Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 5: Thầy phù thủy) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG HAI MƯƠI TƯ

      Josh dừng chiếc thuyền máy lại trước bến tàu bằng gỗ của Alcatraz, cố gắng tới ván tàu nhất có thể. Đó từng là nơi khách du lịch xuống tuyền. Động cơ dừng lại. Cậu mở khóa lần nữa và khởi động lại mô tơ. Có tiếng kích nhưng có gì xảy ra. Cậu nghiêng người ra kiểm tra bình xăng. “Chúng ta hết nhiên liệu rồi,” cậu quay lại gọi Dee nôn ọe ở bên sườn tàu. Ngay khi nguy hiểm vì lũ Nereid qua , cơn say sóng lại trở lại. “Ông có nghe thấy ?” Josh to hơn để thu hút chú ý của Pháp sư. Cậu khá hài lòng trước khó chịu của Người bất tử.


      “Nghe rồi,” Dee thều thào. “Cậu muốn tôi làm gì đây?”


      “Ý tôi là chúng ta mắc kẹt ở đây rồi,” Josh “Làm sao chúng ta ra đảo được nếu...” cậu bắt đầu , rồi dừng lại.


      Virginia Dare ngồi cầu tàu, tay chống ra sau, đôi bàn chân trần bẩn thỉu duỗi thẳng ra trước. Cây sáo gỗ ở tay trái . ấn nó vào môi, nhưng nếu như co có thổi ra thanh nào Josh cũng chẳng nghe thấy vì tiếng sóng vỗ vào cọc. Người bất tử gạt hết đống tảo biển ra khỏi người. Và khi gạt mái tóc đen ướt ra khỏi mặt, trông quá là trẻ. nhìn Josh và mỉm cười. Rồi dùng cây sáo chỉ ra vịnh. “Tiện thể, cậu làm tốt lắm. Rất tốt.”


      “Sao biết là tôi làm?” Josh hỏi, lời khen ngợi khiến đôi má cậu ửng hồng.


      “Tiến sĩ người kia làm gì tinh tế như thế được đâu.” Dare cười toe toét. “Dee có thể gọi sấm chớp, hoặc làm cạn nước cả vịnh này. Nhưng ông ấy biết ý nghĩa của từ kiềm chế.”


      “Đáng ra có thể giúp chúng tôi,” Dee gầm ghè, ngồi thẳng dậy ở cuối đuôi thuyền.


      “Đáng ra em có thể,” Dare . “Nhưng em chọn làm.”


      “Tôi chắc mình gặp lại ,” Josh . “Và tôi bao giờ nghĩ nhìn lại ống sáo của nữa,” cậu thêm, hất hàm về phía nhạc cụ.


      Virginia xoay cây sáo bằng tay trái. “Ờ, cây sáo này và tôi là bạn vong niên. Chúng tôi có mối liên kết. Tôi luôn có thể tìm ra nó. Và nó luôn quay về tay tôi.” Dare lại cười. “Lũ Nereid sai lầm khi định chơi với nó – ai ngoài tôi có thể sử dụng nó.” Gương mặt người bất tử bỗng giống như đeo mặt nạ và nụ cười khiến khuôn mặt độc ác. “Giờ Nereus chỉ còn bốn chín thay vì năm mươi người con .”


      giết ta à?” Josh hỏi. Cậu thấy khó tưởng tượng nổi phụ nữ trẻ thế này có thể là kẻ sát nhân.


      Virginia lại xoay cây sáo và trong lúc cậu nghĩ cậu nghe thấy cùng thứ nhạc con Nereid hát. “Chúng ta đánh cắp bài hát của ta,, giọng của ta. Giờ ta bị câm rồi; ta bao giờ hát được...và Nereus còn cần ta nữa,” Dare nốt trong vui sướng. Khi ta cười, cây sáo nhại lại thanh dù cho nó ở gần miệng .


      “Nhưng dùng luồng điện của mình?” Dare vội hỏi khi ông ta run rẩy trèo ra khỏi thuyền. Ông đưa tay ra và Josh đưa ông ta thanh kiếm đá Excalibur và Joyeuse.


      Dare uyển chuyển đứng lên và dùng cây sáo gỗ vỗ vào vai ông ta. Trong quãng ngắn khí buổi chiều rung lên với những tiếng nhạc đứt đoạn. “, tiến sĩ. Tôi cần dùng luồng điện của tôi. Cây sáo của tôi có họ hàng với mấy thanh kiếm của ông – cổ đại, lâu đời và căn bản – nhưng giống của ông chỉ dùng để hủy diệt và chém giết, cây sáo của tôi là nhạc cụ tinh tế. Nó còn có thể tạo ra sinh mạng mới.” quay người lại cầu tàu tiến về phía bức tường đá có gắn chiếc đồng hồ và biển báo ĐẢO ALCATRAz sơn trắng nền nâu. dừng lại trước đồng hồ quay người lại đối diện với mặt trời, mắt nhắm lại. “Cảm giác tốt đây.”


      Josh cầm hai thanh kiếm đá còn lại – thanh Clarent và Durendal – dắt sau lưng và leo ra khỏi thuyền. “Thuyền hết nhiên liệu rồi,” cậu nhắc lại và theo họ. “Chúng ta kẹt ở đây rồi.”


      “Tới chừng nào chúng ta còn những thanh kiếm đâu,” Dee , giọng vọng lại bến cảng người. “Nếu chúng ta sắp bị lộ địa điểm, chúng ta sử dụng luồng điện và dùng mấy thanh kiếm tạo ra cổng vòm tới bất kỳ đâu...bất kỳ nơi nào.” Giọng đột nhiên trở thành tiếng thầm. “...tới bất kỳ thời điểm nào.” dừng lại như thể vừa đâm vào đâu.


      Virginia mở choàng mắt. “Tiến sĩ?”


      Cả Josh và Dare đều nhìn thấy màu sắc biến mất khuôn mặt người bất tử, khiến nó có vẻ bệnh tật và xanh xao, viền môi ta chuyển màu xanh. Quầng mắt chuyển sang màu của vết thâm lâu ngày. Josh và Dare nhìn nhau lo sợ.


      “Tiến sĩ?” Virginia gọi lại. vươn tay ra nắm lây tay . “John, ổn chứ?”


      Dee chớp mắt, rồi lại chớp, nhưng dù ông ta nhìn thẳng vào Virginia Dare nhưng ràng là ông ta thây .


      “John,” Virginia , có chút lo sợ trong giọng . rút tay tát mạnh vào mặt


      Dee lùi lại rồi đặt tay lên má, nơi còn hằn nguyên vết tay Dare. Khi ta nhìn Virginia, ánh mắt của ông ta rất, rất điên loạn – lòng đen mở rộng tưởng phản với màu da xám ngoét của , đôi mắt hăn như thể bị đốt cháy thành giấy. “Ờ,” , giọng rất cảm xúc. “Ờ, ổn rồi. đấy. ổn rồi.”


      Trước khi Josh có thể phân tích xem chuyện gì xảy ra, có tiếng bước chân vọng lại từ cổng vòm ohias bên phải họ. Cả ba quay lại, tay đặt lên vũ khí. Hai hình bóng xuất , chạy nhanh về phía họ.


      “Giờ đến lượt cặp đôi kỳ lạ này,” Dee lẩm bẩm.


      Niccolo Machiavelli, trông vẫn rất lịch trong bộ véc đen bẩn thỉu, dừng lại trước mặt Pháp sư Người . Người Ý nhìn cả ba, gật đầu với Josh trước khi chuyển chú ý sang Dee. “Đúng là tôi nghe thấy tiếng ông, hay tai tôi lừa tôi nhỉ? , ông ổn, Ts.Dee ạ,” Người Ý bằng thứ tiếng chuẩn xác và ngữ điệu. “Nhìn vào mắt ông là biết.”


      “Mắt tôi làm sao?” Dee thách thức.


      “Ông luôn có nhìn này khi ông định làm gì đó cực kỳ ngu ngốc và mang tính hủy diệt hàng loạt.”


      “Tôi hiểu ông gì,” Dee . “Tôi bị say sóng ấy mà.”


      “Ồ, ông ấy bị say sóng,” Virginia kèm nụ cười ngắn. bước ra trước chìa tay ra với người Ý. “Vì vị tiến sĩ này hoàn toàn quên mất phép cư xử và vô lễ giới thiệu ai, tôi phải tự giới thiệu mình thôi. Tôi là Virginia Dare.”


      Machiavelli nắm lấy tay , rồi nghiêng người về phía trowcs, nhàng đặt phớt nụ hôn lên tay . “Tôi rất vinh hạnh được gặp , Dare. Tôi nghe đến .”


      Virginia nhìn Billy và cười tươi hơn. “ vui được gặp lại bạn cũ này. Cậu thế nào?”


      “Cũng ổn mà Dare.” Billy . Cậu bước lên bước và ôm như ôm người bạn. “Tôi thấy khá hơn nhiều khi gặp lại .”


      “Hai người biết nhau à?” Dee ngạc nhiên hỏi đúng câu Josh định hỏi.Rồi Dee nhận ra là, tất nhiên, họ cùng là người Mỹ bất tử, họ có thể gặp nhau vài lần.


      “Ờ, the Kid và em từng có vài chuyến phiêu lưu với nhau,” Virginia và nháy mắt với cậu thanh niên. “Đúng , Billy?”


      “Tôi chắc có nên gọi đó là phiêu lưu ,” Billy bẽn lẽn cười . “Thường mọi chuyện kết thúc cùng việc tôi bị bắn hoặc bị thương bởi vài vật sắc nhọn.”


      “Và tôi cứu cậu,” Virginia nhắc nhở ta.


      “Vui , mọi chuyện luôn luôn kết thúc như thế,” Billy .


      Machiavelli quay lại với Josh và duỗi tay ra. Josh nắm lấy tay ông ta cảm thấy sức mạnh trong cái nắm tay đó. “Tôi rất vui được gặp lại cậu,” Machiavelli nhàng . Mất lúc Josh mới nhận ra ông ta bằng tiếng Ý mà cậu vẫn hiểu được. “Tôi rất ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn ở cùng bạn người này.”


      “Tôi nghe thấy đấy,” Dee gầm ghè. “Tôi được tiếng Ý đấy!”


      “Tôi biết.” Machiavelli mỉm cười. “Tôi chỉ nhắc bạn trẻ Newman rằng cậu ta vẫn có quyền lựa chọn.”


      Josh cắn trong lợi và cố gắng lắm để biểu lộ gì. “Tôi cũng rất vui được gawpk ông.’ Josh trả lời bằng tiếng . Cậu thích người Ý này nhiều hơn Dee. Machiavelli có nhân tính, cái mà Dee thiếu. “Sao hai người đến được đây?” ông ta hỏi. “Cổng vòm hay...”


      “Máy bay.” Machiavelli tiến tới gần Billy hơn. “Đây,” ông ta . “là Josh Newman. Vàng.” Ông nhấn mạnh thêm. “Và là trong hai người của cặp song sinh trong tiên tri.”


      Billy bắt tay Josh, Josh ngạc nhiên vì tay Kid lạnh và thô ráp. Cậu cũng nhận ra mình cao hơn the Kid chút.


      “Tôi chưa bao giờ nghĩ được gặp Vàng,” Billy .


      “Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ mình được gặp huyền thoại,” Josh . Cậu phát mình cười như kẻ ngốc, và cậu phải cố gắng lắm mới bình tĩnh được. Cậu chỉ biết lờ mờ về Dare và machiavelli trowcs khi gặp họ và chưa bao giờ nghe về Dee, nhưng Billy the Kid lại khác. ta là huyền thoại Mỹ. Cậu lớn lên với những câu chuyện về ta.


      The Kid có vẻ ngượng. “ tôi phải là huyền thoại. Giờ, Wild Bill, Jesse James, Geronimo hay Cochise mới là những huyền thoại.”


      “Ờ, tôi nghĩ mới là huyền thoại,” Josh bướng bỉnh .


      Billy cười toe toét. “Ờ, chính bản thân cậu cũng là huyền thoại đó chứ, đúng . người trong cặp song sinh huyền thoại – cứu thế giới, hủy diệt nó,” ta kéo dài giọng . “Cậu là cái nào?”


      “Tôi biết,” Josh nghiêm túc . Dù cậu nghe về lời tiên tri từ tuần trước, và cậu chưa bao giờ ngừng nghĩ về những lời đó. cứu thế giới, hủy diệt nó. Cậu hy vọng cậu là người cứu nó...nhưng thế có nghĩa là chị cậu hủy diệt thế giới này. Ý nghĩ đó khiến cậu choáng váng.


      nào,” Machiavelli vào. “chúng ta phải nhanh lên.” Người Ý quay người lại và cầu cả nhóm theo ông. Ông qua cổm vòm dẫn tới tháp nước. “Nereus định đánh thức Lotan,” ông ta , lớp gạch khiến tiếng của ông vọng lại. “Tôi muốn ở đó xem mọi chuyện xảy ra.”


      Josh sau Billy the Kid quãng. “Lotan là cái gì?” cậu hỏi.


      Billy cười. “Con quái vật biển bảy đầu.”


      Josh quay lại nhìn toàn vịnh. con quái vật bảy đầu có thể phá hủy toàn thành phố. Và những mảnh ghép vào đúng vị trí trong óc cậu. Liệu cậu có phải kẻ mang định mệnh hủy diệt trái đất? “Bảy đầu á?” cậu lẩm bẩm. “Tôi phải xem mới được.”


      “Tôi cũng thế,” Billy . “Tôi muốn ông ta đánh thức con kraken, nhưng ràng là chúng quá .”


      Virginia đứng sau hai người thanh niên để đợi Ts. John Dee. “ mưu gì đó,” , hơn thầm là bao. “John, em cũng thấy cái Machiavelli thấy.”


      suy nghĩ.” Dee cười hài hước, trong lát trông khá trẻ trung. “Fortis Fortuna adiuvat,” .


      phải lại bằng tiến . Em được đào tạo bài bản lắm ở vùng rừng ú Bắc Carolina đâu.”


      “Người dũng cảm gặp vận may.” xoa xoa má vì nó vẫn đó do cú tát của . “ mới nảy ra ý mới. ý tưởng liều lĩnh và táo bạo.”


      “Ý tưởng liều lĩnh và táo bạo cuối cùng của cuối cùng đâu có tới đâu đâu,” Virginia nhắc nhở .


      “Lần này khác.”


      “Lần cuối cùng thế, suýt thiêu rụi cả Luân Đôn.”


      Dee lờ ta . lại xoa má. “Sao em đánh mạnh thế. nghĩ mất cả miếng thịt rồi.”


      “Tin em ,” Virginia cười, “thế chưa phải mạnh đâu.”






      CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM

      Aten, Chúa tể của Danu Talis đứng nóc Lâu Đài Mặt Trời quan sát chiếc vimana bay lên khỏi Huracan, nhà tù miệng núi lửa.


      ai thoát được chứ?” ông ta hỏi, hơi ngước nhìn lên.


      ai thoát được đâu . Những anpu của em bắt được chúng dễ dàng.”


      “Còn người đàn ông tay móc câu?”


      “Bị tách ra khỏi những người còn lại, theo như lệnh của .”


      Aten quay mặt đối diện với bạn. Từng có thời người ta thể phân biệt họ, nhưng gần đây, Biến đổi xảy ra với các Elder xảy ra với Aten,kéo dài sọ, mũi và hàm ông, làm môi ông dày hơn, mắt sâu hơn, khiến cho khuôn mặt ông cân đối. Giờ ông phải mặc áo choàng mũ rộng, tay dài để che dị dạng của mình.


      “Chúng ta nên giết chúng cho xong chuyện,” Anubis . biến đổi cũng xảy ra cơ thể ông ta. Giống như mình, Anubis từng đẹp vô cùng, nhưng giờ răng ông dài ra như những sinh vật ông tạo ra ở phòng thí nghiệm dưới lòng đất, màu sắc làn da màu đồng của ông giờ lốm đốm đen, vằn lên những mạch máu đỏ li ti. Đối với họ giờ việc năng cũng khó khăn và cả hai biết họ sớm còn được nữa. giống Aten, luôn cố giấu những Biến đổi , Anubis - giống như đa số các Elder khác – lại trưng nó ra như biểu tượng của lòng kiêu hãnh.


      “Giết họ à?” Aten ngạc nhiên .


      Giết chúng. Cách giải quyết nhanh nhất cho vấn đề luôn là loại bỏ nó .”


      “Nhưng em trai ạ, nếu chúng ta giết họ,” Aten . “chúng ta mất cơ hội quý giá nhất cho mạng sống của chúng ta. Abraham họ tới từ tương lai.”


      Anubis cố nhổ nước bọt nhưng được. Cuối cùng ông ta đành nghiến răng . “Chúng ta cũng nên giết cả ta nữa.” Ông ta đứng cạnh trai nhìn về thành phố và ngọn nũi lửa.


      “Niềm ham mê khoa học của em ở đâu rồi?” Aten nhàng hỏi. “ nhớ là khi em còn , niềm đam mê của em là có giới hạn cơ mà.”

      Anubis xòe bàn tay. Những ngón tay của ông cong queo lại thành những móng vuốt, những móng tay dài và đen. “ xem nó dẫn em tới đâu đây này. EM trở thành quái vật. Chắc những thí nghiệm em theo cách nào đó đầu độc em và ảnh hưởng tới Biến đổi của em. Đáng ra chúng ta phải giống nhau, đúng trai?”


      “Abrahm rằng Biến đổi đơn giản chỉ là cho chúng ta thấy chúng ta thực là gì,” Aten ôn tồn .


      “Vậy em thực là thế này hả?” Anubis càu nhàu.


      Aten bước ra khỏi bức tường thấp chạy từ nóc lâu đài và vào tầng của khu vườn treo khổng lồ của cung điện hoàng gia. Ông định với Anubis rằng ông ta biến thành con quái vật đầu chó ông ta tạo ra ngàn năm về trước. “ dạo với ,” ông ra lệnh.


      Nóc vườn – Nguyệt Uyển – được chia thành bảy vòng tròn riêng biệt, mỗi vòng có màu riêng biệt và loại hoa riêng biệt. Aten bước vào vòng tròn đầu tiên, kéo chặt áo choàng vào người, nhắm mắt và hít hơi sâu. Đứng trong vòng tròn, cái tạo nên mái lâu đài, là những bông hoa sưn – hơn ngàn loài hoa khác nhau tụ tập về đây từ khắp nơi trái đất – và ông có thể phân biệt từng loài nhờ mùi hương đặc trưng của chúng.


      “Em trai à, đừng làm gì với những vị khách của chúng ta,” ông , phảng phất chút quyền uy trong đó. Ông biết Anubis thừa khả năng lộng hành sau lưng ông. “Em phải cho họ ăn uống. được thẩm vấn họ - tự làm.”


      “Aten, liệu thế có sáng suốt ?”


      Vị chúa tể của Danu Talis hề quay lại, nhàng . “Em trai, đừng thách thức lần nữa. Hãy nhớ những gì xảy ra cho những người em khác của chúng ta. Em hãy làm những gì , hỏi nhiều. Nếu có gì xảy ra với khách của chúng ta, em là người chịu trách nhiệm.” Ông quay lại và bắt gặp cái nhìn hỗn xược khuôn mặt cậu em. “Em nghĩ yếu , đúng ?” Aten từ tốn hỏi.


      Anubis bước lên. Ông mặc áo choàng lưới tay dài tới mắt cá chân. Nó bay ra sau khi ông , cạnh sắc của chiếc áo choàng chém qua những bông hoa xung quanh, hủy hoại chúng. Ông quỳ chân trước Aten và cúi người. “Em quan sát chiến đấu với Những Người Cổ đại và những Archon. EM săn đuổi Chúa Đất cùng . trị vì toàn bộ đế chế này. Chỉ có kẻ ngốc mới dám nghĩ hèn nhát hay yếu đuối.”


      “Thế em đừng làm kẻ ngốc!” Aten cúi người, ấn tay lên bả vai rắn chắc của cậu em ấn xuống. Con ngươi đôi mắt vàng dẹt của ông nhíu lại nhìn về đường tròn cuối chân trời. “Nhưng những gì em cũng là những gì ta làm cách đây lâu rồi. chinh chiến trong tám trăm nay rồi.”


      “Sao chúng ta phải xông trận khi chúng tôi có lũ anpu chiến đấu cho chúng ta?” Anubis hỏi, cố gắng giữ cho giọng đều đều, dù cho trong mắt ánh mắt vẫn ánh lên nỗi sợ.


      “Em nghĩ rằng sống ở đây làm yếu mềm hơn,” Aten như thể nghe em trai . “Em nghĩ Biến đổi làm yếu đuối,” ông thêm, những ngón tay bám chắc vào vai người em, ấn mạnh ông ta xuống nền đá cẩm thạch. “Và vị vua trị vì yếu đuối có thể dễ dàng bị thay thế và tiếm quyền bởi người mạnh hơn. người nào đó giống em. Nhưng em quên, em trai ạ, rằng có rất nhiều tai mắt trong thành phố này như hoa mái này. biết em cái gì, biết em mưu gì.” Aten lôi Anubis xuống mái dưới và ấn ông ta xuống. “Em nhìn xuống ,” ông ra lệnh. “Em thấy gì?”


      thấy gì...”


      thấy gì? Vậy em mù rồi. Em nhìn lại .”


      “EM thấy người, bé khi nhìn từ khoảng cách này. Những con người chẳng chẳng có gì xuất chúng.”


      “Những người bình thường, đúng, nhưng họ là thần dân của , những người phải lo lắng. phải của em. bao giờ là của em.” Aten ấn em trai gần hơn xuống vách tường. “Nếu em hỏi lần nữa, giết em. Nếu thấy em mưu gì chống lại , giết em. Nếu em về hay hoàng hậu của trước công chúng lần nữa, giết em. thế em hiểu chưa?”


      Anubis gật đầu. “ giết em,” ông ta lẩm bẩm.


      Aten ném Anubis vào hồ sen trắng. Hương thơm của nó khiến người ta phát ốm. “Em là em trai . biết câu này khiến em ngạc nhiên, nhưng em. Đó cũng là lý do duy nhất khiến em sống sót tới tận hôm nay. Giờ mang người đàn ông tay móc câu tới đây.”














      CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU


      Hai thanh niên tóc bóng dầu đứng dựa người vào bức tường tòa nhà Esmiol San Francisco quan sát người đàn ông to lớn lảo đảo từ con phố hẹp đối diện rồi ông ta đứng bình thường lại, trước khi quẹo trái và thẳng xuống phố Broadway. Thường chúng né những người to lớn hay những gã trai trẻ khỏe mạnh,chúng thích trộm đồ của phụ nữ, những ông lão hoặc trẻ em hơn, nhưng hôm nay chọn gã say này như ngoại lê. Những gã say bao giờ chẳng dễ. thèm liếc nhìn người còn lại, chúng đứng thẳng dậy và bám theo người đàn ông xuống phố.


      “Thấy cách lão ta chứ. Chắc ông ta phải phẫu thuật gì đó ở hông rồi,” Larry . Gã là thanh niên gầy gò bất thường có hình xăm mạng nhện ở bên tai. “Bà tao cũng như thế.”


      “Hoặc phải thay đầu gối,” bạn gã Moo . Mo cơ bắp và chắc nịch, ngực nở và eo . đeo khuyên tai hình dao cạo màu vàng ở tai phải. “Ông ta thẳng chân nổi. Nhìn kích cỡ của lão ta ; tao cá lão ta từng chơi bóng đá. Có thể bị gẫy chân.” Gã cười toe nhe những chiếc răng xấu xí. “Thế nghĩa là lão ta chạy nổi đâu.”


      Larry và Mo nhanh, lách qua dòng người cách nhàng. Hầu hết những người bộ ở khu này đều biết tiếng hai gã.


      Hai gã thanh niên đuổi theo đối tượng và dừng lại trước cửa hiệu làm đẹp , nhìn qua đường đánh giá đối tượng. Chúng làm trò này lâu rồi, nên chúng chỉ nhằm vào những người có gì đó giá trị mà trộm. Những người khác chỉ tốn thời gian vô ích.


      “Lão ta to đấy,” Larry .


      Mo gật. “Rất to con,” gã đồng tình. “nhưng già rồi...”


      “Ông già đó có cái áo khoác đẹp đó,” Larry tiếp. “dạng những tay đua xe ngày xưa.”


      “Rất đẹp. Đáng món tiền nhỉ.”


      “Đôi giày cũng được. Trông còn mới đó.”


      “Thắt lưng da ổn, mặt thắt lưng quá ổn,” Mo . “Giống mẫu thiết kế của hãng helmet. Tao lấy nó.” thêm.


      “Này, thế công bằng, mày lấy đồng hồ của gã lần trước rồi.”


      “Còn mày lấy cái ví của bà nào đó làm quà sinh nhật cho bà mày. Chúng ta hòa rồi.”


      Đột nhiên người đàn ông ngoặt hướng loạng choạng qua đường, để ý gì tới những chiếc xe lao đến, tiên thẳng tới chỗ Larry và Mo. Hai gã thanh niên quay người lại nhìn vào cửa sổ hiệu làm đẹp, quan sát hình ảnh phản chiếu của người say kính cửa. Giờ lão ta gần hơn, chúng có ấn tượng sâu sắc hơn về kích cỡ của lão. Ông ta khổng lồ, còn to hơn vì đống quần áo quá khổ của mình: quần bò xanh, áo phông rộng từng là màu trắng nhưng giờ chuyển sang màu xám khó xác định, khoác ngoài chiếc áo khoác màu kim loại của những tay mô tô. chiếc khăn lớn màu trắng đen cột khít quanh đầu lão, còn đôi mắt giấu dưới cặp kính râm kiểu phi công.


      “Của hãng Ray-Bans à?” Larry hỏi, cố gắng quan sát xem cặp kính của người đàn ông kia có lô gô của hãng ở bên gọng kính phải .


      “Tao cá là của Knockoffs. Nhưng chúng ta lấy chúng rồi bán cho khách di lịch lấy tý tiền.”


      Chúng quay lai khi gã đàn ông lê bước qua với đôi chân thẳng đơ. Hình đằng sau áo khoác ông ta là hình chiếc mũ trụ giống với mặt thắt lưng. Hai chiếc đinh tán màu xanh và đỏ khiến đôi mắt hình người chiến binh lồi ra từ trong chiếc mũ trụ.


      “Lão là dân đua xe,” Larry và lắc đầu. “Dân đua xe lắm chuyện lắm. Tao nghĩ chúng ta nên để lão .”


      “Thế xe lão đâu?” Mo hỏi. “Tao nghĩ chỉ là lão già béo thích ăn mặc bảnh chọe thôi.”


      “Có thể lão vẫn là tay đua. Dù tay đua có già nữa vẫn gây được khó khăn đấy.”


      “Đúng, nhưng chúng ta còn gây khó dễ hơn.” Mo lôi từ dưới áo ra đọng ống đeo ở cạp quần. “ ai hơn chúng ta khi chúng ta có bạn kim loại này ở đây.”


      Larry gật đầu hoài nghi. “Chúng ta theo, nhưng chúng ta chỉ tấn công lão ta nếu chúng ta có cơ hội từ đằng sau. Đồng ý ?”


      “Đồng ý.”


      Họ quan sát người đàn ông đột ngột rẽ trái vào hẻm Turk Murphy Lane, con hẻm nối phố Broadway và Vallejo.


      “Ôi mèn ơi, có người mong chờ được như thế này.” Mo cười. “Hôm nay là ngày may mắn của chúng ta.” Gã đập tay với Larry và xuống đường Broadwa theo người đàn ông mặc áo da. Chúng thậm chí còn chẳng vạch ra kế hoạch. Chúng tấn công lão già ở đoạn đường vắng, lấy áo khoác, giày, thắt lưng và tiền nếu có, sau đó bỏ chạy. Chúng chậm lại trước khi rẽ vào đường Vallejo, kệ cho Turk Murphy Lane đối diện với sở cảnh sát trung tâm. Larry và Mo biết những con phố và khu phụ cận Chinatown như lòng bàn tay, và chúng cao chạy xa bay nếu ai đó phát ra lão ta và báo động.


      “Hãy nhớ,” Mo . “mặt thắt lưng là của tao.”


      “Được rồi – Lần sau đến lượt tao chọn, dù có...”


      Nhưng khi hai gã rẽ vào góc khuất, chúng thấy người đàn ông to lớn kia đứng vỉa hè chờ chúng.


      cú đấm hạ thẳng vào bụng Larry. Người đàn ông nhấc lên và ném bay hai mươi foot vào chiếc xe. Kính chắn gió vỡ nứt và còi chống trộm hú lên ầm ĩ.


      người qua đường nào bận tâm nhìn xuống.


      Mo lôi ống sắt ra nhưng đột nhiên bàn tay to lớn túm lấy đầu gã. Và bóp mạnh. Cơn đau quá sức chịu đựng. Các chấm đen nhảy nhót trước mắt gã và chân run lên. đáng lẽ rơi nhưng người đàn ông vẫn nắm lấy đầu . Mo quan sát lão già – và đột nhiên trông lão già đến thế nữa – cầm thanh sắt lên, ngửi và liếm nó bằng cái lưới đen như than và bóp nó như bóp lon rồi ném sang bên. Người đàn ông mở miệng nhưng dù ông ta gì đều thể hiểu nổi. Ông ta lại, sử dụng vài thứ ngôn ngữ cho tới khi... “giờ ngươi nghe ra chưa?”


      Mo cố lắm mới quang quác được vài tiếng.


      “Ngươi nên lấy làm hạnh phúc vì hôm nay tâm trạng ta tốt,” người đàn ông . “Ta tìm đường.”


      “Đường á?” Mo thều thào.


      “Đường.” Người đàn ông thả tay và Mo rơi trúng tường. Gã ấn hai tay vào sọ chắc rằng có thấy những dấu tay to lớn hằn đó.


      “Đường hướng,” người đàn ông nhắc lại. “Ta cần tìm địa chỉ gần đây,” ông ta lẩm bẩm rồi lôi ra tờ giấy từ túi áo khoác. Mo bất ngờ tấn công, định dùng cú karate hạ thẳng vào cổ họng lão. Nhanh như chớp, người đàn ông tóm lấy tay Mo, nắm lấy và ném trả cánh tay đập vào ngực gã. Lực đập khiến Mo đập lại vào tường, đầu đập vào gạch. “Đừng ngu ngốc thế,” người đàn ông lớn tiếng rền vang. Ông ta đưa ra mẩu giấy trước mặt cậu thanh niên. “ngươi có biết chỗ này ở đâu ?”


      Mo mất vài giây mới tập trung, mãi những con chữ viết bằng nét chữ trẻ con mới hình chữ. “Có.” Giọng gã chỉ còn là những tiếng thầm sợ hãi. “Có.”


      .”


      bộ hay xe?”


      “Ta có giống xe ?” người đàn ông gầm lên. “Ngươi có thấy chiếc xe ngựa nào quanh đây ?”


      Mo khó khăn nuốt nước bọt. Ngực gã đau, gã thấy khó thở và đầu vẫn ong ong vì cú đập vào tường. Nhưng gã thề nghe thấy người đàn ông “xe ngựa”.


      “Chỉ đường .”


      “Ông theo con phố Broadway này, tới đường Scott – nó ở bên trái ông. Địa chỉ của ông ở gần khu đó.


      “Xa ?”


      “Cũng gần lắm,” Mo cố mỉm cười. “Thưa ngài, ngài cho tôi chứ? Tôi làm gì ngài cả.”


      Người đàn ông gấp tờ giấy lại nhét vào túi quần. “ làm gì ta, nhưng cậu và cậu bạn của cậu đánh căp vài thứ của người khác. Các ngươi là mối nguy hại cho những người xung quanh.”


      Cậu thanh niên định mở mồm dối nhưng người đàn ông tháo kính Ray Bans ra cho vào trong túi áo. Đôi mắt xanh đến kinh ngạc khóa vào khuôn mặt gã thanh niên. “Ngươi các bạn ngươi – hay những người giống ngươi, bởi vì ta chắc ngươi có bạn – rằng ta trở lại, và ta tha thứ cho mấy trò tấn công này.”


      “Quay lại? Ông là ai? Ông điên rồi..”


      đâu.” Người đàn ông cười, Mo nhận ra hàm răng ông ta sắc lẹm như răng nanh ma cà rồng. Lưỡi ông ta đen sì thò thụ ra ngoài những chiếc nanh. “ với bạn ngươi là Mars Ultor trở lại.” Rồi ông ta nắm lấy áo Mo, nhấc lên khỏi mặt đất và ném lên người thằng bạn. Còi báo động ô tô chết ngấm.


      Mars Ultor quay ngược lại đường Broadway, tìm kiếm đường Scott và Tsagaglalal.




      CHƯƠNG HAI MƯƠI BẢY

      Sophie theo bản năng biết điều Perenelle đòi hỏi nơi là sai, dù biết vì sao. Những ký ức và hỉnh ảnh mờ nhạt nhất lên nhảy múa trong đầu óc , nhưng khi đôi mắt xanh lơ sáng của Nữ Phù thủy nhìn , khó tập trung được. “ muốn cháu cho luồng điện của cháu?”


      “Ờ, ít thôi...”


      “Làm thế nào...tại sao?” Sophie nắm lấy bàn tay Nữ phù thủy xòe ra.


      “Sophie, cháu là Bạc với quyền năng mênh mông,” Perenelle giải thích. “Cháu đặt tay lên tay dùng luồng điện của cháu để hỗ trợ cho luồng điện của trong khi chuyển năng lượng sống của vào chú ấy. có thể tự làm nhưng có thể luồng điện của quá tải và bị đốt cháy. Nếu cháu và Tsagaglalal giúp đỡ an toàn.”


      “Sophie,” Tsagaglalal nhàng . “làm . Cháu làm điều này vì thứ tốt đẹp nhất.”


      làm gì?” trẻ vẫn còn nghi ngại hỏi.


      “Bao bọc Nicholas bằng luồng điện của .”


      Sophie cố gắng tập trung. nhớ lại lúc Bà phù thủy Endor bao bọc trong khí. Dù bao giờ nghĩ tới việc đó trước đây, nhưng nhận ra giờ cần nhiều hơn khí – Zephaniah bao Sophie trong luồng điện của bà và chuyển chô chỉ sức mạnh của bà mà còn hiểu biết và ký ức nữa.


      “Sophie, chúng ta có nhiều thời gian,” Perenelle , có chút giận dữ trong giọng bà. “ thể làm mình được.”


      “Sophie,” Tsagaglalal đều đều . “Nicholas chết.”


      Dù vẫn thoải mái với chuyện này, Sophie cũng chìa tay phải ra cho Perenelle nắm lấy. Những ngón tay bà rất khỏe, bàn tay và ngón tay bà chai sạn.


      Đột nhiên Sophie biết tới những ký ức phải của , nó khiến bần thần dám nắm tay Perenelle. Sau những ngày vừa qua, hoàn toan tin tưởng Nữ phù thủy. Và trong khi có rất nhiều điều biết về Perenelle, lại có những suy nghĩ và quan điểm về việc Bà phù thủy xứ Endor muốn người bất tử kia tiếp cận gần với ký ức của bà. biết vì sao. Nhưng nếu những ngày vừa qua dạy điều gì, đó là hay tin vào bản năng của mình.


      “Con bọ hung, Tsagaglalal,” Perenelle .


      Sophie quay sang nhìn dì Agnes nâng con bọ hung vàng chạm khắc tinh sảo ra khỏi chiếc kệ gỗ và nâng bằng cả hai tay. Trong giây phút chạm vào nó, vật đó phát ánh sáng xanh lơ ấm áp và luồng điện trắng của Tsaglalal lập lòe phát sáng tỏa ra những sợi chỉ màu ngọc bích. Con bọ tỏa ánh sáng màu xanh ngọc bích lập lòe, đột nhiên tất cả những dấu vết của tuổi tác khuôn mặt bà lão còn, bà trở lại trẻ hơn và xinh đẹp lạ thường. Nó lại đập tiếp Tsagalalal lại trở thành dì Agnes mà Sophie biết.


      Sophie nhìn người phụ nữ, và nhớ ra...


      Tsagaglalal ngồi đối diện với người đàn ông đeo mặt nạ vàng che nửa khuôn mặt...trừ việc đó phải mặt nạ. Da thịt của ông cứng thành kim loại. Ông nâng niu đôi tay – bên là da thịt bình thường, bên là vàng – con bọ hung. Ông từ từ đặt nó vào tay Tsagalalal, cụp tay bà lại. “Em là Tsagaglalal,” ông , giọng trầm ấm. “Em là Giám quan. Từ giờ và mãi mãi về sau. Tương lai của loài người nằm trong tay em. Hãy bảo vệ nó.”


      Sophie chớp mắt thấy...


      Tsagaglalal đứng trước hai mắt xanh tóc đỏ rực: Aoife và Scathach. Hai trong trang phục chiến binh, đồ da hoẵng của vùng Đại Đồng Bằng. Đằng sau họ, khói bốc lên từ chiến trường, với những xác chết của những sinh vật chẳng hẳn và người hay quái. trong hai , hơn có những tàn nhang mũi, bước lên trước nhận con bọ hung ngọc bích từ người phụ nữ được biết tới với cái tên Giám Quan. Rồi quay người giơ con bọ lên cao, những chiến binh bên quanh hô to: “Scathach!”


      Sophie quan sát những hình ảnh lượn vòng xung quanh như thể ....


      ....Aoife mặc áo trùm màu đen và xám, chui ra khỏi cửa tòa tháp và rơi xuống hào nước lạnh như đá. Ngay trước khi biến mất dưới làn nước xám, cầm trong tay con bọ màu ngọc bích trộm được.


      Sopie biết trong suốt dòng thời gian, năm tháng trong quá khứ trôi qua trước mắt chỉ trong vài giây. Giờ khuôn mặt tóc đỏ mặt tàn nhang chuyển thành hình ảnh phụ nữ trẻ và...


      ...Scathach, mặc đồ lông, chạy trong rừng tre những mũi tên đen xì bay xuống như mưa. cầm thanh kiếm cong ở bên còn con bọ hung ở tay kia. Đằng sau , Aoife lao qua rừng tre với đội quân quái vật da xanh đuổi theo.


      Những ký ức ùa về, những hình ảnh này lao theo những hình ảnh khác, của...


      Scathach quỳ xuống trước cậu trai mặc đồ hoàng gia Ai Cập, xòe bàn tay dâng tặng cậu con bọ xanh ngọc bích.


      ...lại Scathach, đứng trước hình hài bất động của cậu trai kia, Cánh tay cậu bắt chéo trước ngực, nhàng gỡ con bọ ra khỏi tay cậu. đặt nó lên môi đặt lên đó nụ hôn và khóc cho người bạn, vị vua trẻ tuổi Tutankhamen. Có những tiếng hò hét. Bóng tối quay người lại trốn qua đường cửa sổ khi đội quân bảo vệ hoàng gia Nubian xông vào phòng. Họ dồn vào sa mạc trong ba ngày trước khi biến mất.


      Nhiều hình ảnh hơn, quá nhanh, quá nhiều khuôn mặt và địa điểm – rồi đột nhiên, đó là...


      Perenelle, trong trang phục thanh tao của thế kỷ mười chín cùng Nicholas đón nhận hộp quà từ tay Scathach, người mặc trang phục quân đội của nam giới, với thanh kiếm bên hông. “Vì sao lại đưa tôi con bọ vô dụng này,” người phụ nữ Pháp cùng tiếng cười khi mở hộp.


      Sophie chớp mắt thấy...


      Perenelle, giờ mặc trang phục đầu thế kỷ hai mươi, đội chiếc mũ rộng vành, đưa cùng chiếc hộp cho Tsagaglalal, Giám quan. Bên cạnh họ, tro tàn của San Francisco hiển lên sau trận động đất hãi hùng.


      Những ký ức nhòa và Sophie mở mắt nhìn bà lão đưa con bọ hung cho Perenelle. “Tôi biết vật này trong vòng mười ngàn năm,” Tsagaglalal , “dù nó phải sở hữu của tôi, nhưng sớm muộn nó lại trở về bên tôi. Tôi thường tự hỏi tại sao. Liệu tôi – liệu những Người bảo hộ khác – có phải giữ nó cho giây phút này?”


      Perenelle ngước lên. “Tôi nghĩ bà, cũng như nhiều người khác, biết.”


      Tsagaglalal lắc đầu. “Khi ông ấy đưa nó cho tôi, ông ấy tôi nắm trong tay tương lai của nhân loại. Nhưng ông ấy cũng thường những câu như thế. Nhiều lúc ông ấy rất hay tỏ ra nghiêm trọng.”


      Nữ phù thủy nhìn vật thể chạm khắc, quay nó ra ánh sáng để ngắm nhìn từng chi tiết. “Khi Scathach đưa nó cho tôi trong sinh nhật thứ năm trăm, tôi đó đùa là ấy cho tôi con bọ vất . Nữ chiến binh trả lời. “Vật vứt có giá trị hơn những kim loại có giá trị khác. Bà thể trồng cấy đống vàng.” Perenelle nhìn Tsagaglalal. “Tôi biết nó giá trị và cổ xưa đến thế nào.”


      Tsagaglalal lắc đầu. “Tôi cũng biết, dù ông ấy đưa nó cho tôi trước khi đưa tôi cuốn sách.”


      Sophie nhíu mày. “Ai đưa cho dì con bọ với cuốn sách cơ?” cái tên nảy ra trong óc . “Có phải Nhà thông thái Abraham ?”


      Tsagaglalal buồn rầu gật đầu rồi cười. “Đúng, đúng là Abraham nhưng ta gọi ông ấy là nhà thông thái. Ông ấy thích cái tên hiệu đó.”


      “Dì gọi ông ấy thế nào?” Sophie hỏi. Tim đột nhiên đập rộn lên khiến thở nổi.


      “Dì gọi ông ấy là chồng.”






      CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM

      Billy the Kid nhìn khắp lượt căn phòng lớn, khắp các xà lim ngắm nhìn các sinh vật say ngủ. “ý tôi là, tôi sống trái đất khá lâu, nhưng tôi chưa bao giờ thấy những thứ như thế này.” ta nhìn người đàn ông da xanh cơ bắp với mái tóc đen rậm rì và hai cái sừng cong hai bên đầu. “Ông thấy chưa?” ta hỏi Niccolo Machiavelli.


      Machiavelli liếc nhìn nhanh vào xà lim. “Đấy là quỷ oni,” ông ta . “ con quỷ của Nhật,” ông ta thêm trước khi Billy kịp hỏi. “Những con màu xanh rất khó chịu, nhưng những con màu đỏ còn kinh khủng hơn.” Người Ý tiếp tục nhìn dọc hành lang nhà tù, tay chắp sau lưng, đôi mắt xám lạnh lẽo nhìn thẳng về phía trước.


      “Ông lại nghĩ những điều xấu xa đấy,” Billy , hạ gióng xuống khi bên cạnh người bất tử mặc đồ com lê tối màu.


      “Giờ cậu biết đọc đầu óc người khác nữa đấy.”


      người đọc cơ thể người khác. Nếu ông sống ở Miền Tây xưa kia ông phải biết quan sát cách người ta đứng, di chuyển, hiểu những cử động và cái nhìn của họ, biết rằng ai dám rút súng và ai trốn. Tôi rất giỏi khoản đó,” người Mỹ tự hào . “Và tôi luôn biết khi nào ai đó định làm việc ngu ngốc,” cậu thêm.


      “Tôi định làm gì ngu ngốc,” Machiavelli bình thường . “Tôi hứa với chủ nhân của tôi, và tôi thực nó:tôi đánh thức những con quái vật kia và thả chúng vào thành phố.”


      “Nhưng ông thích, đúng ?”


      Machiavelli nhìn nhanh Billy cái.


      “Ý tôi là, khi nhìn những thứ trong xà lim, tôi chắc có muốn chúng lang thang trong thành phố ,” the Kid , giọng hơn thầm là bao nhiêu. “Chúng đều là những kẻ ăn thịt và uống máu đúng ?”


      “Tôi chưa bao giờ gặp con quái vật ăn chay,” Machiavelli . “Nhưng đúng, hầu hết chúng đều là những kẻ ăn thịt. Nhiều con khá giống người, nhưng chúng lấy năng lượng từ giấc mơ và ác mộng đấy.”


      “Ông có muốn thả chúng vào San Francisco ?” Billy bình tĩnh hỏi.


      Machiavelli giữ im lặng nhưng ông ta lắc đầu và môi cong lên tạo thành khẩu từ ông dám lớn. .


      “Nhưng tôi có thể ông toan tính gì đó,” Billy thêm.


      “Sao cậu thế?” Machiavelli hỏi kèm nụ cười mờ nhạt.


      “Dễ.” Đôi mắt xanh lam của người Mỹ bất tử sáng lên trong bóng tối. “Ông dễ hiểu mà. Ông thể sống sót ở Miền Tây đâu.”


      Machiavelli chớp mắt ngạc nhiên. “Tôi sống ở nhiều nơi nguy hiểm hơn Mỹ thế kỷ mười chín, và tôi làm thế bằng cách giữ khuôn mặt biểu lộ cảm xúc và phát biểu linh tinh.”


      “Ờ, nhưng chính vì thế mà ông phạm lỗi đó, Machiavelli.”


      “Gọi tôi là Niccolo. Hãy dạy tôi xem nào, cậu trai trẻ.”


      Billy cười vui sướng, khoe hàm răng vâu. “Tôi chưa bao giờ nghĩ mình có gì để dạy cho ông.”


      “Ngày nào chúng ta ngừng học là ngày chúng ta toi đời.”


      Billy xoa hai tay vào nhau lanh lợi. “Vậy tôi đúng khi ông là người tò mò – chuẩn chứ, ngài Machiavelli?”


      “Luôn luôn thế. Đó là trong những nét tính cách giống nhau giữa tôi và Dee. Chúng tôi cùng tò mò quá mức. Tôi luôn tin rằng tò mò là sức mạnh lớn nhất của con người.”


      Billy gật gù. “Tôi cũng luôn tò mò. Thế nên tôi gặp nhiều rắc rối,” ta thêm. “Giờ, nếu ông nhìn nhanh ra đằng sau ông...”


      Machiavelli liếc nhìn sau vai, thấy Josh, Dee và Dare theo.


      ràng cậu nhóc sửng sốt và sợ hãi...” Billy vẫn nhìn thẳng phía trước.


      Josh Newman theo sau hai người bất tử, mắt và miệng mở rộng hơn khi từ xà lim này qua xà lim khác thấy những sinh vật mới lạ. Cậu sợ - ràng thế. Những cuộn khói vàng kim bốc ra từ tóc tai và lỗ mũi cậu, và cả hai tay đều đeo găng vàng.


      “Dee hứng thú gì với những sinh vật này, vì ông ta thu thập chúng và biết cái gì ở đây,” Billy tiếp, “Virginia cũng hứng thú gì, vì ấy hoặc từng chiến đấu với chúng trước đây hoặc biết cây sáo Elder của ta có thể bảo vệ ta.” ta nghiêng đầu sang bên nghĩ ngợi. “CŨng có thể ta biết ta còn nguy hiểm hơn chúng.”


      “Tôi chỉ nghe qua về ta thôi,” Machiavelli . “ ta có tệ như người ta ?”


      “Tệ hơn,” Billy , gật đầu vui vẻ. “tệ hơn, rất, rất nhiều. Đừng bao giờ tin ta.”


      Dee và Dare vẫn sau. Machiavelli để ý Dee chuyện gì đó quan trọng với người phụ nữ. Khuôn mặt ta như chiếc mặt nạ, đôi mắt xám cùng màu với màu đá xây nên sàn và tường khu này. ta để ý Niccolo nhìn và giơ tay lên vẻ hiểu biết. Dee nhìn lên, mùi chứng thối trong chốc lát sộc vào khu buồng giam, mạnh hơn cả mùi lũ quái vật ngủ. Machiavelli quay trước khi Dee thây ông ta cười. Ông ta vui vì biết mình vẫn khiên Pháp sư người e ngại.


      “Vậy, nếu ông còn tò mò, ông nên nhìn vào những xà lim,” Billy kết thúc. “Nhưng ông làm thế. Như vậy, ông phải nghĩ tới chuyện gì quan trọng hơn.”


      “Ấn tượng đấy,” Machiavelli đồng tình. “Lý lẽ của cậu khá logic, trừ điều.”


      “Cái gì?”


      “Kỳ lạ là những con quái vật kia còn làm tôi sợ nữa. , chúng cũng chỉ là giống loài – những họ hàng gần của chúng , những Elder và Thế Hệ Kế Tiếp mới luôn khiến tôi sợ.” Ông hất hàm về phía các xà lim. “Những sinh vật tội nghiệp kia bị tách biệt vì chúng cần sống sót và ăn uống. Đó là bản năng của chúng, bản năng luôn dễ đoán. Nhưng con người, mặt khác, lại có khả năng thách thức tự nhiên. Con người là loài duy nhất hủy hoại thế giới. Quái vật chỉ sống trong tại, nhưng loài người lại có thể sống trong tương lai, đặt kế hoạch cho con cháu mình, những kế hoạch có thể phải mất hàng năm, hàng thập kỷ, hàng thế kỷ để thành thực.”


      “Tôi nghe vẽ kế hoạch là biệt tài của ông,” Billy .


      “Đúng.” Machiavelli vẫy tay về phía xà lim giam ba con ma xó lông tóc râm rì thiêm thiếp ngủ, con này còn xấu hơn con kia mấy phần. “Chúng chẳng khiến tôi hứng thú hay kích động.”


      “Có vẻ ông cũng kiêu ngạo y như Dee,” Billy đáp cụt ngủn, có chút sắc lẹm trong giọng . “Tôi chắc những người sống ở San Francisco đồng tình với ông.”


      “Đúng,” Machiavelli thừa nhận.


      Billy hít hơi sâu. “Nếu những sinh vật kia tiến vào bờ biến, là...” ta dừng lại, tìm từ cho đúng. “Hỗn loạn. Cực kỳ hỗn loạn.”


      “Giờ ai suy nghĩ đen tối thế?” Machiavelli cao giọng hỏi. “Ai mà ngờ được – kẻ sống ngoài pháp luật lại có lương tâm.”


      “Có lẽ cũng cùng ý nghĩ đen tối như ông ấy.” Billy lẩm bẩm. “Tôi thừa nhận tôi thoải mái khi thả những con quái kia vào nơi những con người của tôi sống.”


      “Người của á?” Machiavelli chọc ghẹo.


      “Người của tôi. Tôi biết họ phải đồng bảo của ông, họ phải người Ý...” Billy bắt đầu.


      “Họ là con người,” Machiavelli , “thế nên họ cũng là người của tôi.”


      Billy the Kid nhìn nhanh sang Niccolo. “Khi gặp ông lần đầu, tôi nghĩ ông cũng giống Dee..nhưng giờ tôi chắc.”


      Môi Machiavelli dẩu lên nụ cười nhát. “Dee và tôi giống nhau ở nhiều cái – nhưng đừng với ta đó. ta thấy bị xúc phạm. Chúng tôi khác nhau ở chỗ Dee làm mọi cái để đạt được mục đích. Tôi quan sát làm theo mọi mệnh lệnh của các chủ nhân kể cả có phải hủy diệt cả thành phố hay hàng chục ngàn mạng sống. Tôi bao giờ làm thế. Giá cho bất tử của tôi là phục tùng của tôi, chứ phải linh hồn tôi. Giờ và mãi mãi tôi là con người.”


      “Tôi nghe rồi,” Billy the Kid lẩm bẩm.


      Hành lang kết thúc bằng cánh cửa sắt. Machiavelli đẩy cửa mở, chớp mắt vì ánh chiều dương và bước xuống những bậc thang xi măng dẫn tới sân tập thể dục. Người Ý hít hơi sâu, thu vào trong phổi khí nồng mùi muối biển, bỏ mùi động vật hôi hám trong xà lim. Ông ta đợi Billy tới cùng. Ông quay lại khi Kid bước bậc thang cuối, để khuôn mặt họ đối diện nhau. “Tôi hứa với chủ nhân và Quetzalcoatl rằng tôi thả lũ quái vật vào thành phố. Tôi thể ngược lại lời thề.”


      thể hay làm?”


      thể,” Machiavelli chắc nịch. “Tôi muốn trở thành waerloga – kẻ phá bỏ lời thề.


      Billy gật đầu. “Tôi tôn trọng những người biết giữ lời hữa. Nhưng ông hãy chắc rằng ông làm có lý do chính đáng.”


      Machiavelli nhoài người, những ngón tay cứng như sắt bám vào vai Billy. Người Ý nhìn thẳng vào mắt Billy. “, cậu phải đảm bảo cậu phá vỡ nó vì lý do chính đáng.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG HAI MƯƠI CHÍN
      Perenelle nhàng đặt con bọ hung ngọc bích vào giữa ngực Nicholas, rồi di chuyển nó sang trái chút đến khi nó nằm tim ông.

      Tsagaglalal vươn tay cầm lấy tay Nhà giả kim. Bà cầm tay trái rồi tay phải ông đặt lên con bọ cánh cứng, gần như che hết nó. Rồi bà nhìn Nữ Phù thủy. “ chắc ?” bà hỏi.

      “Tôi chắc.”

      phải lúc nào cũng thành công đâu. Nguy hiểm lắm.”

      “Nguy hiểm ư? Bà nguy hiểm là sao?” Sophie lo lắng hỏi. vẫn cầm tay Nữ Phù thủy cảm thấy có chút sợ hãi. sợ vì cảm thấy Nữ phù thủy cũng sợ. Dù đầu bà ngoái lại nhưng ánh mắt bà vẫn nhìn thẳng vào Sophie.

      “Nếu chúng ta thành công, Nicholas chết và mất luôn ngày trong đời,” bà . “Nhưng phải làm. còn lựa chọn.” Tay Nữ phù thủy đan chặt vào tay Sophie. “và nếu thành công, Nicholas có thêm ngày nữa.” Câu hỏi vừa lên trong đầu Sophie nhận được câu trả lời từ Perenelle. “Đúng, nó tạo ra khác biệt lớn đấy.”

      Tsagaglalal đặt tay trái lên tay Perenelle và vươn tay phải về phía trẻ. “Perenelle lấy chút luồng điện của cháu và chuyển chúng vào con bọ hung, sau đó chuyển qua người Nicholas. Hãy nghĩ như cháu nạp pin vậy. Khi năng lượng còn còn trong con bọ, Nicholas còn sống.”

      Sophie đặt tay lên bàn tay xương xẩu như móng vuốt của bà lão.

      đau đâu,” Tsagaglalal tiếp. “Và cháu lại còn trẻ; ít nhất luồng điện của cháu tự nạp lại thôi.”

      “Còn của dì sao?” Sophie vội hỏi.

      “Dù có ta cũng cần thiết nữa. Nhiệm vụ của ta ở Vương quốc bóng tối này sắp xong rồi.” Đôi mắt xám của bà nhìn xa xăm. “Nhiệm vụ của ta là tìm kiếm cháu, chăm sóc cháu. Giờ ta sắp được thảnh thơi an nghỉ rồi.”

      Đột nhiên nhiệt độ trong phỏng lạnh thấu xương. Sophie hụt hơi vì choáng. “Dù cháu làm gì,” Perenelle , mỗi từ bà ra kèm theo luồng hơi trắng. “cháu được phá vỡ vòng tròng đến khi con bọ được nạp đủ năng lượng của chúng ta. Cháu hiểu ?”

      Sophie gật đầu.

      “Cháu có hiểu ?” Perenelle nhắc lại, lần này chắc chắn hơn. “Nếu quá trình được hoàn thành, Nicholas chết ngay, còn chết vào ngày mai.”

      “Cháu hiểu,” Sophie , răng bắt đầu đập vào nhau lập cập. nhìn xuống hình hài bất động của Nicholas. Da dẻ ông xám lại, lớp pha lê mỏng hình thành đầu mũi và lưỡi ông.

      Luồng điện trắng của Perenelle bay lượn xung quanh bà, Sophie đột nhiên thấy được những sợi chỉ bạc – những sợi chỉ bạc của đan xen trong đó. nhìn xuống thấy luồng điện biến thành bao tay bảo vệ.

      Nữ phù thủy nhắm mắt lại. “Giờ chúng ta bắt đầu,” Perenelle .

      Sophie thấy luồng điện bạc của tuôn chảy, người nóng lên. Ngực nóng lên, rồi truyền xuống chân, khiến những đầu ngón chân thấy nhột nhạt. Luồng nhiệt trườn xuống tay , đốt nóng bàn tay , đầu ngón tay như có kim châm. Luồng nhiệt tràn lên tới cổ , đốt nóng hai má , khiến mắt khô lại. nhắm chặt mắt và những ký ức bất chợt chiếm giữ lấy . biết vài ký ức trong đó là của Perenelle...

      ...người đàn ông tay móc câu ngồi ở giữa hang động, đôi mắt màu xanh sáng phản chiếu ánh sáng từ những viên pha lên lớn thành động. Ông cầm cuốn sách bìa kim loại ở tay phải. Ông đặt bàn tay móc câu lên bìa sách...

      ...Nicholas Flamel – mảnh khảnh, tóc đen, trẻ và đẹp trai – đướng trong quầy sách chỉ để có ba cuốn sách. Ông quay sang nhìn bà, đôi mắt khong màu ánh lên tia cười...

      ...và lại Nicholas, giờ già hơn, tóc bạc và có râu, ở trong căn phòng tối , hàng tá những giá sách để đó phải gấp đôi số sách và tài liệu.

      ...và bàn chỉ có cuốn sách duy nhất, cuốn Codex bìa kim loại, những trang sách tự lật mở tới khi dừng ở trang sách với những ký tự hình que bay nhảy tạo thành hình con bọ hung, rồi biến thành hình nửa vầng trăng...hoặc lưỡi móc câu.

      ... thành phố cháy, cháy, cháy mãi...

      Cơn nóng khiến Sophie gần như thở nổi và những hình ảnh thay đổi, trở nên đen tối, bạo lực, trở thành những ký ức của Tsagaglalal...

      Kim tự tháp bị vỡ vụn...

      ... khu vườn mái nhà lóe sáng, những bông hoa mang hương sắc bị hóa tan trong tro tàn...

      ... cánh cửa lớn bị nóng chảy, những khuôn mặt khắc đó chảy ra dưới sức nóng, tạo thành những dòng vàng và bạc nóng chảy chảy xuống mặt sàn đá hoa sáng bóng...

      Hàng trăm những đĩa bay từ trời rơi xuống như những ngôi sao băng rơi xuống thành phố chằng chịt như mê cung...

      ...và Scathach và Joan of Arc, người đầy máu và bẩn thỉu, đứng đối lưng với nhau bậc thềm kim tự tháp. Những con quái vật đầu chó bao vây họ...

      ...trong khi Palamedes đứng trước Shakespeare bị thương, bảo vệ ông ta, chiến đấu với con bàng sư, đôi cánh sắc như dao của nó chém vào ông, những chiếc răng sắc nhọn của nó còn cách đầu ông có vài inch....

      ....Saint-Germain làm phép cho lửa đổ xuống từ trời, trong khi đằng sau nước biển dâng lên như môt bức tường nước đen...

      ...và Sophie... hoặc trông giống như thể sinh đôi....

      Đột nhiên Sophie trở lại thành nhóc sáu tuổi, đứng trước ngôi nhà này. nắm tay cậu em, người lớn giới thiệu với bà lão chưa từng gặp.

      “Đây là dì Agnes của các con,” mẹ . “Dì ấy chăm sóc các con khi bố mẹ có ở đây...”

      cái gì đó lạnh lẽo luồn lách vào tâm trí Sophie, phải ký ức mà là ý nghĩ, cái gì đó cay đắng và sai trái. Nếu dì Agnes phải dì của , vậy những người dì khác của , dì Christine bí , người sống ở Mũi Montauk mà và gia đình hay thăm mỗi dịp Giáng sinh sao? Christine cũng có quan hệ với họ. Vậy bà là ai? Liệu bà có giống như Agnes, và liệu hai người phụ nữ này có quan hệ gì với nhau ? Sophie rất muốn được chuyện với bố mẹ; muốn biết làm sao họ biết dì Agnes và dì Christine và họ biết hai người phụ nữ này bao lâu rồi. phân vân hiểu làm sao hai người phụ nữ này lại xuất trong cuộc sống của những người nhà Newman. có nghe bố về dì Agnes, và mẹ giành toàn thời gian mùa hè thời thơ bé cùng dì Christine. Những ý nghĩ đó đáng sợ. Gia đình Newman bị theo dõi bao lâu rồi? Và vì sao? Liệu có phải vì và Josh là cặp song sinh ? Nhưng vì sao dì Agnes và Christine lại theo dõi bố mẹ ? Trừ khi họ biết từ lâu rằng, Richard và Sara gặp nhau, nhau, cưới nhau và sinh ra cặp sinh đôi vàng và bạc. Liệu họ biết việc đó là hoàn toàn tự nhiên, hay họ can thiệp vào? Sophie rùng mình: dù chỉ là ý nghĩ cũng đủ đáng sợ rồi.

      cần với Josh về chuyện này; ước gì cậu ở đây.

      ...Và đột nhiên Josh ở đó.

      cảm thấy mối liên hệ với cậu em sinh đôi như thể nó hiển rành rành trước mắt vậy. Trong suốt mười lăm năm qua; hề nghĩ họ xa nhau hơn hai ngày, và dù thế họ cũng luôn liên lạc qua điện thoại, tin nhắn và email. Lúc Josh quay lưng với và bỏ cùng Dee và Dare, cảm thấy như thể mình bị thương, như thể mất phần thân thể. Nhưng ít nhất giờ biết em mình còn sống.

      Cậu...cậu...

      Sophie tập trung vào cậu em trai, cố gắng nhớ mọi điều được dạy về cách sử dụng các Giác quan được Đánh thức. cần biết cậu khỏe mạnh và an toàn. Và nếu có thể biết cậu ở đâu, có thể tìm cậu. chắc rằng nếu lúc đó chỉ có và Josh – nếu có người khác xen vào – có thể chuyện phải quấy với cậu.

      nhìn thấy cậu hơn. Mái tóc vàng bóng mượt giờ trở nên mướt dầu và cần được gội, những quầng đen lớn dưới đôi mắt xanh của cậu, những vệt bồ hóng đen sì đầy mặt cậu...

      Đột nhiên ngửi thấy mùi muối và mùi i ốt trộn lẫn mùi của chuồng thú, mùi xạ và mùi thịt và rồi những hình nét hơn. trong số đó nét hơn những hình còn lại: nhìn thấy hòn đảo đó sừng sững tào nhà trắng, hòn đảo có ngọn hải đăng.

      Josh ở Alcatraz.

      Cậu bước xuống hành lang nhà tù. Hai bên hành lang đều có các xà lim, trong đó giữ những sinh vật khác nhau. Cậu thể kể tên chúng, nhưng Phù thủy xứ Endor có thể, Sophie biết cũng biết – có những con tinh của vùng Celt, những con quỷ của Nhật bản, những ông ba bị của , những người khổng lồ của Scadinavi, của Na Uy, cùng với quái vật đầu bò của Hy Lạp, những con Windigo của nước Mỹ ở cạnh xà lim của ma cà rồng Ấn Độ. có thể cảm thấy hơi thở của cậu em biến thành những hơi thở ngắn. cảm thấy bụng cậu quặn lại khi qua xà lim chứa nue, con quái vật đầu khỉ mình chó đuôi rắn của Nhật.

      Cậu bị thương tích gì, và ai để ý nhiều tới cậu. Ngay phía trước cậu là người đàn ông trực tiếp truy đuổi họ ở Paris – Niccolo Machiavelli – chuyện với cậu trai trẻ mặt quần bò bạc màu và đôi bốt cao bồi mòn vẹt. Josh quay đầu lại và Sophie thấy John Dee và Virginia Dare thầm to với nhau. Họ cùng dừng lại và nhìn thẳng vào Josh, vào Sophie.

      Ngay lập tức mất mối liên hệ với em trai và cố quay lại tại, tập trung vào luồng nhiệt chảy trong người . Căn phòng lạnh cóng. cố tập trung vào đôi tay hai người phụ nữ và ý thức về luồng điện chảy qua đầu ngón tay mình sang tay Perenelle.

      Nicholas Flamel động đậy.

      Sophie suýt thả tay Perenelle và Tsagaglalal vì choáng. nhìn xuống Nhà giả kim. Những sợi chỉ bạc của và của luồng điện trắng từ Tsagaglalal xoắn vặn trong tay Perenelle. Màu bạc sáng loáng và những sợi tơ trắng như mây nổ lách tách từ cơ thể của nữ phù thủy và nối với con bọ hung, giờ đập nhje nhàng, màu xanh chuyển sang đen, rồi lại xanh. Sophie tự nhiên nghe được nhịp đập của tim ...và nhận ra con bọ đập cùng nhịp. Làn da Nhà giả kim có chút hồng hào, vài nếp nhăn quay mắt và trán cũng biến mất. Ông trông có vẻ trẻ hơn.

      Ông lại cựa người, những ngón tay nắm chặt lại, nới lỏng ra, rồi lại nắm chăt lại quanh con bọ hung.

      chút nữa,” Perenelle thầm. ràng bà thấm mệt.

      “Tôi thể cho thêm được nữa,” Tsagaglalal lẩm bẩm. Những ánh lóe màu trắng xanh ánh lên mái tóc bà.

      “Vậy cháu phải lo rồi, Sophie,” Perenell thúc giục. “Ta cần thêm luồng điện của cháu.”

      lắc đầu. “Cháu thể.” váng vật vì kiệt sức và cảm thấy như lên cơn sốt. Đầu ong ong, cổ họng khô rát dạ dày quặn lại như thể vừa ăn quả ớt cay. nhớ lời cảnh báo của Scatty về mối nguy khi sử dụng quá mức luồng điện: nếu người sử dụng hết luồng điện, luồng điện đó ăn mòn da thịt của họ để làm nhiên liệu. Họ có thể bốc cháy .

      “Cháu phải làm thế!”

      !”

      Sophie cố rút tay lại nhưng người bất tử giữ chặt lấy tay . “Có!” Perenelle độc ác , trong phút chốc luongf điện của chuyển từ trắng sang xám, rồi đen trước khi chuyển lại về màu trắng khói.

      Sophie động đậy mấy ngón tay nhưng thể thoát ra được. “Bỏ tay cháu ra!”

      cần thêm chút nữa. Nicholas cần thêm chút nữa.”

      Luồng điện của Nữ phù thủy đen lại, dày đặc lại, và khí tràn ngập mùi hồi và trà xanh. Sophie nhận ra mùi của Niten và Prometheus trước khi màu của chúng tràn vào trong phòng, màu xanh lam bị màu đỏ máu bao quanh. Luông điện của họ lượn trong phòng trước khi vặn xoắn xung quanh nữ phù thủy và khiến luồng điện của bà đen đặc lại.

      “Đủ rồi, Nữ phù thủy,” Tsagaglalal thốt lên. “Đủ rồi. Bà làm hết sức mình rồi.”

      Cánh cửa mở ra và Prometheus và Niten xông vào. Luồng điện của người bất tử và Elder lóe lên thành bộ áo giáp quan người, nhưng bộ áo giáp trang trí họa tiết của Prometheus mờ , chuyển sang màu pha lê và trong suốt như thể màu sắc bị xóa mất, còn bộ áo giáp samurai của Niten trở nên rách rưới và cũ xờn.

      “Nữ phù thủy,” Prometheus hét lên. “bà làm gì vậy?”

      “Đủ rồi,” Niten lạnh lùng . “Bà giết tất cả chúng ta đó.”

      bao giờ là đủ,” Perenelle quát lại. Luồng điện của bà cướp lấy tất cả các luồng điện khác. Những màu sắc đan xen vào nhau trở thành đám mây đen hơn, đặc hơn trước khi biến thành luồng điện đen. Khi Nữ Phù thủy quay đầu nhìn Prometheus và Nten, đôi mắt xanh lơ của bà trở thành hai viên đá đen đặc. “Tôi cần nhiều hơn... Nicholas cần nhiều hơn.”

      Sophie giật tay ra. bị ngã ngửa ra vào cánh tay Niten, luồng điện bạc của biến bộ áo giáp samurai của ảnh trở thành kim loại rắn chắc.

      !” Perenelle gào lên, vươn tay ra với Sophie. “CHúng ta chưa làm xong!” sợi chỉ trắng bay qua luồng điện đen của bà, biến nó thành màu xám, lọc đen tối trong nó.

      Prometheus bước lên trước Sophie và Niten. “Bà làm xong rồi, Nữ phù thủy.” Ông nhìn bà lão và gật đầu. Tsagaglalal thả tay Perenelle và lùi lại.

      “nhưng Nicholas...” Perenelle thầm. Luồng điện của bà trở lại màu trắng, đôi mắt từ từ chuyển sang màu xanh lơ.

      “Bà làm những thứ cần làm rồi,” Vị Elder .

      Đột nhiên Nicholas Flamel thở dài, luồng khói trắng bay lên từ môi ông. Đôi mắt trắng đục của ông mở ra và ông ngồi dậy nhìn xung quanh. “Tôi bỏ qua điều gì thú vị à?”



      CHƯƠNG BA MƯƠI
      Năm anpu to lớn áp giải người đàn ông tay móc câu qua hành lang bằng vàng và đá cẩm thạch của Thái Dương điện. Hành lang vốn thường đông đúc giờ vắng . Những anpu trang bị vũ khí, vài con trong đó giữ những con chó bốn chân giống anpu đứng gác ở các cửa. Nến thơm và hương trầm thắp sáng hành lang nhưng thể át nổi mùi hôi thối từ những anpu.

      Marethyu bị trói bằng xích đá vững chắc, còng quay cổ tay, cái nữa quanh hông và hai cái ở cổ chân. Những tay bảo vệ mỗi tên cầm xích đá, vây ông ta ở giữa. Chúng cởi bỏ áo khoác ngoài của ông ta. trong những tay bảo vệ cầm nó tay. Ông ta chỉ còn mặc chiếc áo dài tay với chiếc áo giáp bên ngoài, dài từ cổ tới eo, trùm lên chiếc quần bò sờn bẩn. Ánh kim loại lóe sáng ở mũi giày cũ mòn vẹt của ông ta. Mái tóc vàng bóng nhờn quá dài rơi vai ông, che đôi mắt xanh lơ. Râu ria mọc lởm chởm tren cằm và má ông ta do ba ngày rồi cạo. Đầu ông ta lắc trái phải khi sâu hơn vào cung điện, môi mấp máy khi ông ta đọc dịch những hàng chứ cổ tường hoặc những ký tự Ogham trí những chân đế dưới những bức tượng bằng thủy tinh và kim loại đặt đều đặn dọc hành lang.

      Những bảo vệ anpu kéo ông ta qua cánh cửa hẹp và cao. Họ bước thêm để gõ cửa hay vào.

      Người đàn ông tay móc câu nhoài người lên để xem xét cánh cửa. Hai tấm kim loại bằng vàng và bạc mở vào trong và được đánh bóng sáng như hai tấm gương óng ánh. Phía bên tấm xà đỡ bằng vàng đặc cao bằng người đàn ông khắc hàng ngàn những hình chạm khắc đơn giản, trong đó hoặc là khắc hình mặt người, thú vật, hoặc quái vật. Vài hình vuông có gì, hoặc mới hoàn thành nửa. Nhưng ở giữa xà đỡ có ô vuông lớn hơn những hình còn lại, trong đó chạm khắc chi tiết mặt trăng khuyết...hoặc cái móc câu.

      Marethyu kéo tay trái lại, gần như đẩy con anpu cầm xích ngã xuống khi giơ tay lên để so sánh cái móc câu của mình và hình khắc. Chúng gần như tương đồng. Ông nhíu mắt, dịch những hình khắc xung quanh hình móc câu.

      “Ông tò mò đúng ?” giọng uy quyền vọng theo hành lang.

      Cánh cửa đôi mở ra cùng làn khói trắng mang mùi hương thơm lan tỏa khắp căn phòng. Khói trắng ngào ngạt mùi hương thơm giả tạo của dầu thơm. Người vẫn giấu mặt đến khi cánh cửa mở hết và những ánh sáng trắng bên trong lóa lên. Bên trong là bóng người cao lớn khác thường, ánh sáng trắng chạy dọc áo choàng có mũ dài như thể nước lỏng. “Ta tìm thấy cánh cửa đó trong đống tàn dư từ thành phố của Chúa Đất thuộc vùng đầm lầy phía nam nơi này. Đầm lầy nhấn chìm hầu như toàn thành phố, nhưng cánh cửa này lại bị động chạm tới. Nó mười ngàn – hoặc có thể trăm ngàn năm tuổi rồi.”

      Marethyu lại giật người lại, khiến anpu giữ xích phải cố lắm mới đứng vững nổi. Ông giơ tay lên và hình trăng khuyết chuyển sang màu trắng, rồi vàng với ánh phản chiếu. “Tò mò ,” ông ta đồng tình, “nhưng nó khiến tôi ngạc nhiên. ngạc nhiên nhiều nữa.” Ông hất hàm về phía những ô vuông. “Nhìn thấy những thứ này khiến tôi nghĩ tới lịch sử của nó.”

      “Những Chúa Đất biết ông.”

      “Chúng tôi từng đụng độ chút chút.”

      “Chắc chắn phải chút chút đâu. Họ khắc biểu tượng của ông đó cùng danh sách những vị vua và những kẻ trị vì.” Hình người cao lớn mặc áo choàng kim loại bước lên, cởi mũ ra để lộ đôi mắt lồi và những đường nét khắc khổ. “Ta là Aten xứ Danu Talis.”

      “Tôi biết ông là ai. Và tôi là...Marethyu.”

      “Ta đợi ngươi.,” Aten .

      “Abraham với ông tôi đến à?”

      ,” Aten trả lời. “Ta biết tới ngươi lâu rồi...rất lâu rồi.” Ông ta nhìn những anpu bảo vệ rồi tới những vòng xích đá quanh Marethyu. “Mấy thứu này cần thiết ?” ông ta hỏi.

      “Em trai ông hình như nghĩ thế,” Marethyu kèm nụ cười để lộ hàm răng trắng. “Đúng ra, ông ta muốn thế này nhất đấy.”

      Những chiếc răng dài của Aten cắn chặt vào môi dưới. “Ta đoán chúng vô dụng nhỉ?”

      “Chính xác,” khí nổ lách tách và chua lên, bóng tối bao phủ quanh người đàn ông tay móc câu. Những sợi xích đá vỡ ra và biến thành bụi. Những anpu choáng váng lùi lại định rút kiếm. Marethyu dùng tay phải xoa xoa cổ tay trái.

      Aten nhìn những bảo vệ đầu chó. “ ,” ông ta ra lệnh, rồi quay lại vào phòng.

      Những anpu bối rối nhìn hết tên này tới tên khác và nhìn Marethyu, người cười và vẫy chúng . “Các ngươi nên như những chú chó ngoan chứ.” Ông quay lại theo Elder vào phòng rồi đóng cửa lại. Dù cánh cửa phải dày bằng người ông nhưng ông mất công cũng như có tiếng động nào phát ra khi đẩy cửa vào vị trí. “Em trai ông vui đâu,” Marethyu .

      “Dạo này Anubis hiếm khi vui lắm,” Aten . “Cậu ta rằng ta nên giết ngươi.”

      “Chỉ thử thôi là sai lầm rồi,” Marethyu cười khi quay lại đối mặt với Chúa tể Danu Talis. “Ông biết có bao nhiêu người thử thế rồi đâu.” Ông ta khoanh tay trước ngực và nhìn quanh. Ông đứng trong căn phòng tròn lớn được thắp sáng bằng mặt trời nhân tạo xíu ở trần nhà cao. Ông gật đầu đồng ý. “Ta thích các công nghệ của Archon. Nó chiếu sáng được trong bao lâu?”

      Aten vẫy tay. “Nó chiếu sáng căn phòng này khoang hơn nghìn năm. Nhưng chỉ còn cái duy nhất thôi. Khi nó cháy hết, chúng ta phải chuyển sang dùng thứ gì đó nguyên thủy hơn chút.”

      Trong phòng có đồ đạc gì, những bức tường vàng và trần nhà bằng bạc có họa tiết hay ký tự gì. Tuy nhiên họa tiết hình tròn như thể mê cung trải khắp sàn nhà: đó là bản đồ Danu Talis. Những sợi bạc tượng trưng cho nước, ánh sáng chiếu nó tạo cảm giác nước chuyển động.

      Aten đứng giữa mê cung và quay lại nhìn Marethyu. Đôi mắt vàng lớn của ông sáng vàng lên khi phản chiếu ánh sáng. “Ta tìm thấy sàn nhà này ở di chỉ của Người Cổ đại ở giữa Đại Sa Mạc. Ta tin rằng đây từng là trần nhà thờ.” Những ngón tay ông lướt hình vẽ. “Ta xây dựng thành phố dựa hình ảnh này. Ta thích ý tưởng rằng những hoa văn của Người Cổ đại trở thành bản đồ cho thành phố đại.”

      “Tôi từng nhìn thấy hình vẽ này rồi,” Marethyu khi xung quanh hình tròn. “Nó xuất ở thế giới loài người và những Vương quốc Bóng tối và nhiều nơi khác.” Ông buông tay và chắp tay sau lưng, đầu nghiêng sang bên khi quan sát họa tiết. “Nó được hoàn thành rồi.”

      “Tới từng chi tiết.”

      “Tổ tiên của chúng ta đáng kinh ngạc,” ông rồi nhìn vị Elder. “Ông có đồng ý ?”

      “Ngươi sợ ta à?” Aten hỏi và trả lời câu hỏi vừa rồi.

      “Tôi chẳng có lý do gì để sợ ông.” Marethyu lắc đầu. “Nhưng ông sợ tôi, đúng ,” ông nhàng .

      “Ta sợ cái ngươi đại diện.”

      “Cái đó là cái gì?”

      chết chóc của thế giới ta sống.”

      Marethyu lắc đầu. “Ngược lại đúng hơn. Tôi ở đây để đảm bảo rằng thế giới của ông – thế giới phi thường ông kiến tạo ra – tiếp tục sống.”

      Aten qua mê cung. Ông ta cao vượt hẳn người đàn ông tay móc câu, nhưng Marethyu vẫn dứng im nhúc nhích.

      Đôi mắt vàng của vị Elder nheo lại thành đường kẻ. “Ngươi đểu ta đó à?”

      ,” Marethyu nghiêm túc . Ông giơ bàn tay trái, chiếc móc câu tay ông sáng lên. Aten lùi lại. “Ông biết ta phải trả giá thế nào để tới được đây đâu,” người đàn ông cụt tay tiếp. “Tôi phải chịu đựng hàng triệu những đau đớn và qua biết bao nhiêu dòng chảy thời gian để đến đây đúng lúc. Tôi hy sinh mọi thứ - mọi thứ tôi thương – để đứng đây trước mặt ông.”

      “Vì sao?”

      “Vì chúng ta có thể quyết định vận mệnh của Danu Talis và những thế hệ sau.” Luồng điện của Marethyu lóe sáng, trong chớp nhoáng phản chiếu nền vàng của căn phòng. Ông vẫy tay, đột nhien toàn bộ tấm bản đồ bên dưới vị Elder biến mất trở thành những mảnh rách nát. Màu bạc chảy dọc ngang rồi lên cả sợi chỉ vàng. “Nếu Danu Talis sụp đổ, thế giới tiếp theo bao giờ tồn tại...” Những viên gạch chuyển máu nâu xỉn, rồi vỡ ra tan tành. Marethyu lại vẫy tay; luồng gió lạnh thổi qua sàn nhà và những mảnh của tấm bản đồ cổ rời ra bay chẳng để lại gì ngoài nền đá trống hươ bên dưới. “Đế chế của ông, đế chế De Danann hùng mạnh bị hủy diệt cùng với cả thế giới chỉ trong thế hệ.”

      “Tôi rất thích nên nhà đó,” Aten lẩm bẩm.

      “Tin tôi Elder, ông tiêu tùng trước khi chứng kiến được những hủy diệt kinh khủng hơn!”

      Aten cho tay vào trong và quay . Vị Elder rảo bước qua sàn nhà trống , cạnh của áo choàng kim loại tóe lửa khi chạm xuống nền nhà. Ông bước vào abn công hoa và dây leo nhìn toàn cảnh thành phố Danu Talis. Aten hít hơi sâu, mang vào trong mùi hương thơm ngọt của sống và sinh sôi, bỏ qua mùi đắng và hơi chua từ luồng điện của Marethyu.

      MẶt trời bắt đầu ngả về tây, tòa nhà nhuốm ánh vàng, những con kenh ngả màu bạc. Ở vài tầng thấp của những tòa nhà cao hơn người thắp đèn. Từ phía xa vang lên tiếng cười và tiếng nhạc.

      Marethyu đứng cạnh Aten. Ông đặt tay lên ban công và nhìn về thành phố đảo.

      “Hãy chiêm ngưỡng thành phố tuyệt vời nhất thế giới này ,” Aten tự hào .

      Marethyu gật đầu. Ông ngửng đầu lên, đôi mắt xanh lơ tối lại giống với màu trời khi ông quan sát mặt trời lặn phủ lên những vinama bay thấp màu vàng cháy, khiến chúng giống như những vệt sáng ngang qua thiên đường. “Đây là kỳ quan.”

      từng có những thành phố tuyệt đẹp trái đất,” Aten tiếp tục. “Người cổ đại xây dựng những thành phố hội đoàn, những trung tâm tuyệt vời để nghiên cứu, Archon và Chúa Đất xây dựng những thành phố lớn bằng thủy tinh và kim loại trong thời xa xưa. Nhưng có thành phố nào giống như Danu Talis.”

      “Truyền thuyết về nó tồn tại hàng thiên niên kỷ,” Marethyu đồng tình.

      “Danu Talis là thành phố, bang, thành phố và ta trị vì nó gần hai ngàn năm. Cha ta, Amenhotep, trị vì nơi này trước ta, ông nội ta Thoth là trong những Elder vĩ đại nâng thành phố nên từ lòng biển mười ngàn năm trước.”

      “Ờ, tôi biết. Tôi thấy ông ấy làm thế,” Marethyu thản nhiên .

      “Ngươi ở đó?”

      “Ờ.”

      Chúa tể Danu Talis nhìn người đàn ông tay móc câu lúc lâu. Cuối cùng ông gật đầu. “Ta tin ngươi,” ông chắc giọng . “Và có thể chúng ta bàn luận với nhau vài điều ngươi chứng kiến trong suốt cuộc đời dài và trong những chuyến chu du phi thường của ngươi.”

      “Chúng ta làm thế,” Marethyu . “Tôi có rất ít thời gian ở đây.”

      Aten gật đầu. “Từng có thời Danu Talis chỉ là thành phố bị quân thù bao vây. Khi ta lên ngôi chúng ta bị vây hãm bốn bề. Anubis và ta thay đổi tất cả. Giờ Danu Talis là thủ đô của đế chế hùng mạnh trải dài khắp địa cầu, khắp các châu lục, kể cả Northland lạnh giá. Và những kẻ từng chống lại chúng ta – Người Cổ đại, Archon hay Chúa đất – đều bị đánh bại hoặc đánh đuổi tới tận cùng thế giới.”

      “Ông là phần của lịch sử,” Marethyu . “Cha tôi – hoặc đúng hơn, người tôi tin là cha tôi – dạy tôi rằng mọi đế chế đều tới lúc sụp đổ. Khi du hành qua thời gian và lịch sử, tôi nhận ra ông ấy đúng. Tất cả các đế chế vĩ đại rồi cũng tới lúc suy vong.”

      Aten gật đầu. “Ta nghiên cứu lịch sử thế giới từ thời Khởi Nguyên, và tôi học được bài học là: các đế chế phát triển và suy tàn.” Ông quay qua nhìn kim tự tháp to lớn nằm ở trung tâm hòn đảo. nửa của nó tắm dưới ánh hoàng hôn, phần còn lại chìm trong bóng tối. Những ngọn lửa xíu bập bùng cháy hàng trăm bậc thang dẫn tới nóc dẹt của công trình, đó cắm lá cờ bay phần phật trong cơn gió chiều.

      “Danu Talis sụp đổ,” Marethyu . “Ông còn những lời tiên tri hay nhà tiên tri để cho ông biết trước tương lai.”

      Aten nhìn Marethyu. “Ngươi là cái gì?” ông ta đột ngột hỏi. “Ông phải Elder hay Người cổ đại, càng phải Chúa Đất hay Archon.”

      “Tôi thuộc những giống loài đó,” Marethyu nghiêm túc . “Tôi là tương lai của ông. Ông trị vì thành phố này cả thiên niên kỷ,” ông ta tiếp. “Đây đúng là kỷ nguyên Vàng của Danu Talis, nhưng vân mệnh của nó là phải sụp đổ và biến mất. Và nếu điều đó xảy ra, những gì ông làm, những hy sinh của ông chẳng là gì. Nhưng cần phải thế. Ông có thể bảo vệ danh tiếng thành phố của ông; đúng ra ông có thể đảm bảo rằng nó giúp hình thành nên nền móng cho chỉ mà nhiều nền văn minh về sau.”

      “Ngươi biết như thế chứ?”

      “Tôi chứng kiến,” Marethyu bình thản , ánh chiều khiến đôi mắt ông chuyển ánh vàng. “Tôi thề tôi .”

      “Ta tin ngươi,” Aten lại thầm . “Ngươi muốn ta làm gì?”

      “Tôi muốn ông trở thành waerloga – người phá bỏ lời thề. thầy phù thủy. Tôi cần ông phản bội thành phố của ông.”

      “Với ai?”

      “Với tôi?”



      CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT
      Theo cách nào đó, Josh Newman đột ngột biết tên những sinh vật trong xà lim: Cluricaun, quỷ Nhật oni, Ông ba bị, Người khổng lồ, Huldu, Quái vật đầu bò Minotaur, quái vật Mỹ Windigo, Ma cà rồng Ấn Độ Vetala. Trước khi cậu hiểu vì sao những từ đó tới với cậu, chuyển động hình xoáy ốc khiến cậu chú ý, cậu dừng lại nhìn vào căn phòng tối. Cậu nhíu mắt nhìn gần hơn. Cái mùi đó khiến bụng cậu quặn thắt, mùi axit chua ợ lên cổ họng cậu. Cậu nghĩ cậu nhìn thấy con khi nhưng khi mắt cậu điều chỉnh thích hợp với ánh sàng mờ mờ, cậu nhìn thấy con vật đó có đầu khỉ, thân vằn vện của gấu trúc Bắc Mỹ, chân hổ và đuôi rắn. Đó là con nue, sinh vật đến từ những truyền thuyết tối tăm nhất của Nhật. Niten giết con nổi tiếng nhất.

      Tay Josh nắm chặt những thanh xà lim.

      Sao cậu biết được nhỉ?

      Khi cậu bước vào chỉ vài phút trước, trong xà lim đầy những con quái vật tên. Cậu mang máng nhớ ra vài con nhờ những câu chuyện bố mẹ kể - như con quái vật đầu bò minotaur – nhưng hầu hết những con khác như thể bước ra từ cơn ác mộng.

      Giờ cậu chỉ biết tên chúng mà cậu còn biết Niten giết trong số những con nue.

      Sophie.

      Những hình ảnh về chị cậu nảy ra trong đầu cậu. Cậu hiểu sao lại nghĩ tới chị...và lần cuối cậu nhìn thấy , ở cùng Niten. Giờ ở đâu? Liệu giờ có ở cùng Kiếm sĩ ? có an toàn ?

      nào, Josh,” Dee ra lệnh khi và Virginia qua.

      “Tôi tới ngay đây,” Josh lẩm bẩm. Cậu đợi tới khi Dee và Dare tiếp và đột ngột quay lại, mong nhìn thấy chị ở sau mình.

      Sophie.

      Cậu hít sâu, cố gắng tìm kiếm mùi va ni của chị lẩn quất trong mùi muối và i ốt và mùi như thể trong sở thú trong xà lim.

      Sophie.

      Cậu đột ngột cảm thấy hơi nóng và cậu xoa những ngón tay như thể có kim châm vào với nhau. Liệu ở đây quan sát cậu ? từng làm thế, theo dõi cậu hộ Flamel và Perenelle khi cậu ở văn phòng của Dee chuẩn bị chiêu hồn Coatlicue.

      Sophie. Môi cậu mấp máy gọi tên ...nhưng có gì, và lần đần tiên trong đời cậu thể cảm thấy . Trong suốt cuộc đời của Josh, chj cậu trở thành hằng số đối với cậu. Khi bố mẹ cậu vắng, khi gia đình cậu cứ từ thành phố này sang thành phố khác còn cậu và Sophie cứ chuyển từ trường này sang trường khác, người duy nhất cậu có thể dựa dẫm vào là chị cậu. Và giờ rồi.

      “Josh?” Virgnia . “Sao thế?”

      Cậu lắc đầu. “Tôi biết. Tôi chắc.”

      với tôi xem cậu có vấn đề gì nào,” Virgnia thản nhiên . ta nhàng đặt tay lên tay cậu và kéo cậu khỏi xà lim, dắt cậu qua cánh cửa mở ở cuối hành lang. Dee đợi ở đó. Khi Pháp sư nhìn thấy họ tới, ông ta quay người và biến mất vào ánh sáng chói lòa ở bên ngoài.

      có gì, ...” Josh định , đột nhiên thấy nhột nhạt vì diện của người phụ nữ bên cạnh.

      với tôi ,” ta lại giục.

      Cậu hít hơi sâu. “Lạ ...”

      Virginia cười. “Lạ à?”” vẫy tay về phía những xà lim. “Có gì còn lạ hơn những cái này? cho tôi nghe ?” khăng khăng đòi.

      Josh gật đầu. “Khi tôi tới đây tôi biết bất cứ sinh vật nào trong kia...nhưng sau đó tôi biết. Tôi chỉ biết hết tên chúng, tôi còn biết Niten giết trong số chúng.” Cậu lắc đầu. “Nhưng tôi biết làm sao tôi biết.”

      “Vì sao à, đơn giản thôi: cậu liên kết với ai đó. Có thể là chị cậu.”

      Josh thảm hại gật đầu. “Tôi cũng nghĩ thế.” Cậu hạ thấp giọng và nhìn xung quanh. “Tôi nghĩ có thể họ theo dõi chúng ta.”

      Virginia lắc đầu, những sợi tóc bay qua khuôn mặt Josh. “ phải chúng ta. Mà là cậu. Tôi biết ngay nếu có ai đó theo dõi tôi. Và tôi có thể chắc chắn với cậu, ai có thể theo dõi Dee hay Machiavelli mà họ biết. Chỉ có thể là chị cậu để ý tới cậu.” Họ qua xà lim có con quái vật đầu dê, Virginia hất hàm về phía nó. “Con này là con gì?” hỏi.

      Josh lại gần để nhìn cho hơn, rồi lắc đầu. “Tôi biết,” cậu thừa nhận. “Con gì thế?”

      “Pooka.” Virginia cười. “ ràng cậu biết người theo dõi cậu biến mất. Tôi đoán rằng chị cậu có mối liên kết với cậu, do đó cậu có thể biết những thứ chị cậu biết. Đó là,” thêm. “Là khả năng hay ho.” Virginia xoắn tóc lại. “Hai người khá gần gũi đúng , cậu và chị cậu ấy?”

      Josh buồn bã gật đầu. “Rất gần gũi.”

      “Cậu phải nhớ ấy lắm,” Virginia .

      Josh nhìn thẳng về phía ánh sáng. Mắt đầu ọng nước mắt và cậu giả bộ chỉ là phản ứng đối với ánh nắng gắt ở bên ngoài “Đúng, tôi nhớ chị ấy. Và tôi hiểu chuyện gì xảy ra với chị ấy.”

      “Chắc chắn ấy cũng giống cậu. Cậu ấy ?” Dare hỏi luôn.

      Cậu mở miệng định trả lời nhưng cậu thể gì. Cậu đột nhiên nhận thức được nhịp đập trái tim cậu. Nó đánh lô tô trong ngực cậu, như thể cậu vừa chạy quãng dài bằng sân bóng. Cậu nhận ra rằng cậu sợ trả lời, sợ phải nghĩ tới câu hỏi.

      “Cậu ấy ?” Virginia nhắc lại.

      Josh nhìn người bất tử. Từng có lúc cậu có thể trả lời chỉ trong giây...nhưng mọi thứ thay đổi. Sophie thay đổi, và cảm giác của cậu với ... rối bu.

      “Thế nào?” Virginia hỏi.

      “Có......tôi biết. Ý tôi là, chị ấy là chị tôi, chị song sinh với tôi, gia đình của tôi...”

      “À. Theo kinh nghiệm của tôi, khi con người họ ai đó, thường họ có ý đó. Nhưng trong trường hợp của cậu tôi chắc. Cậu vẫn còn cảm giác với ấy.” ta hơi lại gần Josh hơi quay người để nhìn được mặt cậu. “Nếu có cơ hội cậu có cứu ấy .”

      “Tất nhiên.”

      “Cậu làm gì để cứu ?”

      “Điều gì cũng được,” cậu đáp ngay tắp lự. “Mọi điều.”

      “Vậy cậu vẫn còn chị cậu,” Dare đắc thắng .

      “Tôi nghĩ tôi vẫn chị ấy,” cậu thừa nhận. “Tôi ước gì mình có thể thay đổi chị ấy.”

      “Ờ, đơn giản thôi: nhà Flamel thay đổi ấy.” Người bất tử chỉ ngón tay vào ngực cậu. “Họ - sau đó là Dee – thay đổi cậu. Dù ông ta khiến cậu tốt hơn hay tệ ..ờ, mà điều đó chỉ có cậu có thể được.” Rồi ngả người tiếp, “Cũng có thể là thời gian.”

      “Nhà Flamel xấu à?” cậu hỏi, hạ giọng xuống dù cho Dee bước ra ngoài buồng giam. “Tôi vẫn biết liệu tôi có tin được tiến sĩ nữa. Ý tôi là, tôi biết là bạn của Dee nhưng chỉ là tôi phân vân...”

      “Có thể tôi là bạn của Dee – nhưng dù đứng quan điểm của ông ta – ông ta cũng phải bạn tốt – nhưng tình bạn che mắt được tôi ông ta là người thế nào?”

      “Thế nào?”

      “Điên.” lại cười. “Điên lên vì những khát vọng cả Flamel và Machiavelli đều thế. Ở thời điểm khác, hoàn cảnh khác, có khi họ còn lạ bạn hợp cạ đó.”

      “Tôi tin được ông ta ?” Josh hỏi.

      “Cậu nghĩ sao?” Virginia hỏi.

      “Tôi biết nghĩ gì nữa. Nhưng Sophie quất roi vào Coatlicue. Và tôi vẫn hiểu sao chị ấy có thể làm vậy. Chị tôi thường làm đau thứ gì. Chị thường bắt tôi bắt con nhện trong buồng tắm và thả nó ra ngoài. Và chị ấy hề thích nhện.”

      “Có thể ấy nghĩ ấy bảo vệ cậu,” Virginia nhàng . “Khi người chúng ta thương gặp nguy, chúng ta thường làm hề suy nghĩ.”

      trả lời tôi,” Josh . “Nhà Flamel có xấu như Dee ?”

      Virginia dừng lại trước cửa và quay lại nhìn Josh. Khuôn mắt trong bóng tôi nhưng đôi mắt sáng lên ánh sáng bình thường. “Đúng là họ tệ thấy đấy. Có khi còn hơn.”

      tin rằng những Elder nên quay về trái đất ?”

      “Họ mang theo nhiều lợi ích,” Virginia chậm rãi .

      trả lời câu hỏi của tôi,” cậu đáp cụt ngủn, có chút giận dữ phảng phất trong giọng . “ rất giỏi trong việc lảng tránh câu trả lời đó.”

      “Câu hỏi của cậu thích hợp,” Dare . “Những Elder quay lại, dù chúng ta có thích hay . Nereus sắp thả Lotan rồi, và rồi Machiavelli sewx đánh thwucs những con quái vật lưỡng cư nằm ngủ trong xà lim và thả chúng vào San Francisco. Chúng xé tan thành phố. Cảnh sát, quân đội, lực lượng quân và hải quân của đất nước giàu tiềm năng quân nhất này thấy họ vô dụng. NHững vũ khí tối tân của họ vô dụng. Và khi thành phố bên bờ phá hủy, khi lãnh đạo đất nước này biết rằng cách duy nhất để khống chế lũ quái vật là bỏ rơi thành phố và hủy diệt nó, lúc đó Elder đại diện xuất cùng lời đề nghĩ siêu phàm. Những Elder xóa sổ lũ quái vật và chỉ cứu thành phố và toàn bộ châu lục và cả thế giới. Đó là lời đề nghị mà chính phủ Mỹ thể từ chối. Những Elder cứu mọi người và lại được tôn vinh như những hùng và thần thánh. Xưa kia mọi chuyện như thế. Tương lai cũng như thế. Đúng ra mọi chuyện xảy ra vào Lễ Litha, hạ chí...” Đôi môi Virginia Dare cong lên thành nụ cười. “Nhưng Ts. Dee tốt bụng khiến các Elder thay đổi kế hoạch. Giờ họ xúc tiến nhanh hơn kế hoạch.”

      “Vậy là Dee làm đúng,” Josh vui vẻ . “Khi các Elder quay lại, họ mang theo những thứ có ích, những công nghệ cổ xưa.”

      “Có thể.”

      “Và họ làm gì Dee? Ông ta phản bội họ, đúng ? Họ sợ ông ấy à?”

      “Rất sợ,” Virginia cười giòn. “NHững Elder sợ những nô bộc họ cách nào kiểm soát. Và lúc này tiến sĩ hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát.”

      Virginia quay , Josh vươn tay bám lấy vai . Tia lửa điện vàng và xanh nhạ nổ lách tách đầu ngón tay cậu. Người bất tử quay đầu, nhướn mày ý hỏi. “Người cuối cùng chạm vào tôi xin phép chết thảm đó.”

      Josh giật phắt tay lại. “ Elder quay lại – thế Dee ra sao?”

      Virginia cẩn trọng nhìn cậu, đồng tử giãn ra đầy mê hoặc. Thế nhưng vẫn im lặng để cho Josh tiếp.

      “Nếu các Elder truy đuổi Dee ông ta thể để họ quay lại. Ý tôi là...” Josh chần chứ lúc. “...họ giết ông ấy.”

      Virginia tiếp tục nhìn cậu, vì thoải mái nên cậu tiếp.

      “Trừ khi ông ấy nghĩ rằng khi cho họ thành phố, ông ấy trở về bên họ,” cuối cùng cậu cũng xong.

      Dare chớp mắt lắc đầu, xóa bỏ căng thẳng giữa họ. Josh thở hắt ra.

      “Câu hỏi thú vị đó,” Virginia rồi lại nhếch mẹp cười. “Tôi chắc Tiến sĩ cũng nghĩ tới rồi. Ông ta có kế hoạch. Ông ta luôn có kế hoach.” ta bước ra ngoài ánh sáng để lại Josh mình trong tòa nhà tăm tối. “Và thường nó tới đâu.” với chính mình. Nhưng thanh va đập vào tường và dội lại vào Jack.







      CHƯƠNG BA MƯƠI HAI
      Anubis chạm vào bảng điều khiển vimana, chiếc đĩa bay hơi nghiêng sang phía vẫn mình trong đám mây đêm. Xa xa bên dưới, khu vườn mái Thái Dương Điện, ông thấy trai Aten cùng người đàn ông tay. “Tôi bỏ ra chút tài sản để biết họ gì,” ông ta với người mặc áo choàng ngồi cạnh.

      “Đáng ra họ nên chuyện,” tiếng vang lên từ trong lớp vải.

      “Con nên làm gì đây, Mẫu hậu?”

      Người đó nhoài người lên trước, ánh sáng từ thành phố khiến đôi mắt vàng có chút sống. Ánh sáng chạy qua chiếc mùi lông và đôi tai hình tam giác, làm rung động những sợi lông mao dài. Biến đổi quá khắc nghiệt đối với Baster, mẹ của Aten và Anubis; trong khi cơ thể bà vẫn là của thiếu nữ trẻ, đầu vài tay bà chuyển thành của con mèo khổng lồ. “Thi thoảng ta nghĩ phụ vương các con chọn sai người kế tục,” bà xì xì . “Đáng ra phải là con.”

      Anubis cúi đầu. biến đổi cơ hàm và xương gò mà khiến ông thể mỉm cười.

      Những móng vuốt mèo dài chỉ vào người đàn ông tay móc câu. “Ta thể hiểu sao trai có thể đứng nổi cùng sinh vật hôi thối đó.”’

      “Aten có biết gã tay móc câu đó là ai ?” Anubis hỏi.

      Bastet rít lên. “Nó phải biết. Aten nghiên cứu lịch sử. Nó biết trong mọi huyền thoại – của Chúa Đất, Người cổ đại, và Archon – đều tới người này: người đàn ông tay móc câu, kẻ hủy diệt. Những Chúa đất gọi là Moros và Người cổ đại gọi là Mot, trong khi những Archon gọi là Oberour Ar Maro. Chúng ta gọi chúng bằng cái tên tương tự: Marethyu.”

      “Thần chết,”

      “Thần chết,” Bastet thông thái . “Và tới để hủy diệt chúng ta. Ta nghi ngờ gì cả. Kể cả những kẻ ngốc thích nhúng mũi vào chuyện người khác như Abraham và Chronos còn đồng ý nữa là.”

      “Con phải làm gì?” Anubis lại hỏi, hạ vimana xuống thấp hơn, bám theo Aten và người đàn ông tay móc câu khi họ bước vào ban công bao quanh mái.

      Những móng vuốt của Bastet cắm vào bức tường láng mịn của vimana, để lại những vết hủy hoại nên đá hoa cương vốn thể hỏng hóc. “Phụ vương con chắc buồn lắm. Ta mừng là ông ấy còn sống mà chứng kiến con mình chuyện với sinh vật kia.” Bà ta lắc cái đầu khổng lồ. “Ta từng giúp nâng hòn đảo này lên từ lòng biển. Ta cùng cha con trị vi Danu Talis cả thiên niên kỷ. Ta muốn thấy nó bị hủy diệt vì ngu ngốc của trai con.” Nước bọt của bà ta nhễu xuống từ răng nanh. “Từ ngày này trở , Aten còn là con trai ta nữa.” Cái đầu xấu xí của bà ta quay qua nhìn vào đôi mắt đen của Anubis. “Hãy cướp lại Danu Talis. Ta giúp con lên ngôi. Ta chuyện với Isis và Osiris; họ thích gì trai con. Họ ủng hộ con.”

      Anubis càu nhàu. “Họ chưa bao giờ công khai đối địch. Ai biết lòng tin của cậu và dì con nằm ở đâu?”

      trung thành của Isis và Orisis bao giờ cần bàn cãi. Họ giống trai con, họ luôn biết nhiệm vụ của mình đối với gia đình và hòn đảo này,” Bastet gầm gừ. “Bản thân từng người họ mạnh và khi kết hợp lại họ sở hữu sức mạnh phi thường. Ta từng xem vài Vương quốc bóng tối mới họ bắt đầu kiến tạo, và chúng vĩ đại. Và dù cậu dì con bằng tuổi ta – ra Isis còn lớn tuổi hơn chút – họ vẫn hề bị Biến đổi. Cậu ấy vẫn đẹp trai và dì vẫn xinh đẹp.” Bastet thể nào giữ cho giọng mình chút cay đắng.

      “Nếu Isis và Orisis ủng hộ con, những Elder và Elder vĩ đại khác cũng thế,” Anubis từ tốn những suy nghĩ mình ra. “Nhưng vì sao họ muốn ủng hộ con truất ngôi chứ?”

      “Họ có con. Sau Aten, con là cháu họ tiếp theo của họ. Họ bao giờ muốn chỉ trị vì lục địa ở vương quốc bóng tối. ngàn năm trước họ rằng ngày họ thống trị hàng chuỗi những thế giới, dù cho họ phải tự mình tạo ra chúng. Bastet chỉ về phía bên kia đĩa bay. “BẮt Marethyu. Con từng làm được, giờ con có thể làm lại được. Con phải cẩn trọng để bắt trai con, các anpu giúp con. Sau đó cho vài anpu tới Murias bắt Abraham và những ai theo phe cánh ông ta.”

      “Sau đó con nên làm gì, thưa Mẫu hậu?”

      Đôi mắt vàng to tướng của Bastet chớp chớp vì ngạc nhiên. Bà quay sang hướng bắc, nơi nhà tù núi lửa Huracan mọc lên từ hòn đảo. “Vì sao con lại phải nuôi chúng chứ - tất cả bọn chúng, Aten, Marethyu, Abraham và những kẻ tù nhân ngoại bang kia nữa – con hãy ném chúng vào núi lửa.”

      Anubis gật đầu. “Khi nào con nên bắt đầu?”

      Bastet chỉ xuống nơi Aten nắm tay Marethyu đồng ý cho thỏa thuận họ vừa đạt được. “Giờ là lúc thích hợp đó.” Móng vuốt của bà nắm lấy bàn tay như chân động vật của con trai, chặt tới nỗi chảy máu. “Giết chúng , Anubis. Giết tất cả bọn chúng rồi Danu Talis là của con.”

      “Của mẫu hậu nữa,” Anubis thầm trong khi cố gắng gỡ bàn tay đau nhức ra.

      “Và của ta,” bà ta đồng tình. “RỒi chúng ta trị vì vĩnh viễn.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG BA MƯƠI BA

      Mars Ultor dừng lại ở góc đường Broadway và đường Scott để lấy hơi. Ông dựa vào bức tường gạch đó nhìn lại về đường Broadway. Ông nhận ra đoạn đường quá dốc, và chân ông do lâu ngày luyện tập, giờ trở nên cứng ngắc vì đau, các cơ bắp ê ẩm và đau rần. Khi Zephaniah thả ông ra khỏi nhà tù xương ở dưới lòng Paris, luồng điện cứng bao quanh người ông trong hàng thế kỷ biến thành bụi quanh chân ông, giúp ông thoát khỏi nâng nề đeo bám ông bao lâu nay. Dưới lớp vỏ đó, ông kinh hoàng nhận ra rằng cơ thể từng rất cường tráng của ông giờ trở nên mềm nhẽo, chân rất yếu gần như thể chống nổi trọng lượng cơ thể. Nhưng ít nhất Mars Ultor có lại sức mạnh của mình; Zephaniah có thể có đôi mắt, vì bà đổi nó cho Chronos để có được tri thức giúp chồng bà an toàn. Mars Ultor hít hơi sâu. Khi tất cả những việc này qua – và giả sử ông còn sống – ông nghĩ ông thăm lão Chronos ghê tởm kia. Chắc chắn rằng vị Elder kinh khủng kia còn giữ đôi mắt của Zephaniah ở trong cái lọ ở đâu đó. Có thể ông có thể thuyết phục lão đưa cho ông. Mars bẻ đốt ngón tay. Ông có thể rất thuyết phục.


      Ông quay trái bước tới đường Scott.


      Vị Elder cảm thấy nguồn sức mạnh kinh người, luồng sức mạnh đó mất trước khi chiếc xe jeep quân đội đậu lại và ba người nhảy xuống vỉa hè.


      người trông có vẻ là người Điêng cao lớn, khắc khổ với làn da màu đồng và sắc bén chui ra. “Ông là Mars.” Đó là câu khẳng định, chứ phải câu hỏi.


      “Ai muốn biết chứ?” Mars Ultor trả lời, nhìn quanh quẩn đường hiểu đây có phải cuộc tấn công .


      trong ba người ở đằng sau xe jeep nghiêng người, đầu ông ta đội chiếc mũ cao bồi kiểu Stetson để lộ ra băng bịt mắt phải. “Tôi muốn biết.”


      Mars Ultor đứng chết trân. “Odin à?”


      Rồi người thứ bả, bé hơn, mặc chiếc áo khoác to sụ, hạ mũ xuống để lộ khuôn mặt của con chó , với hai chiếc răng nanh mọc từ môi . Đó là người phụ nữ, đeo kính đen che hầu hết khuôn mặt nhưng thể che nổi dòng nước đen ngòm chảy ra từ mắt.


      “Hel à?”


      “Chú ạ,” ta tiếng ken két.


      Mars Ultor mở to mắt hết nhìn Odin rồi nhìn Hel rồi nhìn người tài xế. “Tôi vẫn mơ ư?”


      “Vậy nếu ông ở đây, ông mơ ác mộng đó.” Người tài xế duỗi tay để lô cánh tay cơ bắp. chiếc vòng màu lam đeo quanh cổ tay ông ta. “Tôi là Ma-ka-tai-me-she-kia-kiak.” Ông ta mặc chiếc quần bò cũ vẹt, đôi giày cao bồi cũ và mặc chiếc áo phông in chữ Grand Canyon bạc màu. “Nhưng ông cứ gọi tôi là Chim Ưng Đen. Chủ nhân của tôi là Quetzalcoatl. Ông ấy gửi tôi tới đón hai người kia” – ông ta giơ ngón tay cái lên. “và tôi vừa có cuộc gọi kêu tôi đón ông luôn. Ờ, ông ấy cũng gửi lời hỏi thăm ông đó.” Chim Ưng Đen ngả người ra để Mars ngồi vào ghế hành khách. “Nhưng tôi nghĩ ông ấy lòng.” Ông ta khởi động động cơ và quay sang nhìn bộ ba khác lạ. “Luật ngầm của Elder là ăn mặc lôi thôi à?”


      Vì vẫn còn choáng nên Mars lờ người tài xế mà quay lại nhìn hai Elder đằng sau. “Lần cuối tôi gặp hai người, hai người sắp đánh nhau cơ mà.”


      “Đó là lúc đó...” Odin .


      “...còn giờ là giờ” Hel ngọng nghịu . “GIờ chúng ta có kẻ thù chung. Nô bộc ultaga nghĩ ta có thể trở thành chủ nhân.”


      Chim Ưng Đen đóng cửa lại và lái xe lên đồi, đôi mắt đen liếc trái liếc phải tìm địa chỉ.


      “Đó là tên giống người, John Dee,” Odin .


      Mars Ultor gật đầu. “Zephaniah cho tôi nghe rồi. Bà ấy định triệu hồi Coatlicue để hại chúng ta.”


      “Dee hủy diệt cây Yggdrasill,” Odin , chuyển sang thứ ngôn ngữu có trước con người cả thiên niên kỷ.


      giết Hekate.”


      Đột nhiên có mùi thịt cháy và luồng khí đỏ tía bao quanh vị Elder. “À, vợ tôi quên với tôi chuyện đó. GIống người đó giết Hekate à?” Mars Ultor hỏi, giọng run lên vì tức giận. “Hekate của ông đó?” ông ta với Odin.


      Vị Elder gật. “Hekate của tôi,” ông ta thầm.


      “Và hủy diệt Yggdrasill,” Hel nhắc lại. “Những Vương quốc bóng tối của Asgard, Niflheim và Diêm quốc bị hủy diệt. Cánh cổng tới sáu vương quốc khác cũng sụp đổ, phóng kín họ ở đó mãi mãi, khiến họ chết dần trong giam hãm và hủy diệt. “


      “Chỉ người mà làm được điều đó à?” Mars hỏi.


      “Tên người Dee,” Hel . nhoài người, khiến mùi chướng khí bao quanh Dee. “Những chủ nhân của Dee muốn sống. Nhưng chừng nào Dee còn sống còn là mối nguy với tất cả chúng ta. Chú tôi và tôi tới thỏa thuận chung: chúng tôi tới đây để giết Dee.” đặt những ngón tay móng vuốt lên vai Mars Ultor. “Chống lại chúng tôi là sai lầm.”


      Mars đẩy những ngón tay của vị Elder ra khỏi vai mình như thể xua những thứ vải vụn. “Đừng bao giờ nghĩ tới việc đe dọa chú chứ cháu . Chú biết chú vắng khá lâu. Có khi cháu quên chú là ai. Chú là cái gì.”


      “Chúng tôi biết ông là ai chứ cậu em họ,” Odin thản nhiên . “Chúng tôi biết ông là cái gì – chúng tôi mất những người thân và họ hàng vì tức giận của ông. Và câu hỏi quan trọng hơn là: vì sao ông ở đây?”


      Mars Ultor mỉm cười. “Ờ , từng có lúc chúng ta ở cùng phe. Vợ tôi mới thả tự do cho tôi và giao cho tôi nhiệm vụ đơn giản: giết Ts.John Dee.”


      Chim Ưng Đen dừng xe trước khi vị Elder nào có thể phản ứng. “Chúng ta tới nơi rồi,” Người Điêng bất tử thông báo.


      “Tới đâu?” Mars Ultor hỏi.


      “Nhà của Giám quan Tsagaglalal.”


      Mars và Odin giúp Hel ra khỏi xe khi cửa mở. Prometheus và Niten đều mặc áo giáp làm từ luồng điện xuất ở bậc thềm dẫn vào nhà. khí chua lên bởi đủ thứ mùi – mùi thịt cháy và mùi trà xanh, hoa hồi, cây thổ phục linh và mùi cá ươn – rồi sau đó, với tiếng gầm giận dữ, Mars Ultor lôi thanh đoản kiếm dưới áo khoác lao thẳng vào Prometheus, nhắm thẳng lưỡi kiếm vào cổ họng ông.




      CHƯƠNG BA MƯƠI TƯ

      “Em vừa chuyện với thằng bé,” Virginia khi bắt kịp John Dee xuống đường mòn quanh đảo.


      Dee liếng nhìn người phụ nữ nhưng gì.


      Virginia lắc đầu tháo tóc ra để nó rơi xuống lưng. “Cậu ta hỏi em chuyện gì xảy ra nếu tất cả những con quái vật được thả vào thành phố.”


      là thảm họa,” Dee và vẫy tay trong khi. “Bạo động.”


      “Ờ đúng, đó là chuyên môn của mà Tiến sĩ. Nhưng còn các Elder?” ta nhướn mày hỏi. “Em nghĩ kế hoạch là lũ quái được thả vào thành phố sau đó các Elder xuất và cứu thế giới.”


      “Đúng là kế hoạch ban đầu như thế.”


      Họ vào góc đường. Gió thổi từ vịnh quét qua họ. San Francisco và Cầu Cổng Vàng lên mặt nước trong buổi chiều ta. “ đoán kế hoạch có thay đổi.”


      “Nó thay đổi.”


      Virginia thở hơi dài thất vọng. “Liệu em có phải lôi câu trả lời từ ra hay với em? lôi em vào chuyện này. Em vui vẻ hạnh phúc ở Luân Đôn chẳng bị ai chú ý. Thế mà giờ em được treo giá vì .”


      Dee vẫn im lặng.


      bắt đầu làm em tức rồi đó,” Virginia bình tĩnh . “Và muốn em giận đâu. EM tin chưa từng thấy em giận.”


      Pháp sư liếc nhìn ra sau. Machiavelli chuyện với Billy, trong khi Josh ở phía sau. Cả ba đều ở xa họ nên thể nghe lỏm được, nhưng vẫn hạ giọng chẳng hơn thầm là mấy. “Em hứa với .”


      hứa cho em thế giới này.”


      có hứa.”


      “Và em mong thực đúng lời hứa.”


      Tiến sĩ gật đầu. “ làm thế - và luôn luôn làm thế.”


      TIến sĩ à, luôn luôn là kẻ dối tuyệt vời,” Virginia , “nhưng ít nhất luôn cẩn trọng để với em .” Giọng trở nên lạnh giá như luồng gió thổi qua vịnh. “Đó là điều duy nhất giúp sống qua mấy thế kỷ rồi.”


      Dee gật đầu. “Tất nhiên em đúng. chưa bao giờ có ý định dối em.” thở dài. “Những ngày quá ...khó khăn.”


      “Khó khăn à?” Virginia Dare cười. “Hình như ta cần gạch chân chứ đó nữa cơ.” Nụ cười mở rộng hơn ra mang tai. “Trong tuần, từ nô bộc – à , phải hơn thế, nô bộc có tiếng tăm – của trong những Elder bóng tối vĩ đại nhất trở thành utlaga. Họ muốn chết. giết hại Elder và hủy diệt vô số các Vương quốc bóng tối.”


      “Em cần phải nhắc ...” Dee định nhưng Virginia tiếp tục.


      “Chỉ trong bảy ngày, mọi thứ từng làm, những điều tin tưởng thay đổi và thay đổi triệt để.”


      “Em thích thú lắm phải !” Dee cao giọng .


      “Em tò mò xem gỡ rối cho thôi mà Tiến sĩ.”


      “Ờ, như em rồi đó: giờ em cùng thuyền với . Em giành hầu như cả đời sống trong bóng tối, Virginia ạ. Nhưng giờ ánh sáng chiếu về phía em. Những Elder, Thế Hệ Kế tiếp, cả những tay sai loài người đều săn lùng ăn, thế nên họ cũng bám đuổi em nữa.”


      “Đó chính là vấn đề của em với ,” Virginia , những ngón tay nắm chặt lấy cây sáo gỗ. có thể cảm thấy nó nóng lên bên dưới bàn tay .


      kế hoạch,” Dee .


      “Em nghĩ là có.”


      kế hoạch nguy hiểm.”


      “Em nghi ngờ gì.”


      Dee dừng lại trước tảng đá nhô ra biển. quay lại nhìn Josh và hai người bất tử tiến tới. “Những ngày qua dạy cho rất nhiều. Họ giúp nhận ra nên trở thành chủ nhân chứ đừng làm nô lệ. Và tuần rồi là đồ bỏ,” tiếp.


      “Có lẽ em nên n hắc rằng công ty cháy rụi, có tiền và còn chốn dung thân trong Vương quốc bóng tối này? Kể cả kế hoạch thả Coatlicue cũng thất bại.”


      “Nhưng có bốn thanh kiếm sức mạnh và Cuốn Codex. Ờ, hầu hết cuốn Codex,” sửa lại. “Flamel vẫn còn hai trang cuối cùng.”


      “Đúng ?” Virginia nghĩ về điều đó trong chốc. “ có thể đánh đổi những thứ có – bốn thanh kiếm và cuốn sách – cho các Elder. Họ có thể trả tự do và cuộc sống cho .”


      “Nhưng thế rẻ mạt quá. Với thanh kiếm này và cuốn Codex... có thể làm được gần như là tất cả.”


      “Nhưng khi dùng thanh kiếm, cho các Elder biết ở đâu. trao đổi thanh kiếm này với họ. Đổi lại bị đầy đọa trong Vương quốc bóng tối khắc nghiệt.”


      có ý tưởng còn hay hơn. hứa với em rằng em có thế giới này,” Dee ngay. “Nhưng nghĩ còn có thể cho em nhiều hơn nhiều.”


      cho em nghe,” Dare . Đột nhiên cảm thấy hứng thú.


      “Em luôn tham lam mà. Em với em muốn thống trị.”


      “John à...” , có chút lo lắng trong giọng .


      “Ở lại với ,” Dee giục giã, “tin , bảo vệ và ủng hộ , và cho em chỉ vương quốc, phải hai hay ba mà là tất cả.”


      “Tất cả á?” Virginia lắc đầu thất vọng. “John, em hiểu gì.”


      Dee cười khúc khích. “Em muốn trị vì chuối các Vương quốc Bóng tối ?”


      “Cái nào?”


      vừa đó – tất cả.”


      thể nào...”


      “Ờ, nhưng có thể đấy. Và biết cách.” Pháp sư laị cười, tiếng cười nghe the thé và kích động.


      “Và nếu em có hết các Vương quốc Bóng tối được gì hả Ts.John Dee?”


      “Chỉ thế giới thôi. muốn thế giới đầu tiên.”


      muốn Danu Talis?” Virginia nín thở.


      gật đầu. “Danu Talis.” Ánh mắt sáng lên thứ tia sáng man dại. “ muốn Danu Talis, nhưng để trị vì – em muốn em trị vì luôn. muốn giành cả đời để nghiên cứu. muốn biết được tri thức của bốn giống loài vĩ đại – Elder, Archon, Người Cổ đại và Chúa đất.”


      Virginia nhìn hiểu.


      biến em thành Isis mới. biến em trở thành nữ hoàng của các Vương quốc Bóng tối.” tới trước mắt Dare và nhìn . “ chưa bao giờ dối em, Virginia. Chính em cũng thế. Hãy nghĩ Virginia Dare: Em là Nữ hoàng của các Vương quốc Bóng tối.”


      “Em thích nghe thế,” Virginia bình thản . “Nhưng muốn em làm gì?”


      “Video et taceo,” .


      “Nghĩa là sao?” mất kiên nhẫn hỏi lại.


      “Đấy là phương châm của người từng . Câu đó nghĩa là “Tôi nhìn thấy gì.’ Vậy sao em nghe theo cậu đó – im miệng, quan sát và gì.”




      CHƯƠNG BA MƯƠI LĂM

      “Kiểu cười đó khiến tôi nổi da gà,” Billy lẩm bẩm.


      Machiavelli gật đầu. “Tôi sợ áp lực khiến tiến sĩ có vấn đề rồi.”


      “Họ mưu đồ gì đó,” Billy , nhìn thẳng về phía Dee và Dare to .


      “Cậu biết Virginia nhiều hơn tôi,” người Ý . “Cậu có tin ta ?”


      Billy đặt tay vào trong túi sau quần bò. “Người cuối cùng tôi tin tưởng bắn tôi từ sau lưng.”


      “Vậy tôi cứ hiểu là vậy.”


      “Niccolo, tôi thích ta. Chúng tôi có vài chuyến phiêu lưu ra trò cùng nhau. ấy cứu mạng tôi hai lần, và tôi cũng từng cứu ấy.” Cậu cười rồi khuôn mặt nét đau thương. “Nhưng Virginia...ờm, ấy... ấy có chút xa lạ.”


      “Billy,” Machiavelli kèm tiếng cười lớn, “chúng ta đều có chút xa lạ.” Ông rùng mình vì gió lạnh và kéo áo khoác chặt vào người.


      “Nhưng Virginia là xa lạ nhất.” Người Mỹ lắc đầu. “ ấy là con người bất tử, nhưng ấy khác – khác theo nghĩa nguy hiểm. ấy lớn lên có mình, chạy nhảy giữa vùng rừng núi Virginia hoang dã. Những bộ tộc Điêng chăm sóc ta, cho ta thức ăn và quần áo. Tôi nghĩ họ tin ấy là tinh linh của rừng hoặc cái gì đại loại thế. Họ sợ ta và gọi ta là Windigo: con quái vật. Mỗi khi dân làng mất tích trong rừng, họ lại nó người kia bị Windigo bắt ăn thịt.”


      Machiavelli hít hơi. “Cậu ám chỉ là...”


      Billy lắc đầu quầy quậy. “Tôi chỉ kể cho ông nghe câu chuyện thôi. Theo tôi được biết, ấy ăn chay,” cậu thêm. “ ấy luôn luôn để ý tới ngày tháng, và phải tới năm mười hay mười tuổi ta mới biết . Tôi nghĩ ấy có thể giao tiếp với động vật, nhưng tôi biết ta làm thế nào mà sống, tôi cũng biết ấy phải làm những gì. Nhưng tôi cũng hỏi. Tôi chỉ biết là những năm tháng đó hủy hoại ta. ta thực quan tâm tới con người dù ấy luôn có thể thuần hóa bất cứ con vật nào. ấy từng với tôi rằng ấy cai trị các khu rừng của Virginia, nơi mọi tạo vật đều biết áy, những người dân bản địa thờ phụng và sùng kính ấy.”


      “Tôi cũng ,” Machiavelli . “Tôi có nhiều thông tin về cuộc đời ta.”


      “Ông có biết ấy giết chủ nhân của mình ?”


      Machiavelli gật đầu. “Tôi biết chứ. Và tôi biết ấy và Dee khá gần gũi. Tôi tin họ thậm chí từng đính hơn. Nhưng tôi chắc họ xứng đôi.”


      “Tôi cũng biết chuyện đó,” Billy tiếp tục . “ ấy muốn làm bá chủ. Ở vài vương quốc bóng tối phụ cận, ấy được coi như nữ thần. ấy muốn người ta thờ phụng và sợ ấy như những người dân bản địa của Virginia.”


      “Ờ. Nó giúp ta có cảm giác mình cần thiết,” Machiavelli . “Tôi cũng ngạc nhiên lắm khi người như ta là đứa trẻ bị bỏ rơi từ lúc lọt lòng. Vậy ấy nguy hiểm hả?”


      “Ờ đúng. Ở hầu hết các Vương quốc Bóng tối, ấy được thờ phụng như Nữ thần của chết chóc.” Billy chắc chắn. “Lỗi chết người đầu tiên của ông là đánh giá thấp ta. Lỗi thứ hai là tin ta.”


      Đúng lúc đó tiếng cười man dại của Pháp sư vọng lại trong làn gió. “Tôi phân vân hiểu Dee có biết ?” Machiavelli ỏi. “Liệu ta có trung thành với ...nếu có chuyện gì xảy ra?”


      Billy quan sát người Ý kỹ. “Cái gì xảy ra cơ?” cậu ta nhàng hỏi.


      Machiavelli nhìn thành phố bên kia vịnh và nhíu mày, những nếp nhăn hằn sâu trán. “Dạo này tôi nghĩ rất nhiều tới vợ tôi, Marietta. Cậu có kết hôn bao giờ Billy?”


      Người Mỹ lắc đầu. “Trước khi là người bất tử tôi chưa bao giờ có thời gian cho việc ấy; sau đó cũng vậy. Tôi nghĩ làm thế công bằng với vợ tôi.”


      “Rất thông minh. Tôi ước mình được cân nhắc lại. Tôi kết luận rằng người bất tử chỉ nên ở cùng người bất tử. Nicholas và Perenelle rất may mắn khi được sống cùng nhau.” Ông ta cười lớn. “Có lẽ Dee nên lấy Dare. Đó cặp hay ho đó.”


      Billy nhe răng cười. “ ấy giết ông ta ngay trong năm đầu tiên. TÍnh khí của Virginia xấu lắm.”


      “Vợ tôi, Marietta cũng được hiền dịu cho lắm. Nhưng bà ấy có lý do để như thế. Tôi phải người chồng tốt. Tôi luôn luôn công tác quá thường xuyên và quá lâu. Lúc đó tôi luôn thường trực mối lo bị ám sát. Marietta tội nghiệp của tôi phải chịu đựng rất nhiều. Bà ấy từng buộc tội tôi vì là con quái vật có tính người. Bà ấy tôi nên dừng việc nghĩ con người là những cá thể . Họ là cộng đồng – tên tuổi và ai nhớ mặt – dù họ là kẻ thù hay chiến hữu.”


      “Bà ấy đúng ?”


      đúng,” người Ý buồn rầu . “Sau đó bà ấy bế đứa con trai của tôi len, Guido và hỏi tôi nó có phải cá thể .”


      Billy nhìn về phía Machiavelli trân trân nhìn. “Vậy thành phố này là cộng đồng những người ông thể chỉ mặt điểm tên, hay là những cá thể sống tách rời?”


      “Sao cậu lại hỏi thế?”


      “Vì tôi nghĩ ông có vấn đề gì trong việc giữ lời hứa với Chủ nhân Elder của ông và Quetzalcoatl và thả lũ quái vật vào trong cộng đồng thể chỉ mặt điểm tên trong thành phố”


      “Cậu đúng. Trước đây tôi từng làm thế.”


      “Nhưng nếu ông nhìn nhận là tập hợp những cá thể...”


      lại khác,” Machiavelli đồng tình.


      “Ai câu này nhỉ, ‘người ta hứa vì trong quá khứ người ta cần làm thế, còn tại làm lời hứa bị hủy bỏ’?”


      Người Ý liếc nhìn người Mỹ bất tử rồi cúi đầu xuống. “Tôi tin là tôi câu đó...lâu lắm rồi.”


      “Ông cũng viết rằng “Hoàng tử bao giờ thiếu lý do chính đáng để thất hứa,” Billy và cười toe toét.


      “Đúng là tôi cũng câu đó. Tôi ngạc nhiên về cậu đó, Billy.”


      Billy nhìn thành phố rồi nhìn người Ý. “Vậy ông thấy thành phố này như thế nào?”


      “Là những cá thể,” Machiavelli thầm.


      “Lý do đó là đủ để phá bỏ lời hứa với chủ nhân Elder của ông và con quái vật đuôi chim kia chưa?”


      Machiavelli gật đầu. “Đủ.”


      “Tôi biết ông thế.” Người Mỹ bất tử vươn tay ra nắm chặt bàn tay người Ý. “Ông là người tốt đó Niccolo Machiavelli.”


      “Tôi nghĩ thế. Lúc này tôi thấy mình là waerloga. kẻ phá vỡ lời thề. thầy phù thủy.


      “THầy phù thủy.” Billy the Kid nghiêng đầu. “Tôi thích thế. Tôi nghĩ tôi cũng trở thành thầy phù thủy đó.”




      CHƯƠNG BA MƯƠI SÁU

      Scathach biết mọi vấn đề đều có cách giải quyết.


      Tuy nhiên giỏi giải quyết vấn đề. Đó luôn là biệt tài của chị . Aoife là nhà chiến lược; Scathach thích tấn công trực diện luôn. Thi thoảng tấn công thẳng vào căn cứ của quân địch khá tốt. cứu Joan theo cách đó. Nhưng số vấn đề lại cần giải quyết theo đường vòng. Và Scatty chẳng bao giờ đường vòng.


      Nữ Chiến binh ngồi ở cửa buồng giam, chân đu đưa, mắt nhìn xuống dòng nham thạch lục bục bên dưới. ước gì chị ở bên . Aoife biết cần làm gì. Bóng tối đung đưa chân, đánh nhịp chân vào vách đá, sau đó ngửa mặt lên nhìn bầu đầu. Trước hôm qua hề nghĩ gì tới chị nhưng giờ lại nghĩ suốt. ràng khi ở đảo chỉ vài dặm cách chỗ bố mẹ và trai sinh sống khiến nghĩ tới gia đình. Và dù thừa nhận điều đó, nhưng thực Scathach đơn. Ờ cũng có những người bạn loài ngươi, nhưng họ già và chết ; cũng có khá nhiều người bạn bất tử - gia đình Flamel giống bố mẹ hơn cả bố mẹ ruột của – nhưng kể cả những người bất tử già nhất cũng biết những thứ làm và những nơi tới. Trong cả thiên niên kỷ, có ai để trò chuyện tâm . Joan gần giống chị em với , nhưng Joan mới sinh vào năm 1412 – ấy chỉ mới năm trăm chín mươi lăm tuổi. Scathach sống trái đất nhưng hai ngàn năm trăm năm, và còn thêm bảy ngàn năm du ngoạn khắp các Vương quốc bóng tối khác. Chỉ có chị mới hiểu sống quãng thời gian dài như thế là thế nào.


      thấy mình mấy khi nghĩ tới việc Aoife ngừng nghĩ về . Thi thoảng cũng nghi ngờ chuyện đó; Aoife Bóng tối thường chỉ quan tâm tới bản thân mình.


      Giờ Aoife ở đâu? Chị ấy vẫn ở Vương quốc Bóng tối trái đất chứ? Scathach nhắm mắt lại và tập trung nghĩ tới chị. Trong vài lần hiếm hoi trước đây, thi thoảng cũng nhìn thoáng qua những gian và con người. biết liệu mình có kết nối gì với chị song sinh . Nhưng lần này thấy gì...chỉ màn đen trống rỗng. Nữ Chiến binh nhíu mày. Nếu kết nối với chị, liệu đó có phải cái chị thấy ? Scathach cảm thấy khá rằng đứng trong gian tối đen mênh mông...nhưng chỉ có mình. Còn có thứ khác ở đây nữa. Có thứ gì đó di chuyển trong gian này. Thứ gì đó to lớn, biết phun xì xì, kêu lục cục. Thứ gì đó cổ xưa và độc ác.


      chịu nổi cái nóng của núi lửa, vẫn thấy rùng mình.


      Chị gặp rắc rối ư? Đó hầu như là chuyện tưởng. Aoife ít nhất cũng nguy hiểm chết người như Bóng Tối. Chị ấy nhanh nhậy và tàn nhẫn, chị ấy biết xót thương cho con người...trừ người duy nhất: Niten –Miyamoto Musashi. Bóng tối vô thức gật đầu. Kiếm sĩ biết chị gáo ở đâu. Có thể - chỉ là có thể thôi – và nếu sống sót – tới gặp Niten và nhờ ta gửi tin cho Aoife. Có thể, chỉ là có thể thôi, đây là lúc để hàn gắn mối quan hệ.


      Scathach ngả người nhìn lên bầu trời tối dần. Màu xanh nhạt chuyển sẫm sang màu tím, những ngôi sao đầu tiên bắt đầu nhấp nháy bầu trời. hầu như có thể nhận ra tất cả.


      luồng sáng đỏ thẫm vụt qua khiến chú ý.


      Lúc đầu nghĩ đó là sao băng; nhưng sau đó nhận ra đó là vinama chuyển động êm ru bầu trời, phản chiếu ánh sáng đỏ từ nham thạch bên dưới. Hết cái này rồi cái kia tiếp nối. Bản năng sống sót khiến đứng bật dậy, ở phía bên kia núi lửa thấy Saint-Germain cũng đứng lên. ta cũng biết có gì đó bất thường. Scathach quan sát từng chiếc đĩa bay bay qua bay lại trong suốt mấy tiếng qua chở các tù nhân tới, và vừa rồi là thả bánh mỳ mốc và nước chua lè xuống các xà lim. số bánh mỳ và nước uống khơi rơi vào các xà lim mà tìm đường thẳng xuống sông nham thạch. Tuy vậy các anpu phi công cũng chẳng để ý mấy tới việc tù nhân no đói ra sao.


      “Joan!” Scathach hét.


      “Em thấy thấy rồi,” Joan of Arc vọng xuống. Khuôn mặt xuất ở gờ núi ngay đầu Scathach. “Em thấy mười hay mười hai...”


      Scathach nheo mắt nhìn lên bầu trời đêm. “Tám...mười...mười hai – , là mười ba. Mười bốn,” kết thúc. “chị nghĩ có mười bốn cái.”


      Bên kia núi lửa Palamedes vẫy . Khi ông biết chú ý, vị hiệp sĩ Saracen nắm duỗi bàn tay ba lần.


      “Mười lăm,” Scathach hét lên với Joan “Palamedes đếm có mười lăm cái.”


      “Vậy kế hoạch thế nào?” Joan hét.


      “Còn phụ thuộc...”


      “Vào cái gì?”


      “Vào việc chúng tới đâu trước. Chị nghĩ chúng tới chỗ chị hoặc Palamedes.”


      “Rồi sao?”


      Scathach cười toe toét để lộ hàm răng ma cà rồng. “Ờ, chỉ có cách thoát ra khỏi mấy nhà lao này là bằng vimana. Vì thế chúng ta phải kiểm soát được trong số chúng.”


      “Kế hoach hay đó,” Joan mỉa mai . “Thế chị đơn thương độc mã đánh bại hai anpu trong khi vẫn giữ vinama bay. Thế còn mười bốn chiếc còn lại sao? Chị nghĩ nó bay tại chỗ à?”


      “Chị đó là kế hoạch. Chị có đấy là kế hoạch hoàn hảo đâu.”


      “Em nghĩ kế hoạch của chị sắp thay đổi rồi,” Joan hét lên.


      chiếc vimana xuất . Chiếc này lớn hơn, nhìn từ sau nó giống hình tam giác dài dẹt. Bề mặt nó bên phản chiếu bầu trời đêm còn bên kia sáng lên màu đỏ của nham thạch hất lên khiến cho các đường nét rất khó phân biệt. Nó gầm rú bên những đĩa bay hơn. Đột nhiên nó bật sáng, các ánh sáng màu xanh lơ, xanh lam, đỏ bừng sáng ở ba điểm hình tam giác.


      “Chiếc vinama Rukma đấy,” Scathach bằng thứ ngôn ngữ của thời tuổi trẻ. “Chiến thuyền. vào trong xà lim ngay!”


      Sau đó chiếc vinam hình tam giáp hạ cánh xuống miệng núi lửa.











      CHƯƠNG BA MƯƠI BẢY

      Mars Ultor lao vào Prometheus với thanh đoản kiếm sắc như dao cạo. Tay Niten vung lên nhanh như chớp chụp lấy cổ tay Mars. Bàn tay vị Elder co lại rồi tự động mở ra. Niten tóm lấy lưỡi dao rơi. Đột nhiên nó lại kề vào cổ họng Mars.


      Niten nghiêng đầu sang phía. “Từng có thời tôi thể lại gần được ông. Nhưng giờ ông già rồi.”


      Mars nhe những chiếc răng khi nở nụ cười nguy hiểm. “Nhanh đó. Nhanh như ta chưa bao giờ được nhìn.” Sau đó ông ta cà nhắc lên bậc thềm.


      Niten ném lưỡi kiếm cho Prometheus và bước xuống đưa tay cho vị Elder. “Được đấu với ông là vinh hạnh cho tôi.”


      “Chúng ta đấu!” Mars bước lên nhanh chóng, dúi đầu vào bụng Niten khiến ngã ra sau. Kiếm sĩ lộng vòng lấy thăng bằng về về thế tấn.


      “Dừng lại. Ngay lập tức!” Tsagaglalal vỗ đầy Niten khi qua Prometheus và nắm lấy tai Mars Ultor. Bà véo tai khiến ông ta kêu oai oái. “Đây là cho ông – ta sao về việc đánh đấu rồi hả?”


      Mars Ultor đỏ bừng như luồng điện của mình. “Xin lỗi, thưa Bà Tsagaglalal,” ông lẩm bẩm .


      Bà lão nhìn Niten và chỉ vào nhà. “Vào trong ngay.”


      “Ông ấy khơi mào,” .


      “Ta cần biết ai khơi mào. vào nhà rửa tay . Bẩn lắm rồi. Cả ông nữa,” bà quát Prometheus. “Và ông đưa nó cho tôi,” bà , giơ tay ra lấy thanh kiếm.


      Prometheus cố lắm mới giữ được bình tĩnh. Ông đưa thanh kiếm trước mặt bà và . “Đây thưa bà,” ông cúi đầu.


      “Để cái bàn ra ngoài vườn. Chúng ta mời những vị khách uống trà.” Bà quay lại cười với Odin, Hel và Chim Ưng Đen đứng bên dưới. “Mấy người ở lại uống trà nhé.”


      ai gì.


      “Đó phải lời đề nghị đâu,” bà thêm. Trong giọng bà đột nhiên trở nên sắt đá.




      CHƯƠNG BA MƯƠI TÁM

      Perenelle Flamel bước từ cửa sổ về chỗ chồng. “ tin em nếu em với em vừa thấy gì đâu,” bà bằng thứ tiếng Pháp cổ.


      Nicholas Flamel đứng trước gương, cẩn thận cao bộ râu ria ba ngày tuổi má. “Em vừa mang trở về từ cõi chết. Em cũng tin.”


      Perenelle ngồi cuối chiếc giường cao hơn bà khiến chân bà dung đưa mặt sàn. “Ba Elder và người bất tử vừa xuất . trong số đó đeo băng bịt mắt,” bà thêm.


      Nicholas cười toe toét. “Odin. Tới để tìm Dee. CÒn ai nữa?”


      trông kỳ lắm. Em nhìn mặt nhưng hình như ta bị bệnh với những nốt đen trắng sưng tấy...”


      “Hình như là Hel,” Nicholas nín thở. “Odin và Hel cùng nhau. Thế Dee gặp rắc rối to rồi. Còn ai nữa?”


      Elder to lớn mặc áo khoác da. Em chưa từng gặp ông ta. Nhưng khi ông ta thấy Prometheus, ông ta cầm thanh đoản kiếm vao vào ông ấy.”


      Nicholas mỉm cười. “Người đó có thể là bất kỳ ai – Prometheus có rất nhiều kẻ thù, nhưng chỉ có số ít còn sống,” ông thêm. “Còn người bất tử?”


      “Em chắc, nhưng gương mặt ông ta khá quen.” Perenelle nhíu mày cố nhớ. “Người Điêng. phải ông bạn Geromino của .” Bà vội .


      cũng nghĩ thế,” Nicholas khi chướt kem cạo râu khỏi cằm. “ ấy bao giờ xuất cùng Elder Bóng Tối.” Ông quay sang vợ và giang tay ra. “Trông thế nào?”


      “Già.” Perenelle nhảy khỏi giường và vòng tay quanh chồng ôm ông chặt. Những ngón tay bà lần theo những nếp nhăn trán ông. “Kể cả những nếp nhăn của cũng có nếp nhăn này.”


      “Ờ sáu trăm bảy mươi bảy rồi còn gì...”


      “Sáu trăm bảy mươi sáu,” bà sửa lại. “Vẫn còn ba tháng nữa mới tới sinh nhật –“ bà định nhưng dừng lại. Họ đều biết họ sống nổi tới sinh nhật tiếp. Perenelle quay nhanh để Nicholas nhìn thấy bà rơi nước mắt. Bà chỉ vào chồng quần áo ở cuối giường. “Phòng này từng là phòng của bố mẹ cặp sinh đôi khi ở thành phố. Quần áo kia là của bố chúng.”


      “Quần bò với áo phông của đâu?” Nicholas hỏi.


      cứu nổi.” Perenelle ngồi ở cạnh giường xem xét chồng mặc đồ. “ ngày thôi Nicholas, em cho ngày.”


      ngày có thể có nhiều việc xảy ra.” Ông nhàng . Ông mặc chiếc áo sơ mi đóng cúc vào. Cổ áo quá rộng còn tay áo dài tới tận đầu ngón tay ông. Perenelle giúp ông xắn tay áo trong khi ông đóng cúc, sau đó bà cầm con bọ ngọc bích ở bên cạnh lên. Bà buộc sợi dây quanh đó đeo vào cổ ông. Bà đặt tay lên con bọ và ấn vào ngực ông. Ông đặt tay lên tay bà. Luồng điện của họ nổ lách tách phát ra những tia lửa màu xanh và trắng, trong khi căn phòng tràn ngập mùi bạc hà.


      “Cám ơn,” ông .


      “Vì điều gì?” bà hỏi.


      “Vì cho thêm ngày.”


      “Em làm điều đó vì ,” bà cười . “Em làm thế vì lý do cá nhân.”


      Ông nhướn lông mày ý hỏi.


      “Em làm thế vì em. Em thể sống ngày .”


      “Chúng ta chưa chết,” ông nhắc nhở bà và cầm lấy tay bà. “Giờ chúng ta xem các Elder định làm gì. Dưới tầng im lặng tới đáng ngờ.”


      “Vì họ đều sợ Tsagaglalal. Họ biết bà ấy là ai.” Perenelle dừng lại và tự sửa. “Bà ấy là cái gì.”










      CHƯƠNG BA MƯƠI CHÍN

      “Tới lúc rồi,” Billy the Kid vỗ vai Josh và chỉ về phía Cầu Cổng Vàng.


      Josh cúi đầu ngắm nhìn những cơn sóng đập vào bờ. Những cơn sóng đập vào bờ tung bọt trắng xóa. Những cơn sóng như những con rắn liếm lấy bờ biển trước khi đập vào bờ đá. Nó chuyển động tinh tế qua lớp cát và đá rồi tan biến. Các cơn sóng tiếp nối nhau xô vào bờ. Josh nuốt nước bọt rùng mình. “Như rắn vậy.”


      “Trông cậu có chút xanh xao,” Billy the Kid , đứng mũi đá cạnh Josh.


      Cậu thanh niên hất đầu về những con sóng. “Chúng giống những con rắn. Và tôi ghét rắn.”


      “Tôi cũng chưa bao giờ ưa rắn,” Billy thừa nhận. “Tôi bị rắn đuôi chuông cắn khi còn . Tôi bị nhiễm độc và có thể chết nếu Chim Ưng Đen tới cứu.”


      “Nếu tôi có quyền quyết định,” Josh luôn, “ có rắn riếc gì hết.”


      “Tôi nghe thấy đó.”


      Josh rùng mình. Dù bây giờ mới là tháng Sáu nhưng những cơn gió khá mát mẻ và những giọt nước bay lên mặt cậu mát lạnh, nhưng cậu biết chỉ thời tiết khiến cậu thấy lạnh. ràng trong khí phảng phất điều gì đó ma quái. Kiểu xấu xi cổ xưa. “ gặp ông Ner...Nera...”


      “Nereus,” Billy hộ.


      gặp ông ấy chưa?”


      “Tôi nghe về ông ta, nhưng tôi chưa từng gặp ông ấy trước ngày hôm nay. Tôi chưa bao gặp nhiều các Elder, Thế Hệ Kế tiếp ở Miền Tây. Dee và Machiavelli là những người bất tử châu Âu đầu tiên tôi gặp.” ta vuốt tóc khỏi mặt. “Tôi quan tâm tới mỗi bản thân mình và làm vài việc trời ơi đất hỡi cho chủ nhân của tôi, Quetzalcoatl. Tôi cũng làm vài việc, như thể vệ sĩ cho vài kiện trong thành phố. Tôi phiêu lưu cùng Virginia vào vài Vương quốc Bóng tối phụ cận, nhưng hầu như chúng cũng chỉ là những bản copy của thế giới này, và chúng tôi cũng ít đụng độ với lũ quái vật.” ta chỉ vào những xà lim đằng trước và đằng sau họ. “Tôi chưa từng thấy những sinh vật thế này trước đây.”


      “Ông ta tới kìa,” Josh nín thở. Mặt nước rẽ làm đôi và ông ta ra. Trông ông ta khá giống mấy con quái vật xúc tu. Ngoại trừ cái đầu giống người bình thường mái tóc ông ta giống như những sợi rêu xoăn xoăn. Gương mặt ông ta to bè, xương gò má cao, xương hàm chắc khỏe với lớp râu dày chia làm đôi, lẫn với những sợi tảo biển.


      “Ông già của Biển cả đó,” Billy thầm. “ Elder.”


      “Trông ông ta cũng bình thường đó chứ,” Josh định , nhưng rồi Nereus nâng mình lên khiến cậu trai trẻ thấy phần dưới của Elder và tám chân bạch tuộc. Chỉ có điều, có gì đó ổn. Ba trong số những cái chân to tướng cụn lủn, trán ông có những vết cháy bỏng rộp xấu xí. Vị Elder mặc chiếc áo chắp từ tảo biển, sau lưng đeo chiếc đinh ba. Josh ho hắng còn Billy chùi nước mắt – khí vốn chỉ có mùi muối biển giờ hòa trộn cùng mùi cá ươn lâu ngày và mùi mỡ cá voi hỏng.


      “Nereus,” Dee vừa gọi vừa xuống rìa nước. “Đến lúc rồi. Chúng tôi đợi ông.”


      Ông già Biển cả vươn tay lên bờ đá cuội và mỉm cười với Dee khoe cả mồm đầy răng nhọn hoắt. “Loài người, ngươi quên sao. Ta trả lời cho ông.” Giọng ông ta nghe dính dớp và ẩm ướt. “Và ta đói,” ông thêm.


      “Ông dọa dẫm tôi ích gì đâu. Ông cũng thừa biết mà,” Dee đáp trả.


      Nereus lờ ta . “Vậy chúng ta ở đây để làm...” Vị Elder nhìn Machiavelli rồi Billy, Virginia và sau cùng là Josh. “Những người bất tử và Vàng tới đây để hạ màn cho thế giới. Đúng như lời tiên tri từ thời Khởi Nguyên.” Ông ta nhìn Josh. Luồng điện quanh người cậu lóe lên tạo thành bộ lưới giáp vàng kim bảo vệ cậu. “Còn cậu...cậu vẫn giống như tôi còn nhớ,” ông .


      Josh cố cười. “Tôi chưa từng gặp ông.”


      “Cậu chắc ?” Nereus hỏi lại.


      “Tôi chắc là tôi nhớ,” Josh . Cậu thấy hài lòng vì giọng mình run lắm.


      “Chủ nhân tôi ông tuân theo lời thôi,” Dee chen ngang.


      Nereus lờ và quay sang chuyện với Machiavelli. “Đến lúc chưa?”


      Người Ý gật đầu. “Tới lúc rồi. Ông mang nó theo ?”


      “Có.” Ông già đưa mắt nhìn từ Machiavelli sang Dee rồi lại nhìn người Ý. “Ai muốn kiểm soát Lotan?”


      “Tôi,” Dee bước lên bước và ngay.


      “Tất nhiên là ông,” Nereus vui vẻ . cơn sóng xô vào bờ đá mà bắn lên bao quanh cổ tay Dee nhấc lên trước. Người bất tử còn kịp hét lên. Virginia cũng dợm tiến tới, cây sáo nắm chắc tay. Nhưng cái nhìn của Nereus khiến chùn bước. “Đừng ngố thế. Nếu ta muốn chết, ta có thể quăng xuống vách đá làm thịt cho những con của ta.” Đằng sau ông, hàng tá những Nereid tóc xanh nổi lên vịnh, mồm mở rộng lộ ra những chiếc răng như răng cá hổ. “Và ta và ngươi tính toán chuyện ngươi làm lúc rồi. Gia đình rất quan trọng với ta.”


      “Ông phải Elder đầu tiên đe dọa tôi.” Nụ cười độc ác của Virginia Dare khiến khuôn mặt trở nên xấu xí. “Và ông biết chuyện gì xảy ra với người đó rồi đó.”


      Mùi cá ươn còn nặng hơn khiến cả Billy và Josh đều che miệng quay . Virginia quay đầu lại hít hơi dài. “Ôi sao tôi thích mùi của sợ hãi thế.”


      Nereus quay về phía Dee. “ món quà cho ngươi,” ông và đặt cho vật giống quả trứng vân xanh rồi nắm nó lại. Cơn sóng khóa chặt những ngón tay Dee. “Dù ngươi làm gì,” Nereus , “ngươi cũng được xòe tay ra.” Sau đó ông bóp chặt tay . Vỏ trứng vỡ ra.


      “Sao lại ?” Dee hỏi. Sao đó thở hổn hển, mắt lồi ra vì đau đớn.


      “Ờ đúng rồi,” Nereus lại vui vẻ , cười ác độc. “hình như Lotan cắn ông đó.”


      Dee rùng mình nhưng vẫn im lặng, đôi mắt xám nhìn trực diện vị Elder.


      “Ta phải công nhận là ông dũng cảm,” Nereus thậm chí còn cười rộng miệng hơn. “Vì vết cắn của Lotan còn đau hơn bọ cạp đốt.”


      Tiến sĩ trở nên trắng bệch, đôi mắt trở nên to so với đầu. Những giọt mồ hôi vàng rịn trán và khí tanh mùi lưu huỳnh. “Tôi đoán...” qua kẽ răng. “Tôi nghĩ là nó to hơn.”


      Billy nháy mắt với Josh. “Tôi cũng nghĩ thế đấy.”


      “Rồi thế,” Nereus cười lớn. “Nhưng trước tiên nó cần uống chút máu.” Giờ toàn bộ cơ thể Dee rung dữ dội. cố rút tay trái ra, nhưng cơn sóng của Nereus vẫn khóa chặt tay . “ khi nó nếm vị máu của ngươi, nó trung thành với ngươi. Sau đó ngươi kiểm soát được nó. Nhưng người phải hành động nhanh lên. Lotan cũng giống loài thiêu thân; quãng đời của nó rất ngắn. Ngươi có ba tới bốn giờ trước khi nó chết.” Cơn sóng của vị Elder rút và ông ta thêm, “Nhưng thế cũng đủ thời gian để bắt đầu hủy diệt thành phố của giống người rồi.”


      Josh nhìn ông già Biển cả lặc luốn làn nước xanh lạnh ngắt. Những đầu phụ nữ cũng biến mất theo ông, mái tóc xanh của họ trải ra như rong biển trôi mặt nước. Vị Elder quay đầu lại nhìn Josh. Ông ta nhíu mày như thể cố nhớ gì đó, nhưng rồi lại lắc đầu và chìm xuống dưới làn nước. Các Nereid cũng lần lượt biến mất.


      Virginia vội vàng tiến lên và đỡ lấy Dee còn lảo đảo. Da Pháp sư xám ngoét; tay trái vẫn còn nắm nhặt nhưng máu chảy tay chuyển thành màu tía đậm. “Giúp tôi với!” Virginia hét.


      Billy nhảy lên những vách đá và ôm quanh eo Dee giữ đứng thẳng. “Tôi đỡ được ông ấy rồi.”


      “Đưa ông ấy lên vách đá ,” Virginia .


      !” Machiavelli hét vang. “Đợi đó.” Ông tìm đường qua những tảng đá trơn trượt và dừng lại trước Dee. “Josh, qua đây giúp tôi.”


      Josh suy nghĩ mà trèo xuống những tảng đá, đứng cạnh người Ý.


      “Quan sát tôi nhé,” Machiavelli . Ông ta giơ tay ra và hai găng tay trang trí hoa văn ra. “Cậu làm được ?”


      “Dễ.” Josh duỗi tay ra, mùi muối biển ngấm mùi vỏ cam và hai chiếc găng tay vàng xuất .


      “Giữ lấy tay ông ta,” Machiavelli ra lệnh. “Và, dù chuyện gì xảy ra cũng được buông tay.” Ông nhìn Virginia và Billy. Họ đứng cạnh Pháp sư. “Mọi người sẵn sàng chưa?”


      Hai người bất tử nhìn nhau và gật đầu.


      “Josh?”


      Cậu trai trẻ gật đầu và nắm lấy tay Dee, kéo duỗi nó ra. Mùi lưu huỳnh của Pháp sư cháy xèo xèo và nổ lách tách ở nơi găng tay vàng chạm vào, nhưng mùi cam còn mạnh hơn mùi trứng thối. Machiavelli lật lòng bàn tay phải của Dee lên rồi cẩn trọng mở bàn tay ra. Bên trong lòng bàn tay ông ta là những gì còn lại của vỏ trứng vỡ. Ở giữa đó là con Lotan.


      “Trông giống con thằn lằn,” Josh và cúi xuống nhìn cho . Sinh vật đó xíu, chỉ dài chưa đến inch, có bốn chân, da xanh với đường thẳng chạy dọc khắp người. “Trừ những cái đầu,” cậu thêm. Bảy cái đầu giống hệt nhau vươn ra khỏi cơ thể với những cái cổ ngắn ngủn. Cả bảy cái đầu đều cắn vào lòng bàn tay Dee, phát ra thanh náo động khi hút máu .


      “Nếu tôi biết gì,” Billy the Kid đều đều , “tôi nghĩ Ông Già Biển Cả tính chơi khăm chúng ta.” ta hất hàm về phía những sinh vật bé tí giống như thằn lằn. “Làm thế này trông cũng khá kinh.”


      “Ôi Billy,” Virginia . “ định làm gì để nuôi thứ lớn lên?”


      Người Mỹ nhìn và nhún vai.


      Virginia lắc đầu tỏ ý vọng vì biết câu trả lời. “Chỉ cần tưới nước.”


      Sinh vật ngẩng bảy cái đầu bé xíu lên khi Machiavelli cẩn thận kéo chúng ra khỏi bàn tay đầy máu của Dee. Nó quẫy đạp điên cuồng, kêu the thé như mèo con mới sinh, các cái đầu đều nhắm thẳng vào tay người Ý, những chiếc răng xíu xắc như đầu kim cắn vào găng tay làm bằng luồng điện cứng lại. “Cái đồ bẩn thỉu,” ông lẩm bẩm. Ông giữ con Lotan cách xa cả cánh tay rồi thả nó xuống vũng nước tảng đá dưới chân.


      “Giờ sao?” Billy hỏi.


      “Giờ chạy,” Machiavelli .

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG BỐN MƯƠI


      Marethyu và Aten chạy nhanh xuống đường hầm hẹp. Những bức tường làm bằng thủy tinh đen sáng loáng đó là những bản ghi chép những loại ngôn ngữ chết. Chiếc móc câu sáng loáng tay Marethyu khiến bóng tối nhảy nhót từng con chữ.


      ,” Aten . Giọng ông vang vọng, va đập vào những bức tường hầm.


      Marethyu giơ móc câu lên và ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua những đường nét khuôn mặt Aten. “Ông muốn biết gì?”


      “Vì sao ngươi làm điều này?” Aten hỏi.


      Đôi mắt xanh sáng của Marethyu mở to vì ngạc nhiên. “Tôi được lựa chọn chắc?”


      “Mọi người đều có quyền lựa chọn.”


      Người đàn ông tay móc câu lắc đầu. “Tôi chắc tôi tin điều đó. Cuộc đời tôi được sắp đặt cách cả ngàn năm trước khi tôi sinh ra. Thi thoảng tôi nghĩ mình là diễn viên diễn vở kịch.”


      Đường hầm kết thúc bằng cái hang ngầm rộng mênh mông. Nước chảy tí tách trong bóng tôi, khí trong lành và sạch . Aten quay qua đối mặt với Marethyu. “Có lẽ ngươi là diễn viên, nhưng ngươi chấp nhận được quyền có nhận vai hay . Ngươi có ther dễ dàng từ chối và bỏ cơ mà.”


      Marethyu lắc đầu. “Nếu ông biết toàn bộ câu chuyện ông thế. Nếu tôi hoàn thành vai diễn thế giới này rất khác.”


      Vị Elder vươn tay tóm lấy chiếc móc câu nơi tay trái Marethyu. Nó tỏa sáng và kêu lách tách và sáng hơn. “Ngươi được sinh ra cùng với cái này.”


      .”


      “Sao ngươi mất bàn tay?”


      “Tôi chọn thế,” Marethyu , giọng cứng rắn hơn. “Đó là giá tôi phải trả, và tôi vui lòng trả giá.”


      Aten gật đầu. “Mọi thứ đều có giá của nó. Ta hiểu.”


      “Ông có hiểu cái giá ông phải trả khi để tôi trốn thoát ?”


      Đôi môi Aten cong lên thành nụ cười. “Anubis và Bastet dùng đây thành cái cớ tạo phản. Isis và Osiris tập hợp Hội đồng Elder để truất ngôi ta và có thể ném ta vào núi lửa.” Ông vỗ tay và hàng dãy đèn sáng lên trong hang động. Rồi ông vỗ tay cái nữa hang từ từ được chiếu sáng với ánh sáng ấm áp màu trắng sữa. “Nấm mặt hang nhạy cảm với tiếng động,” ông giải thích.


      cái hồ ở giữa hang. Làn nước đen lốm loang loáng những vệt nước trắng. chiếc vimana bằng pha lê đậu ở bờ hồ. Nó hầu như vô màu, chỉ có thể nhìn thấy do màu trắng của nó phản chiếu ánh sáng.


      “Hãy dùng cái này,” Aten . “Ta tìm thấy nó ở tảng băng nơi đỉnh thế giới. Có thể đây là vimana cổ nhất còn tồn tại. Trông nó mỏng manh thế thôi nhưng hủy hoại nó phải chuyện dễ.”


      Tiếng động đột ngột vang vọng ở đường hầm phía sau họ, những cây nấm chồi lên thụt xuống theo tiếng động.


      “Họ tới đó. và làm những gì ngươi cần làm.”


      “Ông có thể cùng tôi,” Marethyu đột ngột .


      “Chiếc vimana này chỉ chở được ngày. Và ngoài ra, phải ngươi vừa cái gì cũng có giá của nó à?”


      Tiếng bước chân tới gần hơn, tiếng kim loại và áo giáp khua lách cách do đập vào tường.


      Marethyu giơ tay phải bắt tay Aten. “Để tôi với ông điều này,” người đàn ông tay móc câu . “Chúng ta gặp lại nhau, ông và tôi, ở nơi khác tại thời điểm khác.”


      “Ông biết chuyện đó à?”


      “Tôi biết.”


      “Vì ông nhìn thấy tương lai?”


      “Vì tôi ở đó.”


      Anubis và những anpu xông ra khỏi đường hầm đúng lúc chiếc vimana cất cánh. Nó rú lên nho , người đàn ông tay móc câu nhìn thấy trong đó. Ông ta giơ bàn tay móc câu lên tỏ ý tạm biệt. Aten giơ tay lên đáp lạ và chiếc đĩa bay nên mình lên khỏi mặt hồ và biến mất,


      vừa làm gì thế?” Anubis gầm gừ. “ phản bội chúng tôi.”


      “Ta làm những gì cần để cứu thế giới.”


      “Bắt lấy ,” Anubis ra lệnh. Ông nhìn trai với vẻ tức giận khiến khuôn mặt cau có lại. “Waerloga,” ông ta phun phì phì.


      Vị Elder gật đầu đồng ý. “Thầy phù thủy Aten. Em có nghĩ nghe cũng kêu tai ?”




      CHƯƠNG BỐN MƯƠI MỐT

      Sophie Newman đứng trong khu vườn sau nhà cạnh lò nướng thịt và quan sát Prometheus nướng xúc xích. Vị Elder to lớn cười toe toét và huýt sáo chẳng theo điệu gì.


      “Sao ông vui thế?” hỏi


      “Cháu phải nhìn thấy vẻ mặt Mars cơ,” Prometheus đáp.


      “Các ông – giờ vẫn là – kẻ thù à?” hỏi, thậm chí khi hỏi, những hình ảnh bắt đầu nhảy múa trong đầu .


      Mars Ultor và Prometheus đứng đấu lưng chống lại những chiến binh đầu rắn.


      ....Prometheus cõng Mars bị thương nhảy khỏi cầu vào vùng nước xoáy...


      ....Mars bắn mũi tên xé gió bay trong khống khí, chỉ còn cách cổ họng Prometheus trong đường tơ kẽ tóc...


      “Có lẽ là bây giờ vẫn vậy. Chúng ta từng là bạn bè, còn thân hơn cả thủ túc.”


      “Rồi chuyện gì xảy ra?”


      “Ông ấy bị điên,” ông buồn rầu . “Hoặc đúng ra là thanh kiếm khiến ông ấy điên. Cùng thanh kiếm em trai cháu dùng đó.”


      Sophie nhìn ra vườn nơi người đàn ông mặc áo khoác da đứng dùng ống hút uống nước cam hồng. “Nhưng trông ông ấy đâu có điên.”


      phải lúc này.”


      “Sao ông ấy tấn công ông?”


      “Phức tạp lắm,” Prometheus , nhảy ngược lại vì hơi nóng tạt vào người ông.


      Sophie nhìn đống xúc xích và hamburger rồi quay ngay vì dạ dày nôn nao. Từ khi được Đánh thức, còn ưa thích gì thịt. “Phức tạp thế nào ạ?”


      “Ờ Mars cưới chị ta, Zephaniah thế nên chúng ta trở thành em rể. Nhưng khi gươm kiếm làm ông ta điên loạn, ta giúp chị trốn thoát và giam ông ta trong lớp vỏ điện cứng. Chị ấy chôn ông ta sâu trong lòng đất và trong hàng thế kỷ, thành phố Paris phát triển đầu ông ta.”


      “Sophie?” Dì Agnes xuất từ trong bếp, tay cầm chiếc khay.


      “Đợi cháu phút Dì...”


      “Ngay bây giờ, Sophie,” Tsagaglalal giục.


      “Xin lỗi ông nhé,” Sophie qua sân.


      Tsagaglalal đưa chiếc khay đựng sushi. “Cháu giúp ta mời khách nhé? Họ chắc đói lắm.”


      “Dì Agnes...bà Tsagaglalal,” Sophie . hoàn toàn bị làm cho bối rối. “Chúng ta làm gì đây?”


      “Cho những vị khách ăn,” bà lão cười .


      “Nhưng họ là những kẻ thù với loài người.”


      “Giờ họ biết giờ họ phải dẹp hằn thù sang bên,” bà . “Đó là truyền thống.” Bà lão nháy mắt vui vẻ. “Mọi chuyện nên như thế. Giờ giúp ta đưa thức ăn trong khi đợi Nicholas và Perenelle xuống nhé.”


      Sophie theo Tsagaglalal qua sân tới nơi Mars Ultor đứng dựa vào tường. Ông đứng thẳng dậy khi bà lão tới và hạ cốc nước xuống.


      “Thưa lệnh bà Tsagaglalal,” ông và cúi thấp xuống. Đôt nhiên đôi mắt ông như lớn hơn sau dòng nước mắt. “Thần nghĩ còn dịp gặp lệnh bà.”


      Bà lão đặt tay lên má ông. “Người bạn cũ của ta, ta mừng khi gặp lại ông. Ông gầy rồi. Như thế có vẻ hợp đó. Zephaniah sao rồi?”


      Mars gật đầu. “Bà ấy khỏe,” ông cẩn trọng . “Chúng thần...chúng thần trò chuyện nhiều. Bà ấy còn thần nghe khi cho thần biết cần làm gì.” Mars dừng lại và cười với chính mình. “Nó giống như hồi trước. Rồi bà ấy bảo tôi tới đây tìm Dee, nhưng trước tiên thần phải tới tìm lệnh bà. BÀ ấy lệnh bà có gì đó cho thần.”


      Tsagaglalal gật đầu. “Ta có. Ta đưa nó cho ngươi trong lúc nữa, nhưng trước tiên ta muốn ngươi gặp...”


      “Chúng cháu gặp nhau rồi,” Sophie chen ngang với giọng lạnh lùng. vẫn nhớ sinh vật trong hầm mộ dưới chân Paris. “Mars Ultor, người còn được biết với tên Ares, Nergal và Huitzilopochtli.” nhìn Tsagaglalal. “Ông ấy Đánh thức Josh ở Paris.”


      Tsagaglalal xoa tay Sophie. “Ta biết. Sophie à, cháu đừng đánh giá ông ấy bằng trí nhớ của Bà phù thủy, hoặc bằng những gì ông ấy buộc phải làm ở Paris. Khi Danu Talis sụp đổ, Mars ở lại tới phút cuối để giúp những nô lệ loài người an toàn. Ông là là những người cuối cùng còn ở lại đảo.”


      Sophie lại nhìn Mars. “Bà phù thủy nhớ đến ông như con quỷ.”


      “Đúng là thế. Ta là thế. Nhưng là do thanh Clarent đầu độc ta,” Mars . “Nó làm thay đổi tính cách ta. Giờ em trai cháu cầm nó. Trừ khi cháu lấy được nó khỏi tay cậu ấy nó cũng biến đổi cậu ấy.”


      “Tôi lấy nó ,” Sophie thuần khiết , rồi giọng trở nên run rẩy. “Tôi biết cậu ấy ở đâu.”


      “Ở Alcatraz. Cháu nên nhớ cậu ấy và ta có mối kết nối.” Ông cúi đầu và nhắm mắt, lỗ mũi phập phùng vì hít hơi sâu. “Ta có thể ngửi thấy mùi cậu ta và những người ở cùng cậu ta: Dee và Machiavelli, người bất tử có mùi như cây xô thơm...”


      “Đó là Virginia Dare,” Tsagaglalal .


      Odin, Hel và Chim Ưng Đen nối đuôi qua sân và đứng quanh Mars khi ông .


      “...còn người nữa, người đàn ông, trẻ, có mùi ớt đỏ,” ông tiếp tục.


      “Đó là bạn tôi, Billy the Kid,” Black Hawl ra.


      “Ông có chắc Pháp sư ở đảo ?” Odin hỏi, giọng khàn khàn, mỗi từ thốt ra đều nặng nhọc.


      “Tôi chắc.” Mars hít hơi nữa. “Còn người nữa.” Mặt ông cau vào vì kinh tởm. “Ờ, đó là mùi tanh của Nereus.”


      Prometheus khỏi bàn nướng mang theo hai đía, chồng đống hamburger, đĩa kia đứng mấy cái xích xích được xiên que qua.


      Sophie quan sát Mars cứng đơ người lại khi Prometheus bước tới. Rồi thấy Tsagaglalal vươn tay ra nắm lấy tay Mars. Bà lão hạ giọng nhưng vẫn nghe thấy. “Ngươi là khách trong nhà ta. Ta muốn ngươi cư xử cho phải phép.”


      “Tất nhiên, thưa lệnh bà,” Mars lầm bầm. Ông hất đầu về phía Prometheus cười đáp lại. “Có chuyện gì với tóc ông thế?” ông ta hỏi.


      “Tôi già ,” Prometheus . “Tôi thấy là giống ông.” Ông đưa hai đĩa thức ăn ra. Ai cũng lắc đầu trừ Mars và Hel. Mars cầm cây xúc xích lên, ngửi mùi thơm của nó và nhấm nháp từng chút. “Đây là loại thức ăn đầu tiên của tôi trong suốt cả thiên niên kỷ,” ông thừa nhận.


      Hel vươn người và mở miệng. Cái lưỡi dài đen xì thò ra và cuốn lấy miếng bánh hamburger dày. lôi tất cả vào mồm. Hai cái răng nanh thòi ra xé tan nó ra. Nước trái cây và nước mắt đen chảy xuống cằm khi ta cười với Sophie. “Tôi ăn chay.”


      “Tôi đoán là thế rồi,” Sophie nhìn nhanh sang chỗ khác, và dằn cơn buồn nôn xuống.


      “Chú làm cái đó tái cho cháu đó,”


      “Chú vẫn nhớ à,” Hel khàn khàn .


      “Ờ nếu cháu còn nhớ lần cuối cùng gặp nhau cháu định chén ta.”


      “Cháu cũng định nấu chú lên trước.”


      Odin cầm cái sushi và khăn giấy lên. Ông bỏ miếng cá hồi và bao phần cơm vào trong khăn giấy.


      Chim Ưng Đen gật đầu cảm ơn khi nhìn vào đĩa. “Kia là cá tuyết cay nhỉ?”


      Sopjhie gật đầu. “Có vẻ như thế.”


      “Tôi ăn cá hồi. Tôi ăn được đồ cay.”


      Niten xuất cùng hai đĩa sushi nữa. “Mới làm xong đây,” tuyên bố. “Tôi làm theo ít nữa đây,” với Odin và chỉ vào mấy miếng cá trắng đỏ. “Đây là cá ngừ và cá hồi.” nhìn lại Chim Ưng Đen. “Đây là dưa chuột cuộn cá tuyết cho . cay đâu.”


      “Trí nhớ tốt .” Chim Ưng Đen mỉm cười.


      “Tất nhiên rồi.”


      Sophie nhìn hai người bất tử. vẫn thấy việc người điêng kia và Kiếm sĩ biết nhau lạ thường. “Hai người biết nhau à?”


      “Chúng tôi gặp nhau trăm ba mươi năm trước,” Niten .


      Chim Ưng đen gật đầu tỏ ý đồng tình. “Sau trận chiến ở Greasy Grass năm 1876.”


      “Tôi vẫn nhớ thời kỳ đó,” Niten lẩm bẩm. “Thời đại của những chiến binh.”


      Sophie cầm trong những khay thịt lên và đưa cho Hel. Vì Elder gật đầu cảm ơn và lấy hai miếng hamburger cầm ở hai tay trước khi dùng lưỡi cuốn lấy chiếc thứ ba. “Chúng tôi phải qua vài cổng vòm trước khi tới được đây,” nhồm nhoàm giải thích, phun vụn bánh khắp nơi. “Và biết nó khiến người ta thế nào rồi đấy – chúng khiến ta đói ra ruột.”


      Sophie lùi xa nhóm người vào nhà cùng với cái khay trống. dừng lại trước cửa và nhìn lại. ngay lập tức bị choáng vì cảnh tượng kỳ lạ này. Niten chuyện với Chim Ưng Đen, Mars Ultor và Prometheus thảo luận sôi nỏi, trong khi Odin và Hel chăm chú lắng nghe Tsagaglalal. Cảnh tượng này giống bao nhiêu bữa tiệc nướng khác, với đồ uống và mùi thức ăn. Nhưng trong số những nhân vật ở đây sống hơn mười ngàn năm và khác xa loài người.


      “Có thể đây chỉ là giấc mơ,” . “và mình sắp tỉnh dậy rồi.”


      “CÒn hơn cả cơn ác mộng đó,” giọng nữ bình thảnh trả lời. “Và cháu còn chẳng nằm mơ nữa.”


      Sophie quay lại nhìn thấy Nicholas và Perry đứng trước cửa.


      “Gặp lại cháu tốt quá Sophie ạ,” Nicholas . “Và Perenelle với chú rằng chú nợ cháu rất lớn. Cháu giúp ta sống lại.”


      Sopie gật đầu chắc mình nên đáp lại thế nào. “Cháu...rất vui được giúp,” . quay đầu về sau. “Cháu nghĩ về cái nhóm kỳ lạ kia. Odin và Hel và những kẻ thù, Prometheus và Mars chuyện với nhau cả mấy ngàn năm nay, cháu còn biết Niten và Chim Ưng Đen biết nhau.”


      “Đây mới là lạ này,” Nicholas nối theo. “họ chuyện lịch kề dao vào cổ nhau.”


      “Vì sao lại thế?” Sophie hỏi. để ý Nicholas mặc áo sơ mi và quần kaki của bố , trong khi Perenelle mặc quần bò có vẻ quá ngắn và áo sơ mi cổ cao tay dài giống như của mẹ . cảm thấy tực giận với dì – à , phải dì , mà là Tsagaglalal – cho họ dùng đồ của bố mẹ .


      Cả nhóm cũng dần dần để ý Nicholas và Perenelle đứng trước của nhà bếp quan sát họ, và tất cả im lặng khi họ quay qua nhìn Nhà giả kim và vợ ông. Nicholas cầm cốc nước từ tay Perenelle và nâng lên tỏ ý chào mừng.


      “Tôi tin nổi vào những trùng hợp này,” ông vừa vừa bước vào vườn. “Tôi bắt buộc phải nghĩ mọi người có lý do mới tới đây.”


      Tsagaglalal bước lên phía trước. “Đúng đó. Và nếu ông ngồi xuống, tôi cho ông biết lý do.”


      “Vậy là cuộc đoàn viên kỳ lạ này là có lý do?” Prometheus hỏi.


      “Dạng thế,” Tsagaglalal . “Chồng ta và Chronos tiên đoán được chuyện này cách đây mười ngàn năm. Abraham đưa tôi vài thứ giành cho mọi người.” BÀ mở chiếc hộp bìa cứng bàn và lôi nệm rơm. “Tôi bảo vệ những tấm ngọc lục bảo này cả đời,” bà và bắt đầu lôi ra những tảng đá xanh mỏng dẹp và đưa cho những người xung quanh. “Prometheus, đây là cho ông. Đây là của cậu Niten...”


      “Chúng là gì thế?” Sophie hỏi.


      “Những lá thư đến từ quá khứ,” Tsagalglal . “Chồng dì viết chúng mười ngàn năm trước.”


      “Ông ấy biết tất cả mọi người ở đây?” Sophie nghi ngờ hỏi.


      Tsagaglalal quay lại và gật đầu. “Đúng thế” Rồi bà lôi ra tấm ngọc lục bảo cuối cùng và đưa cho . “Và ông ấy cũng biết cháu ở đây, Sophie Newman.”





















      CHƯƠNG BỐN MƯƠI HAI

      Sophie nhìn tấm ngọc lục bảo. Nó rộng khoảng hai inch, dài tám inch. Nó mát lạnh trong tay . Cả hai mặt tấm ngọc khắc những con chữ hẹp chưa từng thấy bao giờ: những hình tam giác, bán nguyệt, nét xiên, hơi giống những ký hiệu toán học và những dấu cách. thể nào hiểu được.


      lật tấm ngọc và lướt những ngón tay bề mặt trơn bóng của nó, theo những con chữ khắc theo chiều ngang. Luồng điện bạc của tạo thành những vệt tấm bảng khiến nín thở. NHững con chữ nhảy múa và hình thành hình thành lại tấm bảng đá. những ra dạng chữ hình nêm của Ba Tư, chữ tượng hình Ai Cập và chữ chạm khắc của người Aztec, chữ Ogham của người Celt, chữ tượng hình Trung Quốc, chữ Arab, rồi Hy Lạp và chữ Rune của người Nóc-măng...và cuối cùng là tiếng .


      Đó là lá thư


      *****




      Ta là Abraham của Danu Talis. Ta thường được gọi là Nhà Thông thái. Ta muốn gửi lời chào tới Bạc.


      Ta biết rất nhiều về con. Ta biết tên, tuổi con. Ta cũng biết con là nữ. Ta theo tổ tiên của con suốt mười ngàn năm. Con là phi thường, là người cuối cùng trong những người phụ nữ phi thường.


      Con sống ở thế giới ta thể hiểu nổi, cũng như ta sống ở thời kỳ con thể tỏ tường. Nhưng chúng ta được liên kết với nhau, con và ta, nhờ tấm bảng này. Ta khắc nó bằng tay và ta mong rằng người vợ thân của ta đưa nó cho con.


      Ta ngồi tòa tháp của rìa Danu Talis viết lá thư này. Lịch sử đặt cho hòn đảo này những cái tên khác nhưng đây chính là cái tên đầu tiên của nó, cái tên của nó. Con nên biết thế giới của con và của ta là nhưng cách nhau ngàn năm. Hơn nữa con nên tin rằng ta mong gì hơn ngoài những điều tốt nhất cho cả hai thế giới. Ta tin Tsagaglalal quý của ta giao bức thư này cho con cho dù mất bao nhiêu lâu. Tới khi con đọc lá thư này, bà ấy bảo vệ và chăm sóc mẹ con, bà con và những nữ nhân trong họ tộc con từ khi họ tộc con bắt đầu. Và trai bà ấy làm điều tương tự cho những nam nhân.


      Con cần phải biết: thế giới của con bắt đầu với cái chết của ta.


      Nhưng con cũng nên biết trong số dòng thời gian khác thế giới của ta hề sụp đổ. Và trong những dòng thời gian đó, thế giới của con chưa bao giờ tồn tại, và những dạng sống khác nắm quyền kiểm soát trái đất.


      Cũng có những dòng thời gian khác mà các lực lượng đen tối kiểm soát đảo Danu Talis. Như thế loài người mãi và nô lệ tới khi họ tuyệt diệt và bị thay thế bởi giống loài khác.


      Lại trong những dòng chảy thời gian khác, thế giới của cháu – thế giới đại với tất cả những công trình bằng kính và kim loại sáng bóng, cùng với những thứ vũ khí hủy diệt – rơi vào hỗn loạn và những đêm đen.


      Cũng trong những dòng chảy khác, thế giới cháu tự nhiên có. Thế giới chỉ có đất cát, đá còn hành tinh và mặt trăng của cháu như hành tinh bình thường chuyển động trong vũ trụ.


      Ta luôn biết rằng định mệnh của thế giới này – thế giới của ta và con – tùy thuộc vào hành động của mỗi cá nhân. Hành động của chỉ người có thể thay đổi vận mệnh của cả thế giới và tạo lập nên lịch sử.


      Con là trong những cá nhân đó.


      Con có sức mạnh. bạc – cũng quyền năng như ta từng được thấy. Và con cũng dũng cảm. Đó là điều hiển nhiên.


      Con có sức mạnh để thay đổi lịch sử, nhưng để làm được con cần phải tin ta. Ta biết chuyện này khó vì ta biết con tin ai ngoại trừ em trai song sinh, và theo những gì ta biết con và em con bị tách rời. Nếu điều này có thể an ủi con con và em trai con rồi trùng phùng chỉ thời gian ngắn nữa. Ta cầu con tin người con chưa từng gặp, người viết cho con lá thư từ mười ngàn năm trước, người sống ở thế giới vượt xa tầm hiểu biết của con. Nhưng nếu con tin ta và làm những gì cần làm, và nếu con thành công, con cứu được thế giới. chỉ thế giới của ta và của con mà còn tất cả những Vương quốc Bóng tối con chưa từng biết và mọi cá thể sống ở đó. Hàng tỉ những sinh mạng nợ con mạng sống của họ.


      Nếu con thất bại, hàng tỉ sinh mạng đó còn.


      Nhưng ta phải với con rằng con phải trả giá cho thành công. Con phải trả giá đắt. Trái tim con tan vỡ hàng ngàn lần và con nguyền rủa ta từ giờ và mãi mãi.


      Thế nên con phải lựa chọn. ngàn năm trước khi ta biết tấm bảng này, ta tiên đoán được ngày tàn của thế giới. Hai là là tất cả. cứu thế giới, hủy diệt nó.


      Con là ai, Sophie Newman?


      Con chọn là ai?

































      CHƯƠNG BỐN MƯƠI BA

      Josh Newman nhìn vũng nước dưới chân. “Làm gì có gì...” cậu dợm ...nhưng rồi dừng lại – tất cả nước trong vũng đột nhiên biến mất. Cậu có thể thấy sinh vật xíu màu xanh quẫy đành đạch như thể cá ra khỏi nước. Josh nheo mắt nhìn; hình như nó phồng lên? Con Lotan rùng mình, cào lên đá và cát. Và rồi Josh nhận ra rằng nó lớn lên, gấp đôi rồi gấp tư.


      Chỉ trong giây con Lotan lớn lên từ vài inch tới chiều dài bằng cả bàn chân.


      Từ mười hai inch lên tới ba feet trong giây nữa.


      Nó càng lúc càng to hơn, giống con rồng Komodo hơn. Cái lưỡi vàng chẽ đôi thò thụt từ cả bảy cái mồm. Khi nó ngửng đầu nhìn trời xanh, hơi thở của nó sặc mùi thịt thối và những thứ chết lâu ngày dưới đáy biển.


      Con Lotan lại co giật, vụt lớn gấp đôi. Giờ nó dài sáu feet...


      “Chúng ta cần ra khỏi đây,” Billy giục. và Virginia vẫn giữa Dee. “Nhìn những chiếc răng kia kìa – con này ăn thịt. Và chúng ta là món thịt gần nhất.”


      ...Mười hai feet.


      Cả bảy cái đầu nhìn thẳng vào năm người, mười bốn đôi mắt đen sì nhìn họ chớp. Và nó phóng nhanh về phía trước – gần như khó nhìn thấy – rồi dừng lại ở giữa.


      thôi!” Billy hét.


      !” Dee hổn hển .


      Josh hoảng sợ nhìn con quái lắc mình dữ dội, lớn hơn 24 feet, giờ nó phải bằng chiều dài của xe kéo bằng dây cáp chạy trong thành phố.


      “Con này còn lớn thế nào nữa?” Billy hỏi.


      “Chúng ta làm chậm tiến độ phát triển lại.” Virginia vẫn giữ lấy Dee vừa lôi thanh sáo ra bằng tay kia và đặt lên môi. thanh quá cao so với ngưỡng nghe của loài người và khiến khí rung động ở mức nhất. Ba con hải âu gần đó rơi xuống nước, nhưng con Lotan vẫn bị ảnh hưởng. Nó tới gần hơn, cả bảy cái miệng mở ra để lộ những chiếc răng sắc nhọn.. Nước bọt mùi khó ngửi rơi xuống những tảng đá.


      Dee ho thành tiếng cười, rồi khi giọng chỉ là tiếng thầm khó nghe. “Nó điếc. Cây sáo ma thuật của em có ích gì đâu.”


      “Em cũng đoán được rồi,” Virginia lẩm bẩm.


      Làn da xanh của Lotan chen thêm vài màu đỏ và đen vằn vện khắp người. NHững màu sắc chạy lên đầu con vật, chuyển thành màu đỏ thẫm, trừ đỉnh đầu vẫn là màu đen đặc.


      Josh nắm và duỗi những ngón tay và găng tay vàng cậu lại hình thành tới cánh tay, bảo vệ chúng trong lớp kim loại.


      Cả bảy cái đầu đều tập trung vào cậu trai trẻ.


      “Josh,” Machiavelli vẫn rời mắt khỏi con Lotan. “Tôi đề nghị cậu nên dừng ý định lại . Ngay!”


      “Tôi dùng luồng điện bảo vệ mình,” Josh bắt đầu.


      Dee lắc mình khỏi Dare và Billy. Khuôn mặt xám ngoét của Pháp sư có chút màu sắc, nhưng đôi mắt vẫn tối tăm và vẫn ôm cánh tay sưng phồng. bước lên trước sinh vật giơ đầu chuẩn bị cho cú táp. Rồi bảy cái mũi cùng đánh hơi và bảy cái lưỡi nếm khí. “Lotan chỉ ăn thịt. Nó giống với ma cà rồng – nó hút luồng điện từ bất cứ sinh vật sống nào.” nhìn Machiavelli. “Ông có dám duỗi tay ra ?”


      “Tôi dám nhưng tôi ngốc thế,” Machiavelli , mắt vẫn dán vào con vật.


      Billy ngay lập tức duỗi bàn tay trái và gian ngập tràn mùi ớt đỏ. Luồng điện màu đỏ tía bao quanh tay người bất tử.


      Lotan rùng mình, cả bảy cái đầu đều chuyển chú ý sang cậu, lưỡi cứ thế thò thụt. Billy đột nhiên càu nhàu và bước lên, luồng điện của cuộn lại và bôc showi khỏi cánh tay về phía sinh vật. Những chiếc lưỡi vàng liếm lấy luồng khí đỏ trong khí.


      “Dừng lại, Billy!” Machiavelli .


      Người Mỹ cố hạ cánh tay xuống. “Tôi thể,” thở hổn hển. Luồng điện của đậm màu hơn, những luồng khói ràng bay về phía con thằn lằn. Những đường gân cánh tay Billy nổi lên. Cậu rút lên vì đau, những móng tay chuyển sang sắc đỏ rồi tím, rồi đen, rụng rơi xuống.


      Josh đột ngột bước lên trước Billy và đưa tay ta lên ngang mặt. Người bất tử ngạc nhiên. Josh nắm lấy áo và dùng đòn tae kwan do ném Billy xuống. Người bất tử đập mạnh vào đá cuội bên dưới khiến luồng điện ngay lập tức tan biến.


      “Ôi mèn ơi, đau đó. Tôi nghĩ cậu làm rạn xương bánh chè tôi rồi.” Billy đau đớn cằn nhằn. ta duỗi tay và Josh kéo ta đứng dậy. “Tôi chưa bao giờ nghĩ cám ơn ai làm tôi đau, nhưng cám ơn cậu nhé. Tôi nợ cậu – và tôi bao giờ quên.” ta kiểm tra cánh tay trái. Cánh tay trông xanh xao, nổi lên những đường gân và những mạch máu vỡ cùng những phần thịt hình oval nơi từng là móng tay chảy máu. “Ghê ,” lẩm bẩm.


      “Cậu ngốc đó,” Virginia mắng.


      “Ngu ngốc là đệm của tên tôi đó,” Billy cười.


      “Ông định thả con quái vật này vào thành phố à?” Machiavelli đột nhiên . “ con quái ăn thịt, uống luồng điện?”


      “Con đầu tiên cho nhiều con sau này,” Dee kèm tiếng cười sau đó ho và rùng mình. “Chúng ta để nó những con đường và ăn uống tiệc tùng tí. Ông có những câu chú rồi đó: ông đánh thức những con quái vật trong xà lim và thả chúng vào thành phố.”


      “Rồi sao nữa?” Machiavelli hỏi.


      “Công việc của chúng ta ở đây thế là xong.” Dee mở rông cánh tay. “Chúng ta làm những cái gì chúng ta được chủ nhân đáng kính ra lệnh. Ông có thể bắt chuyến bay tiếp theo về Paris..à, có thể phải chuyến sau vì tôi chắc hãng hàng còn hoạt động được bao lâu nữa.” hất hàm chỉ về phía nhà tù. “Tôi thấy có vài con rồng bay trong kia. Có thể ông nên gửi nó cho mấy hãng hàng .” lại sằng sặc cười.


      “Còn ông sao, Tiến sĩ?” Machiavelli hỏi. “Ông ra sao khi những Elder quay lại?”


      “Ông khiến tôi lo đó.”


      “Tôi nghĩ tôi muốn biết,” người Ý lạnh lùng hỏi. Đôi môi ông nở nụ cười nhưng ánh mắt . “Chúng ta ở đây cùng nhau.”


      Dee khoanh tay trước ngực và con Lotan tiến tới gần hơn. Những chiếc lưỡi dài thò ra lưng , tóc . phủi nó . “Tôi cân nhắc mấy phương án lựa chọn ấy mà,” cuối cùng cũng . “nhưng trước tiên chúng ta cần thả con quái này về...”


      ,” Billy và Machiavelli đồng thanh .


      à?” Dee có vẻ bối rối. “À, tôi hiểu mà. Các người nghĩ chúng ta nên đánh thức thêm vài con nữa cùng phải ?” gật đầu. “Chúng ta có thể mang chúng tới vài bãi biễn khác nhau, đây cuộc tấn công đa diện.”


      Billy the Kid lắc đầu. “Chúng tôi nghĩ...”


      “Cậu nên căng thẳng,” Dee chế nhạo.


      Gương mặt Billy còn căng hơn. “Mồm miệng ông gây vạ cho ông vào ngày nào đó đó.”


      “Có lẽ,” Dee . “nhưng phải do cậu.”


      “Đủ rồi,” Machiavelli hét. “Người bạn trẻ của tôi cố rằng chúng tôi quyết định thả nó vào thành phố.”


      Dee chớp mắt ngạc nhiên.


      “Thế này đúng,” Billy .


      đúng à?” Pháp sư bắt đầu cười. “Trò đùa gì thế này?” nhìn sang Virginia. “Họ đùa, đúng ?”


      Dare lắc đầu nhè . “Em nghĩ thế,” và từ từ lùi xa người bất tử Ý và Mỹ.


      Billy quay người nửa để nhìn thấy cả Dee và Dare.


      “Sao lại làm thế hả John?” Machiavelli hỏi. “ được lợi gì.”


      “Nó cho tôi thời gian, Niccolo.” Dee . “Những Elder của chúng ta mong những con vật này được thả vào thành phố, và chúng ta được làm họ thất vọng.”


      “Hoặc họ điều tra chúng ta,” Machiavelli từ từ . “Và thấy ông ở đây...”


      “Đúng,” Dee đồng tình. “Hãy để họ theo dõi thành phố từ Các vương quốc bóng tối và xoa tay mừng hủy diệt.”


      “Vậy đây là để nghi binh?” Billy the Kid hỏi. “Chỉ là kế nghi binh thôi ư!”


      Dee nhe răng cười. “Giống như trò ảo thuật với lá bài sân khấu đó. Họ tập trung vào thành phố và làm phiền tới tôi.”


      “Vì sao? định làm gì đây John?” Niccolo hỏi.


      phải việc của ông.”


      Người Ý vỗ vài túi áo khoác trong. “Tôi có những câu chú để đánh thức lũ quái vật trong kia; tôi làm thế. Hơn nữa, tôi liên lạc với nhà Flamel và cảnh báo về những cái gì vào thành phố. Chúng ta đều biết Perenelle nguy hiểm đến đâu. Bà ấy ngăn chặn Lotan.”


      “Tôi nghĩ thế,” Dee thầm. “Hãy nhớ sinh vật này uống luồng điện. Tôi chắc chắn Nữ Phù thủy rất ngọt ngào.” nhìn Billy và Machiavello rồi lại nhìn Billy. “Cậu cùng phe với ông ta hả?”


      Người Mỹ đứng gần hơn với người Ý bất tử. “Chắc chắn rồi.”


      “Cơ hội cuối đó,” Dee cảnh cáo.


      “Ờ, thế tôi nên sợ à?”


      “Vậy là cuối cùng các người cũng phản bội chủ nhân,” Dee , nhàng tới nỗi chỉ như làn hơi thoáng qua. “Các ngươi phản bội lời thề trung thành với họ. Đồ phù thủy.”


      “Ông có quyền nhận xét,” Machiavelli .


      “Ờ, giờ quyết định của ông đe dọa quyết định của tôi,” Pháp sư . Ông quay sang nhìn Josh. “Và cậu đứng về phe nào?” hỏi. “Với ta hay với tay người Ý kia?”


      Josh hết nhìn Dee rồi Machiavelli, mồm hớp hớp vì bối rối. Tất nhiên cậu muốn lũ quái vật vào San Francisco; điều này là sai. Cậu cảm thấy nóng vai nên định lôi thanh Clarent ra. Khi nó nằm trong tay cậu, luồng nhiệt chạy lên cánh tay và chạy vào trong đầu óc cậu. Những nỗi nghi ngờ bị xóa nhòa. Cậu chắc chắn những con quái vật cần được thả vào thành phố. Cậu nhớ cụm từ cha thường dùng khi giảng bài ở Đại học Brown vào Giáng sinh năm trước. Ông trích lời Charlie Darwin. “ phải sinh vật mạnh nhất tồn tại, cũng phải sinh vật thông minh nhất mà là sinh vật dám thay đổi nhất.”


      chút chết chóc và hủy diệt, hoảng loạn và sợ hãi tốt cho giống người. Ý nghĩ Lotan lang thang ở Embarcadero cũng hay phết. Cậu bắt đầu cười trước hình ảnh đó. Và cậu càng nghĩ nhiều, cậu càng thấy Lotan cần được thả - như thế các Elder quay lại, và thế là được rồi.


      “Hãy nghĩ về hủy diệt Josh,” Machiavelli .


      Những tòa nhà vỡ tan, con người chạy trốn hò hét...Thanh kiếm mang lại cho cậu những hình ảnh đó.


      “Cậu sống ở San Francisco, Josh,” Billy . “Cậu muốn mọi việc xảy ra ở đó phải ?”


      Virginia tiến lên bước và đặt tay lên vai Josh. “Josh biết cậu ấy ở phe nào,” , đôi mắt xám màu thép nhìn thẳng vào mắt cậu. “Cậu ấy cùng phe với chúng tôi. Phải nhỉ?”


      Josh đỏ lựng người, chớp mắt vì mùi xô thơm của luồng điện của Dare trôi xuống cổ. Virginia là người cuối cùng cậu muốn làm cho thất vọng. “À ừ, tôi nghĩ thế. Tôi chắc...” Thanh kiếm nóng hơn còn những ngón tay cậu cầm nó chặt hơn. Cậu đột nhiên thấy nóng đến nỗi tưởng như ngất. Hình ảnh về hỗn loạn và hỗn loạn nhảy múa trong đầu óc. Lửa nhảy múa và cậu bị ấn tượng vì vẻ đẹp của lửa; cậu nghe thấy những tiếng la hét, nhưng cậu thấy nó nghe nó như tiếng nhạc.


      “Cậu theo phe nào?” Pháp sư nhắc lại.


      “Nghĩ rồi hẵng trả lời,” Billy cảnh báo.


      “Ôi cậu cũng được thế cơ à,” Dee . “Josh, cậu ở cùng tối hay gã người Ý? Và nếu cậu ở cùng Machiavelli,” khinh khỉnh thêm, “để ý rằng vài phút trước ta mới đe dọa bán đứng chúng ta cho nhà Flamel. Đó là những người dám làm mọi thứ để nắm quyền kiểm soát, kể cả mang lại cho thế giới hủy diệt lâu dài và từ từ.”


      “Có tám trăm người sống ở San Franciso,” Billy tức giận . “Rất nhiều người – có thể hầu hết – chết. Cậu muốn điều đó phải Josh?”


      “Nhớ lần chúng ta chuyện ở Ojai tuần trước ?” Dee hỏi trước khi Josh có thể trả lời. “Nhớ khi tôi cho cậu biết thế giới như nó có thể như thế, như khi các Elder quay lại – với khí trong lành, nước sạch và biển ô nhiễm...” Khi Pháp sư , những hình ảnh nhảy nhót trước mắt Josh.


      ... hòn đảo dưới bầu trời gợn mây. Những cánh đồng lúa mạch vàng óng trải dài xa tít. Cây trĩu quả thơm lừng.


      ...những cồn cát sa mạc hóa thành những đồng cỏ xanh rì.


      .... bệnh viên có bệnh nhân.


      Josh gật khi nhớ những gì cậu vừa thấy. “ thiên đường.”


      thiên đường,” Dee đồng tình. “Nhưng đó phải điều gã người Ý và kẻ ngoài vòng pháp luật kia muốn. Họ muốn thế giới vẫn thế này: bẩn thỉu và bị hủy hoại để họ có thể làm việc trong bóng tối.”


      “Josh,” Billy chắc chắn , “đừng nghe ta. Đó là Dee – hãy nhớ - đó là vương tử dối đó.”


      “Flamel cũng dối cậu,” Dee nhanh nhảu nhắc nhở cậu. “Và hãy nhớ những gì ông ta và vợ ông ta làm với chị cậu.”


      “Khiến bé chống lại cậu,” Virginia thầm. đặt tay lên tay Josh như thể để an ủi. “Và có điều tôi có thể dạy cậu mà Machiavelli và Billy thể làm được,” , hạ giọng để mình cậu có thể nghe được thôi. “Ta dạy cậu Khí thuật. Phép thuật hữu dụng nhất trong mọi loại phép thuật,” thêm.


      Khí thuật. Từ ngữ đó khiến cậu chú ý. “Sophie biết Khí thuật, Hỏa Thuật và Thủy thuật. Tôi chỉ biết Hỏa và Thủy Thuật.” Khi Josh cậu mới để ý Dare đứng gần mình thế nào, về nhiệt độ của thanh Clarent đốt cháy người cậu. Cậu toát mồ hôi nhưng gió biển khiến da cậu lạnh buốt. Cậu rùng mình.


      “Khí thuật,” Virginia nhắc lại. “ giúp cậu ngang bằng với chị .” thầm rồi vươn người ra trước. “Và có thể có ngày cậu còn giàu quyền năng hơn.”


      Josh quay và nhìn Dee. “Tôi cùng phe với ông.” Cậu .


      Dee nhe rằng cười. “Cậu quyết định đúng đó Josh.”


      “Cậu mắc sai lầm lớn nhất đời rồi,” Niccolo , và Josh thấy cậu còn nhìn nổi vào mắt người Ý hay Billy the Kid nữa.


      Thất vọng, Billy lao vô Dee còn Machiavelli quay sang Dare, nhưng người phụ nữ đặt cây sáo môi. “Quá chậm,” thổi vào cây sao, những từ ngữ biến thành nhạc điệu khiến Niccolo Machiavelli và Billy the Kid lăn ra đất, bất tỉnh nhân .


      Virginia bước qua Machiavelli và lấy lá thư trong túi áo trong. ném nó cho Josh, Josh đưa cho Pháp sư. “Hướng dẫn đánh thức quái vật đó,” Dare .


      Machiavelli vỗ vai Josh. “Làm tốt lắm,” thành . “Giờ cho hai tên kia vào xà lim trước khi chúng tỉnh dậy.”


      quên gì chăng?” Virginia hất đầu về phía Lotan.


      Dee mỉm cười, ánh mắt ánh lên ánh điên loạn. sinh con vật và rồi vẫy cả hai tay trước nó. “ . Xùy.” chỉ ra thành phố cách đó chưa tới dặm. “ ăn .”


      Lotan quay lưng, lạch bạch qua những tảng đá và bơi xuống nước. Cả bảy cái đầu nổi lên mặt nước trước khi chìm sâu xuống bơi vào thành phố.


      “Em biết những khách du lịch ở Embarcadero nghĩ sao,” Dare .


      “Ờ nghĩ chúng ta nghe thấy tiếng hét từ đằng này đó.” Pháp sư người đập đập phong bì vào chân cách thiếu kiên nhẫn. “, chúng ta đánh thức vài con vật háu đói .” nhìn xuống Machiavelli và Billy bất tỉnh và bầm dập. “Hmm, có thể chúng thích chút đồ ăn .” Rồi quay sang Josh, giờ đứng quang sát đường nước của Lotan khi nó tiến tới San Francisco. “Cậu quyết định đúng đó Josh,” nhắc lại.


      Josh gật. Cậu hy vọng thế. Cậu mong thế. Cậu nhìn Dare và cười với cậu khiến cậu trai trẻ thấy mọi chuyện dễ dàng hơn. Dù cậu thực tin Dee nhưng cậu tin Dare.




      CHƯƠNG BỐN MƯƠI BỐN

      Sophie ngửng lên. Mắt ầng ậng nước, cổ họng khô cháy như thể vừa hét. có hàng trăm câu hỏi lời đáp. Kiến thức của bà Phù thủy Endor cũng giúp được: biết làm sao Abraham có thể nhìn thấy trước tất cả.


      Sophie nhìn quanh và ngay lập tức nhận ra ai gì. Có vài người đọc xong, trong khi những người còn lại tập trung vào miếng đá. Theo như phản ứng của họ, họ đều nhận được lá thư mang tính cá nhân từ người đàn ông - ồ , Abraham còn hơn người đàn ông – sống cách đây mười ngàn năm.


      Hel khóc, nước mắt đen xuống tấm ngọc lục bảo, đốt cháy và khiến khói xám bay cuộn lên trời. Sophie quan sát ta đặt tấm ngọc lên môi hôn. Trong thoáng chốc những nét quỷ quái biến mất; hé lộ vẻ đẹp của ta thời trước.


      Perenelle đặt tấm ngọc xanh xuống và đặt tay lên đó. Bà nhìn Sophie và gật đầu. Mắt bà mọng nước phản chiếu màu xanh ngọc lục bảo của miếng đá. Bà buồn tả nổi.


      Prometheus và Mars cùng lúc ngước nhìn lên. Họ gì chỉ nắm lấy tay nhau.


      Khuôn mặt Niten như chiếc mặt nạ đọc nổi, nhưng Sophie để ý thấy ngón tay trỏ di chuyển hình số tám tấm đá.


      Odin cho miếng đá vào túi và vỗ vài tay cháu. Ông thầm vào tai khiến cười.


      Khuôn mặt Chim Ưng Đen bộc lộ gì, nhưng những ngón tay gõ theo nhịp đều vào đằng sau tấm ngọc lục bảo.


      Nicholas cho miếng đá vào túi quần và nắm lấy tay vợ và khi ông nhìn bà, nghĩ thấy gì đó như ngưỡng vọng trong đôi mắt ông, như thể ông gặp bà ngày đầu.


      “Tôi biết chồng tôi viết gì cho mọi người,” Tsagaglalal đột ngột phá vỡ im lặng trong nhóm. “Mỗi lá thư đều là duy nhất, phù hợp với DNA và luồng điện của mỗi người.” Bà lão ngồi ở đầu chiếc bàn. Bà tỉ mẩn gọt vỏ táo bằng miếng đá đen bọc bạc hình tam giác giống như đầu mũi tên.


      Sophie để ý thấy Tsagaglalal sắp xếp vỏ táo xanh thành hình dạng khác với những con chữ tấm đá của khi nhìn thấy nó lần đầu. nhíu mày: thấy người khác làm như thế, dù nhớ được là ở đâu và khi nào...và có thể đó là trí nhớ khác của Bà Phù thủy.


      Tsagaglalal chỉ vào những chiếc ghế trống. “Ngồi ,” bà và từng người ngồi xuống. Nicholas và Perenelle ngồi cạnh nhau, dối diện với Odin và Hel, trong khi Mars và Prometheus ngồi đối diện nhau, Niten và Chim Ưng Đen cũng thế. . Sophie ngồi mình ở cuối bàn, nhìn trực diện Tsagaglalal.


      “Vài người trong đây biết chồng ta,” bà bắt đầu. “ vài người,” bà thêm, nhìn vào Prometheus và Mars, “ông ấy con là bạn thân nhất.” Bà nhìn xuống Odin và Hel. “Và ngoài ra cũng có vài người bao giờ chung chí hương với ông ấy, nhưng tôi nghĩ cái người cũng kính trọng ông ấy.”


      Tất cả các Elder đều gật đầu đồng ý.


      “Trước khi Danu Talis sụp đổ, thế giới của chúng ta bắt đầu tan ra. Các Elder là chủ nhân của trái đất. còn chúa Đất, người cổ đại tuyệt diệt, còn các Archon bị đánh bại. Các giống loài mới, bao gồm có giống người, dù được coi trọng hơn nhưng cũng chỉ là nô lệ, và khi còn ai để đánh bại nữa, các Elder bắt đầu tàn sát lẫn nhau.”


      “Đó là thời kỳ kinh khủng,” Odin rùng mình.


      Tsagaglalal nhìn khắp bàn. “Vài người hòn đảo của ta khi nó sụp đổ. Các người biết lúc đó nó thế nào.”


      Các Elder gật đầu.


      “Còn giờ Ts. John Dee định làm cho điều đó xảy ra.”


      Hel nhìn lên. “Có tệ ?” hỏi rồi nhận ra điều vừa ra dường như chìm lắng. “Nó để chúng ta tới đâu?”


      Tsagaglalal gật đầu. “Thế giới này, và mười ngàn năm hình thành lịch sử bị xóa sổ. Nhưng, quan trọng hơn, nếu Danu Talish sụp đổ chính bản thân các Elder háo chiến cũng hủy diệt nó. Và chỉ là hòn đảo mà là cả hành tinh.”


      “Vậy chúng ta cần chặn Dee lại.” Odin lên tiếng. Ông gật đầu với cháu . “Nhưng đó là lý do vì sao chúng ta ở đây. CHúng ta tới tiêu diệt Dee.”


      “Đó cũng là lý do mà tôi ở đây,” Mars .


      “Và chúng ta biết ở Alcatraz,” Hel . “Chúng ta tới đó và kết liễu .”


      “Tôi có thể chở mọi người tới,” Chim Ưng Đen nhanh nhẹn đề nghị. “Tôi có thuyền.”


      “Cháu cũng nữa,” Sophie thêm. “Josh ở đó.”


      ,” Tsagaglalal khẳng định. “Cháu ở lại đây.”


      .” Bà lão này – kể cả bà là ai – cũng thể ngăn Sophie tới Alcataz.


      “Nếu cháu muốn gặp lại em trai, cháu phải ở lại cùng ta.”


      Prometheus nhoài người vỗ vào tấm ngọc lục bảo ông vẫn giữ tay. “Tôi cũng được bảo phải ở lại.”


      “Tôi nữa,” Niten thêm. Kiếm sĩ nhìn Tsagaglalal. “Bà biết vì sao ?”


      Bà lắc đầu.


      “Tôi biết,” Perenelle thầm. Bà cầm tấm ngọc của mình. “Tôi nhận được lá thư từ quá khứ. Khi tôi nhìn vào, tôi thấy Alcatraz, thấy bóng ma của Juan Manuel de Ayala, người đàn ông đặt tên cho hòn đảo và giờ vẫn ở đó để trông coi nó. Ông ta giúp tôi trốn thoát khi Dee giam cầm tôi. De Ayala với tôi qua tấm bảng, và tôi cần tới đó để chứng kiến.


      “Và em nhìn thấy gì?” Nicholas hỏi.


      “Dee và Dare, Josh, Machiavelli và Billy the Kid. CÒn có Lotan nữa.”


      “Lotan,” Odin khàn khàn . “Trưởng thành rồi?”


      “Đúng. Nhưng giữa những người bất tử xảy ra mâu thuẫn,” Perenelle thủng thẳng tiếp. “Tôi nghe được chuyện gì, tôi chỉ thấy những hình ảnh, nhưng có vẻ Billy the Kid và Machiavelli muốn con Lotan vào trong thành phố. Có cãi vã và Dare làm cả hai bất tỉnh.”


      “Còn Lotan?” Odin hỏi. “Ta thấy công trình của nó rồi. Đó là tạo vật khủng khiếp.”


      “Dee cho nào xuống biển. Nó tiến vào thành phố ngay lúc này.” Bà quay sang Prometheus và Niten. “Đó là lý do hai người ở lại. Hai người phải chống lại con quái vật và bảo vệ thành phố. Sinh vật này tiến về Embarrcadero. Nó tới bờ biển trong tiếng nữa.”


      “Lấy xe của ta,” Tsagaglalal lập tức . “Đậu trước nhà đó.” Bà đặt chìa khóa lên bàn, Niten cầm lên và nhanh chóng chạy ra ngoài khi Nicholas đứng dậy.


      “Chúng tôi cùng cậu,” ông gọi người đàn ông còn Perenelle gật đầu.


      Đột nhiên mọi người đều hoạt động. Prometheus đứng lên, nhoài người hôn má Tsagaglalal. “GIống như hồi xưa nhỉ?”


      Bà đặt tay lên mặt ông. “Cẩn thận nhé,” bà thầm.


      Mars vòng qua bàn và ôm lấy kẻ thù cũ. Luồng điện của họ nổ tí tách, trong chốc lát, hình ảnh hai chiến binh mặc giáp đỏ ra. “Chiến đấu và sống sót đó,” Mars . “Và khi mọi chuyện kết thúc, chúng ta du ngoạn. “Cũng như ngày xưa.”


      “Như ngày xưa.” Prometheus bóp mạnh vai vị Elder. “Chiến đấu và sống sót.”


      “Tôi lấy chiếc jeep đây,” Chim Ưng Đen . ta ra, miệng huýt sao theo điệu gì.


      “Đợi ,” Sophie . “Pernelle, còn Josh sao? Em trai cháu sao?”


      Mọi người nhìn Nữ Phù thủy, còn Sophie đột nhiên hiểu ý nghĩa biểu cảm nhìn thấy lúc trước trong đôi mắt bà. “Cậu ta lại chọn Dee và Dare. Sophie, chúng ta thực mất em cháu rồi.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG BỐN MƯƠI LĂM

      Chiếc vimana hình tam giác che hết miệng núi lửa. Nó đụng vào hai phi thuyền khác khi hạ cánh. chiếc nổ tung, chiếc khác lảo đảo đâm vào vách đá và nổ tung, những mảnh kim loại bị nung đỏ bay ra mọi hướng.


      Tất cả những tù nhân đều lùi lại trong động để bảo đảm an toàn. Chỉ duy Scathach là vẫn ngồi ở miệng hang, quan sát chiếc vimana Rukma tiến tới. quay đầu về phía quấn ts những mảnh kim loại cháy dài bằng chiều dài cánh tay đâm vào vách đá đầu. vimana khác bị chiếc chiến thuyền thổi bay khiến nỏ lảo đảo bay gần vào vách núi đâm vào tảng đá thòi ra, xé toang bên phi thuyền. Khi nó lượn qua xà lim, Scathach thấy thoáng qua hai anpu tuyệt vọng sửa chữa tàu. Khi nó rơi xuống dòng nham thạch làm cho dòng mắc ma bắn lên cao, rồi từ từ chìm xuống.


      Chiếc Vimana Rukma rộng lớn từ từ hạ xuống, mũi tàu và đuôi tàu suýt chạm vào vách đá. Bóng tối gật đầu đồng ý: phi công trưởng lái cừ. Chiếc phi thuyền hạ xuống thấp hơn rồi thấp hơn, qua xà lim của Shakespear và Palamedes.


      Những chiếc vimana hơn còn lại lượn vòng quanh chiếc lớn, cẩn thận tới quá gần. Scathach tuyệt vọng cố nhớ những gì biết về cỗ máy này, nhưng nhớ được mấy. nghĩ những chiếc có trang bị vũ khí nhưng đoán ít nhất chiếc quay lại sở chỉ huy có mang thêm quân cứu viện. Chiếc to này quá gần khiến Scathach có thể nhìn thấy, giống chiếc làm bằng kim loại, chiếc này làm bằng pha lên bóng loáng và gốm bóng. Nó hầu như trong suốt khiến có thể thấy có duy nhật người bên trong.


      khí rung lên tiếng động cơ chiếc vimana, thanh chói tai khiến răng nghiến lại và tóc nhiễm điện lách tách. rung động đập vào vách núi lửa, thấy có những vết nứt xíu bề mặt nó. Đột nhiên tảng đá dưới chân rơi xuống dòng nham thạch bên dưới. Scathach nhảy ngược lại khi góc hang lở ra.


      bên cánh vimana bay vòng quanh tới khi nó ở ngay phía , và đèn đỏ ở cạnh cánh tắt ngóm. Cạnh vimana đập vụn bức tường khiến những mẩu đá đen rơi xuống đầu . Scathach biết nếu như nó xuống thấp hơn nó bị kẹt. hít hơi khí đậm mùi lưu huỳnh, nhảy về phía trước khi rung động làm xà lim của biến thành đá vụn. Những ngón tay bám lấy cánh chiếc vimana, nhưng tay phải trượt bề mặt gương của nó. tuyệt vọng cố bám lấy trước khi tuột cả tay trái. nhìn xuống và nhận thấy có gì ngăn và dòng nham thach. Chiếc Rukma bắt đầu bay lên.


      liếc mắt nhìn thấy chuyển động. chiếc vimana tròn hạ thấp xuống chỗ . Nó tới gần hết mức, ràng muốn khiến rơi xuống. đá nó nhưng chỉ khiến tuột thêm.


      Chiếc Rukma pha lê từ từ bay lên với Scathach vẫn đánh đu bên dưới. Nữ chiến binh cố thêm lần nữa để ném mình lên phi thuyền nhưng bề mặt nó nhẵn quá. biết thể bám được lâu hơn nữa. bỗng nhớ ra có người bảo chết ở nơi đẹp đẽ. Ờ , kể ra ở dới chiếc chiến thuyền trong miệng núi lửa cũng đẹp lắm.


      Chiếc vimana hơn lại lượn qua, gần đến nỗi Scathach có thể nhìn thấy hai sinh vật mặt chó bên dưới nắp pha lê của chiếc vimana. Con anpu nhe răng và lượn chiếc phi thuyền thêm lần nữa. Lần này chúng định đâm thẳng vào .


      Và rồi Joan of Arc nhảy thẳng xuống nóc tàu đó.


      Người phụ nữ Pháp nhảy xuống từ miệng buồng giam. cười ngọt ngào với những anpu bên trong. “Bonjour.” Chiếc vinama chòng chành rồi chìm xuống chút, nghiêng trái rồi phải nhằm hất ra. “Chỉ phí thời gian thôi,: và cười vui vẻ. “Tôi khỏe hơn bề ngoài đó! Ta mang kiếm suốt cả đời – ta có thể đứng vững suốt vài giờ.”


      Chiếc phi thuyền rơi xuống ngay bên dưới Scathach. thả tay và nhảy xuống chiếc vimana cùng Joan với lực khiến cả chiếc lớn hơn cũng phải chúi xuống. Người Pháp bất tử cười lớn. “Chị hay nhỉ...”


      “Nếu em còn dám cười đùa,” Scathach cảnh báo trước khi bạn kịp hết câu.


      Chiếc vimana chìm xuống và quay tròng, nhưng hai người phụ nữ vẫn bám chắc nóc phi thuyền khi người phi công cố lắc thuyền sang trái sang phải.


      “Mãi mà chưa rơi xuống nhỉ,” Scatty . “chúng ta ổn rồi.”


      Đúng lúc đó chiếc vimana rơi thẳng xuống dòng nham thạch, tăng thêm mối nguy hiểm cận kỳ dòng dung nham nổ lục bục.


      “em nghĩ nghe thấy rồi,” Joan , ho lên vì khí quá khó thở. toát mồ hôi và cháy tóc. “Tay em đau quá,” thừa nhận. “Em biết em còn bám được bao lâu nữa.”


      “Giữ chặt lấy,” Scathach . nắm bàn tay phải thành nắm đấm, ngón cái đặt ngón trỏ. thu tay lại. “Khi em phải đấm xuyên qua cái gì...” Nữ chiến binh nghiến răng khi đấm lực vào nóc đĩa bay. “...em thể nào hơn được cú đấm của Jeet Kun Do này đâu.” Nóc thuyền nứt ra. Hai anpu trong thuyền nhìn lên, mồm há ra vì choáng. “Có vẻ nó khó vỡ như các người nghĩ!” Scathach đấm thêm phát nữa, nóc thuyền vỡ tan thành từng mảnh. khí nóng tràn vào quanh các anpu, chui vào mắt chúng khiến chúng ho hắng thôi. Phi công cho thuyền bay lên xa khỏi hơi nóng và khói bụi.


      “Nhanh thế,” Scathach hét gọi. “Chúng ta còn định đánh đấm vài thứ nữa cơ!”


      Cạnh vimana đâm vào đá, tiếng kim loại xé roạc nghe kinh hồn. Chiếc đĩa bay chao đảo khiến Scatty và Joan suýt rơi nhưng vẫn tiếp tục bay lên. Rồi nó đâm vào cạnh chiếc Rukma vimana vẫn gầm rú nguyên tại chỗ. Kim loại va chạm vào pha lê khiến bên chiếc thuyền hơn bay mất. Nhưng lực bạt khiến hai người phụ nữ tuột tay. Joan và Scatty hét lên.


      ...những bàn tay chắc chắn nắm lấy hai người phụ nữ và kéo họ vào sau chiếc vimana giây cuối khi chiếc vimana đâm vào đá và toạc làm đôi.


      Palamedes nhàng hạ Scatty và Joan xuống cánh vimana. Hiệp sĩ Sacaren đứng cạnh Saint-Germain ôm vợ. ai được tiếng nào.


      “Tôi nghĩ tôi thường xuyên cứu mạng ,” Scathach nhàng , nắm chặt cánh tya Palamedes.


      “Tôi nghĩ giờ là lúc tôi báo ơn,” hiệp sĩ , chất giọng trầm của ông run run. “ suýt chết đó Bóng tối.”


      “Có lẽ hôm nay chưa phải ngày tôi chết,” Scatty và cười với ông.


      Palemedes bóp vai . “Hôm nay chưa kết thúc,” ông nghiêm túc . “Chúng ta cần vào trong.” Ông quay , giơ ngón cái lên. “Mấy người bạn mặt chó của chúng ta tụ tập lại kìa.”


      Scathach theo Palamedes dọc theo cánh Rukma vào bên trong thuyền. “Sao vào trong được?”


      “Khi cánh thuyền ngang với hang tôi, tôi vào thôi,” Hiệp sĩ Sacaren . “Francis cũng làm thế.” Ông vào trong. Bóng tối có thể thấy những đường nét cơ thể ông qua lớp gương vỏ tàu. đứng đó đợi Joan và Saint-Germain vào trong.


      “Vậy đây là tới giải cứu,” Scatty . “thế mà chị tưởng họ tới giết chúng ta.”


      hình bóng di chuyển bên trong chiếc Rukma. “Nếu họ muốn giết ” chất giọng khàn khàn cất lên, “ sao họ phải dùng tàu chiến chứ?”


      “Tôi đoán họ làm thế vì họ biết họ chống lại ai,” Scatty quay mặt về phía thanh. “Tôi là Nữ Chiến binh Scathach, Bóng tối, Người Diệt Quỷ, Người Lập Vương, người...”


      “Tôi chưa bao giờ nghe tới .” Người chiến binh tóc đỏ to lớn trong bộ giáp sáng loáng bước ra phía trước.


      “Chú!” Scathach hét lên sung sướng và ném mình vô người đàn ông tóc đỏ.


      Nhưng người đàn ông to lớn đó tóm lấy trước khi kịp ôm lấy công và giữ cách xa ông sải tay, chân đu đưa sàn thuyền. “Ta là Prometheus, và ta có cháu . Ta biết là ai. Ta chưa từng gặp .” Ông cẩn trọng đặt xuống và lùi lại.


      Joan cười phá lên khi nhìn mặt Scathahc. Rồi nắm lấy và kéo . “Ông hãy tha thứ cho bạn tôi. ấy quên mất mình ở đâu... và khi nào,” nhấn mạnh thêm và nhìn Bóng tối.


      Scathach gật đầu, nét ngạc nhiên lên khuôn mặt. “Ông nhắc cháu nhớ tới người,: với Prometheus, “ người rất gần gũi với cháu.”


      Vị Elder tóc đỏ thoáng gật đầu rồi quay . Cả nhóm theo ông xuống hành lang vào trung tâm chiếc Rukma. Ông ngồi xuống chiếc ghế mềm và khoanh tay lại. Đột nhiên những bức tường pha lên sáng trước ông với ánh sáng và những dòng chữ chạy mặt kính. Những chấm đỏ chi chít bức tường trái. Prometheus chỉ. “ hay rồi. CHúng ta cần nhanh chóng rời khỏi đây. Có vẻ toàn bộ quân đoàn vimana đều nhắm tới đây.”


      “Ông định đưa chúng tôi đâu?” Saint-Germain hỏi.


      “Tới...”


      Mội giọng ràng và bình tĩnh chét người vang vọng trong phòng điều khiển. “ bạn Prometheus, giờ tôi cần . Tòa tháp bị tấn công.” Từ đằng sau những vụ nổ có thể nghe thấy /


      “Tôi tới,” Prometheus .


      “Và những người bạn của chúng ta,” giọng vang vọng trong căn phòng. “an toàn cả chứ?”


      “An toàn. Họ ở đúng nơi ông , trong xà lim Huracan. Giờ họ ở cùng tôi.


      “Tốt. Nhanh lên bạn già. Nhanh lên.”


      “Ai đó?” Scatty hỏi dù cũng như những người còn lại đoán được câu trả lời.


      “Cứu tinh của các vị: Nhà thông thái Abraham.”








      CHƯƠNG BỐN MƯƠI SÁU

      Sophie Newman quanh khu vườn sau trống vắng. Mọi người ra . Nhà Flamel, Prometheus và Niten tới Embarrcadero, trong khi Chim Ưng Đen đưa Mars, Odin và Hel tới bến thuyền.


      Bụng dạ nôn nao còn đầu on gong. cần thời gian để suy nghĩ, để hiểu những gì vừa biết. Mọi thứ thay đổi còn tiếp tục thay đổi và càng ngày càng khó có thể phân biệt đâu là trí nhớ của mình và của Bà Phù thủy Endor. Bà Phù thủy biết từng người xuất ở nhà Dì Agnes – nhà Tsagaglalal – và bà có những nhận định về họ. Bà thích ai… nhưng Sophie lại ngược lại.


      cảm thấy giờ bắt đầu hiểu Bà Phù thủy...đúng hơn, khi những ký ức của bà cứ xoay mòng mòng trong đầu óc , nghĩ hiểu bà hơn bất cứ ai.


      thích bà.


      Bà Phù thủy Endor nhen, hằn thù và chất chứa những trận cuồng nộ và hận thù ghê gớm. Bà ghen tị với sức mạnh và quyền năng của Prometheus, dũng cảm của Mars, bà sợ Niten và người đồng hành Aoife. Bà ghét Tsagaglalal vì bà quá gần gũi với Abraham. Điều duy nhất Sophie thích ở bà là quan tâm tới giống người và chiến đấu mệt mỏi để giúp họ an toàn khỏi những Elder Bóng tối.


      Sophie vỉa qua bãi cỏ. Đất lún xuống và khi nhìn lại có chỉ nhìn thấy nóc nhà dì . qua mái vòm phủ kín trường xuân và hồng leo dẫn tới khu được chăm sóc của khu vườn, nơi cỏ mọc ngang eo và xen lẫn những cây hoa dại.


      Đây từng là nơi thích của cặp sinh đôi.


      Khi họ còn , họ phát ra khu vực bí mật này, sau hàng rào và nó ngay lập tức trở thành hang ổ của họ. Nó là vòng tròn sạch , bao quanh bởi những bụi cây gai và vài cây táo lâu năm bao giờ cho quả dù có rất nhiều hoa. Cây sồi già dãi dầu mưa nắng mọc lên ở giữa bãi đất trống. Đường kính của nó phải tới ba feet và từng có mùa hè Sophie giành cả tuần để tính tuổi cây. đếm được hai trăm hai ba mươi vòng tuổi trước khi dừng lại. Cặp song sinh gọi bãi đất trống đó là khu vườn bí mật theo tên cuốn sách của Frances Hodgson Burnett mà lúc đó Sophie đọc. Mỗi mùa hè khi nhà Newman tới San Francisco, Sophie đều chạy ngay ra vườn sau và đều thấy xem cây sồi còn và thợ làm vườn của dì Agnes hề chặt nó hay biến khu đất thành phần gọn gàng như phần còn lại. Mỗi năm cỏ lớn, bụi cây càng rậm rạp hơn và đường mòn càng lúc càng khó nhìn thấy.


      Có lúc Sophie và Josh giành toàn bộ lúc tới thăm dì để lại trong khu vườn bí mất. Nhưng nhiều năm qua , Josh còn thích thế nữa – bãi đất trống quá xa nhà khiến cậu bắt được tín hiệu wifi để chạy laptop. Thế là khu vườn bí mật trở thành khu riêng tư của Sophie, nơi có thể đọc sách và mơ mộng, nơi để chạy tới và suy nghĩ. Và lúc này, cần chỗ để suy nghĩ mình, nơi có thể nghĩ về mọi chuyện vừa xảy ra...và về Josh. cần phải nghĩ cách đưa cậu về và cần làm gì. “Mọi điều. Gì cũng được,” to.


      cần nghĩ về tương lai, vì tương lai bắt đầu làm sợ và cần quyết định – đó chắc chắn là quyết định lớn nhất đời.


      Ít nhất có thể ở đây mình; ai biết về khu vườn bí mật.


      Sophie qua bụi rậm và dừng lại vì ngạc nhiên. Dì Agnes – Tsagaglalal – ngồi ở gốc cây, mắt nhắm lại, hướng về phía mặt trời ban chiều.


      Bà lão mở mắt và mỉm cười. “Sao thế? Cháu nghĩ ta biết về nơi này à?”




      CHƯƠNG BỐN MƯƠI BẢY

      “Ta luôn biết về nơi này,” Tsagaglalal với Sophie. Bà vẫy tay , “Tới đây ngồi với ta.”


      Sophie lắc đầu.


      mà,” Tsagaglalal nhàng . “Ta tạo ra nơi này cho cháu và em cháu. Cháu nghĩ vì sao mà ta cho thợ làm vườn động vào nơi này chứ?”


      Sophie quanh bãi đất trống rồi ngồi xuống dựa lưng vào cây táo khô héo. “Cháu biết nghĩ gì nữa,” thà .


      Tsagaglala vẫn im lặng, nhìn chăm chăm vào . Tiếng động duy nhất là tiếng ong vo ve và tiếng xe cộ từ đằng xa.


      “Cháu nghĩ,” Sophie , “ tuần trước thôi cháu làm ở quán Coffee Cup và đợi cho tới cuối tuần. Josh thường tới cửa hàng ăn trưa và chúng cháu cùng nhau ăn sandwich và bánh đào. Cháu vừa mới chuyện với bạn Elle của cháu ở New York qua điện thoại. Cháu rất vui vì có thể bạn ấy tới San Francisco. Nỗi lo lớn nhất của cháu là cháu thể nghỉ làm ở quán để chơi với bạn ấy.” nhìn Tsagaglalal. “Chỉ ngày như bao ngày. ngày Thứ Năm bình thường.”


      “Còn giờ?” Tsagaglalal thầm.


      “Còn giờ, tuần sau, Cháu được Đánh Thức, học phép thuật, tới Pháp và rồi lại quay lại cần dùng máy bay; em trai cháu mất; và cháu lo tới ngày tàn của thế giới.” cố cười nhưng nghe the thé và quá khích.


      Tsagaglalal chậm rãi gật đầu. “Sophie à, tuần trước cháu chỉ là . Cháu được trải nghiệm cả đời chỉ trong bảy ngày. Cháu nhìn thấy nhiều thứ và còn làm nhiều hơn thế.”


      “Hơn cả cháu muốn,” Sopie thầm.


      “Cháu lớn lên và trưởng thành,” Tsagaglalal , để ý tới việc chen vào. “Cháu là trẻ phi thường, Sophie Newman ạ. Cháu mạnh mẽ, thông thái và đầy quyền năng – rất, rất quyền năng.”


      “Cháu ước gì cháu như thế,” Sophie rầu rầu . nhìn vào lòng bàn tay. đặt tay lên chân, hai tay chồng lên nhau. Những sợi điện bạc tập hợp trong lòng bàn tay rồi hình thành quả bóng sáng. Luồng điện bay trở vào trong bàn tay , hình thành găng tay bạc, lúc đầu trông như tơ bóng, sau thành da rồi cuối cùng trở thành lớp kim loại bao quanh tay , bảo vệ bàn tay . nắm bàn tay lại; găng tay biến mất. Những ngón tay trong thoáng chốc vẫn còn lớp sơn bạc bóng trước khi trở lại bình thường.


      “Cháu thể thoát khỏi vận mệnh đâu Sophie. Cháu là Bạc. Điều đó mang lại cho cháu trách nhiệm...và định mệnh. Số phận của cháu được định đoạt ngàn năm về trước,” Tsagaglalal như vỗ về bé. “Ta quan sát chồng ta, Abraham làm việc cùng Chronos. Chronos giành cả đời để làm chủ Thời gian. Việc đó hủy hoại ông ấy, khiến cơ thể ông ấy biến thành cả trăm loại hình dạng. Nó khiến ông ấy trở thành sinh vật ghê tởm nhất cháu từng nhìn thấy ... dù thế chồng dì vẫn coi ông ấy là bạn, và dì nghi ngờ gì tấm lòng của ông ấy với loài người và và sống còn của Vương quốc Bóng tối này.”


      “Bà Phù thủy thích ông ấy...” Sophie , rùng mình khi nhìn thấy hình ảnh của Chronos trong đầu.


      Tsagaglalal gật đầu. “Và ông ta khinh thường những gì bà ấy làm.”


      “Bà ấy làm gì?” Sophie bắt đầu nhưng những ký ức tới nhanh khiến rùng mình.


      ... cây búa đập tan chiếc sọ thủy tinh thành những mảnh kính vỡ, rồi thêm lần nữa và lần nữa...


      ...những cuốn sách bìa kim loại biến chất lỏng, những giá sách sập xuống vì bị axit ăn mòn...


      ....những chiếc phi thuyền bằng kính và gốm lạ thường đâm vào vách đá và chìm xuống biển...


      Tsagaglalal nhoài người lên. “Bà phù thủy tiêu diệt hàng ngàn các tác phẩm Chúa Đất, Người Cổ Đại và Archon: những cái chồng dì gọi là những vốn kiến thức nguy hiểm.”


      “Nó quá nguy hiểm,” Sophie đáp lại, dựa quan điểm của Bà Phù thủy.


      “Đó là theo quan điểm của Bà Phù thủy.” Tsagaglalal buồn rầu . “Bạn của cháu, người bất tử William Shakespeare từng viết “ có gì tốt hay xấu, chỉ là cách nghĩ khiến chúng tốt hay xấu.”


      “Trích trong Hamlet. Chúng cháu đóng vở kịch đó ở trường.”


      “Zephaniah tin rằng những kho tri thức đó nguy hiểm và vì thế bà ta có quyền hủy diệt chúng. Nhưng cháu phải nhớ rằng bản thân kiến thức hề nguy hiểm,” Tsagaglalal nhấn mạnh. “Kiến thức được dùng thế nào mới nguy hiểm. Bà Phù thủy hủy diệt biết bao nhiêu kiến thức. Vì thế khi bà ta cần giúp đỡ, Chronos bắt bà ta trả giá đắt. Có lẽ ông ấy cũng muốn ngăn bà ta hủy diệt cái gì nữa dù muộn. Thi thoảng dì băn khoăn biết nếu chúng ta biết được những tri thức đó loài người có thay thế chúng ta .”


      Sophie nhìn thấy những hình ảnh thoáng qua của công nghệ cổ đại, những thành phố bằng kính, những chiếc thuyền kim loại rộng mênh mông, những phi thuyền pha lê lao vút bầu trời. Và những hình ảnh trở nên đen tối và thấy thành phố giống như viên ngọc tinh tế biến thành chất lỏng khi quả bom như quả nấm nổ tung giữa thành phố. lắc đầu và hít hơi sâu, chớp mắt quay về tại, cố gắng xua những hình ảnh đó . thanh thường nhật của chiều San Francisco – tiếng còi tàu từ xa, tiếng còi xe, tiếng còi cứu hỏa – quay trở lại. “, chúng ta phải hủy diệt mọi thứ,” thầm.


      “Có lẽ...” Tsagaglalal . “Có thể chồng dì và Chronos hàng ngày luôn lo nghĩ tới việc hủy diệt trái đất và những sinh vật sống đó. Dì ngồi quan sát họ nghiên cứu các dòng thời gian để giúp loài người và Vương quốc Bóng tối sống lâu nhất có thể. Họ gọi chúng là Dòng Triển Vọng. khi họ tìm được Dòng Triển Vọng, họ làm mọi thứ để đảm bảo nó thành công.”


      Mùi muối và khí thải thổi nhè qua những tán lá và bụi cây. Lá cây xào xạc, Sophie đột nhiên rùng mình. “Và Josh và cháu trong những Dòng Triển Vọng ạ?”


      “Đúng, có bé cậu bé. Cặp song sinh. Vàng và Bạc.” Tsagaglalal nhìn . “chồng dì còn biết tên cháu.”


      Sophie sờ vào tấm ngọc lục bảo ở túi cạnh quần. đó có tên .


      Tsagaglalal gật đầu. “Ông ấy biết nhiều điều về cháu dù phải mọi thứ. Dòng thời gian phải lúc nào cũng đúng. Nhưng Abraham và Chronos biết rằng chắc chắn cặp sinh đôi có tầm ảnh hưởng với tồn vong của loài người và thế giới. Và họ biết họ phải bảo vệ cặp sinh đôi hoàn hảo, Vàng và Bạc.”


      “Josh và cháu hoàn hảo,” Sophie ngay lập tức đáp.


      ai hoàn hảo. Nhưng luồng điện của cháu trong sạch. Chúng ta biết cặp sinh đôi cần kiến thức, thế nên Abraham tạo ra cuốn Codex, cuốn sách của Nhà thông thái, bao gồm kiến thức của cả thế giới trong vài trang giấy.” Khuôn mặt bà lão hằn đau khổ. “Lúc đó ông ấy Biến Đổi. Cháu biết biến đổi là thế nào ?”


      Sophie định lắc đầu nhưng rồi gật vì những kiến thức của Bà Phù thủy Endor cho biết. “Dạng chuyển đổi. Hầu hết những Elder già nhất đều biến thành...” dưng lại, khó khăn chớp mắt vì những hình ảnh. “...quái vật.”


      phải tất cả nhưng là hầu hết. Vài người chuyển thành dạng xinh đẹp hơn. Chồng dì cho rằng Biến đổi là dạng chuyển hóa do tác động của tia mặt trời khiến các tế bào lão hóa nhanh chóng.”


      “Nhưng dì bị Biến đổi...”


      “Ta phải Elder,” Tsagaglalal trả lời ngắn gọn. “Và khi Abraham tạo nên cuốn Codex, ông ấy xử lý để chỉ có loài người mới đọc được. Nó đầu độc các Elder nào dám chạm vào. Hoàng loạt những bảo vệ giống người trông coi cuốn Sách trong hàng thế kỷ.”


      “Vậy đó là nhiệm vụ của dì?” Sophie hỏi.


      ,” Tsagaglalal khiến ngạc nhiên. “NHững người khác được chọn để bảo vệ cuốn Sách. Nhiệm vụ của dì là bảo vệ những tấm ngọc lục bảo và chăm sóc Vàng và Bạc. Dì ở bên họ tới phút cuối khi họ cần dì.”


      “Tsagaglalal,” Sophie thầm. “ Giám Quan.”


      Bà lão gật đầu. “Ta là Giám Quan. Abraham sử dụng những công nghệ của Archon để biến ta thành bất tử. Ta chăm sóc, theo dõi và bảo vệ các cặp song sinh. Và để chăm sóc và bảo vệ ta, chồng ta cho em trai ta món quà là bất tử nữa.”


      “Em trai dì...” Sophie thở hắt ra.


      Tsagaglalal gật đầu. Bà ngước lên nhìn trời. “Chúng ta cùng nhau sống trái đất này hơn mười ngàn năm và chăm sóc các thế hệ nhà Newman. Và đây chính là cây phả hệ của gia đình cháu. Em trai và ta cùng nhau bảo vệ những hoàng tử, thợ vải, chủ nhân và cả nô lệ. Chúng ta sống ở tất cả các quốc gia thế giới, chờ đợi, chờ đợi và luôn chờ đợi...” Đôi mắt bà ầng ậng nước. “Cũng từng có Vàng trong gia đình cháu, có cả Bạc nữa, có khi có cả căp sinh đôi Vàng và Bạc nhưng phải cặp sinh đôi trong lời tiên tri, và trí óc em trai ta bắt đầu gục ngã theo năm tháng.”


      “Còn gia đình nhà Flamel sao? phải họ cũng tìm kiếm các cặp song sinh ư?”


      “Đó là sai lầm. lời diễn giải sai cháu ạ. Có lẽ là cố chấp. Nhiệm vụ của họ chỉ là bảo vệ cuốn sách. Nhưng ở điểm nào đó nhà Flamel bắt đầu tin rằng nhiệm vụ của họ là tìm cặp song sinh truyền thuyết.”


      Sophie cảm thấy thở nổi. “Vậy mọi thứ họ làm...đều là vô ích.”


      Tsagaglalal hiền hậu cười. “, phải là vô ích. Mọi thứ họ làm giúp họ tới gần hơn với thành phố này, và duy chỉ lần này, là tới gần hơn với các cháu. Nhiệm vụ của họ phải là tìm cặp song sinh – lời tiên tri là cặp song sinh tìm thấy họ. Nhiệm vụ của họ là bảo vệ cặp song sinh và Đánh thức họ.”


      Sophie nghĩ đầu óc sắp nổ tung. thấy sợ khi nghĩ tới việc cuộc đời được tiên đoán từ mười ngàn năm trước. ý nghĩ khiến choáng váng. “Em trai dì,” Sophie hỏi nhanh, “ ở đâu ạ?”


      “Lần đầu chúng ta tới , chúng ta biết rằng Scathach giúp cậu thanh niên tên Arthur lên ngôi vua. Em trai ta trở nên thân thiết với cậu ta; Arthur giống như con trai cậu ấy. Khi cậu thanh niên đó chết...em trai ta bị tổn thương trầm trọng. Đầu óc ông ấy bắt đầu rơi rạc, ông ấy thể phân biệt nổi tại và quá khứ, tại và ảo tưởng. Ông tin rằng Arthur tái sinh và lại cần ông ấy. Ông bao giờ rời khỏi nữa. Ông ông chết ở đó.”


      “Gilgamesh,” Sophie thở hắt ra.


      “Vua Gilgamesh,” Tsagaglalal thầm, “dù ở người ta biết đến ông ấy với cái hang khác.” Nước mắt lăn dài xuống má bà, khu vườn tràn ngập mùi hoa nhài. “Giờ ta còn cậu ấy nữa, lâu quá rồi.”


      “Chúng cháu gặp ông ấy,” Sophie vội và nhoài người ra nắm lấy tay Tsagaglalal. Luồng điện của nổ tí tách. “Ông ấy còn sống! Ở Luân Đôn.” chớp mắt để nước mắt lăn xuống khi nhớ lại ông già vô gia cư rách rưới và bẩn thỉu với đôi mắt xanh ấn tượng gặp ở trong taxi.


      Mùi hoa nhài đắng ngắt. Giọng của Tsagaglalal nhuốm vị cay đắng. “Ôi Sophie, dì biết chú ấy còn sống và ở Luân Đôn. có những người bạn ở đó giúp để mắt tới chú ấy giùm , đảm bảo chú ấy thiếu thốn tiền nong và bị bỏ đói.” Giờ bà khóc, những giọt nước mắt lăn xuống cằm và rơi xuống bãi cỏ. Những cây hoa nhài xíu mọc lên, nở hoa chỉ trong giây. “Ông ấy còn nhớ tới dì,” Tsagaglalal thầm. “, đúng: chú ấy còn nhớ dì, nhưng là dì của mười ngàn năm trước, trẻ trung và xinh đẹp. Ông ấy nhận ra dì của bây giờ.”


      “Ông ấy ông ấy chép lại mọi chuyện,” Sophie . quệt nước mắt . “Ông ấy ông ấy viết về cháu, nhớ về cháu.” nhớ ông lão đưa cho tập giấy dày được khâu lại với nhau. Có những tờ giấy viết, có giấy báo, thực đơn nhà hàng, khăn giấy, da dê và cả những miếng đồng mỏng tang. Chúng được cắt xé theo cùng kích cỡ, đầy những chữ viết tay.


      “Bất tử là lời nguyền,” đột nhiên Tsagaglalal giận dữ . “Dì chồng dì nhưng có nhiều lúc – rất nhiều lúc – dì hận những gì ông ấy làm với dì và em trai dì và dì nguyền rủa ông ấy.”


      “Abraham viết rằng cháu nguyền rủa ông ấy từ bây giờ và về sau,” Sophie .


      “Nếu chồng dì có tật xấu gì, đó là ông ấy luôn . Kể cả khi mất lòng.”


      Sophie thở nổi. Ký ức của bà Phù thủy luồn lách vào suy nghĩ về điều gì đó quan trọng. tập trung để hiểu nó. “Quá trình biến Gilgamesh thành bất tử là sai lầm. Nhưng nếu có thể lấy bất tử của ông ấy ...” dừng lại.


      “Cháu nhớ ra gì hả, con vài thứ Bà phù thủy biết à?”


      , điều mà Gilgamesh cầu Josh.”


      “Cái gì?”


      “Ông ấy bắt em cháu hứa khi mọi chuyện qua – nếu chúng cháu còn sống – hãy mang cuốn Codex tới Luân Đôn.”


      Bà lão nhíu mày, những nếp nhăn hằn nhiều hơn trán bà. “Vì sao?”


      “Gilgamesh trang nhất cuốn Codex có câu thần chú.” day trán cố nhớ chính xác nhà Vua gì. “Ông ấy ...ông ấy là ông ấy đứng sau lưng Abraham và quan sát ông ấy ghi chép lại.”


      Tsagaglalal gật đầu. “Cả em trai ta và Prometheus đều luôn ở bên chồng dì. biết chú ấy thấy gì nhỉ?”


      “Công thức biến thành người bất tử,” Sophie . “Khi Josh và cháu hỏi vì sao ông ấy muốn nó, vì ông ấy bất tử rồi...”


      “để đảo ngược công thức,” Tsagaglalal trả lời. “Có thể thành công. Ông ấy có thể là người bình thường, có thể có lại trí nhớ và nhớ ra dì,” bà lão thở hắt ra. “Chúng ta có thể lại là người và chết trong thanh thản.”


      “Lại là người?” Sophie hỏi. Đột nhiên nhớ lại lời bà lão trước đó. “Dì phải Elder,” , “cũng phải Archon hay người Cổ đại. Vậy bà là ai?”


      “Vì sao hả Sophie,” Tsagaglalal cười buồn , “cháu nghĩ xem vì sao cuốn Codex lại được tạo ra để Elder thể chạm vào mà chỉ có loài người có thể giữ được? Gilgamesh và ta là người. Chúng ta là trong những Người Khởi Nguyên đầu tiên có được sống nhờ vào luồng điện của Prometheus ở Thành Phố Vô Danh nơi rìa thế giới. Giờ còn người Khởi Nguyên nữa. Chỉ còn có ta và Gilgamesh. Và ta chỉ còn phải làm việc,” bà lão thêm.


      lại ngồi dựa vào cây táo và khoanh tay. biết dì định gì. “Cháu từ chối được ?”


      “Cháu có thể,” Tsagaglalal khiến ngạc nhiên. “Nhưng nếu cháu làm thế, hơn mười ngàn người sống và chết để bảo vệ cháu hy sinh vô ích. Những người bảo vệ cuốn Codex, những cặp sinh đôi trước, những Elder và THế Hệ Kế tiếp đứng về phía loài người – hy sinh vô ích.”


      “Và thế giới kết thúc,” Sophie thêm.


      “Đúng.”


      “Chồng dì thấy điều đó à?”


      “Dì biết,” Tsagaglalal . Đôi mắt bà mọng đỏ nhưng bà còn nước mắt để khóc. “ biến đổi diễn ra cơ thể ông ấy trong những ngày cuối cùng và biến ông thành vàng khối. Ông ấy thể . Dì chắc ông ấy có cách để cho dì...nhưng rồi Danu Talis bị hủy diệt trong Trận Chiến cuối cùng.” Tsagaglalal quay nhìn theo những bông hoa nhài nở rộ và úa tàn. “Abraham và Chronos nhìn thấy rất nhiều hướng của lịch sử, và mỗi hướng lại tạo ra bởi những quyết định riêng biệt. Thường khó có thể – trừ trường hợp trong những bối cảnh cụ thể - ai là người quyết định. Đó là lý do vì sao lời tiên tri rất mù mờ - “ bảo vệ thế giới, hủy diệt nó.” Dì biết cháu là ai.” Bà hất hàm về phía ngôi nhà. “Có tấm bảng trong tủ giành cho em trai cháu nữa.”


      Sophie thở hổn hển vì choáng.


      Tsagaglalal gật đầu. “Đúng, rất có thể giờ này dì chuyện với Josh, trong khi Sophie Newman đứng cạnh Dee và Dare ở Alcatraz. Nhưng rồi đến lúc – sớm thôi – cháu phải lựa chọn. Và lựa chọn của cháu ảnh hưởng tới tương lai thế giới này cũng như vô số những Vương quốc Bóng tối khác.” Bà thấy vẻ đau buồn khuôn mặt Sophie và đặt tay lên má . “Quên những gì cháu biết , hoặc những gì cháu nghĩ là cháu biết – hãy tin vào bản năng của cháu. Nghe theo con tim cháu. Đừng tin ai.”


      “Nhưng Josh. Còn cậu ấy sao? Cháu có thể tin cậu ấy,đúng ?” Sophie sợ hãi .


      “Nghe theo con tim cháu,” Tsagaglalal nhắc lại. “Giờ nhắm mắt lại và ta dạy cháu Thổ thuật.”










      CHƯƠNG BỐN MƯƠI TÁM

      Virginia Dare ngồi bậc thang lớn trong sân chơi của nhà tù Alcatraz và nhìn ra thành phố qua hàng rào dây thép gai. Josh ngồi cạnh /


      “Tôi hiểu Lotan tới đâu rồi,” cậu .


      Virginia lăc đầu. “Khó lắm, nhưng tin tôi , khi nào nó đến nơi chúng ta biết. Tôi tưởng tượng rằng chúng ta nghe những tiếng hét từ chỗ này.”


      nghĩ nó tới chỗ nào của bờ biển?”


      “Tôi biết. Nó to lớn nhưng tôi nghĩ nó nặng nề. Dòng chảy khá nhanh ở đây. Đó là lý do biến nơi này thành nhà tù. Kể cả có ai đó thoát ra được khỏi xà kim cũng thể sống sót dưới biển.” chỉ ra cây cậu Cổng Vàng. “Tôi tưởng tường Lotan lướt qua cây cầu trước khi tiến tới bờ biển.”


      “Nó phá hủy nhiều trước khi các Elder tới chứ?” Josh hỏi.


      Dare nhún vai khiến tóc rơi xuống lưng. “Còn xem họ chờ bao lâu rồi mới can thiệp nữa.” Rồi nhíu mày. “Ngày xưa, loài người triệu hồi các Elder bằng cách bằng cách cầu xin họ, nhưn giờ ai còn tin vào các Elder nữa nên ai triệu tập họ. Và tất nhiên chút hỗn loạn. Lotan ăn tất cả những món gì bày ra đường của nó, nhưng tôi cũng chắc nó còn lớn được tới cỡ nào. Nó cũng uống luồng điện của bất cứ Elder, Thế hệ kế tiếp hoặc bất kỳ người bất tử nào tới gần. Cậu thấy điều xảy ra với Billy rồi đó.”


      Josh rùng mình khi nhớ lại và gật đầu.


      “Nếu cậu can thiệp, cậu ta thành cái xác khô. Hơn nữa,” tiếp. “đời sống của Lotan ngắn lắm. Nó chỉ có hai ba tiếng để sống sau khi được thả ra – bốn tiếng nếu được ăn uống đầy đủ - sau đó nó thu về vỏ trứng của nó.”


      mùi xú uế bay qua sân chơi, át mùi khí biển.


      Virginia vươn tay ra nắm lấy tay Josh khi sinh vật ra ngoài sân tập, móng vuốt của nó cào ken két mặt đá. Đó là con nhân sư. Nó là con sư tử to lớn với cánh đại bàng và đầu phụ nữ xinh đẹp. Con nhân sư nhìn Virginia và Josh, cái lưỡi đen thò ra thụt vào nếm khí.


      Josh cúi xuống nhặt thanh kiếm đá đặt bậc cầu thang và Virginia chầm chậm và cẩn trọng đặt cây sáo lên môi.


      Con nhân sư quay lời.


      “Bây giờ,” Virginia tiếp như thể có chuyện gì xảy ra. “Cậu muốn học Khí thuật chứ?”


      “Có.”


      “Tôi cần phải với cậu,” . “rằng tôi chưa từng dạy ai. Nhưng tôi xem người khác dạy.”


      “Thế nào?”


      “Hầu như đều thành công.”


      Josh ngay lập tức nhìn .


      “Tôi nhìn thấy người bất tử - hình như là Saint-Germain – cố dạy người bất tử khác Hỏa Pháp.” dừng lại và lắc đầu.


      “Chuyện gì xảy ra?”


      “Ờ cứ coi là rủi ro .”


      “Saint-Germain dạy Sophie hỏa thuật,” Josh . “Nhưng chị ấy có bốc cháy đâu?”


      “Ừ .”


      “Vậy giờ ông ấy giỏi hơn rồi. Vậy ai dạy cậu?”


      “Prometheus.”


      “Ấn tượng đây,” Virginia . xắn tay áo lên với lấy cây sáo. “Giờ, tôi biết cần có những từ ngữ cần thiết được dùng để dạy học sinh các Pháp Thuật Cơ bản, về tính tương sinh tương khắc của các phép thuật – nhưng tôi sợ tôi biết những từ đó, và tôi cũng tin chúng. Điều cậu cần phải nhớ là vấn đề phải ai dạy cậu, ma thuật mạnh thế nào tùy vào ý nguyện người sử dụng và sức mạnh luồng điện. Những cảm xúc – , hận, sợ hãi – tăng năng lực pháp thuật. Nhưng hãy cẩn thân. Những nguồn cảm xúc đó tiêu thụ luồng điện của cậu. khu luồng điện của cậu cạn vui đấy!” đột nhiên vỗ tay khiến lũ hải âu bay vụt lên.. “Giờ nhìn lên bầu trời ,” cầu.


      Josh ngửa người ra sau, đặt khuỷu tay vào bậc thang đằng sau và nhìn lên bầu trời chiều.


      “Cậu thấy gì?”


      “Mây. Chim. Vệt khói máy bay.”


      “Nhìn mây , đám nào cũng được...” , ngôn ngữ rung lên qua cây sáo trở thành tiếng huýt sáo nho .


      Josh tập trung vào đám mây. Cậu nghĩ nó giống khuôn mặt...hoặc con chó...cũng có thể là mặt chó...


      “Phép thuật cần có tưởng tượng,” Virginia , từ ngữ trầm bổng theo nốt nhạc. khí nồng nàn mùi cây xô thơm. “Cậu gặp Albert Einstein chưa..., tất nhiên cậu gặp rồi. Cậu còn quá trẻ. Ông ấy là người đàn ông ấn tượng, và chúng tôi là bạn tốt của nhau. Ông ấy biết tôi là ai; ông ấy từng với tôi rằng những câu truyện tôi kể về bất tử của tôi và những Vương Quốc Bóng tối cho ông ấy cảm hứng về thời gian và thuyết tương đối.”


      “Ông ấy luôn là trong những hùng trong lòng tôi,” Josh .


      “Thế cậu biết rằng ông ấy tưởng tượng quan trọng hơn tri thức. Kiến thức chỉ giới hạn ở những cái chúng ta hiểu biết, trong khi sức tưởng tượng che bọc toàn bộ thế giới, tạo ra những gì con người hiểu biết.” cười và tiếng sáo của hay. “Tôi nhờ ai đó biến ông ấy thành người bất tử nhưng ông ấy thích.” Tiếng nhạc của Virginia trở nên hoang dại và trầm trọng, như thể cơn bão vượt qua đại dương. “Hãy nhìn những đám mây và cho tôi cậu thấy gì.”


      Đám mây thay đổi hình dạng. “ chiếc thuyền,” Josh hỏi.


      Tiếng nhạc vỡ ra và bổng lên.


      “Với những cơn sóng vỗ vào mạn thuyền...”


      Và tiếng nhạc dừng lại.


      “Biến mất rồi.” Josh chớp mặt ngạc nhiên. Cậu quan sát đám mây vặn xoắn, khuấy đảo trời và biến mất.


      “Nhưng tôi khiến nó biến mất,” Virginia . “Chính cậu làm. nhạc gieo những hình ảnh vào đầu óc cậu và cậu nhìn thấy con thuyền trong cơn bão, trí tưởng tượng của cậu tạo ra mọi thứ kahcs. Khi tiếng nhạc biến mất, cậu tưởng tượng con thuyền chìm.” chỉ vào cây sao. “Thấy đám mây kia ?”


      Josh gật.


      “Quan sát nó nhé,” Virginia . đặt cây sáo lên môi thổi khúc hát ru dài nhàng và chầm chậm.


      “Chẳng có gì cả.”


      “Chưa thôi,” người bất tử . “Nhưng đó phải lỗi của tôi mà là của cậu.” Tiếng sáo vọng vọng lại trong óc cậu, những nốt nhạc va đập với những ký ức, giúp cậu nhớ lại những bài ca cậu nghe trong quá khứ, những mẩu đối thoại TV cậu xem. thanh bao quanh cậu như tấm chăn và cậu cảm thấy mí mắt nằng nặng vì buồn ngủ. “Lại nhìn mây .”


      “Buồn ngủ lắm,” Josh lẩm bẩm.


      “Nhìn ,” Virginia cầu.


      Đám mây vặn xoắn lại thành những hình ảnh cậu nhìn thấy trong đầu, khuôn mặt những diễn viên điện ảnh và những ca sĩ, những nhân vật trong những game cậu từng chơi.


      “Cậu tạo ra chúng,”Virginia thở hắt. “Giờ tập trung vào. Hãy nghĩ tới thứ gì đó cậu ghét...”


      Đám mây đột nhiên lớn hơn, đen hơn thành hình con mãng xà dài uốn éo.


      “Lại,” Virginia chỉ dẫn. “Cái gì đó cậu quý.” Tiếng nhạc vút lên.


      Josh cố nghĩ ra hình ảnh khuôn mặt chị trong đám mây nhưng vì cậu nhớ nên nó chỉ giống hình tròn. Cậu tập trung lại và hình tròn chuyển thành quả cam, rồi thành quả bóng vàng sau đó nó trải phẳng ra trở thành trang sách với những chữ hình que nhảy múa...


      “Rất tốt,” Virginia . “Giờ nhìn ra sân .”


      Josh ngồi thẳng lên và nhìn ra bức tường phía bên kia sân chơi.


      “Sân đầy đất,” Virginia . hít hơi sâu và cơn gió thổi qua khoảng gian trống, cuốn lớp bụi bay vào khí. “Tưởng tượng ra cái gì đó,” đề nghị.


      “Giống như?”


      con rắn,” gợi ý.


      “Tôi ghét rắn.”


      “vậy là cậu có thể tưởng tượng ra ràng. Chúng ta dễ tưởng tượng ra cái chúng ta sợ hơn; chính điều đó khiến chúng ta sợ bóng tối.”


      Josh nhìn đám bụi quay tròn trong khí và đột nhiên nó biến đổi trở thành con rắn vằn đỏ đen. Josh thấy nó trong Vườn Thú San Francisco. Con rắn ngay lập tức tan ra và biến thành lô gô hình cây cối và động vật của vườn thú.


      “Cậu cần phải tập trung,” Virginia rắn rỏi . “Cậu tạo ra con rắn, rồi cậu nhớ ra cậu thấy nó ở đâu; thế nên những hình ảnh biến đổi.”


      Josh gật đầu. Tập trung. Cậu cần phải tập trung. Ngay lập tức lô gô đó chuyển lại về hình dạng con rắn. Cậu nhìn thấy nó cuộn tròng lại thành vòng tròn hoàn hảo.


      “Ấn tượng đó,” Virginia . “Nhưng giờ tôi cho cậu nghe bí mật lớn nhất của Khí thuật. Tôi cược Bà phù thủy Endor dạy chị cậu”. mỉm cười. “Và đừng với tiến sĩ là cậu biết đó.”


      “Vì sao ?” cậu hỏi.


      Virginia đặt tay Josh lên ngực cậu. Những trang giấy nhàu nhĩ bên dưới lớp áo cậu. “Chúng ta đều có những bí mật mà Josh.”


      Josh giật mình đặt tay lên áo phông. Bên dưới lớp áo, trong bao da đeo cổ cậu là hai trang cuối cùng của cuốn Codex. Cậu bắt đầu hoảng loạn, phân vân hiểu Dee có biết rồi đột nhiên cậu đoán rằng Dare chưa cho ta nghe. “ biết bao lâu rồi?” cậu hỏi.


      lúc rồi.”


      “Và với Dee?”


      “Tôi tin cậu có lý do để cho ấy. Và tôi cũng chắc chắn rằng cậu khi cần thiết.”


      Josh lại gật đầu. Cậu vẫn chắc vì sao cậu cho Dee biết cậu có hai trang cuối. Cậu chỉ biết cậu chưa sẵn sàng. Và giờ cậu phân vân hiểu sao Virginia cũng cho Dee.


      “Nhắm mắt lại ,” Dare ra lệnh.


      Josh nhắm tịt mắt lại. Tiếng nhạc thay đổi, trở nên nhàng như tiếng gió thổi qua cây cối vào ngày mùa hè.


      “Cậu biết khí có sức mạnh thế nào,” Dare tiếp. “Có thể thổi bay những tòa nhà. Cậu thấy những trận bão phá hủy thành phố và những cơn sóng thần xé tan những thị trấn. Đó chính là sức mạnh của gió. Cậu thấy những những người biểu diễn trong khí từ trời rơi xuống và cưỡi những luồng nhiệt như những người lướt sóng. Cậu có thể sử dụng khí nén để làm sạch bàn phím máy tính.”


      Với đôi mắt nhắm chặt, Josh gật đầu.


      “Chúng ta là sức ép của khí.” Giọng người phụ nữ đột ngột trở nên xa xăm như thể bước ra xa. “Và nếu cậu có thể định hình và kiểm soát áp lực... cậu có thể kiểm soát mọi thứ. Mở mắt ra.”


      Josh nhìn Virginia nhưng biến mất. Và rồi cậu đứng lên và nhìn lên bầu trời, mồm há ra vì choáng váng. Virginia Dare trồi lờ lờ cách mặt đất khoảng mười feet. Mái tóc dài của bay phía sau như thể có quạt thổi và cánh tay mở rộng. “Áp lực khí đó Josh. Tôi định hình túi khí bên dưới tôi.”


      “Tôi cũng có thể làm thế chứ? Tôi có thể bay chứ?”


      “Cậu cần tập luyện. Nhiều đó,” và từ từ đáp xuống sân. “Đầu tiên là nổi lên rồi hẵng hay. Nhưng tất nhiên là cậu có thể làm được. Giờ, đây là điều cuối cùng tôi có thể làm cho cậu: cậu cần cò súng.”


      “Tôi biết nó là gì – Flamel và Sophie có hình xăm cổ tay.” Cậu giơ bàn tay trái và mở lòng bàn tay ra. Bên trong lòng bàn tay cậu là hình đá mặt trời của người Aztec. “Prometheus cho tôi cái này.”


      “Chúng ta cần đặt ở nơi thông thường như thế.” vỗ cây sáo vào cằm cậu. “Cậu xem phim Close Encounters to the Third Kind chưa?”


      “Rồi – Giáng sinh nào chẳng chiếu phim đó. Bố tôi có đĩa DVD phim đó.”


      “Tôi cũng đoán là cậu. Cậu nhớ giai điệu cuối phim chứ?”


      “Để liên lạc với các đĩa bay hả?” Cậu mím môi huýt sao năm cung nhạc khác nhau.


      “Chính xác,” Virginia , dùng sáo thổi lại điệu đó. Josh rùng mình khi cơn gió mang mùi xô thơm tràn vào cơ thể cậu. “Đây là cò súng của cậu. Giờ khi nào cậu cần dùng Khí Thuật, chỉ cần huýt sáo thôi!”


      Josh nhìn sân chơi vào huýt năm nốt nhạc. lon sô đa xuất và rơi xuống bức tường đá. “Quá là...tuyệt!”


      “Và hãy nhớ, nổi lên rồi mới bay.”


      Josh nhe răng cười. Cậu cố tạo túi khí dưới chân ngay lúc này.


      “Đây là lời khuyên cho cậu – thử ngồi nổi trước . Nếu cậu ngồi tấm thảm cậu có thể tạo ra đệm khí bên dưới, giống như chiếc tàu chạy đệm khí vậy.” mỉm cười. “Cậu nghĩ câu chuyện thảm bay đến từ đâu?”


      Đột nhiên từ trong nhà tù vọng ra tiếng cười the thé kinh hồn khiếp đảm.


      “Dee,” Virginia . Nụ cười của biến mất và trước khi Josh kịp phản ứng chạy lên các bậc thang rồi.


      Josh nắm lấy thanh Clarent và đuổi theo . Thanh kiếm phản chiếu ánh sáng mặt trời.






      CHƯƠNG BỐN MƯƠI CHÍN

      Chiếc vimana Rukma bay vùng đất đẹp lạ thường. Cánh rừng rộng mênh mông trải dài ngút tầm mắt. Những con sống uốn lượn đổ nước vào những hồ nước trong vắt có thể nhìn thấy đáy.


      Họ bay qua đàn voi ma mút lớn và quan sát những con hổ răng kiếm mình trong bụi cỏ cao. Những con gấu đen và gấu nâu lớn đứng hai chân sau khi chiếc vimana bay qua đầu chúng. Những con thằn lằn bay dáo dác khi đĩa bay xuất .


      “Đúng là vùng đất ma thuật,” William Shakespeare với Palamedes. “Tôi nghĩ tôi cần viết lại Giấc mộng đêm hè thôi.”


      Hiệp sĩ Sacaren gật đầu rồi đưa ông bạn tới cửa sổ khác. “Còn có cả gợn mây đen cơ,” ông lẩm bẩm và chỉ lên bầu trời bên họ.


      “Chúng ta có bạn rồi,” Scathach thông báo và tránh xa khỏi cửa sổ. “Rất rất nhiều bạn đồng hành.”


      “Tôi biết,” Prometheus . Vị chiến binh tóc đỏ to lớn chỉ vào màn hình xanh ngay trước mặt ông. đó đầy những chấm đỏ.


      Palamedes nhìn xung quanh phi thuyền. “Đây là chiến thuyền. này có vũ khí ?”


      Vị elder to lớn cười, hàm răng trắng tương phản với bộ râu đỏ. “Có nhiều lắm.”


      “Tôi sợ chúng ta sắp nghe thấy từ ‘nhưng’ rồi đấy” William Shakespeare lẩm bẩm.


      “Nhưng chúng hoạt động,” Prometheus tiếp. “Chiếc phi thuyền này cũ rồi. ai – kể cả Abraham – biết cách sửa nó. Ít khi chúng bay lắm và thường có hai chiếc rơi mỗi ngày.” Ông trỏ tay vào đống quần áo đặt chiếc ghế bên cạnh ông. “Mọi người có thể tự trang bị cho bản thân. Tôi lấy lại vũ khí cho các bạn từ tay anpu rồi.”


      “Ôi giờ cháu vui rồi,” Scathach , nhét thanh gươm vào vỏ bao sau vai.


      Saint-Germain và Joan ngồi cạnh nhau, đầu dựa vào nhau, nhìn lên nóc vimana. “Chúng tới nhanh quá. Chúng ta thể đếm nổi có bao nhiêu chiếc nữa.”


      “Lợi thế duy nhất chúng ta có là chỉ số ít trong đó có trang bị vũ khí,” Prometheus với họ.


      Palamedes nhìn qua Scathahc. “Khi ông ‘ít...”’ bắt đầu.


      vài cái có trang bị vũ khí đó,” Prometheus tuyên bố.


      “Chúng tới !” Saint-Germain hét lên. “Hai chiếc phóng hỏa tiễn rồi.”


      “Ngồi xuống và đeo dây an toàn vào,” Prometheus ra lệnh. Cả nhóm lục tục ngồi sau ông. Ông thêm, “Chúng ta thể cắt đuôi chúng được, và chắc chắn những chiếc hơn dễ lượn lách hơn.”


      “Đó là tin tốt đấy à?” Scathach hỏi.


      “Tôi là phi công tốt nhất của Danu Talis,” Elder .


      Scathach mỉm cười. “Nếu ai thế cháu nghĩ họ xạo. Nhung cháu tin Ông cậu.”


      Prometheus liếc nhìn Nữ Chiến Binh. “Tôi bảo bao nhiêu lần rồi – tôi phải ông cậu .”


      “Chỉ là chưa phải thôi,” thầm .


      “Mọi người sẵn sàng chưa?” Prometheus hỏi. Ông đợi câu trả lời mà phóng thẳng thiếc vimana tam giác lên bầu trời, rồi lượn ngược lại khiến bầu trời và mặt đất đảo lộn hết cả. Sau đó ông lượn lại và mặt đất và bầu trời về đúng vị trí.


      “Tôi sắp nôn rồ,” Scatty thầm.


      “Thế may chút nào,” Shakespeare . “Đặc biệt khi tôi ngồi ngay sau .”


      Joan nhoài người cầm lấy tay bạn. “Chị cần tập trung vào điều gì khác,” bằng tiếng Pháp.


      “Như cái gì?” Scacthach đặt tay lên mồm và nuốt cơn buồn nôn xuống.


      Joan chỉ.


      Scatty nhìn lên và đột nhiên cơn buồn nôn biến mất. Họ nhìn thấy ít nhất trăm vimana. Hầu hết hơn những chiếc họ nhìn thấy lúc trước, nhưng cũng có những chiếc dạng hình thoi lớn hơn và Scatty còn thấy hai chiếc vimana Rukma.


      Còn Prometheus lao thẳng tới chỗ chúng.


      William Shakespeare nhúc nhích thoải mái. “Giờ, tôi chưa từng là chiến binh và tôi biết nhiều là chiến thuật, nhưng chúng ta bay theo hướng khác được à?” Họ tới gần tới mức có thể nhìn thấy những anpu trong chiếc phi thuyền gần nhất.


      “Chúng ta làm thế,” Prometheus . “Nhưng tới khi hỏa tiễn nổ .”


      “Hỏa tiễn nào?” Shakespeare hỏi.


      “Hai cái sau lưng chúng ta ấy.” Prometheus kéo cần điều khiển lên và lần nữa chiếc vimana bay thẳng lên trời và quay theo chiều khác. Trời đất đảo điên. Scathach rên rẩm.


      Và hai quả hỏa tiễn bám đuôi họ bay thẳng vào hai chiếc vimana gần nhất. Chúng nổ tung thành những cầu lửa. Lửa lan sang ba chiếc phi thuyền khác trong khi hai chiếc nữa đâm vào nhau.


      “Hạ bảy chiếc,” Palamedes tuyên bố, ông ngay tức khắc lại trở thành chiến binh, báo cáo tình hình quân địch cho vị chỉ huy.


      “Còn chín mươi ba chiếc,” Saint-Germain nối và nháy mắt với vợ. Joan nắm lấy tay . lật tay lên và chạm vào hình xăm những con bướm hơn cổ tay . nhướn mắt hỏi.


      “Tôi có kế hoạch,” Saint Germain với Prometheus. “Tôi là Hỏa Sư. Sao chúng ta mở cửa và tôi đánh ít lửa nhỉ?”


      Promethus cười vang. “THử ,” ông . “Thử gọi luồng điện của lên .”


      Saint-Germain bẻ ngón tay. định đốt sáng ngón trỉ. Nhưng có gì. xoa những con bướm cổ tay và thử lại. cột khói đen bốc lên từ đầu ngón tay.


      dùng luồng điện trong khi tàu bay đâu,” Prometheus . “Đúng ra, Abraham tin rằng chúng bay được là nhờ vào luồng điện của phi công.”


      “Vậy là chúng ta dùng luồng điện được,” Saint-Germain . “chúng ta có vũ khí và thể cắt đuôi chúng. Thế chúng ta có thể làm gì?”


      “Chúng ta có thể bay giỏi hơn chúng.”


      Chiếc Rukma hạ độ cao. Palamedes và Saint-Germain hò reo còn Shakespeare và Scathach hét rú lên. Chỉ duy Joan vẫn giữ được bình tĩnh và im lặng.


      Mười chiếc vimana tách đội và lao xuống theo.


      Prometheus giảm tốc độ chiếc Rukma, hạ nó xuống ngay sát lớp hoa cỏ bên dưới. chiếc viman tới gần và họ có thể nhìn thấy anpu bên trong chuẩn bị bắn. Ông lái phi thuyền vào bụi cây. Ông cố tình điều khiển phi thuyền phóng về cây cây non nhưng nghiêng mũi tàu vào phút cuối để làm gẫy cây và nghiêng phi thuyền lại đâm thẳng vào chiếc vimana theo đuôi. Tay phi công giật mình mất lái. Chiếc đĩa bay lắc lư và cày xuống mặt đất.


      “Thêm chiếc nữa,” Palamedes .


      “Cú lừa ngoạn mục đó,” Saint-Germain hưởng ứng, “nhưng tôi chắc ông làm lại được.”


      Chín chiếc còn lại tới rất nhanh.


      “Nắp phi thuyền mở rồi,” Saint-Germain báo cáo. “Chúng sử dụng súng trường hay sao ấy.”


      “Tonbogiri,” Prometheus , lượn chiếc đĩa bay sang trái rồi sang phái tránh hai làn đạn. “Còn được gọi là máy chém.” Tiếng kim loại va chạm vào vỏ Rukma, sau đó là tiếng nổ làm rách lỗ thân tàu. quả bóng méo mó lăn tới gần Scathach. “Đừng chạm vào,” Prometheus cảnh báo khi Nữ chiến binh cúi xuống. “Quả bóng đó là lưỡi dao đó. Khi cầm nó, nó xả thịt ra làm đôi trước khi kịp cảm thấy đấy.”


      Vị Elder lái phi thuyền xuống hồ và cố tình cho nó chìm xuống. Làn nước lạnh băng ào vào nóc chiếc vinama gần nhất. Choáng váng, tên phi công thả tay khỏi cần điều khiển. Chiếc phi thuyền lắc lư đâm vào chiếc đằng sau khiến đúng lúc tay anpu bắn tỉa nổ súng. Quả bóng tonbogiri chém đứt đôi chiếc vimana và nó chìm mắt tăm xuống hồ.


      “Chỉ còn hai mươi hai chiếc nữa,” Hiệp sĩ Sacaren .


      Prometheus lượn vòng hoàn hảo mặt hồ, làm nước bắn tung tóe. chiếc vimana bay song song với họ và con anpu điều chỉnh hướng bắn tonbogiri. Prometheus ngắt máy và chiếc Rukma chìm như tảng đá. Nó rơi tòm xuống nước khiến nước và bọt bong bóng nổi lên. Ngay lập tức nước tràn vào qua lỗ hổng để lại do viên đạn tonbogiri. Vị Elder rít lên vì tức giận. “Tôi chưa bao giờ làm thế này. Tôi thường bay trời chứ,” ông lầm rầm.


      Tiếng kim loại đập vào nóc phi thuyền khiến họ nhìn lên. Họ có thế thấy bóng chiếc vimana hình tròn đầu. Rồi thêm hai chiếc nữa. Bóng tonbogiri rơi xuống mặt hồ làm tung bọt trắng xóa. Chúng từ từ chìm xuống, số rơi xuống nóc vimana, số rơi xuống đáy hồ.


      Đột nhiên có tiếng bốp và miếng lát sàn bay lên. Nước lạnh tràn vào quanh chân Joan. “Thuyền rò rồi!”


      lên!” Hiệp sĩ Sacaren hét lớn. “Chúng ta cần bay lên trước khi chúng ta nặng quá.”


      phút nữa,” Prometheus . Ông hất hàm về phía màn hình bên dưới. Hai đốm đỏ tiến nhanh tới.


      “Sau chúng lại tới từ đằng sau chúng ta được?” Saint-Germain hỏi.


      “Bên dưới chúng ta,” Prometheus sửa lại. “Và phải chúng tiến tới mà là chúng ta đánh thức thứ gì đó trong lòng đất.”


      “Ông cố tình,” Scathach trách cứ vị Elder. “thế nên ông mới cho tàu chìm.”


      “Dù nó là gì, nó tới nhanh... rất nhanh...” Palamedes chỉ vào màn hình. “Nhiều chiếc nữa tiến tới.”


      “Tôi có thể thấy có gì đó bên ngoài – chúng di chuyển trong nước,” Saint-Germain vội vã . “Cái gì đó...” dừng lại, trong chốc lát á khẩu. “Lớn... có răng... rất nhiều răng...”


      Prometheus gạt cần điều khiển và chiếc Rukma vọt lên. Nó phóng lên khỏi mặt nước với hai sinh vật giống cá mập theo sát sau. Con đầu tiên đâm vào hai chiếc vimana lượn vòng, trong khi con còn lại gặm chiếc thứ ba, cắn đôi nó ra và kéo nó xuống lòng hồ.


      Thêm ba con quái vật nữa nhảy lên khỏi mặt hồ, nhe hàm răng sắc nhọn. “Cá mập,” Scathach .


      “Con megalodon,” Prometheus và cho chiếc Rukma lên cao hơn nữa và hơn nữa, dòng nước đổ ra từ lỗ thủng thân tàu.


      “Chúng dài ít nhất phải ba mươi feet!” Scathach .


      “Tôi biết,” Elder đáp. “Chúng chỉ là con con thôi.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :