Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 6: Yêu nữ) - Michael Scott (kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG MƯỜI TÁM


      "Ông là ai?" Tiến sĩ John Dee thở khò khè. ý thức mình nằm mặt sàn kim loại của chiếc vimana, độ rung của nó truyền vào làm toàn thân cũng rung lên. Bằng thị lực kém cỏi, mọi thứ xung quanh đều mờ nhòe, và hình dáng ngồi nơi hệ thống bảng điều khiển phía trước chẳng gì hơn cái bóng.

      "Tôi bảo ông rồi, tôi được gọi là Marethyu." nửa vòng kim loại lung linh chiếu mờ mờ trước mặt Dee. "Đôi khi người ta gọi tôi là người đàn ông có bàn tay móc câu. Mặc dù nó là cái liềm hơn là móc câu."

      Tay Pháp sư thấy mình vẫn còn được bọc trong chiếc áo khoác Josh đặt lên người. kéo áo sát vào thân hình run rẩy và cố gắng thẳng người lên, nhưng làm được. "Tôi có cảm giác hình như mình biết ông", thào.

      "Ông có biết đấy. Chúng ta từng gặp nhau cũng khá thường xuyên mà."

      "Đâu có", Dee đồng ý. "Tôi hẳn bao giờ quên chiếc móc câu ấy."

      "Tôi cho rằng ông quên", Marethyu đầy vẻ bí .

      " bạn trẻ", Dee vừa ra. Marethyu chợt phá ra cười. "Có gì buồn cười sao?"

      " quá lâu rồi nay mới có người gọi tôi là trẻ."

      "Đối với tôi trông ông còn trẻ mà. Ông năng nghe như còn trẻ, và đủ mạnh để có thể khiêng được tôi. Tôi già rồi, gần năm trăm tuổi. Còn ông sống bao lâu trái đất này?", người bất tử hỏi.

      Nhưng người đàn ông có bàn tay móc câu vẫn im lặng trong khi chiếc vimana kêu rền xuyên bầu trời xanh lơ sáng . Sau đó, ngay khi Dee bắt đầu ý thức mình chưa nhận được câu trả lời người đàn ông kia lên tiếng, giọng ông ta buồn thấm thía. "Pháp sư, tôi sống trái đất này mười ngàn năm nay. Và trải qua có lẽ đến mười lần dạo chơi các Vương quốc Bóng tối. Thậm chí tôi còn biết tuổi của mình nữa."

      Vậy ra ông là Elder à? Elder Vĩ đại? Quan chấp chính? Ông phải là Thần Đất. Có lẽ ông là Người cổ đại chăng?"

      ". phải ai trong những người ông vừa kể cả", Marethyu . Tôi là người. Nhiều hơn người bình thường chút, mà ít hơn rất nhiều. Nhưng được con người sinh ra và nuôi nấng."

      Động cơ của chiếc vimana hạ xuống thành tiếng ri rỉ và con tàu dìm xuống.

      "Ai là chủ nhân của ông?"

      "Tôi có chủ nhân. Tôi phục vụ cho chính mình."

      "Vậy ai làm cho ông bất tử?" Dee hỏi, chỉ thấy càng lúc càng rối rắm.

      "Tôi cho là ông nên hỏi tại sao, Tiến sĩ Dee ạ", Marethyu bật cười vang.

      "Tôi hiểu."

      "Ông hiểu. Hãy kiên nhẫn, ông Tiến sĩ, kiên nhẫn . Tất cả được tiết lộ vào đúng thời."

      "Tôi còn nhiều thời gian. Osiris lo liệu sẵn như thế."

      Chiếc vimana chìm xuống thấp hơn, động cơ chậm lại thành tiếng o o đùng đục.

      "Chúng ta định đâu?" Dee hỏi.

      "Tôi định đưa ông tới gặp người. Người đó chờ ông lâu lắm rồi."

      "Ông biết tôi đến sao?"

      "Tiến sĩ, tôi luôn biết ông đến đây. Tôi dõi theo tiến trình này của ông từ giây phút ông lọt lòng mẹ kìa."

      Dee thấy mệt mỏi, cơn kiệt quệ mê mệt đe dọa đổ tràn người , nhưng biết nếu nhắm mắt, có thể có khả năng bao giờ mở mắt lại được nữa. dồn đủ lực để hỏi, "Tại sao?"

      "Bởi vì ông có vai phải diễn. Trong cả cuộc đời dằng dặc của mình, tôi khám phá ra rằng có gì là ngẫu nhiên. Luôn có kiểu mẫu. Mưu mẹo là phải nhìn ra kiểu mẫu ấy, nhưng khả năng đó là năng khiếu mà cũng có lẽ là lời nguyền chỉ được ban cho số ít."

      "Và ông có thể nhìn ra kiểu mẫu này?"

      "Đó là lời nguyền của tôi."

      Đột nhiên chiếc vimana đáp xuống đất. Nắp con tàu trượt lui, và Dee rùng mình khi luồng khí lạnh huốt, ẩm ướt tràn qua người. Thậm chí với thính giác tàn lụi, vẫn có thể nhận ra tiếng gầm gào của biển cả gần đó, những con sóng lớn vỗ ì ầm vào bờ, tung bọt nước trắng xóa. nhìn thấy hai cánh tay của Marethyu lòn xuống dưới người mình và yếu ớt xua .

      "Chờ chút ", phản đối.

      "Như ông hiểu rất đúng, chúng ta có nhiều thời gian đâu."

      Dee đưa tay lên nắm lấy cánh tay Marethyu. "Tôi thể cảm nhận được luồng điện của ông."

      "Tôi có."

      "Mọi người đều có luồng điện mà", Dee khẽ, lần nữa lại bối rối trước những gì chợt đến với mình.

      "Mọi người sống kia", người đàn ông trả lời.

      "Ông là người chết à?"

      "Tôi là Thần Chết mà."

      "Nhưng ông có năng lực chứ?"

      "Có, năng lực bao la."

      "Ông có thể phục hồi tuổi trẻ cho tôi được ?"

      Im lặng bao trùm, rồi bằng thị lực ít ỏi của mình, Dee có thể gần như thấy Marethyu chăm chú nhìn . "Tôi có thể", cuối cùng ông ta . "Nhưng tôi làm."

      Dee thể hiểu tại sao người đàn ông này cứu , song lại để chết. "Tại sao ?"

      "Đó gọi là hậu quả, hoặc có thể là phán xét. Ông phải là người tốt, Tiến sĩ Dee ạ, và ông nên trả giá cho các tội ác kinh khủng mình gây ra. Tuy nhiên những gì tôi làm là phục hồi chút sức mạnh của ông và cho phép ông có được phẩm giá của mình." Marethyu đặt bàn tay lên đỉnh đầu tay tiến sĩ và đẩy mạnh.

      cú choáng, như những chiếc đinh ghim, kim găm, dập dờn khắp người Dee. cảm thấy hơi ấm lan tỏa trong vùng thượng vị. Hơi ấm ấy tràn lên, qua ngực, lan xuống cánh tay, đồng thời dâng khắp vùng bắp đùi, dọc theo bắp chân, vào đến hai bàn chân. Bỗng nhiên cảm thấy mạnh mẽ hẳn ra.

      "Còn thị giác của tôi nữa", nài xin. "Hãy trả lại thị giác và thính giác của tôi nữa."

      " tham lam, Tiến sĩ ạ, tham lam quá. Luôn luôn và mãi mãi ông chẳng bao giờ..."

      "Ông mang tôi tới nơi lạ lùng này, thành phố đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử Trái Đất. Song tôi lại thể nhìn hoặc nghe gì được. Nếu ông từng dõi theo cuộc đời tôi, ông biết tôi lúc nào cũng bị lèo lái bởi khao khát tri thức, bởi trí tò mò sao thỏa mãn được mà. Xin làm ơn. Hãy cho tôi được nhìn thấy nơi này, để tôi có thể ghi nhớ lấy nó bất kể thời gian nào."

      Marethyu chồm tới trước, tựa ngón trỏ và ngón út vào hai mắt Dee, ấn . Dee cảm thấy đau tức chút, nhát đâm nhức nhối lan khắp vùng xương sọ, sau đó Thần Chết nhấc bàn tay ra, Dee mở choàng mắt. Bóng tối biến mất và mọi thứ đều có đường nét sắc sảo. có thể nhìn thấy được rồi. Ngẩng lên nhìn Marethyu. Nửa dưới khuôn mặt kia bị che khuất trong chiếc khăn quàng dày, phía đôi mắt sáng màu xanh lơ chằm chặp nhìn tay Pháp sư với vẻ gì đó vừa tò mò vừa vui thích. "Thỏa mãn chưa, ông Tiến sĩ?"

      Dee cau mày. "Tôi gặp ông rồi", chậm rãi . "Tôi thấy ông gần như rất quen."

      "Chúng ta gặp nhau nhiều lần rồi mà. Đơn giản ông biết đó chính là tôi thôi. Tôi là khuôn mặt trong tấm gương, tiếng trong bóng tối, dáng dấp trong màn đêm. Tôi là tác giả của những mảnh ghi chú ký tên, và sau này là những bức thư điện tử nặc danh, mà ông từng nhận được. Tôi là tiếng trong máy trả lời tự động của ông, là những tin nhắn tồi tệ trong điện thoại của ông."

      Dee nhìn chằm chằm vào hình dáng ấy đầy sợ hãi. "Tôi tưởng đó là các chủ nhân Elder của tôi với tôi."

      "Đôi khi. Chứ phải luôn luôn."

      "Nhưng ông liên đới với họ sao?"

      "Tôi trải qua nhiều thiên niên kỷ gây cản trở cho họ."

      "Ông điều khiển tôi", Dee buộc tội ông ta.

      "Ồ, thôi nào, đừng có vẻ sốc thế chứ. Ông trải qua cả đời điều khiển người khác còn gì."

      Dee từ từ đứng dậy. vẫn còn già cỗi lắm. đoán thân xác mình có khả năng là thân xác của người tám mươi tuổi, nhưng thị giác và thính giác lại là của chàng thanh niên. trèo ra khỏi chiếc vimana, nhìn quanh quất.

      Họ đứng bệ phẳng rộng gần đỉnh ngọn tháp pha lê sứt sẹo. Mặt đất rải rác những gì còn sót lại của vũ khí, của nhũng mảnh áo giáp, và những cục đá vương vãi dính đầy thứ chất lỏng màu đen và xanh lá, nhưng có xác chết nào.

      Marethyu sải chân bước về phía ngưỡng cửa trong ngọn tháp, tấm áo choàng đen có mũ trùm phấp phới đằng sau. Bộ khung và lớp đá chung quanh cánh cửa ra vào bị sứt mẻ, mặt đất trơn trượt vì những thứ chất lỏng lính dính màu xanh lá và đen. Có những vết loang của gì đó như máu người lung tung mặt đất và bắn tóe mấy vách tường pha lê trắng nuốt bị rách toạc.

      "Ở đây xảy ra chuyện gì?", Dee hỏi.

      " vụ đánh nhau. ra là cuộc tàn sát. Mới đây thôi." Giọng Marethyu hạ xuống thành lời thào khàn khàn. "Đừng trượt chân đấy", ông ta ngoái lại lớn. "Đường dài lắm."

      Dee cúi gập người lượm lên thứ mà nghĩ là ngón giáo gãy. Đầu giáo văng mất trông như bị lạng đứt gọn. Dùng đoạn gỗ làm gậy đường, bám theo Thần Chết băng qua cửa vào căn phòng nho hình tròn. Phòng ốc trống trơn. "Ông đâu rồi?", tay Pháp sư hỏi, giọng vang dội khi nhìn quanh. để ý thấy có nhiều máu mặt sàn, và khi dí ngón chân vào đó, chất lỏng nhòe ra. Máu còn tươi.

      " này". Câu trả lời phát ra từ dãy cầu thang nằm khuất tầm mắt.

      "Ở đâu?"

      "Đây này!". Dee lần theo thanh giọng của Marethyu, tìm thấy cầu thang. chống đứng ngọn giáo gãy nấc thang đầu tiên, ngước nhìn vào vùng bóng tối u ám. "Chúng ta đâu?", gọi lớn.

      "Lên."

      Tay Pháp sư bước lên nấc thang. "Ở đâu? Tại sao?"

      Gương mặt Marethyu xuất bên Dee, mặc dù miệng ông ta bị che khuất, Dee vẫn biết ông ta mỉm cười. "Tại sao à, ông Tiến sĩ, chúng ta đến gặp Pháp sư Abraham. Tất nhiên là ông biết cái tên ấy mà, phải ?"

      Miệng mồm tay Pháp sư há ra ngậm lại đầy vẻ kinh ngạc.

      "Tôi thấy ông rồi nhé". Đôi mắt màu xanh lơ của Thần Chết nhăn nheo. "Ông ấy muốn lấy lại cuốn sách của mình đấy."




      CHƯƠNG MƯỜI CHÍN


      Gian phòng rộng mênh mông.

      Sophie Newman ngồi chiếc giường còn lớn hơn cả căn phòng của bé trong nhà Dì Agnes ở San Francisco. Thực ra, bé nghĩ có thể nó lớn hơn toàn bộ tầng cùng của căn nhà ấy nữa kìa. bé chắc chắn rằng gian phòng này được đặc biệt chuẩn bị dành cho bé. Mọi thứ từ bồn tắm chìm to tướng tới tủ quần áo sâu có thể bước vào được, tới nền đá lát dưới sàn đều hoặc là kim loại bạc, bọc bạc hoặc đánh bóng bằng bạc. Thậm chí khung giường cũng được đúc từ khối kim loại ròng. Có ba bức tường được đánh bóng sáng lấp lóa, bức thứ tư bằng thủy tinh trượt mở vào khoảng sân trong rộng lớn. chiếc khung bạc được trang trí công phu nằm mặt bàn ngủ bằng bạc, lưu giữ trong những tấm hình ưa thích nhất của bé, bức ảnh chụp nhanh toàn bộ gia đình nhà Newman đứng trong tàn tích Machu Picchu cao tít rặng núi Peruvian. Mọi người đều cười hể hả, bởi vì Josh vừa giẫm vào đống phân lạc đà bướu, bắn vào cả giày vớ của cậu.

      Thậm chí nhìn, bé cũng biết phòng của Josh cũng được trang trí và trang bị toàn vàng ròng.

      Nhưng điều thuyết phục bé rằng gian phòng này được chuẩn bị trước cho bé là trần nhà. Nó được sơn màu xanh đậm, lộng lẫy. Đặt lưng xuống giường, bé nhìn lên. Những ngôi sao bạc tạo thành hình chòm sao Orion, và nửa vầng trăng khổng lồ rực rỡ lấp đầy góc đối diện thẳng với giường bé.

      Mẹ sơn trần nhà giống hệt thế này trong phòng ngủ bé ở nhà Dì Agnes.

      Sophie dọc theo chiều dài gian phòng bạc, kéo mở cánh cửa đôi của tủ quần áo khổng lồ. bé há hốc miệng hết sức kinh ngạc, xếp thành hàng ngăn nắp hai thanh treo đầu cắm vào hai dãy kệ là tất cả quần áo bỏ lại ở San Francisco: quần jeans, áo khoác, đầm, đồ lót. Nhưng khi luồn ngón tay vào chiếc quần jeans, bé liền khám phá ra rằng nó cứng đơ và nhận thấy là chúng chưa được mặc lần nào. Hết thảy quần áo đều còn mới toanh, số vẫn còn nhãn đính vào đó. Bước vào tủ, giữa hai hàng thanh treo, rà quét mấy ngón tay quần áo. bé nhận ra mọi thứ: từng chiếc áo chiếc quần mua hoặc mẹ hoặc dì tặng làm quà qua suốt những năm qua đều ở đây, cũng có cả chiếc áo khoác Oakland A màu xanh lá, trắng, vàng Josh tặng bé nữa. Bất chợt bé cười thành tiếng, chắc hẳn chẳng bao giờ bé nghĩ ra được rằng hãng chuyển giao hàng hóa UPS cũng giao hàng tới tận Danu Talis.

      "Xin chào?". Có tiếng gõ nơi cửa ra vào, bé quay người lại ngay khi Isis hay đó chính là Sara, mẹ bé?, trượt mở cánh cửa, săm soi nhìn vào phòng. "Con đấy ư. Mẹ chỉ hy vọng con thấy mọi thứ đều ổn."

      "Vâng, vâng, mọi thứ đều... khó tin", Sophie , mặc dù giọng bé chẳng mấy nhiệt tình. "Con chỉ nhìn quần áo chút thôi."

      "Cha con nghĩ biết đâu việc chuyển chỗ dễ dàng hơn nếu các con có quanh mình mọi thứ đồ đạc quen thuộc."

      "Cám ơn ạ. Chỉ là hơi quá chút. Vâng", thêm, "có lẽ chút thôi."

      "Ồ, Sophie." Isis bước vào phòng. Bà ta cởi bộ giáp trắng bằng sứ và mặc sơ mi và quần vải lanh giản dị. Bàn chân xíu để trần. Sophie để ý thấy móng chân bà cũng được sơn đen hợp với màu móng tay. Trước đây bé chưa bao giờ biết mẹ mình sơn móng chân. "Ta biết biết chuyện này phải khó khăn đối với con chừng nào."

      Tràng cười của Sophie run run. bé chợt thấy tức giận. Họ mong muốn bé cứ chấp nhận tất cả chuyện này câu hỏi sao? "Trừ phi vừa mơi đây mẹ khám phá ra rằng mẹ của mình là Elder mười ngàn tuổi ở Danu Talis được đặt tên theo nữ thần Ai Cập, còn con nghĩ mẹ biết con cảm thấy thế nào đâu."

      " ra, phải ta được đặt theo tên nữ thần Ai Cập; ta chính là nữ thần Ai Cập ấy." Người phụ nữ mỉm cười, và trong chốc lát, với khóe mắt khóe miệng nhăn nhăn, trông bà ta giống hệt Sara Newman. "Nhưng ta là mẹ con, Sophie, và ta muốn con biết rằng tất cả chuyện này được thực để bảo vệ con và em trai con."

      "Tại sao?", Sophie hỏi gặng.

      Isis băng qua gian phòng, đôi chân trần để lại những vết chân ẩm mặt sàn lát bạc, bà trượt mở bức tường bằng kính dẫn ra ngoài. luồng hương thơm lạ lẫm tràn vào phòng. Nước lanh canh, và xa xa vọng lại giọng rì rầm mơ hồ của Osiris cùng tràng cười giòn của Virginia Dare. "Con có kiến thức của bà Phù thủy Endor trong người mình đúng ?", Isis hỏi.

      Sophie chậm rãi gật đầu. Khi mẹ bé còn , những hình ảnh xa lạ nhấp nháy nhảy múa ngay giới hạn tầm nhìn của bé, và Sophie biết đây phải là ký ức của mình.

      ... Isis và Osiris mình mặc giáp trắng dẫn đầu đạo quân anpu, cưỡi lưng loài thằn lằn khổng lồ, chạy ra khỏi thành phố rực cháy. thi thể nào rải rác dọc đuờng là người, nhưng rất giống gấu, và ai trong chúng được trang bị vũ khí.

      ... Isis và Osiris mình mặc y phục Ai Cập cổ, mặc dù quang cảnh là khu rừng sum suê tươi tốt chứ phải vùng sa mạc, từng hàng dài ngút mắt những nô lệ người kéo lê từng phiến đá về phía khối kim tự tháp xây dang dở.

      ... Isis và Osiris mình mặc áo choàng trắng, đeo mặt nạ trắng đứng trong phòng thí nghiệm ánh sáng lập lòe quan sát các sinh vật giống như loài chuột khổng lồ mình trụi lủi bò lúc nhúc trong những chiếc chum tròn chứa chất lỏng màu hồng hồng sền sệt.

      Isis mỉm cười, môi ngậm chặt. "Và ta nghĩ tốt hơn hết là phải cảnh báo với con rằng Phù thủy Zephaniah chưa bao giờ là bạn bè của chúng ta, vì thế chắc chắn con biết được những khó ưa về chúng ta. Nhưng hãy nhớ, những gì con trải qua nhớ lại tất cả là cách hiểu của bà Phù thủy. nhất thiết đó là . Mỗi câu chuyện đều có hai mặt". Đôi mắt người phụ nữ nhắm lại và thoáng mùi hương quế rỉ vào phòng. "Đôi khi tất cả đều cần chút phối cảnh."

      Sophie rùng mình khi những ký ức mới đổ ào vào và xoáy tít khắp tâm trí bé.

      ... Isis và Osiris mình mặc giáp trắng dẫn đầu đạo quân anpu, cưỡi lưng loài thằn lằn khổng lồ, bảo vệ ngôi làng tràn ngập những người giống như gấu có hình dáng nhắn chống lại quân đội to lớn gồm lũ quỷ sứ trông giống thằn lằn nước dãi nhễu nhão.

      ... Isis và Osiris mình mặc y phục cổ Ai Cập quan sát từng hàng dài những người ca hát, cười vang khi họ tháo dỡ khối kim tự tháp và ném đá xuống biển.

      ... Isis và Osiris mình mặc áo choàng trắng, đeo mặt nạ trắng đứng trong phòng thí nghiệm ánh sáng lập lòe quan sát các sinh vật giống như loài chuột khổng lồ mình trụi lủi bò lúc nhúc trong những chiếc chum tròn chứa chất lỏng màu hồng hồng sền sệt. Hai vợ chồng nhàng giúp từng sinh vật ra khỏi chum, quấn chúng trong lá bạc và mang chúng qua cái giường. Phía giường, những ô cửa sổ hẹp hình chữ nhật cho thấy thế giới nước ở đó các sinh vật giống chuột này nhào xuống và bơi lội. Xa xa loáng thoáng thành phố trắng toát rộng bao la.

      Isis choàng mở đôi mắt màu xanh lơ. "Hãy thong thả kiểm tra kỹ vùng ký ức của con , ký ức của Zephaniah và cân nhắc xem những gì ta với con có phải là . Trong ngôi nhà này, thời điểm này, cặp song sinh huyền thoại có ít bạn bè tình lắm."

      Những khuôn mặt, số là người, số khác là súc vật, và chợt thấp thoáng vài con là chuyển tiếp giữa cả hai thứ, Sophie biết nhìn thấy kẻ thù của mình và Isis .

      "Danu Talis được thống trị bởi các Elder và hậu duệ của các Elder Vĩ đại. Trong triều đình có nhiều phe cánh cố gắng giết chết hoặc kiểm soát con." Isis bước đến, áp hai bàn tay lên mặt Sophie.

      cố quay , nhưng người phụ nữ kia giữ quá chặt.

      "Mọi thứ chúng ta có đều được dành để bảo vệ cả hai đứa con". Người phụ nữ nhanh nhẹn chồm tới hôn vào trán Sophie, níu lại và ôm lấy mẹ mình. Cảm giác gai gai của mùi quế khô dày đặc, đọng lại nơi cuống họng bé. "Thôi thay quần áo , rồi đến ăn. Cha con và mẹ trả lời mọi câu hỏi của tụi con, mẹ hứa đấy."

      "Mọi câu hỏi của tụi con?", Sophie hỏi.

      "Mọi thứ. Thời của những bí mật qua rồi."




      CHƯƠNG HAI MƯƠI


      "Đường hầm này chạy dưới sân nhà tù", bóng ma của Juan Manuel de Ayala . "Nó nối với đường hầm khác dẫn đến tháp nước. Có bậc thang dẫn hai người lên phía ."

      quả banh năng lượng màu trắng xíu do Niccolò Machiavelli tạo ra soi sáng đường hầm chật hẹp thấp chủm, làm ô uế bầu khí bằng mùi ẩm mốc của rắn. Các bức vách biến màu được phủ chất nhờn dinh dính dày cộp, nước từ trần liên miên ngớt. "Ông bạn, cái thứ này làm hỏng đôi giày bốt của tôi mất." Tiếng của Billy vang bật ra khỏi mấy bức vách.

      Machiavelli quay lại giương đôi mắt to nhìn chằm chặp vào gã. Trái banh năng lượng bằng nước kêu xì xì phía đầu y.

      "Cái gì? Đây là đôi ủng ưa thích của tôi đấy!"

      Machiavelli lắc đầu thất vọng. "Cố bám sát nhé", y khẽ.

      "Chúng ta bám theo con ma xuống đường hầm nằm dưới nhà tù". Billy the Kid túm ống tay áo Machiavelli. "Làm thế nào mà chúng ta lại chịu tin vào ông ta... à... nó thế? Đây có thể là cái bẫy."

      " bắt đầu nghe hoang tưởng rồi nhỉ", Machiavelli vừa , vừa liếc xéo sang chàng bất tử người Mỹ. Nước có màu xanh lục bắn tóe lên mặt gã và chảy cong theo hai bên gò má như những giọt nước mắt màu xanh lục bảo.

      Billy nháy mắt. "Chứng hoang tưởng. Để tôi suy nghĩ về vụ này chút coi. Chúng ta chỉ là hai con người hòn đảo đầy lũ quỷ sứ và các Elder. Vậy vâng, tôi cảm thấy có chút hoang tưởng đấy. Ông bao giờ xem Star Trek chưa?", gã chợt hỏi. "Bộ phim gốc ấy."

      Machiavelli nghiêng đầu sang bên. "Tôi có giống như người xem Star Trek ?"

      "Khó lắm. Ông bao giờ nghĩ ra đâu, nhưng Diều Hâu Đen là tay hâm mộ Star Trek thứ thiệt đấy. Có đủ đồng phục và các thứ."

      "Billy, tôi điều hành trong những tổ chức dịch vụ bí mật tinh vi nhất thế giới. Tôi giờ cho Star Trek". Y dừng lại chút rồi gật đầu, "tôi hâm mộ Star Wars hơn. Sao hỏi vậy?"

      " khi thuyền trưởng Kirk và ngài Spork , ông biết họ là ai mà, phải ?"

      Machiavelli thở dài. "Tôi từng sống trong thế kỷ hai mươi, Billy ạ. Tôi biết họ là ai chứ."

      "Tốt, khi họ rọi ánh sáng xuống hành tinh, thường là Tiến sĩ McCoy mà đôi khi là Scotty bố trí"

      "Aspetta", Machiavelli bắt đầu bằng tiếng Ý. "Chờ chút. Vậy là thuyền trưởng và ngài Spock, lại ông ta là gì?"

      "Thần Lửa."

      "Cấp bậc của ông ta ấy?", Machiavelli gắt.

      "Sĩ quan tối cao"

      "Vậy là, thuyền trưởng, sĩ quan tối cao và máy trưởng của con tàu và thỉnh thoảng là viên kỹ sư tất cả bọn họ chiếu rọi ánh sáng xuống hành tinh. Cùng nhau. Toàn bộ quân số đầy đủ của nhóm sĩ quan cao cấp hả?"

      Billy gật đầu.

      "Ai chi huy con tàu?"

      "Tôi biết. Các sĩ quan cấp dưới, tôi đoán thế."

      "Nếu họ làm việc cho tôi, tôi đưa họ ra tòa án quân rồi. Nghe có vẻ như vụ thiếu sót bổn phận rành rành ra đó."

      "Tôi biết. Tôi biết. Bản thân tôi luôn nghĩ như vậy kỳ quặc. Nhưng đó phải là vấn đề."

      "Chứ vấn đề là gì?"

      "Thường có chàng mặc áo sơ mi đỏ kèm với họ. Luôn luôn là tay thủy thủ mà trước đó ông chưa hề nhìn thấy bao giờ. Và ngay khi ông nhìn thấy chiếc áo sơ mi đỏ, ông biết ta chết."

      "Chuyện này dẫn đến đâu?", Machiavelli hỏi.

      Billy chồm tới. "Bộ ông thấy...". Ánh sáng nhấp nhô ném đôi mắt lấp lánh của gã vào vùng tối. "Chúng ta là những chiếc áo sơ mi đỏ ấy". Gã chĩa ngón tay cái lên đầu. "Các Elder kia sống sót; họ luôn thế. Có lẽ phần lớn lũ quỷ sứ cũng sống sót. Dee và Dare rút lui. Cuối cùng chúng ta là những kẻ bị ăn thịt."

      Tay người Ý thở dài. "Suốt vương triều Napoleon, tiện thể phải đây là vương triều tôi rất thích, phát sinh ra thuật ngữ người ôm pháo", y . "Tôi e rằng đúng đấy."

      "Tôi nghĩ mình thích thuật ngữ sơ mi đỏ hơn," Billy khẽ.

      "Ê!" miếng kim loại cong cong độc địa quấn quanh cổ họng chàng bất tử người Mỹ và gương mặt nước da màu đồng, với cái mũi nhọn, lùm lùm trong vùng tối, hàm răng trắng tương phản với cặp môi mỏng. "William Bonney, có biết bao nhiêu lần đáng lẽ ra tôi có thể giết chết ? trở nên ủy mị sướt mướt rồi đấy."

      "Diều Hâu Đen", Billy thều thào. " làm tôi hoảng hoảng đến chết khiếp!"

      " bầy trâu chạy tán loạn còn gây ra ít tiếng ồn hơn mà lại biết điều hơn."

      Billy quay lại, gạt cái rìu của Diều Hâu Đen qua bên. "Ồ, tuyệt khi gặp , bạn cũ ạ."

      "Mừng khi gặp ", Diều Hâu Đen gật đầu với Machiavelli. "Cũng mừng khi gặp ông, ông người Ý."

      "Chúng tôi cả người khi thấy còn sống", Machiavelli . "Cứ sợ có gì xấu nhất xảy ra."

      "Suýt tí nữa. Bọn nhân ngư..."

      "Nữ thần Biển", Billy xen ngang.

      Diều Hâu Đen trừng mắt. "Xin lỗi, bọn Nữ thần Biển làm ngập thuyền tôi, tôi vừa trườn mình lên bãi biển, vào cái hang thứ khổng lồ mình người chân bạch tuộc tấn công tôi."

      "Nereus đấy", Machiavelli . "Lão Già Biển. Tôi ngạc nhiên khi thoát được."

      Diều Hâu Đen ngây người nhìn y, ánh sáng lấp lánh nước da màu đồng.

      "Mà còn sống, ý tôi là vậy", Machiavelli . "Nereus là trong những nhân vật chết người nhất trong các Elder."

      "Vậy à, bây giờ lão ta ràng là chết ngắc rồi". chàng chiến binh bất tử gõ gõ chiếc rìu của người da đỏ vào lòng bàn tay mình và nháy mắt với Billy. "Đôi khi sơ mi đỏ cũng sống sót để chiến đấu vào ngày khác chứ."




      CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT


      Bastet lấy móng vuốt dài thượt sắc như dao cạo của mình đẩy thứ gì đó trông giống như cái răng vuông vức màu trắng vào bờ cỏ mềm mượt nơi con đường tách khỏi Cầu Cổng Vàng uốn rẽ về tay phải đến Vista Point. "Cho chúng ăn ", mụ ra lệnh.

      Quetzalcoatl ngây người nhìn mụ. "Bằng cái gì?"

      Bastet chụp bàn tay phải của Rắn Lông, kéo giật chiếc găng tay ra và ấn móng tay mụ vào đầu ngón trỏ của lão. Thứ máu đen đỏ sền sệt từ vết thương ứa ra. Bastet véo mạnh.

      "Úi, đau!"

      "Đừng như em bé thế chứ. Chỉ là giọt thôi mà. Ông từng nhìn thấy đủ máu me trong thời của mình rồi mà, tôi cược đấy."

      "Đúng, nhưng của tôi chỉ có chút xíu thôi."

      Máu rơi xuống kêu xì xì xuyên qua màn sương uốn vặn và bắn tóe vào lỗ, tràn qua cái răng trắng, ngay lập lức cái răng bắt đầu sôi réo lên và phun phì phì như pháo hoa.

      "Cho chúng ăn chứ. giọt đủ."

      "Tại sao bà được cấy chúng, còn tôi phải cho chúng ăn?"

      "Bởi vì chúng là răng Rồng của tôi chứ sao", Bastet gắt. Mụ ta sải bước dọc theo bờ cỏ ẩm ướt mềm mượt, lấy gót giày cao nhọn hoắc tạo thêm mấy cái lỗ nữa, rồi thả vào mỗi lỗ cái răng.

      "Bà có bao nhiêu cái?"

      "Ba mươi hai. Vì thế tôi cần ba mươi hai giọt máu."

      "Thế gần cả đống rồi còn gì!"

      Khi trồng xong hết mấy cái răng, Bastet quay trở lại xe, quan sát Quetzaleoatl miễn cưỡng di chuyển từ cái răng này tới cái răng khác, cho mỗi cái ăn giọt máu rỉ ra từ ngón tay trỏ của lão. Được nửa chừng, lão dừng lại và đổi tay, dùng răng cắn thủng lỗ nơi ngón trỏ tay bên kia. Khi lão làm xong, ba mươi hai đốm pháo hoa phun phì phì bắn ra những tia lửa kêu vo vo theo đường gần như thẳng tắp dọc theo bên đường. Lão đứng lát, mút hai ngón tay trỏ, rồi thọc cả hai tay vào túi, vội vã đến chiếc xe đen chiếu sáng mờ mờ.

      "Bây giờ tới cái gì?", lão hỏi.

      "Cho nó ít phút. Hãy để nó tự nhiên làm việc của mình." Mụ mỉm cười. "Đây là những chiếc răng Rồng. Chúng mọc từ con Spartoi, Chiến binh Rồng. Chúng là những chiến binh mặt đất, và như nhiều giống loài mới sinh khác, chúng được lập trình để vâng lời người đầu tiên chúng nhìn thấy khi vừa nhô lên khỏi đất. "Bastet mỉm cười, hàm răng mụ ta trắng lóa trong vùng tối u ám. "Bây giờ dọc theo hàng . Hãy bảo đảm là chúng nhìn thấy ông. Rồi hãy sai chúng qua cầu mà vào thành phố."

      "Nhưng làm thế nào chúng ta để cho Flamel và những kẻ tháp tùng biết là chúng đến?"

      "Tôi lo vụ đó." Bastet lắc đầu. "Quả ông nghĩ chuyện này chưa thông, phải nào? Ông làm được gì khi có tôi kia chứ?"

      "Gửi thông điệp hả?", lão gợi ý.

      "Chính xác. Loại thông điệp gì nào? Tôi tưởng tượng ông vẫn sử dụng mấy con rắn với mấy con chim làm người đưa tin cho ông chắc?"

      Quetzalcoatl thò tay vào túi, đưa ra chiếc điện thoại di động. "Có vài tên Ba Bị trong thành phố ngay lúc này theo dõi bọn họ", lão , gương mặt lộ chút cảm xúc. "Bà tìm thấy số bảng gọi nhanh. Bà biết cách sử dụng điện thoại di động mà, đúng thế chứ?"

      "Mấy móng tay dài thượt của Bastet nạo quẹt từng đường rãnh mặt sau của chiếc điện thoại bằng nhựa khi mụ cuộn trình đơn xuống tìm số gọi nhanh. Cuộc gọi của mụ được trả lời ngay khi tiếng chuông đầu tiên reo lên, mụ nhận ra tiếng thào dịu dàng đặc biệt của các sinh vật được biết đến là Torbalan, ông Ba Bị.

      "Các người phải quan sát kỹ bốn người. Đây là những gì ta muốn các người thi hành..."

      Hai thanh kiếm xuất trong tay Niten thậm chí còn trước cả khi hình dáng lù lù kia lặng lẽ bước ra khỏi màn sương mù. Prometheus di chuyển đến đứng trước mặt Nicholas và Perenelle, trong khi người bất tử Nhật Bản chìm mình vào bóng đêm.

      Hình dáng bị che phủ trong sương mù trông như chàng thanh niên. ta mặc chiếc quần trận màu xanh lá mòn sờn, đôi giày bốt đế dày dành cho người lái mô tô dây cột với chiếc áo khoác có lẽ trước kia từng có màu xanh lá nhưng bây giờ đầy những vệt sọc vằn vện và dơ bẩn tả nổi. Cái đầu của người trẻ tuổi cạo trọc để lại dải tóc chừng ba phân kéo dài từ tai bên này tới tai bên kia. Da ta thô cứng, hai mắt đằng sau cặp kính râm phản chiếu đầy những vết trầy xước. ta đeo cái ba lô bằng da thuộc có thêu trang trí khoác qua vai phải. Cái túi khẽ lay động và đập từng nhịp chầm chậm, như thể bên trong có cả ổ rắn.

      "Ông muốn gì, Torbalan?", Perenelle hỏi.

      Hình dáng kia thò tay vào túi áo khoác, tức ngọn katana của Niten bắn ra khỏi vùng tối, nằm thẳng bẹt ngang qua chiếc ba lô. "Cử động rất chậm thôi", người bất tử Nhật Bản ra chỉ thị. "Nếu tôi thấy có bất cứ thứ gì thậm chí chỉ mơ hồ giống như vũ khí, tôi xẻ nhát cho cái ba lô này mở hoác ra ngay đấy." Thanh đoản kiếm thứ hai vọt ra tựa lên vai người trẻ tuổi. "Sau đó tôi lấy đầu . Và muốn thế đâu, phải nào?"

      Hết sức cẩn thận, Torbalan lấy điện thoại di động ra khỏi túi áo khoác, ném cho Prometheus. Người đàn ông cao lớn chụp lấy từ , liếc mắt vào màn hình, rồi giao lại cho Perenelle.

      "Mà chúng ta có nhiệm vụ phải làm gì với thứ này kia chứ?", bà vừa hỏi, vừa nhìn từ Torbalan sang Nicholas.

      Chiếc điện thoại bắt đầu líu lo khúc nhạc Giai điệu Looney.

      "Trả lời chứ?", Nicholas nhắc.

      Perenelle bấm nút Trả lời và áp điện thoại lên tai. Bà chẳng chẳng rằng.

      Giọng ở đầu điện thoại bên kia là của phụ nữ. Trầm và khàn, loáng thoáng kiểu trọng thể định được, được bằng ngôn ngữ cổ xưa lâu đời từ trước khi có Ai Cập. "Tôi phân vân chắc là ai trong hai chiến binh kia nhận cuộc gọi này. Hẳn họ muốn rảnh tay để sử dụng vũ khí của họ chăng. Tôi biết Nhà Giả kim mặn mà gì lắm với công nghệ này, vì thế tôi có thể hình dung rằng mình chuyện với Nữ Phù thủy, Perenelle Delamere Flamel."

      "Rất ấn tượng", Perenelle .

      "Tôi là Bastet đây."

      Perenelle quay sang Nicholas, cử động môi thành tên của sinh vật kia, rồi vào điện thoại. "Bà trở lại."

      " ra tôi có bao giờ khỏi đâu". Giọng cười khúc khích của Elder chuyển thành tiếng rừ rừ trầm rền. "Kết thúc đến đây rồi. Bà chiến đấu giỏi lắm, nhiều người cho là dũng cảm, nhưng bây giờ tất nhiên ngoại trừ cái chết chỉ còn chút việc phải làm thôi."

      "Chúng tôi buông tay mà chiến đấu đâu."

      "Tôi mong là ít hơn thế. Nhưng hậu quả cũng giống nhau cả: các người vẫn phải chết."

      "Sớm hay muộn gì hết thảy chúng ta đều phải chết mà, Elder. Thậm chí cả bà cũng thế thôi."

      "Tôi nghĩ thế đâu."

      "Bà chịu nhiều phiền toái khi chuyện với tôi", Perenelle . "Muốn gì cứ ra , để tôi còn đuổi người đưa tin của... " Ánh mắt bà lóe qua tên Ba Bị. "... của bà cho rồi. Tên này trông gần giống như người ấy nhỉ. Cặp kính có vẻ đẹp đấy."

      "Tôi bảo đảm các người phải là sinh vật của tôi đâu. Tôi có vị giác tốt hơn kia. Tuy nhiên, tôi vừa cho vài cái răng Rồng của mình ăn, Nữ Phù thủy ạ và các người biết điều đó có nghĩa là gì. Ngay lúc này đây chúng tụ tập cầu cổng Vàng rồi. Spartoi đến đấy." Bastet bắt đầu phá ra cười, sau đó đường dây kêu lích kích và tắt ngấm.

      Ngay lập tức Perenelle bấm vào phím Gọi và chiếc điện thoại quay lại số cuối cùng vừa nhận. Cuộc gọi được trả lời ngay hồi chuông thứ nhất bằng giọng hơi ngạc nhiên của Bastet. "A lô?"

      "Khi nào tất cả mọi chuyện này kết thúc, Elder, tôi đến tìm bà. Và nếu cá nhân tôi thể làm việc đó, tôi phái thứ gì đó truy lùng bà cho bằng được. Tôi là con thứ bảy của người con thứ bảy, và được chính Medea huấn luyện đấy" Luồng điện trắng tinh của Nữ Phù thủy tạo thành chiếc găng óng ánh quanh bàn tay bà và chảy tràn qua cả chiếc điện thoại.

      "Bà đừng có mà đe dọa tôi", Bastet mới vừa , rồi chợt tiếng kêu thét đau đớn nghe như vang lên từ ống nghe và cuộc chuyện cắt cụt lủn.

      "Mình làm gì vậy?", Nicholas hỏi.

      Perenelle nhún vai. "Có lẽ chiếc điện thoại tan chảy trong tay mụ ta mất rồi". Bà quăng trả lại chiếc điện thoại cho tên Ba Bị rút lui ngay lập tức vào bóng đêm. “Con Spartoi qua cầu cổng Vàng, theo hướng này."

      "Kiếm sĩ và tôi giữ cây cầu", Prometheus . "Chúng tôi cố dành thời gian cho hai người nhiều hết sức nhưng nhanh lên. Hai ông bà biết con Spartoi ra sao rồi đấy."

      Nước mắt ứa lấp lánh nơi mắt, Perenelle gật đầu.

      "Mấy con đến?", Niten hỏi.

      "Ba mươi hai chiến binh chết người nhất được biết tới thế giới." Bà nhìn Niten. "Và phải trông quá vui vẻ đến thế đâu!"




      CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI


      Kích thước của cây Yggdrasill gần như vượt ngoài nhận thức thường tình.

      Lớn thể tưởng, cao thể lường, nó kéo từ mặt đất lên tới trời chỉ bằng duy nhất thân cột đồ sộ. Rễ nó cắm xuống đất, sâu vào tận lõi quả đất. Toàn bộ hệ sinh thái phát triển tốt tươi mặt ngoài của cái cây to lớn mênh mông này; chim chóc và côn trùng, loài thú có vú và thằn lằn họp thành từng đàn sống khắp cành cây, tán lá. Những loài sống đọt cây trong những đám mây vĩnh viễn tồn tại chẳng bao giờ nhìn thấy loài sống gần rễ, và loài nào trong số này biết đến thế giới trong vùng đất tăm tối bên dưới cây, nơi mà môi trường khác nữa tồn tại rất phồn vinh, các sinh vật màu xanh xám khó nhìn thấy uốn éo khắp những đường hầm khổng lồ do rễ cây để lại. Từng thế hệ kéo dài đến bất tận sống và chết và cả trong cây Yggdrasill.

      Ruột cây rỗng, và bên trong thân cây sinh sôi nẩy nở thành phố Wakah-Chan, trong những kỳ quan giấu của Danu Talis.

      Joan Arc để Saint-Germain chuyện với Shakespeare và Palamedes, thả bước bên cạnh Scathach. khoác vào cánh tay bạn mình. Đôi mắt xám màu đá của bất tử người Pháp nhảy nhót đầy phấn khích, luồng điện mùi hoa oải hương thoáng chút chướng khí rỉ ra khỏi người kết thành đám mây vô hình. "Chúng ta có nhiều cuộc phiêu lưu tuyệt vời qua biết bao thế kỷ", bằng tiếng .

      " có như thế", Bóng Tối đồng ý.

      "Và chúng ta từng nhìn thấy nhiều kỳ quan."

      Scathach lại gật đầu.

      "Nhưng trong tất cả các cuộc du hành của mình, trước nay bao giờ nhìn thấy được thứ gì như thế này chưa?", Joan hỏi.

      " ra thấy rồi. Đây là cây Yggdrasill thứ hai tôi được nhìn thấy trong tuần lễ này. Có đúng hơn cây họ hàng xa của cây nguyên thủy này ở vùng chính bắc San Francisco. Cây đó to lớn lắm, nhưng có gì sánh được như thế này. Dee phá hủy nó mất rồi", thêm với vẻ cay đắng.

      Hai người phụ nữ thả bộ dọc theo cành cây rộng ít nhất có đến mười tám mét. Cành cây này vừa là đường vừa là cầu, vươn xa ra mà cần đỡ nâng, từ bên này qua bên kia của cây Yggdrasill, xa đến nỗi biến mất trong màn sương màu xanh lục xoáy vặn uốn éo khắp bên trong cây. Những tòa nhà tầng, hai tầng nằm rải rác dọc chiều dài cành cây. Những người đàn ông và phụ nữ mảnh mai, da màu sẫm dọn trái cây và các thức uống nhiều màu sắc ra những quầy hàng có mái che sáng sủa phía trước các tòa nhà.

      " có nghĩ là họ sống ở đây, cây cầu này ?", Joan hỏi.

      "Trông có vẻ chắc là thế", Bóng Tối . "Tôi thắc mắc biết có bao nhiêu người lăn khỏi giường vào buổi sáng, bước ra cửa sau nhà và rơi tuột khỏi bên đó." hất đầu về phía đằng sau những ngôi nhà nho được xây dựng ngay bờ rìa cành cây. Phía bên kia, chẳng có gì ngoài quãng rơi thẳng đứng.

      " thể tin là nghĩ được điều đó." Joan dừng lại và chợt cười toe, nhận ra là Scatty đùa cách rất hiếm hoi. Mấy ngôi nhà đó làm gì có cửa sau. "Rất hài hước."

      "Cám ơn."

      "Tôi mỉa mai đấy."

      "Biết mà."

      Người bất tử nghển cổ nhìn lên phía . Phần rỗng mênh mông của thân cây biến mất vào những đám mây nhuốm màu ngọc lục bảo xa tít phía . Khoảng gian đầu đầy những nhánh cây đan chéo nhau nối bên này qua bên kia cây, thân cây lốm đốm vô số những khối u phồng nhô lên. Ánh sáng lấp lánh quanh những khối u này, nhưng chỉ khi lên tới bờ rìa của nhánh, trông xuống, và nhìn sát vào khối, mới nhận ra mình nhìn vào những chỗ trú gắn vào bên hông Yggdrasill. Xa tít bên dưới, trong vùng tối u ám của buổi đầu hôm, thân cây bắn ra hàng ngàn ánh lửa.

      "Cẩn thận!", Scathach chụp lấy thắt lưng của Joan khi ta nhoài người chồm ra xa. "Chúng ta xa thế này để bị rơi khỏi rìa cây đâu."

      Joan chỉ tay. "Có nhiều người bay kìa."

      Bóng Tối gật đầu. "Tôi để ý thấy rồi. Họ buộc mình vào những chiếc tàu lượn. Tôi tưởng tượng đây là môi trường hoàn hảo để bay lượn, với nguồn nhiệt từ bên dưới tỏa lên."

      "Và cũng để ý thấy hết thảy họ đều trông giống loài người chứ?", Joan thêm. hạ giọng, trượt sang giọng tỉnh lẻ miền đông nước Pháp, ngôn ngữ đầu tiên và Bóng Tối với nhau. " có mấy con quỷ đầu chó ở đây."

      "Tôi để ý thấy thế", Scathach đáp lại cũng bằng ngôn ngữ ấy. "Tuy nhiên, tôi ngạc nhiên đâu; Hekate luôn được xem là trong những ân nhân của loài người mà."

      Vẫn mỉm cười, tay chỉ vào mấy chiếc tàu lượn, Joan tiếp. " cũng để ý thấy Huitzilopochtli mặc bộ giáp toàn thân chứ."

      "Tôi thấy mà. Còn , có thấy các đạo quân tập hợp những cành cây phía dưới tụi mình ?", Scathach hỏi.

      "". Joan lan man bước trở lại bờ rìa cành cây to và săm soi nhìn xuống. Phía dưới cách chừng mười lăm mét, cành cây rộng tương đương, những người đàn ông và phụ nữ tụ tập thành từng hàng. ước định họ bằng con mắt của người chiến binh. "Trông như cả đại đội ấy nhỉ hai trăm năm chục, có lẽ đến ba trăm đàn ông đàn bà", khẽ khàng . "Tất cả họ đều được trang bị những vũ khí đơn giản: giáp trơn, khiên tròn, giáo mác và cung tên". Có tiếng răng rắc của da thuộc cùng đồ gỗ và nhóm tàu lượn tách ra khỏi mặt hông của cây Yggdrasill hạ xuống và gia nhập với nhóm người lính còn lại. "Hừm, và tất cả những người lái tàu lượn đều là những phụ nữ và các trẻ."

      " hơn nam giới", Scathach .

      "Đồng phục của họ hợp với mặt dưới của những chiếc tàu lượn. Xanh lơ và trắng", Joan lưu ý.

      Bóng Tối gật đầu. "Cải trang. Bất kỳ ai mặt đất nhìn lên đều dễ gì nhận ra họ nền trời."

      Joan khảo sát đội quân gần hơn khi họ đáp xuống. số có những ngọn giáo ngắn dùng để ném, nhưng hết thảy đều có hai bao đựng tên hoặc nhiều hơn cùng với ít nhất là cây cung phòng khi cần đến. Joan biết được nhờ nhiều năm chiến đấu rằng vũ khí phòng thân này dành cho trường hợp dây bắn bị đứt. Người lính đơn giản chỉ việc thả cây cung của mình ra và chụp lấy vũ khí này. "Tôi thấy có cờ xí gì cả", khẽ.

      "Có lẽ thế là bởi vì họ cần đến chúng", Scathach . "Cờ chỉ được dùng chiến trường để phân biệt bạn với thù. Hồi chiến đấu với người , vũ khí và áo giáp đều rất giống nhau, nhưng người của biết là mình phải tập trung dưới lá cờ trắng của . lá cờ trong chiến đấu như thế chỉ để dẫn đường. Tôi cược là họ có chiến đấu với bất kỳ ai người đó cũng hoàn toàn khác biệt giống loài khác, màu sắc khác, chủng loại khác". mỉm cười với bạn. "Những nguyên tắc này đơn giản hơn nhiều. Bất cứ người nào trông giống mình đều là kẻ thù của mình."

      "Vậy chắc là họ chuẩn bị chiến đấu đấy", Joan lẩm bẩm, gần như tự nhủ.

      "Tôi nghĩ họ chuẩn bị xong rồi". Đôi mắt màu xanh lá của Scathach nhảy nhót. "Chúng ta đến vừa đúng lúc diễn ra cuộc chiến."

      Joan Arc vặn cánh tay bạn. " đâu cần phải có vẻ sung sướng đến thế chứ!"

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG HAI MƯƠI BA


      Osiris và Virginia Dare đứng lên khi Sophie và Josh tiến đến gần. Cặp song sinh mặc quần jeans và áo thun mới tinh. Josh cột chiếc áo khoác Giants màu kem quanh thắt lưng, còn Sophie mặc áo len màu đen bên ngoài áo thun.

      Virginia gật đầu với Sophie và mỉm cười với Josh. " cậu trông tuyệt có vẻ gì là mệt mỏi trong cuộc phiêu lưu của mình." Ả liếc xéo sang Osiris. "Ông phải tự hào về con mình đấy. Hai đứa trải qua rất nhiều trong mấy ngày vừa qua. biến cố chắc hẳn đánh gục ít người."

      "Isis và tôi luôn rất tự hào về hai đứa con song sinh này", Osiris trả lời với giọng đều đều.

      "Đây là ngày rất dài", Sophie , đáp lại hai người lớn. bé cảm nhận có khe hở mở ra trong lồng ngực mình và nuốt xuống khó. "Con mệt rũ người."

      "Con đói ngấu", Josh .

      Sophie trợn mắt với cậu em trai. "Em lúc nào cũng đói."

      Cậu cười toe. "Em là thằng nhóc lớn mà. Thèm ăn như thế là khỏe mạnh chứ sao."

      Ngay khi cậu còn cánh cửa ra vào trượt mở ra và loạt những chiếc chuông xíu rung lên. Mọi người đều quay lại khi Isis xuất . Bà thay quần áo, mặc áo choàng trắng vải lanh đơn giản giống các nữ hoàng Ai Cập cổ đại thường mặc. dải vàng quấn đầu, cùng bộ với chiếc vòng đeo quanh bắp tay và cổ tay. Nhẫn vàng nhấp nháy từng ngón tay. Hai mặt mèo theo sau bà, những cái chuông đeo ngón chân họ khua leng keng dưới mỗi chuyển động.

      Osiris cúi gập mình, rồi quay ra nhìn cặp song sinh. "Hai đứa con nên cúi chào."

      "Cúi chào mẹ của tụi con ư?", Josh hỏi gặng. "Tại sao ạ? Trước giờ tụi con đâu có cúi chào bao giờ."

      "Đó là trước kia. Đây là bây giờ", Osiris giản dị. "Mọi thứ đều thay đổi."

      "Con cúi chào đâu. Làm thế quái dị lắm", Josh kiên quyết. Sophie gật đầu tán thành.

      Elder nhìn Virginia và há miệng định .

      Người bất tử đón gặp ánh mắt ông và giơ đứng bàn tay lên. "Thậm chí đừng nghĩ đến việc bảo tôi cúi chào nhé", ả .

      Isis băng ngang khoảng sân đến dừng lại trước mặt họ. Bà nhận đáp lễ cúi chào của Osiris bằng động tác gật đầu hết sức , rồi nhìn hai đứa từ xuống dưới. Thoáng chút nhăn mặt vì thất vọng uốn cong đôi môi bà. "Quần jeans và áo thun à? Lẽ ra các con có thể chọn trang phục gì đó phù hợp với nơi chốn và thời gian hơn chứ", bà càu nhàu. "Hãy nhớ khi các con ở cùng chúng ta trong những cuộc du hành trái đất, chúng ta luôn cố ăn mặc làm sao để bày tỏ lòng kính trọng trang phục địa phương. Có áo sơ mi và áo choàng bằng vải lanh trong tủ quần áo đấy. Ta bảo đảm các con thoải mái hơn khi mặc chúng."

      "Con thoải mái khi mặc thế này", Josh , giọng cậu cứng ngắc. Cậu nhìn chị mình. "Chị thế nào?"

      bé gật đầu. "Chị thấy được."

      khí im lặng kỳ cục trong khi Isis nhìn Osiris như thể bà ta mong ông gì đó. "Đây là tuần lễ khó khăn đối với Sophie và Josh", cuối cùng ông . "Chắc chắn hai đứa thấy thoải mái hơn khi mặc quần áo của chính mình; rốt cuộc, tại sao chính chúng ta lại chất đầy quần áo ấy vào tủ cho tụi kia chứ."

      Sophie và Josh nhìn nhau. Cả hai đứa đều nhận ra rằng trong giây phút ấy có gì đó rất trọng đại thay đổi trong mối quan hệ giữa chúng với cha mẹ mình. Chỉ tuần lễ trước, chắc hẳn hai đứa quay về phòng riêng và thay quần áo mà câu hỏi nào.

      "Chúng ta dùng bữa", Isis chắc nịch.

      "Vậy xin bà thứ lỗi", Virginia . "Tôi muốn xen vào thời khắc vui vẻ hạnh phúc của gia đình. Tôi chắc các người có nhiều việc phải làm."

      quay lại nhìn người bất tử, ánh mắt bà vẫn dõi cặp song sình, Isis xua mạnh tay. "Người hầu chuẩn bị phòng cho ở bên kia nhà", bà ta . Bà hít hơi vào nhanh. "Có nước nóng nếu muốn tắm, tôi lo liệu để đặt sẵn quần áo sạch ở đó cho ."

      "Chúng tôi cho mang thức ăn đến phòng ", Osiris thêm, bằng giọng vui vẻ hơn. Ông mỉm cười, cố làm mất chua chát trong lời và thái độ của vợ.

      Nụ cười của Virginia lạnh tanh. " cần đâu. Tôi nghĩ mình nghỉ ngơi lát. Tôi cũng có ngày ra trò rồi. Có lẽ hai ông bà cầu người của mình đừng quấy rầy tôi hơn. người hầu trong hay ngoài, thức ăn, quần áo, xin cám ơn. Tôi ổn với mấy thứ này. Chỉ cần giấc ngủ ngon thôi."

      " người hầu nào được xâm phạm giấc ngủ của ", Isis . "Nếu muốn, thậm chí chúng tôi còn có thể cử lính gác cửa để bảo đảm riêng tư cho ."

      Tràng cười lớn của Virginia nhạt dần khi ả quay người bỏ . "Ồ, chuyện đó cần đâu. Sao, làm thế còn khiến tôi nghĩ mình là tù nhân ấy chứ. Mà tôi thích ý tưởng đó chút nào."




      CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN


      Tsagaglalal di chuyển dễ dàng ngang qua đường phố hôi hám dày đặc sương mù.

      Mặc dù trời chỉ mới ngả tối, tương đối còn sớm, nhưng San Francisco gần như hoàn toàn vắng vẻ. Tình trạng mất điện đóng cửa cả thành phố yên tĩnh này. Những hồi còi an ninh đầu tiên đùng đục vang rền khắp thành phố dần nhạt khi pin cạn. Tiếng còi khẩn cấp nghe rất xa và rất , các giác quan được nâng cao của Tsagaglalal bắt được mùi cao su cháy và khí gas trong khí. có tai nạn. tai nạn trầm trọng. Có lẽ phải hơn . Các Elder Đen tối đến rất gần thành phố.

      Mọi con đường dẫn đến đường Jackson đều lên dốc; sau đó đường phố xuôi xuống và nhô lên trở lại. Bà rẽ phải ra khỏi đường Scott lên Broadway, tất cả cây cối ở đó đều nước.

      Đèn đường nơi mỗi góc phố đều tắt ngấm, đèn xe Gough nhấp nháy màu đỏ nghèn nghẹn. Vài chiếc xe vẫn cố đường, bật sáng đèn, và đó là nguồn sáng duy nhất. Van Ness, taxi và xe buýt bò rề rề trong làn ánh sáng mờ mờ phát ra từ những bóng đèn tròn và những chiếc xe tuần của Sở Cảnh sát San Francisco chậm rãi lăn xuống phố, ánh đèn gay gắt chói loa lóa. Cảnh sát dùng loa phát thanh khuyên mọi người rời khỏi đường phố, ở lại trong nhà cho tới khi sương mù tan.

      Bộ giáp của Tsagaglalal hòa hợp được với môi trường xung quanh, thay đổi màu, làm cho bà ta hầu như vô hình trong màn đêm. Bà có thể ngửi thấy mùi hôi của thịt trong khí và nhận ra luồng điện của Quetzalcoatl và của Bastet. mình Rắn Lông đủ nguy hiểm rồi, mà trở lại của nữ thần Elder quả là mối lo : như thế có nghĩa là các biến cố dần đến điểm khởi đầu. Và Bastet, cũng như Dee, hề biết ý nghĩa của tinh tế. Mụ ta cũng chẳng có gì ngoài việc khinh rẻ loài người.

      Rẽ trái lên đường Hyde, Tsagaglalal phóng về phía công viên Russian Hill. Chưa đầy tuần trước, Bastet, Morrigan và Dee dính líu vào cuộc tấn công cây Yggdrasill mới trong Vương quốc Bóng tối Mill Valley của Hekate. Trong trận chiến ngắn ngủi và cay đắng ấy, cái cây cổ xưa, mọc lên từ những hạt giống cứu được trong biến cố nhấn chìm của Danu Talis, bị John Dee phá hủy khi sử dụng thanh Excalibur. Nữ thần Ba Mặt ngã gục theo cây, và kiến thức bao la của bà ta cũng chết theo. Dee và Morrigan tiếp tục truy đuổi cặp song sinh, nhưng Bastet biến mất. Tsagaglalal biết mụ ta có ngôi nhà ở Bel Air.

      "Khi nào mọi chuyện này kết thúc", Tsagaglalal thầm với bầu khí ẩm ướt, "và nếu ta còn sống ta coi như mình có nhiệm vụ săn lùng mụ đến cùng."

      băng qua sân quần vợt ba hình dáng đầu cạo trọc ăn mặc bê bối xuất trong vùng tối ngay phía trước, những đôi bốt chiến đấu đế cao su im lặng vỉa hè khi bọn chúng đến gần. Chúng ríu ra ríu rít có vẻ phấn khích, thanh gần như quá cao nghe được, từng sợi luồng điện màu xam xám của chúng, bắn vọt ra thành những sọc vằn vện màu thâm tím, rỉ ra từ da thịt. Hai tên thậm chí còn chẳng thèm giấu cái đuôi của mình. Chúng là bọn cucubuth đường đánh chén.

      "Mình ghét bọn cucubuth", Tsagaglalal thào. "Bẩn thỉu, hôi hám, nặng mùi."

      Bà Canh Giữ rút thanh kopesh, phạt ngang người chúng gây tiếng động, bỏ mặc thân thể chúng tan rã thành bụi cát.

      Tsagaglalal biết lý do duy nhất khiến nữ thần đầu mèo trở lại thành phố này là bởi vì mụ ta muốn quanh quẩn gần chiến thắng của các Elder.

      Nhiều lần, chồng Tsagaglalal, Abraham, bảo bà rằng ông xem Bastet là trong những sinh vật nguy hiểm nhất ông từng gặp. "Tham vọng của mụ ta phá hủy thế giới này", ông ấy cảnh báo như thế.

      Tsagaglalal dừng lại chút đỉnh đồi. "Rẽ phải hay thẳng đây ta?", bà thốt ra thành tiếng, cố tìm ra đường ngắn nhất.

      Bên phải là đường Lombard, nổi tiếng vì tám khúc quanh gay gắt. Có thể rẽ ở đây, nhưng bà biết nếu tiếp tục thẳng, vẫn có thể quẹo phải Jefferson, con đường mang bà tới ngay Bến Tàu Người Câu Cá.

      "Cứ thẳng". Bà thong thả băng qua con đường cong cong.

      Bastet lúc nào cũng lắm hoài bão, lại tham lam. Cùng chồng, Amenhotep, mụ ta thống trị Danu Talis nhiều thế kỷ. Khi Quá trình Biến đổi bắt đầu có tác dụng theo cách của nó Amenhotep trước, rồi sau mới đến Bastet, chúa tể Danu Talis lui bước, trao quyền lực cho con trai, Aten. Bastet rất điên tiết: mụ trải qua nhiều thập kỷ vận động hậu trường để người con trai khác của mụ, đứa con mụ sủng ái, Anubis, được trị vì đế quốc đảo. Mụ ta có thể kiểm soát đứa con này; chứ thể kiểm soát được Aten.

      "Còn thừa chút tiền lẻ nào , ?"

      Mờ mờ trong làn khí ẩm, hai người đàn ông ló ra khỏi màn đêm, gầy gò thiếu tự nhiên, vết xăm hình mạng nhện vắt ngang qua tai, cao lớn hơn, dáng ngực nở eo thắt của vận động viên thể hình. Có thể thấy họ ngồi uể oải bức tường nơi góc đường Lombard và Hyde. Khi tới gần, bà để ý thấy gương mặt của người đàn ông to cao bầm tím và bị nhiều vết cào xước.

      "Đâu phải là đêm thích hợp để bộ thể dục", người gầy .

      "Sương thế này khỏe đâu", người cao lớn bật cười.

      "Có thể bị trượt. Có thể bị ngã. Có thể làm đau mình đấy". Người gầy nhấn mạnh từ làm đau.

      Bàn tay Tsagaglalal nắm chặt thanh kopesh, nhưng bà có thể ngửi thấy mấy tên này là người . Bà cứ bước và nhìn thấy trong ánh mắt thô bỉ của người đàn ông to cao có gì đó lóe lên thảng thốt. "Ồ , đừng lần nữa chứ", ta thều thào.

      Bờ vai phải của bà đụng vào giữa ngực người đàn ông gầy gò. Nghe kêu rắc tiếng khi ta bay vèo tuốt bên kia con dốc nghiêng nghiêng của đường Lombard. ta kêu oai oái, bắt đầu lăn xuống con đường quanh co nhất thế giới. Cẳng chân phải của bà đá vào người đàn ông to cao vừa lúc ta bò toài tránh né. Xương hông giật nảy, ta ngã giộng xuống đất đủ mạnh để bị gãy thêm cái gì đó nữa.

      Tsagaglalal cứ bước , dành cho bọn họ đến giây suy nghĩ.

      Aten phải là có thiếu sót. Bà gặp ông ta khi ông đến thăm Abraham. Chúa tể Danu Talis cao ngạo vì thế rất nguy hiểm và bốc đồng, nhưng như nhiều Elder khác, ông ta nhận ra rằng thế giới này thay đổi và nếu Danu Talis và quả , bản thân các Elder muốn tồn tại, cũng phải thay đổi. Thế giới này thuộc về giống loài mới, đặc biệt là giống người. Aten làm việc với Abraham, Prometheus, Huitzilopochtli và Hekate chuẩn bị tương lai trong đó các Elder và loài người có thể cùng nhau chung sống. Chronos cho họ thấy nhiều phiên bản khủng khiếp trong tương lai, nhưng cũng cho họ thấy nhiều điều kỳ lạ.

      Hết sức sinh động Tsagaglalal nhớ lại khả năng đặc biệt. Trong tuyến thời gian đó, nền văn minh tiên tiến thể tin nổi của con người và các Elder khám phá ra và sau đó còn vượt xa kiến thức của các Thần Đất. Họ biến mất phía bên kia hành tinh và bắt đầu chiếm đóng các thế giới chung quanh họ. Đế chế Danu Talis trải rộng chỉ hành tinh này, mà là toàn bộ dải ngân hà. Và tại trung tâm ngân hà khổng lồ đấy, đế chế chính là thành phố hình tròn Danu Talis hành tinh bé hai màu xanh lơ và xanh lá nằm nơi bờ rìa dải ngân hà.

      " thời hoàng kim", Abraham , vô thức gõ gõ lên lớp da lúc đó bắt đầu xâu dệt thành lớp vàng cứng.

      "Buồn chưa, nó chẳng bao giờ đến để rồi qua ", Chronos lùng bùng trong miệng. "Đây đơn giản là bóng dáng của những gì có thể đến."

      "Mà tại sao lại ?", Abraham hỏi.

      "Bởi vì Bastet và những kẻ như mụ ta, những người sống trong vùng quá khứ đen tối, cho phép. Bọn họ tin rằng bằng việc ban khả năng cho loài người, họ trở nên yếu ."

      "Các Elder Đen tối", Abraham lẩm bẩm.

      Đây là lần đầu tiên Tsagaglalal nghe được thuật ngữ ấy.

      chiếc bóng di chuyển ra khỏi công viên bên trái bà và băng qua đường. Cái bóng dập dờn và rũ xuống, từng giọt nước chiếu mờ mờ lớp lông thú màu đen dơ bẩn và những cái đuôi rắn dài thượt. Miệng Tsagaglalal xoắn vặn kinh tởm. Bà có cảm nhận cách này hay cách khác về chuột, nhưng mấy thứ này ràng nằm dưới kiểm soát của Elder Đen tối. Bà lội vào giữa đám đông nhung nhúc kia, bất thình lình chúng tụ lại quanh bà, bò lên bàn chân bà, cố trườn lên tới cẳng chân, nhưng có thể thấy là bám lên bộ giáp của bà được. Những hàm răng nghiến ken két phần giáp che ống chân như những chiếc móng tay cào bảng đen.

      Luồng điện của Tsagaglalal lóe lên, màu trắng sáng lóa. Nó đập từng nhịp quanh người bà thành những đường tròn đồng tâm và lũ chuột biến thành những xỉ than đen và đỏ, theo đường trôn ốc xoáy lên chìm vào đám sương mù. Thình lình sức mạnh đến bất chợt cũng phá bỏ được câu thần chú kiểm soát, và lũ sâu mọt sống sót kêu ré lên biến mất vào cống rãnh.

      ngơi sải bước, Tsagaglalal quay sang phải và tiếp tục xuống phố, hướng về phía làn nước.

      Danu Talis hẳn có thể tiếp tục thời hoàng kim của nó, nhưng tham lam của Bastet áp đảo chế ngự mọi lương tri. Và vào buổi chiều tối khủng khiếp, Anubis và đạo quân anpu thực cuộc nổi dậy và bỏ tù Aten. Chúa tể Danu Talis bị buộc tội mưu phá hoại đế quốc đảo.

      Tsagaglalal bất chợt dừng lại giữa Jefferson và ngoái đầu lui. Có mùi hôi mới trong khí. thứ cổ xưa, đáng kinh hoảng trôi giạt phía vai trái của bà. Bà quay đầu lại: nó ra khỏi cầu cổng Vàng. Bà ngửi thấy mùi men cháy khét, đất mục và máu, cùng với mùi hôi thối lầm lẫn đâu được của con Rồng.

      "Spartoi", bà , từ ngữ đó làm miệng bà cũng hôi lây.

      Bằng bản năng, bà biết đây là lý do vì sao Bastet trở lại.

      "Phải làm gì đây ta?", bà lớn tiếng.

      Nhà Flamel cần bà giúp cầm giữ lũ quỷ sứ hòn đảo, nhưng ngay tức mối đe dọa cây cầu kia còn nguy hiểm hơn. Nếu con Spartoi vào tới thành phố, có lộn xộn. Trước đây bà từng nhìn thấy tác phẩm của chúng rồi. Mỗi sinh vật giết đến hàng trăm hàng ngàn và những gì chúng ăn tròng trành trở lại thành sinh vật sống giống như thây ma trỗi dậy, với thêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ di chuyển lê lết trước khi thân xác chúng rã ra từng mảnh. Các sinh vật khốn khổ này vô hại, nhưng xuất của chúng gây bàng hoàng và hết sức khủng khiếp. Tất cả bị mất hết tinh thần.

      Với trái tim đập nặng trịch, Tsagaglalal quay trở lại phía Cầu Cổng Vàng. Có thể bà chẳng giúp đỡ gì nhà Flamel được. Lâu nay họ vẫn tự chịu trách nhiệm kia mà.




      CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM


      "Còn bao nhiêu nữa?", Dee hổn hà hổn hển.

      Người bất tử khởi đầu khá tốt, nhưng chỉ cố được vừa đúng năm mươi bậc phải dừng lại, phổi căng phồng khí, trái tim đập như búa nện.

      Giọng Marethyu vang bật ra khỏi mấy vách đá. "Tổng cộng hai trăm bốn mươi tám từ đáy tới đỉnh. Ông còn khoảng hai trăm nữa."

      "Hai trăm bốn mươi tám. trong những con số chạm tới được. Làm sao tôi ngạc nhiên chứ?"

      "Chúng ta cần phải tiếp, Tiến sĩ."

      "Còn tôi cần phải lấy lại hơi thở ", Dee hổn hển.

      "Chúng ta có thời gian đâu."

      "Hãy để tôi nghỉ chút trừ phi là ông muốn tôi tắt thở ở đây, mấy bậc thang này."

      ", Tiến sĩ, chúng ta để ông chết ngay lúc này đâu". Marethyu chìa bàn tay ra. "Để tôi giúp ông."

      "Tại sao?", Dee tựa người những bậc thang bằng pha lê bóng láng, ngước nhìn lên đôi mắt màu xanh lơ của Marethyu. "Nếu ông biết tôi là ai ông biết tôi là người thế nào, tôi làm những gì. Tại sao ông còn giúp tôi?"

      "Bởi vì hết thảy chúng ta đều phải đóng trọn vai của mình trong việc giải cứu thế giới này."

      "Ngay cả tôi ư?"

      "Đặc biệt là ông."

      Marethyu dìu Dee lên hai trăm bậc còn lại. Tay bất tử người khoác cánh tay mình qua vai người đàn ông và tựa đầu lên ngực tạo vật ấy. nghe thấy có nhịp tim đập, và khi họ trèo càng lúc càng cao hơn, dần ý thức rằng Marethyu thở dồn dập khi phải gắng sức. Ông ta thở gì cả.

      Sinh vật có đôi mắt xanh lơ cao ráo ấy phóng nhàng lên các bậc thang. Ở những chỗ vách trong veo, cho phép Dee thoáng nhận ra vùng biển xám lốm đốm trắng. Từng đợt sóng khổng lồ vỗ vào bờ biển đá, đóng khung thị trấn giữa bọt nước và bụi nước. Ngoài khơi, những tảng băng khổng lồ màu xanh lá ngả xanh lơ đâm sầm vào những vách đá nhìn thấy được. Khi họ trèo, Dee để ý thấy những bậc thang nhất định nào đó rỉ ra thứ mùi kỳ quặc hoặc lung linh những sắc màu kỳ lạ khi họ bước qua chúng. Còn những bậc khác rung lên những nốt nhạc hoặc nhiệt độ tăng lên hạ xuống đột ngột.

      "Chúng ta xuyên qua các Vương quốc Bóng tối hả?", Dee hỏi.

      "Rất sắc sảo."

      "Tôi thích thám hiểm nơi này", Dee thầm.

      ", Tiến sĩ, ông thích đâu", Marethyu chắc nịch. "Ngọn tháp này được xây dựng đỉnh của mười hai đường tuyến, trong nơi chí ít cũng có chừng ấy Vương quốc Bóng tối giao nhau. số những bậc thang này mang chúng ta vào và ra khỏi vài thế giới tệ hại nhất từng được tạo ra. Nấn ná quá lâu bậc thang, ông chẳng bao giờ biết được mình kết thúc ở đâu. Hoặc mình có thể lôi cuốn thứ gì."

      "À, nhưng hãy nghĩ đến cuộc phiêu lưu."

      "Mấy cuộc phiêu lưu đáng có."

      Dee ngước lên nhìn vào mắt Marethyu. "Và tôi hiểu ông có vài cuộc phiêu lưu loại đó?"

      "Đúng."

      "Ông bị mất bàn tay ở đâu vậy? Để tôi đoán nhé: con quỷ phàm ăn nào đó cắn nó đứt lìa và rồi Abraham chế ra cái móc câu này cho ông."

      ", Tiến sĩ. Ông sai quá rồi đấy". Marethyu phá ra cười, và trong thời điểm ấy giọng ông ta nghe rất trẻ. "Hơn nữa, tôi nghĩ nếu Abraham làm cho tôi vật thay thế, chắc hẳn tôi nhờ ông ấy làm cái gì đó có hình dáng giống bàn tay hơn chút, cái gì đó hữu dụng hơn chút chứ". Ông rà chiếc móc câu dọc theo vách pha lê và những tia lửa cầu vồng bắn ra như thác đổ khắp vách. Miếng kim loại hình bán nguyệt bắt đầu lóe sáng, ửng lên những ký hiệu bí . "Thoạt đầu tôi ghét nó lắm", ông thú .

      "Còn bây giờ?", Dee hỏi.

      "Bây giờ nó phần của tôi. Và tôi là phần của nó. Cùng nhau chúng tôi thay đổi thế giới này."

      Marethyu trèo lên bước qua hình chữ nhật hẹp nằm sàn và nhàng đặt Dee già xuống trong tư thế ngồi phần mái phẳng của ngọn tháp pha lê.

      "Từ đây chúng ta có thể nhìn thấy thế giới". Pháp sư Alưaham rời khỏi ống kính thiên văn hình trụ mập bự, di chuyển thân mình xiên xiên để bên hông quay sang Marethyu và Dee. "Đến nhìn ."

      "Cho tôi lúc, tôi xin ông đấy. Hãy để tôi bình tĩnh lại ." Tay tiến sĩ duỗi cẳng chân và tựa lưng lên hai cánh tay tê cứng. ngước nhìn lên dáng người cao ráo có mái tóc vàng hoe quấn mình trong chiếc áo choàng làm bằng vàng miếng chiếu sáng lờ mờ. "Trọn những năm dài trong đời, tôi luôn tin rằng ông là huyền thoại", thều thào. "Tôi bao giờ hình dung là ông có cả."

      "Tiến sĩ, tôi thất vọng". Đầu Abraham cử động như thể ông gật đầu rất và bật ra tràng cười xíu. "Ông biết rằng trong lõi của mọi huyền thoại đều có hạt giống mà. Ông thông đồng với lũ quỷ sứ cả đời mình đấy thôi. Ông kết giao với các sinh vật được tôn sùng như những vị thần, và chiến đấu bên cạnh những bóng ma kinh dị. Vậy mà ông lại xem tôi như huyền thoại!"

      "Mọi người ai cũng thích tin vào hai huvền thoại hết". Dee đưa tay lên. Marethyu đỡ đứng dậy.

      Họ đứng bệ phẳng hình tròn ở đỉnh ngọn tháp pha lê. ngọn gió rét buốt quất ngang mặt bệ, mang đầy muối và bụi nước biển, điểm những mảnh nước đá châm lích chích.

      " vinh hạnh khi được gặp ông". Dee bước tới, chìa bàn tay ra, nhưng Marethyu nhàng gạt xuống và lắc đầu với .

      "Pháp sư bắt tay ông đâu, Tiến sĩ."

      Abraham bước lùi khỏi thấu kính thiên văn. "Đến nhìn ."

      Công cụ ấy được làm bằng vật liệu gì trông như toàn bằng pha lê có màu kem. Bề mặt được khía. Từng dải bạc quấn quanh ống, và khi Dee săm soi nhìn vào kính mắt, phát ra nó sáng và lỏng, như thủy ngân vậy.

      "Marethyu trở về từ trong những chuyến du hành của mình, mang theo thứ này", Abraham . Giọng ông nặng nhọc, mỗi từ là nỗ lực. "Ông ấy kể cho tôi nghe mình tìm thấy ở đâu, nhưng tôi ngờ nó thuộc về Quan chấp chính hơn là Thần Đất. Các đồ tạo tác của Thần Đất có khuynh hướng gần như cục mịch trong thiết kế. Cái này có nét thanh tú nhất định."

      "Tôi thể nhìn thấy gì", Dee . "Có cần phải chỉnh tiêu cự ?"

      "Hãy nghĩ đến người", Abraham . " người ông biết . Tôi người mà ông quan tâm, nhưng tôi nhận ra rằng trong trường hợp của ông có lẽ khó đấy."

      Dee nhìn vào mặt kính.

      ... Sophie và Josh ngồi nơi cái bàn tròn thức ăn chất cao nghều. Isis và Osiris ngồi đối diện.

      rút mạnh đầu về, rồi hạ thấp xuống kính mắt lần nữa.

      ... Virginia Dare, mặc áo choàng trắng lùng thùng, đội nón rơm, qua đường phố đông đúc những người thó, da sẫm màu. Bọn anpu mắt đỏ, giáp đen theo dõi ả từ trong vùng bóng tối.

      "Phi thường ", Dee vừa , vừa ngẩng lên. "Tương tự như kính bói. Nó chỉ nhìn được những người trong Vương quốc Bóng tối này thôi hả?"

      "Nếu mặt kính được cho ăn bằng máu và cơn đau, nó cho thấy nhiều thời gian khác, nhiều gian khác", Abraham thầm. "Tôi cho nó ăn."

      "Nhưng ông có". Dee xoay người nhìn Marethyu.

      "Đôi khi", ông ta thừa nhận. vẻ buồn bã, mất mát lên đằng sau ánh nhìn của ông ta. "Có những người nhất định tôi muốn để mắt đến."

      "Chắc tôi thích thứ như thế này. Tôi có thể nghĩ đến hàng ngàn công dụng của nó."

      Marethyu lắc đầu. "Hẳn nó tiêu diệt ông mất, Tiến sĩ."

      "Tôi nghi ngờ điều đó."

      "Thỉnh thoảng, khi nhìn vào mặt kính, ông thấy có gì đó nhìn lại ông. thứ gì đó đói ngấu."

      Dee rùng mình. "Như ông , trước đây tôi từng thấy thấy bọn quỷ sứ. Và nhiều thứ chúng có thể làm cho ông từ phía bên kia của mặt kính."

      "Chúng phải lúc nào cũng ở phía bên kia mặt kính đâu", Abraham . "Đôi khi chúng xuyên qua." Pháp sư quay lại, cho người bất tử nhìn thấy cả người mình. Bên trái của khuôn mặt ông từ trán tới cằm và từ mũi tới tai là chiếc mặt nạ bằng vàng ròng. Chỉ có con mắt còn nguyên, tuy nhiên tròng trắng chuyển thành màu vàng nghệ nhàn nhạt với những đường chỉ vàng xoắn vặn khắp phần mống mắt xam xám. Hàm răng và dưới phía bên trái gương mặt là vàng ròng, bàn tay trái ông được ủ trong vật trông như chiếc găng tay vàng.

      "Quá trình Biến đổi", Dee thều thào.

      "Tôi rất cảm kích. Ít người ở vào thời của ông biết được điều đó."

      "Tôi đâu phải là người thường."

      "Tôi thấy là ông vẫn cao ngạo như bao giờ, Tiến sĩ ạ". Abraham quay trở lại với thấu kính thiên văn, áp con mắt còn lại lên vùng kính mắt.

      Đột nhiên Dee bắt gặp mình tự hỏi biết Abraham nhìn ai.

      "Sớm hay muộn gì Quá trình Biến đổi cũng làm suy đồi hết thảy chúng ta. số như bà bạn Bastet của ông bị nó làm cho thành quỷ sứ."

      "Mỗi Quá trình Biến đổi đều là độc nhất à?"

      "Đúng, riêng biệt đối với từng tính cách. Quá trình Biến đổi có thể giống nhau, nhưng có hai kết quả giống hệt nhau."

      Dee khập khiễng qua đứng bên cạnh Abraham, săm soi nhìn vào cánh tay ông ta. "Tôi có thể ?", hỏi.

      Đầu Pháp sư cử động rất .

      Dee ấn ngón tay trỏ của mình lên vai Abraham và đẩy. Rất cứng. Sau đó lấy đốt ngón tay gõ lên đó. Tiếng kêu nghe thùm thụp đùng đục.

      "Luồng điện của tôi đông cứng lại da tôi đấy."

      "Tôi nhìn thấy trường hợp tương tự trong căn hầm bên dưới Paris."

      "Zephaniah lấy ý tưởng từ Quá trình Biến đổi của tôi dùng để phạt Mars."

      "Và quá trình này quay ngược lại chứ?"

      ". Nhiều thế hệ Elder Vĩ đại và Elder thử đảo ngược quá trình này. Thỉnh thoảng có những thành công nho , nhưng có gì bền cả". Abraham bước khỏi ống kính, từ từ quay người đối diện với Dee. "Tôi làm gì với ông, hả Tiến sĩ? Tôi quan sát thế giới con người suốt nhiều thế hệ, từng nhìn thấy các hùng cũng như kẻ côn đồ hung ác, nghiên cứu nhiều gia đình và cá thể, theo dõi các dòng giống suốt nhiều thế kỷ vô tận. Tôi hiểu loài người, biết điều gì đưa đẩy họ, cái gì thôi thúc họ, biết tại sao họ và sợ, biết họ thế nào và sợ ra sao. Vậy mà có ông. Ông là bí mật."

      Dee liếc nhanh sang Marethyu. "Thế là tốt hay xấu?"

      Abraham tới rìa ngọn tháp, đưa mắt nhìn ra thành phố xa xa. "Ông biết tôi suýt tận diệt ông thế nào đâu", ông ta tiếp. "Chronos đề nghị phái Marethyu ngược thời gian, giết chết hậu duệ xa nhất của ông để chúng tôi có thể xóa sạch toàn bộ dòng dõi ông đấy."

      "Tôi mừng là các ông làm thế", Dee lẩm bẩm, gật đầu với Marethyu.

      "Đừng cám ơn tôi. Chính tôi muốn thực việc ấy."

      Có tiếng chân cầu thang, Dee quay lại khi thiếu nữ xinh đẹp mắt màu xám bước lên bệ. quan tâm đến Dee, mỉm cười với Marethyu rồi khoác chiếc áo choàng có mũ trùm lên vai Abraham. Bà liếc sang Dee. "Tôi cũng muốn thế."

      "Đây là Tsagaglalal, vợ tôi."

      Dee cúi chào, "Rất vinh hạnh."

      "Đừng thế", bà gắt gỏng. "Tôi muốn đẩy ông rơi khỏi bệ này với niềm vui thích cực độ". Bà đẩy chồng xa khỏi rìa bệ, sau đó bước vòng đứng trước mặt ông để ông có thể nhìn vào bà. "Thời đến gần."

      "Tôi biết mà. Hãy xuống . Chuẩn bị sẵn. Tôi gần như xong với ông tiến sĩ rồi."

      Tsagaglalal lướt ngang qua Dee và biến mất bên dưới.

      "Bà ấy căm ghét ông suốt nhiều thiên niên kỷ nay." Abraham xòe tay. "Đưa tôi cuốn sách của tôi, Tiến sĩ."

      Dee chần chừ.

      Phần mặt bên phải của Abraham cử động thành nụ cười trông phát khiếp. " người rất xuẩn ngốc nghĩ đến việc làm xuẩn ngốc ngay lúc này. Hoặc tệ hại hơn là cố thương lượng."

      Tay tiến sĩ lần xuống dưới áo sơ mi. túi da thuộc mềm mại cột sợi dây quàng nơi cổ . giật mạnh, sợi dây bật sút ra.

      "Josh mang những trang thằng bé xé ra khỏi cuốn sách này cũng theo cách tương tự." Marethyu .

      "Tôi biết. Tôi vừa khám phá ra là thế. Tôi thể tin thằng bé lúc nào cũng giữ chúng. Chúng ở quá gần, nếu thằng bé đưa chúng cho tôi, mọi chuyện hẳn rất khác rồi". Dee thở dài.

      "Đời ông là chuỗi những thất vọng", Marethyu .

      "Ông châm biếm đấy à?", Dee hỏi.

      "Đúng."

      "Tôi góp phần mình trong chuỗi thất vọng ấy", tay Pháp sư thừa nhận. Thò tay vào túi, kéo ra cuốn sách bìa kim loại. "Tôi mất cả đời mình để truy lùng cuốn sách này. Qua biết bao thế kỷ, tôi tiến gần đến việc nắm giữ được nó. Nhưng từ giây phút mà sau bao thăng trầm cuối cùng tôi được cầm nó trong tay, mọi việc lại thay đổi. Lẽ ra đó là chiến thắng vĩ đại nhất đời tôi." nhè lắc đầu. "Thay vì như thế, mọi thứ lại bắt đầu hỏng bét cả."

      Marethyu bước tới, cầm cuốn sách khỏi tay ông lão. Tựa cuốn sách chiếc móc câu của mình, ông mở bìa sách ra. Ngay lập tức, ngọn lửa màu trắng ngả vàng lóe lên khắp chiếc móc câu, từng dòng nước kêu xì xì xuống mặt đá, cơn mưa những tia lửa bắn ra như pháo hoa. "Sách ", ông ta thông báo.

      Bằn nỗ lực gần như đau đớn, Abraham giơ bàn tay vàng của mình lên, thả xuống vai Dee. "Tiến sĩ, ông có bao giờ ngừng thắc mắc tại sao ông bao giờ bắt kịp nhà Flamel, tại sao họ luôn trốn thoát ngay trước khi ông đến tìm họ ?"

      "Tất nhiên là có. Tôi luôn nghĩ bọn họ may mắn...", tới đó, rồi lắc đầu. " ai có thể may mắn lâu như thế, đúng nào?"

      Marethyu gấp cuốn sách nghe tiếng tách. Ngọn lửa tắt ngấm chiếc móc câu. "Tất nhiên là ông bao giờ có ý định tìm nhà Flamel và cuốn sách, cho tới tuần vừa rồi, khi ông nhận được cuộc gọi báo cho ông biết địa chỉ tiệm sách ấy ở San Francisco."

      "Và đó là ông sao?", Dee thều thào, nhìn từ Marethyu sang Abraham. "Tôi tưởng mình làm việc cho Isis và Osiris chứ."

      Đôi mắt màu xanh lơ của Thần Chết nheo nheo. "Đúng là thế, nhưng đôi khi ông và cả họ cũng làm việc cho tôi nữa."

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU


      Hồi còn rất , Josh thường bị loạt những cơn ác mộng kỳ quái và khủng khiếp.

      Cậu nằm mơ thấy cậu đứng cạnh thân xác ngủ của chính mình, nhìn xuống thân xác ấy. Đôi khi cậu ngồi nơi chân giường chằm chặp nhìn vào chính mình, nhưng thường cậu thấy cậu lơ lửng sát trần nhà, nhìn xuống thân thể mình. Nhiều lần cậu có cảm tưởng như thân thể ấy gặp nguy hiểm, nhưng những hình ảnh bấn loạn khó hiểu khiến cậu kêu thét lên và tỉnh giấc. Sau những giấc mơ như thế, cậu luôn ngủ rất lâu.

      Khi Josh lớn hơn, các giấc mơ ấy gần như hoàn toàn biến mất. Trong những thời kỳ chịu áp lực căng thẳng thường là các đợt thi cử chúng trở lại, nhưng thời gian làm cho chúng còn khả năng khiến cậu sợ hãi nữa. Bây giờ chúng lại là những hình ảnh kỳ lạ kém. Thỉnh thoảng, khi trôi giữa vùng tranh tối tranh sáng giữa ngủ và thức, cậu bắt gặp những ấn tượng rất mơ hồ của giấc mơ cũ, và loáng thoáng thấy cậu đứng bên ngoài thân xác mà nhìn vào chính mình, ngủ. Cậu tìm lướt Internet ngày, tình cờ thôi, cậu phát ra thuật ngữ liên quan đến vấn đề này, trải nghiệm ngoại thân.

      Và ngay bây giờ cậu lại cảm thấy như mình giấc mơ.

      Giống hệt như trong những giấc mơ kia.

      Cậu nhìn vào chính mình ngồi nơi bàn với ba mẹ và chị. Mọi thứ đều bình thường: có trái cây đĩa đặt trước mặt cậu, ly nước cam bên cạnh. Những cái tô lớn đựng đầy món rau trộn nằm giữa bàn, và có hai bình nước có nước đá dành cho ba với Sophie và nước đá, mà cậu và mẹ thích hơn.

      Mọi thứ đều rất quen thuộc.

      Ngoại trừ việc là hình ảnh đó ổn.

      Hai vợ chồng ngồi nơi bàn trông giống ba mẹ cậu, Richard và Sara Nevvman. Họ có cùng màu mắt, những đường nhăn giống nhau gương mặt họ, những nếp nhăn nơi khóe mắt và khóe miệng. Người đàn ông trông giống ba cậu thậm chí còn có vết thẹo xíu hình bán nguyệt đỉnh đầu cạo trọc, nửa vòng tròn nhàn nhạt nổi nước da rám nắng sậm màu của ông.

      Nhưng đây phải là ba mẹ cậu.

      Người phụ nữ trông giống mẹ cậu mặc tấm áo choàng và đeo trang sức của người Ai Cập cổ đại.

      có gì bất ổn trong chuvện này. Hồi họ Ai Cập vài năm trước, bà mặc quần áo tương tự như thế con thuyền họ chèo xuôi xuống dòng sông Nile.

      Nhưng móng tay móng chân của cả hai người đàn ông và đàn bà này đều sơn màu đen.

      Đó là nét kỳ cục cậu chưa bao giờ biết ba mình sơn móng chân, và màu đen chính xác là màu mẹ cậu chọn.

      Khi những người này mỉm cười, hàm răng họ dường như quá dài và mặc dầu cậu nhìn gần, vì thế cậu thể chắc chắn, nhưng cậu nghĩ lưỡi của họ hình như có màu tím sẫm thay vì màu hồng.

      Trước đây cậu chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh đó.

      Và bây giờ khi nhìn họ, thậm chí cả thức ăn và bản thân cái bàn cũng có cảm giác bình thường.

      Cái bàn có hình tròn làm bằng vàng và bạc, quấn vào với nhau như biểu tượng dương. Cậu và Osiris ngồi cạnh nhau nơi đường cong bằng vàng, trong khi chị cậu và Isis ngồi đằng trước phần bằng bạc.

      Josh?

      Mấy cái đĩa đặt trước mặt cậu là vàng, chất cao những loại trái cây được chọn kỹ đặc biệt tươi ngon nhưng xem xét kỹ ở cự ly gần hơn, cậu chỉ nhận ra số trong chúng. Và ly nước đựng đầy nước trái cây là thứ vàng ròng.

      Còn chị cậu.

      Qua mặt bàn Josh nhìn tới Sophie. chị song sinh của cậu chăm chăm nhìn xuống cái đĩa bạc chất đầy đào và nho, quả nào cũng lớn hơn nhiều so với tự nhiên. Mọi chiếc tách bạc nước tràn đến miệng, cả con dao cùn và cái nỉa hai răng cũng bằng bạc. bé để ý thấy cậu nhìn mình, bèn ngẩng đầu, và trong tích tắc đó cậu nhìn thấy vẻ bối rối tương tự trong mắt bé.

      Josh?

      Josh cảm thấy mọi thứ trượt và biến đổi lần nữa, cậu nhận ra rằng đây phải là giấc mơ. Trái tim cậu bắt đầu đập như búa nện cách đau đớn, và cậu có thể cảm thấy buồng phổi mình thắt chặt. Tiềm thức mách bảo cậu điều gì đó quan trọng. Song cậu chắc đó là gì.

      Josh!

      Giọng Isis gay gắt.

      Cậu hít vào hơi rùng mình và có cảm giác mọi thứ xoay chuyển rồi định hình trở lại. Nhìn quanh, cậu phát thấy mọi người nhìn mình, cậu nhún vai và quay đầu nhìn bên này bên kia. Hai má đỏ bừng. "Xin lỗi, con chia trí chút. Có lẽ thậm chí còn ngủ gật." Cậu quay sang nhìn ba. "Có lần ba gọi đó là gì nhỉ?"

      Osiris ngây người nhìn cậu lúc lâu.

      "Ồ đúng, giờ ba nhớ rồi: giấc ngủ thiếp. Hẳn là ba vừa có giấc ngủ thiếp đấy."

      "Tập trung, Josh", Isis nạt. "Đây là chuyện quan trọng."

      Cậu định vọt miệng trả lời cảm thấy bàn chân chị đánh vào chân mình. Cậu hít vào hơi sâu. "Dạ. Xin lỗi Isis, xin lỗi, Mẹ. Con nghĩ mình mệt rã rời bởi mọi việc xảy ra thôi. Con biết mình ạ."

      "Con cũng vậy. Phải dung nạp quá nhiều thứ", Sophie . bé lấy nỉa đâm vào những quả nho to tướng và thảy chúng vào miệng, rồi uống cạn ly nước của mình. Ngay khi bé đặt ly xuống bàn trở lại, mặt mèo lặng lẽ xuất cạnh bé và rót đầy lại.

      "Có lẽ tụi con phải ngủ chút chăng?", Josh đề nghị.

      "Ta e rằng hai đứa phải chờ. Lịch làm việc của chúng ta thay đổi chút", Osiris . "Ăn , phục hồi năng lượng. Hai đứa có cả đêm dài phía trước mà."

      Josh nhìn chị , chân mày hơi cử động nhướng lên ngấm ngầm câu hỏi. bé lắc đầu.

      "Bây giờ các con biết mình sở hữu sức mạnh phi thường", Isis . Bà quay nhìn Sophie trước, rồi nhìn Josh bên kia bàn. "Các con cần ta với các con rằng cả hai là người đặc biệt. Trong tuần lễ hai đứa được Đánh thức và được huấn luyện hầu hết các Pháp thuật Cơ bản. Trong tuần", bà vừa với chồng, vừa lắc đầu. " kinh ngạc."

      "Thông thường, quá trình như thế phải mất nhiều thập kỷ", Osiris tán thành.

      "Tại sao hai người Đánh thức tụi con? Sophie hỏi, rồi sau đó đột nhiên tự trả lời cho câu hỏi của mình mà cần dùng đến kiến thức của Bà Phù thủy. "Bởi vì hai người thể."

      Nụ cười của Osiris lạnh tanh. "Chúng ta có các kỹ năng khác, Sophie, nhưng , chúng ta thể kích hoạt quá trình Đánh thức."

      "Tức là chung gia đình được?", Josh hỏi, có yẻ bối rối.

      " được là gia đình trực hệ, . Nhưng dứt khoát phải có liên hệ gia tộc", Osiris .

      "Tụi con có họ hàng với các Elder đó ư? Những người Đánh thức tụi con, những người huấn luyện tụi con: Hekate và Mars, Prometheus, Gilgamesh, Saint-Germain và Bà Phù thủy?"

      "Xa thôi", Osiris lầm bầm.

      "Nhưng họ đâu phải là bạn của tụi con, phải nào", Josh khẳng định hơn là hỏi.

      Isis và Osiris đồng loạt lắc đầu. ", họ phải bạn đâu."

      Mọi việc xảy ra trong mấy ngày vừa qua chợt có ý nghĩa với Josh. "Vì ai biết hai người có mối liên hệ với chúng con, nên bằng cách nào đó hai người nhờ kẻ thù Đánh thức rồi sau đó huấn luyện chúng con, bởi họ nghĩ chúng con làm việc chống lại hai người", Josh lẩm bẩm, gần như tự với mình.

      "Đúng, và chúng ta khá tự hào vì chiến thuật ấy". Isis mỉm cười với chồng.

      "Đúng là tuyệt ", Josh khẽ.

      "Cám ơn con", Osiris . "Ba thấy mọi bài học đánh cờ hoàn toàn phí phạm với con đấy."

      Josh cúi gầm đầu, tập trung vào vệc đẩy mấy thứ trái cây vòng quanh đĩa của mình. Cậu suy nghĩ rất lung, nhớ lại cả ngàn chi tiết nhặt từ trong quá khứ. Đột nhiên chúng mang ý nghĩa mới. Cuối cùng cậu xiên vào miếng cam, thảy vào miệng. "Vậy mọi chuyện xảy ra trong tuần qua..."

      "Đừng chuyện với cái miệng ngốn đầy thức ăn như thế!", Isis nạt.

      "Xin lỗi, Mẹ. Xin lỗi, Isis", cậu cố tình chữa lại. Cậu nuốt mạnh xuống. "Vậy ra hai người đứng sau mọi việc trong suốt tuần lễ qua?"

      " chỉ tuần lễ vừa rồi đâu", Osiris . "Suốt mười lăm năm đời tụi con, và mười ngàn năm đưa dẫn đến đó. Từ những giây phút đầu tiên khi hai con sinh ra, chúng ta huấn luyện hai con chuẩn bị cho biến cố này, định mệnh của hai con. Chúng ta dạy hai con lịch sử và thần thoại để khi hai con khám phá ra , đó phải là cuộc vén mở kinh khủng, và nhờ đó hai con hẳn quen với các nhân vật và các sinh vật chúng con chạm trán. Thậm chí chúng ta còn nằng nặc bảo hai đứa phải ghi danh học võ thuật để chúng con có thể tự bảo vệ mình."

      Cặp song sinh gật đầu. đứa nào chịu học Tae Kwon Do, nhưng ba mẹ chúng cứ bắt cho bằng được, và bất kể họ sống ở thành phố nào hoặc hai đứa theo học trường nào, chúng luôn ghi danh vào võ đường để gián đoạn quá trình huấn luyện.

      "Chúng ta cho các con thấy thế giới này", Isis . "Đưa các con đến những nền văn hóa khác để khi các con đến đây bị sốc."

      Osiris chồm tới. "Rồi sau đó, khi tất cả đều sẵn sàng, khi cả hai đứa con đều được chuẩn bị hết mức, ta đề nghị con tìm việc trong tiệm sách đó với nhà Flamel."

      Josh chớp mắt ngạc nhiên, rồi cau mày, nhớ lại. Ba cậu đưa cho cậu mẩu quảng cáo trong tờ báo của trường đại học: Tìm người phụ tiệm sách. Chúng tôi muốn người đến đọc, mà muốn những người đến làm việc.

      "Và con muốn làm việc đó", Josh thầm .

      "Và ta kể cho con nghe rằng ta làm việc trong tiệm sách khi ở trạc tuổi con. Con viết thư xin việc và lý lịch bản thân, nhưng chẳng bao giờ chịu gửi ."

      "Ta gửi", Isis .

      "Và con được mời phỏng vấn hai ngày sau đó."

      "Hai người có biết nhà Flamel nấp ở đâu ?", Sophie hỏi.

      "Chúng ta luôn biết họ ở đâu. Chúng ta rất cẩn thận theo dõi sít sao cuốn Codex."

      "Và hai người biết khi họ nhìn thấy con, họ nhận ra con chính là người Vàng", Josh . "Còn Sophie là người Bạc."

      Nụ cười của Isis đầy cay đắng. "Những kẻ ngốc nghếch kênh kiệu, nhà Flamel ấy, tìm kiếm những người Vàng người Bạc suốt bao nhiêu thế kỷ nay rồi. Chúng ta đơn giản chỉ cho họ thứ họ tìm thôi."

      Osiris gật đầu. "Nhà Giả kim và vợ ông ta bắt đầu tin rằng trong mưu đồ lớn này, họ quan trọng hơn nhiều so với bản chất của họ. Họ là những quân tốt. Y hệt như Dee, và hết thảy các giống người khác."

      "Còn chúng con?", Sophie hỏi. "Chúng con cũng là những quân tốt ạ?". bé nhìn qua cậu em trai và cậu gật đầu.

      "Các con là người Vàng người Bạc", Osiris khẽ khàng . "Vâng, chúng ta đúng là có điều khiển hai con, nhưng sử dụng hai con như những quân tốt, mà là để bảo vệ. Mọi việc chúng ta làm đều là để giữ cho hai con an toàn", ông khăng khăng. "Hai con như quân vua và quân hậu bàn cờ ngay bây giờ, trong thời gian và gian này, các con là những người giá trị nhất trong thế giới này."

      Isis chồm người tới trước, những chiếc vòng kim loại gõ xuống mặt bàn bằng bạc. " chuyện nào trong những chuyện này là tình cờ nhiều thiên niên kỷ hoạch định cẩn trọng đến việc bảo đảm rằng chuỗi kiện chính xác này được tỏ lộ."

      "Hai người lên kế hoạch cho mọi thứ?", Sophie hỏi. Mọi chi tiết mới được tiết lộ đều khiến bé thấy hơi khó chịu nơi dạ dày. "Thậm chí cả trong những lúc tệ hại sao?"

      "Có những lúc tệ hại nữa à?", Isis hỏi. Bà nhìn chồng, và ông lắc đầu. "Ý con muốn ám chỉ cái gì?"

      "Con nghĩ chị ấy muốn đến những lúc chúng con suýt bị giết chết đó mà", Josh trả lời thay chị sinh đôi."Con suýt bị con Nidhogg ăn thịt ở Paris."

      Isis xua xua bàn tay đeo nhẫn như thể Paris chẳng có nghĩa lý gì. "Con chẳng bao giờ nằm trong nguy hiểm nhiều như thế cả, Josh", bà . "Con ở cùng với những chiến binh tinh nhuệ nhất trong mọi thế hệ. Họ bảo vệ các con mà."

      "Con chiến đấu với Disir", Sophie . muốn để chuyện này qua dễ dàng như thế được. "Con có ấn tượng rằng bọn chúng cố gắng hết sức để giết chết con."

      "Và đừng quên quá trình Đánh thức", Josh thêm.

      Isis buông tràng cười nhàng, trầm bổng đến nỗi thanh nghe có vẻ giả tạo cách kỳ lạ và giống như được luyện tập trước. "Các con bao giờ lâm vào nguy hiểm trong tình huống đó. Các con là Vàng là Bạc mà", bà . "Vàng ròng, bạc thuần khiết. Chỉ những gì pha tạp mới bị hủy hoại bởi quá trình Đánh thức thôi."

      "Còn khi bị bọn xác chết tấn công ở Ojai sao?", Josh nhấn mạnh.

      Isis lại cố bật ra tràng cười nữa. Nghe giả tạo y như lần trước. "Dee đâu có đủ sức mạnh để giữ được chúng lâu hơn. Các con tiêu diệt bọn chúng chỉ ít phút trước khi chúng tự nguyện đổ sụp xuống thôi."

      "Còn Coatlicue?", Sophie hỏi. "Mụ ta sẵn sàng ăn thịt Josh đấy."

      "Con chỉ vừa vặn thoát khỏi tòa nhà bốc cháy", Josh thêm. "Và sau đó có thứ có sừng ở London nữa."

      "Đủ rồi!", Isis vỗ hai tay vào nhau, nhẫn mấy ngón tay tóe lửa. "Tất cả những biến cố này đều được hoạch định."

      "Kể cả việc Dee phản bội hai người sao?", Sophie bướng bỉnh hỏi. "Bởi vì con có ấn tượng rằng việc đó nằm trong những quân bài."

      Cả bàn ăn rơi vào im lặng.

      Josh nhìn kỹ chị sinh đôi. "Dee tự ý rút lui, phải ?" Cậu biết chắc điều đó cho tới khi bé buột miệng ra.

      Sophie gật đầu. " chán ngán phải làm tên phục vụ. muốn làm chủ."

      Osiris giơ đứng bàn tay. " có kế hoạch nào hoàn toàn là hết sức ràng. Luôn có những yếu tố nhặt ngờ trước. Những biến số. Về sau, Dee trở thành biến số." Ông lóe ra nụ cười, và cũng y như tràng cười của vợ, được luyện tập trước và giả tạo. "Nhưng chúng ta nên cân nhắc việc làm đó với thực tế người phục vụ chân chính và trung thành suốt bao nhiêu thế kỷ."

      "Nhưng là thuộc hạ của hai người trái đất", Josh phản đối. "Đó phải là yếu tố nhặt. Đó là sai lầm khá chủ yếu."

      "Đủ rồi", Osiris gắt. " ta phải trả giá. Như mọi kẻ tuân theo chúng ta. đâu phải là người phục vụ đầu tiên của chúng ta. cũng phải là người cuối cùng. vậy, ta tin Dare cũng vào vị trí thay thế . Ta đưa ra đề nghị mà cách gì từ chối."

      "Và ta chấp nhận đề nghị đó?", Josh gặng hỏi.

      "Đúng."

      Josh thể tin những gì Elder vừa . Virginia Dare? người phục vụ cho Isis và Osiris? Cho bất cứ ai? "Con nghĩ hai người thấy là Virginia Dare phải là John Dee", cậu khẽ.

      "Ta biết ấy là gì mà", Osiris cằn nhằn.

      Isis nhoài người đặt bàn tay mình lên cánh tay chồng, ngăn ông trước khi ông có thể ra điều gì đó nữa. "Josh đúng đấy". Bà cẩn thận nhìn chồng. "Dare nguy hiểm lắm. Và cây sáo khiến ả khó sử dụng. Tôi nghĩ mình nên rút lại lời đề nghị. Chúng ta có thể dễ dàng tìm tên bộ hạ khác thuộc giống người."

      "Tất nhiên", ông đồng ý ngay.

      "Nhưng hai người làm gì với ta?", Sophie hỏi.

      "Còn tùy", Isis .

      "Tùy vào cái gì ạ?", Sophie hỏi dồn. Những ý tưởng lung linh nơi góc tâm trí bé, và bất chợt bé thấy hình ảnh Virginia rơi từ nơi rất cao xuống miệng núi lửa sùng sục sủi bọt.

      "Vào việc ả hợp tác thế nào."

      "Mà nếu ta chịu?", Josh hỏi tới.

      Nụ cười uốn cong đôi môi Osiris lần này rất . "Chúng ta biến ả thành mồi ngon cho núi lửa như chúng ta từng làm thế đối với tất cả những kẻ phản bội và tội phạm."

      cánh cửa ra vào bật mở, phá tan im lặng bao trùm bàn ăn. tên anpu mắt đỏ xuất . trong những đầu mèo qua phía sinh vật to lớn ấy và nhón chân đưa đầu cạnh bên đầu . Họ nghe thấy, nhưng sinh vật mảnh khảnh đột nhiên quay người chạy trở lại bàn ăn, cái đuôi đánh qua đánh lại. Isis và Osiris đứng lên.

      Josh chồm qua bàn tới chị. "Em cược là Virginia rồi."

      Sophie gật đầu.

      Osiris và Isis lắng nghe người hầu báo cáo, và ngay khi ta xong, Osiris quay người vội vã mất.

      Isis quay lại. "Dường như rốt cuộc Dare quyết định cần ngủ nghỉ gì cả", bà . "Nhưng đừng lo, chúng ta tìm được ả. đứa bé cũng có thể bám theo mùi hôi thối của ả khắp thành phố này. Bây giở, cả hai đứa, thay quần áo. Lần này phù hợp. Trang phục phù hợp cho cả thời gian lẫn nơi chốn."

      Josh mở miệng định phản đối.

      Isis dựng đứng bàn tay. " cãi, Josh. Con thấy có bộ giáp vàng trong phòng mình; có bộ giáp bạc trong phòng con nữa, Sophie. Mặc vào ."

      "Tại sao ạ?", Josh gặng.

      "Hai con được giới thiệu với Hội đồng Cai quản Danu Talis vào ngay tối nay."

      Sophie phóng ánh mắt nhanh tới cậu em trai. "Tại sao gấp thế ạ?", bé hỏi.

      "Dường như Danu Talis cần nhà cai trị. Aten, nhà cai trị trước đây của chúng ta đúng vậy, nghiêm túc mà , nhà cai trị đương thời, cho tới khi ông ta bị quăng vào núi lửa, bị tước mất quyền lực. Bastet có thể nghĩ mụ ta thông minh và hành động trong khi chúng ta vắng. Mụ ta giới thiệu con trai Anubis của mụ cho hội đồng, ủng hộ ông ta như người kế vị hợp pháp của Amenhotep và là người cai trị kế tiếp của hòn đảo này". Miệng Isis uốn vặn thành nụ cười chế nhạo.

      Mụ tin chúng ta hỗ trợ mụ. Đương nhiên là mụ đâu biết chúng ta có hai con, những người thừa kế hợp pháp của Danu Talis."

      Sophie lắc đầu. "Con biết mẹ gì."

      "Con, cả hai đứa con, Vàng và Bạc là những nhà cai trị hợp pháp của Danu Talis". Isis chồm tới trước, bọc hai đứa trong mùi hương quế của bà. "Trong giờ tới, Hội đồng Cai quản thừa nhận các con. Vào bình minh ngày mai, các con là những nhà cai trị được phong vương của đế chế vĩ đại nhất từng hồi sinh trái đất này."

      Sophie bước lùi tránh người phụ nữ trông giống mẹ mình. bé lắc đầu. ", đúng. thể đúng được". bé cau mày khi ký ức của Bà Phù thủy nhảy múa trong đầu. "Đó phải là những gì trước đây xảy ra."

      " phiên bản đấy", Isis nhanh. "Ta ở đó vào thời ấy và nhìn thấy tất cả. Ta quan sát cặp song sinh chiến đấu và nhìn thấy Danu Talis bị nhấn chìm."

      "Chờ chút. Cặp song sinh nào?", Josh hỏi dồn.

      "Chúng ta đấy", Sophie cay đắng .

      "Tụi mình?"

      "Trong dòng thời gian khác, chúng ta chiến đâu. Chỉ cặp song sinh từng có: chúng ta. Chúng ta là cặp song sinh huyền thoại nguyên thủy."

      Josh có cảm giác thế giới biến đổi và xoáy tít quanh mình. Đầu cậu bắt đầu đập thùm thụp. "Chờ , chờ . Chúng ta là cặp song sinh nguyên thủy. Người Vàng người Bạc đầu tiên."

      "Đúng vậy", Isis .

      "Và trong dòng thời gian khác, chúng ta chiến đấu. Chuyện gì xảy ra sau đó?"

      Cậu cố nhớ lại cách tuyệt vọng những mảnh rời rạc cậu khám phá ra trong mấy ngày qua. " xảy ra chuyện gì cho chúng ta, hả Sophie?"

      Isis trả lời. "Trong dòng thời gian khác, cặp song sinh chiến đấu Kim tự tháp Thái Dương. Họ chết kim tự tháp ấy và Danu Talis bị chìm", bà ta hết sức lạnh lùng, " việc đó lại sắp xảy đến lần nữa. Dòng thời gian đặc biệt này là trong những Dải Thịnh vượng hiếm hoi, những thời khắc khi mà tương lai chưa được ấn định. Có ô cửa sổ ô cửa nho ở đó chúng ta có thể thay đổi mọi thứ. Chúng ta lặp lại sai lầm trước đây mắc phải. Hai con là cặp song sinh huyền thoại, huyền thoại nguyên thủy, được tạo ra bởi cha con và mẹ đây: giải cứu thế giới, hủy diệt nó."

      "Ai giải cứu thế giới, ai hủy diệt?", Josh hỏi. "Mẹ biết sao?"

      "Câu đó có ý chỉ đến hai con với tư cách là những cá nhân, nó có nghĩa là thế giới", Isis giải thích. "Cùng nhau, chúng con cứu thế giới: Danu Talis."

      "Nhưng chỉ bằng việc hủy diệt thế giới khác: trái đất", Sophie thầm.

      "Mọi thứ đều có cái giá của nó. Bây giờ , lấy quần áo. Chúng ta lên đường ngay khi cha con trở lại". Isis dạm bỏ , rồi dừng lại, ngoái lui. " tuần trước, hai đứa con chẳng là gì ngoài những thiếu niên bình thường. Bây giờ, chúng con điểm lùi để trở thành những vị thần. Sức mạnh của chúng con là vô hạn".

      "Con muốn làm vị thần", Sophie bướng bỉnh vói đằng sau bà.

      Cánh cửa ra vào đóng sầm, bỏ lại cặp song sinh mình trong khu vườn. Hai đứa đứng im lặng lúc lâu, cố gắng làm cho mọi chuyện chúng vừa khám phá mặc ý nghĩa nào đó. Cuối cùng khi Josh quay sang nhìn chị , khóc, từng giọt nước mắt lớn lặng lẽ lăn xuống hai bên má.

      "Ê... ê... ê", cậu bắt đầu . "Mọi chuyện xảy ra theo cách nhất định nào đó. Tụi mình ổn thôi mà."

      "Tụi mình ổn đâu!", bé cáu kỉnh. "Josh, chị khóc vì buồn mà bởi vì ngay lúc này đây chị muốn hóa điên lên. Họ..." bé chỉ vào cánh cửa đóng. "Bất kể họ là ai, họ cứ nghĩ tìm được giải pháp, cứ tưởng tụi mình chỉ là những bộ phận họ có thể di chuyển lòng vòng bàn cờ rộng lớn và mọi thứ diễn ra đúng theo cách họ hoạch định, cứ nghĩ tụi mình đồng ý mọi thứ, thắc mắc và chỉ thực đúng những gì họ bảo như những đứa trẻ ngoan. Họ nghĩ tụi mình chịu phá hủy trái đất sao!". bé lắc đầu và khu vườn tràn ngập mùi hương vanilla. "Việc đó xảy ra được đâu."

      " ư?", Josh hỏi. Cậu thích lúc chị mình phát điên lên.

      ", nếu tụi mình là cặp song sinh huyền thoại", bé kiên quyết .

      "Em muốn chiến đấu với chị, Sophie", Josh nhanh. Cậu đổi chân. "Mấy ngày qua, em biết diễn ra chuyện gì nữa. Dee... ừm, đúng là Dee làm em hoang mang. Nhưng em nhớ chị lắm. Em rất nhớ chị."

      "Chị biết mà". Sophie mỉm cười qua làn nước mắt. "Em phải biết chị làm gì để đòi lại được em."

      "Khởi đầu là theo em tới Alcatraz. Sao chị làm vậy được?"

      "Phức tạp lắm. Nhưng chuyện đó nhắc chị nhớ phải kể cho em nghe về Dì Agnes."

      Josh nhấp nháy mắt. "Em đoán dì ấy phải là Dì Agnes."

      "Ồ, chị nghĩ đúng là dì. Và dì ấy còn hơn thế nữa, hơn nhiều, rất nhiều. Dì dạy chị rằng tất cả các pháp thuật đều như nhau, có pháp thuật nào mạnh hơn pháp thuật nào."

      "Virginia dạy em Pháp thuật khí rồi", Josh bẽn lẽn .

      "Em thích ta, đúng nào?"

      " ấy cũng được."

      "Em có thích ta!". Nụ cười của Sophie nhạt . "Chị ước gì bây giờ ấy ở đây chị ước có ai đó ở đây để khuyên tụi mình nên làm gì."

      "Tụi mình cần ai hết, bà chị ơi", Josh . "Hai đứa mình bao giờ cần tới ai khác nữa. Tụi mình làm những gì mình nghĩ là đúng. phải những gì Isis và Osiris muốn hay nghĩ là họ có thể buộc tụi mình phải làm. Tụi mình mạnh mẽ mà có lẽ thậm chí còn mạnh mẽ hơn họ tưởng nữa kia."

      Sophie gật đầu tán thành. "Đó là những gì Osiris gọi chúng ta: trong thời gian và gian này, nhũng người giá trị nhất và quan trọng nhất thế giới này.'"

      "Ô, em nghĩ tụi mình quan trọng hơn cả mấy người đó". Josh cười toe. "Em nghĩ tụi mình là biến số khác trong các biến số họ quên tính đến."

      "Là biến số và thể điều khiển."




      CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY


      Billy the Kid theo Machiavelli và Diều Hâu Đen xuống đường hầm chật hẹp. Ánh sáng trắng bẩn bẩn chiếu ra từ quả banh năng lượng phát sáng hất bóng mờ mờ lên vách tường ươn ướt và hắt cả lên trần. Bầu khí ám mùi hôi thối của cá chết và tảo biển mục rữa.

      "Cái này đúng là lợm giọng", Billy làu bàu.

      "Tôi hoàn toàn nhất trí với ", Machiavelli . "Nhưng tôi từng ở trong những nơi còn tệ hơn. Nó phần nào gợi cho tôi nhớ đến..."

      "Đừng kể với tôi. Tôi muốn biết đâu", Billy cằn nhằn. Gã bước tới bước, khuỵu gối xuống lớp bùn hôi hám. bong bóng thối nổ bụp, bắn tóe những thứ rác rưởi lên quần jeans của gã. "Khi chuyện này kết thúc, tôi phải đem đốt đôi bốt này thôi. Mà đây lại là đôi bốt ưa thích của tôi cơ chứ."

      "Tôi thích đấy, Billy", Machiavelli . "Tính lạc quan của luôn luôn là thế, chẳng bao giờ cạn. giả sử rằng đến cuối cuộc phiêu lưu này chúng ta vẫn còn sống để có thể mua đôi bốt mới sao."

      "Ừ , tôi biết ông thế nào, chứ tôi lên kế hoạch cho cái chết đâu, điều đó là chắc chắn." Hàm răng Billy lóe lên trong vùng tối u ám. "Diều Hâu Đen và tôi từng lâm vào những tình huống khó khăn nghiêm trọng qua ngần ấy năm". Gã nhìn qua vai tay người Ý và nâng giọng. "Tôi ..."

      "Tôi nghe mà, Billy", Diều Hâu Đen khẽ. "Thực ra, tôi bảo đảm là mọi thứ hòn đảo này đều nghe tiếng cả đấy."

      Billy lắc đầu. Gã chĩa ngón trỏ lên trần. "Trong tiếng ồn ào đó sao? Tôi nghi ngờ quá". Những thanh gầm rống, kêu thét, hò hét của bầy quỷ sứ tụ tập phía đầu thấm xuống qua từng khối đá. "Nhưng chúng ta nên nhìn vào khía cạnh tích cực chứ. Chí ít chúng cũng còn ở hòn đảo này."

      "Chúng ta chỉ nên bắt đầu lo lắng khi đó yên lặng. yên lặng", Diều Hâu Đen . "Như thế có nghĩa hoặc là chúng lẻn đến chúng ta hoặc chúng bỏ chúng ta lại đảo."

      "Lý luận ấn tượng nhỉ. Đó là những gì người Mỹ gốc truy tìm kiến thức đó sao?", Machiavelli hỏi.

      Diều Hâu Đen lắc đầu. "Thường thức thôi". dừng lại và chỉ phía đầu. "Ở đó đó."

      Bàn tay người Ý di chuyển và quả banh phát sáng chìm xuống đường hầm, ở đó nó rọi sáng ngưỡng cửa hình chữ nhật. như phần còn lại của vách tường bị bao phủ bởi tảo biển, động vật chân tơ và bùn, phần này được cạo sạch, cho thấy lớp gạch nguyên thủy có quy cách từng được dùng để xây dựng đường hầm.

      "Đây là cái hang mà tôi kể cho hai người nghe", Diều Hâu Đen . "Khi tôi xử lý xong Nereus số nhân ngư lại làm phiền tôi tí chút."

      Billy cười toe, há miệng định có ý kiến, nhưng Machiavelli đưa tay siết mạnh cánh tay gã, bảo gã im lặng.

      " có nhiều chọn lựa", Diều Hâu Đen kể tiếp, "tôi rút lui sâu hơn xuống đường hầm này. Mấy mụ đàn bà ấy đuổi theo tôi thậm chí vì có chân nên chúng tận dụng lấy tay kéo lê mình tiến tới, đuôi chúng vỗ đen đét. Cứ như con cá hồi lội ngược dòng. Chúng hú hét, rít ré cho tới khi tới được khúc cua ngay đằng kia. Sau đó chúng dừng sững lại như thể đâm đầu vào bức tường". Diều Hâu Đen giơ bàn tay lên và bầu khí tanh hôi trong đường hầm cuộn xoáy mùi hương gay gắt, sạch, phảng phất dược liệu của cây thổ phục linh. Từng ngọn lửa màu xanh lá nhàn nhạt nhảy múa dọc theo mấy ngón tay ta, rồi ri rỉ hình thành nên đám mây định hình nhuốm màu ngọc lục bảo, và những bức vách của đường hầm bừng lên ánh sáng màu xanh lá bàng bạc rung rung lung linh tỏa sáng. "Tôi nhìn thấy thứ này", .

      "Cái gì vậy?", Billy vừa thào, vừa nhìn bức vách.

      Diều Hâu Đen nhoài người rà rà bàn tay phải xuống bức vách. Nó bị phủ lớp mịn mịn mờ mờ sáng, rơi khỏi ngón tay thành những sợi tơ dài. "Mạng nhện", . "Bức vách bị phủ mạng nhện."

      "Vậy nhiều nhện lắm", Billy hồi hộp .

      Diều Hâu Đen quơ bàn tay, đám mây màu xanh lục kia rỉ sâu hơn vào đường hầm, rọi sáng. "Hai người có thể thấy nó xé đúng chỗ nào, tức là có thứ gì đó rất lớn ngang qua đây". bước tới, cúi xuống nhặt lên thanh gỗ dưới bùn. "Nhưng đây mới là thứ hấp dẫn tôi", . "Tôi vừa khám phá ra cái này nghe tiếng hai ông chuyện". Diều Hâu Đen giơ ra thanh gỗ đen tuyền lớn chừng hai ba phân, phía đầu gắn lưỡi dao có hình chiếc lá dài phẳng bẹt. Machiavelli và Billy chồm qua nhìn món vũ khí ấy.

      "Đó là ngọn giáo", Billy . "Hơn nữa cũ lắm rồi. Tôi biết kiểu lưỡi giáo đó. phải của người Mỹ đâu."

      "Theo tôi, có vẻ như của người Phi châu Zulu, có lẽ vậy", Machiavelli .

      "Đằng sau tôi còn có nhiều cái nữa nằm trong bùn", Diều Hâu Đen . lấy tay sờ vào đầu ngọn giáo kim loại. Luồng điện màu xanh lá rung rung ngón tay rọi sáng chữ viết tượng hình vuông vắn được sơn lưỡi giáo.

      "A", Machiavelli thào. "Chúng ta có gì đây này?" Khi y đưa tay ra, mấy đầu ngón tay y vụt sáng, và mùi rắn tràn ngập đường hầm.

      "Trời đất, ông cần có mùi thơm hơn chút chứ", Billy .

      "Tôi thích mùi này", Machiavelli lơ đãng lầm bầm, ánh sáng xam xám bẩn bẩn chảy khỏi ngón tay. "Nó phục vụ tôi tốt lắm." Đôi mắt xám của y bắt màu xanh lá từ luồng điện của Diều Hâu Đen, còn ký tự vuông vức kia phản chiếu trong con ngươi y. Tay người Ý liếc lên nhìn Diều Hâu Đen. "Ông biết đây là cái gì hả?"

      "Trước đây tôi từng nhìn thấy những ngọn giáo tương tự", . "Và truyện thần thoại của chúng tôi đầy những thứ này. Chúng cổ xưa và chết người. Chỉ những thầy lang mạnh nhất mới có thể mang chúng được". chỉ tay vào chữ viết lưỡi giáo. "Tuy nhiên tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái đó ngọn giáo thầy lang nào cả."

      Billy nhìn Diều Hâu Đen qua vai người Ý. "Tôi có thấy thứ gì đó tương tự thế này trong Vương quốc Bóng tối của Quetzalcoatl. Chúng nằm trong bếp, tủ lạnh."

      "Đúng, có bức tường chạm khắc những hình vuông này có hình dáng như những gương mặt. Bức tường ấy trông có vẻ cũ kỹ hơn phần còn lại của ngôi nhà", Diều Hâu Đen xác nhận.

      " ràng là Quetzalcoatl biết mấy chữ này". Machiavelli nhìn quanh. "Ông có thêm mấy cái nữa hả?"

      Diều Hâu Đen rút hai ngọn giáo nữa ra khỏi lớp bùn lính dính. Phần đầu của hai ngọn giáo ấy lem nhem nhiều nét chạm khắc vuông vuông, mặc dù trong những chữ ấy phần nào bị nước biển bào mòn. Billy tìm được hai ngọn giáo nữa gần vách hầm. cái phần đầu chỉ còn mờ mờ dấu vết của chữ viết, còn cái thứ hai cho thấy dấu hiệu của nét chạm khắc phần nào bị cạo .

      "Hai người để ý thấy cái thứ ba nằm thấp hơn bị sẫm và biến màu."

      Diều Hâu Đen xoay tròn trong những món vũ khí kia, ném nó cắm đầu xuống đất. Nước dâng lên tới đường lằn thanh gỗ.

      "Lẽ ra phải có ít nhất mười hai ngọn giáo", Machiavelli , "tạo nên kiểu mẫu đặc biệt trong bùn." Bàn tay y múa máy, mô tả phác họa trong khoảng . "Kiểu mẫu này chắc hẳn hình thành ma trận quyền lực."

      " cái gì?", Billy hỏi.

      "Hãy nghĩ nó giữ vai trò như hệ thống báo động chống trộm tinh vi. Đầu mỗi ngọn giáo chắc được sơn bằng chất nhuộm từ cây tùng lam, đất son màu đỏ hoặc có lẽ là máu." Y lật cái đầu giáo dẹp ra ánh sáng. "Những nét chạm khắc này trông như chữ của người Nam Mỹ, nhưng chúng xưa hơn, xưa hơn rất nhiều. Đây là Lời Quyền năng, những biểu tượng ràng buộc cổ xưa, rút ra từ ngôn ngữ chẳng còn gì hơn là ký ức thậm chí còn trước cả thời Danu Talis nhô lên từ những đợt sóng biển. Huyền thoại kể rằng Quan chấp chính sử dụng những chữ này để bảo vệ những gì có giá trị rất lớn hoặc đề phòng những thứ cực kỳ nguy hiểm."

      Billy cười nhe răng. "Và chúng ta đều biết mục đích nào phù hợp với trường hợp này."

      Bàn tay trái của Machiavelli xoay tròn ngọn giáo. Nó kêu um um và rung lên, biểu tượng hình vuông chiếu ra ánh sáng đùng đục. Luồng điện của ba người bất tử nhấp nháy. "Hai người có cảm thấy ?", y hỏi, giọng có gì đó như kinh sợ.

      Cả Billy và Diều Hâu Đen đều gật đầu: miệng mồm họ chợt tê cóng, khí cảm giác như đặc lại. Billy lấy tay xoa chân mày bên trái trước sức ép đột ngột của cơn nhức đầu. Người Ý giang cánh tay mình, đầu ngọn giáo quẹt lên mạng nhện, ngay lập tức làm chúng teo quắt lại đến nỗi chẳng còn gì. "Dồn càng nhiều ngọn giáo lại càng tốt", Machiavelli gắt. Sau đó y lướt ngang qua hai chàng người Mỹ và biến mất vào bóng tối u ám.

      "Ê, chúng tôi trở thành người gác cổng của ông khi nào thế?", Billy gọi vói y. Gã nhìn Diều Hâu Đen. " có thể tin được mấy tay bất tử châu Âu này ?"

      Giọng Machiavelli giạt ngược xuống đường hầm. "Tôi vui lòng gom mấy ngọn giáo, Billy. Nhưng sau đó phải điều nghiên cái hang trông có vẻ thú vị này đấy."

      "Tôi đến cái hang", Diều Hâu Đen khi Billy chưa kịp trả lời. "Tôi nhìn thấy nó khi ngang qua."

      "Nhưng đâu vào phải ?", Machiavelli .

      "Bộ trông tôi ngu lắm chắc?"

      Quả cầu ánh sáng bừng lên nơi ngón tay Machiavelli, cho thấy lỗ đen tường. Lối vào hang này là đồ nhân tạo ngưỡng cửa hình chữ nhật lớn được cắt vào khối đá cứng. Machiavelli vẫy tay, quả cầu của y bay lên tới rầm cửa. Đường viền của các biểu tượng biến đổi, chiếu sáng mờ mờ lùm lùm dưới ánh sáng màu xam xám, người bất tử đứng nhón gót nhìn lên hàng cao nhất. "Tôi đoán những thanh rầm và gióng cửa này chắc hoàn toàn được sơn bằng Lời Quyền năng. Chúng được phủ lớp bùn hoặc được rửa sạch. Cũng mới gần đây thôi", y vừa thêm, vừa chỉ vào những đường sọc khô vách. "Quetzalcoatl nhọc công nhốt ai đó thứ gì đó trong hang này. Đây là nhà tù." Machiavelli vừa biến mất vào chỗ tối đen kia phía bên trong tràn ngập thứ ánh sáng nhợt nhạt. "Và hãy nhớ, Billy" Giọng y vang vang. "Kẻ thù của kẻ thù mình..."

      "Vâng, vâng, vâng. Ông cần khẩu hiệu mới thôi", Billy lầm bầm.

      tích tắc sau, Machiavelli xuất trở lại nơi lối vào. Dưới ánh sáng phản chiếu từ quả cầu của y và ánh sáng màu xanh lá của Diều Hâu Đen, nước da y trông nhợt nhạt, yếu ớt, nhưng đôi mắt xám lại lóe lên đầy phấn khích. "Trống rỗng."

      "Thế tốt", Billy . Gã nhìn Diều Hâu Đen. "Phải ?"

      Diều Hâu Đen mỉm cười. "Tôi nghĩ bạn châu Âu của chúng ta có ý đồ."

      "Giật lấy mấy ngọn giáo ", Machiavelli . "Tôi biết có gì trong cái hang đó và tôi biết tại sao nó ở đó. Tôi nghĩ mình biết cách đánh bại lũ quỷ sứ rồi. Chúng ta cần lên được phía ."

      Và rồi toàn bộ hòn đảo rung lên bần bật.

      Mặt đất chuyển động, nước đập vào vách đường hầm. Bụi đất và cát sạn từ trần tuôn xuống như mưa. Gạch kêu răng rắc, viên chịu nổi sức ép bèn nổ tung, phun bụi vào trung, và làn nước lạnh như băng giá bất thình lình ùa vào đường hầm, nhanh chóng dâng lên tới ngang đầu gối.

      "Lối cư xử của con quái thú gì thế này?", Machiavelli hỏi gằn.

      " phải quái thú!", Billy chụp bên cánh tay Machiavelli, Diều Hâu Đen túm vào bên kia. Hai người kéo lê y xuống đường hầm.

      "Tệ hơn nữa kia", Diều Hâu Đen la lớn.

      "Vậy cái gì?"

      "Động đất", Billy và Diều Hâu Đen cùng lượt. Đằng sau họ, khoảnh trần đường hầm kêu răng rắc. Rồi tất cả đổ sập.




      CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM


      Cầu Cổng Vàng lắc lư.

      "Động đất", Prometheus . "Tôi tự hỏi biết như thế có phải là cuối cùng Ruaumoko đứng về phe các Elder Đen tối rồi chăng."

      " đâu, tôi e rằng ông bạn nóng nảy của chúng ta bị nhốt trong Vương quốc Bóng tối mất rồi", Niten kèm theo nụ cười ít thấy. "Ông ta có chút bất đồng ý kiến với Aoife và biến mất tăm."

      Cơn dư chấn thứ hai ầm ầm, chiếc cầu kim loại kêu rền.

      Bầu khí lạnh đượm muối nhuốm mùi hương đăng đắng ngòn ngọt của cây anise, và trong khoảng cách bước chân Prometheus lung linh trong bộ giáp đỏ chiếu sáng mờ mờ. Cây mã tấu khổng lồ buộc chéo qua lưng, tay ông ta cầm cây búa chiến, tay kia cầm rìu chiến.

      Niten vẫn mặc bộ vét đen của mình, nhưng lúc này công khai đeo sau lưng hai thanh kiếm - katana và wakizashi.

      Nhiều xe hơi bị bỏ lại cầu khi màn sương mù thấp sát xuống thành phố khiến cho việc lái xe trở nên quá nguy hiểm. Trong sương mù, những chiếc xe đứng lùm lùm thành những hình thù phân biệt được, như những con thú thiu thiu ngủ. Prometheus và Niten kiểm tra từng chiếc khi họ ngang qua, nhưng tất cả đều trống trơn. Ánh đèn của chiếc xe hơi vẫn còn bật sáng. Chùm sáng bật ngược ra khỏi bức tường khuấy động thể xuyên thấu được.

      "Hai chống lại ba mươi hai", Niten .

      "Trước nay tôi chưa bao giờ đánh nhau với Spartoi", Prometheus thú nhận. "Tôi chỉ biết chúng qua danh tiếng thôi và đáng kinh sợ."

      "Chúng ta cũng có danh tiếng tầm cỡ đó mà", Niten .

      "Ừm, thôi", Elder . "Hầu như tôi chưa bao giờ là chiến binh cả. Sau biến cố nhấn chìm của hòn đảo, hiếm khi nào tôi cầm lại vũ khí."

      "Chiến đấu là kỹ năng ông chẳng bao giờ quên được", Niten , giọng thoáng nghe buồn buồn. "Tôi đánh tay đôi lần đầu hồi mới mười ba. Rồi chiến đấu luôn từ đó."

      "Nhưng còn hơn cả kiếm sĩ", Prometheus . " nghệ sĩ, nhà điêu khắc, và là văn sĩ."

      " có người nào chỉ làm việc". Niten trả lời. Hai vai hạ xuống và thanh đoản kiếm xuất nơi bàn tay trái, từng giọt nước lấp lánh nơi lưỡi kiếm. "Nhưng đầu tiên và hết, tôi luôn là chiến binh." thọc lưỡi kiếm vào màn sương và khuấy tung nó như thứ chất lỏng.

      "Càng lúc càng dày", Prometheus .

      "Đàng nào cũng tốt. Chúng ta có thể lợi dụng nó làm lợi thế cho mình."

      "Chúng ta thể nhìn thấy bọn chúng", Prometheus cãi.

      " bọn chúng cũng thể nhìn thấy chúng ta", Kiếm sĩ nhắc ông. "Chúng ta có lợi thế là biết chính xác mình đối mặt với ai và với cái gì. Bọn chúng biết chúng chống lại ai. Hay là bao nhiêu."

      " ý hay."

      "Tôi có thể có đề nghị được ?", Niten , hơi ngài ngại.

      "Tất nhiên. là chiến binh chủ lực mà. Ở đây, là chuyên gia."

      "Hãy làm mất bộ giáp ấy ."

      Đôi mắt màu xanh lá của Prometheus nhấp nháy ngạc nhiên.

      Niten hít vào. "Tôi có thể ngửi thấy mùi luồng điện của ông. Và nếu tôi có thể, bọn chúng cũng thế. Hơn nữa, đúng là có chút màu đỏ thẫm quanh người ông, ánh sáng đỏ mờ mờ. nền tối này, ông nổi bật lên như ngọn đèn tín hiệu mất thôi."

      "Tôi giữ hai thanh kiếm được ?", Prometheus hỏi.

      " thôi có lẽ đủ rồi."

      " có hai kìa", Elder nhắc.

      "Tôi nhanh", Niten . "Nhưng ông mạnh. Hãy giữ lại thanh gươm to bản."

      Elder gật đầu, bộ giáp của ông nhấp nháy biến mất, để lại ông trong bộ quần jeans áo sơ mi, với duy thanh mã tấu trong tay.

      "Ông muốn chiếc cầu bên nào?", Niten hỏi.

      "Tôi lấy bên phải", Prometheus .

      "Tôi nghĩ có lẽ thế". Niten vừa gật đầu, vừa dịch sang bên trái. "Chúng ta thể để bọn Spartoi vào thành phố được."

      "Hãy nhớ, chàng chiến binh, thậm chí chúng ta còn buộc phải giết chúng, đơn giản chỉ cần giữ chân chúng cho tới bình minh", Prometheus đáp. "Năng lượng làm cho chúng sống rồi tiêu tan. Tôi quan tâm đến việc làm sao để chỉ hay hai con giao chiến với chúng ta tại đây thôi, số còn lại đơn giản cứ ùa qua. Chúng ta thể đồng loạt chiến đấu với chúng được."

      Niten gật đầu. "Cái chúng ta cần là thanh chắn hay đại loại thế", mới tới đó.

      Đồng loạt cả Elder và người bất tử đều quay nhìn vào những hình dáng nhòa nhòa của những chiếc xe bị bỏ lại. "Ông mạnh cỡ nào lận?", Niten hỏi.

      "Rất mạnh. nghĩ đến bức tường làm bằng xe hơi chứ gì?"

      Sương mù biến mái tóc đen của Niten thành chiếc mũ bạc. ta đưa hai ngón tay thành hình chữ V. "Chúng ta có thể tạo ra cái phễu. Dồn sát bọn Spartoi, đẩy chúng vào với nhau, dẫn chúng tiến đến chúng ta và cướp lợi thế số đông của chúng. Chúng chỉ có thể đến với chúng ta mỗi lần con thôi..." Giọng ta kéo dài rồi bỏ lửng. "Hay là chúng có thể trèo qua mấy chiếc xe hơi sao ta, tôi giả sử thế."

      Elder cười khùng khục. " bao giờ nhìn thấy Spartoi chưa?"

      Niten lắc đầu.

      "Chúng lớn lên từ răng Rồng. biết cá sấu sông Nile trông thế nào ? Đương nhiên là biết", Prometheus , tự trả lời cho câu hỏi của chính mình. "Spartoi chia sẻ nhiều DNA thuộc loài bò sát. Chúng gần như cao bằng nhưng cẳng chân ngắn, rất ngắn, thân mình dài, đầu hẹp. Chúng có thể chạy hai hoặc cả bốn chân, và chúng nhanh, rất nhanh, cực nhanh. Nhưng lại giỏi leo trèo đâu". Ông liếc mắt nhìn vào màn sương. "Nếu tôi lật nghiêng những chiếc xe, có thể làm cho việc leo trèo càng khó khăn hơn." Ông săm soi nhìn vào bóng tối nhưng thấy được gì. "Tôi chắc mình cần bao nhiêu chiếc xe, hoặc biết có đủ cầu hay . Phải mất lúc để tổ chức sắp xếp lại."

      "Vậy tôi giữ cho lũ bạn cá sấu của chúng ta bộn rộn mới được." Hàm răng Niten sáng lóa khi ta cười. "Tồi cố gắng để lại vài con cho ông đấy". bước và chìm vào bóng đêm.

      "Cẩn thận nhé", Prometheus gọi lớn.

      giọng kỳ quái rỉ ra khỏi màn sương. "Tôi được sinh ra là vì việc này mà. Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là gì nào?"

      " có thể bị lũ Spartoi giết chết và ăn thịt."

      "Đừng làm tôi chết khiếp chứ."

      "Có đấy", Prometheus cảnh báo. "Bọn chúng cần chờ cho tới khi chết mới bắt đầu ăn thịt đâu."

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG HAI MƯƠI CHÍN


      Bất thình lình màn đêm yên tĩnh bị xé toang do tràng sủa kỳ cục, thanh hơi giống như tiếng ho khan.

      "Chó ư?", Perenelle hỏi.

      " phải chó, hải cẩu đấy", Nicholas buột miệng.

      Ngay lập tức, bầy mòng biển bay lượn phía đầu, những ánh chớp ma quái lóe lên trong sương mù, kêu quang quác, quàng quạc.

      "Có gì đó ổn. Mòng biển thường kêu ban đêm", Nicholas . Nhắm mắt, ông ngửa đầu hít thở sâu. "Kỳ cục. Tôi ngửi thấy mùi gì mới cả."

      Thêm những tràng sủa, lần này là chó . thanh bị màn sương dày chặn tiếng.

      "Ồ !". Đột nhiên Nicholas đưa tay chụp lấy cánh tay Perenelle vừa đúng lúc cầu tàu bắt đầu lăn tròn và rung rung. Mấy cái ghế kim loại họ ngồi rung lên và khua lách cách nền đá.

      "Đó là gì vậy?", Perenelle hỏi, khi những chấn động rền rền cuối cùng cũng giảm bớt. "Elder hả? Hay là Quan chấp chính?"

      "Động đất", Nicholas , có chút hụt hơi. "Có lẽ đến bốn độ Richter. Và gần, rất, rất gần."

      "Mình nghĩ ai gây ra?", Perenelle thắc mắc. "Nếu các Elder Đen tối có thể đạt tới sức mạnh cỡ đó, vậy chúng ta gặp rắc rối rồi. Bọn họ có thể phá hủy thành phố này mà cần phải có sinh vật nào lên bờ". Bà cau mày. "Tại sao trước giờ bọn họ dùng đến nhỉ?"

      Nhà Giả kim lắc đầu. "Có lẽ tượng thiên nhiên thôi", ông . "Nhớ chuyện gì xảy ra hồi mình và Machiavelli đánh nhau ngọn núi Mount Etna ? Tôi chắc chắn cơn động đất ấy gây ra do tất cả các năng lượng thô đều tập trung vào thành phố". Ông xoa hai bàn tay vào nhau, những tia lửa màu xanh lá tỏa sáng mờ mờ trong trung. "Nhìn kìa. gian sinh động hẳn lên với những luồng điện. Chúng ta biết Bastet đâu đó ngoài kia. Cả Quetzalcoatl nữa. Prometheus và Niten đường đến đương đầu với các chiến binh spartoi và tôi con Rồng này có luồng điện hay . Mars, Odin, Hel, Billy, Machiavelli và có lẽ cả Diều Hâu Đen nữa đều hòn đảo". Ông rà bàn tay lên đầu, vừa xoa xoa mái tóc cắt sát vừa suy nghĩ. Tĩnh điện kêu xì xì khắp da đầu, bắn ra những tia lửa như pháo hoa hai vai ông. " lý do nữa giải thích tại sao các Elder bao giờ tụ tập đông đúc trong thời đại."

      Perenelle liếm môi, gật đầu. "Tôi có thể nếm thấy năng lượng trong khí."

      cơn rùng rùng kéo dài mười giây làm khắp đường phố rung chuyển. "Dư chấn", Nicholas thều thào. "Tôi tưởng tượng lần cuối cùng có quá nhiều luồng điện tập hợp trong gian đọng như thế này là hồi ở Danu Talis."

      "Nếu có ai đến hỗ trợ chúng ta, luồng điện của họ, cộng với mọi thứ khác ở đây, có lẽ mang đến trận động đất thậm chí còn lớn hơn. Chúng ta cần phải qua tới hòn đảo và kết thúc chuyện này". Bà nắm bàn tay chồng, kéo ông dọc theo rìa bến cảng, ra phía nước. "Ngay khi chúng ta bắt đầu sử dụng luồng điện", bà , "chúng ta để lộ vị trí cho bất kỳ ai bất kỳ thứ gì ngoài kia. Mà chúng ta nay già lắm rồi. Nếu có thứ gì cản trở chúng ta xông qua vịnh, chắc trước khi tới nơi chúng ta đành liều cái mạng già sắp chết này mất thôi."

      Perenelle và Nicholas chạy ngang qua công viên Aquarium của Vịnh. Họ có thể nghe thấy bên trái mình tiếng nước vỗ vào các thân gỗ. Cả hai đều biết có nhiều tàu thuyền bến neo, nhưng nhìn thấy được vì sương mù. Họ có thể nghe thấy tiếng thân tàu giộng và cạ quẹt vào cọc gỗ, những sợi dây néo sút ra khỏi phần kim loại. cột buồm lù lù ngay trước họ và họ chợt bắt gặp mình đứng ngay nơi mép cầu tàu. Sương mù cuộn khỏi mặt nước như làn hơi bốc lên.

      "Mình có nhớ làm việc này thế nào ?", Nicholas hỏi kèm theo nụ cười thận trọng.

      " Tất nhiên". Perenelle mỉm cười. "Đó là câu thần chú biến đổi đơn giản thôi mà. Chúng ta thường dùng để..." Những lời cuối tắt ngấm môi bà và nụ cười nhạt .

      "Chúng ta thường dùng để làm bọn trẻ vui vẻ", Nicholas tiếp cho hết câu. Ông quàng tay quanh người vợ và kéo bà sát vào, mái tóc ẩm ướt của bà dính lên mặt ông. "Chúng ta làm những gì chúng ta tin là đúng", ông nhanh, "và tôi bao giờ chấp nhận rằng những gì chúng ta làm là sai."

      "Chúng ta bảo vệ cuốn sách", bà lẩm bẩm.

      Qua nhiều thế kỷ, Nicholas và Perenelle Flamel tìm kiếm cặp song sinh huyền thoại. Khi tìm thấy những cặp Vàng và Bạc, hai ông bà cố thử Đánh thức họ, nhưng ai trong số rất ít những người sống sót ấy sau này được lành mạnh . Chỉ trừ Sophie và Josh.

      "Quá nhiều mạng sống mất ", bà thầm.

      "Quá nhiều người được cứu", ông nhanh. "Chúng ta bảo vệ cuốn sách khỏi Dee. Mình có thể hình dung làm gì nếu tìm thấy cuốn sách đó ? Cuối cùng, chúng ta tìm được cặp song sinh huyền thoại, và Đánh thức hai đứa thành công. Chúng ta làm đúng, tôi nhận thức như thế."

      "Tôi nghĩ Tiến sĩ Dee có thế chính xác y như vậy khi phán xét hành vi của ", Perenelle đầy cay đắng.

      "Perenelle". Nicholas Flamel nhìn sâu vào đôi mắt màu xanh lá của vợ. "Cuộc hành trình của chúng ta mang chúng ta tới đây, tới nơi này, vào thời này, nơi chúng ta có thể tạo ra khác biệt. Cùng nhau, chúng ta có thể giải cứu thành phố và ngăn cho các Elder Đen tối phá hủy Vương quốc Bóng tối này."

      Nữ Phù thủy gật đầu và lùi cách chồng chút. Đứng sát rìa cầu tàu, bà xòe hai tay ra, lòng bàn tay hướng lên, các ngón tay cong lại. Luồng điện trắng như nước đá của Perenelle hình thành vũng nước trong lòng bàn tay bà. Những bọt nước chầm chậm dâng lên và nổ bụp bụp, sau đó chất lỏng ấy tràn ra khỏi bàn tay, rơi xuống biển thành từng dòng dài sền sệt như thạch. Nicholas bước qua, và chỉ trong tích tắc trước khi nắm lấy bàn tay vợ mình, luồng điện của ông chảy thành chiếc găng bọc những ngón tay và mùi hương bạc hà đậm đặc tràn ngập khí. Hai luồng điện hòa quyện vào nhau trắng xanh trở thành khối dinh dính màu xanh ngọc lục bảo chảy qua hai bàn tay nắm chặt, chạm đến đâu làm màn sương ướt cứng lại thành những mảnh nước đá đến đó, rồi mới bắn tung tóe xuống những đợt sóng bên dưới.

      "Biến đổi", Nicholas . " trong những nguyên tắc đơn giản nhất của thuật giả kim."

      "Có lẽ chỉ đơn giản với mình thôi", Perenelle mỉm cười.

      "Chuyên ngành của tôi mà", ông nhất trí. "Tất cả những gì ta phải làm là thay đổi trạng thái của nước từ thể lỏng sang thể rắn."

      Luồng điện của nhà Flamel chạm vào sóng nước đến đâu ở đó nước đá kết thành khoảnh hơi tròn tròn. Có tiếng lốp bốp, tanh tách, răng rắc, các con sóng khi dâng lên bị cứng lại đóng thành băng, rồi xòa xuống thành phiến nước đá bên hông cầu tàu.

      Nicholas đỡ Perenelle trèo xuống khoảnh nước biển đóng băng ấy. Bà giậm chân. Nước đá kêu cót két nhưng vẫn rắn chắc. Sau đó bà còn nhảy lên nhảy xuống.

      "Xin đừng làm thế mà", Nicholas lào thào.

      "Xuống ", bà gọi vói lên, "nước đông thành đá rồi."

      "Ừ. Chúng ta cần nhanh lên", Nhà Giả kim vừa , vừa trèo qua hông cầu tàu. " giữ được lâu đâu. Muối biển ăn vào nước đá". Khi ông thả chân lên khoảnh nước đá tròn, nó chênh nghiêng và lắc lư qua lại. Ngay lập tức Perenelle bước qua phía bên kia, cân bằng trở lại.

      Hai vợ chồng cùng đứng cạnh nhau miếng nước biển đông thành đá. Xung quanh họ, nước vẫn là chất lỏng. Nhà Giả kim xoa hai tay vào nhau, như thể lăn trái banh. Mùi hương bạc hà gần như áp đảo. Ông vung cánh tay, tung luồng điện của mình thành dải băng xoạc dài chừng mét hai phía trước họ. Luồng điện bắn tóe mặt nước và cứng lại ngay thành cây cầu nước đá mặt biển. Tay trong tay, Nhà Giả kim và Nữ Phù thủy bước lên cây cầu rạn răng rắc.

      Tới được cuối cây cầu, Perenelle vung cánh tay, và làn khói trắng mờ mờ sáng dài gần hai mét hình thành mặt biển, làm nước biển đông thành đá.

      Hai vợ chồng tiếp tục trong im lặng, tạo ra trước mặt mình từng quãng của cây cầu nước đá. Đằng sau họ, nước biển có muối nhanh chóng đòi lại con đường vừa đóng thành băng. Con đường này nằm sát mặt nước, bị phủ màn sương luôn dày đặc nên họ thể nhìn thấy gì, và họ nhận thức được cách bãi biển bao xa. Họ biết mình phải vào vịnh, bởi vì từng đợt sóng càng lúc càng cao, rắn lại thành những kiểu mẫu hình chữ S xinh đẹp. Nhưng biển chung quanh càng lúc càng động và con đường nước đá chỉ tồn tại được có vài giây, vừa đủ thời gian cho phép họ phóng từ khoảnh này sang khoảnh kế tiếp.

      Bất chợt Perenelle siết tay chồng. lời, ông gật đầu.

      Có gì đó bắn tung tóe qua làn nước phía bên trái họ. Cái thứ hai rồi cái thứ ba. Sau đó, rất mờ nhạt, như tiếng động từ những ống nghe xa xa xíu, thanh giống như sở thú vào giờ cho ăn và họ nhận ra mình gần với hòn đảo lắm rồi.

      Nicholas ném xuống đoạn đường nữa. Họ vừa bước lên đó con quỷ sứ ló ra khỏi màn sưong. Tiếp theo là con thứ hai và con thứ ba.

      Nữ thần Biển.

      Lao ra khỏi màn sương mù phô ra mái tóc dài màu xanh lá hoang dại, hàm răng lởm chởm và móng vuốt lấp lóa, chúng nhào xuống hai hình dáng dải nước đá tan chảy giữa Vịnh San Francisco.




      CHƯƠNG BA MƯƠI


      Nữ thần Biển khổng lồ.

      như hai kẻ đồng hành tóc xanh lè, mụ ta hói đầu, vết thẹo dài màu trắng cũ kỹ cùng những vết lõm dúm dó chạy dọc bên mặt, để lại con mắt là khối cầu đục ngàu. Miệng há hoác thét lên tiếng từ trong họng, con quỷ thẹo đứng lên bằng đuôi, cánh tay nhô lên, hết sức hiểm ác bất thình lình thọc cây đinh ba bằng đá nhọn hoắc thẳng tới Perenelle.

      Nữ Phù thủy giật lùi, hai bàn chân trượt dài. Bà ngã rầm xuống mặt nước đá bất ngờ vỡ làm hai. Nước muối tràn vào.

      Nicholas quăng vốc luồng điện xanh lá vào mặt sinh vật kia. Nước biển phủ lên mình Nữ thần Biển đông lại thành từng phiến kêu lắc rắc đầu mụ, qua ngực, bụng, xuống tới đuôi, biến mụ thành khối nước đá cứng ngắc. Nhà Giả kim xoắn mạnh cây đinh ba ra khỏi móng vuốt của sinh vật ấy chỉ tích tắc trước khi trọng lượng khối nước đá làm mụ lộn nhào, quay lông lốc, kéo mụ chìm dưới đợt sóng bập bềnh. Ông phóng cây đinh ba vào Nữ thần Biển quờ quạng trèo lên mặt nước đá. Mụ loạng choạng rơi xuống nước trở lại, đuôi quẫy lung tung.

      Vẫn nằm ngửa, Perenelle tung cú đá vào sinh vật thứ ba cố kéo bà xuống nước. Bà phun từng mảnh nước đá vào mắt Nữ thần Biển nhưng nó vẫn tiếp tục trườn mình ra khỏi biển, mấy cái móng dài thượt cắm phập vào con đường bằng nước đá.

      Và rồi Nicholas bắn té tát luồng điện của ông vào nó. Nữ thần Biển ngay lập tức biến thành khối nước đá, nhưng trọng lượng của nó lại khiến con đường lần nữa gãy tách làm hai, để lại Perenelle mảnh nước đá xíu hình chữ nhật tan chảy rất nhanh.

      Làn nước xung quanh hai người bắt đầu dậy sóng vì bọn Nữ thần Biển.

      Ấn bàn tay vào con bọ hung đeo nơi cổ, Nicholas rút ra chút sức mạnh dự trữ. Ông mở rộng các ngón tay hất những dải luồng điện dày khắp mặt biển. Ngay tức khắc tấm thảm màu ngọc lục bảo trong suốt như pha lê phủ lên mặt nước, nhốt bọn Nữ thần Biển phía dưới. Chúng hú hét, nện đạp ầm ầm bề mặt đông thành nước đá.

      Perenelle nhảy tót khỏi miếng nước đá xíu kịp ngay trước lúc nó tan ra. Bà đáp xuống tấm thảm màu xanh lá và trượt qua mặt biển đóng băng. Nicholas chìa cây đinh ba ra, bà chụp lấy, suýt kéo ông ngã lăn quay.

      Tấm thảm màu xanh đông thành đá tiêu tan, mặt biển chung quanh hai người sôi sục bọn Nữ thần Biển tàn ác, từng đợt sóng đóng váng và sủi bọt toàn là những mái tóc xanh lè và những cái đuôi cá.

      Nữ Phù thủy chỉ tay qua bên trái. "Hòn đảo nằm hướng này". Bà giật mạnh cái xiên khỏi tay chồng và quăng vào mụ Nữ thần Biển có hàm răng sắc như dao cạo phóng khỏi nước. Sinh vật kia kêu ré lên khi những lưỡi đá chặt phăng nùi tóc màu xanh lục; sau đó nó giộng vào khối nước đá lưng mình và quay trở vào sóng nước. Perenelle thọc mạnh thêm cú. Sinh vật ấy lộn nhào cố tránh né vũ khí, nhưng Perenelle giáng xuống nó cú đấm sượt ngang qua bên đầu. Nữ Phù thủy lại vung cây đinh ba lần nữa. Cây đinh ba kêu o o thứ năng lượng thô, để lại mùi cá tanh hôi trong làn khí đằng sau, và đột nhiên bà nhớ trước đây mình nhìn thấy ở đâu rồi: trong đường hầm bên dưới Alcatraz trong tay của Lão Già Biển.

      "Đây là cây đinh ba của Nereus", bà lớn với Nicholas. "Tôi thắc mắc biết làm thế nào lão ta lại đánh mất nó."

      " phải tự nguyện đâu, tôi cược đấy". Chồng bà lẩm bẩm. Với bàn tay ấn vào con bọ hung ngực, ông dồn sức tạo ra đoạn cầu nước đá nữa, nhưng ông yếu rất nhanh. Nước đá mỏng dính, nứt nẻ ngay khi họ chạy qua. "Tôi thể làm việc này lâu hơn nữa."

      "Gần tới rồi", Perenelle hét lớn át tiếng quẫy đập của bầy sinh vật trong biển. Mặc dù cố gắng tiết kiệm phần còn lại của luồng điện, nhưng bà biết họ có rất ít lựa chọn nếu chúng còn sống sót. Bà gọi lên câu thần chú học được từ Saint-Germain - câu rất hiệu quả mà lại tốn quá nhiều năng lượng. Chất lỏng đặc quánh rỉ ra khỏi lòng bàn tay bà, thấm sâu vào cây đinh ba bằng đá xám, biến nó thành màu đỏ bầm, rồi sẫm lại, gần như xanh đen. Nữ Phù thủy nhúng cây đinh ba vào lớp sóng, màu sắc kia rỉ vào nước như dầu. Bà khuấy cây xiên, hất những lọn mực xoắn xuống nước. "Mồi lửa", bà lầm thầm.

      Biển bừng sáng, những ngọn lửa màu đỏ ngả xanh lơ nhàn nhạt nhảy múa khắp mặt nước, soi rọi những khối đá phủ đầy tảo biển nằm rải rác. Ngay bên những khối đá ấy, bức tường thấp với những đường gỉ sét chảy dọc xuống, đầu tường có hàng rào kim loại, vây quanh bởi cây cối và xương rồng tua tủa là tấm bảng gỗ to bong tróc:

      CẢNH BÁO

      NHỮNG NGƯỜI MÓC NỐI HOẶC

      CHE GIẤU HÀNH VI VƯỢT NGỤC

      CỦA TÙ NHÂN ĐỀU BỊ

      KHỞI TỐ VÀ TỐNG GIAM

      Với chút sức lực sau cùng, Nicholas ném luồng điện của ông qua khối đá và chăm chú nhìn nó đông lại thành dãy bậc thang thô sơ. Sau đó ông chìa tay cho vợ, đỡ bà bước qua những phiến đá trơn trợt. Cây đinh ba dựng đứng nơi hàng rào, còn hai vợ chồng bò trườn bằng cả hai tay hai chân lên lối hẹp ẩm ướt bên dưới tấm bảng. Họ ngã nhào, lăn tròn lưng và ngước nhìn lên tấm bảng bong tróc.

      "Chào mừng đến với Alcatraz", Nhà Giả kim . Kiệt sức và run lẩy bẩy, họ lồm cồm đứng dậy và lại ngã quỵ xuống lần nữa băng ghế gỗ. Mấy năm trước, các du khách chắc hẳn ngồi những băng ghế y hệt thế này nhìn bao quát ra thành phố và cây cầu. Hai vợ chồng ngồi lúc, lấy lại hơi thở, rồi Nicholas quay sang nhìn vợ. Sương mù làm cho gương mặt bà gần như mang vẻ huyền ảo, thậm chí còn xinh đẹp hơn bình thường. "Tôi vừa chợt nhận ra điều", ông bằng tiếng Pháp cổ xưa.

      Perenelle gật đầu. "Tôi biết."

      "Chúng ta sống mà rời khỏi hòn đảo này đâu, phải ?"

      "Đúng, sống nổi."




      CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT


      Hekate, Nữ thần Ba Mặt, ngồi trong phòng thiết triều của cây sống.

      Căn phòng đến ngạc nhiên, chẳng hơn gì căn phòng đệm tròn khoét trong ruột cây Yggdrasill. Phòng được đánh sáp bóng loáng sáng rỡ như gương, và cành cây cằn cỗi u nần được đẽo gọt làm thành cái ngai trang trí công phu. Tường để trơn, vật duy nhất trong phòng là cây nến trắng to, cao cỡ người đàn ông trưởng thành, chiếm lấy vị trí bên phải chiếc ngai. Ngọn lửa màu vàng ấm áp được bảo vệ nhờ quả cầu pha lê rất lớn, bên dể hở, và vệt khói đen mờ mờ gần như vô hình lưu lại vòng tròn vo nơi trần nhà.

      Prometheus đứng bên phải ngai, hai cánh tay khoanh trước bờ ngực đồ sộ. Scathach giữ vị trí cạnh cửa, lưng áp vào tường. Palamedes ở cạnh bên kia của cánh cửa ấy, đối xứng vị trí với . Shakepeare đứng bên cửa sổ, miệng há hốc nhìn xuống trung tâm thân cây. Ông nguệch ngoạc ghi tốc ký mẩu giấy ngả vàng bằng đụt viết chì bị gặm nhấm. Tay trong tay, Joan và Saint-Germain đứng phía trước ngai, nhìn Elder.

      Hekate già theo thời gian trong ngày.

      Quá trình Biến đổi của bà độc nhất vô nhị: trẻ vào buổi sáng, từ từ biến thành phụ nữ trưởng thành vào xế trưa, và nhanh chóng già thành bà lão khi ngày tàn. Người phụ nữ cổ xưa này được đặt nằm ngủ trong phần rễ dài, hẹp, rỗng của cây Yggdrasill, rồi cùng với ánh bình minh, lần nữa bà trẻ lại. trẻ tỉnh giấc vào buổi sáng biết tí gì về người phụ nữ mình từng thân trong ngày hôm trước, và bà lão mà bà trở thành vào buổi tối quên hết những gì diễn ra suốt trong từng giờ khắc có ánh mặt trời. Chỉ có người phụ nữ trưởng thành, cai quản những giờ xế trưa, khi mặt trời nhô cao bầu trời, là hoàn toàn hiểu biết và nhận thức được các diện mạo của bản thân mình. Bà được kết nối chặt chẽ với cây, nó còn già hơn cả Vương quốc Bóng tối này, nguồn gốc của nó lạc mất từ lâu trong bức màn che của lịch sử. Nhiều người còn tin rằng nó có tri giác.

      "Tôi chỉ có ít thời gian, và có nhiều điều phải giữ trong lòng ra được", người phụ nữ tóc trắng ngồi ngai . "Tôi già rất nhanh, và trong ít phút nữa, thậm chí có thể tôi còn biết các người là ai". Bà nhoẻn cười, hàm răng trắng lóa tương phản vói khuôn mặt ngâm đen, nhưng ai bật cười cả. Họ biết lúc này phải bà đùa.

      "Các biến cố dần tới hồi kết thúc", bà vừa nhanh, vừa nhìn mặt từ người này sang người kia. "Hầu hết các người tôi biết ai là ai tuy nhiên các người được Abraham loan báo trước, và như thế với tôi là đủ. Pháp sư với tôi rằng giống người từ Thòi Sắp Đến tới đứng cùng phe với chúng tôi, chiến đấu vì tồn vong cho thế giới của tôi và vì tương lai cho thế giới của họ". Sắc cầu vồng chiếu mờ mờ ánh ngũ sắc, tỏa lên khắp chiều dài chiếc áo đầm bà mặc. "Chúng ta trong thời nguy hiểm. Tôi có nghe , dù bản thân hoàn toàn nhận thức được hết, rằng trong dòng thời gian đặc biệt này tồn tại cơ hội để định hình tương lai và tái tạo mọi thứ. Nghe có vẻ đặc biệt, ghê gớm, nhưng có thế chúng ta mới sống trong thời đại phi thường. Từng xuất những kẻ ra sức định hình lại tương lai vì các nhu cầu riêng của bọn họ. Abraham và Chronos bảo đảm với tôi rằng nếu những kẻ đó thành công, hàng tỷ tỷ sinh mạng nhất định phải chấm dứt". Bà lắc đầu. "Tôi cho phép chuyện đó xảy ra."

      "Vậy là bà chuẩn bị chiến tranh", Scathach . "Chúng tôi thấy quân lính duyệt binh."

      " phải chiến tranh. Sứ mệnh giải cứu đấy. Tuy nhiên tôi vẫn e rằng có kết thúc tốt đẹp". Bà lão quay sang nhìn Prometheus. "Tất cả sẵn sàng cả chưa?"

      "Rồi, thưa quý bà". Elder gật đầu. "Chúng tôi chờ lệnh của bà."

      Những vết nhăn đầu tiên xuất mặt Hekate. Nếp gấp vầng trán cao, gần như nhìn thấy được nơi nước da ngâm đen của bà. Bà cau mày, đường lằn sâu hơn. "Các người có biết món quà lớn nhất bậc cha mẹ có thể cho con cái là gì ?", bà vừa hỏi, vừa nhìn quanh phòng.

      ai trả lời.

      "Tự lập. Cho phép chúng rời gia đình vào thế giới và tự quyền quyết định, bước con đường riêng của chúng. Các Elder chúng tôi thừa kế thiên đường từ các Quan chấp chính và Elder Vĩ đại. Chúng tôi chưa xử lý tốt, và ràng là mọi người bằng mắt thường cũng thấy rằng thế giới này bị lên án nếu chúng ta cứ tiếp tục là chính mình. Và chúng tôi tiếp tục ham gì thay đổi. Các người có biết sai lầm lớn nhất mà bậc cha mẹ có thể mắc phải là gì ?", bà hỏi.

      ai nhúc nhích.

      Elder lại nhìn khắp phòng lần nữa. "Ai có con?", bà hỏi.

      William Shakespeare bước lùi khỏi ô cửa sổ. "Tôi có. Hai trai", ông tự hào .

      "Ông là người kể chuyện phải , Đại Thi hào?"

      Shakespeare gật đầu. " từng. Lâu lắm rồi."

      "Vậy hãy tôi nghe xem, người kể chuyện sai lầm lớn nhất mà bậc cha mẹ có thể mắc phải là gì?", bà hỏi.

      "Là tin rằng con cái mình giống hệt mình."

      Hekate gật đầu. "Thế giới thay đổi. Nó thuộc về thế hệ kế tiếp." Bà đưa tay ra đặt cánh tay Prometheus. "Nó thuộc về loài người. Nhưng có các Elder được lãnh đạo bởi Isis và Osiris, hoặc những người theo Bastet, những kẻ chịu chấp nhận thế giới mà họ thống trị. Vì thế họ mưu giữ lại quyền kiểm soát. Họ tiêu diệt chúng ta. Hết thảy chúng ta Elder cũng như con người. Và tôi cho phép." Người phụ nữ già rất nhanh đứng dậy. "Sớm hôm nay, ngay khi tôi chuyển sang hình thức này, tôi biết được rằng Bastet và Anubis hành động chống lại Aten. Quả hồi kết rất gần rồi. Thời điểm đến."

      Độ rung rất rùng rùng dọc theo chiều dài cây Yggdrasill, tiếng vo vo rung rung truyền qua thân gỗ dày. Ngọn lửa nến nhảy nhót. Ngay lập tức Prometheus chồm qua, nhấc khối cầu bằng kính lên và dập tắt lửa giữa ngón cái và ngón trỏ.

      Hekate gục đầu, giơ đứng bàn tay. "Nghe đây", bà thào.

      "Will, chuyện gì xảy ra ngoài kia thế?", Palamedes hỏi vói.

      "Đèn tắt ngúm", Đại Thi hào vừa thầm , vừa nhìn vào khoảng trống giữa thân cây. "Lá rơi như tuyết ấy."

      Lần lượt, tất cả mọi ngọn đèn trong Cây Thế giới nhấpnháy rồi tắt phụt. thanh tĩnh lặng.

      Nghe tiếng cót két, răng rắc và tiếng thở dài của Yggdrasill.

      "Cái cây đau đấy", Hekate lào thào.

      Cơn rung thứ hai khua lanh canh khắp thân cây.

      "Động đất", Scathach khẽ. cảm thấy độ rung lan lên đến cột sống mình.

      "Mấy ngày qua những cơn động đất càng thường xuyên hơn", Prometheus . Ông làm gì để thắp ngọn nến lên lại. "Cũng trong mấy ngày qua, các Elder và thậm chí vài Elder Vĩ đại quay trở lại từ các Vương quốc Bóng tối của họ. Nhiều thế kỷ trôi qua kể từ khi có quá nhiều năng lượng tụ về với nhau trong cùng nơi thế này."

      "Các kiện thể tách rời được", Saint-Germain .

      "Có nhiều Elder như thế trong thành phố là việc bất thường hả?", Joan hỏi.

      "Đúng. Chúng tôi...", Hekate dừng lại chút, liếc sang Prometheus. "Bản chất của chúng tôi là độc mà. Đặc biệt là những người bị Quá trình Biến đổi chuyển hóa tận gốc."

      Prometheus chồm tới. "Hội đồng Cai quản của Danu Talis họp tối nay. Và lúc này Bastet truất phế Aten ra khỏi quyền kiểm soát của hội đồng, ai biết được xảy ra chuyện gì. Mụ ta cố gắng để Anubis được chỉ định làm Chúa tể Danu Talis. tạo ra và kiểm soát bọn anpu. Bọn ấy hỗ trợ ."

      "Chúng tuyên án Aten bị quăng vào núi lửa", Hekate , giọng bà bắt đầu đứt quãng. Bây giờ gương mặt bà đầy những đường nhăn hằn sâu, hơi thở bà trở nên rời rạc. "Và hai việc đó tôi cho phép việc nào xảy ra cả."

      "Vậy chúng ta trợ giúp Aten à?", Prometheus . "Giải cứu ông ấy chứ?"

      Bà lão nhìn ông, cau mày. "Ai?"

      "Aten", ông cách kiên nhẫn, "Chúa tể hợp pháp của Danu Talis. Chỉ bà mới có thể ra lệnh đó được." ràng là ông ta cố gắng hết sức để kìm nén hoang mang trong giọng mình. "Và nếu bây giờ bà xuống lệnh, lúc bà trở về với diện mạo thứ hai của bà vào xế trưa ngày mai, trễ mất."

      "Tôi e rằng quá trễ cho Danu Talis rồi ấy chứ", bà lão thều thào. " , Prometheus, mang Aten về nhà."

      "Và nếu việc làm đó có nghĩa là gây ra chiến tranh sao?"

      " cứ thế."




      CHƯƠNG BA MƯƠI HAI


      Virginia Dare đứng trong khu chợ mênh mông ngay trước tòa nhà sừng sững có dạng kim tự tháp xấu xí được bảo vệ bằng tường cao bao quanh. ả đoán đây hoặc là doanh trại hoặc là nhà tù. Ả chọn nhà tù, nhờ phán đoán thấy bọn lính gác đầu chó rừng quay mặt vào trong. Bọn anpu đứng xếp hàng nơi những bức tường dốc nghiêng đồ sộ, và có thêm các sinh vật mắt đỏ canh giữ những cánh cổng toàn bằng đá. Đằng sau mấy bức tường là ngọn kim tự tháp đỉnh bằng, tương tự những kiến trúc ả từng nhìn thấy ở Nam Mỹ. Từng nấc thang hẹp, dốc đứng dẫn lên tới đỉnh. Môi ả uốn cong vẻ ghê tởm khi để ý thấy mấy bậc thang đỉnh tòa nhà sẫm màu vì những vết ố đen.

      Người bất tử chợt cảm thấy da mình bắt đầu rờn rợn tĩnh điện. Cũng bản năng như thế giữ ả sống sót và thoát khỏi hiểm nguy suốt nhiều thế kỷ giờ rùng rùng khắp người ả, cảnh báo cho ả chuyện gì đó sắp xảy ra. Ấn bàn tay lên chiếc áo chùng trắng, ả cảm nhận được ống sáo ấm và an toàn trong cái túi đụng vào da thịt. tia lửa bật tách ra khỏi mặt gỗ xuyên qua lớp vải chích vào ngón tay ả.

      Virginia vào giữa sân, xa khỏi mấy bức tường và những người loanh quanh, ả thu mình thấp, hai bàn tay bẹt ra áp xuống đất, khi trận động đất rùng rùng xuyên khắp thành phố.

      Mặt đất rung đủ mạnh để bụi đất tung lên thành hình xoắn ốc. Đám đông xung quanh ả rền rĩ lớn tiếng, hòa làm , thanh của nỗi kinh khiếp khốn khổ. Phản ứng của họ khiến ả bối rối. Đây đâu phải là cơn động đất lớn, có lẽ bốn độ, thiệt hại chỉ làm lộn xộn vài đống trái cây được sắp xếp cẩn thận trong các sạp hàng trong chợ thôi mà. Liếc nhìn quanh, ả nhận ra mọi người quay nhìn về phía ngọn núi lửa khổng lồ vươn cao hơn hẳn hòn đảo. Từng chùm khói trắng xám mỏng tang bắn vọt lên trời, và ngay khi ả chăm chú nhìn, cột khói đen phun thẳng lên tầng mây.

      Tiếng rì rầm thứ hai vang lên, khói đen sôi sục nơi khoảnh trời phía ngọn núi lửa. Mây đen phẳng bẹt ra, trải rộng hết cả miệng núi lửa, rồi nhanh chóng tiêu tan.

      Trong im lặng tiếp theo, Virginia nghe thấy tràng cười cao thé, gần như cuồng loạn; sau đó, bất thình lình, hết thảy mọi thanh của thành phố dồn lên trở lại. Đám đông ùa về phía cổng nhà tù và có tiếng ai đó bắt đầu ê a trầm trầm, "Aten... Aten... Aten..."

      Tò mò, Virginia bước hẳn qua bên, đánh vòng ra phía sau đám đông cứ lớn dần lên ngớt. Những người này dường như là thường dân của Danu Talis, thấp người, da sậm, tóc sẫm. ai cho thấy dấu hiệu gì của giàu có. Nhiều người còn chân đất, ai đeo nữ trang hoặc đồ trang trí, và phần lớn đều mặc trang phục thông thường là quần áo bên trong màu trắng đơn giản với áo choàng bên ngoài, tuy cũng có vài người quản lý sạp hàng mang tạp dề bằng da thuộc. Hầu hết mọi người đều đội chiếc nón rơm hình chóp để ngăn mặt trời làm phồng rộp da. Nhìn quanh, Virginia để ý thấy có bọn lai tạp người-thú giữa đám đông này; tuy nhiên, ả lại quan sát thấy có tên lính gác nào là người cả. Phần lớn là bọn anpu đầu chó rừng, trong khi số khác có sừng và dường nhừ có đầu bò đực hay lợn đực gì đó.

      cánh cửa nhà tù đồ sộ bật mở và hơn chục tên anpu lực lưỡng mình mặc bộ giáp toàn thân lao ra. Chúng cầm những cây gậy tre ốm , tỏa ra và mở đường cắt ngang đám đông kêu thét, dồn họ lùi lại.

      người nam rất trẻ mặc chiếc áo choàng trắng dơ bẩn, Virginia nghĩ trông quá mười ba, ném ra nắm trái cây thối, bay vèo trung và rớt đánh bốp tung tóe khắp tấm che ngực của bọn anpu. Đám đông vỡ òa trong tiếng reo hò. Ngay lập tức toán lính len lỏi qua tốp người ấy, túm lấy cậu thiếu niên. Chúng nhấc bổng cậu ta lên khỏi đất và khiêng cậu ta, lúc này la hét, chân đá lung tung, trở về phía nhà tù. phụ nữ sầu khổ chạy theo họ, ràng là van xin họ hãy thả cậu bé. tên anpu quay lại, giơ cao cây tre trong tay và nhe răng nanh ra, người đàn bà kia rụt người lùi lại, đầy kinh hãi.

      "Ồ, tôi nghĩ thế đâu", Virginia lẩm bẩm. Bàn tay ả đặt sát ống sáo ấm ran lên đến tận ngực, ả bắt dầu bước tới.

      " thể đánh tất cả bọn chúng được đâu."

      Virginia xoay tròn. Ả đối diện với thanh niên cao ráo mình quấn trong tấm áo choàng trắng dài. Phần dưới của tấm áo được vắt ngược trở lên bên vai trái, để lộ nửa dưới của khuôn mặt, ta đội chiếc nón rơm rộng làm cả khuôn mặt chìm vào bóng tối. Đôi mắt ta sáng quắc màu xanh lơ.

      "Tôi có buộc phải đánh hết đâu", ả gắt. "Chỉ những tên hay bắt nạt thôi."

      "Trong pháo đài có đến ngàn tên khác giống như chúng đấy. Mười ngàn tên giống chúng rải rác khắp thành phố nữa kìa. Liệu có đánh được hết tất cả ?"

      "Nếu buộc phải đánh", người bất tử vừa , vừa quay lưng về phía nhà tù. Bọn anpu vây nhóm người, chụp bắt bừa bãi cả đàn ông đàn bà, cả già lẫn trẻ, tách họ khỏi đám đông và lôi họ vào nhà tù. Ả nhìn thấy thằng bé kia. Nó vẫn vùng vẫy trong cánh tay của bọn anpu to khỏe. Thằng bé gào thét, lặp lặp lại cái tên. Virginia cắn môi, chăm chú nhìn mẹ nó đưa hai tay bịt lấy tai và đổ gục xuống nền đá. Tên lính gác anpu tay giơ thằng bé ở lên cao, và ngay trước khi cánh cổng đóng sập lại, thằng bé ngưng vùng vẫy nữa mà lấy hơi gọi lớn hết sức, "Aten!". Đám đông gào đáp lại cũng bằng cái tên đó.

      "Thằng bé ra sao?", Virginia hỏi người bí kia.

      "Nếu may mắn, nó bị kết án trong khu mỏ hoặc tham gia vào đội nô lệ xây dựng kim tự tháp cho các Elder."

      "Còn nếu may mắn?", ả bắt đầu , rồi dừng sững lại, chợt nhận ra rằng người đàn ông kia tiếng . Ả quay người đối diện với ông ta.

      "Nếu may, nó bị gởi tới làm nô lệ trong Vương quốc Bóng tối nào đó. Đó là án sống. Nhiều người cảm thấy như thế còn tốt hơn là ngược lại."

      "Đó là gì thế?"

      "Bị mang cho núi lửa ăn."

      "Vì cái gì?". Ả hỏi gặng. "Vì ném nhúm trái cây à?"

      "Hết thảy các hình phạt đều thô bạo cách cần thiết. Chúng được thiết kế để giữ loài người nằm trong tầm kiểm soát. Đó là cách để số ít kiểm soát số nhiều. Đầy sợ hãi."

      "Loài người nên vùng dậy chứ", Virginia cáu kỉnh.

      "Họ nên thế."

      "Tôi cho rằng Isis và Osiris cử ông đến tìm tôi phải ?", ả hỏi.

      " phải."

      bất tử thận trọng nhìn người đàn ông kia. "Ông biết tôi, đúng ?"

      Khóe mắt người đàn ông nheo lại khi mỉm cười. "Tôi biết , Virginia Dare", ông ta đồng ý. "Và nếu nhìn qua vai tôi, thấy người khác nữa cũng biết đấy."

      Virginia chuyển ánh mắt, nhìn qua vai bên phải của hình dáng ấy. tựa vào tường nơi đầu con hẻm chống đỡ bằng khúc cây gãy, là Tiến sĩ John Dee. Tay Pháp sư giở chiếc mũ rơm của mình ra chào.

      " tới ông ấy , và đợi chút. Tôi đến cùng ngay."

      Virginia đưa tay chụp cánh tay người đàn ông, nhưng chiếc móc câu kim loại cong cong nắm quanh cổ tay ả. "Tốt hơn hết là đừng chạm vào tôi", ông ta thầm bằng giọng lạnh tanh. Từng mảnh lửa màu vàng bò dọc theo chiếc móc câu và người bất tử cảm thấy ống sáo của mình gần như nóng rát.

      Người đàn ông mắt xanh gật đầu và ngang qua ả. Ông ta di chuyển xuyên qua đám đông, cẩn thận chạm bất cứ ai, và Virginia để ý thấy mọi người ai cũng bước tránh đường cho ông ta cách vô thức. Rung rung như thường lệ, chiếc ống sáo đập theo nhịp da ả như có thêm trái tim nữa, ả băng qua quảng trường, trượt vào con hẻm tối đến đứng cạnh tay Pháp sư già. "Cứ tưởng ông chết rồi chứ", ả chào .

      "Đó là câu chào đáng nhỉ. Tôi suýt như thế."

      Nhè lắc đầu, ả nhìn từ xuống dưới. "Đáng lẽ tôi phải biết rằng khó mà giết được ông."

      "Tôi cược là nghĩ đến tôi lần nào", cùng với nụ cười mệt mỏi.

      "Có lẽ chỉ hoặc hai lần thôi", ả thừa nhận cách ấm áp. "Tôi hy vọng ông được chết nhanh, và cứ sợ được thế."

      "Tôi nghe có gì đó như quan tâm ấy nhỉ?", chọc ghẹo.

      "Trông ông già đấy", ả , tránh né câu hỏi ấy.

      " già bằng tôi đâu. Mà tôi vẫn ở đây đó thôi."

      Virginia Dare gật đầu. "Tôi đoán rằng Isis và Osiris phải là những người làm mới lại tuổi xuân của ông đâu nhỉ."

      "Đúng, phải."

      "Người đàn ông mắt xanh kia chăng?", ả đoán.

      Dee gật đầu. "Marethyu tay móc câu."

      Cái tên ấy bắn cơn rùng mình dọc sống lưng Virginia. "Thần Chết", ả thào.

      "Người cho tôi sống", Dee vừa , vừa lắc đầu. "Thế giới chúng ta sống là hay. Từ ngày xửa ngày xưa, biết ai là bạn bè mình."

      "Ông chẳng bao giờ có bất cứ người bạn nào", ả nhắc nhở .

      "Đúng. Giờ tất cả đều đảo lộn hết."

      Virginia Dare quay sang nhìn lại đám đông náo loạn. Người đàn ông mắt màu xanh lơ biến đâu rồi. Ả nhìn thấy người đàn bà mất cậu con trai. hơn ba, bốn tuổi, bám vào váy bà. "Marethyu đâu nhỉ?"

      "Ông ta thăm ai đó trong tù."

      Dare quay lại Dee. "Nhà tù này trông đâu có giống loại nhà tù có giờ thăm theo quy định."

      "Tôi nghĩ việc đó phiền ông ấy lắm đâu." Tay Pháp sư cười vang. "Ông ấy đến thăm Aten đấy."

      "Tôi nghe người ta gọi tên ông ta. Ông ta là ai thế?"

      "Aten từng là Chúa tể Danu Talis", John Dee giải thích đơn giản. " Elder, nhưng thông cảm với giống người. Loài người chứ nhỉ", tay tiến sĩ tự chỉnh lại. "Bây giờ ông ta là tù nhân chờ xét xử."

      "Tiến sĩ", Virginia hỏi, "ông có muốn với tôi chuyện gì diễn ra ?"

      "Ước gì tôi biết được." Dee gượng cười. "Tất cả những gì tôi biết là mình trải qua nhiều thế kỷ hoạch định và mưu đồ. Tôi tưởng mình thông minh, lập ra những kế hoạch mà phải mất mười năm hay thậm chí nhiều thập kỷ mới đơm hoa kết trái. Chẳng bao giờ tôi biết mình là phần của kế hoạch to lớn hơn, được hoạch định do các sinh vật chưa bao giờ là người, những kế hoạch mà phải mất nhiều thiên niên kỷ mới hoàn thiện được. Hôm nay tôi học được rằng mọi thứ tôi làm đều hoặc là được định sẵn hoặc là được cho phép làm. Tôi chỉ được phép làm cái gì phù hợp với kế hoạch của họ thôi", dứt ý, giọng nghe như bị tổn thương.

      "Xấu hổ chưa", Virginia lẩm bẩm. "Mặc dù ông chẳng hề có chút thông cảm với tôi."

      "Ồ, nhưng cũng đâu có miễn trừ. nghĩ sao nếu tôi bảo rằng cũng là phần của kế hoạch phi thường đấy? Nó kéo dài nhiều thiên niên kỷ đấy."

      Virginia nhìn sát vào người bất tử đứng lom khom, đôi mắt sáng lên trong vùng tối. Trước đây ả chưa bao giờ để ý thấy thế, nhưng đột nhiên ả nhận ra rằng có màu mắt giống ả. Ả cau mày, hồi tưởng. Cũng cùng màu mắt với Machiavelli. " phần kế hoạch ư?"

      "Cách đây lâu, tôi chuyện với Elder từ từ bị hóa thành bức tượng bằng vàng", Dee . cho tay vào dưới áo choàng, kéo ra vật hình chữ nhật thon thon được gói trong chiếc lá cọ. "Ông ấy nhờ tôi đưa cái này cho ."

      Virginia lật qua lật lại trong tay mình. "Cái gì vậy?", ả hỏi.

      "Ông ấy đó là thông điệp."

      "Cho tôi à?"

      Dee gật đầu. "Cho ."

      " thể nào. Làm sao ông ta biết tôi sắp có mặt ở đây?"

      "Và làm sao ông ấy biết tôi sắp có mặt ở đây?", Dee hỏi. "Bởi vì ông ấy lên kế hoạch như thế. Ông ấy và Marethyu lên kế hoạch cho mọi thứ."

      "Kế hoạch gì?", ả hỏi gặng.

      "Sao nào, Virginia, có gì ngoài việc hủy diệt thế giới này."




      CHƯƠNG BA MƯƠI BA


      "Ồ, sao mà tôi căm ghét bọn quỷ lùn thế", Perenelle Flamel rên rỉ.

      Sinh vật lúc lắc bước xuống con đường hẹp bằng đá trông như người nguyên thủy. Thấp chủm, béo ị, nét mặt đần độn, phẳng bẹt, toàn thân phủ đầy lông màu đỏ quạch trơn nhờn, gần như thể phân biệt được với lớp da thú bao phủ lấy thân mình. Nó mang lưỡi dao được đẽo gọt từ phần xương chày của loài thú tuyệt chủng trước cả khi khủng long còn dạo chơi mặt đất này. Hai mắt của sinh vật ấy có màu tuyết bẩn, và khi mỉm cười, hàm răng nhọn hoắc của nó đáng kinh sợ.

      "Thứ đó vừa liếm môi có phải ?", Nữ Phù thủy hỏi, ghê tởm.

      "Bữa ăn tối kìa", con quỷ lùn , bằng giọng trong và sáng đến ngạc nhiên. Có chút trọng .

      "Hiếm khi nào chúng mình...", Nicholas mới tới đó.

      Có tiếng lích kích, như móng vuốt cào bới, và rồi thêm hai con, con là giống cái lẫn vào đâu được, mái tóc đỏ quạch hoang dã cột thành hai đuôi ngựa, ló ra khỏi màn sương xoắn vặn. Ngay cả trong mùi biển và mùi thịt hôi hôi của sương mù, cái thứ thối um tỏa ra từ lũ sinh vật kia vẫn hoàn toàn áp đảo.

      " phải quỷ lùn." Gương mặt phái nữ vặn vẹo kinh tởm. "Chúng là bọn quái thú bẩn thỉu. Còn chúng tôi là Fir Dearg", mụ đầy vẻ tự hào.

      "Đúng, cách nghiêm túc, chúng tôi là Fir Dearg", tên trong lũ sinh vật kia . "Chúng tôi là phái nam. Bà là Mna Dearg. Phái nữ."

      Thở dài, Nữ Phù thủy tựa vào cây đinh ba bằng đá, biến ba sinh vật kia thành đá chỉ với động tác duy nhất của bàn tay. "Ít ra bọn quỷ lùn cũng còn muốn ăn thịt mình và mình phải chết."

      "Lẽ ra còn tệ hơn", Nicholas . Ông bước về phía các sinh vật bị đóng băng và vỗ nhè vào con con giống cái, khi ngang qua. Hai con mắt màu vàng trừng trừng nhìn ông qua gương mặt bằng đá. "Đáng ra chúng có thể là lũ tinh."

      Perenelle rùng mình. "Mình biết tôi ghét bọn tinh hơn hầu hết mọi thứ mà."

      Di chuyển cẩn thận, Nhà Giả kim và Nữ Phù thủy theo con đường hẹp vòng quanh hòn đảo ra tới mảnh đất bên rìa cảng. Họ có thể nghe thấy bọn Nữ thần Biển dõi theo hướng họ , bắn nước tung tóe phía bên phải họ.

      "Dee phải là tên ngốc", Nicholas . Ông dừng hẳn lại khi họ đến cầu tàu nơi những con tàu chở du khách từng có lần đậu ở đây, ông quay nhìn cầu tàu trống trơn. " quy tụ bọn sinh vật này đảo..."

      đứa bé trai mặt chuột ló ra khỏi màn đêm, lao thẳng vào Nhà Giả kim, hai bàn tay quắp lại thành móng vuốt. Perenelle xoay tròn, giậm vào cái đuôi của nó khi nó ngang qua bà, khiến nó dừng lại kêu tiếng két. quay sang Nữ Phù thủy, bà lặp lại câu thần chú vừa sử dụng, biến nó thành đá. Thằng đông cứng người, con mắt mở con mắt nhắm, mãi mãi trong tư thế nháy mắt.

      xoay người, Nicholas tiếp. "Chắc phải có kế hoạch tương ứng để đưa các sinh vật này lên bờ chứ."

      "Cách duy nhất để tới hoặc rời hòn đảo này là bằng thuyền", Perenelle , "Có lẽ kế hoạch thay đổi chăng, hoặc các biến cố chuyển dịch quá nhanh khiến thể điều chỉnh theo thang thời gian mới. Mình nhớ , từ khai thiên lập địa, các Elder đâu có được đến Vương quốc Bóng tối Trái Đất mà phải đợi tới thời Litha. Mà thời Litha vẫn còn hai tuần nữa lận."

      "Chắc hẳn Dee có những kế hoạch để đối phó vói tình huống bất ngờ. phải mất nhiều tháng trời để mang lũ sinh vật kia đến đây cơ mà. Nhưng làm thế nào nhĩ? Chẳng có đường tuyến nào hòn đảo này cả."

      Perenelle gật đầu. "Mà ai trong chúng ta cảm thấy bất kỳ quá trình sử dụng năng lượng nào hết. Phải dùng thuyền thôi."

      "Theo mình đâu là cách duy nhất để rời khỏi đảo." Nicholas suy nghĩ lát. " sai Lotan lên bờ để giáng cơn thịnh nộ khắp đường phố. Khi có được chú ý của mọi người rồi, tôi cược là chiếc thuyền chở nặng các sinh vật được đưa vào lịch trình để từ Alcatraz chạy qua và tham gia vào cuộc vui ấy cho xem."

      "Và khi Dee biến mất, để lại Rắn Lông thay thế?"

      "Hoặc Bastet", Flamel gợi ý. "Chúng ta đều biết Dee hợp tác vói cả hai mà."

      "Tôi tưởng Dee làm việc với Quetzalcoatl chứ. Rắn Lông sống ở đây, đúng, ít ra cũng rất gần", Perenelle . "Và mình nhớ , khi tôi bị nhốt đảo, Areop Enap bị bầy ruồi tấn công. Chắc Quetzalcoatl sai đến đấy."

      "Vậy là Quetzalcoatl sai chiếc thuyền đến", Nicholas chợt , "nhưng chúng ta đâu có thấy gì biển. có thứ gì ngang qua chúng ta hết."

      "Có chọn lựa khác", Perenelle bỗng xen vào.

      Nicholas nhìn bà, rồi gật đầu. "Trừ phi là nó ở đây sẵn rồi", ông thều thào.

      "Nhưng nó có thể ở đâu được chứ?", Perenelle hỏi, chợt cảnh giác. " thể có nhiều chỗ cập bến Alcatraz được."

      Chụp lấy tay vợ, Nicholas kéo Perenelle qua cái giá đứng trước tiệm sách bên có sơ đồ hòn đảo, bề mặt tráng nhựa mỏng lốm đốm sương, ông rà rà bàn tay lên đó. tấm bản đồ đơn giản vẽ hòn đảo với tất cả các tòa nhà đều được tô màu xám, con số ghi màu đỏ. Phía , trong những dải đỏ đen luân phiên là phần giải thích những con số ấy.

      "Chúng ta ở cầu tàu này đây", ông vừa , vừa chạm vào đáy bên phải của sơ đồ. Có con số hai nằm dọc theo vòng tròn màu đỏ ghi hàng chữ BẠN Ở ĐÂY.

      Perenelle lần ngón tay lên dọc theo bờ biển, ngang qua tháp canh và nhà gác, lên tới xưởng phát điện. "Số sáu đâu?", bà hỏi. "Trông có vẻ như là kiến trúc trọng yếu."

      Nicholas kiểm tra con số. "Sáu là đường Bắc. Có ghi Các khu chức năng nhà tù đây này."

      "Nhìn Nhà kho hậu cần xem", bà . "Nó to lớn, nằm gần nước, cạnh bên nhà máy điện ấy. Mình có thể mang con thuyền lên thẳng đảo, và trong màn sương thế này ai khôn ngoan hơn."

      "Nó cách bao xa?"

      "Nicholas, đây là Alcatraz mà. Cách mười phút thôi."

      "Trong sương mù thế này?", ông hỏi đầy hồ nghi.

      "Đúng." Bà trợn mắt. "Có thể chúng ta phải mất mười lăm phút đấy."

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG BA MƯƠI BỐN


      Xuyên qua màn sương bao phủ, thanh leng keng của kim loại khua ngang qua cầu cổng Vàng. Niten thu mình vào tư thế ngồi ngay giữa cầu, có thể cảm nhận được cơn chấn động rung lên qua mặt đất. mỉm cười trước hình ảnh bất chợt đến, Prometheus quăng mấy chiếc xe hơi từ bên này cầu sang bên kia cầu để làm rào chắn. Nghe tiếng lanh canh nho của kính xe, tự hỏi biết bị Elder ném qua cầu cổng Vàng chúng có được bảo hiểm nhỉ.

      Người bất tử Nhật Bản nhắn ngồi xếp bằng, hai thanh kiếm của nằm dài khoảnh đất trước mặt. xếp hai tay để lòng, nhắm mắt, thở bằng mũi, ép khí đêm lạnh buốt xuống sâu vào ngực. giữ hơi đếm đến năm, rồi há miệng hình chữ o thổi hơi ra trở lại, đâm thủng lỗ trong màn sưong xoắn vặn trước mặt.

      Mặc dù chưa bao giờ thừa nhận với mọi người, nhưng Niten thích thời điểm này lắm. thích những gì sắp xảy đến, nhưng thời gian ngắn ngủi này, khi mọi chuẩn bị cho cuộc chiến được thực còn gì phải làm nữa ngoài việc chờ đợi, khi toàn bộ thế giới rơi vào im lặng, như thể nín thở, đặc biệt. Thời điểm này, khi sắp đối mặt với cái chết, là khi cảm thấy được sống hoàn hảo nhất, trọn vẹn nhất.

      vẫn được gọi là Miyamoto Musashi và hẵng còn là thiếu niên khi lần đầu khám phá ra vẻ đẹp chân của giờ khắc yên tĩnh trước trận chiến. Từng hơi thở chợt nghe có vị như món ăn tinh tế nhất, từng thanh đều dễ nhận diện và siêu phàm, thậm chí những chiến trường hôi hám bẩn thỉu nhất, mắt luôn bị thu hút bởi điều gì đó giản dị và thanh cao: đóa hoa, cành cây tạo dáng, hay chỉ là lọn mây.

      Nhiều trăm năm trước, Aoife tặng cuốn sách làm quà sinh nhật. nỡ với rằng lỡ sinh nhật gần cả tháng rồi, mà trân quý cuốn sách ấy lắm, ấn bản lần đầu của cuốn The Professor viết bởi Charlotte Brontë. Có dòng bao giờ quên: Giữa lúc sống là chúng ta chết. Nhiều năm sau, nghe Gandhi cũng lấy những chữ ấy, đổi lại chút để tạo ra ý tưởng vang sâu thẳm trong lòng : Giữa cái chết sống vẫn kiên gan.

      Niten đem lòng chiến đấu từ lâu lắm rồi.

      có danh dự trong chiến tranh, càng ít hơn nữa trong giết chóc và tuyệt đối có trong cái chết dần mòn. Nhưng có phẩm giá chân chính nơi cách người ta xử với nhau trong trận chiến. Và lúc nào cũng tìm thấy danh dự trong thái độ ủng hộ chính nghĩa và bảo vệ những kẻ được bảo vệ.

      Khum khum hai bàn tay đặt lòng, Niten triệu hồi chút luồng điện. Luồng điện đọng lại trong lòng bàn tay , chất lỏng xanh lam sẫm rung rung lớp da thịt sậm màu, da đầy những vết sẹo và chai sần vì nhiều thế kỷ cầm kiếm. thổi vào đó, chất lỏng đặc lại. Niten dùng lòng bàn tay lăn như nhào bột, tạo ra khối cầu màu xanh lơ xíu, rồi ép dẹp lại thành hình hơi có dạng chữ nhật, trông như miếng giấy màu xanh cứng đơ đơ. Hết sức cẩn thận, người bất tử nắn nót gấp các cạnh của tờ giấy ấy vào, xếp lần rồi xếp lần nữa làm thành con kame, con rùa tinh xảo theo nghệ thuật gấp giấy origami.

      Đặt con rùa màu xanh lơ lên cây cầu trước mặt, Niten cầm hai thanh kiếm lên và nhòa dần vào vùng bóng tối ngay khi con spartoi đầu tiên vừa ló ra khỏi màn sương.

      "Minikui", Niten thào. "Đồ xấu xa."

      Trước đây, người bất tử chiến đấu với nhiều loài quỷ sứ và từ lâu học biết rằng bao giờ được đánh giá theo vẻ bề ngoài. Khái niệm về cái đẹp thay đổi từ đất nước này sang đất nước kia và thậm chí từ thế hệ này sang thế hệ kia, nhưng nghi ngờ biết có ai lại cho loài Spartoi là xinh đẹp . Thậm chí con Spartoi nào khác cũng được.

      Lùn tịt, béo ị, trông như con cá sấu bộ bằng hai chân. Nó cao chừng mét rưỡi, thân mình tròn trịa, da u nần và đầy vảy, cùng với cái đầu hình thù như cái nêm của loài cá sấu. Hai con mắt vàng chóc to tướng, con ngươi là hai cái khe màu đồng nằm tách xa nhau đỉnh đầu, lúc này nhìn xuyên qua màn tối. Khi nó há miệng, từng hàng răng lởm chởm khoe ra cùng với cái lưỡi dày màu trắng xác nằm bất động.

      Niten trông thấy họ hàng nhà rắn trước kia. Chúng xuất trong truyện thần thoại gần như chỉ vài quốc gia trái đất này, và phần nhiều các Vương quốc Bóng tối gần kề đều có các sinh vật thằn lằn cư trú. Hầu như có ngoại lệ, loài thằn lằn khinh rẻ loài có vú, còn loài có vú lại kinh sợ loài thằn lằn.

      Đầu để trần, sinh vật này được bao phủ trong chiếc áo choàng khoét lỗ dài ngang gối trông như được làm bằng chính da của nó. Nó cầm cái khiên hình tròn được bao phủ cùng loại chất liệu, và hai hàn tay gần giống tay người của nó nắm chặt cây gậy chiến đồ sộ đầu lớn bè.

      Niten đánh giá sinh vật ấy bằng con mắt của chiến binh.

      Con Spartoi mang bộ giáp , phần đầu dễ tổn thương. Nó chỉ được trang bị cây gậy tày, dài bằng thanh đoản kiếm của Niten, vì thế được lợi thế là có thể tấn công mà áp quá gần. Người bất tử hơi thất vọng. mong đợi thứ gì đó ghê gớm hơn chút. Có lẽ Quetzalcoatl nghĩ chỉ cần nhìn thấy con Spartoi khiến con người kinh khiếp mà quy phục chăng. Vả lại, theo kinh nghiệm của Niten, các Elder vẫn thường có thông tin sai lệch cách đáng kể về giống loài họ muốn thống trị và về thế giới họ cần kiểm soát.

      Niten chăm chú nhìn sinh vật tiến đến gần con rùa giấy origami màu xanh lơ. Nếu nó thông minh - đúng, giá mà nó thông minh, chắc hẳn nó bao giờ đến gần con rùa trước tiên như vậy, nếu nó thông minh, nó lẩn trở lại vào bóng đêm và chờ quân tiếp viện. Cái đầu xoay qua xoay lại, con Spartoi bò tới gần con rùa xanh. Nếu nó ngu ngốc, Niten dự đoán, có thể nó đứng xuống bốn chân để hít hít ngửi ngửi vật đó. Tay người bất tử nắm chặt chuôi kiếm khi đánh giá được điểm yếu của sinh vật. nhắm nó vào dưới cánh tay, hoặc xuyên qua miệng.

      Con spartoi thả mình xuống bốn chân và đong đưa cái đầu qua hình giấy origami.

      Vậy là ngu ngốc rồi.

      Màn sương xoáy tít quanh như tấm áo choàng, Niten phóng ra khỏi màn đêm, thanh katana giơ lên, rồi hạ xuống trong tiếng rít chết người.

      Con spartoi chuyển động.

      Nhanh như chớp, cái khiên của con thằn lằn đưa lên, thanh kiếm của Niten chát chúa bật ra cùng với từng tia lửa sáng chói. Cây gậy tày của sinh vật kia đánh mạnh ngay giữa ngực người bất tử, và Niten lập tức biết rằng xương sườn bị gãy. Lực của cú đánh hất quay tít, ngã rầm xuống đất tuốt phía xa của cây cầu.

      Con Spartoi thèm đếm xỉa đến người bất tử vừa bị ngã. Nó xúc con rùa xanh lên, thảy vào miệng. "Trà xanh", nó bằng giọng thầm khọt khẹt. "Món ưa thích của ta."

      Niten lồm cồm đứng dậy, nhăn mặt vì cơn đau trong ngực. hít thở sâu, áng chừng vết thương. Hai xương sườn, có lẽ ba, bị gãy, có lẽ cũng chừng ấy bị nứt. co mình trong tư thế chuẩn bị và di chuyển trở lại sinh vật kia.

      "Mi sỉ nhục ta đấy, người bất tử", con Spartoi . "Mi nhìn ta và tưởng đây là sinh vật cục súc, mi cho rằng rái bẫy thô thiển của mi gài được ta sao."

      Bất thình lình Niten ý thức là có các hình thù khác trong vùng bóng tối nữa. Con Spartoi bò đến sát và vừa đứng vừa quan sát. Rồi biết mình phạm phải sai lầm nguy kịch: đánh giá thấp kẻ thù.

      Con spartoi hai chân sau, tiến về phía Niten, khiên và gậy đan vào nhau theo kiểu mẫu đầy mê hoặc. Phần còn lại của thân thể thu khép vào để hình thành nên vòng tròn xung quanh. "Trong thế giới này, mi có được vinh dự làm chiến binh vĩ đại ?"

      "Ta là Miyamoto Musashi. Vào thời này ta được gọi là Niten và ai biết đến, nhưng người mà ta từng thân đến nay vẫn còn được tôn vinh."

      "Mi phải tự xét mình là chiến binh dũng cảm mới dám đứng đây mình chống lại chúng ta chứ."

      "Ta xét thấy chuyện này là cần thiết."

      "Mi chết", sinh vật kia nghe ộp ộp.

      "Mọi người mọi thứ đều chết cả", Niten khi dịch dần tới gần con spartoi. "Và khi ta ra , có nhiều người hơn nữa chống lại bọn mi."

      "Nhiều người đó cũng ngã gục thôi."

      Niten tấn công khi sinh vật còn . Phớt lờ cơn đau nơi lồng ngực, chặt, chém liên tục. Động tác thứ nhất là đòn nhử kéo cái khiên giở lên, động tác thứ hai dành để lấy đầu nó.

      Con Spartoi dùng gậy chặn cú chém, và vì lực va chạm này, thanh katana của Niten bị gãy. Ba phần tư thanh kiếm văng bật vào bóng đêm. Rìa cái khiên tròn của con Spartoi vung vòng lên đánh trúng cánh tay trái của người bất tử, làm tê liệt hoàn toàn từ vai đến đầu ngón tay, còn thanh đoản kiếm của rơi lanh canh xuống đất.

      "Chúng ta là Spartoi. bộ ba mươi hai. Luôn luôn là ba mươi hai. Chúng ta chiến đấu giỏi hơn con người bọn mi, người bất tử ạ. Chúng ta nhanh nhẹn hơn bọn mi rất nhiều. Ta nhìn mi và thấy mi di chuyển như con ốc sên. Ta có thể nhìn thấy cơ bắp mi căng lên rất lâu trước khi chúng chuyển thành hành động. Mi tưởng mình im lặng, nhưng từng hơi thở của mi đều là tiếng khò khè ầm ào và mi giậm chân loanh quanh nặng nề như con voi cỏ."

      Bàn tay Niten cử động và đầu thanh katana gãy lởm chởm cắm trúng giữa ngực con Spartoi. Hai mắt mở lớn, miệng há hoác kinh ngạc, nó loạng choạng bước trở vào màn sương. "Mi nhiều quá đấy", Niten thầm.




      CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM


      Virginia Dare di chuyển xuống con hẻm tối cách Dee quãng, vừa vừa xé miếng lá cọ gói bên ngoài. Néptrong hai bàn tay ả là phiến đá dẹp hình chữ nhật màu xanh ngọc lục bảo. Ả cảm thấy nguồn năng lượng thô rung rung xuyên qua phiến đá xanh kia và tức nhận ra cảm giác đó ngay: chiếc ống sáo của ả cũng tỏa ra cơn rùng mình như vậy khi ả sử dụng nó.

      Mảnh ngọc lục bảo khoảng chừng mười phân, dài hai mươi phân. Ả lật qua lật lại nó trong hai bàn tay. Cả hai bên đều phủ đầy những nét khắc, những chữ tượng hình mơ hồ giống với vài kiểu chữ viết của người cổ đại có nguồn gốc từ thung lũng Indus. Luồng điện màu xanh lục nhàn nhạt của Virginia kết từng búi rỉ ra khỏi mấy ngón tay ả lan khắp phiến đá, và mùi hương cây xô thơm tràn ngập con hẻm. Virginia lấy lại hơi thở, chăm chú nhìn trong lúc chữ viết chảy mặt đá, xếp thành hình này hình kia, những bức tranh nhanh chóng sống động: bầy kiến bò, cá lội, chim vỗ cánh, vầng mặt trời quay tròn.

      Lâu lắm rồi ả chưa từng nhìn thấy chữ viết thế này bao giờ.

      Những chữ tượng hình run rẩy, rồi nhạt còn gì, chỉ để lại duy nhất dải ký hiệu bí ngay giữa phiến đá. Sau đó chúng biến đổi, trườn bò và xếp thành từ duy nhất bằng tiếng : CROATOAN.

      Virginia Dare gục xuống chân tường như vừa bị ai đánh trúng. Rồi ả từ từ tuột phịch xuống đất.

      CROATOAN.

      Ả còn là đứa bé, hơn hai mươi bốn hoặc ba mươi tháng tuổi, chăm chú quan sát cha khắc từ ngữ ấy vào cây cột hàng rào gỗ bên ngoài căn nhà của họ ở Roanoke.

      CROATOAN.

      phát ra tiếng, môi ả chuyển động thốt lên từ ngữ ấy. Những chữ cái đó, từ duy nhất đó, là thứ đầu tiên ả được nhìn thấy. Từ ngữ đó là thứ đầu tiên ả biết. Đó là bí mật ả cất sâu tận đáy lòng mình. bí mật chỉ duy mình ả biết. Những giọt nước mắt màu xanh lục nhạt chảy dài xuống hai má.

      Những con chữ rùng rùng và vỡ ra từng mảnh. Những hình ảnh tiêu biểu như những vết cào xước xíu xuất mặt đá: rùa và mây, con cá voi, tất cả các kỳ trăng và vòng bánh xe mặt tròi lăn khắp phiến đá ngọc lục bảo thành những đường ngang hẹp. Virginia ấn ngón tay trỏ vào góc cuối bên trái và di chuyển chầm chậm sang bên phải, môi ả cử động khi nhớ lại ngôn ngữ từ lâu ả nghĩ mình quên.

      Tôi là Abraham của Danu Talis, đôi khi được gọi là Pháp sư, xin gửi lời chào đến , Virginia, con Elenora, con của Ananias.

      Bằng từ ngữ này, Croatoan, từ mà ý nghĩa của nó chỉ có mình biết, cho biết rằng mọi lời tôi với bây giờ đều là . Vì thế khi tôi với rằng tôi dõi theo tất cả mọi ngày trong đời , biết đó là . Khi tôi với rằng tôi bảo vệ và chăm sóc cho , biết đó cũng là . Tôi hướng dẫn đến hang động trong vùng Grand Canyon nơi khám phá ra chiếc ống sáo quý giá ấy. Và tôi để cho ra tay giết chết Elder chủ nhân của và bảo vệ khỏi mọi hậu quả phát sinh.

      Tôi biết là ai, Virginia Đare, và quan trọng hơn, tôi biết là người thế nào. Tôi biết tìm kiếm gì, thứ tìm hơn hẳn mọi thứ khác thế giới.

      Và hôm nay có thể đạt được hoài bão của mình.

      Hôm nay, có thể tạo nên khác biệt.

      bước Vương quốc Bóng tối Trái Đất trong hơn chín thiên niên kỷ. Dù chính hôm nay nhận phiến đá này từ nơi tôi. giữ nó trong hai bàn tay mình chỉ vài giờ rồi nó lại là của tôi. Lần đầu tiên khi tôi bắt đầu dõi theo đường đời , tôi bao giờ hình dung nó vòng trở lại và cả hai chúng ta kết thúc cùng lục địa trong cùng dòng thời gian thế này.

      phụ nữ xuất sắc, Virginia Dare ạ.

      sống sót khi mọi người chung quanh đều chết. Mà còn hơn cả sống sót, phát triển mạnh mẽ. sống độc, hoang dã giữa rừng. Nhưng bao giờ đơn. Có bao giờ tự hỏi tại sao bọn sói bao giờ săn đuổi , bọn gấu tránh né , tại sao chẳng bao giờ chịu nổi vì bệnh tật, hoặc cảm thấy đau đớn vì thức ăn hư thối hay nước tù hãm ứ đọng? Và sâu thẳm trong mùa đông, khi tuyết phủ dày đất, chẳng bao giờ bị bệnh. bao giờ thiếu thực phẩm, bao giờ phải đói, bao giờ gãy cái xương hoặc mẻ cái răng nào. Khi dịch bệnh tàn phá các bộ lạc thổ dân, vẫn hoàn toàn bị tổn thương. Khi kẻ thù đến tìm kiếm , chúng lại bị lạc lối trong rừng. Khi những người đánh bẫy săn lùng để lấy thưởng, chúng lại chịu những kết cục bất ngờ và bí hiểm.

      Quả , sống cuộc đời dường như có phép màu phù hộ.

      Và trong khi tôi canh chừng , Marethyu, người đàn ông có bàn tay móc câu, lo bảo vệ . Ông ấy là chiếc bóng của , người bảo vệ . Cùng nhau, chúng tôi giữ cho được an toàn, bởi vì chúng tôi biết rằng ngày kia chúng tôi cần đến .

      Chúng tôi cần hôm nay, Virginia Dare, đúng như luôn muốn được nguời ta cần đến.

      Bị bỏ rơi và mồ côi khi còn là đứa trẻ, bị bỏ mặc mình nhiều năm trời chạy trốn chui nhủi, đáng lẽ phải biến thành ích kỷ, tham lam, và thậm chí có thể là kẻ hơi tưng tửng nữa kia.

      Song vẫn phải là những loại người đó.

      Đây là phép thử cho lòng can đảm của , cho sức mạnh ý chí của , tính toàn vẹn của .

      Khi có thức ăn để chia sẻ, chia sẻ hết với các bộ lạc thổ dân. Thậm chí khi chỉ còn vừa đủ cho bản thân mình, vẫn để những gói thực phẩm treo cành cây. bảo đảm sao cho bẫy và lưới của họ luôn chứa đầy. chăm sóc họ theo những cách thức mà bản thân chưa bao giờ được hưởng. Các thổ dân biết điều đó và chính vì thế mà họ tôn vinh .

      chấp nhận đặc tính bất tử từ Elder rất coi thường, đơn giản chỉ vì có nhiều thời gian hơn để giúp đỡ những người cần đến. Và suốt nhiều thế kỷ nay, che giấu lòng khao khát công bằng đằng sau vẻ ngoài thờ ơ, thiếu quan tâm. Ít ai biết , và nhiều người cho rằng chỉ quan tâm đến bản thân thôi. Thậm chí cả tay Pháp sư người , kẻ nghĩ mình quen biết hơn bất cứ ai còn sống, cũng chẳng biết gì về cả. hề biết Virginia Dare thực thụ.

      Tôi mới là người biết .

      Tôi biết luôn phẫn uất trước vẻ ngạo mạn của kẻ có quyền. luôn bước tới thay cho những người có tiếng riêng. Và lúc này bắt gặp chính mình miền đất nơi mà cả tầng lớp đều có tiếng , nơi mà chỉ số ít Elder, nhiều kẻ trong số họ bị Biến đổi đến nỗi gần như nhận ra, tiếp tục nắm giữ quyền lực. Tệ hơn, họ hề có ý định buông tay. Họ dự định tiêu diệt hoặc nô dịch hóa giống người. Họ kiên quyết buộc thế giới mà biết, thế giới nơi lớn lên, phải ngưng được tồn tại nữa.

      Cư dân Danu Talis cần tiếng , Virginia Dare. Họ cần người thay cho họ.

      Họ cần .

      Nước mắt Virginia kêu xì xì và bốc hơi ra khỏi phiến đá.

      hình dáng mặc áo choàng trắng di chuyển trong con hẻm, nhanh nhẹn chớp mắt cho nước mắt tan . Chưa người nào nhìn thấy ả khóc. Ả nhét phiến đá dưới áo sơ mi của mình. Cảm thấy hơi lạnh áp vào da.

      "Tôi cũng có phiến", Marethyu nhàng . "Abraham để chúng lại cho những người ông quý hoặc kính trọng. Dee có", ông ta thêm, mắt nheo nheo.

      "Tôi đâu có biết ông Abraham này", ả , đôi mắt to lên sau những giọt nước mắt chưa tan hết.

      "Ông ấy biết đấy", Marethyu đáp.

      "Ông ấy ông cũng canh chừng tôi hồi ở trong rừng."

      "Đúng."

      "Tại sao?"

      "Để giữ được an toàn. Abraham giữ khỏi mọi phiền phức, bảo đảm được ăn, được mặc. Tôi... ừm, tôi bảo vệ ."

      "Tại sao?"

      " có lần đối xử tử tế với tôi... hoặc đúng hơn là, tử tế với tôi trong tương lai."

      "Tôi biết ông, đúng nào?", Virginia thầm. "Trước đây tôi gặp ông."

      "Vâng."

      "Thần Chết đâu phải lúc nào cũng là tên ông", ả

      "Tôi từng có nhiều tên lắm."

      "Tôi phát ra ông là ai", ả cam đoan. "Tôi khám phá ra tên của ông."

      " cứ việc thử. Có lẽ thành công đấy."

      "Tôi thôi miên ông bằng ống sáo của tôi", ả dọa, có phần nào nghiêm túc. "Rồi ông cho tôi nghe."

      Marethyu lắc đầu. " thứ đồ tạo tác nào gây được tác dụng tôi cả."

      "Tại sao?"

      "Bởi vì tôi là thế", ông ta giản dị. "Nhưng tôi cần phải biết ủng hộ chúng tôi chứ, Virginia? có chịu chiến đấu cho cư dân Danu Talis và tương lai thế giới của ?"

      "Ông còn phải hỏi sao?"

      "Tôi cần nghe đồng ý."

      "Đồng ý", ả đơn giản.




      CHƯƠNG BA MƯƠI SÁU


      Sophie Newman nhìn chằm chặp vào hình phản chiếu của bé trong tấm gương nằm trong khung bạc bóng loáng. Chỉ tích tắc, bé nhận ra chính mình.

      Vùng ký ức nhấp nháy và nhảy nhót.

      ... mặc giáp bạc đỉnh kim tự tháp...

      bé chớp mắt và chuỗi hình ảnh những phụ nữ trẻ và những đủ mọi độ tuổi lướt qua nhanh, trong nhiều trang phục khác nhau, số chiến trường, số khác đồng ruộng hoặc lớp học, trong hang động hay lâu đài, trong lều bạt thảo nguyên lộng gió...

      Và trong khi các gương mặt kia có khác nhau, điểm chung vẫn là mái tóc vàng hoe và đôi mắt màu xanh lơ.

      Sophie với tay sờ vào mặt kính. bé nhận ra mình nhìn vào dòng dõi các bậc tiền bối xuyên suốt hàng ngàn năm và hàng trăm thế hệ. Nhưng bé là người đầu tiên hay cuối cùng trong dòng dõi của mình?

      bé thấy bộ giáp bạc khi quay trở vào căn phòng. Bộ giáp nằm giường như trò chơi lắp hình kim loại ba chiều. bé ngồi xuống chân giường, nhìn bộ giáp và suy nghĩ lúc lâu biết mình có nên mặc vào .

      Cuối cùng, vì những lý do lắm, bé bắt đầu mặc giáp vào, từng phần .

      trẻ nhìn trả lại bé trong gương mình mặc bộ giáp gần như bằng bạc trong suốt được đúc khuôn theo dáng người của . Nó vừa khít với bé chính xác đến mức chắc hẳn thể làm cho người nào khác được. Bộ giáp tô điểm, nhưng được đánh bóng sáng như gương. Xuyên qua lớp kim loại phần nào có thể thấy bên dưới là chiếc áo sơ mi bằng giáp xích mềm như lụa. mang đôi giày ống bằng bạc nhăn nhăn như da sơn dương cao ngang gối với phần ngón nhọn hoắc cách tinh quái, đôi găng tay bạc khớp lại với nhau phù hợp với những móng dài, như móng vuốt. Sophie thậm chí còn thích vẻ ngoài của chúng. Đeo lưng là hai vỏ kiếm rỗng, và mặc dù tìm kiếm khắp phòng, tìm kỹ trong tủ quần áo, bé vẫn thấy vũ khí ở đâu cả.

      Có tiếng gõ cửa. "Em đây", Josh gọi.

      "Cửa mở đó", Sophie trả lời.

      Josh bước vào phòng, mặc bộ giáp gần như giống hệt. Bộ của cậu bằng vàng, chiếc áo lót bằng giáp xích bên dưới cũng vậy. Cậu cười toe, hai mắt lấp lánh vẻ vui thích. "Chị bao giờ nghĩ tụi mình mặc mấy bộ giáp này chưa?" Cậu mở tay ra xếp tay vào, gập mấy ngón tay. Lớp kim loại kêu lào xào như lụa. "Đó là kim loại, nhưng cũng là kính thủy tinh. loại gốm hay gì gì đó. Phải là công nghệ cao đấy."

      Sophie chăm chú nhìn cậu em mình trong gương. "Của em có vừa ?"

      "Như chiếc găng này nè", cậu tới đó, chợt im bặt. "Chị có nghĩ hai bộ này được làm cho tụi mình ?"

      Sophie gật đầu. có câu hỏi nào. "Đúng là cho tụi mình."

      Cậu từ từ quay người. "Chị nghĩ sao kỳ lạ, phải ?"

      bé mỉm cười. "Rất lạ lùng. Em có gặp vấn đề gì khi mặc nó ?", bé hỏi.

      Cậu lắc đầu lia lịa. "Chị biết , em nghĩ đến điều đó. quái lạ, em khoác vào bộ áo này như thể mặc nó cả đời mình rồi vậy. Em biết khóa nằm đâu, kẹp nằm đâu, tất cả mấy cái đai dẫn đến đâu, làm thế nào để nịt lại."

      Sophie gật đầu. "Chị cũng vậy." bé vỗ vỗ vào vai cậu chỗ mấy vỏ kiếm rỗng. "Trông có vẻ như họ giao phó phần cuối cùng của bộ đồ này cho tụi mình."

      "Em cược cái này dành cho bốn Thanh kiếm Quyền lực. Hai thanh cho em, hai thanh cho chị."

      "Chị thắc mắc biết em lấy hai thanh nào", Sophie hỏi khẽ, mặc dù đâu đó ở phần sâu thẳm nhất trong ý thức của mình, biết câu trả lời.

      "Dee sử dụng mấy thanh kiếm đó để tạo nên cổng tuyến Alcatraz." Josh dừng việc xem xét bản thân, ngước nhìn lên chị . "Mấy thanh kiếm có rơi xuyên qua cổng tuyến với tụi mình ? Em nhớ là có nhìn thấy chúng."

      "Chị có", Sophie . "Khi chị nhảy vào theo em, chúng cũng đổ nhào qua luôn. Lúc mở mắt chị có nhìn thấy chúng mà. Chị tưởng chúng là những cây kim loại gỉ sét, nhưng rồi Osiris gom hết ngay trước khi tụi mình cất cánh và chị nhận thấy là chúng rất quan trọng."

      "Bây giờ đến chuyện gì xảy ra nữa đây?", Josh hỏi.

      Sophie nắm cánh tay em trai, dẫn cậu qua bức tường bằng kính thủy tinh. Đẩy cửa lui, bé bước ra vườn. Bầu khí thơm tho thoảng mùi trứng thối của lưu huỳnh từ ngọn núi lửa, trung cuộn xoáy những đốm sạn cát đen rất nhuyễn, và tro xam xám. Khu vườn vắng tanh, Sophie dắt Josh đến đài phun nước ở đó có con voi ma mút điêu khắc phun nước lên tầng bằng cái vòi chĩa lên. thanh róc rách của nước tạo thành tiếng nhạc vi vu trầm trầm.

      "Tụi mình phải làm gì bây giờ?", bé hỏi trong tiếng thào gấp rút. "Mỗi lần bắt đầu nghĩ đến những việc vừa xảy ra chị lại cảm thấy buồn nôn. Mấy người này..." bé vẫy bàn tay mang găng về hướng ngôi nhà. "... Mấy người này, thậm chí chị còn chắc họ có phải là ba mẹ của mình nữa, họ khác lắm."

      "Họ đúng là khác ", Josh tán thành. "Hồi ở đó em còn nghĩ ba mẹ bị bắt cóc và bị thay thế bằng những kẻ rất giống, như trong phim Invasion of the Body Snatchers ấy."

      "Còn bây giờ?", Sophie hỏi.

      "Em nghĩ họ đúng là những người tụi mình lớn lên cùng. Họ trông giống ba mẹ, đứng năng giống ba mẹ, thậm chí cũng có kiểu cách rất riêng của ba mẹ, nhưng họ phải là những người tụi mình biết."

      " phải", Sophie nhất trí.

      "Và ràng bây giờ họ giữ tụi mình ở đây, dưới tầm kiểm soát của họ, thực bất kể hành động quái nào mà họ có. Tụi mình nhìn thấy đúng con người của họ." Cậu nhúng chiếc găng tay xuống nước và chăm chú quan sát nước hóa thành vàng. khí chợt nghe mùi cam. "Nhìn này! Đó là nước cam!"

      "Josh. Tập trung!"

      "Chị nghe như mẹ hoặc Isis hay là bất cứ cái tên gì của bà ấy. Họ khác lắm", cậu lặp lại. "Nhưng chị biết chuyện gì : hồi ở nhà, họ luôn có chút kỳ lạ rồi mà. Họ như các bậc cha mẹ bình thường."

      Sophie gật gù. "Chị các bậc cha mẹ bình thường ra sao", .

      "Suy nghĩ . Họ khuyến khích tụi mình có bạn bè. Chẳng bao giờ tụi mình dự các bữa tiệc đêm ngủ, chẳng bao giờ được phép ở lại bất cứ nhà ai. Chẳng bao giờ được thực tế."

      "Và tụi mình cứ thay đổi trường suốt", Sophie thào. "Họ lập tụi mình."

      "Chính xác."

      "Nhưng tụi mình cũng có bạn mà."

      "Bạn bình thường, chứ đâu phải bạn thân. Bạn thân của chị là ai nào?", Josh ném về phía chị cái nhìn thách thức.

      "Ừ , có Elly."

      " người ở New York, người bao lâu rồi chị chưa gặp?"

      Sophie gật đầu. "Lâu lắm rồi."

      "Tụi mình bao giờ có tuổi thơ bình thường", Josh tiếp. "Ba - Osiris. Ô, từ giờ trở em cứ gọi ông ta là Osiris - đúng: tụi mình được đào tạo toàn những thứ đáng kinh ngạc. Đừng hiểu sai ý em nhé. số cũng vui vui. Nhưng tham quan các điểm khảo cổ xa xưa có phải là nơi gia đình bình thường đến chơi ? Năm em muốn Disneyland rốt cuộc tụi mình lại ở Machu Picchu."

      "Ở đó em giẫm vào..."

      "Em biết rồi. Tụi mình học lịch sử, khảo cổ học, tụi mình được cho xem các ngôn ngữ cổ đại, đến viện bảo làng xem vũ khí và áo giáp." Cậu gõ gõ ngón tay kim loại lên ngực mình. "Lần đầu tiên khi em nhìn cái này, nó rất quen thuộc với em. Có bao nhiêu người mười sáu tuổi..."

      "Mười lăm rưỡi", Sophie chỉnh lại.

      "...mười lăm tuổi rưỡi lại biết rằng đây là bộ giáp theo phong cách Gothic từ cuối thế kỷ mười lăm kia chứ?"

      Sophie bật cười. "Chị biết điều đó."

      "Nhưng em biết."

      "Em thuộc loại người đam mê các hoạt động trí não mà", bé nhắc cho cậu em nhớ.

      "Đôi giày của chị được gọi là gì?", cậu hỏi.

      Sophie nhìn xuống đôi giày bốt kim loại phần ngón chân nhọn. "Sabatons", ngay.

      Josh cười toe. "Em bảo đảm mọi người mười lăm tuổi rưỡi đều biết điều đó. Em cược là bạn Elle rành thời trang của chị khả năng cũng có đôi."

      Sophie cười phá lên, "Nó tìm được đôi của nó trong cửa hàng bán quần áo và trang sức ở Village."

      "Và chắc hẳn chị ấy gửi cho chị thư điện tử dài..."

      "Kèm hình nữa"

      "Với hình chụp đôi giày đó, cửa hàng, quán cà phê và chiếc nhẫn chị ấy có sau đó."

      khí rung lên và chiếc vimana trườn thấp qua ngôi nhà, rồi khuất tầm mắt. Cả hai đều thoáng nhìn thấy Osiris ngồi nơi bảng điều khiển, tiếng cười của hai đứa nhạt .

      "Họ rèn cặp tụi mình", Sophie . "Huấn luyện tụi mình. Vậy mình làm gì bây giờ?"

      "Cứ làm những gì mình cảm thấy đúng thôi", cậu trả lời.

      "Nhưng đúng cho ai? Cho tụi mình hay là cho họ?"

      "Khi nào nghi ngờ, tụi mình cứ làm theo những gì trái tim mách bảo. Lời có thể giả tạo, hình ảnh và thanh có thể bị xuyên tạc. Nhưng cái này..." Cậu vỗ vỗ vào ngực, bên trái tim mình. "Cái này luôn luôn đúng."

      Sophie nhìn cậu, hai mắt mở lớn đầy ngạc nhiên và ngưỡng mộ.

      "Có người với em như thế", cậu nhanh nhẹn thêm, hai gò má ửng đỏ.

      "Flamel hả?", bé đoán chừng.

      "Dee."

      Cánh cửa kính trượt mở ra, Isis và Osiris xuất . Hai người mặc bộ giáp màu trắng trơn, mỗi người cầm hai thanh kiếm, mỗi tay thanh.

      "Trông họ như vừa bước ra từ phim Star Wars vậy", Josh lầm bầm. Cậu bắt đầu hát ư ử đoạn Imperial March trong họng.

      chị cắn môi, lấy đôi giày mũi nhọn hất bảo cậu im. Có gì đó bảo bé rằng cười đùa phải là cách cư xử tốt.

      Isis và Osiris dừng lại trước hai đứa . Isis đứng trước Josh, Osiris trước Sophie.

      "Hai đứa trông cừ nhỉ", Isis . "Tụi con gây ấn lượng tuyệt vời đấy."

      "Hai con trông như vua chúa vậy", Osiris tán thành. "Và mọi nhà thống trị đều cần đến thanh kiếm, biểu lượng của quyền thế và uy lực. Điều đó chỉ đúng khi cặp song sinh huyền thoại mỗi người nên có hai thanh kiếm những thanh kiếm sinh đôi."

      Isis nhấc ra hai thanh kiếm bà mang theo. Chúng gần như giống hệt nhau; những chi tiết nơi phần chuôi bọc da khác nhau cách rất tinh tế. Mỗi thanh kiếm dài chừng năm tấc, được tạo hình từ cùng phiến đá xám lấp lánh. "Những thứ xưa cổ này, còn xưa hơn các Elder, Quan chấp chính hoặc ngay cả Người cổ đại. Nghe rằng chúng được hình thành từ các Thần Đất, nhưng ta nghi ngờ điều đó: chúng được tạo ra từ các vật liệu khác nhau. Các thanh kiếm này mang nhiều tên gọi xuyên suốt nhiều thiên niên kỷ, và từng được giữ bởi các hoàng đế và vua chúa, các hiệp sĩ và những chiến binh bình thường. Nhưng chúng luôn luôn là của con, Josh." Bà giơ cao hai thanh kiếm, ánh mặt trời bật khỏi lưỡi kiếm. "Đây là Clarent, Hỏa Kiếm, còn đây là Excalibur, Băng Kiếm." Isis vòng ra phía sau Josh, vừa vừa trượt hai thanh kiếm vào vỏ kiếm rỗng lưng cậu. Clarent bên trái, Excalibur bên phải.

      "Còn con, Sophie, con có Durendal, Khí Kiếm cùng với Joyeuse, Địa Kiếm", Osiris vừa vừa chuồi hai món vũ khí vào vỏ kiếm bằng bạc lưng . "Đây là các vũ khí được mang bởi các nhà thống trị Danu Talis qua nhiều thế hệ. Thời điểm này con hãy giữ chúng."

      Isis và Osiris bước lùi lại. "Ta mơ về giây phút này hàng bao thiên niên kỷ nay", Isis thầm. "Giây phút cặp song sinh huyền thoại đứng trước chúng ta trong bộ giáp của Chúa tể Danu Talis."

      "Bây giờ đây", Osiris , "hãy để chúng ta tuyên bố quyền lợi dòng dõi của các con."




      CHƯƠNG BA MƯƠI BẢY


      Ông ta là Aten, Chúa tể Danu Talis.

      Hôm qua, ông còn cai trị toàn đế chế vĩ đại nhất trải khắp trái đất.

      Hôm qua, ông còn được sùng bái, tôn vinh và kính trọng bởi hàng triệu người: các Elder Vĩ đại, Elder, loài người và mọi thứ khác, thậm chí lũ quái thú, bọn lai tạp cũng sấp mình thần phục. Trong cuộc đời dài đăng đẳng của mình, ông ta đạt được rất nhiều thành quả, nhưng hợp nhất mọi dân tộc đế chế đảo và thế giới bên kia là trong những thành quả đáng tự hào nhất.

      Hôm qua, ông còn gặp gỡ Thần Chết.

      Và trong tích tắc ấy mọi thứ đều thay đổi.

      Ông bị mẹ ruột và em trai phản bội, bị buộc tội dối trá, bị bắt và bị tống vào xà lim sâu tận dưới Tartarus, pháo đài tù.

      phòng duy nhất dành cho cấp độ này: cái chuồng bằng đá hình tròn hòn đảo hình tròn nằm giữa ao dung nham sục sôi sủi bọt. Con đường duy nhất vào và ra hòn đảo ấy là cây cầu đá phải cần đến ba tên anpu khổng lồ mới nhấc lên và hạ xuống đúng chỗ được. khí nóng như nung gần như thể thở nổi, đầy những mẩu đá, cát sạn cháy rụi. Chất dung nham sủi bọt đập vào bờ rìa hòn đảo , bắn tóe lên từng dòng đá nấu chảy dài thượt. Aten chưa bị thiêu cháy, nhưng ông biết đó chỉ còn là vấn đề thời gian.

      Trong hoàn cảnh bình thường, nhà tù nào có thể giam giữ được Aten. Ông mạnh mẽ khôn lường, và khi còn là Chúa tể Danu Talis, nghiên cứu trong các thư viện lớn khắp thế giới và trong các Vương quốc Bóng tối. Ông có bộ sưu tập to lớn nhất về toàn bộ hiểu biết và truyền thuyết về Quan chấp chính và Người cổ đại từng tồn tại cũng như thực các thử nghiệm chắc hẳn làm thần dân của ông hoảng hốt và thậm chí còn khiến cho bạn bè thân thiết nhất phải khiếp hãi.

      Trong hoàn cảnh bình thường, chắc hẳn ông bẻ gãy các thanh chắn, biến lớp dung nham thành tấm thảm nhung và sải bước đến tự do.

      Nhưng đây phải là hoàn cảnh bình thường, và thực , ông cho phép nó xảy ra. Khi Anubis, em trai ông, đến tìm ông với lũ lính gác anpu, Aten chắn hẳn có thể tiêu diệt sạch bọn chúng, giáng bọn chúng nát ra thành từng hạt bụi. Nhưng ông làm thế. Ông đầu hàng và tự để mình bị bắt, bị xiềng xích.

      Từng vòng xích nơi cổ tay, mắt cá chân và dây xích quấn quanh thắt lưng ông đều được làm bằng sắt bọc bên ngoài lõi thủy tinh. Hầu hết các Elder đều dị ứng với sắt, và những người chịu tác động của quá trình Biến đổi đặc biệt nhạy cảm với kim loại ấy. Quá trình Biến đổi tác động ông suốt bao lâu nay. như em trai và mẹ, những người trở thành như quái thú, Aten vẫn giữ phần lớn nét người nhưng có chút thay đổi rất tinh tế: khung xương sọ của ông, mũi và cằm dài ra, môi dày lên và đôi mắt vàng chạch bây giờ ràng là đối xứng.

      Aten có thể cảm nhận chất độc hút vào da mình, phải lấy hết mọi sức lực và luồng điện để cố kháng cự lại ngọn lửa lan tỏa khắp thân thể. Nhưng sức lực của ông kéo dài lâu mấy nữa, rồi chất sắt phủ tràn lên ông. Ông chết trong cơn thống khổ hoàn toàn. nụ cười uốn cong đôi môi dày của ông. Đương nhiên rồi, có khả năng chẳng bao lâu nữa ông bị ném vào ngọn núi lửa kia.

      cánh cửa đồ sộ kêu xủng xẻng.

      Ở phía bên kia ao dung nham, vầng ánh sáng trắng hình chữ nhật xuất . Hai hình dáng đồng đều vào ngưỡng cửa và bước qua bên, sau đó ba tên anpu khổng lồ ra. Aten bước đến hàng thanh chắn, cẩn thận chạm vào đó, liếc nhìn qua từng đợt hơi nóng chiếu sáng mờ mờ nhảy múa lớp dung nham đen đỏ. Hai con ngươi từ vòng tròn đến những đường nằm ngang.

      Bọn anpu vào đúng vị trí và ra sức đẩy phiến đá dài hẹp làm đường vắt ngang qua lớp dung nham. Phiến đá trượt vào vị trí rung chuyển khắp xà lim tù, và hai hình dáng kia bắt đầu bước qua cây cầu hẹp. người đàn ông thấp đeo tạp dề bằng da thuộc của cai tù, người kia cao hơn, quấn mình trong tấm áo choàng trắng, đầu đội mũ rơm.

      Aten nhận ra cai tù Dagon trước tiên. thuộc trong loài thủy tộc từ Vương quốc Bóng tối gần đó, mặc áo da rộng và đeo cặp kính bảo hộ bằng pha lê để bảo vệ đôi mắt lồi phồng khỏi sức nóng. Khi , hai hàm răng xíu lởm chởm của thấy đằng sau đôi môi mỏng dính.

      "Khách đến thăm ông, thưa Chúa tể Aten. Năm phút", , rồi lui ra, quay người qua cây cầu, bỏ lại người thứ hai mình trong xà lim.

      "Tôi ngạc nhiên khi ông có thể đút lót cho Dagon", Aten nhàng. "Tộc người Cá ấy được cho là thể mua chuộc đấy."

      "Tôi đâu có mua chuộc ", Marethyu . "Tôi về tương lai thôi mà."

      "Chí ít cũng có tương lai." Aten mỉm cười hé môi.

      "Tôi với rằng trong thời gian mười ngàn năm nữa, bắt gặp mình chiến đấu với chiến binh bất bại dòng sông, tôi dặn cứ tên tôi ra ấy thả . "

      "Và tin ông sao?", Aten hỏi, đầy kinh ngạc.

      "Tôi là Thần Chết mà. Tôi đâu cần dối."

      "Rồi ông cũng với bọn anpu về tương lai của chúng hả?"

      "Chúng làm gì có tương lai", Marethyu cụt lủn. "Nhưng , tôi thế." Chiếc móc câu kim loại cong cong xuất bên dưới tấm áo choàng trắng. "Yểm bùa chúng dễ dàng hơn nhiều. Chúng là các sinh vật nguyên sơ mà, câu thần chú chẳng để lại dấu vết gì."

      "Ông tới đây để giải thoát tôi ư?", Aten hỏi.

      "Tôi có thể làm thế nếu ông muốn", Marethyu .

      "Nhưng đó đâu phải phần trong kế hoạch của ông, đúng nào?"

      " nằm trong kế hoạch. Nhưng tôi có thể vẫn thả ông nếu đó là điều ông muốn."

      Aten màng tới câu hỏi ấy. "Kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra ", ông ta .

      "Ngay khi những người ở Danu Talis nghe tin ông bị bắt, họ bắt đầu tụ tập bên ngoài nhà tù này và Đền Thái Dương. có vài vụ lộn xộn. còn nhiều nữa", ông ta như cam đoan. "Ông được mến lắm đấy."

      "Đáng lẽ tôi phải làm cho họ nhiều hơn", Aten làu bàu.

      "Ông làm đủ rồi. Việc đưa ông vào tù khiến thần dân và bạn bè ông nổi giận. Hekate phái tộc người Cây đến giải thoát ông. Dẫn đầu là Huitzilopochtli. Họ đông, là thế, nhưng đủ, và như thế khuyến khích dân chúng vùng lên."

      "Mà nếu dân chúng vùng lên?"

      "Họ thế mà", Marethyu bảo đảm với ông ta. "Tôi cho họ tiếng . người thay cho họ. Những biến số chính là cặp song sinh. Họ đứng đâu?"

      "Trong thời loạn lạc, bản chất của bọn trẻ là đứng về phe cha mẹ chúng", Aten .

      "Việc đó thay đổi nếu chúng khám phá ra được rằng Isis và Osiris phải là cha mẹ mình", Marethyu .

      "Còn việc chúng được ban tặng cả đế chế sao", Aten nhắc nhở ông ta. "Chừng ấy đủ để cám dỗ bất cứ ai."

      "Nhưng hai đứa đâu phải là bất cứ ai ấy. Chúng là cặp song sinh huyền thoại kia mà."

      "Cậu con trai có hai thanh kiếm", Aten thào, "và như thế nguy hiểm."

      "Kim tự tháp làm yếu sức mạnh của cậu ", Marethyu khẽ, gõ cạnh móc câu lên hàng thanh chắn, cắt mảnh đá.

      "Cậu con trai mạnh mẽ ?", Aten hỏi. bong bóng dung nham vỡ bụp, khiến bầu khí trong khoảnh khắc gần như thở nổi, Elder bật ho.

      "Mạnh hơn thằng bé nghĩ. thế, cậu ta còn mang thanh Excalibur nữa chứ. Hai thanh kiếm có khuynh hướng trung hòa nhau."

      "Bây giờ chuyện gì diễn ra, Thần Chết?", Aten hỏi.

      "Hội đồng Cai quản tề tựu. Mỗi Elder có thể hay bò là do ở đây. Bastet và Anubis chờ đợi, tin chắc Anubis được chấp nhận làm người kế vị ông. Còn Isis và Osiris đường tới cùng với cặp song sinh."

      Aten lắc đầu. "Tôi thích được làm con ruồi đậu tường trong cuộc họp ấy."

      "Tôi nghĩ điều ước của ông được chấp thuận." Marethyu mỉm cười. "Xét xử ông là công việc hàng đầu. Nhà thống trị mới, Anubis hoặc cặp song sinh được giao hành hình ông đấy."

      "Em trai tôi có vấn đề gì với việc đó đâu." Ông ta nhướng mày. "Tôi tự hỏi biết phản ứng thế nào trước xuất của cặp song sinh nhỉ?"

      " thoải mái, tôi có thể hình dung như thế. Còn Bastet chắc giận tím ruột gan!"

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :