải . Người đứng đầu – người đốn Grímur ngã xuống sàn mà mất chút công sức khó nhọc nào – điều gì đó với người mẹ và sau đó chào tạm biệt, phải là kiểu chào nhà binh mà là cái bắt tay, sau đó ông ta leo lên chiếc xe jeep còn lại.

      Ngôi nhà bé lại nhanh chóng chìm ngập trong yên lặng. Người mẹ vẫn đứng nguyên ở chỗ hành lang như thể việc xâm nhập vừa rồi vượt quá tầm hiểu biết của . nhàng xoa mắt, dán chặt mắt vào những gì mình vừa nhìn được. Mẹ con họ chưa bao giờ nhìn thấy cảnh Grímur nằm sàn nhà, chưa bao giờ chứng kiến nằm chỏng queo như thế. Chưa có ai dám quát , chưa bao giờ thấy kém cỏi như vậy. Họ thể hiểu được chuyện gì vừa xảy ra. Nó xảy ra như thế nào. Tại sao Grímur lại đánh lại người lính và dần cho họ trận nhừ tử. Những đứa trẻ nhìn nhau. Trong ngôi nhà, yên lặng trở nên ngột ngạt. Chúng nhìn mẹ khi nghe thấy thanh lạ. thanh đó phát ra từ Mikkelína. Con bé ngồi xổm chiếc giường của nó và họ lại nghe thấy thanh ấy lần nữa. Họ thấy con bé cười rúc rích, và tiếng cười rúc rích chuyển dần thành tiếng cười khẩy, lúc đầu con bé cố gắng nín lại nhưng được, về sau con bé cười ầm lên. Símon mỉm cười rồi cũng cười phá lên, Tómas cũng bắt chước, và ngay lập tức cả ba gào rú lên những tràng cười dứt vang vọng khắp quả đồi, lan vào tiết trời xuân đẹp đẽ.

      Hai tiếng sau, xe tải quân đội đến và thu dọn hết tất cả những chiến lợi phẩm mà Grímur và đồng bọn giấu trong nhà. Những đứa trẻ nhìn theo cái xe tải dần xa, sau đó chúng chạy lên đồi và thấy nó quay trở lại kho quân nhu, nơi các món đồ được dỡ xuống.

      Símon biết đích xác chuyện gì xảy ra và nó cũng dám chắc là mẹ nó hiểu, nhưng Grímur bị kết án tù và trong vài tháng tới ông ta được phép về nhà. Lúc đầu, cuộc sống đồi vẫn diễn ra như mọi khi. Dường như họ hiểu được rằng Grímur còn ở nhà nữa. Ít nhất là trong thời gian tại. Người mẹ vẫn làm những công việc vặt hàng ngày, băn khoăn gì về việc sử dụng những của cải bất chính của Grímur để nuôi sống bản thân và các con. Về sau tự tìm việc làm cho mình ở nông trại Gufunes cách nhà tầm nửa tiếng đồng hồ bộ.

      Khi thời tiết thuận lợi, hai thằng con trai vẫn đưa Mikkelína ra tắm nắng. Đôi lúc chúng đưa chị cùng mỗi khi câu cá ở hồ Reynisvatn. Nếu chúng bắt được đủ cá hồi, mẹ chúng rán cá trong chảo và nấu bữa ngon lành. Dần dần, họ còn e ngại rằng Grímur vẫn kìm kẹp mình ngay cả khi ở nhà nữa. Việc thức dậy vào buổi sáng dễ dàng hơn rất nhiều, ngày trôi qua mà ai phải lo lắng điều gì, và đêm về mà ngôi nhà vẫn chìm trong yên tĩnh, chuyện này dễ chịu đến mức họ thức đến tận đêm khuya trò chuyện và chơi đùa cho đến khi mắt díp hết cả lại.

      Tuy nhiên, vắng mặt của Grímur ảnh hưởng lớn nhất đến mẹ của lũ trẻ. ngày, khi cuối cùng cũng nhận ra rằng quay trở lại ngay nữa, lau chùi từng phân chiếc giường đôi của họ. phơi đệm ra ngoài sân, đập và phủi tất cả những bụi bẩn bám đó. Sau đó mang chăn mền ra và đập cả chúng nữa. thay khăn trải giường, tắm rửa cho các con với xà phòng màu xanh và nước nóng lấy từ cái bình lớn đặt sàn bếp. Cuối cùng, cẩn thận gội đầu và rửa mặt sạch đó vẫn còn hằn những dấu vết từ lần đánh đập trước của Grímur – tắm cả người mình. lưỡng lự cầm cái gương lên và soi vào đó. xoa mắt và môi. Người gầy và khuôn mặt đanh hơn, răng hơi nhô ra chút, hai mắt trũng sâu còn cái mũi từng gãy lần có đường cong khó nhận ra.

      Đến nửa đêm, đưa các con lên giường và cả bốn mẹ con họ ngủ cùng nhau. Từ đó, những đứa trẻ ngủ chiếc giường lớn cùng mẹ, Mikkelína nằm bên phải, hai thằng con trai nằm bên trái, hạnh phúc.

      chưa bao giờ vào thăm Grímur trong tù. và cả các con của chưa bao giờ nhắc đến tên trong suốt thời gian vắng nhà.

      buổi sáng lâu sau khi Grímur bị đưa , Dave – lính tốt bụng – lại bộ lên đồi, tay cầm theo cần câu. ta qua ngôi nhà của họ và nháy mắt với Símon, thằng bé đứng trước nhà, và tiếp tục đến Hafravatn. Símon lại bắt đầu theo dõi, nó nằm xuống cách ta khoảng đủ để quan sát. Dave ngồi cả ngày bên hồ, nghỉ ngơi như mọi lần và hình như quan tâm xem mình bắt được bao nhiêu cá. ta bắt được ba con.

      Khi trời chuyển sang chiều, ta quay trở lại lên đồi và dừng lại bên nhà họ với ba con cá buộc đuôi lại với nhau bằng sợi dây. Bản thân Dave cũng chắc chắn, và Símon cũng có vẻ như thế. Thằng bé chạy trở lại nhà để theo dõi người lính qua cửa sổ bếp – nơi mà nó chắc chắc là Dave thể trông thấy mình. Cuối cùng người lính quyết định, ta bước đến ngôi nhà và gõ cửa.

      Símon kể cho mẹ nghe về Dave, người cho cá hồi lần trước, bước ra và nhìn xung quanh tìm ta, lại vào nhà, nhìn mình trong gương và vuốt lại tóc. Dường như cảm thấy rằng ta ghé qua đường trở về doanh trại. sẵn sàng chào Dave khi ta đến.

      mở cửa và Dave mỉm cười, điều gì đó mà hiểu và đưa cho mấy con cá. cầm lấy và mời ta vào nhà. Dave bước vào và đứng lúng túng trong bếp. ta gật đầu với mấy đứa trẻ và với Mikkelína. Con bé duỗi thẳng người và cố rướn lên để nhìn lính cho – người quãng đường xa như vậy chỉ để đứng trong bếp nhà họ. ta mặc quân phục và đội chiếc mũ buồn cười trông chẳng khác nào cái thuyền úp ngược. Dave đột ngột nhớ ra là phải bỏ nó ra khỏi đầu khi bước vào nên ta túm lấy nó và giật xuống đầy ngượng nghịu. ta người tầm thước, chắc chắn là ba mươi tuổi, người mảnh khảnh với hai bàn tay đẹp nghịch vớ vẩn cái thuyền úp ngược, tay vặn vẹo như thể là giặt nó. phác cử chỉ mời ta ngồi, ta ngồi xuống, hai đứa con trai mỗi đứa ngồi bên trong lúc mẹ chúng pha cà phê mời khách – loại cà phê Grímur ăn cắp ở kho quân nhu mà những người lính phát ra. Dave biết tên của Símon và phát ra rằng cái tên Tómas của cậu út rất dễ phát . Tên của Mikkelína làm ta ngạc nhiên, Dave đọc đọc lại, khôi hài đến mức tất cả mọi người đều phải bật cười. ta rằng tên mình là Dave Welch, đến từ vùng có tên là Brooklyn ở Hoa Kỳ. ta rằng mình là binh nhì nhưng họ chẳng hiểu ta gì.

      binh nhì,” ta nhắc lại, nhưng họ chỉ nhìn ta chằm chằm.

      ta uống cà phê và có vẻ rất hài lòng với mùi vị của nó.

      Người mẹ ngồi đối diện với ta ở đầu kia của bàn.

      “Tôi biết là chồng ở trong tù,” ta . “Vì tội ăn cắp.”

      ta nhận được lời đáp lại.

      Liếc nhìn lũ trẻ, lấy ra mẩu giấy trong túi áo ngực và xoay xoay nó giữa các ngón tay như thể là biết phải làm gì. Sau đó ta đưa tờ giấy qua bàn cho người mẹ. cầm lên, mở nó ra và đọc xem nó gì. nhìn ta ngạc nhiên, sau đó lại nhìn mẩu giấy. Sau đó gấp mẩu giấy lại và để vào túi tạp dề.

      Tómas cố gắng để Dave hiểu rằng ra phải thử phát lại tên Mikkelína lần nữa, và khi ta lại, tất cả mọi người lại bắt đầu cười, còn Mikkelína cười nhăn hết cả mặt trong niềm vui đích thực.

      Mùa hè năm đó, Dave Welch đến thăm nhà họ thường xuyên hơn, kết bạn với lũ trẻ và mẹ chúng. câu cá ở hai hồ và đưa cá cho họ, còn lấy thêm những thứ nho cho họ từ kho quân nhu nữa. Những thứ này rất có ích với họ. chơi đùa cùng lũ trẻ, còn chúng tỏ ra rất vui sướng khi có mặt ở đó. luôn luôn mang theo cuốn sổ của mình để giúp lũ trẻ hiểu bằng tiếng Iceland. Họ cười lăn cười bò khi thấy Dave ấp úng cụm từ tiếng Iceland. Khuôn mặt nghiêm túc trái ngược hẳn với những gì , và cái cách mà phát chẳng khác nào đứa trẻ ba tuổi bập bẹ.

      Nhưng Dave là người sáng dạ nên chẳng bao lâu họ hiểu cũng hiểu những gì họ . Hai đứa con trai đưa đến những nơi câu cá tốt nhất, chúng bộ đầy tự hào cùng lên đồi và vòng quanh hồ. Hai đứa trẻ còn được học tiếng với Dave cùng những bài hát Mỹ mà chúng nghe thấy từ kho quân nhu.

      tạo dựng mối quan hệ đặc biệt với Mikkelína. Ngay lập tức chiếm trọn cảm tình của bé. thường đưa bé ra ngoài vào những ngày đẹp trời và kiểm tra khả năng nhận thức của nó. Cách dạy của cũng giống như mẹ nó: nâng đỡ chân tay cho nó, đỡ nó trong lúc lại, giúp nó tập tất cả các bài thể dục. ngày, đưa bác sĩ quân y đến để kiểm tra sức khỏe cho Mikkelína. Ông bác sĩ soi đèn pin vào mắt và cổ họng nó, xoay đầu nó, sờ vào cổ và xem xét dọc xương sống nó. Ông ta mang theo nhiều khối gỗ và luồn người con bé vào những cái lỗ đó. Chuyện đó hề khó khăn với con bé chút nào. Ông ta nghe kể rằng bé bị ốm năm lên ba tuổi và có thể hiểu được những gì người khác nhưng lại được. Ông ta cũng nghe rằng con bé có thể đọc được và mẹ con bé dạy nó viết. Bác sĩ gật đầu ra chừng hiểu, mặt biểu lộ ánh nhìn đầy ý nghĩa. Ông ta chuyện rất lâu với Dave sau cuộc kiểm tra và khi ông ta rời , Dave cố gắng làm cho họ hiểu rằng Mikkelína hoàn toàn khỏe mạnh. Tất cả mọi người đều biết điều đó. Nhưng ta rằng, dần dần, với những bài luyện tập thích hợp và nỗ lực ngừng, Mikkelína có thể lại được mà cần ai giúp đỡ.

      lại được ư!” Người mẹ nhảy dựng lên.

      “Và thậm chí là cả năng bình thường nữa,” Dave thêm. “Có lẽ vậy. khám bác sĩ lần nào chưa?”

      “Chuyện đó nằm ngoài khả năng của tôi,” người mẹ buồn bã.

      ổn thôi,” Dave . “Hãy cho bé thời gian.”

      Người mẹ nghe ta nữa.

      gã đàn ông tệ bạc,” đột ngột . Và tất cả những đứa trẻ dỏng tai lên vì chúng chưa bao giờ nghe thấy mẹ lời nào về Grímur giống như lần này cả. “ gã đàn ông tệ bạc,” tiếp, “ sinh vật đáng ghét xứng đáng được sống. Tôi hiểu tại sao người ta lại được phép làm những điều mình muốn. Điều gì khiến người ta làm như vậy? Điều gì khiến biến thành con quái vật như vậy? Tại sao lại cư xử như con vật hết năm này qua năm khác, cứ đánh đập tôi cho đến khi tôi muốn chết và nghĩ cách làm thế nào để…”

      trút hơi thở dài và đến ngồi bên Mikkelína.

      “Tôi cảm thấy xấu hổ vì là nạn nhân của gã đàn ông như thế, tôi giấu mình trong nỗi đơn vây bủa và ngăn chặn tất cả mọi người vào thế giới của mình, thậm chí là các con mình, vì tôi muốn ai đặt chân vào đó, ít nhất là tất cả bọn họ. Và tôi ngồi chờ đợi lần đánh đập bất ngờ tiếp theo, lòng tràn ngập căm thù đối với điều gì đó mà tôi biết. Tôi dành cả cuộc đời mình để chờ đợi lần tấn công tới, băn khoăn khi nào nó đến, nó tệ như thế nào, lý do là gì, làm thế nào để né tránh nó. Tôi càng cố làm hài lòng càng tức giận. Tôi càng thể là mình ngoan ngoãn và sợ hãi, lại càng ghê tởm tôi. Và nếu tôi chống lại, càng có lý do để đánh tôi nhừ tử. Chẳng có cách nào để làm đúng mọi chuyện. có cách nào. Cho đến khi tôi nghĩ về việc làm thế nào để vượt qua chuyện đó. quan trọng là thế nào. Chỉ cần vượt qua nó là được.”

      yên lặng chết chóc bao trùm. Mikkelína nằm yên giường còn hai thằng con trai tiến lại gần chỗ mẹ. Chúng lắng nghe và chết lặng trước từng lời mẹ . Chưa bao giờ mẹ chúng khơi ra nỗi đau và dằn vặt mà bà vật lộn với chúng lâu đến mức bà quên sạch những thứ khác.

      “Mọi chuyện ổn thôi,” Dave .

      “Con giúp mẹ,” Símon nghiêm túc .

      nhìn con trai.

      “Mẹ biết, Símon,” đáp. “Mẹ luôn biết điều đó, Símon tội nghiệp của mẹ.”

      Ngày tháng cứ thế trôi và Dave dành hết thời gian rảnh rỗi của mình đến nhà họ. Càng ngày càng dành nhiều thời gian bên mẹ chúng, hoặc ở trong nhà hoặc dạo quanh hồ Reynisvatn hay đến Hafravatn. Hai thằng con trai muốn gặp nhiều hơn, nhưng thôi còn câu cá với chúng cũng như dành ít thời gian bên Mikkelína hơn. Nhưng chúng buồn. Chúng để ý thấy thay đổi nơi mẹ, chúng gắn chuyện đó với Dave và thấy mừng cho mẹ.

      ngày mùa thu đẹp trời, gần nửa năm sau khi Grímur bị cảnh sát đưa , Símon thấy Dave và mẹ nó từ xa, họ bộ về phía ngôi nhà. Họ sát cạnh nhau và tất cả những gì nó thấy là hai người nắm tay nhau. Khi họ đến gần nhà hơn, hai người bỏ tay ra và cách xa nhau, và Símon nhận ra là họ muốn để ai nhìn thấy.

      “Mẹ và chú Dave dự định làm gì?” Símon hỏi mẹ vào buổi tối mùa thu sau khi hoàng hôn đổ xuống ngọn đồi. Họ ngồi trong bếp. Tómas và Mikkelína chơi bài. Dave ở đó cả ngày cùng họ, sau đó quay trở về đơn vị. Câu hỏi đó được đặt ra suốt mùa hè. Những đứa trẻ thảo luận riêng về chuyện đó và tưởng tượng ra rất nhiều tình huống mà cái nào cũng kết thúc bằng việc Dave trở thành bố của chúng và tống khứ Grímur ra khỏi cuộc sống của mẹ con chúng mãi mãi.

      “Ý con là sao, làm gì là làm gì?” mẹ nó hỏi.

      “Khi ông ta trở về ấy,” Símon , nó thấy Tómas và Mikkelína thôi chơi bài và nhìn nó.

      “Còn rất nhiều thời gian để nghĩ đến chuyện đó mà,” đáp. “Ông ta trở về ngay đâu.”

      “Nhưng hai người định làm gì?” Mikkelína và Tómas quay đầu từ Símon sang mẹ.

      nhìn Símon và hai đứa kia.

      “Chú ấy giúp chúng ta,” .

      “Ai cơ?” Símon hỏi.

      “Dave. Chú ấy giúp chúng ta.”

      “Chú ấy định làm gì?” Símon nhìn mẹ, cố gắng hiểu ý của bà. Cố nhìn thẳng vào mắt bà.

      “Dave biết loại người đó. Chú ấy biết cách để loại trừ chúng.”

      “Chú ấy làm gì cơ?” Símon nhắc lại.

      “Con đừng lo về chuyện đó,” người mẹ đáp.

      “Chú ấy giúp chúng ta tránh khỏi ông ta ư?”

      “Phải.”

      “Làm thế nào cơ?”

      “Mẹ biết. Chúng ta càng biết ít càng tốt, chú ấy vậy. Và tốt nhất là mẹ nên với các con chuyện này. Có thể chú ấy chuyện với ông ta. Đe dọa ông ta. Chú ấy rằng chú ấy có bạn bè trong quân đội và họ giúp chú ấy khi cần thiết.”

      “Nhưng nếu Dave ra sao?”

      “Ra ư?”

      “Nếu chú ấy rời Iceland, ” Símon . “Chú ấy thể ở đây mãi được. Chú ấy là quân nhân. Người ta luôn chuyển quân và đưa quân mới đến. Nếu chú ấy sao? Lúc đó chúng ta làm gì?”

      nhìn con trai.

      “Chúng ta tìm cách,” bằng giọng trầm. “Lúc đó chúng ta tìm cách.”


      19

      Sigurdur Óli gọi điện cho Erlendur và kể về cuộc chuyện giữa mình và Elsa. cũng thuật lại suy nghĩ của Elsa rằng có dính líu của người đàn ông khác – người khiến cho vợ chưa cưới của Benjamín mang thai; tuy nhiên danh tính của ông ta chưa xác định được. Họ bàn bạc lúc, sau đó Erlendur kể cho Sigurdur Óli nghe những phát mới của mình sau khi chuyện với cựu Đại tá Ed Hunter về vụ trộm tại kho dự trữ và chuyện người đàn ông Iceland sống đồi bị bắt vì có liên quan. Ed tin rằng vợ của người đàn ông đó là nạn nhân của bạo lực gia đình, chuyện này củng cố thêm cho câu chuyện mà Höskuldur kể lại theo những gì Benjamín .

      “Tất cả những người đó đều chết và bị chôn cách đây lâu lắm rồi,” Sigurdur Óli ngán ngẩm . “Tôi biết tại sao chúng ta lại cứ phải đuổi theo họ. Cứ như bắt ma vậy. Chúng ta chẳng bao giờ gặp họ hay chuyện được với họ. Tất cả họ chỉ là phần của câu chuyện ma này mà thôi.”

      “Cậu đến người phụ nữ mặc đồ màu xanh lục đồi ư?” Erlendur hỏi.

      “Elínborg rằng Róbert trông thấy bóng ma của Sólveig mặc cái áo khoác màu xanh lục, vì thế chúng ta dính vào vụ truy tìm ma quỷ thực .”

      “Nhưng cậu muốn biết ai nằm dưới ngôi mộ đó với cánh tay giơ lên như thể người đó bị chôn sống à?”

      “Tôi mất cả hai ngày giam mình trong tầng hầm bẩn thỉu và tôi chẳng buồn quan tâm đến nó nữa,” Sigurdur Óli đá. “Tôi thể để ý đến những chuyện vớ vẩn này nữa,” ta gầm lên và tắt máy.

      Như mọi khi, tâm trí Erlendur lại quay về hình ảnh Eva Lind, con bé nằm trong khu chăm sóc đặc biệt và khó lòng sống sót. Ông chìm đắm trong suy nghĩ về lần cãi nhau cuối cùng giữa hai bố con trong căn hộ của ông cách đây hai tháng. Lúc đó vẫn là mùa đông, tuyết rơi dày, trời lạnh và tối. Ông cố ý cãi nhau với con. Ông nghĩ rằng mình nổi nóng. Nhưng con bé luôn bướng bỉnh chịu lùi phân.

      “Con thể làm thế với đứa trẻ được,” ông cố gắng thuyết phục con lần nữa. Ông nghĩ rằng con bé có thai năm tháng. Nó rất quyết tâm khi biết mình có thai, và sau hai lần, dường như nó bỏ được thói quen dùng ma túy. Ông cố gắng giúp nó hết sức có thể, nhưng cả hai đều biết rằng giúp đỡ đó mấy hiệu quả và rằng mối quan hệ giữa hai bố con họ trở nên tệ đến mức ông càng ít xen vào bao nhiêu con bé càng có cơ hội thành công bấy nhiêu. Eva Lind có quan điểm hai chiều đối với bố. mặt nó tìm đồng cảm nơi ông, mặt khác, nó soi mói tất cả những gì thuộc về ông.

      “Bố biết gì về chuyện đó cơ chứ?” con bé . “Bố biết gì về trẻ con? Chắc chắn con có thể sinh con. Và mình con tự sinh đứa trẻ.”

      Ông biết nó dùng thuốc phiện hay rượu hay cả hai thứ đó, nhưng con bé rất ít khi tĩnh trí mỗi khi ông ra mở cửa cho nó vào nhà. Nó thả người đánh bịch cái xuống ghế sô pha. Bụng nó lùm lùm dưới cái áo khoác da khóa, việc nó có thai rất dễ phát . Con bé chỉ mặc mỗi cái áo phông bên trong. Bên ngoài, nhiệt độ tụt xuống đến mười độ C.

      “Bố nghĩ là chúng ta …”

      “Chúng ta chẳng làm gì cả,” con bé ngắt lời bố. “Bố và con. Chúng ta chẳng làm gì cả.”

      “Bố nghĩ là con quyết định tự chăm sóc đứa trẻ. Hãy chắc chắn là gì có thể thay đổi được. Con phải đảm bảo là thuốc phiện ảnh hưởng gì đến nó. Con sắp bỏ cuộc, nhưng con có khả năng vượt qua chuyện đó. Con có khả năng chăm sóc con mình cách chu đáo.”

      “Bố im !”

      “Tại sao con lại đến đây?”

      “Con biết.”

      “Đó là vì lương tâm của con. Đúng ? Chính lương tâm dằn vặt con, và con mong là bố thông cảm với hoàn cảnh khủng khiếp mà con phải gánh chịu. Đó là lý do tại sao con đến đây. Để được cảm thông và để cuộc sống của mình tốt hơn.”

      “Phải rồi, đây chỉ là nơi để đến nếu ai đó cần được người ta thương hại, thưa ngài Thánh Ngu Si ạ.”

      “Con quyết định chọn tên. Con còn nhớ chứ? Nếu đó là .”

      “Bố quyết định đấy chứ. phải con. Là bố. Như mọi lần thôi. Bố có quyền quyết định mọi chuyện. Nếu như bố muốn ra bố cứ thôi, chẳng quan tâm quái gì đến con hay bất kỳ ai hết.”

      “Con dự định đặt tên cho nó là Audur. Con thích cái tên đó mà.”

      “Bố tưởng con biết trò chơi của bố à? Bố tưởng con nhìn thấu tâm can bố à? Ồ, bố sợ… Con biết con có thứ gì trong bụng mà. Con biết nó là con người. Con biết điều đó. Bố cần phải nhắc nhở con. cần đâu!”

      “Tốt,” Erlendur . “Đôi khi con quên điều đó. Quên rằng phải chỉ nghĩ cho riêng mình. Khi con say, đứa bé cũng bị say theo, và nó bị ảnh hưởng bởi chuyện đó hơn rất nhiều lần so với bản thân con.”

      Ông ngừng lại.

      “Có thể đó là sai lầm,” ông . “Vì phá thai.”

      Con bé nhìn ông.

      “Đồ khốn nạn!”

      “Eva…”

      “Mẹ cho con rồi. Con biết đích xác điều bố muốn là gì.”

      “Điều gì?”

      “Và bố có thể gọi bà ấy là con dối trá rẻ tiền, nhưng con biết điều đó là đúng.”

      “Con cái gì thế?”

      “Mẹ chắc chắn bố phủ nhận điều đó.”

      “Phủ nhận cái gì cơ?”

      “Rằng bố muốn có con.”

      “Sao cơ?”

      “Rằng bố muốn sinh con ra. Khi bố làm mẹ có thai.”

      “Mẹ con gì?”

      “Rằng bố MUỐN sinh con ra.”

      “Bà ấy dối.”

      “Bố muốn mẹ phá thai…”

      dối…”

      “…và sau đó bố liên tiếp phán xét con, cần biết con cố gắng thế nào. Bố luôn luôn phán xét con.”

      đúng đâu. Bố chưa bao giờ nghĩ đến chuyện đó. Bố biết tại sao mẹ con lại với con như thế, nhưng đó phải là . Đó phải là phương án giải quyết. Bố mẹ chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó.”

      “Mẹ biết bố thế. Bà ấy cảnh báo con từ trước.”

      “Cảnh báo con ư? Bà ấy với con tất cả những điều này khi nào?”

      “Khi mẹ biết con có thai. Mẹ rằng bố muốn đưa bà ấy phá thai nhưng bố phủ nhận chuyện đó. Mẹ rằng bố tất cả những điều bố vừa .”

      Eva Lind đứng lên và ra phía cửa.

      “Mẹ con dối đấy, Eva Lind, con hãy tin bố. Bố biết tại sao bà ấy lại thế. Bố biết bà ấy ghét bố, nhưng chắc đến mức nhiều như thế. Bà ấy xúi giục con chống lại bố. Con phải nhận ra điều đó chứ. ra điều đó đáng kinh tởm. Con có thể với bà ta điều đó.”

      “Bố với mẹ!!!” Eva Lind quát lên. “Nếu bố dám.”

      là ghê tởm khi với con điều đó. Bịa ra cả câu chuyện để phá hủy mối quan hệ giữa hai bố con.”

      “Thực ra, con tin mẹ.”

      “Eva…”

      “Bố im .”

      “Bố cho con biết tại sao chuyện đó thể là được. Tại sao bố bao giờ có thể…”

      “Con tin bố đâu!”

      “Eva… Bố …”

      “Ngậm cái mồm của bố vào. Con tin bất kỳ lời nào của bố đâu.”

      “Vậy con ra khỏi đây ,” ông .

      “Vâng, phải,” nó chọc tức ông. “Tránh xa con ra.”

      “Cút !”

      “Bố là kinh tởm!” con bé quát lên và lao ra ngoài.

      “Eva!” ông gọi với theo nhưng con bé rồi.

      hai tháng. Ông nghe tin tức gì về nó và cũng trông thấy nó cho đến khi điện thoại của ông rung lên khi ông đứng đồi.

      Erlendur ngồi trong xe hút thuốc, ông nghĩ rằng đáng lý mình nên phản ứng khác , dẹp lòng tự ái sang bên để đuổi theo Eva Lind khi nguôi cơn giận. Ông phải lại với con bé rằng mẹ nó dối, ông bao giờ đề nghị phá thai. bao giờ ông có thể làm điều đó. Và bao giờ để con bé phải cầu cứu mình. Con bé đơn giản là chưa thực trưởng thành để có thể hiểu được tất cả những chuyện này, con bé nhận ra nó tự đẩy mình đến đâu.

      Erlendur sợ phải cho nó biết khi nó tỉnh lại. Nếu nó có thể tỉnh lại. Muốn làm việc gì đó cho khuây khỏa, ông nhấc điện thoại và gọi cho Skarphédinn.

      “Kiên nhẫn chút ,” nhà khảo cổ , “và đừng có gọi điện cho tôi liên tùng tục như thế. Chúng tôi cho ông biết kết quả chừng nào chúng tôi đào đến chỗ bộ xương.”

      Skarphédinn cư xử như thể chính ông ta thụ lý vụ điều tra bằng. Càng ngày ông ta càng trở nên ngạo mạn.

      “‘Chừng nào’ là bao giờ?”

      “Rất khó ,” ông ta đáp, và Erlendur hình dung ra cái răng vàng bên dưới bộ râu của lão già. “Chúng tôi phải xem xét cái . Hãy để yên cho chúng tôi làm công việc của mình.”

      “Ông chắc chắn phải cho tôi biết vài điều. Đó là đàn ông hay phụ nữ?”

      “Kiên nhẫn là chìa khóa giải quyết mọi vấn đề…”

      Erlendur tắt máy. Ông châm thêm điếu thuốc nữa điện thoại reo. Người gọi là Jim ở Đại sứ quán . Ed và Đại sứ quán Mỹ phát ra danh sách tên những người Iceland làm thuê cho quân đội và Jim vừa mới nhận được bản fax. Ông ta vẫn chưa phát ra điều gì về những người Iceland đó. Có chín cái tên trong danh sách và Jim đọc cho Erlendur qua điện thoại. Erlendur nhận ra bất cứ cái tên nào trong số đó và cho Jim số fax của cơ quan để ông ta gửi bản danh sách đến đó.

      Erlendur lái xe đến Vogar và đỗ xe ở đó, cũng như mọi lần, ông giữ khoảng cách vừa phải với ngôi nhà mà ông lao vào để tìm Eva Lind. Ông chờ đợi và băn khoăn hiểu điều gì khiến gã đó cư xử với vợ con mình như vậy.

      Nhưng kết luận mà ông rút ra cũng giống như những người khác: chúng là những tên ngu độn hết sức. Ông vẫn chưa biết mình muốn làm gì với tên đó, có nên ngoéo cổ ta ngay lập tức , hay là chỉ ngồi xe theo dõi.

      Ông thể xua hình ảnh bé với những vết bỏng thuốc lá lưng. Người đàn ông chối bay chối biến những gì làm với con bé, còn mẹ nó lại bao che cho lời khai của nên cảnh sát cũng chẳng làm được gì hơn việc tách đứa trẻ ra khỏi bố mẹ. Vụ này do đích thân giám đốc Ủy ban Công tố Nhân dân xử lý. Có thể bị kết tội. Có thể .

      Erlendur cân nhắc những phương án có thể xảy đến với . Cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì tất cả bọn chúng đều là lũ xấu cả. Nếu gã đó quay trở về ngôi nhà vào cái đêm ông tìm Eva Lind và phát ra đứa bé bị bỏng lưng ngồi sàn nhà, chắc chắn ông cho thằng ác ôn ấy bài học. Mấy ngày trôi qua nhưng ông vẫn chưa thể trị cho trận, chưa thể đến đấm thẳng vào mặt , mặc dù ông muốn làm điều đó ngay tức khắc. Erlendur biết mình thể chuyện suông với loại người như thế. Chúng cười nhạo những lời đe dọa tầm thường, thậm chí còn cười vào mặt Erlendur là đằng khác.

      Erlendur thấy ai ra vào ngôi nhà trong suốt hai tiếng đồng hồ qua. Cuối cùng ông bỏ cuộc và lái xe đến bệnh viện thăm con , cố gắng quên tất cả những chuyện đó, cũng giống như rất nhiều điều trong quá khứ mà ông cần phải quên.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :