Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 3: Nữ phù thủy) - Michael Scott(Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 11

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Cả khi Sophie hoặc Josh chưa kịp phản ứng gì, Pamlamedes từ phía sau Nhà Giả kim áp tới và hai cánh tay khổng lồ của ta khóa vai Flamel. Luồng điện của hai người bất tử lóe sáng và nổ răng rắc, luồng điện của Nhà Giả kim màu xanh lá nhạt trộn lẫn với màu xanh ô-liu sẫm hơn của chàng hiệp sĩ. Mùi cay sè của kim loại và cao su nhuốm khắp bầu khí của bãi xe tràn ngập với mùi hương bạc hà tinh khiết và hơi ấm có mùi gia vị đinh hương. Flamel cố gắng vung thanh kiếm lên, nhưng tay hiệp sĩ siết chặt cổ tay ông và đẩy mạnh, ấn Nhà Giả kim khuỵu xuống, những ngón tay quắp vào da thịt, bó chặt đến tận xương tủy. Thanh kiếm rơi ra khỏi tay Flamel.

      Sophie xòe rộng ngón tay bàn tay phải và chuẩn bị giơ lên gọi yếu tố lửa, nhưng Josh nắm lấy cánh tay bé kéo xuống. “Đừng,” cậu vội , vừa lúc bầy chó sục sôi phóng ra từ bên dưới căn chòi và tụ lại chung quanh hai đứa . Các con thú di chuyển trong im lặng hoàn toàn, miệng he hé nhe hàm răng vàng chạch man rợ và cái lưỡi lè ra chẽ nhánh như lưỡi rắn. “Đừng nhúc nhích,” cậu vừa thầm , vừa siết chặt bàn tay chị song sinh của mình. Những con chó tiến đến gần đủ để cậu trông thấy những con mắt của chúng hoàn toàn màu đỏ, hề có chút tròng trắng mà cũng có con ngươi. Tiếng răng kêu kích thích, và cậu cảm thấy cái miệng ươn ướt chạm lướt qua những ngón tay cậu. Những con thú tiết ra thứ mùi ẩm mốc cũ kỹ giống như mùi lá mục. Dù những con chó to lớn, nhưng chúng có sức lực mạnh mẽ lạ thường – con đụng phải cẳng chân Josh, đẩy cậu ngã nép vào người Sophie. Luồng điện của cặp song sinh tóe lửa và con chó ép sát chân cậu bị ngã đổ nhào, lông dựng đứng.

      “Đủ rồi!” Giọng Palamedes oang oang vang vọng qua tận bên kia bãi để xe. “ có cạm bẫy gì ở đây hết.” Chàng hiệp sĩ chồm lên người Nicholas, bàn tay khổng lồ của ta vẫn khóa chặt hai bên vai ông, đẩy ông ngã xuống. “Có thể tôi phải là đồng minh của ông, Nhà Giả kim ạ,” Palamedes cất tiếng ầm ầm. “Nhưng tôi cũng phải là kẻ thù của ông. Bây giờ tất cả những gì tôi còn giữ là danh dự của tôi, và tôi hứa với bạn Saint-Germain là tôi chăm sóc cho ông. Tôi phản bội lòng tín nhiệm ấy.”

      Flamel cố lắc mình thoát ra, nhưng bàn tay nắm chặt của Palamedes vô phương bẻ gãy. Luồng điện của Nhà Giả kim tóe lửa và rực sáng lên, rồi thình lình xìu xuống và ông kiệt quệ ngồi thụp xuống.

      “Ông có tin tôi ?” Palamedes gặng hỏi.

      Nicholas gật đầu. “Tôi tin – nhưng, tại sao ta lại ở đây?” Với vẻ đầy ghê tởm gương mặt, Nhà Giả kim ngẩng đầu nhìn người đàn ông nhắn ngồi co rúm người trong căn nhà chòi, nhìn săm soi đâu đó trong góc cửa.

      “Ông ấy sống ở đây,” Palamedes cách đơn giản.

      “Ở đây! Nhưng ta là…”

      “Bạn tôi,” tay hiệp sĩ ngắn gọn. “ thay đổi nhiều lắm rồi.” Nới lỏng tay, Palamedes nắm lấy hai vai Nicholas nhấc ông đứng dậy. Xoay tròn người ông, tay hiệp sĩ kéo chiếc áo khoác da nhàu nát của ông lại cho thẳng thớm; rồi ta thốt ra lời gì đó bằng thứ ngô ngữ thể hiểu nổi và mấy con thú vây quanh cặp song sinh nhanh chóng rút lui vào căn chòi trú .

      Josh liếc xống thanh kiếm nằm dưới đất và băn khoăn tự hỏi biết liệu cậu có đủ nhanh để với lấy nó hay . Cậu nhìn lên và thấy đôi mắt màu nâu sẫm của Palamedes chăm chú nhìn cậu. Chàng hiệp sĩ mỉm cười hàm răng trắng toe sáng và cúi xuống giật phắt thanh Clarent ra khỏi đám bùn đất. “Lâu quá tôi mới nhìn thấy lại thứ này,” chàng hiệp sĩ rất dịu dàng, giọng phức tạp, lại thoáng nghe trong đó chút nguồn góc Trung Đông. Ngay lúc ta chạm thanh kiếm, luồng điện của ta nở bung đầy sinh lực bao quanh lấy toàn thân và chỉ trong giây lát ta được bọc trong lớp áo giáp dài thời Trung cổ lằm bằng chuỗi dây xích, kết thành nguyên bộ cùng với cái mũ trùm vừa khít phủ từ cánh tay cho đến đầu ngón tay và kết thúc phía bên dưới bắp đùi. Mỗi chỗ nối của áo giáp xích đều phản chiếu lấp lánh. Khi luồng điện ta nhạt dần , lưỡi kiếm của thanh Clarent lung linh màu đen ngã sang màu đỏ, loang loáng như dầu mặt nước, và thanh, như gió thổi qua bãi cỏ dài, vi vu rì rào từ bên này sang bên kia lưỡi kiếm.

      !” Lưỡi kiếm đá đen lại lung linh màu đỏ sóng sánh như máu, và Palamedes rùng mình hít sâu rồi đột nhiên thả rơi thanh kiếm, mồ hôi rịn ra lấp lánh làn da sậm. Món vũ khí ấy cắm phập mũi xuống khoảng đất bùn, đứng lắc lư. Palamedes chà xát hai bàn tay vào với nhau mạnh, sau đó chùi miết vào ống quần mình. “Tôi tưởng nó là thanh Excal…” ta quay lại nhìn Flamel. “Ông làm gì với cái… thứ này vậy? Chắc ông phải biết đó là cái gì chứ?”

      Nhà Giả kim gật đầu. “Tôi giữ nó an toàn suốt bấy nhieu thế kỷ.”

      “Ông giữ nó à?” Chàng hiệp sĩ siết chặt bàn tay mình thành hai nắm đấm khổng lồ. Gân máu nổi hằn lên dọc cánh tay và cả phần cổ. “Nếu ông biết đó là cái gì, tại sao ông phá hủy nó kia chứ?”

      “Nó còn già hơn cả nhân loại này,” Flamel từ tốn , “thậm chí còn già hơn cả các Elder hoặc Danu Talis. Sao tôi có thể phá hủy nó được?”

      “Nhưng nó là thứ đồ ghê tởm,” Palamedes cáu kỉnh. “Ông biết nó gây ra chuyện gì nào?”

      “Nó là thứ công cụ; có gì hơn. Nó chỉ bị kẻ xấu lợi dụng thôi.”

      Palamedes chợt lắc đầu.

      “Chúng tôi cần đến nó để thoát thân,” Nhà Giả kim kiên quyết . “Và hãy nhớ lại , có nó, Nidhogg vẫn sống nhăn mà tung hoành khắp Paris cho xem.”

      Josh bước tới, rút thanh kiếm ra khỏi đất và lau đầu mũi kiếm dính bùn vào cạnh giày cậu. thoáng rất mùi hương cam thoảng trong khí, nhưng mùi hương này nghe đăng đắng và hơi chua. Ngay lúc cậu con trai chạm vào cán kiếm, luồng cảm xúc và hình ảnh đập vào cậu:

      Palamedes, Hiệp sĩ Saracen, đứng đầu mười hai hiệp sĩ tất cả trong trang phục ác giáp và giáp xích. Họ bị đánh nhừ tử, áo giáp của họ đầy dấu sẹo và bung bể, vũ khí nứt gãy, khiên thuẫn sứt mẻ. Họ chiến đấu mở đường xuyên thủng đạo quân gồm những binh lính trông như những con quái thú thời nguyên sơ, cố gắng chiếm được quả đồi nơi có chiến binh đơn lẻ mình mặc áo giáp vàng ra sức chiến đấu chống lại các sinh vật lai tạp kinh khủng giữa con người và loài thú hoang.

      Palamedes hét lớn lời cảnh báo khi sinh vật đồ sộ vươn mình đứng dậy phía sau người chiến binh đơn độc kia, sinh vật hình thù giống như con người nhưng có những cái sừng hươu đực uốn cong vòng đầu. Tên đàn ông có sừng giơ cao thanh đoản kiếm bằng đá và người chiến binh mặc giáp vàng ngã xuống.

      Palamedes đứng bên người chiến binh ngã xuống, nhàng tước thanh kiếm Excalibur ra khỏi tay ông ta.

      Palamedes lao thẳng qua bãi lầy sền sệt, truy đuổi theo sinh vật trông giống loài hươu này. Bọn quái thú tiến sát đến ta – bọn người lợn lòi, người gấu, người sói và người dê – nhưng ta lấy thanh Excalibur phạt ngang qua mình chúng, thanh kiếm chiếu sáng rực, còn vương lại những vòng cung ánh sáng màu xanh lơ lạnh lẽo trong trung.

      Palamedes đứng dưới đáy vách đá dựng đứng đến mức tối đa, chăm chú nhìn tên người đàn ông có sừng thoăn thoắt trèo tuốt lên đỉnh cách dễ dàng.

      Và ngay tại đỉnh, sinh vật kia quay người giơ cao thanh kiếm ta từng dùng để giết chết nhà vua. Thanh kiếm ấy ướt đẫm và bốc lên luồng khói màu đen trộn lẫn màu đỏ thẫm. Và hầu như đó là tấm gương phản chiếu của thanh kiếm trong tay Hiệp sĩ Saracen.

      Josh hít sâu vào và rùng mình khi những hình ảnh ấy nhòa dần . Người đàn ông có sừng giữ thanh Clarent, thanh kiếm song sinh của Excalibur. Mở choàng mắt, cậu nhìn thứ vũ khí ấy, và đúng ngay lúc đó, cậu biết tại sao Palamedes chộp lấy thanh kiếm này. Hai thanh kiếm gần như giống hệt nhau; chỉ có những khác biệt rất nơi cán kiếm. Hiệp sĩ Saracen tưởng nhầm thanh kiếm đá này là thanh Excalibur. Tập trung mãnh liệt vào thanh kiếm xám xịt ấy, Josh cố dồn sức vào những gì cậu vừa trông thấy – người chiến binh mặc áo giáp vàng. Đó có phải là…?

      thứ mùi cũ kỹ lâu ngày giặt rửa sặc vào mũi Josh và cậu quay người lại vừa lúc bắt gặp người đàn ông đầu hói mà hồi nãy hai đứa vừa thoáng thấy đứng gần sát cậu, hấp háy đôi mắt như bị cận thị đằng sau cặp kính dày cộp có gọng đen. Đôi mắt ông ta màu xanh lơ nhạt thếch. Và người ông ta toát ra thứ mùi khó chịu. Josh bật ho rồi bước lùi lại, chảy nước mắt.

      “Ông, ông phải tắm thôi!”

      “Josh!” Sophie kêu lên, cảm thấy sốc.

      “Tôi mấy tin tưởng vào việc tắm táp đâu,” người đàn ông bằng chất giọng ràng và nhanh, giọng hoàn toàn trái hẳn với vẻ bề ngoài của ông ta. “Việc đó làm tổn hại đến lớp dầu tự nhiên bên cơ thể người ta đấy. Ở dơ sống lâu.”

      Người đàn ông thó chuyển từ Josh sang Sophie và nhìn bé từ đầu đến chân. Josh để ý thấy chị cậu chớp mắt mạnh và chun mũi. Rồi mím chặt môi và bước lùi lại.

      “Thấy em chưa?” Josh . “Ông ấy cần phải tắm mà.” Cậu phủi đất ra khỏi lưỡi kiếm và bước đến gần chị mình hơn. Người đàn ông trông có vẻ làm hại ai, nhưng Josh có thể khẳng định rằng có cái gì đó cho thấy ông giận – hoặc là sợ hãi? – Nhà Giả kim.

      “Ừ,” Sophie cố hít thở bằng mũi. Mùi hôi thối từ người đàn ông này phát ra thể tả nổi: pha trộn giữa mùi hôi nơi thể lâu ngày tắm, quần áo giặt và tóc khét nắng.

      “Tôi đánh cuộc xem hai bạn có phải là cặp sinh đôi nào,” người đàn ông vừa ướm lời, vừa nhìn từ đứa này sang đứa kia. Ông ta gật đầu, tự trả lời cho câu hỏi của chính mình. “Đúng là sinh đôi.” Ông ta giơ mấy ngón tay bẩn thỉu ra định chạm vào tóc Sophie, nhưng bé gạt tay ông ta . Luồng điện của bé tóe lửa và mùi hôi thối quanh người đàn ông thoắt mạnh thêm lên.

      “Đừng động vào tôi!”

      Flamel bước đến đứng giữa người đàn ông mặc bộ quần áo bảo hộ của người thợ máy với hai đứa song sinh. “Ông làm gì ở đây?” ông hỏi gằn. “Tôi tưởng ông chết rồi chứ.”

      Người đàn ông mỉm cười, để lộ hàm răng xấu cách tồi tệ. “Tôi chết y hệt như cách của ông vậy thôi, Nhà Giả kim ạ. Dù tôi có nổi tiếng hơn tí chút.”

      ràng là hai người trước đây từng gặp nhau rồi,” Josh .

      “Chú quen biết người –” Nicholas ngập ngừng những đường hằn và nếp nhăn gương mặt ông – “người này từ khi ông ấy còn là cậu bé con. ra, có lần chú từng rất kỳ vọng vào ông ấy.”

      “Có người nào muốn cho chúng tôi biết người này là ai ?” Josh vừa hỏi gặng, vừa nhìn từ Nhà Giả kim sang Palamedes rồi nhìn trở lại vòng như vậy lần nữa, chờ đợi câu trả lời.

      “Ông ấy là học trò của chú, cho tới khi ông ấy phản bội,” Flamel cắn cảu, gần như là khạc thành lời. “Ông ấy trở thành cánh tay phải của John Dee.”

      Ngay lập tức cặp song sinh lùi xa khỏi người đàn ông. Và tay Josh nắm chặt thanh kiếm.

      Người đàn ông tóc hói nghiêng đầu sang bên, vẻ mặt ông ta bối rối và buồn thể tả. “Đó là chuyện lâu lắm rồi, Nhà Giả kim. Tôi kết giao với tay Pháp sư ấy hàng mấy thế kỷ nay.”

      Flamel bước về phía trước. “Cái gì làm thay đổi tâm tính của mình vậy? chẳng trả cho đủ để phản bội vợ, gia đình, và bạn bè mình sao?”

      Nỗi đau thoáng qua trong đôi mắt màu xanh lơ nhạt của người đàn ông. “Tôi phạm sai lầm, Nhà Giả kim ạ, đó là . Tôi dùng cả đời mình để chuộc lỗi với mọi người. Người ta ai cũng có thể thay đổi… Vâng, hầu hết mọi người,” ông ta thêm rất khẽ khàng.

      Nhà Giả kim từ người đàn ông quay ngoắt sang nhìn trực diện với hai đứa song sinh. “Đây,” ông , cánh tay vẫy vẫy về phía người đàn ông thó trong bộ đồ bảo hộ lao động đầy bùn đất, “nguyên là người học việc của Dee, người bất tử William Shakespeare.”

      Chương 12

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Đứng như được đóng khung bên dưới ô cửa căn nhà phố nguy nga của mình, Niccolo Machiavelli chăm chí nhìn Tiến sĩ Josh Dee bước vào chiếc limousine màu đen bóng loáng. Người tài xế ăn vận lịch đóng cánh cửa xe, cùi đầu chào Machiavelli, rồi ngồi vào chỗ tài xế. tích tắc sau chiếc xe hơi trườn mình tách khỏi lề đường, và, hệt như dự đoán của tay người Ý, Dee hề ngoái nhìn lui mà cũng chẳng hề vẫy tay chào. Đôi mắt xám như màu đá của Machivelli dõi theo chiếc xe cho đến lúc nó hòa lẫn vào dòng xe cộ trong buổi chiều tà. Hầu như cùng lượt, chiếc xe này vừa rời khỏi Place du Canada chiếc Renault tên tuổi liền len vào chiếm lấy vị trí cách sát đuôi nó ba chiếc xe. Machiavelli biết rằng chiếc Renault này bám theo chiếc xe hơi chở Dee đến hết ba khối nhà và chiếc thứ hai rồi đến chiếc thứ ba nữa thay thế vai trò đó. Camera được đặt bảng điều khiển trong xe tiếp sóng những bức ảnh sống động của Dee đến máy tính của Machiavelli. Bao lâu còn ở lại Paris này, chắc hẳn Dee bị theo dõi từng giây từng phút. Bản năng được mài giũa suốt bấy nhiêu thế kỷ sóng còn mách bảo y rằng Dee còn phải làm nhiệm vụ gì đó nữa. Tay Pháp sư người quá nôn nóng muốn ra , bất chấp lời mời nghỉ lại đêm của Machiavelli, lý do đưa ra là buộc phải đến nước ngay tức khắc để tiếp tục công việc truy lùng Flamel.

      Cố đẩy đóng lại cánh cửa gian tiền sảnh nặng nề dày cộp làm bằng kính chống đạn, Machiavelli mới chợt nhận ra rằng chính những việc nhặt như thế này mới làm y nhớ đến Dagon.

      Dagon ở với y gần bốn trăm năm nay, kể từ khi Machiavelli tìm thấy nó ở Grotta Azzurra đảo Capri, lúc nó bị thương sắp chết. Y chăm sóc cho Dagon khỏe trở lại, và để đền đáp, sinh vật này trở thành tên đầy tớ trai, kiêm thư ký, là vệ sĩ và, cuối cùng, là bạn của y. Hai người du hành khắp thế giới và thậm chí cùng nhau liều lĩnh xông vào số các Vương quốc Bóng tối được cho là an toàn. Dagon cho y thấy những điều kỳ diệu, và đến lượt mình, y giúp sinh vật ấy bước đầu quen với nghệ thuật và nhạc. Mặc dù tính chất võ biền của tên học việc này, nhưng nó có chất giọng rất đẹp và trong trẻo. Chỉ đến nửa sau của thế kỷ hai mươi, khi lần đầu tiên Machiavelli nghe được những nốt nhạc buồn sâu thẳm trong những bài hát của loài cá voi, lúc ấy y mới nhận ra những thanh mà sinh vật này có khả năng cất lên.

      Hầu như cả nửa thiên niên kỷ nay Machiavelli cho phép ai được đến gần y. Y chỉ mới bước vào những năm đầu của tuổi ba mươi khi cưới Marietta Corsini và năm 1502, và qua hai mươi lăm năm sau đó họ có với nhau cả thảy sáu người con. Nhưng trước khi y trở thành người bất tử, y bị buộc phải “chết” để giấu nhẹm là y bao giờ bị già . Elder Đen tối là người ban bất tử cho y hề với y đến thời điểm nào mưu mẹo ấy mới cần thiết. Rời xa Marietta và các con là trong những việc khó khăn nhất mà y phải làm, nhưng y luôn trông chừng vợ con y trong suốt phần còn lại của cuộc đời họ. Y cũng nhìn thấy họ già , yếu đau bệnh tật và lụi tàn: đây là khía cạnh đau xót của món quà bất tử. Cuối cùng khi Marietta chết, y cải trang để đến dự đám tang của bà ấy rồi đến viếng mộ bà ấy vào giữa đêm khuya thanh vắng để bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng của y và thề rằng y luôn tôn trọng lời tuyên thệ trong cuộc hôn nhân của mình và bao giờ tái hôn nữa. Y giữ lời hứa ấy.

      Machiavelli sải bước xuống hành lang hai bên tường được nẹp gỗ và ấn lòng bàn tay y vào bức tượng bán thân của Cesare Borgia đặt chiếc bàn tròn nho . “Dell’ arte della Guerra,” y lớn tiếng, giọng vang vang trong gian tiền sảnh trống trải. tiếng tách kêu lên và phần của bức tượng trượt lui để lộ ra văn phòng riêng của Niccolo. Khi y bước vào phòng, cánh cửa rin rít đóng lại và những ngọn đèn tường vụt bừng sáng. Y có căn phòng giống y như thế này – nơi riêng tư, bí mật – trong mọi ngôi nhà y sống. Đây là lãnh địa của y. Trong suốt thời gian chung sống, Marietta được phép vào những phòng riêng thế này trong bất kỳ ngôi nhà nào của họ, và qua hàng mấy thế kỷ thậm chí Dagon cũng chưa bao giờ đặt chân vào căn phòng nào. Trong nhiều năm trước, căn phòng được thiết kế những lối bí mật để ra vào và được bảo vệ bằng những bẩy chông nhọn vào lưỡi kiếm, rồi sau đó là bằng rất nhiều ổ khóa và những chiếc chìa khóa đục đẽo rối ren phức tạp. Ngày nay, trong thế kỷ hai mươi mốt, căn phòng an toàn trong lớp vỏ bọc chống bom và được bảo mật bằng kỷ nhận dạng chỉ tay và nhận giọng bằng đồ thị sóng .

      Căn phòng là hình khối hoàn toàn cách . có cửa sổ, hai mặt tường phủ đầy những quyển sách y từng sưu tập xuyên suốt nhiều thế kỷ. Những bìa sách bằng da đứng bên cạnh những trang giấy da ố vàng và cứng ngắc được chất lên kệ hướng mặt ra cùng phía. Giấy da cuộn lại và da sống may khâu nằm dọc theo những cuốn sách bìa mềm đại đầy màu sắc tươi sáng. Và tất cả những cuốn sách này, cách này cách khác, đều có liên quan đến các Elder. Với vẻ lơ đảng, y vuốt phẳng lại phiến ngà khắc ngôn ngữ Xê-mít ở vùng Lưỡng Hà bốn ngàn năm tuổi, đặt nó trở lại chóp mớ tài liệu in ra từ trang Web chuyên bàn về các chủ đề thần thoại. Trong khi Flamel bị ám ảnh bởi việc ngăn chặn cho các Elder Đen tối quay trở lại thế giới này, và đổi lại, Dee quyết tâm làm cho thế giới trở lại với các chủ nhân của , Machiavelli tập trung vào việc khám phá ra giấu đằng sau những nhà cai trị trái đất thời Cổ đại. trong những bài học y nhận ra dưới triều Medici là quyền lực đến từ kiến thức, vì thế y nhất quyết ngừng khám phá những bí mật của các Elder.

      Bức tường đối diện với ô cửa hoàn toàn bị choán hết chỗ bởi loạt các màn hình máy tính. Machiavelli nhấn vào cái nút và tất cả đều bật sáng, mỗi cái cho thấy hình ảnh khác nhau. Có đủ các quang cảnh của Paris và hình ảnh đến từ hơn chục thủ đô khắp thế giới, và nhóm bốn màn hình phát trực tiếp phần tin tức quốc nội và quốc tế từ khắp nơi trái đất. màn hình, rộng hơn hết thảy, cho thấy hình ảnh lấm tấm đầy hạt màu xam xám chuyển động. Machiavelli ngồi vào cái ghế bọc da có lưng tựa cao và nhìn chằm chằm vào màn hình ấy, cố khoác lên những gì y xem ý nghĩ nào đó.

      Đó là đoạn băng trực tiếp lấy từ chiếc xe hơi bám đuôi Dee.

      Machiavelli quan tâm đến chiếc limousine đen nằm giữa khung hình mà tập trung vào đường phố. Dee đâu vậy cà?

      Tay pháp sư bảo vơi y rằng định hướng thẳng đến phi trường, nơ chiếc máy bay phản lực riêng của tiếp nhiên liệu. bay thẳng đến và lại tiếp tục săn tìm Nhà Giả kim. Machiavelli nhếch khóe miệng cong lên thành nụ cười. ràng là Dee đâu có hướng về phía phi trường; quay ngược vào hướng thành phố kia kìa. Bản năng của tay người Ý đúng: Pháp sư nhiệm vụ gì đó.

      Vừa ngó chừng lên màn hình, Machiavelli vừa mở máy tính xách tay của y ra, bật nguồn và đưa đầu ngón tay trỏ vào bộ phận đọc dấu vân tay tích hợp. Chiếc máy tính hoàn tất chuỗi khởi động. Nếu y sử dụng bất kỳ ngón nào khác để đăng nhập vào hệ thống, loại virus phá hủy ghi đè lên toàn bộ ổ cứng.

      Y nhanh chóng đọc kỹ các e-mail được mã hóa đến từ các tay chân và gián điệp của y địa bàn London. nụ cười mỉa uốn vặn đôi môi mỏng dính; tin tức tốt rồi. Mặc cho bao nhiêu thứ Dee làm, Flamel và cặp song sinh vẫn biến mất tăm mất dạng, và người ta phát ra nhóm ba tên Genii Cucullati con phố ngang nằm gần ga xe lửa. Cả ba đều hôn mê sâu, và tay người Ý ngờ rằng phải đến 366 ngày nữa chúng mới tỉnh dậy được. Có vẻ như tay tiến sĩ người này lần nữa đánh giá thấp Nhà Giả kim mất rồi.

      Machiavelli ngồi trở lại vào ghế và áp hai bàn tay vào nhau, thoáng trông như tư thế cầu nguyện. Hai đầu ngón trỏ tì vào môi. Lúc nào y cũng biết rằng hình ảnh mà Flamel tự khoác lên người – ông già lóng ngóng lập dị, vụng về, khá là đãng trí – chính là tấm bình phong tung hỏa mù mà thôi. Suốt nhiều thế kỷ, các Elder Đen tối tung vào Nicholas và Perenelle đủ mọi thứ, thế mà họ vẫn sống sót nhờ vào khả năng kết hợp giữa xảo quyệt, kỹ năng khéo léo, kiến thức khôn lường và chuỗi may mắn bất tận. Machiavelli tin rằng Flamel thông minh hiểu biết, nguy hiểm và hoàn toàn tàn nhẫn.

      Tuy nhiên, nếu như Nicholas mưu mô xảo quyệt, thậm chí y phải thừa nhận rằng Perenelle khôn ngoan lanh lợi hơn ông ta nhiều. Nụ cười của Machiavelli ngập ngừng: đây là người phụ nữ y được giao phải giết, người phụ nữ mà chủ nhân Elder Đen tối của chính y mô tả là nguy hiểm hơn Nhà Giả kim gấp bội. Y thở dài. Giết chết người mạnh mẽ như Nữ Phù thủy phải là chuyện dễ dàng. Nhưng y hoàn toàn chút nghi ngờ rằng mình có thể thực được việc đó. Trước đây y thất bại lần, nhưng đó là bởi vì y phạm phải sai lầm nghiêm trọng như Dee vừa mắc phải: đánh giá thấp kẻ thù của mình.

      Lần này Machiavelli hẳn sẳn sàng với Nữ Phù thủy. Lần này y giết chết bà ta.

      Nhưng trước hết y phải đến được nước Mỹ. Những ngón tay của Machiavelli lướt qua bàn phím để đăng nhập vào trang Web lữ hành. như Dee đâu cũng thích sử dụng chiếc máy bay phản lực riêng của mình, còn Machiavelli lại quyết định mua vé bay đến Mỹ. Y có thể dùng trong mấy chiếc phi cơ phản lực của chính phủ Pháp, nhưng chuyện đó lôi kéo chú ý, và Machiavelli luôn ưa thích hoạt động kín đáo phía sau hậu trường.

      Y cần chuyến bay thẳng đến San Francisco. Chọn lựa của y được đáp ứng, nhưng có chuyến bay liên tục ngừng rời Paris vào 10 giờ 15 sáng hôm sau. Chuyến bay này mất hơn mười giờ bay, nhưng vì có chênh lệch múi giờ chín tiếng nên y đến vùng Bờ Tây vào khoảng 12 giờ 30 phút trưa tính theo giờ địa phương.

      Chuyến bay Air France còn chỗ Hạng Nhất vì thế y đành đặt vé l’Espace Affaires – Hạng Thương nhân. Chắc chắn là thích hợp. Rút cục chuyến bay này là thương vụ mà. Machiavelli nhắp chuột vào mục đồng ý mua và chọn ghế số 4A. Vị trí đó nằm ngay cuối khoang Hạng Thương nhân, nhưng khi máy bay hạ cánh và cánh cửa bật mở, y có thể là người bước ra đầu tiên. Khi e-mail xác nhận bất chợt ra trong hộp thư đến, y chuyển tiếp bản sao chi tiết chuyến bay cho trạm liên lạc chính của các Elder Đen tối vùng Bờ Tây của nước Mỹ: người bất tử Henry Mc.Carty.

      Machiavelli nghiên cứu về người đàn ông này khá kỹ lưỡng. Suốt cuộc đời ngắn ngủi của Mc.Carty được biết đến nhiều hơn với cái tên William H. Bonney hay còn gọi là Billy the Kid. Sinh năm 1859, bất tử vào tuổi hai mươi hai – hoặc chết, theo các sách lịch sử mô tả. Machiavelli lắc đầu băn khoăn tự hỏi. là rất bất thường đối với người bình thường lại trở thành bất tử ở vào lứa tuổi quá trẻ như thế; hầu hết những người bất tử y có dịp gặp qua suốt bấy nhiêu thế kỷ đều lớn tuổi hơn thế cả. Mặc dù nhiều năm nghiên cứu, nhưng Machiavelli vẫn thể hiểu ra được tại sao số người nào đó lại được các Elder chọn để nhận món quà này. Phải có kiểu mẫu hoặc lý do nào đó, nhưng y tình cờ gặp những ông vua, hoàn tử, những người lang thang lêu lổng và những kẻ trộm cắp hề có điểm gì chung cả, ngoại trừ việc họ được ban tặng bất tử - và vì thế trở thành người làm thuê cho các Elder. Rất ít người trở nên bất tử trước khi họ bước vào độ tuổi bốn mươi. Vì thế, để được ban cho bất tử ở tuổi hai mươi hai, quả thực Billy the Kid chắc phải rất đặc biệt.

      thoáng chuyển động lóa lên làm Machiavelli chú ý và nhìn lên màn hình nãy giờ theo dõi Dee.

      Mấy chiếc xe dừng lại, và đúng lúc Machiavelli chăm chú nhìn, Dee bước ra khỏi hàng ghế phía sau của chiếc limousine mà để cho tài xế có giờ hối hả vòng ra mở cửa. Tay Pháp sư vài bước cách xa chiếc limousine, rồi dừng lại chút và quay người nhìn vào chiếc xe ngay phía sau . Trong tích tắc Dee trừng trừng nhìn thẳng vào chiếc camera, Machiavelli nhận thấy rằng biết mình bị theo dõi. Pháp sư mỉm cười, rồi biết mất khỏi khung hình, và tay người Ý liền bấm vào số điện thoại gọi nhanh kết nối y với tên tài xế của chiếc thứ hai. “Chuyện gì?” y cắn cảu. cần tự giới thiệu gì cả.

      “Chúng tôi dừng lại, thưa ngài. Đối tượng vừa thoát ra khỏi phương tiện.”

      đâu?”

      “Chúng tôi cầu Pont au Double. Đối tượng hướng về Notre Dame.”

      “Notre Dame!” Machiavelli khẽ. Chỉ mới hôm qua, y đứng mái của ngôi thánh đường vĩ đại ấy với Dee, và cùng nhau, cả hai vực bọn gargoyle và grotesque sống dậy khiếp sợ và quan sát thấy chúng bò lê xuống bờ tường nơi Flamel, cặp song sinh Saint-Germain và người phụ nữ bí néo mình nơi khoảng sân trước nhà thờ. Đáng lẽ những sinh vật bằng đá bừng bừng sức sống ấy nghiền nát những con người kia, nhưng cuộc chiến lại diễn ra theo đúng kế hoạch.

      Flamel và đồng bọn đánh trả. Bất giác, tay người Ý xoa vào cẳng chân nơi y bị mũi tên bạc đầy năng lượng của luồng điện thuần khiết bắn trúng vào. vết thâm tím hình ngôi sao phủ khắp đùi y, từ đầu gối đến hông, và y biết mình phải khập khiễng cả mấy tuần nữa cho xem. Chính cặp song sinh cứu cả nhóm, hai đứa phá hủy bọn gargoyle và grotesque của Notre Dame.

      Machiavelli đứng yên lặng, tự thấy bản thân mình chính là nhân chứng sống xác nhận rằng Sophie và Josh đích thực là cặp song sinh huyền thoại. cuộc biểu dương lực lượng đầy kinh ngạc. Mặc dù đứa con chỉ mới học những gì rất cơ bản về hai yếu tố ma thuật – Gió và Lửa – nhưng ràng là kỹ năng tự nhiên của con bé phi thường. Và khi cặp song sinh kết hợp luồng điện của chúng lại và nâng năng lượng của con bé ấy lên cao hơn, mạnh hơn, lúc đó y mới nhận ra rằng Sophie và Josh Newman đặc biệt hiếm có.

      Bộ phận quan hệ công chúng của Machiavelli tung ra câu chuyện rằng tượng phá hủy những công trình bằng đá của ngôi thánh đường này là do hiệu ứng từ mưa acid và nóng lên toàn cầu gây ra. Và thậm chí bây giờ các nhóm người khảo cổ và các sinh viên từ các đại học ở Paris vẫn làm việc để dọn sạch khoảng sân trước nhà thờ. Khu vực ấy bị niêm phong bằng những dải băng và những rào chắn kim loại.

      Tay người Ý nhìn trân trân vào màn hình, nhưng nó chẳng hé lộ ra điều gì. Tại sao Dee lại quay trở lại nơi đó kia chứ?

      “Chúng ta có nên bám theo ?” Giọng người tài xế nổ lốp bốp vì tĩnh điện.

      “Có,” Machiavelli nhanh. “Hãy bám sát, nhưng được áp quá gần và được để lộ tung tích. Phải giữ đường dây này luôn kết nối.”

      “Vâng, thưa ngài.”

      Machiavelli nóng lòng chờ đợi, đôi mắt dán chặt vào những hình ảnh đầy tĩnh điện của chiếc xe hơi màn hình. Tay tài xế gấp gáp với những người khác trong hai chiếc xe kia, ra lệnh cho họ vào vị trí cạnh những lối vào ngôi đại thánh đường. Những cánh cửa chính mở ra quảng trường bị đóng. Người bất tử chăm chú quan sát thấy người tài xế ngang qua trước camera ở bảng điện tử và biến mất ở bên trái, điện thoại áp sát vào tai. “Ông ta hướng vào ngôi thánh đường,” người tài xế kịp thở. “Ông ta vào bên trong. có lối nào ra được,” ta lại thêm ngay sau đó.

      thanh chung quanh thay đổi khi người đàn ông chạy vào bên trong nhà thờ. Tiếng bước chân vang vang, tiếng những cánh cửa sập mạnh; rồi Machiavelli nghe những thanh xíu của những giọng lao xao lo lắng. Y lắng nghe tiếng người tài xế càng lúc càng lớn hơn, khắt khe hơn, đòi hỏi hơn, nhưng y thể nhaajnn ra chính xác được lời nào. lúc sau, tiếng người tài xế trở lại điện thoại. “Thưa ngài: có số kiến trúc sư và nhà quy hoạch ở đây phân tích thiệt hại. Đáng lẽ ra đối tượng phải thẳng qua họ, nhưng họ họ nhìn thấy ai vào nhà thờ suốt tiếng đồng hồ qua.” thoáng sợ hãi nổi trong giọng người đàn ông; nhẫn tâm nổi tiếng của Machiavelli ai cũng biết, và ai muốn báo cáo thất bại. “Tôi biết điều này thể được, nhưng tôi nghĩ… chúng tôi – chúng tôi mất dấu ông ta rồi.” Tiếng người đàn ông ấp a ấp úng. “Tôi… bây giờ tôi biết sao, nhưng có vẻ như… ông ta có bên trong nhà thờ. Chúng tôi niêm phong công trình này và điều thêm người lục soát…”

      “Vô ích. Cứ để . Quay trở về căn cứ,” Machiavelli rất nhàng, rồi cúp máy. Y biết Dee ở đâu. Tay Pháp sư ở trong ngôi thánh đường ấy. ở bên dưới kìa. trở lại khu hầm mộ nằm sâu bên dưới lòng thành phố. Nhưng chỉ có duy nhất thứ trong Thành phố Kẻ chết rất cổ xưa ấy mà thôi, đó là Elder Mars Ultor.

      Và mới hôm qua đây, Dee chôn vùi Elder này lún ngập trong những kết cấu bằng xương.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 13
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Mùi khó chịu của thức ăn chiên xào phảng phất bay từ bên này qua bên kia kho phế liệu, hoàn toàn xua tan mùi kim loại và dầu máy cùng với mùi ẩm mốc ướt át của mấy con chó.
      Flamel đứng bậc thềm cuối cùng của căn nhà chòi. Thậm chí có chiều cao vượt hơn mức bình thường, nhưng ông vẫn phải ngước lên mới nhìn vào mặt chàng hiệp sĩ được. Người đàn ông mà Nhà Giả kim giới thiệu là William Shakespeare vào bên trong và đóng sập cánh cửa bằng lực đủ mạnh để làm rung rinh cả căn chòi. Ít phút sau khói đen bắt đầu bay lọt ra khỏi ống khói. “Ông ấy thường nấu ăn mỗi khi có chuyện bối rối,” Palamedes giải thích.
      Josh nuốt nước bọt cách khó khăn, rồi bịt kín lỗ mũi lại, ép mình phải thở bằng miệng khi làn khói từ trong căn nhà cuốn giạt ra lảng vảng vây quanh chỗ hai đứa. thấy trong người khó chịu rồi bởi các giác quan được Đánh thức, cậu biết mình phải chạy thoát khỏi các mùi khói và dầu mỡ này nếu chắc đến phát ói ra mất. Trông thấy chị nhìn mình với đôi mắt mở lớn đầy vẻ quan tâm, cậu liền hất mạnh đầu về phía. bé gật đầu, rồi ho lên, nước mắt ràn rụa khi làn khói ngày càng dày xoáy tít như cơn lốc vòng quanh chúng. Bước cẩn thận, tránh những ổ gà nằm đánh bẫy những kẻ vụng về khoảng đất đầy bùn, hai đứa sinh đôi nhanh chóng rời khỏi căn nhà đổ nát bằng kim loại. Josh lấy cùi tay chùi mạnh lên môi. Cậu thực có thể nếm được vị dầu mỡ nấu ăn đầu lưỡi mình. “Bất kể nó là cái thứ gì,” cậu làu bàu, “em cũng ăn đâu.” Cậu liếc qua chị bên cạnh. “Em thấy có đôi chút bất tiện khi các giác quan bị Đánh thức.”
      “Chỉ đôi chút thôi.” bé mỉm cười. “Chị nghĩ chị dần quen với việc đó,” thêm.
      “Hừm, em chẳng thấy vậy,” Josh thở dài. “Dù sao nữa, chắc là chưa,” Elder Mars chỉ mới Đánh thức cậu ấy ngày hôm trước – và mà cậu cảm thấy như thể kéo dài cả đời – và cậu vẫn còn hoàn toàn bị áp đảo bởi các giác quan của mình bị công kích gay gắt quá. Mọi thứ đều chói chang hơn, lớn tiếng hơn và nặng mùi hơn rất nhiều so với trước đây. Cậu có cảm giác như áo quần thô ráp xù xì và nặng nề đè lên da cậu, ngay cả khí cũng để lại vị đăng đắng môi cậu.
      “Joan bảo chị là sau lúc, chúng ta có thể xóa hầu hết cảm giác và chỉ tập trung vào những gì chúng ta cần biết thôi,” Sophie . “Có nhớ chị phát bệnh đến thế nào khi lần đầu tiên bà Hekate Đánh thức chị ?”
      Cậu gật đầu. Sophie rất yếu đến nỗi hồi đó cậu phải ẵm chị mình.
      “Có vẻ như em bị quật mạnh đến thế,” . “Dù vậy, trong em vẫn xanh xao lắm.”
      “Em thấy buồn nôn,” Josh . Cậu hất đầu về phía căn chòi, ở đó có chum khói đen ngả màu xanh xám uốn éo thoát ra khỏi luồng ống khói quanh co, rỉ vào khí cái mùi khó chịu của dầu ăn bị ôi và mỡ sôi khé cổ. “Vậy chuyện này đâu có giúp ích gì đâu. Em tự hỏi biết mùi nghe có tệ đến mức này nếu giác quan của em chưa được Đánh thức?”
      “Có lẽ là .” bé rang đùa. “Có thể đây là lý do tại sao các giác quan của con người ta luốn cứ cùn nhụt qua mọi thời. Tất cả chỉ vì quà nhiều thứ phải xử lý.”
      Flamel bất chợt nhìn qua hai đứa sinh đôi và giơ cao cánh tay. “Loanh quanh gần đây thôi; đừng lang thang xa quá như vậy,” ông gọi. Rồi, có Palamedes theo sau, ông leo thêm mấy bậc còn lại và giật mở tung cánh cửa. Hai người bất tử biến mất vào vùng tối tăm bên trong và đóng sập cánh cửa sau lưng họ.
      Sophie liếc sang cậu em trai. “ Trông có vẻ như tụi mình được mời.” Dù bé cẩn thận giữ cho giọng mình trung dung, nhưng Josh có thể khẳng định rằng giận; luôn cắn vào môi dưới khi cáu tiết hay bực bội.
      “Chắc là rồi.” Josh kéo cổ áo thun lên che mũi và miệng. “Chị nghĩ cái gì diễn ra trong đó? Chị có nghĩ là nếu lại gần hơn tụi mình có thể nghe được họ ?”
      Sophie nhìn cậu nhanh. “Chị chắc chắn là mình nghe được, nhưng bộ em muốn tới gần cái mùi thấy ghê đó hả?”
      Đôi mắt Josh nheo lại khi ý tưởng chợt đến với cậu. “Em tự hỏi…”
      “Cái gì?”
      “Có thể đó là lý do tại sao cái mùi ấy ghê như vậy,” cậu chậm rãi. “Chắc họ biết tụi mình chịu nỗi và cái mùi đó ngăn cho tụi mình đến gần.”
      “Em nghĩ rằng họ cố tình gây ra thứ phiền phức này sao? Cái gì – như vậy có thể là họ về tụi mình đó phải ta?” Sophie lại nhìn cậu em mình lần nữa và đôi mắt bé thoáng lấp lánh ánh bạc. “Đó phải là suy nghĩ của em, Josh.”
      “Chị có ý gì khi bảo đó phải là suy nghĩ của em?” cậu hỏi gặng. “Em tự nghĩ ra đó chứ.” Cậu ngưng chút rồi thêm, “ phải vậy sao?”
      “Đối với người, phải nhanh trí mưu mẹo lắm mới nghĩ ra được như vậy,” Sophie cãi lại. “Và nghe có vẻ như đó là ý tưởng đến từ Mars. Từ những điều chị có thể khẳng định do ký ức của chị - hay đúng ra là của Bà Phù thủy – có lần ông ta nghĩ rằng mọi người bám theo ông ta.”
      “Mà họ có bám theo ?” Josh hỏi. Mặc dù ông Elder ấy rất khủng khiếp, nhưng cậu thể nguôi cảm giác tiếc xót lạ thường cho ông ta. Khi Mars Ultor chạm vào cậu, Josh cảm thấy lãng đãng chút nỗi đau dứt của người chiến binh ấy. thể chịu đựng nổi.
      “Có,” Sophie , đôi mắt lung linh ánh bạc, giọng bé bây giờ chỉ nhỉnh hơn lời thầm chút. “Đúng là họ làm chuyện đó. Vào hồi ông ta trở thành Mars Ultor – Kẻ Báo thù – ông ta là trong những người bị căm ghét nhất và khiến người ta kinh sợ nhất hành tinh này.”
      “Đó là những ký ức của Bà Phù thủy,” Josh . “Cố gắng đừng nghĩ đến mấy thứ đó nữa mà.”
      “Chị biết.” bé lắc đầu. “ Nhưng chị thể nào ngăn nổi. Tất cả sao cứ bò loanh quanh nơi bờ rìa tâm thức chị.” bé rung mình và quấn hai cánh tay ô quanh thân mình. “Điều đó làm chị sợ lắm. Chuyện gì xảy ra… chuyện gì xảy ra nếu các ý tưởng của bà ta lấn lướt ý tưởng của chị chứ? Chuyện gì xảy ra với chịbây giờ?”
      Josh lắc đầu. Cậu biết. Chỉ mới nghỉ đến việc mất người chị song sinh của mình thôi, cậu thấy khiếp sợ. “Nghĩ tới cái gì khác ,” Jost van vỉ. “Cái gì mà Bà Phù thủy thể biết được ấy.”
      “Chị cố đây, nhưng bà ta biết quá nhiều,” Sophie với vẻ khốn khổ. bé xoay quanh, cố tập trung vào mọi thứ chung quanh hai đứa và phớt lờ những ý tưởng kỳ dị và xa lạ ở đằng sau vùng tâm thức của bé. biết nên mạnh mẽ, cần phải mạnh mẽ vì cậu em trai mình, nhưng thể vượt qua ký ức của Bà Phù thủy. “Mọi người chị nhìn đến, mọi thứ chị trông thấy, đều gợi nhắc cho chị rằng mọi chuyện thay đổi thế nào. Làm sao chị có thể nghĩ đến những điều thường ngày được khi tất cả chuyện này cứ diễn ra? Thử nhìn tụi mình xem, Josh: nhìn nơi tụi mình ở, nhìn những gì xảy đến cho tụi mình. Mọi thứ thay đổi hết rồi… thay đổi hoàn toàn.”
      Josh gật đầu. Cậu chuyển cái ông đựng bản đồ lên vai, thanh kiếm nằng nặng kêu lích kích bên trong. Chính từ giây phút đầu tiên quay lại tiệm sách khi cậu thò đầu lên khỏi mép căn hầm và trông thấy Famel và Dee đánh nhau bằng những ngọn giáo năng lượng màu xanh là và vàng khè, cậu biết thế giới này bao giờ còn có thể giống như trước được nữa. Mà chỉ mới – cái gì ta? – mới bốn ngày nay thôi chứ mấy, nhưng trong bốn ngày đó, thế giới hoàn toàn đảo lộn. Mọi thứ mà cậu từng nghĩ là mình biết, nay hết thảy đều là dối trá. Hai đứa gặp những nhân vật hoang đường, đánh nhau với những nhân vật thần thoại; hai đứa hết nữa vòng trái đất chỉ trong chớp mắt để chiến đấu với con quái thú thời nguyên sơ và nhìn thấy những vật chạm khắc bằng đá rùng rùng sống dậy.
      “Em biết ,” đột nhiên Sophie cất tiếng, “lẽ ra hôm thứ Năm tuần trước là ngày nghỉ của tụi mình.”
      Josh thể nhịn cười. “Ừ, lẽ ra là vậy.” Cậu mất cả tuần cố thuyết phục Sophie lấy ngày nghỉ để hai đứa có thể tham quan Exploratorium, viện bảo tàng khoa học gần Cầu Golden Gate. Từ khi nghe về viện bảo tàng này, cậu cực kỳ muốn xem tác phẩm nổi tiếng Sun Painting của Bob Miller, tác phẩm kết hợp giữa ánh sáng mặt trời, gương soi, và lăng kính. Rồi nụ cười của cậu nhạt . “Nếu mình nghỉ, xảy ra chút gì liên quan đến chuyện này cả.”
      “Chính xác,” Sophie . bé nhìn mấy bức tường như ngọn tháp bằng kim loại kết từ những chiếc xe hơi gỉ sét, nhìn cảnh quang lấm lem bùn đất và những con chó mắt đỏ quạch. “Josh, chị muốn mọi thứ trở về đúng với bản chất của chúng. Bình thường thôi.” bé quay người trở lại với cậu em trai, ánh mắt bắt gặp ánh mắt nó và giữ lại chút. “Nhưng em lại muốn vậy,” thẳng thừng.
      Thậm chí Josh còn bận tâm tìm cách phủ nhận lời khẳng định ấy. chị của cậu biết là cậu dối ngay; bé lúc nào cũng vậy. Và đúng, mặc dù cậu kiệt sức và chỉ mới có thể đương đầu với các giác quan bị Đánh thức của mình, nhưng cậu muốn trở về lại với đời thường. Cậu sống những ngày bình thường cả đời rồi – và khi đúng là người ta lưu ý đến cậu, ngay lúc ấy họ chỉ thấy cậu là phân nửa của cặp song sinh. Lúc nào cũng là Josh và Sophie. Hai đứa cùng nhau trại hè, cùng nhau nghe hòa nhạc và xem phim, và bao giờ có những kỷ niệm riêng rẽ cả. Thiệp sinh nhật luôn đề địa chỉ người gởi cho cả hai đứa; thiệp mời dự tiệc được gởi đến với tên cả hai đứa ghi đó. Thường thường, chuyện này tình gây phiền hà gì cho cậu, nhưng hơn mấy tháng qua, cậu bắt đầu phát điên lên vì nó. ra sao nếu mình được xem là cá nhân riêng lẻ? như thế nào nếu có Sophie? như thế nào nếu cậu chỉ là Josh Newman thôi, hoàn toàn phải là phân nửa của cặp song sinh nhà Newman?
      Cậu mến chị của cậu, nhưng đây là cơ hội để cậu được khác , được là cá thể.
      Cậu từng ghen tị với Sophie khi giác quan của được Đánh thức rồi, còn cậu . Cậu từng sợ hãi chính chị mình khi nhìn thấy bé chiến đấu, điều khiển những nguồn năng lượng thể tin được. Cậu từng phải khiếp sợ cho bé khi nhìn thấy nỗi đau đớn và cơn bấn loạn do việc Đánh thức gây ra. Nhưng bây giờ các giác quan của riêng cậu được Đánh thức và thế giới này trở nên sắc sảo hơn và chói lóa hơn, trong thoáng chốc nào đó cậu biết được khả năng tiềm của mình và cậu bắt đầu hiểu cậu có thể trở thành người thế nào. Cậu trải nghiệm qua những ý tưởng của Nidhogg và những ấn tượng của thanh Clarent, cậu bắt chộp được những thoáng rất nhanh của các thế giới vượt xa hơn trí tưởng tượng của cậu. Cậu biết – chút bóng tối nghi ngờ - rằng cậu muốn vươn tới giai đoạn kế tiếp và được huấn luyện về những pháp thuật cơ bản. Cậu chỉ chắc là cậu có muốn thực việc đó với Nhà Giả kim hay thôi. Có cái gì đó ổn với Nicholas Flamel. Khám phá ra rằng từng có nhiều cặp song sinh khác xuất trước hai đứa làm cậu rất sốc và lòng dạ rối bời, đồng thời Josh đặt ra những câu hỏi – hàng trăm câu hỏi – nhưng cậu biết có được câu trả lời thẳng thắn từ Nhà Giả kim đâu. Ngay lúc này cậu biết ai là người – ngoại trừ Sophie – và việc nhận thức rằng muốn chẳng thà mình đừng có năng lượng còn hơn lại trở nên là nỗi sợ hãi nho của cậu. Mặc dù những giác quan được Đánh thức gây cho cậu từng cơn nhức đầu bưng bưng và dạ dày chua lét cứ xôn xao cồn cào buồn nôn, khiến cổ họng cậu thô ráp và mắt cậu như có sạn, nhưng cậu từ bỏ chúng. giống chị sinh đôi, cậu nhận ra rằng, cậu rất vui vì cậu nghỉ làm vào hôm thứ Năm ấy.
      Josh ấn bàn tay vào ngực mình. Tiếng giấy sột soạt bên dưới lớp áo thun, ở đó cậu vẫn để hai trang sách cậu giật xé khỏi cuốn Codex. ý tưởng chợt đến với cậu. “Chị biết ,” cậu dịu dàng, “nếu tụi mình Exploratorium, Dee bắt cóc Nicholas với Perenelle và lấy được trọn cuốn Codex mất rồi. Có thể mang các Elder Đen tối trở lại từ các Vương quốc Bóng tối của họ. Thế giới hẳn chấm dứt rồi. trở lại bình thường được đâu, Soph,” cậu kết thúc bằng lời thầm đầy sợ hãi.
      Cặp song sinh đứng yên lặng, cố hiểu ra tất cả mọi thứ. Chính ý tưởng này mới kinh khiếp: hầu như thể hiểu được rằng thế giới mà hai đứa biết từ hồi nào tới giờ lại có thể chấm dứt. Nếu có cách gì cho thời gian quay trở lại vào hôm thứ Tư, chắc hẳn chúng cười nhạo vào ý nghĩ này ngay. Nhưng bây giờ sao? Bây giờ cả hai đều biết rằng lẽ ra chuyện đó xảy đến. Và còn tệ hại hơn – chúng biết điều đó vẫn còn có thể xảy ra.
      “Hoặc chí ít đó cũng là những gì Flamel ,” Josh thêm, thể đẩy được nỗi cay đắng ra khỏi giọng của cậu.
      “Vậy em có tin chú ấy ?” Sophie hỏi, hơi tò mò. “Chị tưởng em tin chú ấy chứ?”
      “Em tin,” Josh dứt khoát. “Chị nghe những gì Palamedes về chú ấy rồi đó. Bởi vì Flamel, bởi vì những gì chú ấy làm và làm, mà hàng trăm ngàn người phải chết.”
      “Nicholas đâu có giết chết họ,” Sophie nhắc nhở cậu. “Ông bạn của em,” với vẻ mỉa mai, “chính John Dee, mới là người làm chuyện đó mà.”
      Josh quay người chỗ khác và nhìn vào căn nhà chòi bằng kim loại. Cậu có câu trả lời cho vấn đề này bởi vì đó là . Bản thân Dee từng thú nhận chính mình nổi lửa và gieo dịch bệnh thế giới khi cố công ngăn chặn nhà Flamel. “Tất cả những gì em biết là Flamel dối tụi mình ngay từ giây phút đầu tiên hết thảy. Thế chuyện gì xảy đến cho các cặp song sinh kia?” cậu hỏi. “Palamedes Flamel và Perenelle sưu tầm các cặp sinh đôi hàng mấy thế kỷ nay.” Thậm chí chỉ mới nhắc đến từ sưu tầm thôi khiến cậu buồn nôn và khó chịu. “Có thể xảy ra chuyện gì cho bọn họ mới được chứ?”
      luồn gió lạnh như nước đá quất ngang qua bãi phế liệu, và Sophie rùng mình, nhưng phải vì khí lạnh. Nhìn chăm chăm vào căn nhà chòi kim loại, nhìn đến cậu em trai mình, rất chậm rãi, lựa chọn từng từ rất cẩn thận. “Vì Flamel vẫn còn lùng kiếm những cặp sinh đôi, điều đó có nghĩa là tất cả những người khác… làm sao?” bé xoay người nhìn cậu em trai và thấy là cậu gật đầu đồng ý rồi.
      “Tụi mình cần phải biết chuyện gì xảy ra cho các cặp song sinh kia,” cậu kiên quyết, giọng cậu biểu lộ chính xác những gì cậu suy nghĩ. “Em ghét phải hỏi, nhưng liệu Bà Phù thủy có biết vậy?” cậu thận trọng hỏi. “Ý em là, chị có biết là Bà Phù thủy có biết hay thôi?” Cậu vẫn thấy rất khó để hiểu được rằng Bà Phù thủy Endor bằng cách này cách khác chuyển hết thảy kiến thức của bà vào người của chị cậu.
      Sophie ngưng chút, rồi lắc đầu lần nữa. “Bà Phù thủy có vẻ như biết nhiều về thế giới đại. Bà ta biết về các Elder, Thế hệ Kế tiếp và số người bất tử già nhất. Chẳng hạn như bà ta từng nghe đến Flamel, nhưng chưa bao giờ gặp chú ấy cho tới khi Scatty mang chú đến đó cùng với tụi mình. Tất cả những gì chị biết là bà ta sống tại Ojai và loanh quanh đâu gần đó trong nhiều năm, có điện thoại, có ti-vi hoặc radio gì hết ráo.”
      “OK, vậy quên chuyện này , thậm chí đừng nghĩ đến bà ta nữa.” Josh nhặt viên đá cuội lên và ném nó vào bức tường làm bằng những chiếc xe hơi bị nghiến nát. Viên đá kêu tiếng cạch vang và bật nẩy lên rồi hình thù thấp thoáng ló ra đằng sau tấm kim loại. Mấy con chó mắt đỏ ngẩng đầu nhìn cậu chăm chú với vẻ thận trọng. “Chị biết , em chỉ có ý nghĩ…” cậu chầm chậm.
      Sophie chăm chú nhìn cậu, yên lặng.
      “Làm thế nào cuối cùng em lại làm việc cho nhà Flamel, cặp vợ chồng sưu tầm các cặp song sinh, và rốt cuộc chị lại làm trong quán cà-phê bên kia đường? Đó chắc thể là trùng hợp đâu, phải vậy nào?”
      “Chị cho là đâu.” Sophie gật đầu, chuyển động nhất thoảng qua trong đầu . chợt nghĩ đến cảm giác y như vậy đúng vào lúc Palamedes đề cập đến các cặp song sinh khác. thể là trùng hợp được. Bà Phù thủy tin vào trùng hợp, mà cũng tin vào Flamel, và thậm chí Scatty rằng bà ta tin vào số phận. Và rồi tất nhiên là có lời tiên tri nữa… “Em có nghĩ là em kiếm được việc làm là bởi vì ông ấy biết em có người cùng sinh đôi ?” bé hỏi.
      “Sau trận chiến trong Vương quốc Bóng tói của Hekate, Flamel với em rằng chú ấy chỉ mới bắt đầu nghi ngờ rằng tụi mình là cặp song sinh được nhắc đến trong lời tiên tri vào ngày hôm trước đó thôi.”
      Sophie lắc đầu. “Chị khó mà nhớ nổi mọi thứ diễn ra trong ngày hôm đó.”
      “Chị buồn ngủ mà,” Josh nhanh, “hoàn toàn kiệt sức sau trận chiến đấu.” Ký ức về trận đánh ấy làm cậu ớn lạnh; đó là lần đầu tiên cậu trông thấy người chị song sinh của mình trở nên xa lạ như thế nào. “Scatty rằng Flamel là người biết giữ lời và bảo em nên tin vào chú ấy.”
      “Chị nghĩ Scatty dối tụi mình đâu,” Sophie nhưng thậm chí khi , bé vẫn băn khoăn tự hỏi biết đây có phải là những ý nghĩ của Bà Phù thủy hay nữa.
      “Có thể chị ấy dối.” Ấn cả hai bàn tay lên mặt mình, Josh lấy mấy ngón tay chà xát vào trán, hất ra sau mái tóc vàng hoe nay quá dài rồi. Cậu cố nhớ chính xác những gì diễn ra vào hôm thứ Năm tuần trước. “Chị ấy đồng ý với chú ấy khi chú ấy biết tụi mình là ai. Chú ấy rằng mọi chuyện ông làm là để bảo vệ tụi mình: em nghĩ là chị ấy đồng ý với việc đó,” cậu dứt lời: “Và điều cuối cùng Hekate với em trước khi Cây Thế giới bị thiêu rụi là ‘Nicholas Flamel bao giờ với bất cứ người nào về mọi chuyện.’”
      Sophie nhăm mắt, cố xóa quang cảnh và thanh của bãi phế liệu, bây giờ tập trung khó, nghĩ ngược lại hồi đầu tháng Tư, khi cả hai mới bắt đầu làm những công việc bán thời gian. “Tại sao em lại làm công việc đặc biệt đó?” bé hỏi.
      Josh chớp mắt ngạc nhiên, rồi cau mày, nhớ lại. “Ừ, ba xem thấy quảng cáo trong tờ báo của trường đại học. Tiệm Sách Cần Người Phụ. Chúng tôi muốn tìm người đọc sách, chúng tôi muốn tìm người đến làm việc. Em muốn làm việc đó, nhưng ba bảo ba từng làm việc trong tiệm sách khi ở tuổi tụi mình và điều đó làm em thấy thích. Em gởi bản lý lịch trích ngang và hai ngày sau được gọi đến phỏng vấn.”
      Sophie gật đầu nhớ lại. Trong khi Josh ở trong tiệm sách, qua bên kia đường để chờ cậu trong tiệm cà-phê. Bernice, chủ tiệm Tách Cà-phê, lúc ấy ở đó chuyện với người phụ nữ trông rất ấn tượng mà bây giờ Sophie mới biết đó là Perenelle Flamel. “Perenelle,” Sophie bất chợt thốt lên đến nỗi Josh phải đưa mắt nhìn khắp chung quanh, tưởng như nếu có trông thấy được người phụ nữ đứng sau lưng cậu, chắc hẳn cậu cũng ngạc nhiên.
      ấy thế nào?”
      “Vào ngày tụi mình có được việc làm. Em được phỏng vấn trong tiệm sách còn chị uống nước. Lúc ấy Bernice chuyện với Perenelle Flamel. Trong khi Bernice làm món chailatte cho chị, Perenelle chợt đến bắt chuyện với chị. Chị nhớ ấy trước kia từng trông thấy chị quanh quẩn đâu gần đó, và chị với ấy là chị đến đây vì em được gọi phỏng vấn trong tiệm sách.” Sophie nhắm mắt, nghĩ lại. “ ấy hề mình cũng là chủ tiệm sách, nhưng chị nhớ ấy hỏi chị cái gì đó đại loại như, ‘Ồ, nhìn thấy cháu cùng với cậu trai trẻ ở ngoài kia. Đó là bạn trai của cháu à?’ Chị bảo rằng phải, đó là em trai cháu. Rồi ấy , ‘Trông các cháu rất giống nhau.’ Khi chị tụi mình là chị em song sinh, ấy mỉm cười, rồi nhanh chóng uống xong phần nước của ấy và bỏ . ấy băng qua đường và vào tiệm sách.”
      “Em nhớ khi ấy bước vào,” Josh nhất trí. “Em có cảm tưởng buổi phỏng vấn diễn ra theo chiều hướng mấy sang sủa. Cảm giác như Nicholas – kiếm người lớn tuổi hơn cho công việc này. Rồi Perenelle bước vào, mỉm cười với em, rồi gọi ông ra phía sau cửa tiệm. Em thấy hai người đó nhìn em. Sau đó ấy rời cửa tiệm nhanh như lúc ấy bước vào vậy.”
      ấy quay trở lại tiệm Tách Cà-phê,” Sophie lẩm bẩm. Rồi nín bặt khi ký ức và các kiện tra khớp vào đúng chỗ. Khi trở lại, giọng bé chỉ vừa vặn hơn lời thầm chút. “Josh, chị vừa nhớ lại chuyện. ấy hỏi Bernice xem bà có còn muốn tìm nhân viên phụ việc . ấy gợi ý rằng nếu em trai chị làm việc bên kia đường, rất hoàn hảo nếu chị làm việc ở tiệm Tách Cà-phê. Bernice đồng ý và nhận chị vào làm ngay tức . Nhưng em biết chuyện gì xảy ra , khi chị trở lại làm việc vào ngày hôm sau, có chuyện rất kỳ lạ. Chị có thể thề rằng Bernice trông có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy chị ở đó. Thậm chí chị còn phải nhắc cho bà nhớ rằng ngày hôm trước bà nhận chị vào làm việc nữa kia.”
      Josh gật đầu. Cậu nhớ chị kể cho cậu nghe chuyện này. “Chị có nghĩ bằng cách nào đó Perenelle khiến bà ấy phải nhận chị vào làm ? ấy có thể làm chuyện đó ?”
      “Ồ, có chứ.” Đôi mắt Sophie lấp loáng ánh bạc. Thậm chí Bà Phù thủy Endor còn phải công nhận Perenelle là Nữ Phù thủy quyền lực phi thường nữa kia mà. “Vậy em có nghĩ tụi mình kiếm được việc làm bởi tụi mình là cặp song sinh ?” bé lại hỏi.
      “Em chắc chắn là vậy rồi,” Josh cách giẫn dữ. “Tụi mình chỉ là cặp song sinh khác được thêm vào trong bộ sưu tập của nhà Flamel mà thôi. Tụi mình bị chơi khăm vố.”
      “Mình làm gì, Josh?” Sophie hỏi, giọng bé đanh lại y như giọng của cậu em trai. Ý tưởng cho rằng cách nào đó Flamel lợi dụng hai đứa khiến bé cảm thấy xốn xang trong dạ dày đến phát buồn nôn. Nếu Dee xuất trong tiệm sách, chuyện gì xảy đến cho hai đứa đây? Nhà Flamel làm gì hai đứa nhỉ?
      Nắm lấy bàn tay Sophie, Josh lôi chị theo sau cậu về phía căn nhà chòi kim loại có mùi hôi khó chịu, cẩn thận bước né tránh những vũng ổ gà. Mấy con chó ngồi dựng lên, đầy xoay xoay dõi theo hai đứa, những con mắt đỏ quạch sáng rực. “ cách gì quay trở lại được. Tụi mình có chọn lựa, Soph: tụi mình phải nhìn thấy chuyện này kết thúc ra sao.”
      “Nhưng kết cục là gì, Josh? Kết thúc ở đâu… kết thúc như thế nào?”
      “Em biết,” cậu . Cậu ngừng lại và quay người nhìn thẳng vào đôi mắt màu xanh lơ của chị mình. Cậu hít thở sâu, nuốt giận. “Nhưng chị có biết em biết gì ? Tất cả chuyện này đều về tụi mình.”
      Sophie gật đầu. “Em đúng. Lời tiên tri về tụi mình, chúng ta là vàng và bạc, chúng ta đặc biệt.”
      “Flamel muốn có tụi mình,” Josh tiếp lời, “Dee muốn có tụi mình. đến lúc phải moi ra cho được vài câu trả lời.”
      “Tấn công,” Sophie vừa , vừa nhảy qua vũng bùn. “Khi chị biết Mars – ý chị là khi Bà Phù thủy biết – ông ấy luôn rằng tấn công là hình thức tốt nhất của phòng thủ.”
      “Huấn luyện viên bóng đá của em cũng y như vậy.”
      “Và đội em thắng được trận nào vào mùa trước,” Sophie nhắc nhở cậu.
      Hai đứa gần nhu tiến sát đên căn nhà chòi William Shakespeare với đôi mắt dữ dội xuất , hai tay nắm chặt chiếc chảo chiên nóng rực.
      Chương 14
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      giây suy nghĩ, Josh nâng ống dung để đựng bản đồ ra khỏi vai mình và xóc thanh kiếm ra. Thanh kiếm ổn định dễ dàng trong bàn tay, các ngón tay cậu khép vòng quanh chuôi kiếm bọc da vấy bẩn, đổi màu. Cậu tiến tới trước bước, chen mình vào giữa Shakespeare với chị .
      Thậm chí người bất tử còn hề nhìn hai đứa. Ông ta lật ngược cái chảo nóng rực xuống và lắc đổ hết những thứ bên trong ra. Có thứ gì trông gần giống như nước sốt cháy đen rơi xuống nền đất đầy bùn. Chúng sùi lên và kêu xèo xèo nhưng vẫn cháy tiếp, tàn lửa cuộn thành hình trôn ốc bay vào trung. trong số mấy con chó mắt đỏ quạch từ bên dưới căn nhà chòi tiến ra, và cái lưỡi thè ra dài nhằng vồ lấy miếng thịt vẫn còn cháy và nuốt trọng. Ngọn lửa làm mắt nó đỏ rực như những viên hồng ngọc, và khi nó liếm môi, những cuộn khói rỉ ra nơi khóe miệng nó.
      Shakespeare cúi xuống và vỗ mạnh vào đầu con chó. Ông ta định quay người trèo lên bậc thềm chợt trông thấy cặp song sinh. Ánh sáng chiều mờ đục phản chiếu nơi cặp kính to quá khổ của ông ta, biến chúng thành hai miếng gương soi màu bạc. “Có chút rủi ro với bữa ăn chiều của chúng ta,” ông ta , nụ cười lóe lên để lộ hàm răng tệ của ông.
      sao ạ. Chúng tôi muốn ăn món ấy,” Sophie nhanh. “Tôi cố bỏ ăn thịt.”
      “Ăn chay à?” Shakespeare hỏi.
      “Phần nào thôi,” Sophie , và Josh gật đầu tán thành.
      “Có lẽ có ít rau trong đây,” người bất tử áng chừng. “Cả tôi và Palamedes đều phải là người ăn chay. Có trái cây nữa đó,” ông ta thêm. “Nhiều trái cây lắm.”
      Josh gật đầu. “Trái cây là tuyệt rồi.” Thậm chí chỉ mới nghĩ đến thịt, dạ dày cậu cảm thấy yên.
      Dường như lần đầu tiên Shakespeare để ý thấy thanh kiếm trong tay Josh. “Phải giữ kiếm cho sáng loáng lên chứ,” ông ta làu bàu. Bước tới, ông rút ra chiếc khăn tay mày trắng sạch tinh đáng ngạc nhiên, rồi cởi cặp mắt kính ra và bắt đầu lau sạch bóng. Sophie để ý thấy, có cặp kính dày, trông ông ta giống với tấm hình của nhà soạn kịch bé nhìn thấy trong sách giáo khoa của mình hơn. Ông đeo kính vào lại và nhìn Josh. “Thanh Clarent hả?”
      Josh gật đầu. Cậu có thể cảm thấy nó rung nhè trong tay cậu và cảm nhận luồng hơi ấm chầm chậm ngấm vào da thịt mình.
      Shakespeare chồm người tới, chiếc mũi dài của ông ta dịch lần lần xa khỏi đầu mũi kiếm, nhưng ông ta định chạm vào nó. “ Tôi thấy thanh kiếm sinh đôi với nó nhiều lần,” ông lơ đãng . “Lưỡi kiếm y hệt nhau, nhưng chuôi kiếm hơi khác chút.”
      “Ấy là khi ông ở bên Dee phải ?” Sophie hỏi nghe nhức nhối.
      Shakespeare gật đầu. “Khi tôi ở bên tay tiến sĩ ấy,” ông đồng ý. Ông giơ tay ra và ngập ngừng lấy ngón trỏ chạm vào đầu mũi kiếm. Thân đá màu tối sẫm lóng lánh và gợn song họa tiết hình mảng màu vàng nhạt, như có thể thứ chất lỏng nào đó đổ tràn xuống lưỡi kiếm, và nghe có mùi chanh thoảng trong khí. “Dee thừa hưởng thanh Excalibur từ người tiền nhiệm, Roger Bacon, nhưng đây mới là thứ vũ khí muốn tìm. Hai thanh kiếm song sinh này còn già hơn các Elder và rất xa xưa lâu lắc từ trước cả khi Danu Talis trồi lên từ biển khơi lận kìa. Đứng riêng lẽ, hai thanh kiếm rất mạnh mẽ rồi, nhưng huyền thoại kể rằng nếu cùng hợp vào với nhau sức mạnh của chúng có thể phá hủy chính kết cấu bản thân trái đất.”
      “Tôi ngạc nhiên hiểu sao Dee tìm nó,” Josh kịp thở chút nào. Cậu có thể cảm thấy thanh kiếm kêu o o trong tay mình, và những hình ảnh kỳ lạ nổi lên bờ rìa ý thức cậu. Bằng cách nào đó cậu biết rằng đây là những ký ức của Shakespeare.
      tòa nhà hình tròn rực lữa…
      phần bé đến đáng thương, và trẻ đứng lỗ trống, ném vào đó vốc tay đầy đất…
      Và Dee. Hơi trẻ hơn so với hình ảnh Josh nhớ được về ; khuôn mặt nếp nhăn, tóc sẫm và dày, chòm râu dê pha chút màu xam xám nào.
      “Tay pháp sư luôn tin rằng thanh kiếm bị mất dưới đáy hồ sâu trong vùng núi Welsh,” Shakespeare tiếp. “ mất cả mấy thập kỷ lùng sục thanh kiếm ở đó.”
      “Flamel tìm thấy nó trong hang động ở Andorra,” Sophie . “Chú ấy tin rằng Charlemagne giấu nó ở đó hồi thế kỷ mười chín.”
      Shakespeare mỉm cười. “Và pháp sư nhầm rồi. là phấn khởi khi biết rằng tay tiến sĩ này phải lúc nào cũng đúng.”
      Sophie từ phía sau Josh bước ra và đẩy cánh tay cậu xuống. Cơn gió thoáng qua lưỡi kiếm kêu rền rền. “Ông có là William Shakespeare ? Đại thi hào ấy?” bé hỏi. Mặc dù sau mọi chuyện nhìn thấy và trải nghiệm hơn mấy ngày qua, bé vẫn thấy ý tưởng này vô cùng đáng kinh ngạc.
      Người đàn ông bước lùi lại và trình diễn kiểu cúi chào chung chung thanh lịch đến ngạc nhiên, chân duỗi ra, đầu cúi xuống gần chạm đến mức ngang thắt lưng. “Tôi tớ của bà, thưa bà chủ của tôi.” Toàn bộ hiệu ứng hơi bị phá hỏng bởi thứ mùi hôi khó chịu của thân hình cũ kỹ quyện khỏi người ông ta. “Xin gọi tôi là Will.”
      Sophie biết phải xử như thế nào cho đúng. “Trước giờ tôi chưa bao giờ gặp bất cứ người nào nổi tiếng cả…” bé chợt , và rồi ngưng bặt khi nhận ra mình gì.
      Shakespeare thẳng người lên. Josh ho và bước lùi lại, nước mắt ứa ra. “Hai người gặp Nicholas và Perenelle Flamel,” Shakespeare bằng loại tiếng chính xác của ông, “Tiến sĩ John Dee, Comte de Saint-Germain và, tất nhiên là, cả Niccolo Machiavelli,” ông tiếp. “Và chắc chắn các người gặp gỡ Jeanne d’Arc duyên dáng.”
      “Vâng ạ,” Sophie cùng với nụ cười e lệ, “chúng tôi gặp hết thảy họ. Nhưng ai trong họ nổi tiếng như ông.”
      William Shakespeare ngẫm nghĩ lúc, rồi ông ta gật đầu. “Tôi chắc chắn Machiavelli và nhất định là Dee tán thành đâu. Nhưng đúng vậy, tất nhiên là hai bạn đúng. ai trong số họ có” – ông ngưng chút – “tiểu sử sơ lược như của tôi. Công việc của tôi phát triển và tiếp tục tồn tại, trong khi công việc của họ phổ biến lắm.”
      “Mà có phải ông phục vụ Dee ?” Josh hỏi bất thình lình, nhận ra rằng đây là cơ hội để lấy được vài câu trả lời.
      Nụ cười của Shakespeare nhạt hẳn. “Tôi mất hai mươi năm phục vụ Dee.”
      “Tại sao ạ?” Josh hỏi.
      “Các bạn từng gặp chưa?” Shakespeare đáp.
      Josh gật đầu.
      “Vậy các bạn biết rằng Dee là loại kẻ thù nguy hiểm nhất: tin rằng những gì làm luôn đúng.”
      “Đó là những gì Palamedes ,” Josh lẩm bẩm.
      “Và đó chính là . Dee là tên dối trá, nhưng rôi dần hiểu ra rằng hắntin vào những lời dối trá của mình. Bởi vì muốn tin, cần phải tin.”
      cơn mưa nặng hạt bất chợt rơi lộp bộp khắp bãi phế liệu, gõ những thanh sắc gọn lên những chiếc xe kim loại bị nghiền bẹp.
      “Nhưng ông ta có đúng ?” Josh hỏi liền, đầu chúi xuống khi từng giọt mưa lớn đập vào bên của căn nhà chòi kim loại. Cậu giơ tay chụp lấy cánh tay người đàn ông, và ngay tức khắc luồng điện của cậu sáng lóe lên màu da cam nhạt lấp lánh, trong khi luồng điện màu vàng nhạt viền quanh thân mình người đàn ông. Mùi cam và chanh trộn lẫn, và đáng lẽ ra kết quả rất dễ chịu, trái lại, hai mùi hương này bị chua và bị hỏng bởi mùi lâu ngày tắm rửa của Shakespeare.
      Dee, trẻ hơn, khuôn mặt vết nhăn, tóc và râu sậm màu, nhìn chằm chằm vào khối pha lê khổng lồ, William Shakespeare trẻ trung với đôi mắt to đứng bên cạnh .
      Những hình ảnh trong khối cầu…
      Những cánh đồng xanh mướt căng tròn nhựa sống…
      Những vườn cây ăn quả cành nào cũng trĩu nặng những trái…
      Biển khơi nổi song đầy cá…
      “Khoan – ông có nghĩ Dee mang các Elder trở lại thế giới này ?”
      William Shakespeare bắt đầu bước lên mấy bậc thềm. “Có chứ,” ông ta hề quay lại. “Nghiên cứu riêng của tôi dẫn tôi đến niềm tin rằng có thể đó là quyết định đúng đắn.”
      “Tại sao ạ?” cặp sinh đôi cùng hỏi dồn.
      Đại Thi hào xoay người lại với hai đứa . “Hầu hết các Elder đều từ bỏ thế giới này. Thế hệ Kế tiếp đùa nghịch với loài người và sử dụng trái đất vừa là sân chơi vừa là chiến trường, nhưng nguy hiểm nhất trong hết thảy lại chính là loài người chúng ta. Chúng ta phá hủy thế giới này. Tôi tin rằng chúng ta cần các Elder Đen tối trở lại để họ có thể cứu trái đất khỏi phá hoại của chính chúng ta.”
      Hoàn toàn sửng sốt, hai đứa sinh đôi quay nhìn nhau, bây giờ thấy bối rối. Josh mở lời trước hết. “Nhưng Nicholas bảo rằng các Elder Đen tối muốn ăn thịt loài người mà.”
      số thôi. Nhưng đâu phải tất cả mọi Elder Đen tối đều ăn thịt; vài người ăn ký ức và cảm xúc. Dường như đó là cái giá nho phải trả cho thiên đường đói kém, dịch bệnh.”
      “Tại sao chúng ta lại cần đến các Elder Đen tối?” Sophie hỏi. “Nhà Giả kim với Dee cùng những người khác giống như họ, chung nhau chắc chắn họ phải sở hữu đủ quyền lực và kiến thức để cứu thế giới này chứ?”
      “Tôi tin như thế.”
      “Nhưng Dee rất mạnh…” Josh chợt .
      “Cậu thể hỏi tôi bất cứ thứ gì về Dee đâu; tôi có câu trả lời nào cả.”
      “Ông có đến hai mươi năm sống bên ông ta kia mà, ông phải biết ông ta hơn bất kỳ người nào trái đất này chứ,” Sophie cãi lại.
      ai biết Pháp sư cả. Tôi quý ông ta như người cha, như người lớn. Ông ta là tất cả những gì tôi khâm phục ngưỡng mộ, là tất cả những gì tôi mơ ước được trở thành.” giọt nước mắt chợt ra dưới cặp kính dày cộp của người bất tử và lăn dài xuống má ông. “Nhưng rồi, ông ta phản bội tôi và giết chết đứa con trai thân của tôi.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 15
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Trong khu hầm mộ nằm sâu bên dưới thành phố Paris, Tiến sĩ John Dee kỹ lưỡng phủi bụi khỏi cánh tay áo vét, kéo mạnh cổ tay áo xuống và chỉnh cái cà-vạt nơ lại cho thẳng. bật ngón tay tanh tách và trái banh lưu huỳnh màu vàng nở bung ra trước mặt, nhảy nhót ngang đỉnh đầu. Mùi trứng thối rỉ ra, nhưng thứ mùi khó chịu này lại quá quen thuộc đến nỗi Dee thậm chí còn nhận ra đó là mùi hôi thối nữa. Ánh sáng màu vàng đất lan tỏa sang tít bên kia hai cây cột vòm gồm những bộ xương bóng lưỡng được định dạng giống như khung cửa. Phía sau khoảng trống đó là tối tăm tuyệt đối.
      Dee bước vào gian phòng nằm dưới đất, đối diện là vị thần đông cứng.
      Trong quãng đời dài đằng đẵng của mình, Pháp sư trải qua nhiều chuyện đáng kinh ngạc. dần đến việc chấp nhận những việc khác thường như những điều bình thường, chấp nhận những việc kỳ lạ và phi thường như những điều tầm thường. Dee từng trông thấy những nhân vật huyền thoại trong truyện Nghìn Lẽ Đêm vụt sống dậy, đánh nhau với những con quái thú bước ra từ thần thọa Hy Lạp và Babylone, tu hành xuyên qua các vương quốc mà người ta tin đó là những lời dối do các nhà du hành Marco Polo và Ibn Battutah bịa đặt ra. biết rằng những truyện thần thoại của người Celt và La Mã, người xứ Gaul và Mông Cổ, người Ru, người Viking và thậm chí cả người Maya*, chỉ đơn thuần là những câu chuyện kể - mà chúng hoàn toàn dựa những truyện có . Các vị thần linh của Hy Lạp và Ai Cập, những sinh vật siêu tự nhiên của vùng đồng bằng châu Mỹ, những vật tổ to-tem trong rừng già và Myo-o của Nhật Bản từng sống . nay những gì người ta con nhớ đến họ chỉ là những mảnh rời rạc của các truyện thần thoại và những trích đoạn ngắn của truyện cổ tích, nhưng John biết rằng họ từng đặt những bước chân thế giới này. Họ là thành phần của giống loài Elder, người thống trị thế giới suốt nhiều thiên niên kỷ.
      trong những Elder vĩ đại nhất là Mars… và chưa đầy hai mươi bốn giờ trước, Dee nhốt ông ta trong ngôi mộ bằng xướng cứng.
      Tay Pháp sư bước vào gian phòng và nhìn quanh, gian phòng hình tròn rộng mênh mông nhưng khoảng trần lại rất thấp, ánh sáng nổi lềnh bềnh tô phết lên mọi thứ màu vàng vọt, nhàn nhạt giống như bơ. Dù biết nơi ở của ông ta nhiều thập kỷ nay, nhưng trước giờ chưa bao giờ có lý do gì để liều lĩnh xuống đối mặt với Vị thần Ngủ, và hôm qua mọi thứ diễn ra nhanh quá đến nỗi có cơ hội xem xét ngôi mộ này. rà rà bàn tay vào phần của bức tường bên cạnh cửa ra vào, nhà khoa học bên trong con người nhận định được chất liệu: sợi collagen** và calcium phosphate. Những bức tường ở đây đều làm bằng đá – mà làm bằng xương. Dee chợt nhìn thấy hai vết mẻ bức tường ở mút đầu kia. Giữa chúng là hai vết mẻ trũng xuống, và chợt biết rằng nhìn thấy cái gì và nhận ran gay là ở đâu. nhìn cào cặp mắt với cái mũi. Gian phòng được khoét rỗng từ mảnh xương duy nhất, như tưởng – vậy là ở bên trong cái đầu lâu khổng lồ. kinh khiếp, cái đầu lâu này trông gần giống như con người. Dee cảm thấy cơn rùng mình chạy dọc xương cột sống; chưa bao giờ chạm trán với họ, nhưng từng nghe kể những câu chuyện về những Vương quốc Bóng tối nơi sinh sống của những người khổng lồ ăn thịt người. Mới hôm qua, những bức tường này láng mướt và bóng lưỡng; hôm nay đây chúng trông như thân nến đặt quá gần lò sưởi. Những dòng thạch nhũ bằng xương đông đặc từ lâu giờ chảy như kẹo bơ lính dính từ khoảng trần rỉ xuống; những bọt bong bóng khổng lồ bị đông lại và đóng băng ngay lúc chúng nổ vọt ra; những giòng chảy giọt và những giòng chất lỏng sóng sánh uốn éo cuộn theo các mẫu hoa văn trang trí.
      Ngay giữa gian phòng nhô lên bệ tượng bằng phiến đá dài hình chữ nhật bắn lên tung tóe những giọt gì trông như sáp ong màu vàng chạch. Phiến đá cổ xưa bị nứt ra làm hai.
      Và ngay sàn nhà trước bệ đá là bức tượng xám xịt phần bị nhúng vào chất sáp màu vàng kia. Bức tượng mô tả người đàn ông khổng lồ bàn tay chống vào đầu gối, trong tư thế định đứng lên. Hình nhân ấy ăn mặc như chiến binh, khoác áo giáp bằng kim loại và da thuộc của quá khứ xa xưa, cánh tay trái duỗi ra, những ngón tay mở rộng, trong khi cánh tay phải bị chôn xuống sàn ngập đến tận cổ tay. Thân mình ông ta từ thắt lưng trở xuống cũng biến mất vào trong nền đất. lưng bức tượng, hai sinh vật gớm ghiếc kích thước chỉ bằng đứa trẻ con bị đông cứng trong tư thế chúng cố nhảy ra phía trước những bàn chân móng guốc như chân dê. Có thể thấy được xương sườn và nguyên bộ xương ốm như cây sậy, miệng chúng há ra để lộ những cái diều đầy răng lởm chởm, và mút đầu những bàn tay duỗi thẳng của chúng là những cái móng vuốt nhọn hoắt.
      Vén áo khoác để bị quét sàn, và kéo ống quần xách dựng lên, Dee ngồi chồm hổm sát mặt đất để có thể nhìn bức tượng gần hơn. Tác phẩm này trông giống như thứ trông viện bảo tàng, tác phẩm điêu khắc cổ điển của Michelangelo hoặc của Bernini, có lẽ vậy – Phobos và Deimos lưng của Mars Ultor. Dee di chuyển bàn tay mình và trái banh ánh sáng nổi lên hai cái đầu của vị thần rừng. Chi tiết đến thể tin được; mỗi sợi tóc đều bị bỏ qua, cằm chúng trễ xuống, và trong hai – nghĩ chắc là Phobos – thậm chí còn có vết nứt nơi móng. Nhưng những thứ này đâu chỉ là mấy bức tượng; mới hôm qua đây, chúng còn là những sinh vật hung dữ sống sờ sờ, và Mars thả chúng ra ông ta kia mà. Đó chắc hẳn phải là cái chết kinh khủng lắm. Những vị thần rừng được nuôi sống bằng nỗi hoảng loạn và sợ hãi… và qua hàng mấy thế kỷ Dee biết được rằng có rất nhiều nỗi sợ hãi. Am hiểu sâu sắc về những gì các Elder có thể làm cho mình luôn dấy lên những đợt sợ hãi đến buồn nôn qua dạ dày . Đến lúc ấy hẳn Phobos và Deimos được đánh chén đến cả mấy tháng trời.
      Tay Pháp sư chồm người ra phía trước nhìn vào cái mũ bảo hiểm hoàn toàn che phủ đầu Mars. Bên dưới lớp phủ màu vàng của xương cứng lại, vẫn có thể nhìn thấy được mặt đá xám xịt. Lóng lánh như đá granite, nhưng đây phải là đá tự nhiên. Chỉ trong thoáng, Dee cảm thấy có gì đó như thương cảm tội nghiệp cho Elder Đen tối này. Bà Phù thủy Endor làm cho luồng điện của ông ta hình và đông đặc lại, cứng như đá, bao quanh thân mình ông ta, giam giữ ông ta trong lớp vỏ nặng trịch thể tưởng tượng. Nếu vị thần lột gỡ được lớp võ này ra, luồng điện của ông ta sùng sục sủi tăm như dung nham và cứng trở lại ngay tức khắc. Mars, người từng rong ruổi khắp thế giới và được hơn cả chục quốc gia tôn kính như vị thần dưới nhiều tên gọi, hầu như bất động suốt nhiều thiên niên kỷ. Dee thấy mình tự hỏi biết Vị thần Chiến tranh này phạm tội gì xúc phạm đến Bà Phù thủy tới nỗi bà ấy xử phạt ông dở sống dở chết kéo dài thế này. Thực vậy, hẳn là rất kinh khủng. Rồi đôi môi Pháp sư giật giật như mỉm cười khi ý tưởng đến với . Giơ tay ra, gõ mấy khớp đốt ngón tay lên cái đầu đội mũ bảo hiểm. thanh đùng đục và phẳng bẹt ra lan khắp gian phòng làm bằng xương. “Tôi biết ông có thể nghe được tôi,” Dee như chuyện trò. “Tôi cứ nghĩ có vẻ như chuyện này là số phận của ông,” nỏi tiếp. “Thoạt tiên là Bà Phù thủy giam ông trong luồng điện của chính ông, và rồi tôi lại bọc ông trong lớp xương cứng ngắc.”
      làn khói mỏng màu đen thình lình cuộn ra từ bên trong chiếc mũ bảo hiểm của Elder Đen tối.
      “À, hay,” Dee lẩm bẩm. “Trong giây phút đó, tôi tưởng tôi mất ông rồi chứ.”
      Đôi mắt lóe lên màu đỏ thẩm trong vùng tối bên dưới chiếc mũ bảo hiểm. “Tôi bị giết chết dễ dàng vậy đâu.” Giọng của Mars ken két như nghiến sỏi, thoáng nghe những trọng mơ hồ định được.
      Dee đứng thẳng người lên và phủi bụi khỏi hai đầu gối chút vấy bẩn. “Ông biết đó, mỗi Elder tôi giết đều như thế. Nhưng có máu trong mạch máu của ông kìa. Và những gì sống đều có thể bị giết chết.” cười rất , hé mấy cái răng xíu. “Mà phải thừa nhận rằng, ông khó – thực tế, gần như thể - giết chết được, nhưng điều đó có thể thực được. Tôi biết mà. Chính tôi làm. Sao, mới chưa đầy tuần trước đây, tôi giết chết Hekate đấy.”
      Bên trong chiếc mũ bảo hiểm lóe lên ánh sáng màu đỏ tươi trong tích tắc rồi mờ mờ nhạt dần . Bị giam giữ trong nơi toàn là đá granite và xương, Mars thể nào nhúc nhích được, song Dee vẫn có thể cảm thấy ràng ánh mắt của ông ta bây giờ lại là hai trái banh màu đỏ thẫm chen lẫn những đốm xanh lơ. “Ông trở lại để hả hê như thế sao, Pháp sư?”
      chủ ý như vậy đâu.” Dee vòng ra phía sau bức tượng bộ ba, xem xét chúng từ mọi góc độ. “Nhưng bây giờ tôi ở đây, bằng cách này cách khác có lẽ tôi cũng có chút hả hê.” di hai bàn tay qua bên kia vai của ông Elder, và Dee có cảm giác luồng điện của chính lung linh khi tiếng o o nhất của năng lượng nổ lốp bốp xuyên qua người . Dù bị chôn dưới lớp đá và xương, luồng điện của Elder này vẫn rất mạnh mẽ.
      “Khi tôi thoát ra được,” Mars nối ầm ầm như sấm, “mà chắc chắn là tôi thoát được, ông là ưu tiên thứ nhất của tôi đấy. Thậm chí khi chưa phát ra chỗ ở của Bà Phù thủy Endor, tôi tìm ông trước, và báo thù của tôi vô cùng khủng khiếp.”
      “Tôi sợ lắm,” Dee , vẻ mỉa mai trong giọng . “Bà Phù thủy khóa ông trong đá suốt bấy nhiêu thiên niên kỷ. Song ông sao tống khứ lớp vỏ ấy được. Mà ông biết rằng nếu có chuyện gì hay xảy ra với Bà Phù thủy, lời nguyền đó chết cùng với bà ta, để ông bị giam giữ thế này mãi mãi cho xem.” Tay Pháp sư lại vòng ra phía trước ông Elder. “Có lẽ tôi nên giết quách Bà Phù thủy. Vậy là ông bao giờ thoát ra được.”
      thanh kỳ là như tiếng hít ngửi hay tiếng thổi gì đó bên trong chiếc nón bảo hiểm, và phải mất lúc tay Pháp sư mới nhận ra rằng Elder này cười. “Ông ấy à! Giết chết Bà Phù thủy ư? Tôi được gọi là Thần Chiến tranh; sức mạnh của tôi rất kinh khủng. Vậy mà tôi còn giết nổi bà ta. Nếu ông muốn chống lại bà ta, Pháp sư ạ, bà ta làm chuyện gì đó kinh khiếp cho ông – và chắc chắn rằng nỗi đau đớn của ông kéo dài đến mấy thiên niên kỷ. Bà ta từng thu toàn bộ quân đoàn La Mã thời cổ đại có đến mấy ngàn người thành những hình nhân có kích thước chỉ bằng móng tay, rồi xâu họ vào với nhau bằng sợi dây bạc để bà ta có thể deo như chiếc vòng cổ. Bà ta làm cho họ sống suốt nhiều thế kỷ.” Ông Elder cười thầm, thứ thanh nghe như đá nghiền. “Bà ta thường sưu tầm những cái chặn giấy bằng hổ phách; cứ mỗi cái bà lại đặt vào người làm bà bực mình. Thế , ừ, cứ việc mà tấn công Bà Phù thủy! Tôi chắc chắn bà ta đặc biệt sáng tạo trong việc xử phạt ông đó.”
      Dee cúi mình xuống trước đầu ông Elder. đan mấy ngón tay vào với nhau và nhìn chằm chằm vào phía bên trong chiếc nón bảo hiểm bằng đá đầy khói sậm đen. Hai chấm đỏ thẫm sáng rực nhìn trả lại . Tay Pháp sư di chuyển những ngón tay mình và khối cầu ánh sáng màu vàng chạch hạ xuống và cố định phía sau đầu ông ta. hy vọng ánh sáng gay gắt làm mù mắt Mars, nhưng hai khối cầu đỏ lựng cứ trừng trừng nhìn , hề chớp. Với cú búng cổ tay, Dee gạt bỏ nguồn ánh sáng kia, đưa nó bập bềnh lên gần sát trần nhà, ở đó ánh sáng dịu bớt và nhạt dần , tô vẽ lên căn phòng màu nâu đỏ. “Tôi phải đến đây để đề nghị ông giúp cho việc,” Dee sau khi im lặng hồi lâu.
      “Ông thể đề nghị gì ở tôi cả.”
      “Có việc,” Dee rất tự tin.
      “Ông đến vì tự nguyện, hay là các chủ nhân của ông sai ông tới đây?” Mars hỏi.
      ai biết tôi ở đây hết.”
      “Thậm chí cả tay người Ý sao?”
      Dee nhún vai. “Có thể là y nghi ngờ đó, nhưng lại thể làm gì được.” ngưng nữa và chờ đợi. Theo kinh nghiệm của , người ta thường để lấp đầy yên tĩnh.
      “Ông muốn gì?” Cuối cùng Mars hỏi.
      Pháp sư cúi đầu xuống giấu nụ cười. Chỉ với duy câu hỏi, Dee biết rằng Elder này cho chính xác điều muốn. Tay người luôn tự hào về khả năng tưởng tượng của chính bản thân mình – đó là phần khiến trở thành trong những pháp sư và thầy đồng gọi hồn quyền lực nhất thế giới – nhưng thậm chí vẫn thể hiểu được nếu bị giam suốt mấy thế kỷ trong lớp vỏ bằng đá cứng ngắc cảm giác thế nào. nghe được vẻ tuyệt vọng trong giọng của Thần Chiến tranh vào ngày hôm trước khi ông ta nài xin Sophie cất lời nguyền, và điều đó mang lại cho ý tưởng.
      “Ông biết tôi là người trước sau như ,” Dee chợt .
      Mars gì.
      ra, tôi dối, lừa đảo, ăn cắp và giết người, nhưng tất cả đều quy về mục đích duy nhất: mang các Elder về lại với thế giới này.”
      “Cứu cánh biện minh cho phương tiện,” Mars càu nhàu.
      “Đúng vậy. Và ông biết rằng nếu tôi thề hoặc hứa gì với ông, tôi thực lời hứa của mình. Hôm qua đây, ông ông có thể đọc được ý định của tôi cách ràng mà.”
      “Tôi biết rằng dầu những lỗi lầm của ông – hoặc thậm chí có thể chính vì như vậy – mà ông là người đáng được kính trọng, cho dù đó là định nghĩa kỳ cục về lòng kính trọng,” Mars . “Ừ , nếu ông hứa, tôi tin ông.”
      Dee nhanh nhẹn đứng lên và vòng quanh ra phía sau bức tượng, để Mars thể trông thấy nụ cười toe toét đầy vẻ đắc thắng khuôn mặt . “Bà Phù thủy Eldor bao giờ cất lời nguyền của ông, phải nào?”
      Mars Ultor yên lặng hồi lâu, nhưng Dee làm gì để phá tan yên lặng đó. muốn cho ông Elder có thời gian suy nghĩ kỹ những gì vừa ; cần ông ta phải thừa nhận rằng ông ta bị bắt chịu đọa đày là phải khoác lấy lớp vỏ này đến vô tận.
      ,” cuối cùng vị thần thừa nhận bằng tiếng thào rùng rợn. “Bà ta cất đâu.”
      “Có lẽ ngày nào đó tôi biết được ông làm gì mà phải nhận hình phạt thế này.”
      “Có thể. Nhưng phải từ tôi.”
      “Vậy ông bị giam giữ… hay có thể là ?”
      “Tự giải thích , Pháp sư.”
      Dee bắt đầu rảo bước ngược chiều kim đồng hồ quanh Elder bị đông cứng. giữ cho giọng thấp và cảm xúc như phác thảo kế hoạch của mình. “Hôm qua, ông Đánh thức Josh, đứa sinh đôi mặt trời. Ông chạm đến thằng bé; ông kết nối với thằng bé ấy.”
      “Đúng, có kết nối,” Mars đồng ý.
      “Bà Phù thủy chạm đến đứa sinh đôi mặt trăng, tặng cho con bé ấy Pháp thuật khí, và cũng đổ hết toàn bộ kiến thức vào con bé,” Dee tiếp. “Hôm qua, ông rằng chắc con bé biết được câu thần chú có thể trả tự do cho ông.”
      “Và con bé có là nó nhớ ra,” Mars thào.
      Dee nhấc tay ra khỏi vai của bức tượng khi xoay người cúi xuống phía trước. Năng lượng điện bật tanh tách quanh phòng. “Vậy mà con bé từ chối ông! Nhưng liệu con bé có từ chối ông được nếu mạng sống của thằng em nó – khoan , thậm chí còn ngon lành hơn, mạng sống của cha mẹ nó – trong vòng nguy hiểm? Con bé có từ chối được ? Có thể từ chối nữa ?”
      Khói quyện lên từ đằng sau tấm che mặt của ông Elder biến thành màu trắng, rồi màu đen ngả xám. “Thậm chí khi biết tôi, biết tôi là ai, tôi làm gì, khả năng tôi ra sao, con bé vẫn đánh bại tôi để giải cứu cậu em,” Mars rất chậm rãi. “Tôi tin rằng con bé làm mọi chuyện để cứu em trai và gia đình mình.”
      “Vậy đây là lời thề của tôi với ông,” Dee tiếp. “Hãy tìm thằng đó cho tôi, và tôi thề rằng tôi mang đứa con , cũng với thằng em nó, và ba mẹ chúng đến đây đứng trước mặt ông. Khi con bé đối mặt với các chết của họ, tôi bảo đảm nó giải thoát cho ông khỏi lời nguyền kinh khủng này.”
      * Celt: người thuộc dân tộc sinh sống ở Trung Âu và Tây Âu thời tiền La Mã. Gaul: người sống ở vùng đất Tây Âu thời cổ đại, bao gồm Pháp, Bỉ, phần nước Ý, Hà Lan và Đức ngày nay. Ru: người Trung cổ, định cư ở vùng Scandinavia, thường hay cướp bóc biển và xâm chiếm nhiều vùng thuộc miền Tây Bắc Âu châu từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 11. Maya: người thộc dân tộc thịnh vượng từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8 ở Trung Mỹ và miền nam Mexico.
      ** Protein liên kết dạng sợi tìm thấy ở biểu bì, xương, sụn, gân và số mô liên kết khác.
      Chương 16
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Nhìn từ bên ngoài, nằm giữa khu đất trống trải bùn lầy, công trình bằng kim loại có hình dạng dài dài này trông hư nát và ọp ẹp tồi tệ, nhưng cũng như mọi thứ khác trong bãi phế liệu này, đó chỉ là vẻ giả tạo bề ngoài thôi. Bên trong gọn gang ngăn nắp và sạch , chút bụi bặm. đầu căn phòng được dùng để nấu nướng và dọn ăn; bồn rửa chén bát, tủ lạnh và bếp lò đặt sát cái bàn. Phần giữa của căn nhà chòi có bàn làm việc xếp thành tầng đó là máy tính để bàn nối vào hai màn hình tương hợp, trong khi ở đầu xa của căn nhà chòi, chiếc ti-vi màn hình phẳng lớn đặt đối diện với hai chiếc trường kỷ bọc da. hình tháp kim loại ba mặt đặt thấp xuống đất đựng mấy chục đĩa DVD.
      Khi hai đứa song sinh theo Shakespeare vào bên trong, chúng nhận ra ngay tức rằng chúng tham gia vào cuộc cãi vã gì đó. Flamel và Palamedes hai người đứng ở hai đầu của chiếc bàn bếp nho bằng gỗ, chàng hiệp sĩ vòng tay trước bộ ngực đồ sộ, Flamel lại siết chặt bàn tay thành hai nắm đấm. khí chua lét với những luồng điện của họ trộn lẫn vào với nhau.
      “Chú nghĩ tụi cháu nên chờ bên ngoài hơn,” Nicholas vừa bình thản , vừa nhìn Josh sang Sophie, rồi quay người lại với chàng hiệp sĩ. “Chút nữa chúng ta bàn chuyện này tiếp.”
      Sophie định rời khỏi đó, nhưng Josh đẩy bé ra phía trước tiến vào căn nhà chòi. “. Tôi nghĩ chúng tôi nên chờ ở đây,” cậu chắc nịch. Cậu hết nhìn Palamedes rồi lại nhìn Nhà Giả kim. “Nếu các người có bất cứ chuyện gì cần phải , các người nên hết trước mặt chúng tôi. Rốt cuộc đây là chuyện bàn về chúng tôi, đúng ?” Cậu liếc xéo sang chị mình. “Chúng tôi là… sao nhỉ?” cậu hỏi.
      “Chất xúc tác,” bé mớm cho.
      Josh gật đầu. “Chất xúc tác,” cậu , dù cho đó chưa phải là từ ngữ cậu muốn tìm. Cậu nhìn quanh phòng, ánh mắt đọng lại chiếc máy tính, và rồi quay sang chị sinh đôi. “Chỉ là em rất ghét bị người lớn đuổi ra khỏi phòng khi họ chuyện về mình, phải nào?”
      Sophie gật đầu. “Ghét như vậy lắm.”
      “Bọn chú đâu gì về hai đứa,” Flamel nhanh. “ có gì liên quan đến tụi cháu cả, đó. Chuyện này liên quan đến vụ nho chưa giải quyết xong giữa ông Shakespeare đây với chú thôi mà.”
      “Ngay bây giờ đây,” Josh vừa , vừa bước vào phòng, tập trung cao độ để giữ cho giọng mình đều đều và ngăn cho nó bị rung rung, “chỉ đến những gì xảy ra liên quan đến tụi cháu.” Cậu nhìn thẳng vào Nhà Giả kim. “Suýt nữa chú giết chết tụi cháu. Chú thay đổi cuộc sống của tụi cháu… kh… khô… khô…”
      sửa lại được,” Sophie .
      sửa lại được,” Josh . “Và nếu cả hai người có vấn đề, đó là vấn đề của chúng tôi và chúng tôi cần phải biết.”
      Sophie đặt tay lên vai Josh và siết chặt để khích lệ cậu.
      Palamedes cười toe, vụt lóe màu răng trắng bóng. “ con trai này khí khái lắm. Tôi thích vậy đó.”
      Khuôn mặt Flamel như chiếc mặt nạ dửng dưng, nhưng đôi mắt màu nhạt của ông tối sầm. đường gân máu đập mạnh trán. Khoanh tay trước ngực, ông hất đầu về phía Palamedes. “Nếu cháu phải biết, vậy , chú có tranh cãi gì với Hiệp sĩ Saracen cả.” Ông lắc đầu , hướng về người đàn ông thó mặc bộ đồ bảo hộ lao động lem luốc, đứng trước cái tủ lạnh để mở, kéo mấy túi trái cây ra. “Chú có vấn đề với người này. vấn đề lớn đấy.”
      Shakespeare phớt lờ. “Hai bạn trẻ ăn gì nào?” ông vừa hỏi, vừa nhìn cặp sinh đôi. “Tôi biết các bạn muốn chút thịt nào, chúng tôi có nhiều trái cây, mới sáng nay. Và hồi nãy Palamedes chọ được mấy con cá tươi ở Siêu thị Cá Billingsgate.” Ông ném phịch mấy túi trái cây vào bồn rửa, rồi vặn nước vòi cho chảy hết cỡ. Nước giộng ầm ầm vào cái bồn rửa bằng kim loại.
      “Chỉ trái cây thôi ạ,” Sophie .
      Palamedes nhìn hai đứa song sinh. “Cuộc tranh luận này liên quan gì đến hai bạn cả,” ta . “Chuyện này từ hồi mấy thế kỷ trước. Nhưng đúng, tôi đồng ý rằng các bạn cũng bị ảnh hưởng. Tất cả chúng ta đây đều bị.” ta quay trở lại với Nhà Giả kim. “Nếu chúng ta sống sót được, vậy chúng ta – tất cả chúng ta – phải dẹp qua bên những tranh chấp cũ, những lề thói cũ chứ. Tuy nhiên,” ta gầm lên, “hãy cho phép tôi đề nghị rằng chúng ta tiếp vào sau bữa ăn .”
      “Chúng tôi muốn có câu trả lời ngay bây giờ,” Josh . “Chúng tôi quá mệt mỏi khi bị đối xử như mấy đứa con nít rồi.”
      Chàng hiệp sĩ cúi người nhìn Nhà Giả kim. “Các bạn trẻ đây có quyền nhận được câu trả lời.”
      Nicholas Flamel xoa bàn tay lên mặt mình. Những túi mắt thâm quầng bên dưới đôi mắt ông, và những vết nhăn trán hằn sâu thêm nữa. Sophie để ý thấy những lấm tấm xíu bắt đầu xuất lưng bàn tay ông. Nhà Giả kim bảo rằng ông già với tốc độ ít nhất là năm trong chỉ ngày trôi qua, nhưng bé nghĩ ông trông già ít nhất mười năm so với chỉ tuần trước. “Trước khi chúng ta xa hơn,” Nicholas , trọng tiếng Pháp của ông càng cho thấy ràng là ông rất mệt, “tôi phải thừa nhận là tôi thoải mái chút nào khi bàn luận mọi thứ trước mặt…” Ông ngẩng đầu nhìn Shakespeare. “Người kia.”
      “Nhưng tại sao vậy chứ ạ?” Sophie hỏi, đầy thất vọng. bé kéo cái ghế gỗ ra và ngồi thụp vào đó. Josh lấy cái ghế bên cạnh. Chàng hiệp sĩ vẫ đứng thêm chút nữa, rồi ta cũng ngồi xuống. Chỉ có Nhà Giả kim và Đại Thi hào là cứ đứng ngây ra đó.
      “Ông ta phản bội tôi và Perenelle,” Flamel hầm hè. “Ông ta bán đứng chúng tôi cho Dee.”
      Cặp song sinh quay nhìn vào Đại Thi hào sắp nào nho, táo, lê và đào vào đĩa. “Điều này đúng,” ông ta .
      “Chính vì ông ta, Perenelle bị thương và suýt chết,” Nhà Giả kim phát cáu.
      Hai đứa sinh đôi lại nhìn Đại Thi hào lần nữa. Ông ta gật đầu. “Hồi đó là năm 1576,” Shakespeare bình thản, từ ở bàn nhìn lên, đôi mắt xanh lơ nhàn nhạt của ông ta mở to đằng sau cặp kính, đôi mắt lớn với những giọt nước mắt đoanh tròng.
      Josh ngồi trở lại với vẻ đầy kinh ngạc. “Mọi người bàn cãi về chuyện gì xảy ra hơn bốn trăm năm trước sao?” cậu hỏi mà thể tin được.
      Shakespeare quay người lại để trực tiếp với Sophie và Josh. “Hồi đó tôi chỉ mới mười hai tuổi, còn hơn cậu bây giờ.” Đôi môi ông mấp máy, để lộ hàm răng vàng chạch. “Tôi phạm sai lầm – sai lầm khủng khiếp – và tôi phải mất đến mấy thế kỷ để trả giá cho việc làm đó.” Ông ta liếc trở lại Flamel. “Tôi được nhận vào học việc với Nhà Giả kim. Ông ấy điều hành tiệm sách ở Stratford, nơi tôi lớn lên.”
      Josh quay sang nhìn Nicholas.
      Đầu Flamel vụt rướn thẳng lên và ông há miệng định trả lời, nhưng Shakespeare cứ tiếp.
      “Tôi phải là được giáo dục; tôi vào học tại New School của Nhà vua, và tôi có thể đọc và viết tiếng , tiếng La-tinh và tiếng Hy Lạp. Ấy thế, vào lứa tuổi như vậy, và tôi thuyết phục cha tôi xin cho tôi chân trong tiệm sách của Flamel.” Đôi mắt Shakespeare giờ lại dán chặt vào Nhà Giả kim, và ngôn ngữ, thậm chí cả trọng của ông ta cũng thay đổi dần, trở nên trang trọng, gần như cổ xưa. “Tôi muốn đọc và học viết; nhưng ông Fleming lại bảo tôi lau chùi sàn nhà, chạy việc vặt, mang giao những túi sách khắp thị trấn.”
      Nhà Giả kim lại mở miệng nhưng rồi ngậm trở lại, lời nào.
      “Và rồi Tiến sĩ Dee xuất ở Stratford. Các bạn biết hồi ấy ông ta nổi tiếng cỡ nào. Ông ta phục vụ cho cả hai triều nữ hoàng, Mary và Elizabeth, mà sống sót được với cái đầu vẫn ở vai, đó là thành công lớn vào thời bấy giờ. Ông ta rất thân với Elizabeth – nghe rằng thậm chí chính ông ta là người chọn ngày đăng quang cho bà ta nữa kìa. Người ta đồn ông ta có thư viện rộng lớn nhất nước ,” Shakespeare tiếp, “vì thế hoàn toàn tự nhiên khi ông ta ghé tạt qua tiệm sách của nhà Fleming. ngạc nhiên, nhà Fleming thường rất hiếm khi nào rời cơ ngơi của mình và bao giờ xuống phố, lại có ở nhà ngày hôm ấy. Cửa tiệm do trong mấy người trợ lý trông coi, người đàn ông có cái mặt dài như mặt ngựa mà tên ông ta tôi bao giờ nhớ được.”
      “Sebastian,” Flamel khẽ.
      Đôi mắt ươn ướt của Shakespeare dán vào mặt Nhà Giả kim và ông ta gật đầu. “À, đúng rồi, Sebastian. Nhưng Dee quan tâm đến ông ấy. Ông ta chuyện với tôi thôi, thoạt tiên là bằng tiếng , rồi tiếng La-tinh, rồi tiếng Hy Lạp. Ông cầu tôi giới thiệu cuốn sách – tôi đề nghị cuốn Medea* của Ovid, và ông ta mua – và rồi ông ta hỏi tôi xem tôi có hạnh phúc với vị trí tại của mình .” Đôi mắt màu xanh lơ nhạt của Shakespeare cứ khóa chặt vào đôi mắt Flamel. “Tôi với ông ta là tôi hạnh phúc. Vì thế ông ta cho tôi chân học việc. Có quyền chọn lựa giữa ví trí thấp kém là phụ việc cho người bán sách so với được học việc với trong những người quyền lực nhất nước , làm sao tôi có thể từ chối cơ chứ?”
      Josh gật đầu. Chắc hẳn bản thân cậu cũng có cùng chọn lựa như vậy.
      “Vì thế tôi trở thành người học việc của Dee. Hơn thế nữa, có lẽ: tôi đến chỗ tin rằng thậm chí ông ta còn coi tôi là con trai nữa kia. điều thể phủ nhận đó là ông ta tạo ra tôi.”
      Sophie chồm người lên bàn, đầy bối rối. “Ý ông là sao ạ, tạo ra ông hả?”
      Đôi mắt Shakespeare tối sầm buồn bã. “Dee nhìn ra điều gì trong con người tôi – người thèm khát cảm xúc, khao khát phiêu lưu mạo hiểm – và tỏ ý muốn đào tạo và giáo dục tôi theo những cách mà những người nhà Fleming – nhà Flamel – hoặc thể áp dụng. Đúng như lời hứa, Pháp sư cho tôi thấy nhiều điều kỳ diệu. Ông ta mang tôi đến với các thế giới vượt ra ngoài tầm hiểu biết, ông ta nuôi dưỡng trí tưởng tượng của tôi, cho phép tôi được vào thư viện lạ thường ấy, giúp tôi có thể dùng ngôn ngữ của mình diễn đạt mọi chuyện cách ràng và mô tả được những thế giới tôi có dịp trải nghiệm. Chính nhờ Tiến sĩ John Dee tôi mới trở thành văn hào William Shakespeare được.”
      đả bỏ sót chút ở đoạn xúi bò vào nhà chúng tôi vào giữa đêm khuya và đánh cắp cuốn Codex,” Nicholas Flamel lạnh lùng . “Và khi việc đánh cắp thất bại, cáo buộc chúng tôi làm gián điệp cho Tây Ban Nha. Năm mươi binh lính của Nữ hoàng bao vây tiệm sách và tấn công hề báo trước. Sebastian bị thương và Perenelle bị sung hỏa mai bắn trúng vai đến suýt chết.”
      Shakespeare lắng nghe từng lời và gật đầu rất chậm. “Dee và tôi có mặt ở Stratford khi biến cố đó xảy ra, và đến mãi rất lâu sau này tôi mới biết,” ông ta bằng giọng thầm thô ráp. “Và tất nhiên đến lúc ấy quá trễ mất rồi. Tôi lún sâu vào sức quyến rũ của Dee: ông ta thuyết phục tôi rằng tôi có thể trở thành nhà văn mà tôi từng ao ước. Mặc dù chuyện đó nghe có vẻ khả thi, nhưng tôi vẫn tin ông ta. Cha tôi là người làm găng tay và buôn bán len; có nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch, hoặc thậm chí nghệ sĩ nào trong gia đình tôi cả.” Ông ta lắc đầu nhè . “Có lẽ tôi nên theo cha tôi tham gia vào công việc làm ăn của gia đình hơn.”
      “Lúc ấy thế giới chắc hẳn là nơi còn tội nghiệp hơn,” Palamedes khẽ. Hiệp sĩ Saracen nhìn sát vào Shakespeare và Nhà Giả kim.
      “Tôi lập gia đình. Tôi có con,” Shakespeare kể tiếp, bây giờ rất nhanh, chỉ tập trung vào Flamel thôi. “Đầu tiên là đứa con , Susanna xinh đẹp của tôi, rồi hai năm sau, đến cặp sinh đôi, Hamnet và Judith.”
      Sophie và Josh rướn thẳng người, liếc nhau nhanh; hai đứa chưa bao giờ nghe đến hai người con song sinh của Shakespeare hết.
      Ngưng lúc khá lâu và cuối cùng Đại Thi hào bất tử hít thở sâu và rùng mình. Ông ta xòe bàn tay với những ngón tay dài mặt bàn gỗ và nhìn chết trân vào đó. “Rồi tôi khám phá ra tại sao Dee quan tâm đến tôi như vậy. Bằng cách nào đó biết rằng tôi cặp song sinh, và tin rằng chúng là cặp song sinh huyền thoại được tiên báo trong cuốn Codex. Vào năm 1596, tôi ở London, còn sống tại nhà ở Stratford nữa. Dee đến thăm vợ tôi và đề nghị được huấn luyện cho cặp song sinh. ấy đồng ý cách ngốc nghếch, dù rằng vào thời đó, những tin đồn xấu xa về ông tiến sĩ này bắt đầu được loan ra. vài ngày sau, cố nhờ người Đánh thức Hamnet. Quá trình Đánh thức giết chết thằng bé,” ông ta kết thúc câu chuyện cách đơn giản. “Con trai tôi chỉ mới mười tuổi.”
      Trong im lặng kéo dài tiếp theo đó, ai gì, chỉ có tiếng mưa đập chan chat mái nhà bằng kim loại.
      Cuối cùng, Shakespeare ngước lên nhìn chăm chăm vào Flamel. Đôi mắt ông ta ràn rụa và nước mắt lăn dài xuống hai bên má. Ông ta vòng quanh chiếc bàn cho tới khi đối diện ngay trước Nhà Giả kim. “ thằng bé con ngốc nghếch phản bội ông vì hiểu biết và ngu dại. Rốt cuộc, tôi trả giá cho hành động ấy bằng chính mạng sống của con trai tôi. Tôi căm ghét Dee theo cách mà thậm chí ông thể nào hiểu được.” Shakespeare nắm chặt cánh tay cảu Nhà Giả kim, các ngón tay bấu lại. “Tôi phải chờ rất lâu mới gặp được ông. Giữa chúng ta đây, ai khác hành tin này có thể biết nhiều về tay Pháp sư này như chúng ta cả. Tôi quá mệt mỏi vì cứ phải chạy dông dài và trốn chui trốn nhủi. đến lúc phải góp chung hiểu biết vào với nhau, làm việc cùng với nhau. đến lúc phải đánh trả lại Dee và các Elder Đen tối của . Ông bảo sao?” ông ta hỏi dồn.
      “Đó là chiến lược tốt,” Flamel chưa kịp trả lời Josh . Ngay cả khi , cậu vẫn ý thức được rằng cậu biết mình gì. Chính là Mars trong cậu. “Các người mất cả đời để chạy lòng vòng: Dee ngờ các người lại thay đổi chiến thuật đâu.”
      Palamedes tì cánh tay lực lưỡng bàn. “Cậu con trai đúng đó,” ta thở dài. “Tay Pháp sư này làm cho các ông bị kẹt ở đây, tại London này. Nếu các ông chạy trốn, bắt các ông.”
      “Và nếu chúng ta ở lại đây, cũng bắt chúng ta,” Josh ngay.
      Nicholas Flamel nhìn quanh khắp bàn lượt, ràng là ông bối rối trước những gì vừa nghe được. “Tôi …” cuối cùng ông . “Giá mà tôi có thể chuyện được với Perenelle; ấy biết phải làm gì.”
      Lần đầu tiên kể từ khi Flamel và hai đứa sinh đôi đến đây, Shakespeare toét miệng cười. “Tôi nghĩ chúng ta có thể thu xếp chuyện này được mà.”
      *Medea: công chúa Medea trong thần thoại Hy Lạp, người giúp Jason trộm được Huân chương Hiệp sĩ, và khi Jason bỏ rơi, bà giết chết hai người con của mình với Jason để trả thù.
      Chương 17
      Nguồn : e-thuvien.com
      Làm prc: Vanlydocnhan
      Perenelle đứng như đóng khung trong ô cửa và nhìn chăm bẳm vào bóng tối u ám. Cánh cửa ra vào bằng kim loại từng niêm phong khoảng trống này bây giờ nằm chõng chơ mặt đất ngay phía sau bà, móp méo và trật trẹo, bị bung toạc ra khỏi bản lề do sức nặng của mấy con nhện trào lên khỏi các xà-lim của nhà tù bên dưới kia. Cùng với việc Areop-Enap rút lui, chui vào cái kén của bà ta, mấy con nhện sống sót cũng biến đâu mất, và tất cả những gì còn lại bề mặt Alcatraz chỉ là lớp vỏ khô như bị nướng quá lửa của đám ruồi chết và những lớp vỏ bọc của bầy nhện. Bà băn khoăn tự hỏi biết ai – hoặc cái gì – xua lũ ruồi nhặng đến đây. người nào đó phải rất mạnh mẽ, chắc chắn rồi; cái gì đó có thể thậm chí bây giờ rắp tâm mưu tính toán cho những hành động sắp tới.
      Perenelle nghiêng nghiêng đầu, vén mái tóc dài đen nhánh ra sau tai, nhắm mắt lại và lắng nghe. Khả năng nghe của bà rất tinh nhạy, vậy mà bà thể bắt được bất cứ thứ gì chuyển động. Dù vậy, Nữ Phù thủy biết rằng các xà-lim hề trống rỗng. Nhà tù của hòn đảo này đầy dẫy những kẻ uống máu và ăn thịt người, bọn vetala, minotaur, Windigo và oni, bọn troll và cluricaun – và tất nhiên, cả con nhân sư chết người kia nữa. Ánh sáng mặt trời nạp lại luồng điện cho Perenelle, và bà biết bà có thể xử lý các sinh vật yếu kém hơn – tuy rằng bọn minotaur và mấy con quỷ Windigo có thể vẫn mang lại cho bà chút vấn đề - nhưng bà hoàn toàn ý thức rằng mình thể đương đầu với con nhân sư nổi. Con sư tử mang cánh đại bang ấy ăn sạch năng lượng ma thuật của bà; chỉ mỗi việc ở gần bên nó thôi luồng điện của bà cũng cạn kiệt, bỏ mặc bà hoàn toàn có khả năng tự vệ.
      Perenelle ấn bàn tay mình vào dạ dày sôi lên. Bà cảm thấy đói. Nữ Phù thủy ít khi nào phải ăn, nhưng bà nhận ra mình đốt quá nhiều năng lượng và cần phải nạp calorie vào. Nếu có Nicholas ở đây vấn đề gì; nhiều lần đường họ , ông sử dụng kỹ năng hóa học của mình để chuyển hóa đá thành bánh mì, và nước thành súp. Bà biết hai câu thần chú sừng-dê-kết-hoa-quả mà bà học được ở Hy Lạp cung cấp đủ thức ăn cho bà, nhưng đọc lên lời thần chú ất đồng nghĩa với việc sử dụng luồn điện, dấu hiệu đặc trưng lôi kéo con nhân sư đến với bà.
      phải đối đầu với việc có con người hòn đảo này – bà ngờ rằng có bất kỳ ai có thể sống sót được chỉ qua đêm Alcatraz mà còn tỉnh táo hoặc thể chất nguyên vẹn. Bà nhớ đọc được bản tin báo mới gần đây – khoảng sáu tháng trước thôi – rằng Alcatraz được công ty cổ phần mua lại và có cơ hội gần gũi với công chúng hơn. Công viên quốc gia này được biến thành viện bảo tàng lịch sử sống động đa phương tiện. Giờ khi biết chính Dee sở hữu hòn đảo này, bà lại ước gì nguồn tin đó phải là . Tuy nhiên, còn tệ hơn nữa khi có người nào hòn đảo này suốt ít nhất sáu tháng nay, có vẻ như càng lúc càng ít khả năng bà có thể tìm được còn sót lại thứ gì đó có thể ăn được. Đây phải lần đầu tiên bà thấy đói trong suốt cuộc đời dài thăm thẳm của bà.
      Tay Pháp sư quy tụ đạo quân trong các xà lim, những sinh vật đến từ mọi quốc gia và mọi câu chuyện thần thoại của hết thảy mọi chủng tộc. có ngoại lệ, chúng là những con quái thú từng là căn nguyên những cơn ác mộng của con người qua hàng mấy thiên niên kỷ. Và nếu có đạo quân, có nghĩa là chiến tranh sắp đến. Đôi môi đầy đặn của Perenelle cong lên thành nụ cười chế giễu. Vậy xem ra như thể chỉ có mình bà là con người Alcatraz… cùng với đủ loại quái vật trong thần thoại, nhưng con quỷ khủng khiếp, loài ma cà rồng hút máu và nhưng con ma thú. Còn có mấy Nữ thần Biển ngoài khơi, Nữ thần Quạ luôn nuôi ý chí trả thù bị nhốt trong xà-lim sâu tít bên dưới lòng hòn đảo, và Elder hay Thế hệ Kế tiếp mạnh thể tưởng lúc nào cũng sẵn sang tấn công bà từ đâu đó lục địa.
      Nụ cười của Perenelle nhạt ; bà chắc chắn mình ở trong tình huống còn tồi tệ hơn bất cứ giai đoạn nào đó trong quá khứ mà bất chợt ngay lúc này bà thể nhớ ra đó là khi nào. Nhưng những lúc ấy bà luôn có Nicholas ở cùng với mình. Bên nhau, họ trở thành nhưng người thể bị đánh bại.
      cơn gió thoảng rất thổi từ bên dưới lên, làm xôn xao mái tóc bà, và rồi những hạt bụi đất xoay tít và hình dáng chập chờn trong vùng tối u ám. Perenelle lao trở lại ra dưới ánh mặt trời, nơi bà mạnh mẽ nhất. Bà tưởng đó là con nhân sư; bà ngửi thấy mùi hương thể nhầm lẫn vào đâu được của nó: mùi xạ của sư tử, chim và rắn.
      Hình dáng ấy dần dưới ô cửa, bắt đầu có chiều sâu và trở thành vật chất khi ánh sáng mặt trời chạm vào, hình thù kết hợp giữa những phân tử gỉ sét màu đo đỏ với những mảnh tơ nhện lấp lánh: đó chính là hồn ma, là Juan Manuel de Ayala, người khám phá và canh giữ Alcatraz. Bóng ma ấy cúi chào rất sâu. “ vui khi thấy bà sung sức và khỏe mạnh, thưa quý bà,” ông ta bằng thứ tiếng Tây Ban Nha cổ xưa và trang trọng.
      Perenelle mỉm cười. “Sao, bộ ông nghĩ chỉ khi thành linh hồn tôi mới gặp được ông thôi ư?”
      De Ayala nửa trong suốt nửa mờ mờ lơ lửng trong trung, ông ta cân nhắc câu hỏi ấy với vẻ thận trọng; rồi lắc đầu: “Tôi biết rằng nếu bà ngã xuống hòn đảo này, bà còn ở đây. Linh hồn bà lang thang vô định.”
      Perenelle gật đầu đồng ý, đôi mắt bà tối sầm vì buồn bã. “Ắt hẳn tôi tìm Nicholas.”
      Hàm răng hoàn hảo mà hồn ma thủy thủ chưa bao giờ sở hữu khi còn sống lóe lên lúc ông ta cười toe. “Lại đây , thưa quý bà, lại đây: tôi nghĩ có cái này bà nên xem đó.” Ông ta quay người và lại trôi lềnh bềnh xuống cầu thang. Perenelle chần chừ; bà tin tưởng de Ayala, nhưng những bóng ma phải là những sinh vật sáng suốt và họ rất dễ bị lừa. Và rồi, yếu ớt và mỏng manh, Perenelle bắt được thoang thoảng mùi hương bạc hà – chỉ trong thoáng mơ hồ - trong bầu khí đượm muối ẩm ướt này. do dự giây nào, Nữ Phù thủy bước theo hồn ma vào sâu trong mảng tối u.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 18

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Nicholas Flamel ngồi trước trong hai cái màn hình tinh thể lỏng đồng bộ với chiếc máy tính. William Shakespeare ngồi bên trái ông trong khi Josh lảng vảng phía vai hai người, cố giữ khoảng cách vừa đủ với ông người bất tử và chỉ thở bằng miệng. Khi Shakespeare động đậy, ông ta kéo theo thứ mùi hương sát bên mình, nhưng khi ông ta ngồi yên, mùi khó chịu kia tụ lại quanh mình ông ta thành đám mây dày đặc. Palamedes và Sophie ra ngoài cho chó ăn.

      “Tin tôi ; việc này khá đơn giản,” Shakespeare kiên nhẫn giải thích, đôi mắt mở to sau cặp kính, “chỉ là biến đổi rất của câu thần chú bói cầu mà Dee dạy cho tôi hơn bốn trăm năm trước thôi mà.”

      “Vào lúc này tôi có nên nhắc rằng máy tính tắt nguồn nhỉ?” Josh xen vào, chợt nhận ra điều mà hình như ai thấy. “Chỉ có màn hình là bật lên rồi.”

      “Nhưng chúng ta chỉ cần có màn hình thôi mà,” Shakespeare cách bí khó hiểu. Ông ta nhìn Nhà Giả kim. “Dee luôn sử dụng bề mặt phản chiếu để bói cầu…”

      “Bói cầu à?” Josh cau màu. Cậu nghe Flamel dùng từ ngữ giống như vậy. “Ý ông là sao ạ?”

      “Bắt nguồn từ chữ descrier trong tiếng Pháp cổ,” Shakespeare lầm bầm, “có nghĩa là ‘công bố’ hoặc là ‘cho thấy’. Trong trường hợp của Dee, nó có nghĩa là ‘để lộ ra’. Khi tôi còn ở với , đâu cũng mang theo cái gương soi.”

      Flamel gật đầu. “‘Phiến đá thông tỏ’ nổi tiếng của , hay còn gọi là thấu kính ma thuật. Tôi đọc thấy chuyện đó.”

      chứng minh cho bản thân Nữ hoàng Elizabeth ngay tại nhà ở Mortlake,” Shakespeare . “Bà ta vô cùng sợ hãi khi nhìn thấy chính mình chạy khỏi ngôi nhà và bao giờ trở lại nữa. Tay tiến sĩ có thể nhìn vào các thấu kính và dồn chú ý vào mọi người và mọi nơi khắp thế giới này.”

      Flamel gật đầu. “Tôi thường ngạc nhiên biết đó là cái gì.”

      “Nghe giống như nguyên tắc của chiếc ti-vi ấy,” Josh buột miệng. Và rồi cậu nhận ra rằng mình về thứ gì đó trong thế kỷ mười bảy.

      “Đúng, rất giống hệ thống các chương trình truyền hình, nhưng máy quay nào ở đầu bên kia để truyền tín hiệu hình ảnh. Đó là phần trong công nghệ của giống loài Elder,” Shakespeare thêm, “ món quà từ chủ nhân của . Tôi tin rằng đó là những thấu kính hữu cơ được kích hoạt bởi năng lượng từ luồng điện của .”

      “Vậy chuyện gì xảy ra?” Flamel ngạc nhiên thốt lên.

      Shakespeare mỉm cười, môi mím chặt. “Tôi đánh cắp vật đó của vào đêm tôi chạy trốn mất biệt. Tôi có ý giữ nó cho riêng mình và biết đâu thậm chí có thể dùng nó chống lại . Nhưng rồi tôi nhận ra rằng nếu vật đó nối kết Dee với chủ nhân của , rất có thể cũng kết nối chủ nhân của với tôi. Tôi bèn vất nó xuống dòng song Thames ở Southwark, gần nơi mà sau này tôi xây dựng nên nhà hát Globe.”

      biết liệu bây giờ nó có còn ở đó vậy cà,” Flamel lẩm bẩm.

      “Chắc chắn nó biến mất bên dưới hàng thế kỷ phù sa và bùn đất. Nhưng đừng bao giờ bận tâm đến chuyện đó nữa; Dee có thể - và – dùng bề mặt có độ bóng cao hơn để bói cầu – gương soi, kính bên cửa sổ, mắt kính, đồ pha-lê được chà bóng – nhưng rồi khám phá ra rằng chất lỏng hoạt động tốt hơn. Bằng cách tác động luồng điện vào thứ chất lỏng ấy, làm cho nó phản chiếu được và sử dụng nó để nhìn vào người hoặc nơi chốn nào đó từ bên kia quả địa cầu hoặc từ những thời kỳ và nơi chốn khác. Nếu đủ thời gian và chuẩn bị, thậm chí còn có thể nhìn vào các Vương quốc Bóng tối gần nhất. cũng có thể sử dụng nó để nhìn thấy xuyên qua mắt của các loài thú hoặc loài chim. Lúc ấy những con vật này trở thành các thám tử của .”

      là lạ lùng.” Flamel vừa tán thành, vừa lắc đầu kinh ngạc. “Giá mà chịu làm việc với chúng ta, chống lại các Elder Đen tối.”

      “Tay tiến sĩ thường sử dụng nước suối tinh khiết, dù tôi từng biết có lần dùng tuyết, nước đá, rượu vang hoặc ngay cả bia nữa. Bất kỳ chất lỏng nào cũng làm được.” Chồm người tới trước, Shakespeare vỗ vỗ vào cái khung nhựa màu đen bọc quanh màn hình máy tính. “Và ở đây chúng ta có gì… ngoài cái chất thể lỏng này?”

      Đôi mắt nhàn nhạt của Nhà Giả kim mở rộng ra và ông từ từ gật đầu. Từ bên dưới cổ áo thun của mình, ông rút ra cặp kính kẹp mũi mà ông vẫn mang sợi dây đeo quanh cổ rồi gắn nó ngay lên mũi. “Tất nhiên rồi,” ông thầm. “Và thuộc tính của chất tinh thể lỏng này có thể được biến đổi bằng việc nạp vào dòng điện hoặc từ trường. Việc đó làm thay đổi định hướng của các tinh thể.” Ông bật tanh tách các ngón tay mình và tia lửa màu xanh lá lớn hơn đầu kim gút xuất ngón tay trỏ. Căn nhà chòi ám mùi khó chịu thoáng chốc thơm mùi cay gắt của bạc hà, và mẫu hoa văn cuộn xoắn như khói ngay lập tức lăn tròn xuống cả hai chiếc màn hình. Flamel di chuyển ngón trỏ và cả hai màn hình sáng lóe màu trắng tinh, rồi đến màu xanh lá, rồi ngay tức hóa thành những tấm gương soi mờ đục phản chiếu gương mặt ông, hai bên là Shakespeare và Josh. “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc này. là thiên tài!”

      “Cám ơn,” Shakespeare lẩm bẩm, nghe như thoáng chút bối rối vì lời khen ngợi, đôi má xanh xao hơi ửng hồng.

      “Ông dùng cái gì làm tấm gương soi ở đầu bên kia?” Flamel hỏi.

      “Mạng nhện,” Đại thi hào , khá ngạc nhiên. “Tôi phát ra rằng dù trong cung điện hay nơi tồi tàn bẩn thỉu, ở đâu cũng có mạng nhện cả. Những sợi tơ luôn dính chất lỏng, và chúng là những tấm gương soi ma thuật xuất sắc.”

      Flamel lại gật đầu, ràng là rất ấn tượng.

      “Bây giờ tất cả những gì chúng ta cần là thứ nối kết ông với quý bà Perenelle.”

      Nicholas tháo chiếc vòng bạc nằng nặng đeo quanh cổ tay phải của mình. “Perenelle tự tay làm cái này cho tôi,” ông vừa giải thích, vừa đặt nó xuống bàn. “Hơn thế kỷ trước chút, tay săn tội phạm để lĩnh thưởng mang mặt nạ truy đuổi theo chúng tôi khắp châu Mỹ. Khẩu súng của nạp đầy những viên đạn bằng bạc. Tôi nghĩ tưởng chúng tôi là ma sói chắc.”

      “Ma sói và những viên đạn bằng bạc sao!” Shakespear phá ra cười lớn nghe như tràng ho và lắc đầu. “Chúa ơi, những con người này sao mà ngốc thế!”

      “Tôi tưởng đạn bằng bạc có tác dụng chống lại ma sói chứ,” Josh , “nhưng phả vậy đâu hả?”

      ,” Flamel . “Tôi lúc nào cũng thích giấm hơn.

      “Hoặc là chanh,” Shakespeare , “và tiêu cũng là lựa chọn rất hợp lý đấy.” Ông ta nhìn thấy ánh mắt bối rối ngơ ngác của Josh nên thêm, “Xịt lên người chúng hoặc ném vào mắt mũi chúng. Chúng dừng lại và hắt hơi, và như thế là bạn có giờ thoát thân rồi.”

      “Giấm, chanh, và tiêu,” Josh lẩm bẩm. “Tôi ghi nhớ để bổ sung vào bộ dụng cụ săn ma sói của mình. Và nếu tôi tìm được con ma sói nào, tôi có thể làm món rau trộn,” Josh đầy vẻ châm biếm.

      Shakespeare lắc đầu nguầy nguậy. “, , cậu cần phải có dầu ô-liu ngon để làm món rau trộn chứ,” ông ta nghiêm túc, “mà dầu ô-liu làm nên tích gì với mấy con Ma thuộc nhóm này đâu nhé.”

      “Cho dù chúng cực kỳ hữu ích để chống lại bọn bruxa và strega,” Flamel lơ đãng thầm trong khi tạo ra những mẫu hoa văn uốn éo như dạng hình học được lặp lặp lại chiếc màn hình LCD.

      “Tôi biết chuyện đó,” Shakepeare . “Và làm sao người ta dùng –”

      “Mà chuyện gì xảy ra với tay săn tội phạm lĩnh thưởng kia vậy ạ?” Josh cắt ngang, vẻ thất vọng, cố lái cuộc chuyện trở về mạch cũ.

      “Ồ, rốt cuộc Perenelle giải cứu khỏi bộ tộc Oh-mah.”

      “Oh-mah?” cả Josh và Shakespeare đều hỏi lượt.

      “Sasquatch… Saskehavis,” Flamel , và trong tích tắc, hình ảnh người cao lớn, có tầm vóc mạnh mẽ, trông rất nguyên sơ xuất màn hình. Toàn thân bao phủ trong lớp lông màu hung đó và mang các chùy làm bằng khúc rễ cây có nhiều mấu. “Còn gọi là Big Foot,” ông thêm.

      “Big Foot. Tất nhiên rồi. “Josh lắc đầu. “Vậy chú là có Big Foot – Big Feet gì đó - ở châu Mỹ sao?”

      “Dĩ nhiên,” Flamel với vẻ xem thường. “Khi Perenelle giải cứu được tay thợ săn tội phạm để lĩnh thưởng kia thoát khỏi bộ tộc Oh-mah,” ông vừa tiếp, vừa vuốt ve chiếc vòng, “ ta tặng cho ấy mấy viên đạn bằng bạc để làm quà.” tia lửa màu xanh lá lan qua bên kia dải kim loại. “Tôi chăm chú xem ấy nung chảy các viên đạn làm bằng bạc này bằng luồng điện của ấy và tạo hình từng mắc nối …” Mùi hương bạc hà lần nữa lại tràn ngập căn nhà chòi. Cầm chiếc vòng lên, Nhà Giả kim khép nắm tay mình quanh xâu kim loại. “Lúc nào ấy cũng bảo rằng phần con người ấy luôn ở trong chiếc vòng này.”

      Và ngay lập tức hai chiếc màn hình LCD nhấp nháy và cả ba người đều nhận thấy rằng họ nhìn vào Perenelle Flamel.

      Chương 19

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Thậm chí có de Ayala dẫn đường, mùi hương bạc hà vẫn có thể lôi léo Perenelle dấn sâu vào dãy xà-lim. Tươi nguyên và tinh sạch, mùi hương ấy bao trùm lên thứ mùi hôi thối khó chịu của tòa nhà mục nát và cả mùi đậm đặc luôn hữu của muối. Bây giờ cón có thứ mùi khác trong Alcatraz: mùi khó chịu ở sở thú của quá nhiều loài thú dồn vào nhau chật ních.

      De Ayala ngừng lại trước lối vào của xà-lim và trôi giạt người sang bên, để lộ tấm mạng nhện rối beng to tướng lấp đầy khoảng trống. Tấm mạng hình tròn sáng lấp lánh những giọt chất lỏng rung rung. Mùi hương bạc hà mạnh nhất ở đây.

      “Nicholas hả?” Perenelle thầm, lúng ta lúng túng. Đó là mùi hương quen thuộc tuyệt vời rất dễ phân biệt từ luồng điện của chồng bà… nhưng mùi hương ấy sao lại ở đây? Bà cố săm soi đằng sau tấm mạng, nhìn thẳng vào xà-lim. “Nicholas?” bà lại thầm lần nữa.

      Ngay tức khắc, mỗi giọt riêng lẻ trong tấm mạng lung linh tỏa sáng mờ mờ và kết thành khối. Tấm mạng nhện nhanh chóng có khả năng phản chiếu, nhờ vậy mà như thế bà nhìn vào tấm gương soi rất lớn, rồi toàn bộ mờ dần và tối sầm lại, để lộ ra lớp hoa văn phức tạp bên dưới. sợi dây màu xanh lá kêu răng rắc uốn vặn lan khắp từng sợi tơ mỏng manh và bà nghe giọng của Nicholas – “Lúc nào ấy cũng bảo rằng phần con người ấy luôn ở trong chiếc vòng này.” – rồi tích tắc sau đó tấm mạng dần chiếu sáng sống động trở lại và ba khuôn mặt đầy vẻ ngạc nhiên ran gay trong vùng tối, nhìn chăm bẳm vào bà.

      “Nicholas!” Giọng Perenelle ngắt quãng. Bà phải chiến đấu ghê gớm lắm mới giữ cho luồng điện mình sáng lóe lên. Đây là điều thể - nhưng mặt khác, đó lại là thế giới nơi bà sống. Theo bản năng, bà biết ngay đây là hình thức bói cầu, sử dụng chất lỏng mạng nhện làm nguồn cung cấp hình ảnh… nào làm được như vậy; ông chưa bao giờ nắm vững ngón nghề đặc biệt nào. Nhưng Nicholas luôn làm bà ngạc nhiên, thậm chí sau hơn sáu trăm năm trong đời sống hôn nhân. “Nicholas,” bà thào. “Đúng là mình rồi!”

      “Perenelle! Ồ, Perenelle!”

      Nỗi vui mừng trong giọng của Nicholas làm bà muốn nghẹt thở. Nữ Phù thủy chớp mạnh cho những giọt nước mắt trôi ra, rồi tập trung hết sức vào chồng, bà xem xét ông từng chút . Những đường hằn trán ông sâu hơn, có những vết nhăn mới quanh khóe mắt và quanh mũi, túi mắt tím thẫm và tóc ông nhuốm bạc, nhưng mọi thứ ấy thành vấn đề: ông vẫn còn sống là tốt rồi. Bà cảm thấy có gì đó tận bên trong người bà giật thót lên rồi lại nới lỏng ra. Con nhân sư mắng nhiếc chế giễu bà rằng Nicholas tiêu rồi; Morrigan bảo Nicholas được thả ra ở Paris. Perenelle hầu như rất sợ, thậm chí dám nghĩ đến Nicholas và những gì có thể xảy ra cho ông; trông ông có già , chắc chắn là vậy rồi; đầy vẻ mệt mỏi, hẳn nhiên; nhưng rất hoạt bát!

      Cậu con trai, Josh, cũng ở đó, ngay đằng sau Nicholas. Trông cậu cũng khá mệt mỏi. Vầng trán lấm lem vấy bẩn và tóc tai bù xù, nhưng ràng dường như cậu mạnh mẽ hơn. Bà thấy bóng dáng Sophie. Còn Scathach đâu nhỉ? Perenelle giữ cho gương mặt mình biểu lộ cảm xúc khi bà nhìn sang người đàn ông ngồi bên cạnh chồng mình. Người này trông hơi quen quen.

      “Tôi nhớ mình lắm,” Nicholas . Ông giơ bàn tay phải lên, ngón tay xòe ra. Cả nửa thế giới chợt biến đâu mất, Perenelle bất giác làm theo động tác ấy, ngón tay bà vừa khớp với những ngón tay của ông. Bà cẩn thận chạm vào tấm mạng nhện, ý thức rằng bếu lỡ chạm vào, chắc bà làm vỡ kết nối mất.

      “Mình bình yên vô chứ?” Giọng Nicholas chỉ nhỉnh hơn tiếng thầm chút, và hình ảnh ông rung rinh khi tấm mạng dập dờn trong cơn gió thổi vào theo cánh cửa để mở trong ở cuối dãy hành lang.

      “Tôi suy suyển gì và mạnh khỏe,” bà .

      “Nhanh lên, Perry, có nhiều thời gian đâu. Mình ở đâu đó?”

      xa nhà lắm; tôi ở Alcatraz. Còn mình?”

      “E rằng ở ngoài mặt trận xa hơn mình nhiều. Tôi ở London.”

      “London à! Morrigan bảo tôi rằng mình ở Paris mà.”

      Nicholas mỉm cười. “À, nhưng đó là chuyện hôm qua; hôm nay tôi ở London rồi, nhưng lâu đâu, nếu tôi có thể cải thiện được tình hình. Mình có thể rời hòn đảo được ?”

      “Rủi thay là thể.” Bà mỉm cười buồn bã. “Đây là hòn đảo của Dee. Có con nhân sư được thả ra trong các hành lang nhà tù, nhiều xà-lim đầy rẫy những bọn quái thú, còn biển khơi lại bị các Nữ thần Biển canh giữ sít sao.”

      “Cứ ở yên đó: tôi đến cứu mình,” Nicholas chắc nịch.

      Perenelle gật đầu. Bà hoàn toàn nghi ngờ gì rằng Nhà Giả kim cố gắng đến với bà; nhưng đến kịp hay lại là chuyện khác. “Tôi biết là mình đến mà.” Họ sống với nhau quá lâu rồi và hầu như trọn thế kỷ này, tương đối khá là dễ chịu và dật, có liên hệ gì đến các Elder hay Thế hệ Kế tiếp, đến nỗi thi thoảng bà quyên rằng hiểu biết của ông là vô kể. “Mình có kế hoạch gì ?”

      “Ở Paris, tôi tìm lại được tấm bản đồ cũ của chúng ta đó vẽ các đường tuyến,” ông nhanh, đôi mắt long lanh đầy vẻ tinh quái. “Có đường tuyến đâu đó vùng đồng bằng Salisbury Plain đưa cả bọn chúng tôi đến thẳng núi Mount Tamalpais. Chúng tôi hướng về đó khi…” Ông ngập ngừng.

      Perenelle bắt được chút ngập ngừng đó và cảm thấy thoáng báo động dấy lên. “Khi cái gì? Mình còn phụ thuộc vào cái gì nữa, Nicholas?”

      “Có việc phải làm ở London trước ,” ông . “Tôi muốn bọ trẻ gặp người.”

      Ngay lập tức bà nghĩ đến cả chục cái tên, nhưng tên nào coi được cả. “Ai vậy?”

      “Gilgamesh.” Perenelle há miệng định can, nhưng vẻ lạnh lùng gương mặt ông khiến bà dừng lại. Đôi mắt ông lóe lên và gần như ai có thể nhận ra đầu ông lắc về phía Josh. “Tôi nhờ ông ấy dạy cho bọn trẻ Pháp thuật Nước.”

      “Gilgamsh,” bà nhắc lại, “Nhà vua.” Môi nở nụ cười gượng gạo, bà thêm, “Cho tôi gởi lời thăm ông ấy.”

      “Tôi chuyển lời.” Flamel gật đầu. “Chắc chắn ông ấy nhớ mình. Và tôi hy vọng ông ấy chỉ cho chúng tôi đường tuyến nào đưa chúng tôi về nhà,” ông thêm.

      tôi nghe nhanh lên, Nicholas: tất cả khỏe ? Bọn trẻ an toàn ?”

      “Ừ. Hai đứa sinh đôi ở đây với tôi,” Nicholas . “Cả hai đều được Đánh thức rồi, Sophie học được cả Pháp thuật khí lẫn Pháp thuật Lửa. may, Josh chưa được huấn luyện gì cả.”

      Perenelle quan sát Josh trong khi chồng bà . Thậm chí có chút nét dao động nào, nhưng bà cảm giác được, chứ phải trông thấy, vẻ thất vọng của cậu.

      “Còn nhiều chuyện để lắm.” Flamel tiếp.

      “Hiển nhiên rồi. Nhưng Nicholas này, ông quên cách cư xử mất rồi,” Perenelle trách ông. “Ông chưa giới thiệu tôi với…” Ngay lúc sắp sửa đặt câu hỏi bà chợt nhận ra. “Có phải cậu Shakespeare đó ?”

      Người đàn ông cạnh bên Nicholas cúi chào sâu hết mức trong tư thế ngồi của mình. “Tên đầy tớ hèn mọn của bà đây, thưa quý bà.”

      Perenelle vẫn im lặng. Bà cảm thấy cơn đay nhói vai nơi bà bị bắn trúng trong cuộc tấn công diễn ran gay sau phản bội của Shakespeare, nhưng như Nicholas, bà bao giờ nuôi chút oán hận nào với cậu bé ấy. Bà biết khả năng thuyết phục của Dee nguy hiểm tới mức nào. Cuối cùng, bà cúi đầu xuống. “Cậu Will. Trông cậu khỏe đấy.”

      “Cảm ơn, thưa bà. Gần cả bốn trăm năm rồi, tôi viết dòng để tán dương bà – ‘Tuổi tác thể làm bà tàn tạ, mà các lề thói cũng làm mất được trạng thái muôn màu muôn vẻ vô bờ bến của bà’ – có vẻ như dòng chữ này còn giữ được tinh nguyên. Bà vẫn đẹp như xưa.” Ông ta lấy hơi nhanh và rùng mình. “Tôi nợ bà lời xin lỗi, thưa bà. Vì những việc tôi làm, suýt chút nữa giết chết bà. Tôi phạm lỗi lớn.”

      “Ông chọn sai phía, Will ạ.”

      “Tôi biết điều đó, thưa bà.” Vẻ buồn rầu trong giọng của người bất tử tưởng như có thể sờ thấy được.

      “Nhưng ông có lỗi: chắc chắn lỗi nằm ở người bên kia, phải ?” bà hỏi nhàng.

      Đại thi hào mỉm cười và cúi đầu, thầm cảm ơn bà.

      “Perry, tôi hiểu lầm ông Shakespeare đây. Bây giờ ông ta còn làm bạn với tay Pháp sư đó nữa.” Nicholas vẫy vẫy bàn tay. “Chính ông ấy giúp chúng ta có thể liên lạc được với nhau.”

      Perenelle cúi đầu. “Cảm ơn, Will. Tôi thể với ông là tôi biết ơn ông ra sao khi được trông thấy Nicholas an toàn và khỏe mạnh thế này.”

      Hai má Shakespeare ửng đỏ và lan tỏa lên tận cái đầu hói của ông ta. “Rất hân hạnh, thưa bà.”

      “Còn cháu, Josh. Khỏe ?”

      Thằng bé trai gật đầu, “Khỏe ạ, cháu cho là thế. khỏe ạ.”

      “Còn Sophie sao?”

      “Tốt ạ. Chị ấy học được Ma thuật Lửa và khí. Giá mà thấy được những gì tụi cháu làm đối với bọn gargoyle ở Notre Dame.”

      Perenelle chuyển đôi mắt màu xanh lá cây day về hướng chồng, và chân mày bà nhướng lên như ngầm hỏi.

      “Như tôi mới đó, có nhiều chuyện để kể lắm.” Nhà Giả kim chồm người ra phía trước. Ông chợt tiếng nữa mà lại chuyển sang tiếng Pháp thời tuổi trẻ của mình. “Chúng tôi bị mắc kẹt, bị bao vây, trong lúc đương đầu với Những người Canh giữ của Thành phố. Đứa con trai lấy luồng điện của chính mình tiếp thêm vào luồng điện của – bạc và vàng kết hợp với nhau. Năng lượng của chúng mạnh thể tưởng: chúng đánh bại được ma thuật mà Dee và Machiavelli kết hợp lại. Perenelle, chúng ta có rồi: cuối cùng, chúng ta cũng có được cặp song sinh huyền thoại!”

      Tấm mạng nhện bị xé toạc khi luồng gió mạnh mang mùi hôi thối thổi xuống hành lang. Hình ảnh Nicholas tan ra thành cả triệu khuôn mặt li ti, mỗi khuôn mặt được phản chiếu những giọt nước bên tấm mạng. Rồi những giọt nước lại hòa vào nhau và bề mặt phản chiếu kia hiên ra trở lại.

      “Thưa bà…,” de Ayala gấp gáp thào, “có cái gì tiến đến gần.”

      “Nicholas,” Perenelle mau. “Tôi phải rồi.”

      “Tôi đến với mình nhanh hết sức,” Nhà Giả kim đáp lại.

      “Tôi biết mình đến mà. Nhớ cẩn thận, Nicholas. Tôi thấy tuổi già mặt mình đó.”

      “Perry, xin mình mội lời khuyên cuối cùng,” Nicholas thêm. “Ông Shakespeare nghĩ rằng chúng ta có thể đứng lên chiến đấu. Nhưng chúng tôi ở giữa thành phố London của Dee mà bên kia lại đông ghê gớm. Mình nghĩ chúng ta có nên làm vậy ?”

      “Ồ, Nicholas,” Perenelle dịu dàng bằng thứ tiếng Breton bị quên lãng từ thời tuổi trẻ xa xôi lâu ngày dài tháng. vẻ gì rất tinh tế đến với khung xương và các góc cạnh khuôn mặt bà, làm cho chúng như cứng lại. Đôi mắt màu xanh lá như khoác lớp kính, và bà chuyển lại thành tiếng . “Có lúc phải trốn chạy và có lúc phải đứng lên đối diện với kẻ thù. Nicholas, tôi thường giục mình hày dừng lại và chiến đấu. Mình có kiến thức về thuật giả kim hàng nửa thiên niên kỷ có thể dùng chống lại Dee và các Elder Đen tối. Nhưng mình luôn bảo tôi rằng mình thể - mình có ý muốn chờ đợi đến lúc tìm thấy được cặp song sinh. Nào, giờ mình có hai đứa rồi. Mà mình vừa với tôi rằng chúng rất mạnh. Hãy sử dụng chúng . Hãy đập cú ngay giữa trung tâm đế chế của Dee, hãy cho thấy rằng chúng ta hoàn toàn mất khả năng tự vệ. đến lúc rồi, Nicholas, đến lúc đứng lên và chiến đấu.”

      Nhà Giả kim gật đầu. “Còn mình. Mình có thể ở đó an toàn cho tới khi tôi đến với mình được ?”

      Perenelle chỉ mới định gật đầu kẻ ghê tởm nhảy qua tấm mạng nhện, hàm răng há hoắc và móng vuốt giương xòe ra chĩa sắc lẻm sượt thảng vào mặt bà.

      Chương 20

      Nguồn : e-thuvien.com

      Làm prc: Vanlydocnhan

      Nhà Giả kim, Josh và Shakespeare điều nhìn thấy Perenelle định gật đầu… rồi hình ảnh bị vở tan thành từng điểm ảnh, nhưng kịp để cả ba người nhìn thấy chớp nhoáng những móng vuốt uốn cong vòng. Theo bản năng, cả ba đều nhảy lùi lại xa khỏi màn hình.

      “Chuyện gì… chuyện gì xảy ra vậy?” Josh hỏi, rất bối rối. Màn hình bên trái chỉ còn toàn màu đen, nhưng màn hình bên phải vẫn lốm đốm những chum điểm màu đỏ và xanh lá lấp lánh.

      Bàn tay trái của Flamel nắm vòng quanh chiếc vòng bạc chặt đến nỗi các khớp đốt ngón tay trắng bợt cả ra. Ngọn lửa màu xanh bạc hà bắn vọt sang tận bên kia dải kim loại khi các đầu ngón tay trong bản tay phải của ống ấn mạnh vào chiếc màn hình. mà ảnh tinh thể lỏng ra những màu sắc cầu vòng lặp lại theo chu kỳ, và rồi mười dài màu hẹp và theo quy luật nào xuất nền đen, những sợi tơ dài nằm thẳng đứng dao động dập dờn như trêu ngươi cho thấy loáng thoáng dãy hành lang trống trơn ở đầu kết nối bên kia. Nhưng thấy bóng dáng Perenelle đâu cả.

      “Vậy là sao?” Josh hỏi.

      Shakespeare lắc đầu. “Tôi biết nữa.” Rồi ông cuộn bàn tay phải thành hình móc câu và đưa về phía màn hình. Năm dải màu hẹp khớp với năm ngón tay ông ta. “Có cái gì đó nhảy xổ vào Quý bà Perenelle và đập quật vảo bà. Chắc khi nhào tới bà, nó lao xuyên qua tấm mạng.” Ông ta dùng cái móng tay gõ vào mặt kính. “Có vẻ như chúng ta vẫn còn kết nối được qua những miếng vụn bị xé rách của tấm mạng. Tôi có thể thử lại xem sao.”

      ấy… ấy ổn chứ ạ?” Josh hỏi, đầy vẻ lo lắng. Cậu để ý thấy chiếc vòng bạc bây giờ tách thành hai nửa, phần giữa bị chảy thành những giọt bạc nhẵn nhụi. “Chú Nicholas?”

      Flamel lời. Ông run rẩy, khuôn mặt ông cắt cò giọt máu và có vẻ dữ tợn, môi ông vạch thành đường nét xanh lè. Tên Perenellemấp máy môi ông, nhưng phát thành tiếng.

      Hình ảnh màn hình chập chờn dao động… và rồi họ nhìn thấy Perenelle.

      lùi dần khỏi họ, hai bàn tay mở xòe ra phía trước trong tư thế tự vệ. đường xước dài chạy ngang qua bờ vai trần xuống tận bên cánh tay, da thịt đỏ ửng và trông có vẻ sưng tấy lên.

      “Perenelle,” Flamel thào, thanh thoát ra qua tiếng hổn hển dồn dập.

      Và rồi họ nhìn thấy nó. sinh vật di chuyển chầm chậm xuống dãy hành lang bằng đá, tiến về phía Nữ Phù thủy. Từ trước tới nay Josh chưa bao giờ trông thấy bất cứ thứ gì giống vậy: đó là giới hạn cân bằng giữa vẻ đẹp và nỗi kinh hoàng. Sinh vật có chiều cao chắc khoảng bằng cậu, trong khi gương mặt phúng phính với hai gò má đỏ au là của cậu bé, thân hình lại như bộ xương cách trí, xương và cạnh sườn lộ thấy bên dưới lớp da trắng nhợt xanh xao. Móng vuốt là lai tạp giữa chân con người với móng loài chim gõ lách cách dưới sàn, mặc dầu có bàn tay của con người, nhưng móng tay rất dài và đen thui, quặp ngược vào, như móng mèo. Đôi cánh dơi phủ lông vũ to vật vã mọc lên từ cột sống xương xẩu và kéo lết bết phía sau dọc theo mặt sàn.

      Và rồi hình thù thứ hai xuất . Thuộc giống cái. Mái tóc đen nhánh như tở kẻ khung, bộ mặt xinh đẹp thanh tú. Nhưng thân mình ả thậm chí còn gầy gò hơn cả tên con trai kia, nếu có thể được như vậy. Cặp cánh của ả tơi tả và rách bươm, và ả lôi sền sệt cái cánh bên trái ở phía sau.

      “Vetala,” Flamel thào đầy khiếp hãi. “Bọn uống máu, ăn thịt người.”

      hình thù khác nữa lại xuất phía trước Perenelle. Mơ hồ và mong manh, sinh vật này trông như con người và là phái nam. Bàn tay ta giơ lên thành những nắm đấm đầy đe dọa và luôn miệng kêu lên những tiếng rền rĩ.

      Luồng điện của Flamel nở bung ra thành màu xanh lá nhạt bao quanh lấy người ông, và mùi hương bạc hà chế ngự khắp căn phòng. “Tôi phải giúp ấy,” ông cách liều lĩnh.

      Bất thình lình, Palamedes xông vọt qua cánh cửa lao thẳng vào căn nhà chòi. “Luồng điện của ông kìa – dập tắt nó ngay!” ta như ra lệnh.

      Mắt mở lớn, Sophie theo sát gót chàng hiệp sĩ, trong khi đằng sau bé mấy con chó mắt đỏ quạch tụ thành bầy ngay nơi ngưỡng cửa, bắt đầu gậm gừ và sủa ran.

      Perenelle gặp chuyện rồi,” Josh vừa , vừa nhìn Sophie. Cậu biết chị thích người phụ nữ này.

      “Flamel: ngưng ngay!” chàng hiệp sĩ hét lớn.

      Nhưng Nhà Giả kim hề lưu tâm đến ta. Lăn tròn hai nửa chiếc vòng bạc bị hư hại trong lòng bàn tay phải, ông khép những ngón tay mình lại và ánh sáng màu xanh ngọc lục bảo bừng chói lên phủ ngập nắm tay ông. Rồi ông ấn bàn tay phải lên chiếc màn hình LCD. “Perenelle!” ông gọi.

      Mùi hương bạc hà của Flamel bị bao phủ bởi mùi gia vị ấm nồng hơn của cây đinh hương khi chàng hiệp sĩ lấy tay mình giữ chặt hai vai của Nhà Giả kim. “Ông phải dừng lại ngay, Nicholas. Ông mang hủy diệt đổ xuống đầu chúng tôi mất!”

      Ngay tức , luồng điện của Nhà Giả kim lóe sáng thậm chí còn chói chang hơn trước nữa, thoạt tiên cháy bùng thành màu xanh ngọc lục bảo sáng chói, rồi chuyển sang màu ngọc bích phát ánh quang và cuối cùng thành màu xanh ô-liu sẫm. Chàng hiệp sĩ bị ném ngược ra phía sau khỏi người Nicholas, bộ giáp xích hình thành khắp thân mình ta ngay khi ta đổ sầm vào bức tường với lực đủ mạnh để làm lõm cả lớp kim loại. Ngọn lửa màu xanh lá bò trườn qua bên kia những mắc xích nối bộ áo giáp của ta. “Will – ngăn ông ta lại!” Palamese hét toáng lên, trọng của ta nhấn ràng vì đầy sợ hãi. “Ngắt kết nối !”

      “Thầy ơi, làm ơn…” Shakespeare chụp lấy tay áo Nhà Giả kim và giật mạnh. Những ngọn lửa màu xanh gay gắt li ti bất chợt chạy ngược lên cánh tay ông ta, hất ông ta lảo đảo bật lui, đập mạnh người ông ta va vào lò sưởi lạnh ngắt.

      Josh thu mình bên cạnh Nhà Giả kim, nhìn chăm bẳm vào màn hình. “Chú cố làm gì vậy?” cậu hỏi gặng.

      “Làm mạnh lên luồng điện của Perenelle bằng luồng điện của chính mính,” Nicholas liều. “Bọn vetala xé xác ấy ra thành từng mảnh mất. Nhưng chú sợ rằng mình đủ mạnh.” Nghe rành rành nỗi khiếp đảm trong giọng của ông.

      Josh nhìn lên chị , trông thấy đầu bé thoáng gật rất , cậu quay sang Nicholas. “Để cháu giúp,” cậu .

      “Để tụi cháu giúp chú,” Sophie thêm.

      Hai đứa song sinh chiếm lấy vị trí hai bên Nhà Giả kim, Sophie bên phải, Josh bên trái, và mỗi đứa đặt bàn tay lên vai ông. Josh nhìn chị và hỏi, “Bây giờ mình làm gì?”

      Rồi hỗn hợp các mùi hương trong căn phòng trở nên áp đảo kinh khủng, gần như phát buồn nôn: cam và vanilla, đinh hương và bạc hà, trộn lẫn với mùi khó chịu của thức ăn chiên xào, mùi cơ thể lâu ngày tắm và mùi quả chín của mấy con chó ẩm ướt.

      Hiệp sĩ Saracen la lớn, nhưng mọi lời của ta đều chìm lỉm trong tiếng nổ lốp bốp, tiếng kêu xì xì phát ra từ luồng điện bắn tung tóe chung quanh cặp song sinh, bạc và vàng, ngay lúc chạm phải luồng điện màu xanh lá của Nhà Giả kim giờ mờ đục, lập tức luồng điện của ông lóe lên và bừng sáng, lấp lánh những hạt bụi vàng kim hòa lẫn với những sợi chỉ bạc.

      “Nhà Giả kim,” Palamedes la lên trong tuyệt vọng, “ông kết tội hết thảy chúng ta rồi!”

      “Perenelle!” Nicholas vừa kêu lên, vừa mở rộng các ngón tay đè lên màn hình sáng. Những sợi chỉ màu xanh lá, vàng và bạc quấn vào nhau thành hình xoắn ốc lan luống cánh tay ông, bao bọc lấy từng ngón tay và biết mất vào màn ảnh.

      Màn ảnh bên phải kêu răng rắc ở giữa, khói đen dày đặc cuồn cuộn xoắn xít bốc lên, và rồi giọng của Perenelle và cao ré, có thể nghe được ràng.

      “Nicholas! Ngừng lại! Ngừng lại ngay!” Nghe có vẻ rất kinh khiếp.

      Trong màn hình bên trái mọi người trông thấy luồng điện trắng như nước đá tỏa sáng lờ mờ tụ lại quanh người bà và rồi nhanh chóng nhấp nháy tan ra.

      “Nicholas!” Perenelle hét thất thanh. “Mình giết tôi mất!”

      Và rồi màn ảnh tan chảy thành vũng nhựa sôi sùng sục quyện lẫn với kính bị nấu chảy nồng nặc bốc mùi hôi thối vô cùng khó chịu.

      Hết phần 3

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :