Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 5: Thầy phù thủy) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG NĂM MƯƠI

      có những người với cháu,” Tsagaglalal bắt đầu, “rằng Hỏa thuật, Thủy thuật hoặc thậm chí Khí thuật là ma thuật mạnh nhất. số người đồng ý – họ Thổ thuật là mạnh hơn cả. Họ đều nhầm.”


      Sophie vẫn ngồi dựa lưng vào cây táo, lòng bàn tay đặt lên lớp cỏ.


      Tsagaglalal thở dài. “ ra,” bà lão tiếp “Ta nghĩ tất cả các ma thuật đều tương đương nhau và có mặt mạnh mặt yếu nhất định. Cả đời nghiên cứu giúp ta tin rằng chúng giống nhau cả mà thôi.”


      “Nhưng các nguyên tố,” Sophie nhấn mạnh, “ khí, nước, lửa và đất khác nhau mà.”


      Tsagaglalal gật đầu. “Nhưng những nguồn lực giống nhau kiểm soát các nguyên tố đó. Năng lượng cháu dùng để dụng lửa cũng giống năng lượng cháu dùng để định hình nước và tạo khuôn cho khí.” Bà vỗ vào mặt đất. “Cả đất cũng thế. Năng lượng đó đến từ bên trong: nó đến từ nguồn điện của cháu.”


      Khu vườn tràn ngập mùi hoa nhài. Tsagaglalal xoa tay xuống mặt đất. Những bông cúc dại màu sắc tươi sáng xuất . “Đây có phải thổ thuật ?”


      Sophie chắc lắm nhưng vẫn gật. “Có...”


      Tsagaglalal mỉm cười. “Cháu chắc chứ? Sao lại phải thủy thuật? Những cây này cần nước để sinh trưởng. Cũng có thể là khí thuật lắm chứ - chúng cần oxi nữa, đúng ?”


      “Và lửa nữa?” Sophie hỏi và mỉm cười.


      “Chúng cần hơi ấm để lớn lên.” Tsagaglalal .


      “Cháu thấy rối quá. Vậy Thổ Thuật là gì? Hay dì có thứ đó?”


      , dì loại ma thuật độc lập. Đúng là có khác biệt giữa đất, khí, lửa và nước. Nhưng sao chúng ta chỉ dừng ở bốn loại đó? Vì sao có lâm thuật hay ngư thuật?”


      Sophie nhìn dì hiểu.


      “Để dì cho cháu bí mật chồng dì cho dì nghe.” Bà lão liến tới gần hơn, mùi hoa nhài bao lấy Sophie. Đó là vấn đề từ ngữ thôi. Đó chỉ là những từ ngữ ngu ngốc. Tất cả chỉ do luồng điện của cháu...hoặc người Trung quốc có từ hay hơn: qi: năng lượng sống. loại năng lượng. Năng lượng đó chảy trong cháu. Nó có thể định hình, tạo khuôn hay vẽ ra đường hướng.” Bà nhổ cọng cỏ lên và hỏi. “Cháu thấy gì?”


      “Cọng cỏ.”


      “Gì nữa?”


      “Nó...màu xanh?” Sophie ngập ngừng đáp.


      “Nhìn lại . Nhìn sâu hơn . Sâu hơn,” Tsagaglalal cầu.


      Sophie nhìn những lá cỏ, những đường gân chạy bên dưới, nhìn phần đầu lá úa vàng...


      “Sử dụng luồng điện của cháu, Sophie. Nhìn lá cỏ .”


      Sophie để cho luồng điện bao quanh ngón trỏ như ngón găng tay bạc.


      “Nhìn vào trong nó,” Tsagaglalal giục. “Nhìn .”


      Sophie chạm vào nhánh cỏ và lập tức thấy...


      ....cấu trúc cây cỏ, lớn lên, bao lấy cả khu vườn...những đường nét ngoài để lộ ra những đường gân chỉ bên dưới...và rồi chúng phân hủy thành những mô tế bào, phân tử, và nguyên tử....


      Đột nhiên cổ cảm thấy mình rơi xuống nhưng là từ rơi xuống hay chui xuống dưới? bay hay rơi xuống sâu hơn...


      ...vào những hạt protons to cỡ...và neutron và electron như những vệ tinh xoay quanh...và hơn nữa là những hạt vi lượng và hạt lepton như những ngôi sao chổi bay xẹt qua...


      “Dì thể dạy cháu thổ thuật,” Tsagaglalal . Giọng bà nghe xa xăm nhưng đột nhiên Sophie quay trở lại với thanh đó, nhìn thấy mọi thứ theo hướng ngược lại từ li ti thành rất , từ rất thành ...tới khi lại nhìn thấy nhánh cỏ. Trong thoáng nó dường như to bằng cả tòa nhà. Tới khi Tsagaglalal để nó lui xa khuôn mặt , mới thấy nó về kích cỡ bình thường.


      “Cháu nhìn thấy những thứ tạo nên chúng ta, và tất cả. Kể cả ta, con người được tạo nên từ bùn đất và luồng điện của Prometheus cũng có cùng cấu trúc như thế.”


      Đầu Sophie quay mòng mòng khiến phải đặt hai tay lên thái dương. Khi nghĩ vừa nhìn thấy mọi thứ, gặp cái mới, thấy khó có thể tiếp cận quá nhiều.


      “Nếu cháu muốn sử dụng thủy thuật, cháu có thể định hình các nguyên tử hidro và oxi nhờ vào trí tưởng tượng và áp đặt ước muốn của cháu vào đó.” Tsagaglalal nhoài người nắm lấy tay Sophie. “Ma thuật là gì ngoài trí tưởng tượng. Hãy nhìn xuống,” bà ra lệnh.


      Sophie nhìn xuống mặt đất.


      “Hãy nghĩ tới mặt đất trải hoa xanh,”


      Sophie định lắc đầu nhưng Tsagaglalal nắm chặt đến nỗi làm đau tay . “Làm .”


      cố gắng tạo nên hình ảnh những bông hoa xanh trong đầu.


      Hai bông hoa chuông xanh xíu xuất .


      “Tuyệt vời,” Tsagaglalal . “Giờ cháu làm lại . Nhìn vào. Định hình nó. Tưởng tượng nó tồn tại.”


      Sophie tập trụng. biết hoa chuông thế nào. nhìn thấy nó bằng con mắt của trí óc.


      “Giờ tưởng tượng cỏ chuyển thành hoa chuông. Chuyển biến nó trong đầu cháu...bắt nó thay đổi...tin nó biến đổi. Cháu phải tin, Sophie Newman ạ. Cháu cần phải tin tưởng, để sống sót.”


      Sophie gật đầu. chắc chắn rằn cỏ giờ phủ hoa chuông.


      Và khi mở mắt, nó là như thế.


      Tsagaglalal vui sướng vỗ tay. “Thấy chưa. Tất cả những gì cháu cần làm là tin tưởng.”


      “Đó chính là thổ thuật hả dì?” Sophie hỏi.


      “Đó là bí mật của tất cả các phép thuật. Nếu cháu có thể tưởng tượng, nếu cháu có thể nhìn thấy nó, và nếu luồng điện của cháu, qi của cháu đủ mạnh mẽ, cháu làm được.”


      Tsagaglal định đứng lên. Sophie dễ dàng đỡ bà đứng dậy. “Giờ sao cháu chạy lên nhà thay đồ . Bỏ chiếc quần bò với giày bộ kia và mặc cái gì đó ấm vào.”


      “Cháu đâu ạ?”


      “Tới gặp em cháu,” Tsagaglalal .


      Lúc đó còn nghe được gì hay hơn thế. hôn phớt lên má dì trước phóng ra khỏi vườn.


      “Nhưng dì nghĩ đó là cuộc trùng phùng hạnh phúc đâu,” Tsagaglalal thầm.



















      CHƯƠNG NĂM MƯƠI MỐT

      Prometheus chỉ về phía ngọn tháp pha lê trước mặt. “Chúng ta tới đó.”


      Palamedes quay người nhìn chiếc vimana bám đuôi họ. Thuyền địch cẩn trọng hơn sau khi chúng mất ba chiếc vì những con megalodon. Chúng chậm lại, ràng là muốn theo đuôi chiếc Rukma tới đích đến.


      “Tháp bị tấn công,” Scathach , nhoài người ra khỏi chỗ ngồi để nhìn cho hơn.


      chiếc vimana Rukma lớn hơn gầm rú bên ngọn tháp. Những sợi dây dài được dòng xuống mái nhà gần nóc tòa tháp, nơi chiến binh mặc giáp cầm kiếm và rìu đứng canh trước cửa chống lại những con anpu rú lên, chống chả với ông ta bằng những cây giáo răng cưa và những cây kiếm cong nguy hiểm chết người. Ít nhất mười anpu nằm ngổn ngang quanh ông ta. Chỉ bằng nhát kiếm, ông đẩy lùi con nữa rơi khỏi nóc nhà xuống biển. Trong khi vũ khí của ông đen vì máu anpu, chiếc giáp xám của ông bị vỡ mẻ nhiều chỗ và đỏ lên vì máu đỏ. con anpu xuất ở cửa chiếc Rukma bắn tonbogiri vào chiến binh. Ông lùi lại khiến quả bóng kim loại xẹt ra những tia lửa xanh khi chạm vào bức tường pha lê. Mặt đất xung quanh người chiến binh rải rác những vệt trắng.


      “Đó mới là chiến binh chứ,” Palamedes ngưỡng mộ thốt lên.


      ai giỏi hơn,” Prometheus hưởng ứng. “Cố lên ông bạn già,” ông , “chúng tôi tới đây.”


      con anpu to lớn với thanh kiếm cong khổng lồ chém xả vào người chiến binh mặc giáp xám, đập vào đầu ông, làm bay mũ giáp ông xoay tròn trong trung.


      Mất lúc những người bất tử trong chiếc Rukma mới nhận ra ông. Họ chỉ biết ông như lão già rách rưới, điên loạn. Nhưng lúc này ông ở đây cùng hào quang của đời ông – đó là Nhà vua Gilgamesh, cười vang, răng nhe ra và đẫm máu khi chiến đấu lại những kẻ thù xấu xí. Nhiều con anpu hơn nhảy xuống từ chiếc Rukma.


      Scathach đẩy ghế đứng dậy. “Cho chúng tôi xuống đó!”


      “Tôi cố hết sức đây,” Prometheus lầm bầm.


      Đừng sau ông chiếc vimana tới rất gần.


      “Ông hạ thấp xuống và cháu nhảy xuống,” Bóng Tối . lôi hai thanh đoản kiếm sau lưng ra.


      ,” Hiệp sĩ Sacaren . Ông chỉ vào chiếc Rukma gầm rú kia. “Nhảy lên nóc nó. Chúng ta xuống bằng dây.”


      Shakespeare ngăn nổi do dự mà . “Tôi phải chiến binh,” ông với Prometheus. “Nhưng ông là chiến binh. Hãy chỉ cho tôi biết tôi phải làm gì, và tôi cố gắng điều khiển chiếc tàu này.”


      Prometheus đưa chiếc Rukma lên chiếc vimana gào thét đỉnh tháp. Trước khi ông đưa nó vào vị trí chính xác, Scathach mở cửa nhảy xuống chiếc phi thuyền kia. hạ cánh nặng nề và lăn tròn chân. Con anpu bắn tỉa ngửng đầu lên, biết tiếng động gì vừa đến. Ngay lúc đó Scathach cắt cổ nó ném xác ra ngoài phi thuyền. Nó rơi tòm xuống biển.


      “Mình đoán phải con nào cũng câm cả,” lẩm bẩm.


      nắm lấy sợi dây thừng đung đưa, cuộn tay và chân vào nó và trượt xuống nóc nhà, hạ cánh vào giữa những con anpu hoảng loạn.


      “Ta là Scathach!” hét lớn. Lưỡi gươm của vung lên chớp nhoáng hạ gục con anpu đằng trước. “Ta được gọi với tên Người Giết Quỷ và Người Tạo lập vua.” Ba con anpu đồng thời tấn công. lùi lại, chém con, đẩy tên còn lại vào lưỡi dao tên thứ ba, khiến nó bay ra rìa nóc nhà. Nó loạng choạng đứng dậy, mất đà và rơi xuống biển. “”Ta là Nữ Chiến Binh và là Bóng Tối.” cả tay và chân để chiên đấu, lưỡi kiếm mở rộng hơn tầm với của tay . “Hôm nay, ta thêm cái tên Kẻ Diệt Anpu vào danh sách.”


      Những con anpu sợ hãi lùi lại, để lại Scathach đứng cạnh Gilgamesh. “Rất vui được gặp lại ông, ông bạn cũ ạ. Trông ông tuyệt lắm.”


      Người chiến binh ngơ ngác nhìn . “Tôi biết ?”


      đợt anpu khác tấn công, tiếng thét của chúng kinh khủng.


      cho chúng vào trong.” Gilgamesh . Ông gầm gừ trong họng khi lưỡi kiếm cong kopesh chém vào giáp ngực của ông. “Abraham hoàn thành Cuốn Sách.”


      Lưỡi kiếm của Scathach sẻ thanh kopesh khác ra làm đôi và chém đứt đầu con anpu cầm kiếm. Con anpu thét lên và ngã vật xuống.


      tới đây mình à?” Gilgamesh hỏi.


      Đúng lúc đó bốn người khác từ dây nhảy xuống tham chiến.


      Nữ chiến binh cười. “Tôi có mang theo vài người bạn.”


      Prometheus bắt lấy hai con anpu bằng hai tay và ném chúng xuống nóc nhà trong khi lưỡi kiếm nhanh như chớp của Joan đánh bay con khác ra rìa. Saint-Germain dùng hai con dao găm dài, cùng tốc độ và nhanh nhẹn khiến ai có thể chống trả nổi đòn tấn công của . Prometheus sử dụng nắm đấm như búa tạ mở đường tới chỗ Gilgamesh.


      “Bạn tôi,” Prometheus hỏi. “ có bị thương ?”


      “Như gãi ngứa ấy mà.”


      Scathach ném bay con nữa ra rìa. “Chúng ta hãy ra khỏi đây và –“ bắt đầu, nhưng Prometheus nắm lấy và ném xuống sàn – ba quả tonbogori bay sượt qua đầu . “ – vào trong,” nốt.


      Khi những quả tonbogiri kêu vào chém loạn xạ vào xung quanh họ, họ lục tục rút vào trong tháp.


      người phụ nữ trẻ đẹp trong bộ giáp gốm trắng cầm hai thanh kiếm kopesh đối mặt với họ. Bà trong tư thế tham chiến khi nhìn thấy những người lạ bước vào cửa. Bà chỉ thả lỏng khi Prometheus và Gilgamesh lùi vào.


      “Để tôi giới thiệu mọi người với chị tôi, Tsagaglalal,” Gilgamesh tự hào . “Nếu anpu nào vượt qua tôi, chị ấy là hàng phòng thủ cuối cùng cho Abraham.”


      “Tôi biết ông tới, Prometheus,” người phụ nữ trẻ với đôi mắt xám to tròn . Bà đặt tay lên má ông. “Tôi mừng là ông an toàn,” bà thầm.


      “Xin lỗi vì tôi tới trễ,” Ông chỉ vào cửa trong. “Ông ấy sắp xong chưa?”


      “Ông ấy viết nốt mấy dòng cuối,” Tsagaglalal .


      Scathach liều lĩnh nhìn trộm ra ngoài. “Shakespeare là mục tiêu dễ dàng đó.”


      Trong khi họ bận chiến đấu với lũ anpu, chiếc vimanan theo đuôi tiến lại gần. Chiếc Rukma, dưới điều khiển của Shakespeare bị bắn liên tục. Họ có thể thấy những lỗ đạn vỏ tàu. Trong lúc họ quan sát, tiếng nổ lớn vang lên và khói đen bắt đầu bốc lên từ cánh trái phi thuyền, làm phi thuyền nghiêng góc lớn.


      Palamedes định lao ra ngoài. “Chúng ta phải ...” ông bắt đầu, nhưng Prometheus và Saint-Germain lôi ông lại khi những quả tonbogiri găm vào khung cửa nơi ông vừa đứng lúc trước, xé toang nó ra thành từng mảnh vụn.


      Đột nhiên Shakespeare xuất ở nóc phi thuyền. Vì những quả bóng tonbogiri cắt phi thuyền ra nhiều mảnh nên ông phải nhảy sang bên cánh trái bị chao . Sau đó ông dang tay và nhảy thẳng xuống chiếc Rukma bên dưới. Ông chui vào nóc chiếc vimana đó và lại xuất sau đó ít phút, tay giữ lấy tên anpu bắn tỉa.


      “Ông ấy chưa bao giờ dùng súng,” Palamedes . “Ông ấy ghét vũ khí.”


      Khi Palamedes , cả nhóm nhìn thấy Shakespeare đặt khẩu tonbogiri lên vai bắn ba phát.


      Hai chiếc vinama bị bắn xoay tròn do mất kiểm soát và đâm vào hai chiếc khác. Bốn chiếc phi thuyền bừng bừng cháy lao thẳng xuống nước.


      “Nhưng tôi luôn phải ngạc nhiên vì ông ấy,” Palamedes thêm


      Shakespeare bắn lẫn nữa rồi lần nữa hạ gục thêm hai chiếc vimana khác. chiếc đâm vào bên tòa tháp pha lên khiến cả tòa nhà rung lên như chuông.


      Nhưng càng lúc càng nhiều vimana xuất , với những chiếc chiến thuyền Rukma lớn hơn dẫn đầu.


      “Chúng được trang bị vũ khí,” Prometheus . “Chúng bắn bay ông ấy và sau đó quay sang ngắm bắn chúng ta.”


      “Chúng ta có thể chạy tới nắm lấy dây dù – leo vào trong chiếc vimana kia và bỏ ..” Scathach .


      “Chúng bắn chúng ta khi leo lên. Ngoài ra,” ông thêm. “Abraham leo dây được.”


      Saint- Germain liều lĩnh nhìn ra ngoài. Shakespeare giết chết tên bắn tỉa. “Tôi nghĩ chúng ta có thêm rắc rối rồi.”


      Họ đứng ngoài cửa và nhìn lên bầu trời tối đen. chiếc vimana khác vừa tới, chiếc bằng pha lê mỏng manh nhưng sáng láng và mới tinh. Ánh trời chiều phủ lên bề mặt nó lớp sơn vàng ấm áp, khiến mặt còn lại hầu như trong suốt.


      “Kẻ mới đến là ai nhỉ? Tổng chỉ huy à?” Scathach hỏi.


      Prometheus nhíu mày. “Tôi chưa từng thấy thứ gì thế này – chỉ có thành viên Hoàng Gia – có thể là Aten hoặc Isis – mới có thể có thứ này. Aten làm thế - ông ấy chống đối với Abraham. Nhưng anpu là tay sai của Anubis, và con vật đầu chó đó rất ngoan ngoãn nghe lời mẹ ông ta. Ông ta làm điều gì mẹ bảo. Dù người này là ai” – ông lắc đầu – “cũng mang lại tin tức tốt đẹp gì.”


      Hàng loạt những đốm nhấp nháy khung chiếc phi thuyền pha lê, và hàng tá những vimana, bao gồm cả chiếc Rukma, nổ tung.


      “Cũng có thể tôi sai.” Prometheus thừa nhận.


      Chiếc vimana pha lê lượn qua và chỉ trong giây phút đó, họ nhận ra ai điều khiển phi thuyền. Marethyu vẫy cái móc câu như thể chào mừng trước khi đâm thẳng vào trung tâm hạm đội vimana. Gần như ngay lập tức mười hai chiếc vimana phát nổ còn hạm đội trở nên rối loạn. Những chiếc vimana đâm cả vào nhau trong khi tìm đường tháo chạy. Có những chiếc định dùng hỏa lực chống trả chiếc vimana pha lê, nhưng nó quá nhanh khiến chúng chỉ bắn vào quân mình.


      Marethyu lượn hai vòng nữa, nhắm vào chiếc vimana Rukma và chiếc phi thuyền hình thoi. Chúng trở thành hai khối cầu lửa lao xuống biển.


      Khi hạm đội vimana tan tàn quân chỉ còn lại nửa. Những chiếc lớn còn. tòa tháp pha lê và vách đá ngổn ngang vỏ kim loại và mẩu vụn đen sì.


      Marethyu hạ cánh xuống nóc nhà. Ông ngồi bên trong, nhúc nhích.


      Scathach là người đầu tiên bước ra. bước qua những mảnh kim loại và gốm từ chiếc Rukma bị bắn hạ. Khi tới chiếc đĩa bay pha lên, nhìn vào trong, rồi gật đầu quay . từng thấy Marethyu ngồi đó, tay phải che mắt, vai run lên, và biết ông khóc cho những mất mát ông gây ra. biết điều đó là cần thiết, và cũng biết ông cứu mạng họ. Nhưng trong giây phút đó, khi nhìn thấy ông khóc cho những gì ông gây ra, còn tin ông hơn cả trước kia. biết dù ông là cái gì – là ai – ông cũng mất nhân tính.




      CHƯƠNG NĂM MƯƠI HAI

      Chim Ưng Đen cho thuyền tới gần bến tàu và ném dây buộc neo rất điệu nghệ. Ông hất hàm về phía chiếc thuyền máy đắt tiền Dee và Josh dùng để tới đảo. Nó bị tuột dây chão và có nguy cơ trôi ra biển. “Ừm, ít nhất chúng ta biết họ còn ở đây.”


      Mars nhảy khỏi thuyền và giơ tay ra cho Hel. chần chừ như thể ngạc nhiên rồi nắm lấy tay ông. “Cám ơn,” rì rầm .


      Odin bước lên bến thuyền và nhìn lại người bất tử. “ với chúng tôi ?”


      Chim Ưng Đen cười lớn. “Ông điên à, ông nghĩ tôi là ai? người bất tử và ba Elder vào sào huyệt của lũ quái vật. Tôi thừa biết ai quay về.”


      Mars vặn cổ cho đỡ mỏi. “Có lẽ ta đúng – ta chỉ làm vướng chân chúng ta thôi.”


      “Tôi ở đây,” Chim Ưng Đen . “để nếu các ông la hét từ đằng kia, tôi có thể tiếp ứng chở các ông trốn thoát.”


      Đến Hel cũng cười lớn. “Chúng tôi vừa hét vừa chạy tới chỗ đâu.”


      “Tùy bà thôi. Nhưng tôi ở đây. Có thể là trong lúc.” và nhe răng cười.


      “Tôi cứ nghĩ cậu muốn cứu bạn Billy,” Mars .


      Chim Ưng Đen lại cười. “Tin tôi , Billy bao giờ cần người khác cứu. Thường người khác cần cậu ấy cứu.”




      CHƯƠNG NĂM MƯƠI BA

      Ts. John Dee đứng ở giữa nhà giam và gầm lên vì giận dữ. Đằng sau , con nhân sư tả tơi và bẩn thỉu nhìn chán ghét.


      Virginia Dare và Josh chạy vào tòa nhà. Dee quay lại chào đón họ, gương mặt nhăn lại vì giận dữ. “Vô dụng!” hét lên. “Vô dung, vô dụng, vô dụng!” xé tan giấy và quăng lên trời. Nó rơi xuống như hoa giấy.


      “Cái gì vô dụng?” Virginia , cố giữ giọng bình tĩnh, mắt nhìn thẳng vào con nhân sư. Sinh vật thè lưỡi ra với Dare, nắm cây sáo trong tay. Lưỡi nó thụt vào.


      Josh cầm lấy hai mảnh giấy và ghép lại. “Hình như chúng có xuất xứ từ các hầm mộ Ai Cập.” Cậu lật tờ giấy lại. “Trông nó quen lắm. Tôi nghĩ bố tôi có những tấm hình những thứ giống thế này tường phòng nghiên cứu.”


      “Cái này là trong lăng mộ của vua Unas trị vì Ai cập hơn bốn ngàn năm trước,” Machiavelli vọng ra trong xà lim ngay sau lưng Dee. “Chúng từng được gọi Văn Bản Kim Tự Tháp, nhưng giờ chúng ta gọi chúng là...”


      “Tử Thư,” Josh nốt. “Bố tôi có những bức hình. Đây là cách ông đánh thức những con quái vật kia à?”


      Machiavelli tóm lấy thanh xà lim. Ông cười nhưng gì.


      Virginia đứng trước Dee và nhìn thẳng vào mắt , hòng mong bình tĩnh. “Vậy là định dùng những tờ giấy này để đánh thức lũ quái vật. cho em xem chuyện gì.”


      Dee mở bung xà lim gần nhất. Nó rỗng . Virginia tiến tới gần hơn và thấy đống bui trắng trong góc.


      còn biết trong đó là gì – có thể là con quái vật có cánh nào đó. nghĩ là dơi quỷ khổng lồ. niệm thần chú, những con quái vật mở mắt và ngay lập tức tan thành bụi.”


      “Có thể niệm sai?” Virginia gợi ý. lôi mẩu giấy trong tay Josh ra. “Ý em là, trông có vẻ khó.”


      đọc trôi chảy,” Dee quát.


      “Đúng đó,” Machivelli . “Tôi thế này về ông ta nhé. Ngữ điệu tốt dù được bằng tôi.”


      Dee quay lại xà lim giam Machiavelli. “ cho tôi xem tôi sai ở đâu.”


      Machiavelli có vẻ cân nhắc rồi lắc đầu. “Tôi nghĩ ông sai.”


      Dee chỉ tay về con nhân sư. “Ngay lúc này nó hấp thu nguồn điện của ông, để chắc chắn ông dùng thần chú nào chống lại tôi. Nhưng nó cũng vui lòng được thịt ông đấy. Ông tin ?” và nhìn vào khuôn mặt phụ nữ của sinh vật.


      “Ôi, tôi thích gã người Ý lắm,” nó khàn khàn . Nó bước xa và cho đầu vào trong xà lim đối diện. “Cho tôi tên này,” nó , hất hàm về phía Billy the Kid. “ là bữa ăn ngon lành.” Cái lưỡi đen sì của nó thò ra ngoài khí trước mặt kẻ ngoài vòng pháp luật. ta tóm lấy lưỡi nó, lôi ra và để nó bắn lại như sợi dây thun. Nó hét lên, ho hắng và kêu oai oái cùng lúc.


      Billy cười. “Mụ mà dám làm thế tôi bóp cổ mụ cho mụ chết chung.”


      “Cậu có vũ khí trong tay khó mà hạ tôi lắm,” con nhân sư hạ giọng , lưỡi lại thò ra thụt vào.


      “Tôi cho ông biết đâu.”


      Dee nhìn Machiavelli. “ ,” nhắc lại. “hoặc tôi cho bạn Mỹ của ông làm mồi cho quái vật đó,”


      “Đừng ,” Billy hét.


      “Lần này tôi đồng ý với Billy. Tôi gì đâu.”


      Pháp sư nhìn hai bên xà lim. Rồi nhìn Machiavelli. “Ông làm sao thế? Ông là trong những đặc vụ tốt nhất của các Elder Bóng Tối cơ mà. từng có lúc ông khiến tôi cảm thấy tôi như tay mơ.”


      “John à, ông luôn là tay mơ thôi.” Machiavelli mỉm cười. “Vì sao à, ông hãy nhìn đống hỗn độn của ông .”


      “Hỗn độn à? Cái nào cơ? Tôi trong đống hỗn loạn.” Đôi mắt Dee bắt đầu nhảy múa điên loạn và cười gằn lên. “Ông biết tôi có kế hoạch gì đâu. Tôi hề khoa trương, tôi làm bá chủ.”


      ngu ngốc của ông làm ông thất bại thôi John,” Machiavelli . Ông quay lưng với cửa xà lim và nằm xuống chiếc giường hẹp.


      “Tôi giết chết tên giặc cỏ kia,” Dee đột ngột . “Tôi cho làm món ăn cho con nhân sư.”


      Machiavelli vẫn nằm giường và nhìn lên trần nhà.


      “Ông muốn tôi làm thế ?” Dee hét vào mặt Machiavelli. “Ông muốn tôi giết Billy the Kid ?” ép người vào xà lim và nhìn Machiavelli. “Sao nào! Cơ hội cuối để cứu bạn mới đó?”


      “Tôi có thể cứu Billy và để hàng ngàn người chết, hoặc tôi có thể để Billy chết và hàng ngàn người sống,” người Ý bình thản trả lời. “ nghĩ tôi nên làm sao hả Billy?” ông với sang.


      Billy bước tới trước thanh xà lim. “Khi tôi học – tôi cũng học thời gian – người ta dạy tôi câu khiến tôi nhớ mãi. ‘thà người chết cho nhân dân còn hơn để toàn đất nước bị diệt vong.’”


      Niccolo Machiavelli gật đầu. “Tôi thích câu đó. Đúng, tôi rất thích câu đó.” Rồi ông quay sang nhìn Dee. “Ông có câu trả lời rồi đó.”


      Dee quay lại nhìn con nhân sư. “Của bà đó.”


      Chiếc lưỡi đen dài của sinh vật thò ra ngoài quấn quanh cổ Billy, kéo ta sát vào thanh xà lim. “Bữa trưa,” con nhân sư nghiến răng .


      nốt nhạc vang lên trong nhà giam và con nhân sư ngã gục xuống sàn. “,” Virginia thốt lên.


      Billy bật lại vào xà lim, cả hai tay nắm lấy cổ. Giờ cổ vòng tròn đỏ xung quanh. thở hổn hển.


      Dee nổi vì tức giận. Mồm mở ra và đóng lại nhưng chỉ có tiếng rít phát ra.


      “John, hãy nghĩ phải quấy ,” Virginia . “Em biết Billy lâu rồi và chúng em có những chuyến phiêu lưu kỳ thú với nhau. Cậu ấy gần gũi với em như người bạn. Khi ta chết, chỉ là vấn đề thời gian thôi, vì ta ngốc lắm,” thêm và liếc nhìn người Mỹ bất tử. “đây là vấn đề đạo đức. Em muốn cậu ta làm mồi cho thứ đó.”


      “Cám ơn,” Billy khùng khục .


      có gì. Và cậu nợ tôi đó.”


      “Tôi nhớ.”


      Virginia quay sang nhìn Dee. “Tôi thỏa thuận với .”


      “Vì cái gì?” hỏi.


      “Vì mạng sống của Billy,” đều đều .


      “Em quên em thỏa thuận với ai ?” Dee gầm ghè.


      có quên ?” hỏi.


      Ts.Dee hít hơi vì rùng mình. lùi bước, đâm vào con nhân sư ngồi cách khó khăn sàn nhà. Mùi xạ bao lấy . “ thỏa thuận à...” ho.


      thỏa thuận.”


      “Em cho cái gì?”


      Virginia xoay cây sáo tay, chuyển động đó tạo nên những thanh nổi lên trong khí.


      Đột nhiên nó lan vào tất cả các xà lim.


      Dee đứng nguyên tai chỗ. láo liên nhìn khắp các xà lim. Tất cả các sinh vật đều tỉnh giấc. “Em có thể làm thế à? Em có thể đánh thức chúng ư?”


      “Tất nhiên. Thường em cho chúng ngủ. Nhưng với cùng bài hát, đảo ngược lại, em đánh thức được chúng. ràng có gì hơn được câu thần chú Somnus.”


      Josh xa Virginia và liếc nhìn xà lim gần nhất. thứ gì đó có lông mao, lông vũ và vảy ngửng đầu lên. Cậu nhìn thấy nó rùng mình.


      “Virginia,” Billy vội vàng . “Đừng làm thế.”


      “Im , Billy.”


      “hãy nghĩ tới những người ở San Francisco.”


      “Tôi biết ai ở San Francisco,” Virginia trả lời. “ờ thực ra là có, nhưng tôi thích họ. Nhưng tôi thích cậu, Billy ạ và tôi muốn cậu làm bữa trưa cho thứ quái vật sư tử rách nát.”


      con nhân sư,” Machiavelli sửa lại. Ông lại đứng trước xà lim. “ Dare,” người Ý cẩn trọng . “Tôi tán thành cái muốn làm cho bạn . Nhưng tôi mong nghĩ tới những điều lớn hơn.”


      “Ồ nhưng ông sai rồi, người Ý ạ.” Dee đáp trả. “Virginia nghĩ tới điều lớn hơn. Đúng em ?”


      Virginia mỉm cười. “Tiến sĩ hứa cho tôi cả thế giới.” bình tĩnh . “Đúng hơn là ông ấy hứa cho tôi mọi thế giới.”


      Và rồi đặt cây sáo lên môi và mùi cây xô thơm cùng thanh êm dịu, tinh tế vang dội trong bốn bức tường.


      Josh thấy Clarent rung lên theo điệu nhạc. Và sau đó thanh Durendal ở sau lưng cậu cũng đập như con tim.


      Josh cảm thấy đói vô cùng, kèm theo đó là cơn giận dữ tột cùng bừng cháy trong cậu. Nó chạy trong khắp người cậu tới khi màn sương mù đỏ bao lấy mắt cậu. Cậu nhìn thế giới qua màn hình đỏ thẫm. Luồng điện của cậu lóe lên, màu vàng pha lẫn màu máu. Những tia lửa đập vào các thanh xà lim, nổ lách tách cùng nhịp điệu với tiếng nhạc.


      Và rồi tất cả các sinh vật bừng tỉnh.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG NĂM MƯƠI TƯ

      Làn gió lạnh cóng thổi qua tòa tháp pha lê mang theo mùi ô uế từ trận chiến và mùi kim loại, nhưng những người chiến binh vừa kinh qua trận chiến hề sợ hay run lạnh khi đứng nóc nhà đầy những vết máu.


      Nhà thông thái Abraham giờ biến thành vàng quá nửa. Ông đứng ở cửa ra vào, tay phải cầm cuốn sách ôm trước ngực. Nửa thân trái của ông hóa thành vàng. Tsagaglalal đứng cạnh ông, giúp đỡ ông. Khi ông cười, chỉ có nửa số cơ mặt di chuyển, và vàng lỏng chảy ra từ con mắt xám còn lại của ông.


      “Những người bạn của ta,” ông trong đau đớn. “Tôi cảm thấy tôi có thể gọi các bạn như thế. Dù đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy các bạn bằng da bằng thịt, nhưng thực ra tôi thấy các bạn trong rất nhiều thế kỷ. Tôi theo dõi các bạn trong tại và cả tương lai. Tôi biết chính trò đùa của định mệnh và hoàn cảnh đặc biệt này đưa các bạn tới đây. Và đúng ra tôi là người chịu trách nhiệm cho việc đó.” Ông hít hơi thở khó khăn và ngực ông di chuyển chầm chậm.


      “Prometheus – ông bạn lâu năm nhất của tôi: ông mang tới cho tôi quá nhiều món quà quý giá, ông mang tới cho tôi người vợ thân của tôi, Tsagaglalal, và người em trai giỏi giang của bà ấy, Gilgamesh. Tôi coi cả ba người như em của tôi, là gia đình tôi chưa từng có. Cả hai biết mình cần làm gì.”


      Hai người đàn ông cúi đầu, xấu hổ vì những giọt nước mắt lăn má.


      nửa khuôn mặt Abraham nở nụ cười. “Bây giờ và mãi mai tôi luôn biết ơn .” Dù cổ ông cứng đơ nhưng đôi mắt ông chuyển động. “Joan of Arc...lịch sử tạo ra tuyệt. Và cả cuộc đời cũng vậy.”


      Người Phụ nữ Pháp cúi đầu, mắt vẫn nhìn vào khuôn mặt Abraham.


      sắp phải chiến đấu vì tất cả những người thương, và phải lựa chọn khiến hai người phải xa nhau. Nhưng hãy nghe theo trái tim của mình. Hãy mạnh mẽ như vẫn vậy.”


      Joan nắm lấy tay chồng và bóp .


      “Còn là gì hả Saint-Germain? Lần đầu tiên khi tôi thấy cuộc đời giao với Joan, tôi nghĩ đó chỉ là sai lầm. Tôi dành cả thánh để kiểm tra kiểm tra lại những dữ liệu của tôi, tìm xem có lỗi gì . Nhưng có. Tận trong tim mình, con người đơn giản, Saint-Germain ạ. biết thằng đểu. Nhưng tôi biết chắc chắn – luôn luôn Joan bằng cả trái tim.”


      Saint-Germain gật đầu và Joan liếc nhìn là bóp tay thêm lần nữa.


      biết tới lúc đó phải làm gì. Đừng do dự.”


      “Hiệp sĩ Sacaren Palamedes và William Shakespeare, lại cặp bình thường nữa. Tôi cũng nghĩ nghiên cứu của tôi có sai sót. Nhưng khi tôi kiểm tra và phát ra rằng hai có chung thứ - gia đình – và tôi biết mình sai. Đại thi hào ạ, chúng tôi cần tới khả năng của : sức tưởng tượng của . Và Palamedes, ông ấy cần bảo vệ. Tôi biết có thể hy sinh mạng sống vì ông ta.” Abraham hơi ngửng lên nhìn chiếc Rukma gầm rú trời. “Như khi này ông ấy dám hy sinh vì mạng sống của tất cả.”


      Shakespeare cúi đầu xuống, lau kính như điên như dại để ai có thể thấy má ông ửng đỏ.


      “Và Scathach. Bóng Tối. Ta quan sát mười ngàn năm nay. Tôi có thể có cả thư viện về những chuyến phiêu lưu của , và thư viện nữa viết về những lỗi lầm của . người khó chịu, vô trách nhiệm, nguy hiểm nhưng trung thành và dũng cảm. Thế giới này nghèo nàn hơn nhiều nếu . cho loài người rất nhiều thứ nhưng họ được như kỳ vọng. Tôi có món quà cho . Nó gồm hai phần, phần đầu tôi cho biết ngay giờ. Phần thứ hai, ờm, vào lúc khác và nơi khác. Đây là món quà đầu tiên: mạng sống của chị . giờ ấy bị kẹt ở Vương quốc bóng tối cùng Archon Coatlicue. cần biết ấy tự nguyện đến đó, hy sinh ấy để được an toàn.”


      Bóng tối khó khăn nuốt cơn nghẹn, tay mở ra rồi nắm chặt lại. Da trắng bệch và mắt ánh lên tia nhìn màu xanh lơ.


      là hy vọng duy nhất của ấy. Hãy nhớ điều đó. Hãy cố sống dù cho mọi thứ dường như mất. phải sống.”


      Scathach gật đầu.


      “Giờ mọi người phải ,” Abraham xong. “Hãy trở lại Danu Talis và hủy diệt thế giới này.” Sau đó, cũng lặng lẽ như khi tới, ông quay lại, với Tsagaglalal và Gilgamesh hộ tống, biến mất trong tòa tháp.


      lời nào, Prometheus kéo dây thừng nối từ chiếc Rukma. Chiếc phi thuyền chòng chành và hơi chúi xuống ngang bằng với nóc nhà. Cả bốn người bất tử lần lượt bước lên cánh thuyền và vào trong phi thuyền.


      Chỉ còn Scathach đứng đó. quay mắt về phương nam nơi ánh sáng từ thành phố Danu Talis thắp sáng những đám mây. Bộ tộc của , tộc Ma Cà Rồng, đáng lý có bất cứ cảm xúc nào và thể khóc. Thế vì sao có nước ? đoán đó chỉ là những giọt nước biển văng lên. quyệt nó và quay lại, leo lên cánh thuyền và quăng mình vào trong chiếc phi thuyền.


      thôi,” , thắt dây an toàn vào. “Hãy tới đó làm xong việc . Tôi còn phải cứu chị.”




      CHƯƠNG NĂM MƯƠI NĂM

      chưa từng tới đây,” Nicholas Flamel thừa nhận. Ông dừng lại và nhìn tấm biển báo đầu.


      CẦU CẢNG 14


      “Ôi, Nicholas, Em nên ra ngoài thường xuyên hơn rồi mà.” Perenelle vòng tay qua tay chồng khi họ dưới lối vào xám xịt dẫn vào cầu tàu mới. “Nó mới được mở năm nay. Đây là trong những địa điểm thích của em trong thành phố đó.”


      “Em bao giờ ,” ông , giọng thoáng ngạc nhiên.


      “Vậy là sau từng ấy năm, chúng ta vẫn có thể khiến nhau ngạc nhiên.


      Ông ngoài người sang và hôn lên má vợ. “Thậm chí sau từng ấy năm,” ông . “Vậy cho biết – em thường tới đây nhiều ?”


      “Năm hay sao lần tuần.”


      “THế à?”


      “Mỗi sáng em rời cửa hiệu, em thường xuống Embarcadero, dạo quanh đó và cuối cùng tới cầu tàu này. Thế nghĩ em đâu trong cả tiếng đó?”


      cứ nghĩ em sang đường uống cà phê.”


      “Trà chứ, Nicholas,” Perenelle bằng tiếng Pháp. “Em uống trà. biết là em ghét cà phê mà.”


      “Em ghét cà phê à?” Nicholas hỏi. “Từ khi nào thế?”


      “Chỉ trong khoảng tám mươi năm nay thôi.”


      Nicholas chớp mắt, đôi mắt mờ phản ánh màu xanh nước biển. “ biết mà. nghĩ thế.”


      trêu em.”


      “Có thể,” ông thừa nhận. Ông nhìn xuống bến tàu. “Nơi đây đẹp. Và dài nữa.”


      “Rộng mười lăm feet và dài sáu trăm bay mươi ba feet tính từ bờ biển,” bà vui vẻ .


      “Ờ.” Flamel gật đầu hiểu biết. “Trò này ngăn Lotan từ ngoài bờ biển được đấy.”


      “Chỉ cần nó được vào đất liền, chúng ta thất bại,” Perenelle . Bà chỉ sang bên trái, nơi Alcatraz thấp thoáng nơi góc vịnh. “Dòng hải lưu quanh hòn đảo đó rất nhanh. Mọi thứ xuống nước đều bị cuốn trôi ra đó. Em thể tưởng tượng nó tới bãi biển nào xa hơn.”


      “Nếu thế ...” Nicholas bắt đầu.


      “Nếu thế chúng ta cũng phải đương đầu với nó,” Perenelle nốt. Rồi bà cười. “Nếu dòng hải lưu đẩy nó qua cầu, rất có khả năng nó xuất ở bên kia vịnh, có thể là ở Alameda. Nó xuất ở đó vào tầm chiều giờ này. Lúc đó đường xa khá tập nập. Nó có thể gây họa lớn trước khi chúng ta tới được đó.”


      “Vậy là chúng ta phải chắc chắn ngăn nó lại ở đây,” ông .


      “Chính xác. Ờm, bảo em đưa tới gần biển nhất có thể. Vậy có kế hoạch rồi phải ?”


      luôn có kế hoạch mà.”


      Họ nghe thấy có tiếng chân phía sau họ. Ho quay lại và thấy Prometheus và Niten rảo bước tới. Họ đều mang cần câu vai. chàng nhắn người Nhật cười. “Đừng hỏi ông ấy xem thêu cái này tốn bao nhiêu,” .


      “Hết bao nhiêu?” Nicholas hỏi.


      “Nhiều lắm,” Prometheus giận dữ . “Tôi có thể mua cả tàu cá, hoặc ít nhất cũng là bữa cá ngon miệng, chỉ để thuê cái này trong vài tiếng đồng hồ,” ông càu nhàu. “Lại còn cộng thêm khoản đặt cọc nếu chúng tôi mang mấy cái cần câu này về nữa chứ.”


      “Kế hoạch thế nào?” Niten hỏi. Cậu lôi ra cái thùng rỗng. “Chúng ta thể câu được. Chúng ta có mồi.”


      “Ồ chúng ta có chứ.” Nicholas mỉm cười. “Cậu chính là mồi.”


      Niten và Prometheus đứng cạnh nhau, dựa tay vào lan can quanh khu ngắm cảnh hình bán nguyệt ở cuối cầu tàu số 14. Với cần câu buông xuống mặt nước, trông họ giống như những người câu cá khác, to chuyện với nhau, quan tâm tới thành phố, cây cầu, Đảo Châu Báu hay Embarcadero.


      Nicholas và Flamel ngồi sau họ. Nhà Giả Kim khám phá ra ghế này có thể quay tròn được nên cứ đẩy người lên trước và ra sau. Chiếc ghế kêu cót két. Cuối cùng Prometheus quay lại và lườm người bất tử. “Nếu ông còn làm thế nữa, tôi cho ông làm mồi cho Lotan đó.”


      “Tôi giúp ông,” Niten đế thêm.


      Perenelle đột ngột đứng dậy. “Có cái gì đó tới,” bà giọng .


      có thấy gì đâu...” Nhà giả kim và rồi ông thấy nó. cuộn sóng, xoáy nước đen trong vịnh. Ông quay lại với Elder và Kiếm sĩ. “Hai người biết phải làm gì rồi đó.”


      Họ gật đầu và quay lại chỗ cần câu.


      “Perenelle,” Nicholas gọi.


      Nữ Phù thủy gật đầu. Bà dựa người vào lang can và liếc nhìn những người qua lại cầu tàu. số ràng là khách du lịch – họ giơ máy ảnh chụp lia lịa – trong khi những bà mẹ đẩy xe đẩy là người vùng này. Có vài người câu cá tầm trung tuổi nhìn chăm chú vào lan can và ba chàng trai trẻ tập tung hứng bằng mấy trái cam và táo.


      Perenelle tập trung và tóc bà nhiễm điện kêu lách tách.


      Ngay lập tức hai người câu cá nhấc cần câu và thúng cá bỏ , lời nào. Những khách du lịch đột ngột hết hứng thú với quang cảnh thành phố và của vịnh, đứa trẻ trung xe đẩy bắt đầu gào khóc khiến mẹ nó phải đưa nó về. Chỉ còn ba tung hứng là còn đứng đó.


      “Họ tập trung tung hứng,” Nicholas lầm bầm. “Thế nên em thể tác động lên họ.”


      “Tất nhiên.” Perenelle cười. “Giờ già rồi em cũng phải chậm chạp chứ.”


      con hải âu lượn qua chộp lây quả táo của và thả xuống biển. Con thứ hai nẫng mất trái cam. Sau đó đột nhiên bốn con chim lớn bay vòng vòng đầu họ, ị xuống đầu họ. Mấy cậu thanh niên ném nốt quả còn lại xuống biển và bỏ chạy khỏi cầu cảng.


      “LÀm tốt lắm,” Nicholas . “Giờ em hãy đảm bảo có ai tới gần nha.”


      Perenelle gật đầu.


      Nhà Giả kim nhìn Elder và người bất tử. “Prometheus, Niten, tới lúc rồi.”


      khí đột ngột nức mùi trà xanh, và mùi hồi. màu đỏ nhàn nhạt bao quanh tay Prometheus và chạy xuống cần câu cá. Nó nổ lách tách, kêu xèo xèo rồi theo đường dây xuống nước.


      Luồng điện màu xanh lam sẫm trườn cánh tay như hình xăm. Nó chạy theo chiều dài sợi dây cước, làm biến màu dây và chìm xuống như biếm màu nước trong vịnh thành màu xanh nhạt.


      hình dạng trong nước bất ngờ đổi hướng.


      “Lotan hút lấy nguồn điện của hai người,” Nicholas . “Nó đánh hơi luồng điện trong nước giống cách cá mập đánh hơi thấy máu. Chúng ta phải kéo nó lại gần hết mức có thể, nhưng hai người phải cẩn thận. Chúng tôi muốn nó xơi tái mất hai người.”


      “Nó đến rồi,” Niten . Lòng trắng mắt, răng và lưỡi chuyển màu xanh.


      “Sẵn sàng,” Prometheus .


      Nicholas Flamel chạm vào con bọ hung xanh đeo quanh cổ và cảm thấy nó nóng lên trong bàn tay ông. Phép thuật này rất đơn giản, ông làm nhiều lần trong đời nhưng chưa bao giờ trong hoàn cảnh như thế này.


      Cái đầu đỏ ngoi lên khỏi mặt nước...rồi cái đầu thứ hai...thứ ba...rồi thứ tư, đen và to gấp đôi những cái đầu khác. Đột nhiên cả bảy cái đầu đều nhắm tới chỗ họ.


      “Hy vọng là có ai quay phim,” Niten lẩm bẩm.


      “Có quay cũng chẳng ai tin đâu.” Prometheus nhe răng cười. “Quái vật bảy đầu tồn tại. Nếu có ai nhìn thấy, người ta nó là sản phẩm của Photoshop.”


      “Tôi có thể cảm thấy nó,” Niten . “Nó hút lấy luồng điện của tôi.”


      “Tôi cũng thế,” Prometheus hưởng ứng.


      “Để nó tới gần chút ,” Nicholas . Ông đặt tay lên vai họ khiến luồng điện của họ hòa lẫn luồng điện xanh lơ của ông.


      “Nhà giả kim.” Giọng của Niten nghe căng thẳng.


      “Vài feet nữa thôi. Càng gần càng tốt.”


      “Nicholas,” Perenelle cảnh báo.


      Những sọc đỏ và xanh lam mắt nước trôi về phía con quái vật như nam châm hút sắt. Họ quan sát cơ thể to lớn của Lotan dâng cao khỏi mặt nước.


      “Nó định nhảy đó!” Prometheus hét. Niten nghiến răng gì.


      Lotan hút hơi cuối và rồi đột ngột phóng lên khỏi mặt nước, nâng mình đuôi nó, bảy cái mồm mở lớn, hàng trăm cái răng sắc nhọn nhe ra chuẩn bị...


      Mùi bạc hà lan tỏa trong khí dày đặc.


      tiếng nổ ...theo sau là vụ nổ của màu xanh lơ, đỏ và xanh lam với ba người đàn ông trong đó...


      Nicholas giơ tay ra đón lấy quả trứng vân xanh trong lòng bàn tay.


      Prometheus và Niten loạng choạng lùi lại dựa vào lan can. Họ thở nặng nhọc và mặt họ hằn lên những nếp nhăn mới. lông mày của Niten điểm sợi trắng. Nicholas Flamel giữ quả trứng bằng ngón cái và ngón trỏ. “ tóm được Lotan.” Ông .


      Prometheus thở hổn hển. “Ấn tượng đấy. Ông làm thế nào đấy?”


      “Khi luồng điện của hai người thu hút nó vào cầu cảng, tôi cho nó nếm chút xíu luồng điện của tôi. khi nó ở trong cơ thể con quái vật, tôi sử dụng phép Chuyển hóa, biến nguyên tố này thành nguyên tố khác. Đó là trong những điều cơ bản của thuật giả kim.” Ông cười. “Tôi chuyển Lotan về dạng nguyên thủy.”


      quả trứng.” Prometheus ngạc nhiên.


      “Nơi chúng ta bắt đầu...” Flamel . Ông tung quả trứng vân xanh lên trời... con hải âu bắt lấy và nuốt trọn.




      CHƯƠNG NĂM MƯƠI SÁU (CHƯƠNG CUỐI)

      Sophie làm như lời dì, mặc quần bò, áo mũ trùm đỏ và giầy leo núi rồi chạy xuống nhà. thấy Tsagaglalal ở trong bếp cho bát đĩa vào máy rửa bát.


      “Được chưa dì?”


      Tsagaglalal nhìn từ xuống dưới. “Hoàn hảo cho nơi cháu sắp tới.”


      “Có ai đón cháu ?” Sophie hỏi.


      Bà lão lờ câu hỏi . “Có thể là,” Tsagaglalal , “ta còn gặp lại cháu nữa.”


      Sophie nhìn bà lão choáng váng. mở miệng định cự lại nhưng Tsagaglalal đưa tay lên và Sophie để ý thấy những đầu ngón tay của bà rất mịn màng – bà có vân tay.


      “Nhưng ta muốn cháu biết ta rất tự hào về cháu. Và cả em trai cháu nữa,” bà thêm, “dù ta luôn đoán cậu ấy chọn con đường khó khăn.” Tsagaglalal khoác tat Sophie và dẫn vào vườn. “Ta theo dõi các cháu từ ngày mới sinh. Ta ôm cháu tay khi cháu mới sinh được giờ, ta nhìn vào mắt cháu và ta biết – cuối cùng – lời tiên tri trở thành thực.”


      “Sao dì gì?”


      gì, với ai?” Tsagaglalal khúc khích cười. “Cháu có tin ta nếu như tuần trước ta chuyện này?”


      Sophie lắc đầu.


      “Ta đợi các cháu mười ngàn năm. Ta chịu đựng. thập kỷ hay nhiều hơn cũng chẳng khác biệt gì. Giờ, có thể cháu nghĩ hành trình của cháu sắp kết thúc, nhưng Sophie, ta sợ là đây chỉ mới là bắt đầu. Và những gì cháu học được, với những kinh nghiệm của cháu, là hành trang cho cháu trong chương tiếp theo.”


      “Cháu có được chuyện với Josh ?”


      “Có, ta có thể đảm bảo.”


      nào cháu .”


      “Cháu cầm tấm ngọc lục bảo ?”


      Sophie mở khóa áo khoác và lôi nó ra. đưa nó cho Tsagaglalal nhưng bà lắc đầu. “Nó là cho cháu. Ta đọc được.”


      Sophie lướt tay qua tấm ngọc thêm lần nữa. Những từ ngữ, tượng hình đọc lúc trước biến biết và đó còn là mặt gương trơn nhẵn mát lạnh.


      “Cháu thấy gì?” Tsagaglalal hỏi.


      “Cháu thấy mình.”


      “Nhìn sâu hơn.”


      Sophie mỉm cười và nhìn vào mặt gương. thấy hình phản chiếu của mình, những cây đằng sau và mái nhà...


      thấy Dee.


      thấy Virginia Dare, thổi sáo.


      Thế giới vặn xoắn và Sophie nhận thấy nhìn bằng đôi mắt của Josh.


      thấy những con quái vật tỉnh giấc trong xà lim, thấy móng vuốt...


      Thế giới lại đảo lộn.


      Và Mars, trong bộ giáp đỏ ấn tượng, Odin mặc giáp xám đen, theo sau là Hel trong chiếc áo giáp sắt cồng kềnh khiến càng giống quái vật hơn đuổi theo lũ quái vật với vũ khí trong tay...


      Chuyển động, quay vần.


      Cửa xà lim bật mở, con quái vật to lớn, cồng kềnh xuất . Mars chỉ bằng cú đánh giáng nó xuống đất.


      Josh chạy rất nhanh, cách chạy của cậu khiến dạ dày Sophie nôn nao.


      ...mở hết cửa này tới cửa khác, thả lũ quái vật chạy trong hành lang, vài con quá kinh khủng khiến cảm thấy còn bệnh hơn.


      con nhân sư xuất . Ngay lập tức, Mars, Odin và Hel lùi lại. Những con quái vật trong hành lang lần lượt nhìn chằm chằm ba Elder.


      Những con quái vật xông lên. Những Elder quay người chạy ngược lại hành lang, theo sau là cả tá những con quái vật lạ thường.


      Thế giới lại lần nữa đảo lộn. Nhìn qua đôi mắt Josh, Sophie thấy cái gì đó rơi ra từ túi áo Mars. nhận ra đó là miếng ngọc và quan sát em trai ...


      ...lao về phía trước, cướp lấy nó.


      Khi cậu nhặt nó lên và nhìn chằm chằm vào nó, lật qua lật lại trong tay cậu, gương mặt cậu chỉ cách có vài inch. nhìn thấy những thay đổi, những nét hằn đuôi mắt, khóe miệng giờ cong lên cách độc ác nơi cậu. Josh từng biết giống thế này.


      “Ôi Josh,” Sophie thở hổn hển. “Em làm gì thế này?”


      Josh Newman chạy ra sân chơi, hít vào phồi luồng khí trong lành lạnh ngắt. “Mọi thứ đều được tự do trong này...”


      Dee và Dare đứng ở giữa sân. Pháp sư sắp xếp hai trong số bốn thanh kiếm sức mạnh thành hình chữ L sân. “Đưa mấy thanh kiếm của cậu đây,” ra lệnh.


      Josh ngay lập tức ném cho thanh Durendal, nhưng giữ lại thanh Clarent, lưỡng lự muốn buông.


      Pháp sư đặt thêm thanh kiếm thứ ba lên mặt đất. Giờ chỉ còn cạnh của hình vuông chưa hoàn thành. Dee giơ tay ra.


      Josh cảm thấy thanh Clarent đập mạnh trong tay cậu.


      “Nhanh!” Dee quát và Josh nhận thấy người bất tử sợ. “Đấy là Mars, Odin và Hel đấy. Họ vốn là những kẻ thù đội trời chung cơ mà.”


      “Có thể họ gạt hằn thù cá nhân sang bên và hợp tác để lùng bắt .” Virginia nhoẻn miệng cười.


      “Ông an toàn,” Josh . “Lần cuối cùng tôi nhìn thấy họ,, họ bị con nhân sư và những con quái khác rượt.”


      Cánh cửa đằng sau họ mở ra và Mars xuất . Khi ông nhìn thấy Dee, ông gầm lên và chạy về phía . Ông mang theo thanh đao, kéo lê nó xuống sàn, khiến đá lát sàng tóe lửa.


      “Thanh kiếm, Josh!”


      Cậu trai trẻ ném thanh Clarent cho Dee. khéo léo bắt lấy và đặt vào chỗ còn trống.


      cử động làm tung tấm ngọc lục bảo ra khỏi túi Josh và rơi xuống đất.


      Sau đó Dee truyền luồng điện vào bốn thanh kiếm khiến chúng lần lượt phát sáng.


      , Sophie,” Tsagaglalal .


      ư? đâu ạ?”


      “Tấm ngọc hoạt động như gương cổng tuyến.” Bà vỗ vào hình ảnh miếng ngọc. “ tới đó. Tới chỗ em trai cháu.”


      “Sao cháu tới được?”


      “Ta gì với cháu?” Tsagaglalal hỏi.


      “Tưởng tượng và đặt niềm tin.”


      “Cháu có muốn ở bên em trai ?”


      “Có ạ.”


      “Hơn mọi điều khác thế giới?”


      “Vâng ạ.”


      “Vậy .”


      Sophie nắm chặt lấy cạnh miếng ngọc và mặt ngọc biết thành miếng bạc, trở thành cái gương hoàn hảo...


      ...ở Alcatraz, tấm ngọc lục bảo mặt đất biến thành bạc, khí có mùi lẫn được của va ni.


      “Soph à?” Josh quay lại nhìn quanh đúng lúc nhìn thấy chị cậu xuất sau lưng. Cậu nhìn chết lặng người.


      hình chữ nhật xuất hiên mặt đất được bao quanh bởi bốn thanh kiếm bùng cháy, bên trong là thứ vật chất đen hắc ín cuộn đảo.


      “Josh!” Dee hét lên rồi nhảy vào trong hố.


      Josh ngay lập tức quay lại chỗ Dee.


      “Đừng !” Sophie van nài.


      “Josh,” Virginia Dare gọi. bước cách uyển chuyển vào trong hố đen tiếp sau Dee và ngay lập tức biến mất.


      “Em phải ,” Josh về phía hố đen mặt đất. Những ánh lửa bốn thanh kiếm sắp tàn.


      !”


      Josh đặt chân vào hố đen. Sophie nắm tay cố giữ cậu lại. Gương mặt cậu biến thành cái mặt nạ xấu xí khi cậu cố vùng ra. “Em quay lại. Em thấy họ làm gì chị rồi.”


      “Josh, họ lừa em đó. Họ lợi dụng em.”


      “Em phải người bị lợi dung,” cậu đáp trả. “Chị mới là người cần mở mắt ra. Nhà Flamel lợi dụng chị. Và họ vắt kiệt chị - như họ làm với những người khác.” Cậu lắc đầu. “Em . Dee và Virginia cần em. Chị cần em.”


      “Chị cần em,” . “Chị cùng em.” Và thay vì kéo cậu lại, đẩy cậu cùng nhảy vào hố hư .”


      ai chuyển động.


      có gì.


      Thứ duy nhất trong màn hư đó là hơi ấm bàn tay cậu em trai.


      Sophie như bị mù dù vẫn mở to mắt. nghe thấy gì. hét lên nhưng cũng phát ra tiếng kêu nào.


      Và dù với chuyến hành trình dài lê thê nhưng có lẽ cũng chỉ trong giây.


      điểm sáng.


      xíu.


      Nó ở ngay trước mặt họ. Liệu họ rơi xuống đó hay nó đuổi theo họ?


      Giờ lại nhìn thấy.


      thấy gương mặt hoảng sợ của Josh và biết đó chính là khuôn mặt của mình lúc này. Cậu nhìn , và trong thoáng cậu lại là em trai , tới khi các đường nét của cậu trở nên cứng rắn. Cậu nhìn sang chỗ khác. Nhưng cậu buông tay .


      Ánh sáng nuốt lấy họ


      Các giác quan quay lại. thấy đau mắt và chói tai, cảm thấy đá cuội dưới chân, thấy mùi xạ của động vật, mùi thơm của cỏ cây trong miệng.


      Sophie mở mắt. cỏ là những bông hoa bao giờ sinh sôi trái đất, trông như những sợi thủy tinh xíu và nhựa thông đặc.


      Khi đảo mắt nhìn quanh, phát họ có bạn đồng hành. lay lay người cậu em sinh đôi. “Em nên dậy .”


      Cậu mở mắt, rên rỉ và khi cậu nhân ra mình ở đâu, cậu giật phắt dậy. “Đây là...”


      “...đĩa bay,” .


      vimana,” Dee thốt lên. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có cơ hội nhìn thấy nó trong đời.” quỳ cỏ và ngưỡng vọng nhìn lên bầu trời. Virginia ngồi khoanh chân bên cạnh, cây sáo nắm hờ tay.


      Chiếc vimana hạ xuống, phát ra những tiếng u u. lúc sau nóc thuyền mở ra và hai người xuất . Họ mặc giáp bằng gốm trắng, trang trí những họa tiết và những con chữ tượng hình kiểu Roman. Họ cao và mảnh mai, với làn da nâu tương phản gay gắt với bộ áo giáp. Người phụ nữ cắt tóc ngắn, người đàn ông cạo trọc và đôi mắt họ mang màu xanh lơ sáng.


      Dee cúi rạp xuống đất, cố thu mình hết mức có thể. “Chủ nhân,” . “Hãy tha thứ cho tôi,”


      Cặp đôi lờ . Họ nhìn cặp song sinh.


      “Sophie,” người đàn ông .


      “Josh,” người phụ nữ gọi.


      “Mẹ... Bố,” cặp song sinh đồng thanh .


      Cặp đôi cúi người. “Ở đây chúng ta là Isis và Osiris. Các con của ta, chào mừng các con đến với Danu Talis. Chào mừng các con trở về nhà.”




















      CHÚ THÍCH CỦA TÁC GIẢ VỀ VIMANA VÀ ĐĨA BAY

      Cũng giống những thứ khác trong tập truyện này, vimana bắt nguồn từ trong truyền thuyết, đặc biệt là trong những câu chuyện cổ của Ấn Độ. Trong sử thi tiếng Phạn The Mahabharata, xuất cách đây hai ngàn năm trăm năm, người ta mô tả chi tiết chiếc vimana. Chu vi của nó khoảng mười hai cubit (đơn vị tính toán, cubit bằng chiều dài từ khuỷu tay tới đầu ngón giữa). Chiếc vimana nổi tiếng nhất trong kho tàng truyện cổ Ấn Độ là chiếc vimana Pushpaka – cỗ xe ngựa bay của thần Kubera. Nó được miêu tả giống như “ đám mây ánh sáng.”


      Mặc dù cỗ xe ngựa bay, phi thuyền và thảm bay từng xuất trong những câu truyện truyền thuyết toàn thế giới, nhưng những chi tiết trong sử thi Ấn Độ là ấn tượng và đặc biệt hơn cả. Trong sử thi tiếng Phạn khác, Ramayana, (cũng được viết lại cách đây hai ngàn năm trăm năm), vimana rất phổ biến. Sử thi có kể về rất nhiều vị thần và hùng chiến đấu trung với những chiếc vimana khác và tấn công các thành phố. Người ta cũng có miêu tả về chiều dài, trọng lượng và chiều cao của chiếc phi thuyền.


      Có bốn dạng vimana cơ bản – Rukma, Sundara, Tripura và Sakuna – kiểu dáng từng chiếc có khác nhau. số làm bằng gỗ, số làm bằng loại hợp kim màu trắng đỏ bí hiểm; số hình tam giác với ba bánh lái, trong khí số khác có dạng hình tròn hoặc ô van; số khác được miêu tả cao bằng tòa nhà ba tầng.


      Tất nhiên, cái nào là bằng chứng chứng minh trong quá khứ từng có đĩa bay, nhưng đó cũng chỉ ra từ thời xa xưa con người luôn nhìn lên bầu trời.


      Giấc mộng được bay cao xuất trong dòng lịch sử và có từ rất lâu hơn nhiều người vẫn nghĩ. em nhà Wright là những người đầu tiên bay lên bầu trời vào tháng Mười hai năm 1903. Nhưng theo như nghiên cứu mới nhất có thể quan điểm đó là sai lầm. Hiram Maxim bay lên được quãng ngắn vào năm 1894 với chiếc phi thuyền nặng khoảng 7000 pound, còn Samuel Langley đưa chiếc phi thuyền người lái bay lên 3300 feet vào năm 1896.


      Trong suốt thế kỷ mười chín, các tàu lượn và khinh khí cầu bay lên bầu trời khắp châu Mỹ, châu Âu, Ấn Độ và Nam Phi. Ví dụ, trong báo cáo vào năm 1895, chiếc máy bay được Shivkar Bapuji Talpade thiết kế cất cánh từ Bombay, và chiếc tàu lượn tuyệt vời mang tên Goodman Household bay lên được 300 feet ở Natan, Nam Phi vào năm 1871. Nhưng ghi nhận đầu tiên về chiếc máy bay nặng hơn khí là ở vào năm 1848, khi John Stringfellow sử dụng chiếc máy bay lớp cánh bay cách mặt đất mười foot. Đó là chiếc máy bay động cơ hơi nước.


      Thế kỷ mười chín là kỷ nguyên của tàu lượn, còn thế kỷ mười tám là kỷ nguyên của khinh khí cầu. Mùa đông năm 1783 Etienne Montgofier sử dụng chiếc khinh khí cầu sử dụng sức nóng có chiều dài 75 foot, đường kính 50 foot bay lên bầu trời mở đầu kỷ nguyên mới.


      Xa hơn trong lịch sử, Leonardo da Vinci là người thiết kế ra chiếc tàu lượn có thể là nguyên mẫu cho máy bay trực thăng ngày nay. Trong cuốn sổ tay của ông có rất nhiều những thiết kế máy bay, tàu lượn và cánh nhân tạo. Trong nhật ký viết năm 1483, ông vẽ ra bản thiết kế dù nhảy. (vào 26 tháng 6 năm 2000, bản sao làm theo thiết kế dù đó được làm bằng những công cụ, vải và chất liệu có sẵn vào thời của da Vinci, đưa người bay xuống mặt đất từ độ cao mười ngàn mét.)


      Xa hơn nữa, vào thế kỷ thứ chín, nhà phát minh vĩ đại Berber và nhà thơ Abbas Ibn Firnas đeo cánh lưng lượn. Năm trăm năm trước nữa, người Trung Quốc miêu tả về vật thể bay được làm từ tre và da.


      Nếu chúng ta trở về thời gian, gian nơi lịch sử và thần thoại sao thoa, chúng ta có thể thấy rất nhiều những đề cập tới những phương tiện bay. Bay chính là trong những điểm chung trong các thần thoại. Hầu hết các vị thần có thể bay, cần giúp đỡ nào khác. Nhưng trong vài truyện cổ khác, các vị thần bay với hỗ trợ của những đôi cánh. Những hình này xuất những bức tranh khắc đá và những hình vẽ trong các điện thờ khắp thế giới. Tuy nhiên, trong thần thoại và các truyện cổ còn có rất nhiều các phương tiện do con người sáng chế giống như máy bay và đĩa bay.


      Vị vua Ba Tư Kai Kawus cho buộc bốn quả bóng vào ngai vào và dùng đại bàng huấn luyện cho nó cắp các quả bóng lên. Khi chúng bay, chúng mang theo ngai vàng lên trời. Cụm từ cỗ xe bay xuất trong các thần thoại Trung Quốc, và trong nhiều câu truyện về vị vua đầu tiên của Trung Hoa, Shun, bay lên trời – ông từng thoát khỏi tòa nhà cháy bằng cách dùng chiếc mũ khổng lồ như chiếc dù.


      Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về máy bay và trong truyện cổ về Icarus. Cha ta, Daedalus tạo cho ta đôi cánh nhân tạo. Daedalus là nhà thiết kế vĩ đại tạo nên rất nhiều kỳ quan, bao gồm Labyrinth, dành cho vua Minos của Knossos. Những chi tiết trong câu truyện về Daedalus rất thú vị rất thú vị: chúng ta có thể thấy ông ta dùng lụa vì nó quá , dùng vải bạt vì quá nặng. Cuối cùng, ông quyết định dùng khung gỗ gắn lông chim nhờ sáp ong. Cũng giống những nhà phát minh khác, Daedalus có nghiên cứu: ông đưa cho con trai bản chỉ dẫn chi tiết rằng đừng bay quá cao hay quá gần biển, vì nước biển có thể làm hỏng đôi cánh. Icarus bay quá cao và cái nóng của mặt trời Địa Trung Hải làm nóng chảy sáp ong. may là Daedulas chế tạo ra dù.


      Khi tôi viết những điều này, tôi khỏi phân vân rằng, liêu trong các câu chuyện truyền thuyết đó có chút nào . Chúng ta nên nhớ rằng rất nhiều điều ngày nay chúng ta coi là bình thường từng được coi là phép lạ.
























      THẦY BÙA

      Cuốn thứ sáu và cuối cùng của


      BÍ MẬT NICHOLAS FLAMEL BẤT TỬ


      Xuất bản Mùa hè 2012


      Tôi là huyền thoại.


      có lúc tôi thần chết chạm tới tôi, rằng đau ốm làm hại nổi tôi. Nhưng giờ còn như thế nữa. GIờ tôi biết được ngày tôi chết, và đó cũng là ngày vợ tôi chết: đó là ngày hôm nay.


      Tôi sinh ra vào năm 1330, cách đây hơn sáu trăm bảy mươi năm. Tôi sống cuộc đời dài và đẹp đẽ. Tôi làm nhiều nghề trong đời: dược sĩ và đầu bếp, người bán sách và quân nhân, giáo viên ngoại ngữ và nhà hóa học, thầy cãi và tên trộm.


      Và tôi là Nhà giả kim.


      Đó là món quá – hay lời nguyền? – nhờ có bất tử Perenelle và tôi chiến đấu với những Elder Đen tối và đánh lui họ trong khi tìm cặp song sinh truyền thuyết Vàng và Bạc. Chúng tôi luôn nghĩ họ giúp chúng tôi bảo vệ hành tinh này.


      Chúng tôi nhầm.


      Giờ chúng tôi sắp chết và cặp song sinh trở về Hòn đảo Danu Talis, cách đây mười ngàn năm, trở về nơi mọi việc bắt đầu...


      Ngày hôm này thế giới tới hồi kết.


      Ngày hôm nay, tôi và Perenelle chết.


      Nhưng tôi chết mà tham chiến.


      Vì tôi là người bất tử Nicholas Flamel.


      Trích nhật ký Nhà giả kim Nicholas Flamel


      Viết ngày hôm nay, thứ Bảy, ngày mùng 7 tháng Bảy


      Tại San Francisco, quê hương thứ hai của tôi.

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :