Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 2: Pháp sư) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 29


      “Chị ngủ đây.” Sophie Newman dừng nơi ngưỡng cửa bếp, ly nước trong tay, ngoái nhìn Josh vẫn ngồi ăn ở bàn ăn. “Francis sắp dạy chị số câu thần chú lửa cụ thể vào sáng mai. Ông ấy hứa chỉ cho chị mánh lới làm pháo hoa.”


      “Quá , chúng ta phải mua pháo hoa cho ngày Bốn tháng Bảy nữa.”


      Sophie mỉm cười mệt mỏi. “Đừng thức khuya quá, gần sáng rồi đó.”


      Josh ngốn miếng bánh mì nướng nữa vào miệng. “Em vẫn còn ở múi giờ Thái Bình Dương,” cậu , tiếng cậu nghẹn lại. “Nhưng vài phút nữa em đứng lên. Ngày mai Scatty muốn tiếp tục tập dợt kiếm với em. Em mong đến lúc đó.”


      “Láo, láo toét.”


      Cậu cằn nhằn. “Đúng rồi, chị có ma thuật bảo vệ chị. Tất cả những gì em có là thanh kiếm bắng đá.”


      Nỗi cay đắng nghe trong giọng của cậu, và Sophie buộc mình được bình luận gì. bắt đầu chán những lời than vãn liên miên của cậu em trai. chưa bao giờ đòi được Đánh thức; cũng muốn biết ma thuật của Bà Phù thủy hay của Saint-Germain. Nhưng điều đó xảy ra và phải đương đầu với nó, và Josh phải sớm vượt qua được. “Chúc ngủ ngon,” . đóng cánh cửa sau lưng mình, để Josh lại mình trong gian bếp.


      Xong lát bánh mì cuối cùng, cậu gom đĩa và ly của mình, mang chúng đến bồn rửa chén. Cậu vặn nước nóng dọi khắp cái đĩa, rồi để nó nhiễu nước cho ráo trong giá đựng đĩa có thanh chắn bằng dây kim loại đặt cạnh cái bồn sâu làm bằng gốm. Rót đầy lại ly nước từ bình lọc, cậu ngang qua cửa bếp, đẩy nó mở ra và bước vào mảnh vườn xíu. Dù trời gần sáng, cậu thấy mệt chút nào, nhưng lần nữa, cậu tự nhắc nhở mình, cậu ngủ gần hết cả ngày. Qua bức tường cao, cậu nhìn thấy đường chân trời của Paris ngoại trừ tia sáng màu cam ấm áp sáng lên từ những ngọn đèn đường. Cậu nhìn lên, nhưng thấy được vì sao nào khoảng trời. Ngồi xuống bậc thềm, cậu hít thở sâu. khí mát mẻ và ấm ướt, hơi giống của San Francisco, dù thiếu mùi muốim đà đặc trưng quen thuộc mà cậu rất mến; thay vì mùi ô uế bởi những mùi xa lạ, nó vẫn còn ít mùi nghe cũng dễ chịu. Cậu cảm thấy cay xè ngay sau mũi và muốn hắt hơi, cậu hít vào khó khăn, nước mắt chảy ra. Có mùi hôi thối rất khó chịu giống như mùi mấy cái thùng rác đầy ứ và mùi trái cây thối, rồi cậu thấy buồn nôn, cái mùi hôi thối nồng nặc hơn, mà sao lại nghe quen quen. Ngậm miệng lại, cậu hít thở sâu bằng mũi, cố nhận ra nó: nó là cái gì nhỉ? Nó là cái gì đó cậu ngửi thấy mới gần đây thôi…


      Rắn.


      Josh nhảy bật dậy. có rắn ở Paris này chứ, phải ? Sâu trong lồng ngực, Josh cảm thấy tim mình đập nhanh hơn. Cậu khiếp sợ rắn, nỗi sợ hãi lạnh buốt trong xương mà cậu có thể hồi tưởng lại từ cái thời cậu lên mười. Cậu cắm trại với ba cậu ở Di tích Quốc gia Wupatki bang Arizona cậu bị trượt khỏi con đường mòn và rơi vào con dốc, chuồi thẳng vào cái ổ rắn chuông. Khi bụi mù lắng xuống, cậu nhận thấy mình nằm kế bên con rắn dài khoảng mét tám. Sinh vật đó ngốc cái đầu nhọn như cái nêm và chằm chằm nhìn cậu băng hai con mắt đen như than chắc trong vòng chưa đầy giây—nhưng lại có vẻ như cả đời—trước khi Josh cố bò lết ra xa, quá kinh hãi và nín cả thở vì sợ điếng hồn. Cậu bao giờ lý giải được câu hỏi tại sao con rắn tấn công cậu, dù ba cậu bảo rằng rắn chuông rất nhút nhát và chắc chắn là nó vừa ăn no. Hàng mấy tuần sau đó cậu cứ gặp ác mộng về con dốc đó hoài, và cứ sau mỗi cơn mơ cậu lại tỉnh lại với mùi rắn xạ rắn bám đầy trong mũi.


      Bây giờ cậu lại ngửi thấy nó


      Và ngày càng nồng nặc hơn.


      Josh bắt đầu lùi bước lên mấy bậc thang. Đột nhiên có tiếng cào bới sục sạo, hệt như tiếng con sóc chạy lên thân cây. Rồi, ở ngay đằng trước cậu, phía bên kia của khoảnh sân cỏ, những cái vuốt, mỗi cái dài bằng cả bàn tay cậu, ra khỏi bức tường cao khoảng hai mét bảy. Chúng cử động loanh quanh cách chậm chạm, gần như rất tinh tế, lục tìm cái lỗ, và rồi đột ngột quắp chặt cứng đến nỗi những cái móng cắm sâu vào lớp gạch cũ. Josh tê cứng người, cơn bàng hoàng sửng sốt ập tới làm cậu sao thở nổi.


      Những cánh tay theo phủ lớp da toàn những cục u bướu dày đặc.. và rồi cái đầu của con quỷ ra bờ tường. Nó dài và bằng phẳng như tấm ván, với hai lỗ mũi tròn vo ở mút đầu cái mũi cụt ngủi nằm ngay cái miệng và những con mắt đen thui đặc quẹo lún sâu xuống đằng sau mấy chỗ lõm hình tròn ở hai bên hộp sọ của nó. thể nhúc nhích, thể thở, trái tim cậu đập thùi thụi như búa nện mạnh đến nỗi tự nhiên lắc rung cả thân người, Josh nhìn chằm bẳm vào cái đầu khổng lồ vặn vẹo bên này bên kia cách lười biếng, cái lưỡi dài ngoằng, lưa tưa màu trắng nhợt nhạt đong đưa khua khoắng trong trung. Nó đứng yên, rồi từ từ, rất chậm rãi, quay cái đầu và nhìn xuống Josh. Mút đầu lưỡi của nó liếm khí và rồi nó há miệng rộng ngoác—rộng thể tưởng, đủ sức nuốt chững nguyên con người cậu—và những lưỡi dao quắm nhọn hoắt, bừa bãi lộn xộn.


      Josh muốn quay người lại và hét lớn lên, nhưng cậu thể. Có gì đó thôi miên cậu nhìn về phía c khiếp đảm trèo qua tường. Trong đời mình cậu từng bị mê hoặc bởi loài khủng long: cậu sưu tầm hóa thạch, trứng, xương và răng—thậm chí cả phân khủng long hóa đá. Và bây giờ cậu nhìn thấy con khủng long sống. Thậm chí phần não của cậu nhận diện được sinh vật này—hay ít ra là, nó tương tự với cái gì đó. Đó là con rồng Kodomo. Chúng phát triển đến mức dài hơn ba mét trong vùng hoang vu, nhưng cậu có thể thấy sinh vật này ít nhất to lớn gấp ba lần như vậy.


      Đá nứt nẻ. viên gạch cũ nổ ra thành bụi, và đến viên thứ hai, thứ ba.


      Rồi thanh như xẻ gỗ, răng rắc, lạo xạo và—hầu như bằng cử động cũng chậm chạp—Josh nhìn chăm chú vào bước tường, với sinh vật đó treo đầu tường, lắc lư rồi đổ sầm xuống đất. Cánh cửa kim loại oằn xuống gãy làm hai, những cái bản lề văng ra và biến mất trong vòi phun nước, xé toạc thanh gỗ lớn ra khỏi cái bể chứa. Con quỷ va mạnh xuống đất, thản nhiên trước đống gạch đá trút xuống như mưa quanh nó. Tiếng ồn xóc bẩy Josh tỉnh ra và cậu loạng choạng giật lùi lên bậc thang vừa đúng lúc con quỷ lết ì ạch những cái chân của nó và lê bước tiến đến, hướng thẳng vào ngôi nhà. Cậu con trai đóng sầm cách cửa và cài cho đến thanh cuối cùng. quay qua cửa sổ nhà bếp cậu bắt gặp hình thù trắng trắng, cậu vớ đại cái hình như là thanh kiếm, rồi bước ngang qua cái lỗ trống hoác trước đây từng là bức tường.


      Josh giật lấy thanh kiếm đá khỏi sàn và đâm bổ vào sảnh. “Dậy!” cậu la lớn, tiếng cậu qua kinh khiếp đến nỗi ngay cả cậu cũng nhậ“Sophie! Flamel! Mọi người!”


      Cách cửa sau lưng cậu lắc rung lên trong cái khung cửa. Cậu liếc nhanh ra sau lưng vừa đúng lúc nhìn thấy cái lưỡi trắng của con quỷ tách khung gỗ ra khỏi tấm kính.


      “Cứu!”


      Kính vỡ tan và cái lưỡi lao vọt về nhà bếp, quét những cái đĩa xuống đất, quơ tán loạn bình lọ và nồi niêu xoong chảo, đánh lên cái ghế. Kim loại kêu rin rít khi cái lưỡi chai lên nó; gỗ hóa đen và bốc cháy; nhựa chảy ra. giọt nước bọt có chất phá hủy xuống sàn nhà và sủi bong bóng sàn gạch, rồi ăn sâu vào đá.


      Theo bản năng. Josh quất thanh Clarent vào cái lưỡi. Thanh kiếm vừa đủ chạm đến cái lưỡi thôi, nhưng đột nhiên nó lại biến mất, thụt mạnh lại vào trong miệng con sinh vật đó. thoáng yên lặng, rồi con quỷ đâm nguyên cái đầu của nó vào cánh cửa.


      Cánh cửa sụp đổ tan nát thành vỏ bào; những bức tường dựa cạnh bên kia nứt nẻ ra khi đá bị đánh vỡ. Sinh vật kéo cái đầu lùi lại và dộng nó vào khe nứt lần nữa, giùi cái lỗ rộng vào gian bếp. Toàn bộ căn nhà kêu cót két cách đáng sợ.


      bàn tay dặt lên vai Josh, suýt chút nữa làm ngưng luôn trái tim cậu. “Này, nhìn xem cậu làm cái gì kìa: cậu vừa làm nó điên lên đó.”


      Scathach sải chân bước vào gian nhà bếp tan hoang và đứng ngay cái lỗ trống hoáco những cú đấm của sinh vật đó tạo ra. “Nidhogg,” , và Josh chắc là với cậu , “có nghĩa Disir xa đây lắm.” gần như hài lòng về nguồn tin này.


      Scathach nhảy lùi lại đúng lúc cái đầu Nidhogg lại dộng vào cái lỗ. Cái mũi to tướng của nó nở rộng và cái lưỡi trắng của nó vỗ bẹt bẹt vào chỗ mà mới tích tắc trước đó, Bóng tối đứng. khối nước dãi đặc quẹo đốt cháy phiến đá lát sàn, biến nó thành bùn lỏng. Hai thanh song kiếm của Scathach lao ra, lấp lóe ánh xám và bạc, và hai vết cắt dài xuất nơi phần thịt màu trắng cái lưỡi chẻ lưa tưa của sinh vật đó.


      rời mắt khỏi sinh vật, Scathach với Josh, hầu như rất bình tĩnh, “Bảo mọi người ra khỏi nhà, tôi chăm sóc cái thứ này…”


      Và rồi cánh tay to lớn đầy móng vuốt đập xuyên qua cửa sổ, quấn quanh thân người Nữ Chiến binh và kẹp chặt như cái mỏ kẹp rồi dộng vào bức tường với lực đủ làm vỡ lớp vữa trát. Hai cánh tay Nữ Chiến binh bị kẹt lại người, hai thanh kiếm trở nên vô dụng. Cái đầu dềnh dàng của Nidhogg ra trong đống đổ nát bên hông nhà, miệng há lớn và cái lưỡi của nó lào thẳng về phía Scathach. khi cái lưỡi bọc a-xít lép nhép của nó quấn quanh người Nữ Chiến binh trong tình trạng gì bảo vệ, nó kéo vào cái họng sâu hoắm của nó.






      CHƯƠNG 30


      Sophie chạy bay xuống cầu thang, những ngón tay xòe ra kéo lê những chùm tia và dải lửa xanh lơ.


      đứng đánh răng trong phòng tắm cả ngôi nhà rùng rình rung chuyển. nghe tiếng gạch bể loảng xoảng ầm ĩ, và tích tắc sau là tiếng thét của cậu em trai. Nó xé tan yên lặng của ngôi nhà và là thanh kinh khủng nhất mà từng nghe.


      vừa chạy xuống hành lang ngang qua phòng Flamel cửa bật mở. Trong thoáng chốc hầu như nhận ra vẻ bối rối của người đàn ông đứng tuổi đứng trước nơi ngưỡng cửa. Túi mắt ông sẫm đến nỗi chúng trông như những vết tím bầm, và màu da vàng vọt yếu đuối. “Chuyện gì vậy?” ông lầm bầm, nhưng Sophie chạy vội qua: trả lời ông. Tất cả những gì biết là em trai ở dưới cầu thang.


      Và rồi cả căn nhà lại rung lên lần nữa.


      cảm nhận được độ rung qua sàn và tường. Tất cả những bức tranh tường bên trái đều đổi vị trí và nghiêng lệch khỏi tâm.


      Kinh hãi, Sophie chạy xuống cầu thang đến tầng vừa đúng lúc cửa phòng ngủ mở ra và Joan xuất . Lúc này nhắn mặc bộ đồ ngủ bằng satin bóng láng màu xanh lá ngả sang xanh lơ—ngay sau đó, mặc vào bộ áo giáp kín người bằng kim loại, thanh kiếm dài rộng bản nằm trong bàn tay đeo găng. “Quay lên ,” Joan gắt, giọng Pháp của nghe rất .


      “Kh” Sophie la lên. “Josh—nó gặp chuyện rồi!”


      Joan bước tới bên cạnh bé, bộ áo giáp kêu lanh canh và loạt soạt. “OK, vậy cũng được, nhưng phải ở đằng sau tôi và ở phía tay phải, để tôi luôn biết được em ở đâu,” Joan ra lệnh. “Em có thấy Nicholas ?”


      “Chú ấy thức dậy rồi. Nhưng có vẻ như bị bệnh.”


      “Kiệt sức thôi. Trong điều kiện của mình, ông ấy dám dùng ma thuật nữa đâu. Nó có thể giết chết ông ấy.”


      “Francis đâu?”


      “Chắc ở tầng áp mái. Nhưng gian phòng đó cách ấy bật tai nghe trong dàn bass dộng ầm ầm; tôi nghĩ ấy nghe được gì đâu.”


      “Ông ấy phải cảm thấy được ngôi nhà rung chứ.”


      “Chắc ấy tưởng đó là do hệ thống bass quá hay.”


      “Em biết Scatty ở đâu,” Sophie . chiến đấu khó khăn để kiềm chế nỗi sợ hãi sôi bên trong cho nó áp đảo .


      “May ra, ấy xuống cầu thang và ở trong bếp với Josh. Nếu ấy ở đó cậu ta OK,” Joan thêm. “Bây giờ em theo tôi.” Giữ chặt thanh kiếm thẳng đứng trong cả hai tay, di chuyển thận trọng xuống cầu thang cuối cùng và bước vào gian tiền sảnh rộng rãi dát đá hoa ở ngay mặt tiền ngôi nhà. dừng lại bất ngờ đến nỗi Sophie gần như giẫm lên . Joan chỉ về phía cửa trước. Sophie bắt gặp hình thù trắng như ma đằng sau những ô cửa kính mờ, và rồi có tiếng thanh gỗ gãy răng rắc… và cái đầu rìu xuất qua cánh cửa. Rồi tiếng nỗ giòn, cánh cửa trước bị đập mạnh bật mở ra, những mảnh vỡ của gỗ và kính rơi xuống như mưa.


      Hai dáng người bước vào gian tiền sảnh.


      Trong ánh sáng của chùm đèn treo trang trí bằng pha lê, Sophie nhìn thấy chúng là những trẻ mặc áo giáp làm bằng những vòng xích màu trắng, khuôn mặt của chúng giấu sau chiếc nón sắt, ả cầm kiếm và rìu, ả kia mang kiếm và cây giáo. phản ứng theo bản năng. Nắm chặt cổ tay phải bằng tay trái, xòe rộng các ngón tay, lòng bàn tay lên hướng lên . Những ngọn lửa xanh lè nỗ lốp bốp văng tung tóe xuống sàn ngay trước hai , bắn thẳng lên tấm lửa cứng màu xanh ngọc lục bảu chập chờn.


      Hai bước xuyên qua ngọn lửa mà hề khựng lại nhưng lại dừng hẳn khi bắt gặp Joan trong bộ áo giáp. Chúng nhìn nhau ràng là bối rối. “ phải là con người có ánh bạc. là ai?” ả hỏi gặng


      “Đây là nhà tôi, và tôi tưởng đó phải là câu hỏi của tôi chứ,” Joan dứt khoát. quay người sang bên, vai trái hướng về phía hai , giữ chặt kiếm trong cả hai tay, đầu kiếm chậm rãi chuyển động thành con số tám giữa các chiến binh.


      “Đứng qua bên. Chúng tôi tranh cãi với ,” người .


      Joan nâng thanh kiếm lên, đưa cái chuôi gần sát mặt , mũi kiếm dài chỉ thẳng lên trời. “Các vào nhà của tôi và bảo tôi tránh sang bên,” với vẻ ngờ vực. “Các là ai… là cái gì? gặng hỏi.


      “Chúng tôi là Disir,” mang kiếm và giáo nhàng. “Chúng tôi ở đây vì Scathach. Chúng tôi chỉ tranh cãi với ả thôi. Nhưng đừng cản đường chúng tôi nếu trở thành vụ tranh cãi với đó.”


      “Bóng tối là bạn tôi,” Joan .


      “Vậy điều đó biến thành kẻ thù của chúng tôi.”


      hề có dấu hiệu gì báo trước, các Valkyrie đồng loạt tấn công, ả này lao tới với kiếm và giáo, còn ả kia với kiếm và rìu. Lưỡi kiếm nặng của Joan xoay chuyển, tiếng kim loại va và kêu chan chát, các cử động gần như thể nhìn thấy được và quá nhanh khi chặn những thanh kiếm thọc tới, né qua bên tránh lưỡi rìu và gạt cây giáo xuống.


      Disir nhảy lùi lại và dàn ngang cho tới khi chúng đứng ở cả hai phía của Joan. phải xoay đầu mới có thể quan sát được cả hai.”


      “Đánh giỏi lắm.”


      Môi Joan kéo giãn ra khỏi răng thành nụ cười hoang dã. “Tôi được người giỏi nhất dạy dỗ mà. Chính Scathach huấn luyện tôi.”


      “Tôi nghĩ là tôi nhận ra kiểu đánh này rồi,” Disir thứ hai .


      Chỉ có đôi mắt xám của Joan cử động khi theo dõi hai chiến binh. “Còn tôi lại nghĩ rằng tôi kiểu đánh cố định nào cả.”


      “Cả Scathach cũng nốt.”


      là ai?” Disir đứng bên phải hỏi. “Trong đời mình tôi chưa thấy tay nào có thể chống cự chúng tôi. Và ai trong bọn chúng là con người cả.”


      “Tôi là Joan Arc,” trả lời đơn giản.


      “Chưa bao giờ nghe,” Disir , và trong khi em , chị, đứng bên trái Joan, giật lui cánh tay, lấy trớn phóng cây lao..


      Thứ vũ khí ấy nổ tung thành những ngọn lửa màu đỏ trắng.


      Với tiêng hú hoang dại, Disir quăng ngọn giáo qua bên; ngay lúc nó đụng đất, cái cán gỗ tan ra thành những hạt bụi còn hơn tàn tro và cái đầu kim loại nhọn hiểm ác ấy tan chảy thành cái vũng sủi bọt.


      Đứng ở bậc thang cuối cùng, Sophie chớp mắt ngạc nhiên. biết mình có thể làm được như vậy.


      Disir ở bên phải Joan lao thẳng tới trước, kiếm và rìu đan kết thành thế cực mạnh trong khoảng trước mặt ả, đập liên hồi vào thanh kiếm của Joan, đẩy lùi bằng cuộc công kích dữ dội đầy ác ý.


      Disir thứ hai quay lại Sophie.


      Làm cho cái cán bùng cháy và nung chảy đầu giáo khiến cho mệt lử, ngòi thụp xuống lan can. Nhưng phải giúp Joan; cần phải đến với Josh. Ấn mạnh vào mặt dưới cổ tay, Sophie cố gọi Pháp thuật Lửa của mình. Khói bốc ra từ tay , nhưng có tí lửa nào cả.


      Disir sải bước thẳng cho đến khi đứng ngay trước . Sophie đứng bậc thang, và khuôn mặt hai gần như ngang tầm nhau. “Vậy , là con người có ánh bạc mà Pháp sư người muốn cách liều mạng.” sau cái mặt nạ kim loại, đôi mắt tím của Valkyrie tỏ vẻ khinh bỉ.


      Kéo ơi thở sâu ớn lạnh, Sophie thẳng người. giang rộng hai cánh tay, những ngón tay khép lại thành nắm đấm chặt. Nhắm mắt, hít thở sâu, cố làm dịu lại trái tim đập thình thịch, hình dung ra đôi găng tay lửa; nhìn thấy hai bàn tay của mình hợp lại, định hình trái banh lửa trong nắm tay như bột nhồi và rồi quăng mạnh nó vào hình dạng đứng trước . Nhưng khi mở mắt ra, chỉ có những vệt lửa nhất màu xanh lơ mỏng như tơ nhảy múa da thịt . vội phủi tay vào nhau và những tia lửa múa nhảy vô tội vạ xuyên chiếc áo giáp bằng vòng xích của chiến binh.


      Disir đập mạnh thanh kiếm của ả và bàn tay mang găng của . “Những trò lửa bịp bợm lặt vặt của mi làm ta cảm kích đâu.”


      tiếng vỡ kinh hoang từ nhà bếp làm rung chuyển ngôi nhà lần nữa. Chùm đèn trang trí treo ngay giữa gian tiền sảnh bắt đầu đung đưa qua lại, leng keng như tiêng nhạc trong khi những vùng bóng tối nhay múa.


      “Josh,” Sophie thầm. Nỗi sợ hãi biến thành giận dữ: sinh vật này ngăn cho đến với cậu em trai của . Và cơn giận cho sức mạnh. Nhớ lại những gì Saint-Germain làm mái nhà, bé chỉ ngón trỏ vào chiến binh và thả cơn thịnh nộ của mình tập trung vào duy nhất chùm thôi. ngọn giáo bằng lửa cứng màu vàng đen dơ bẩn nhảy ra khỏi ngón tay Sophie và nổ vào cái áo giáp vòng kim loại của Disir. Lửa bắn tung tóe khắp người chiến binh, và sức mạnh của cú đánh này làm ả khuỵu gối xuống. ả la lớn bằng thứ tiếng sao hiểu được, giống như tiếng sói hú


      Bên kia gian tiền sảnh, Joan lợi dụng sợ xao lãng và ép kẻ tấn công thương xót, đẩy ả lùi về cái khung cửa bị văng cánh mở ra trống hoác. Hai ngang tài ngang sức, trong khi thanh kiếm của Joan dài hơn và nặng hơn của đối thủ, Disir lại có lợi thế của việc sử dụng hai thứ vũ khí. Thêm nữa, khá lâu rồi bây giờ Joan mới mặc lại áo giáp và chiến đấu bằng kiếm. có thể cảm thấy các cơ vai nóng ran, còn hông và đầu gối nhức buốt vì trọng lượng của kim loại mang người. phải kết thúc chuyện này thôi.


      Valkyrie vừa bị ngã lồm cồm bò dậy trước mặt Sophie. Mặt trước của cái áo giáp bằng vòng xích ghi nhận toàn bộ sức mạnh phụt ra của ngọn lửa, những chỗ nối tan ra, chảy xuống như sáp mềm. Chiến binh túm nắm áo giáp và giật nó ra khỏi người mình, quăng qua bên. Chiếc áo thụng dài màu trắng bên dưới cháy sém và đen sạm, với những lát kim loại chảy ra dính vào áo lấp lánh. “Đứa con kia,” Disir thào, “ta dạy mi bao giờ còn dám đùa với lửa.”






      CHƯƠNG 31


      Cái lưỡi nhầy nhụa của Nidhogg phóng xuyên trung đến thẳng chỗ Scathach vẫn bị xoay tròn bức tường nhà bếp, móng vuốt con vật đó quắp vào chặt cứng. Nữ Chiến binh đánh nhau trong im lặng hoàn toàn, cố thoát khỏi gọng kềm của con quỷ, vặn mình từ bên này sang bên kia, gót giày bốt rà rà tìm điểm tựa nền đá trơn trượt. Vì hai cánh tay bị kẹp cứng sát vào hôcô thể nào sử dụng những thanh kiếm ngắn của mình được.


      Josh biết rằng thậm chí nếu cậu có ngừng lại để suy nghĩ, cậu cũng thể làm được những gì ý cậu nghĩ ra. Mùi của sinh vật này làm dạ dày cậu nôn nao, và tim cậu đập mạnh đến nỗi cậu sao bắt kịp được hơi thở mình.


      Cái lưỡi chẻ lưa tưa chải ngang qua mặt bàn, để lại vết cháy ăn sâu xuống gỗ. Nó chọc vút qua cái ghế gỗ như thể đâm thẳng vào đầu Nữ Chiến binh.


      Tất cả những gì phải làm, Josh cứ tự nhắc nhở, là xem thanh kiếm của mình như thể quả bóng đá. Giữ chặt thanh Clarent cao khỏi đầu trong thế nắm chặt hai tay mà Joan mới chỉ cho cậu, cậu phóng mình tới trước hệt như chuyển động mà huấn luận viên ở ngôi trường gần đây nhất mất trọn mùa dợt bóng—và thất bại—để dạy cho cậu.


      Ngay khi nhảy, cậu biết mình tính toán sai mất rồi. Cái lưỡi chuyển động qua nhanh, và cậu bị trật quá xa. Với nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, cậu quăng thanh kiếm rời khỏi tay.


      Thanh kiếm chém vào bên hông cái lưỡi đầy thịt của Nidhogg. Và dính phập vào.


      Đến lượt những năm tập taekwondo phát huy tác dụng khi Josh té đâm sầm xuống nền đá lát. Cậu đụng rất mạnh nhưng vẫn ráng chống lòng bàn tay xuống, bật người về phía trước thành cú cuộn tròn gọn lỏn đưa cậu trở về tư thế đứng thẳng… chỉ chưa đầy mét là đụng đến cái lưỡi như miếng thịt đầm đìa a-xít kia. Và thanh kiếm.


      Chụp lấy đuôi kiếm, cậu dùng hết sức lực kéo nó ra khỏi cái lưỡi— thứ thanh phát ra giống tiếng gỡ của loại khóa dán bằng hau dải sợi kết dính vào nhau, rồi cái lưỡi kêu xèo xèo và rít ré giật mạnh trở vào miệng con quỷ. Josh biết rằng nếu cậu dừng lại, cả cậu và Scatty chỉ có chết. Đầu tiên cậu đâm ngập mũi kiếm Clarent vào cánh tay con quỷ ngay phía khớp nối cổ tay. Khi lưỡi kiếm ngọt xớt phập sâu vào lớp da cá sấu châu Mỹ, nó bắt đầu rung lên, thanh the thé buốt nhói làm Josh nổi gai ốc. Cậu cảm thấy luồng hơi ấm chạy ngược lên cánh tay cậu và thấm vào lồng ngực. tích tắc sau, sức mạnh và năng lực tiềm tàng trào dâng trong cậu xua tan hết mọi cơn nhức nhối và đau đớn. Luồng điện của cậu chói lói màu vàng ánh kim lóa mắt, và những tia sáng mang họa tiết hình mạng gân cuộn xoáy quanh lưỡi kiếm bằng đá màu xám khi cậu rút mạnh nó ra khỏi con vật.


      “Mấy cái vuốt, Josh. Chém mấy cái vuốt ,” Scathach lùng bùng thốt ra khi Nidhogg lắc dữ dội. Hai thanh kiếm tuột khỏi tay và rơi loảng xoảng xuống nền nhà.


      Josh chém bất ngờ vào con quỷ, cố cắt đứt cái vuốt, nhưng cuối cùng lưỡi kiếm đá nặng nề bật lên và nảy khỏi bàn chân nó mà chẳng suy chuyển gì. Cậu cố lần nữa, và lần này thanh kiếm chém lớp da bọc sắt của con vật tóe lửa.


      “Ấy! Cẩn thận,” Scathach kêu oái lên khi lưỡi kiếm nhún nhảy đến gần sát đầu rất nguy hiểm. “Đó là trong số rất ít những vũ khí có thể giết chết tôi mấ”


      “Xin lỗi,” Josh lầm bầm qua hai hàm răng nghiến chặt. “Trước nay em chưa bao giờ làm bất cứ cái gì giống thế này.” Cậu chém cái vuốt lần nữa. Những tia lửa bay trúng mặt Nữ Chiến binh. “Tại sao chúng ta lại muốn cái vuốt nhỉ?” cậu vừa cằn nhằn, vừa chặt mạnh vào lớp da cứng như sắt.


      “Nó chỉ có thể bị giết bằng trong những cái vuốt của chính nó,” Scathach , nghe tiếng bình tĩnh đến ngạc nhiên. “Coi chừng! Mau lùi lại!”


      Josh quay lại vừa đúng lúc cái đầu to vật vã của cái thứ đó bổ nhào tới trước, húc vào cạnh nhà đổ xuống, cái lưỡi trắng của nó phóng ra phía trước lần nữa. Nó nhằm vào cậu. Nó di chuyển quá nhanh; còn đường nào để chạy—và nếu chạy , nó đập đúng vào Scatty ngay. Trụ chân vững, cả hai tay vòng chặt quanh chuôi kiếm Clarent, cậu giơ thanh kiếm ra trước mặt. Cậu nhắm mắt trong lúc nỗi kinh hoàng tiến gần —rồi lại mở bừng mắt ra ngay lập tức. Nếu cậu có chết, cậu cũng phải chết với đôi mắt mở.


      Giống như chơi điện tử vậy, cậu nghĩ—ngoại trừ trò này gây chết người. Cậu nhìn thấy hai đầu của cái lưỡi tưa lưa quấn quanh lưỡi kiếm gần như bằng chuyển động rất chậm—như thể nó muốn giật thanh kiếm ra khỏi tay Josh. Cậu siết chặt tay nắm, quyết tâm để thanh kiếm bị giật .


      Khi phần thịt trong lư̖ con vật chạm vào lưỡi kiếm đá, hiệu quả đến tức .


      Sinh vật sựng người lại, rồi run rẩy và ré lên, thanh như tiếng hơi nước phụt xì xì. A-xít trong lưỡi nó dính vào lưỡi kiếm sủi bong bóng và thanh kiếm rung lên trong tay Josh, bần bật như tàu lá chuối, dần ấm lên, rồi nóng, và bắt đầu bùng sáng thứ ánh sáng trắng tinh. Cậu nhắm tịt hai mắt…


      …và đằng sau đôi mắt nhắm, Josh thoáng thấy chuỗi những hình ảnh lung linh: quang cảnh đổ nát và đáng nguyền rủa của vùng đá đen, lỗ chỗ những cái ao dung nham sôi sung sục, trong khi đầu, bầu trời sôi lên những đám mây bẩn thỉu mưa xuống toàn tro và xỉ than. Giăng ngang bầu trời, long thong lủng lẳng từ những đám mây là cái gì giống như đám rễ này là căn nguyên của lớp tro màu trắng chói gắt: chúng phân hủy, héo quắt lại và hấp hối…


      Nidhogg thình linh xoắn mạnh giật cái lưỡi hóa đen của nó ra.


      Josh kinh ngạc há hốc miệng và mở bừng mắt ngay khi luồng điện của cậu vụt sáng rực, lần này mạnh hơn—sáng chói hơn—làm lóa chính mắt cậu. Hốt hoảng, vung vẩy thanh kiếm trước mặt mình, cậu bước lùi dần cho tới khi cậu cảm thấy bức tường nhà bếp đụng vào hai cái xương dẹt sau vai cậu. Mắt cậu chớp dữ dội, cậu muốn giụi, nhưng dám nới lỏng bàn tay nắm chặt thanh kiếm. Khắp chung quanh mình, cậu nghe tiếng đá rơi, tường vữa nứt nẻ, gỗ kêu cọt kẹt và gãy răng rắc, cậu gập vai khum lại, sợ có cái gì đó bể ra rớt xuống đầu mình. “Scatty?” cậu gọi.


      Nhưng có tiếng trả lời.


      Cậu cao giọng. “Scatty!”


      Nheo mắt, chớp mắt hết sức để xóa sạch những đốm sáng nhảy múa trước mắt mình, cậu nhìn thấy con quỷ kéo lê Scathach ra khỏi nhà. Cái lưỡi của nó, bây giờ thành màu đen và nâu, thè ra lửng lơ bên mép. Kẹp Nữ Chiến binh chặt cứng, nó xoay người theo chiều dài thân mình nó và băng ngang mảnh vườn bị phá tan hoang, cái đuôi dài của nó lạng từng khoảng gỗ bông khỏi hông nhà, quét mạnh qua ô cửa sổ duy nhất chưa bị vỡ. Rồi sinh vật đó đứng lên hai chân sau, như con thằn lằn có vòng lông cổ, và lách cách xuống ngõ hẻm, suýt chút nữa giẫm phải hình thù mặc áo giáp vòng xích trắng đứng gác. chút chần chừ hình thù này biến mất ngay sau sinh vật đó.


      Josh loạng choạng chui ra qua cái lỗ rộng toác hoác bên hông căn nhà và ngừng lại. Cậu liếc ra đằng sau. Cái bếp từng thời rất gọn gang giờ thành đống đổ nát toàn những mảnh vụn. Rồi cậu nhìn thanh kiếm trong tay và mỉm cười. Cậu ngăn được con quỷ. Nụ cười mỉm của cậu ngoác ra thành nụ cười toe toét. Cậu đánh bật được nó và cứu được chị cậu cũng như những người khác trong nhà này… ngoại trừ Scatty.


      Hít hơi sâu, Josh vụt nhảy xuống mấy bậc thang và lao xuyên qua mảnh vườn rồi phóng vào con hẻm, theo dấu con quỷ. “Mình tin là mình làm việc này,” cậu lầm bầm. “Thậm chí mình còn thích Scatty. Ừm…, thích lắm,” cậu tự chữa l






      CHƯƠNG 32


      Niccolo Machiavelli luôn là người cẩn thận.


      sống sót và thậm chí còn lớn mạnh vào thế kỷ mười lăm dưới triều Medici ở Florence, nơi đầy nguy hiểm và luôn kề cận cái chết, thời kỳ khi mà những toan tính những mưu mô ngấm ngầm lại trở thành lối sống và những cái chết bất đắc kỳ tử cùng những cuộc ám sát là chuyện thường tình. Cuốn sách nỗi tiếng nhất của , Bậc Quân Vương, là trong những thứ đầu tiên nêu lên rằng việc sử dụng thủ đoạn lừa gạt, dối trá và giả hình hoàn toàn có thể chấp nhận được đối với nhà cai trị.


      Machiavelli sống sót bởi vì tinh tế, thận trọng, ngoan và hết mọi tố chất khác: xảo quyệt.


      Vậy điều gì khiến gọi Disir đến? Các Valkyrie có những lời tế nhị trong khoảng ngôn ngữ của chúng và chúng biết ý nghĩa trong từ thận trọng. Ý tưởng của chúng về khôn ngoan và xảo quyệt là mang Nidhogg— con quỷ thời nguyên sinh thể kiểm soát được—vào tận trung tâm của thành phố đại.


      cho phép chúng làm điều đó.


      Bây giờ đường phố vang vọng những thanh của kính vỡ, gỗ nứt gãy và đá đổ nhào. Mọi hệ thống báo động trong xe hơi và nhà riêng đều om sòm cả lên, và tất cả các căn nhà khác dọc theo con hẻm bật sáng đèn lên, dù chưa có ai bước ra ng


      “Chuyện gì xảy ra ở đó?” Machiavelli ngạc nhiên bật hỏi.


      “Nidhogg ăn thịt Scathach chăng?” Dee lơ đãng gợi ý. Chiếc điện thoại di động của bắt đầu rung lên, làm xao lãng.


      , phải thế!” Machiavelli đột ngột la lên. đẩy cửa xe hơi mở bung, nhảy vọt ra, nắm cổ áo Dee và kéo lao vào đêm tối. “Dagon! Ra!”



      Dee giằng lại cố tự , nhưng Machiavelli cứ kéo giật lùi ra sau, tránh xa chiếc xe hơi. “ mất trí hả?” tay Tiến sĩ rít lên.


      vụ kính nổ bất thình lình làm Dagon văng mạnh vào tấm kính chắm gió. Nó tuột khỏi mui xe và đập xuống đất ngay bên cạnh Machiavelli và Dee, nhưng Pháp Sư hề liếc mắt theo hướng nó. nhìn thấy chính thứ làm tay người Ý kinh hoảng.


      Nidhogg lao xuống dưới con hẻm hướng thẳng về phía bọn chúng, đứng cao nghều hai cái chân sau mạnh mẽ. Treo lơ lững nơi những cái vuốt ở chân trước của nó là hình thù mềm rũ với mái tóc đỏ.


      “Lùi lại!” Machiavelli hét lớn, lăn mình xuống đất, kéo Dee theo .


      Nidhogg giẫm đè chiếc xe hơi dài màu đen do Đức sản xuất. chân sau giáng xuống ngay giữa mui xe, nghiêng nát nó bẹp dí xuống vỉa hè. Cửa sổ nổ, những mảnh thủy tinh bắn tung tóe như những mảnh bom khi chiếc xe hơi oằn xuống ngay chính giữa, bánh trước và bánh sau văng bổng lên trời.


      Sinh vật đó biến mất vào màn đêm.


      Tích tắc sau, Disir mặc đồ trắng gần như bay những gì còn lại của chiếc xe, vượt qua đó chỉ bằng cú nhảy duy nhất, rồi phóng vọt theo sinh vật kia.


      “Dagon?” Machiavelli thầm, lăn người qua. “Dagon, đâu rồi?”


      “Tôi đây.” Tay tài xế gọn gàng đứng lên, phủi những mảnh kính vỡ lấp lánh bộ đồ đen. Nó tháo cắp kính râm bị nứt ra và vất xuống đất. Những màu sắc cầu vồng chạy qua đôi mắt chớp của nó. “Nidhogg giữ Scathach,” nó vừa vừa nới lỏng cà vạt đen và thò tay mở nút áo cùng của chiếc sơ mi trắng.


      ả chết chưa?” Machiavelli hỏi.


      “Tôi chỉ tin Scathach chết khi nào tận mắt nhìn thấy.”


      “Tán thành. Qua bấy nhiêu năm có quá nhiều báo cáo về cái chết của ả. Và rồi ả lại trỗi dậy! Chúng ta cần phải thấy được thi thể.”


      Dee bước ra khỏi vùng nước đầy bùn; nghi ngờ Machiavelli hẳn cố tình đẩy vào đó. lắc nước ra khỏi chiếc giày. “Nếu Nidhogg có ả, Bóng tối chỉ có nước chết. Chúng ta thành công.”


      Con mắt cá của Dagon xoay xuống nhìn vào mặt Pháp sư. “Ông là tên ngốc ngạo mạn mắt mờ! Có cái gì trong nhà làm Nidhogg sợ hãi—đó là lý do tại sao nó lại bỏ chạy, và cái đó thể là Bóng tối vì nó giữ ả rồi. Và hãy nhớ lại , đây là sinh vật dễ gì sợ hãi. Ba Disir vào nhà—và chỉ có ra! điều kinh khủng xảy ra trong đó.”


      “Dagon đúng: đây là thảm họa. Chúng ta cần xem lại chiến lược của mình.” Machiavelli quay sang tay tài xế. “Tôi hứa với nếu Disir thất bại, Scathach là của .”


      Dagon gật đầu. “Và ông luôn luôn giữ lời.”


      ở bên tôi tính đến nay gần bốn trăm năm. luôn trung thành, và tôi nợ cả đời tôi lẫn tự do của tôi. phải phục vụ tôi nữa,” Machiavelli cách trang trọng. “Hãy tìm thi thể của Bóng tối… và nếu ả vẫn còn sống, biết phải làm gì rồi đó. Giờ —và hãy bình an nhé bạn già.”


      Dagon quay . Rồi thình lình nó dừng lại và ngoái nhìn Machiavelli. “Ông đãà gì?”


      Machiavelli mỉm cười. “Bạn già. Hãy cẩn thận,” dịu dàng. “Bóng tối dễ gì gặp nguy hiểm, và giết qua nhiều những bạn bè của tôi.”


      Dagon gật đầu. Nó tháo giày, vớ để lộ ra bàn chân ba ngón có màng. “Nidhogg hướng về với phía dòng sông.” Bất ngờ, cái miệng đầy răng của Dagon há ra có lẽ là nụ cười. “Mà nước lại là nhà tôi.” Rồi nó nhảy vào bóng đêm, dôi chân trần vỗ bèm bẹp xuống vỉa hè.


      Machiavelli ngoái ra sau liếc nhìn về phía ngôi nhà . Dagon đúng; có cái gì làm Nidhogg sợ hãi. Điều gì xảy ra trong đó? Và hai Disir kia đâu?


      Tiếng bước chân khua ồn ào hè phố và đột nhiên Josh Newman lao ra khỏi con hẻm, thanh kiếm đá trong tay tuôn ra những dải lửa vàng ánh. liếc nhìn sang phải hay sang trái gì hết, cậu chạy vòng qua chiếc xe bị phá hỏng và lần theo dấu tích dễ nhận diện là những tiếng còi xe báo động dọc con đường con quỷ qua.


      Machiavelli nhìn Dee. “Tôi nghĩ đó là thằng nhác người Mỹ?”


      Dee gật đầu.


      “Ông có tháy nó cầm cái gì ? Trông như thanh kiếm,” chậm rãi. “M thanh kiếm đá? Chắc nó phải là thanh Excalibur chứ?”


      phải thanh Excalibur,” Dee ngắn gọn


      ràng đó là lưỡi kiếm đá màu xám.”


      “Đó phải là Excalibur.”


      “Sao ông biết?” Machiavelli gặng hỏi.


      Dee lần tay dưới áo khoác và rút ra thanh kiếm ngắn, vũ khí cùng bộ với thứ vũ khí Josh mang. Lưỡi kiếm rung lên, kêu rừ rừ rất gần như thể cảm nhận được. “Bởi vì tôi giữ Excalibur,” Dee . “Thằng giữ thanh kiếm sinh đôi của nó, Clarent. Chúng tôi luôn nghi ngờ là Flamel giữ thanh kiếm này mà.”


      Machiavelli nhắm mắt và ngửa mặt lên trời. “Clarent. ngạc nhiên khi Nidhogg bỏ chạy khỏi ngôi nhà.” lắc đầu. Đêm nay có thể còn gì tồi tệ hơn nữa ?


      Điện thoại của Dee lại rung lên và cả hai người đàn ông nhảy nhổm lên. Pháp sư gần như bẻ gãy cái điện thoại ra làm hai. “Cái gì?” hầm hè. lắng nghe lát, rồi đóng điện thoại nhàng, và khi lại, tiếng còn hơn lời thầm. “Perenelle trốn thoát. Bà ta chạy khỏi Alcatraz.”


      Lắc dầu, Machiavelli quay người bộ xuống con hẻm, hướng về phía Champs-Elysees. Câu hỏi có lời giải đáp. Đêm nay đúng là càng lúc càng tồi tệ—tồi tệ hơn nhiều. Nicholas Flamel làm Machiavelli sợ, nhưng Perenelle khiến kinh hoàng.






      CHƯƠNG 33


      “Tôi phải là đứa con !” Sophie Newman điên tiết lên. “Và tôi còn biết nhiều thứ nữa chứ phải chỉ là Pháp thuật Lửa. Disir.” Cái tên bật ra khỏi đầu , và đột nhiên Sophie biết mọi thứ Bà Phù thủy biết về hững sinh vật này. Bà Phù thủy xem thường chúng. “Tôi biết là ai,” bé thốt lên, đôi mắt lóe sáng ánh bạc kỳ dị. “Những Valkyrie.”


      Thậm chí chỉ xét trong số các Elder thôi Disir cũng có nhiều khác biệt. Chúng bao giờ sống ở Danu Talis mà cứ bám riết các vùng đất phía bắc ở đỉnh thế giới, quen thuộc với những cơn gió rét cóng và lớp lớp nước đá từ những trận mưa băng tuyết.


      Trong nhiều thế kỷ kinh khủng sau tự mất tích của Danu Talis, thế giới này thay đổi trục của nó và thời Cực Lạnh này bao trùm gần như toàn bộ trái đất. Những dãi băng từ phía bắc và phía nam tan chảy qua mọi cảnh vật, đẩy con người vào vành đai xanh bị đóng băng mỏng dính nằm quanh xích đạo. Toàn bộ các nền văn minh đều biến mất, bị tàn phá bởi mô hình thời tiết thay đổi, bệnh tật và đói kém. Mực nước biển dâng cao, lũ lụt tràn vào các thành phố ven biển, làm phong cảnh biến dạng, trong khi ở các vùng nội địa băng hà xâm lấn quét sạch mọi dấu vết của các thành phố và làng mạc.


      Chẳng mấy chốc Disir khám phá ra rằng những kỷ năng sống còn của chúng trong khí hậu khắc nghiệt phía bắc cho chúng thuận lợi đặc biệt hơn các giống loài khác và nền văn minh thể đương đầu với mùa đông chết chóc bao giờ dứt. Bè lũ các chiến binh nữ hoang dại nhanh chóng giành gần hết vùng phía bắc, bắt những thành phố vừa thoát khỏi băng hà phải làm nô lệ. Chúng tiêu diệt thương xót tất cả những ai chống cự lại chúng, và lâu sau Disir có cái tên thứ hai: Valkyrie, Nữ thần báo tử.


      Rất nhanh các Valkyrie kiểm soát đế quốc băng giá bao gồm hầu như toàn bộ Bắc Bán cầu. Chúng buộc những nô lệ mang dáng vóc con người phải tôn kính chúng như những vị thần và thậm chí đòi buộc những vật hiến tế, Những cuộc khởi nghĩa bị triệt hạ tàn nhẫn. Khi Kỷ Băng hà siết chặt gọng kiềm hơn, cũng là lúc Disir bắt đầu nhìn xa hơn về phía nam, đặt tầm mắt chúng lên những phần còn xót lại của nền văn minh phải sống rất chật vật lúc bấy giờ.


      Những hình ảnh nhào lộn và nhảy múa trong đầu bé, Sophie nhìn xem triều đại của Disir sụp đổ trong chỉ đêm. biết được những gì diễn ra nhiều thiên nhiên kỷ qua.


      Bà Phù thủy Endor làm việc với các Elder lạnh lùng, Chronos, kẻ có thể xuyên qua bản than thời gian. Cần thiết phải hi sinh đôi mắt của bà để nhìn thấy những dải xoắn của th đây chính là hiến dâng mà bà bao giờ hối tiếc. Sục tìm trong thời gian vạn năm, trong từng thiên nhiên kỷ bà chỉ chọn đúng chiến binh, và rồi Chronos nhúng tay vào từng kỷ nguyên để kéo những chiến binh trở lại thời kỳ Cực Lạnh.


      Sophie biết rằng Bà Phù thủy đặc biệt cầu cháu của bà, Scathach, được mang trở lại để chiến đấu chống Disir.


      Chính Bóng tối là người lãnh đạo cuộc tấn công vào sào huyệt của Disir, thành phố bị đóng băng đặc cứng gần đỉnh thế giới. giết tan xác nữ hoàng Valkyrie, Brynhildr, ném mụ ta vào giữa lòng núi lửa cháy rừng rực.


      Lúc mặt trời vừa nhô lên khỏi chân trời, sức mạnh của các Valkyrie bị phá vỡ vĩnh viễn, thành phố đóng băng của chúng nằm vùi trong những đóng đổ nát chảy tan tác, và chỉ chưa đầy dúm tay còn sống sót. Chúng tan biến vào Vương quốc Bóng tối giá băng khủng khiếp mà thậm chí Scathach cũng muốn dấn thân vào. Disir sống sót gọi đêm đó là Ragnarok, Tận thế của Các vị thần, và thề báo thù Bóng tối đời đời kiếp kiếp.


      Sophie úp hai bàn tay lại với nhau và cơn gió lốc cỡ ra trong lòng bàn tay . Lửa và băng tiêu diệt Disir trong quá khứ. Chuyện gì xảy ra nếu dùng chút Pháp thuật Lửa để nung nóng cơn gió? Vừa khi ý tưởng này xẹt qua tâm trí Sophie, cũng là lúc Disir nhảy tới trước, thanh kiếm của ả giơ cao khỏi dầu trong tư thế nắm chặt hai tay. “Dee muốn mi sống, nhưng hề mi ,” ả hầm hè.


      Sophie đư hai tay lên miệng, ấn ngón cái của ta trái và mồi lửa cổ tay và hổi mạnh. Cơn gió lốc vặn xoắn ốc sàn và lớn đần lên. Nó nảy lên lần, hai lần… rồi đụng vào Disir.


      Sophie nung khí đến tầm nóng hơn lò lửa chút. Cơn gió lốc mang sức nóng phồng da ấy vồ lấy Valkyrie, quay tròn ả, cuộn lại và ném tung ả lên trung. Ả đụng vào ngọn chúc đài pha lê, làm vỡ hết những cái bóng chỉ còn giữ lại có . Gian phòng đột ngột tối sầm lại, ngọn gió lốc nhảy múa sàn bừng sáng với làn hơi nóng màu da cam lung linh. Valkyrie ngã vật người xuống đất nhưng ngay trong tức khắc đứng dậy, vừa đúng lúc những mảnh vỡ của bầu pha lê dội lên mình ả như mưa thủy tinh. Nước da xanh tái của ả đỏ bừng trông như người bị cháy nắng dội, cả hai chân mày màu vàng đều cháy sém. lời nào, ả chém thanh kiếm xoạc ra, lưỡi kiếm nặng nề rạch ngang qua thành lan can ngay chỗ Sophie đặt tay.


      “Scatty!”


      Sophie nghe tiếng cậu em trai gọi từ nhà bếp. Cậu ấy gặp chuyện rồi.


      “Scatty!” lại nghe cậu gọi lần nữa.


      Valkyrie lao tới. đợt gió lốc được nung nóng khác úp chụp lấy ả, giật phang thanh kiếm khỏi tay và xoáy ả , ném cả thân người nhào lộn của ả ta vào chị dồn Joan vào góc và đập liên hồi vào đầu gối ấy bằng những cú rất hung ác. Hai Disir ngã lăn xuống sàn trong tiếng loảng xoảng của vũ khí và áo giáp.


      “Joan—quay lại!” Sophie hét lên.


      Sương mù chạy từ những ngón tay và cuộn khắp sàn nhà; những dải băng và thừng quấn dày cộp làm bằng khí bốc khói phủ lên những kia, quấn chúng trong lớp dây xích khí nóng bỏng. Phải dùng đến nỗ lực ý chí rất lớn, nhưng Sophie cố làm cho sương mù dày lên, quấn nhanh hơn, nhanh hơn nữa khi hai Disir loay hoay xoay sở cho tới khi chúng được tẩm liệm trong cái kén dày ken như xác ướp.


      Sophie có thể tự cảm thấy là mình yếu hẳn , kiệt sức trầm trọng và làm đôi mắt khô như có sạn và hai vai nặng trịch. Kéo chút tàn lực lên, bé vỗ tay và hạ nhiệt độ trông cái kén mù mịt nhanh đến nỗi nó đông cứng đột ngột thành khối nước đá kêu răng rắc.


      “Đó. Các thấy thoải mái như ở nhà,” Sophie thầm bằng giọng khàn khan. chúi người xuống, rồi tự buộc mình phải đứng dậy và định lao vào nhà bếp Joan mở rộng cánh tay, ngăn bé lại. “Ồ , em được vào. Để tôi trước.” nhảy bước về phía cửa bếp, rồi liếc ra sau lưng nơi có khối nước đá, thấy ràng hai Disir nằm bên trong. “Em cứu mạng tôi,” khẽ khàng.


      “Chị hẳn đánh bại ả thôi mà,” Sophie cách tin tưởng.


      “Có” Joan thừa nhận, “và cũng có lẽ . Tôi còn trẻ như ngày trước nữa. Dù sao em vẫn cứu mạng tôi,” lập lại, “và đó là món nợ tôi bao giờ quên.” Xòe bàn tay trái ra, đặt nó nằm bẹp cánh cửa bếp và ấn lực . Cánh cửa bật mở kêu tiếng tách.


      Và rồi mấy cái bản lề bung ra.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 34


      Comte de Saint-Germain thong thả từ phòng ghi của ông bước xuống cầu thang, cái tai nghe xíu lọc được tạm nhét trong tai, mắt ông dán vào màn hình máy nghe MP3 cầm tay. Ông tập trung tạo danh sách nhạc mới: những phần thanh trong mười bài thích nhất của ông. Gladiator, đương nhiên rồi. The Rock… Star Wars, chỉ có bản đầu tiên… El Cid, tất nhiên… The Crow, cũng được…


      Ông dừng lại ở bậc cuối và tự động sửa cho bức tranh treo bằng móc tường cho ngay lại. Ông bước thêm vài bước nữa và phát ra cái đĩa đóng khung vàng cũng hơi nghiêng. Nhìn xuống hành lang ông chợt để ý thấy tất cả các bức tranh đều lệch góc kỳ quặc. Cau mày, ông kéo tai nghe ra…


      Và ông nghe Josh gọi tên Scatty…


      Và nghe thấy tiếng loảng xoảng của kim loại…


      Và nhận thấy khí sực nức mùi vanilla và hoa oải hương…


      Saint—Germain lao xuống cầu thang dẫn đến tầng kế tiếp. Ông thấy Nhà Giả kim ngồi sụp xuống, người mệt lả, ở ngay ngưỡng cửa phòng ông ấy, và ông bước chậm lại, nhưng Nicholas vẫy xua ông . “Nhanh ,” ông ta thào. Saint-Germain vụt ngang qua ông ta và lao tiếp xuống hành lang rồi đứng sựng cầu thang…


      Gian tiền sảnh chìm trong đống đổ nát.


      Phần còn sót lại của cánh cửa vào sảnh đeo lủng lẳng mấy cái bản lề sút ra. Tất cả những gì còn lại của bộ chúc đài bằng pha lê theo kiểu cổ là duy nhất cái bóng đèn kêu ù ù. Lớp giấy dán tường lủng lẳng thành những dải to tướng cong tớn lên, để lộ lớp vữa nứt bể bên dưới. Thành cầu thang bị phạt ngang, đá lát sàn bị trầy xước và sứt mẻ.


      Và có tảng nước đá đông cứng ngắc nằm vuông vức ngay giữa sảnh. Saint-Germain thận trọng tiến tới gần nó và rà những ngón tay ông xuống bề mặt trơn nhẵn. Qua lạnh đến nỗi da thịt ông dính vào đó. Ông có thể nhận ra hai bóng dáng mặc đồ trắng bị quấn chặt trong khối nước đá, mặt mày bị đông cứng lại như cái nút thắt kỳ quặc; đôi mắt xanh lơ của họ sửng sốt dõi theo ông.


      Tiếng gỗ gãy trong nhà bếp và ông quay người lao thẳng về phía đó, hai chiếc găng tay làm bằng ngọn lửa màu trắng xanh đặc quẹo nơi bàn tay ông.


      Và nếu Saint-Germain cho là tổn hại đối với gian tiền sảnh là tồi tệ, xem như ông chưa được chuẩn bị tinh thần để nhìn thấy tàn phá trong nhà bếp.


      Toàn bộ phần bên hông của ngôi nhà bất. Vợ ông ôm chặt đứa con run bần bật, chống đỡ cho bé. Joan mặt bộ đồ ngủ bằng satin màu xanh lá ngả sang xanh lơ bóng láng và vẫn cầm thanh kiếm của trong chiếc găng tay chiến đấu bằng kim loại. quay đầu nhìn sau lưng khi ông chồng bước vào phòng. “ bỏ lỡ trò vui mất rồi,” bằng tiếng Pháp.


      nghe thấy gì cả,” ông xin lỗi, cũng bằng ngôn ngữ đó. “Kể nào.”


      “Tất cả qua trong vài phút. Em và Sophie nghe thấy tiếng động ở phía sau nhà. Bọn em chạy xuống cầu thang ngay lúc hai đứng phá đường của cánh cửa xông vào sảnh. Chúng là Disir, chúng chúng đến đây vì Scathach. ả tấn công em, kia hướng chú ý đến Sophie.” Dù biến thể có trọng của tiếng Pháp, nhưng vẫn hạ giọng thành tiếng thầm . “Francis… bé này. bé rất đặc biệt. phối hợp các phép thuật: dùng Lửa kết hợp với Khí để đánh bại Disir. Rồi trói họ bằng sương mù và làm nó đông cứng lại thành khối nước đá.”


      Saint-Germain lắc đầu. “Theo quy luật tự nhiên, thể sử dụng hơn ma thuật cùng lúc…,” ông , nhưng giọng ông kéo dài như tiếng thầm. Bằng chứng cho sức mạnh của Sophie nằm giữa gian tiền sảnh. Có huyền thoại kể rằng các Elder mạnh nhất có thể đồng thời sử dụng tất cả các yếu tố ma thuật. Theo những huyền thoổ xưa, đây là lý do— trong những lý do—làm Danu Tails lún chìm.


      “Josh mất rồi.” Sophie chợt lắc mình khỏi vòng tay ghì chặt của Joan và xoay tròn người để đối diện với ông bá tước. Rồi nhìn qua vai ông đến nơi Flamel với khuôn mặt tái mét đứng tựa trong ô cửa. “Cái gì đó bắt mất Josh,” , lúc này hoảng sợ ghê gớm. “Và Scatty đuổi theo nó.”


      Nhà Giả kim lê bước vào giữa phòng, hai bàn tay ôm lấy thân mình như thể ông ớn lạnh và nhìn quanh khắp lượt. Rồi ông cúi gập người hất hai thanh kiếm ngắn luôn thành cặp với Bóng tối ra khỏi nơi chúng nằm trong đám gạch vụn. Khi ông quay người lại nhìn những người khác, tất cả họ đều giật mình khi nhìn thấy đôi mắt ông long lanh những giọt lệ. “Tôi rất tiếc,” ông , “thực rất lấy làm tiếc. Tôi mang kinh hoàng và tàn phá đến nhà . Tôi thể được tha thứ.”


      “Tụi con có thể xây lại mà,” Saint-Germain cách ung dung. “Việc này là cái cớ để tụi con tu sửa lại thôi.”


      “Nicholas,” Joan rất nghiêm túc, “ xảy ra chuyện gì ở đây vậy?”


      Nhà Giả kim dựng lại chiếc ghế duy nhất chưa bị gãy lên và buông mình ngồi vào. Ông khom người ra phía trước, cùi chỏ đặt đầu gối, nhìn hai thanh kiếm sáng bóng của Bóng tối, xoay chúng lật lên lật xuống. “Trong khối nước đá là Disir. Các Valkyrie. Những kẻ thù đội trời chúng của Scathach, dù ấy bao giờ kể cho tôi nghe tại sao. Tôi biết chúng đuổi theo ấy nhiều thế kỷ nay và luôn tự mình liên kết với các kẻ thù khác của ấy.”


      “Chúng gây ra chuyện này?” Saint-Germain nhìn khắp gian bếp đổ nát.


      . Nhưng hiển nhiên là chúng mang cái gì đó theo và cái thứ đó gây ra chuyện.”


      “Vậy chuyện gì xảy ra cho Josh?” Sophie hỏi gặng. Lẽ ra nên bỏ cậu mình trong nhà bếp, lẽ ra nên chờ cậu cùng lên. Lẽ ra nên đánh bại bất cứ thứ gì tấn công vào nhà.


      Nicholas giơ vũ khí của Scathach lên. “Chú nghĩ cháu nên hỏi chuyện gì xảy ra cho Nữ Chiến binh. Trong từng ấy thế kỷ quen biết ấy, chú chưa bao giờ thấy ấy để những thanh kiếm này rời khỏi mình. Chú sợ ấy bị bắt …”


      “Những thanh kiếm… những thanh kiếm…” Sophie vùng ra khỏi Joan và bắt đầu liều lĩnh lục lọi trong đống gạch vụn. “Khi cháu ngủ, Josh vừa tập kiếm với Scatty và Joan về. Nó còn giữ thanh kiếm đá mà chú cho nó.” gọi cơn gió kéo đống tô vữa lộn xộn nặng nề lên và quăng qua bên, để lộ sàn nhà bên dưới. Thanh kiếm đâu? cảm thấy lóe lên chút hi vọng. Nếu cậu bị bắt chắc chắn thanh kiếm phải nằm sàn? duỗi người và nhìn quanh khắp phòng. “Clarent có ở đây.”


      Saint-Germain đến cái lỗ hổng trước đó từng là cánh cửa sau. Cả khoảnh vườn là đống tan hoang . khối đá xé toạc đài phun nước và bồn nước bị bể hết nửa. Phải mất lúc sau ông mói nhận ra bản kim loại cong thành chữ U trước đây từng là cánh cổng sau. Bức tường cao khoảng quá hai mét bảy bây giờ còn thấp chũm. Những viên gạch bị nghiền nát và tan ra thành bột tung tóe khắp cả mảnh vườn, hầu như bức tường bị đẩy sập xuống từ phía bên ngoài.


      “Có cái gì đó lớn—lớn lắm— xông vào khoảnh vườn.” Ông nhắm vào riêng ai.


      Flamel ngước lên. “Có ai ngửi thấy mùi gì ?” ông hỏi.


      Saint-Germain hít hơi sâu. “Rắn,” ông chắc nịch. “Nhưng phải là mùi của Machiavelli.” Ông bước ra ngoài vào khoảng vườn và hít vào đầy phổi bầu khí mát lạnh. “Mùi đó ở đây nghe nồng hơn.” Rồi ông ho khùng nhục. “Mùi hôi thối rất kinh tởm, quá là kinh tởm…,” ông kêu lên. “Đây là mùi hôi thối của thứ gì rất, rất cũ…”


      Bị lôi cuốn bởi tiếng còi báo động của xe hơi, Saint-Germain băng ngang qua mảnh vườn, trèo qua bức tường bể nát và nhìn xuống con hẻm. Những tiếng còi báo động trong nhà vang và trong xe kêu ầm lên, chủ yếu là ở bên trái ông, và những ngọn đèn được bật sáng trong những căn nhà ở cuối phố. Ngay lối rẽ vào con hẻm hẹp, ông có thể thấy dấu tích còn lại của chiếc xe màu đen bị đè nghiến.


      “Đúng là có thứ gì đó tấn công vào ngôi nhà này,” ông vừa vừa đâm bổ vào bếp. “Ở cuối con phố có chiếc xe hai trăm ngàn euro giờ chỉ còn đáng được đưa vào bãi phế liệu.’


      “Nidhogg,” Flamel thều thào cách khiếp đảm. Ông gật đầu; giờ mọi chuyện có ý nghĩa. “Disir mang theo Nidhogg,” ông . Rồi ông cau mày. “Nhưng thậm chí cả Machiavelli cũng mang cái thứ gì đó giống vậy vào thành phố lớn. quá thận trọng mà.”


      “Nidhogg?” Sophie và Joan nhìn nhau và đồng thanh hỏi.


      “Cứ nghĩ nó giống như vật lai giống giữa khủng long và rắn,” Flamel giải thích. “Nhưng chắc chắn nó còn già hơn cả hành tinh này. Tó bắt Scathach và Josh chạy theo nó.”


      Sophie lắc đầu kiên quyết. “Josh làm vậy—nó thể—nó sợ rắn ghê lắm.”


      “Vậy bây giờ cậu ấy ở đâu?” Flamel hỏi. “Thanh Clarent ở đâu? Chỉ có cách giải thích: cậu ấy mang thanh kiếm theo và tìm Bóng tối.”


      “Nhưng cháu nghe nó kêu ấy đến giúp….”


      “Cháu nghe nó kêu tên ấy. Biết đâu nó chỉ gọi ấy lớn tiếng thôi, chứ phải kêu ấy giúp.”


      Saint-Germain gật đầu. “Có lý. Disir chỉ muốn Scathach. Nidhogg chộp lấy ấy và chạy . Hẳn là Josh phải chạy theo.”


      “Cũng có thể là nó bắt Josh và chị ấy chạy theo,” Sophie gợi ý. “Đó là kiểu chị ấy thường làm.”


      “Nó quan tâm đến Josh. Đáng lẽ nó ăn thịt cậu ta. , cậu ta cách tự nguyện.”


      “Điều đó cho thấy lòng can đảm lớn lao,” Joan .Nhưng Josh hề cam đảm…,” Sophie bắt đầu. Song ngay cả khi còn , biết đó chưa phải là hoàn toàn. Trong trường cậu luôn đứng lên bênh vực và bảo vệ . Nhưng tại sao nó lại đuổi theo Scatty? biết cậu ta thậm chí là thích .


      “Con người ta thay đổi,” Joan . “ ai cứ y chang như vậy mãi.”


      Giờ tiếng ồn ào lớn dần lên, thứ thanh lộn xộn chói tai trộn lẫn vào nhau giữa tiếng còi cảnh sát, còi báo cháy, còi xe cảnh sát và xe cứu thương kéo đến gần hơn. “Nicholas, Sophie, hai người phải ,” Saint-Germain gấp rút. “Tôi nghĩ chúng ta sắp sửa gặp cảnh sát, rất nhiều rất nhiều cảnh sát vói số câu hỏi cũng nhiều y như vậy. Mà chúng ta có câu trả lời. Nếu họ tìm thấy hai người ở đây— giấy tờ hoặc hộ chiếu—tôi e là họ giữ hai người lại để thấm vấn.” Ông ta rút mạnh cái ví da gắn vào thắt lưng sợi dây xích dài. “Đây là ít tiền mặt.”


      “Tôi thể…,” Nhà Giả kim bắt đầu.


      “Cầm lấy mà,” Saint-Germain nằng nặc. “Đừng dùng thẻ tín dụng của thầy; Machiavelli truy ra những di chuyển của thầy,” ông tiếp. “Con biết bai lâu nữaến đây. Nếu con được tự do, con gặp lại thầy tối nay lúc sau giờ ở kim tự tháp bằng kính bên ngoài Louvre. Nếu con có ở đó lúc sáu giờ, con cố đến đó vào nữa đêm, hoặc nếu cũng được nữa, vào sáu giờ sáng mai.”


      “Cảm ơn, bạn cũ.” Nicholas quay sang Sophie. “Lấy hết quần áo của cháu, cả Josh nữa, và bất cứ cái gì khác mà cháu thấy cần; chúng ta quay lại đây nữa.”


      “Tôi giúp em,” Joan vừa vừa vội vã theo Sophie ra khỏi phòng.


      Nhà Giả kim và chàng học việc trước đây của ông đứng giữa đống đổ nát của căn bếp, lắng nghe tiếng chân hai chạy lên cầu thang.


      làm gì với khối nước đá trong sảnh?” Nicholas hỏi.


      “Tịu con có tủ đông rất lớn ở tầng hầm. Con nhét nó vào trong đó cho tới khi cảnh sát . Còn Disir sao, thầy có nghĩ chúng chết ?”


      “Thực tế Disir thể bị giết. Chỉ bảo đảm là nước đá đừng tan chảy ra qua nhanh thôi.”


      buổi tối nào đó con lái xe đưa nó ra sông Seine và thả nó xuống. Nếu may mắn chắc chắn đến tận Rouen nước đá mới tan.


      gì với cảnh sát?”—Nicholas huơ tay vào đống tan hoang—”về tất cả chuyện này?”


      “Nổ khí ga?” Saint-Germain đề nghị.


      thỏa đáng,” Flamel mỉm cười nhó lại những gì hai đứa nhỉ sinh đôi khi ông cũng đề nghị y hệt như vậy.


      thỏa đáng á?”


      “Rất thỏa đáng.”


      “Vậy tôi vừa về nhà và thấy như vậy rồi,” ông ta , “và nó gần đúng . Con hình dung được chuyện xảy ra như thế nào.” Đột nhiên ông cười toe toét cách tinh quái. “Con có thể bán câu chuyện và những hình ảnh cho trong mẩu tin vắn. Lực Lượng Bí Phá Hủy Nhà Ngôi Sao Nhạc Rock.”


      “Mọi người nghĩ đó là trò quảng cáo giật gân.”


      “Đúng, đúng vậy đó, rồi sao? Và thầy biết chuyện gì tiếp theo nhé: Con chỉ tình cờ ra album mới. quảng cáo hoành trá


      Cánh cửa bếp mở ra Sophie với Joan vào phòng. Cả hai thay quần jeans với áo lạnh ngắn tay và đeo những cái ba lô hợp màu.


      “Em với họ,” Joan trước Saint-Germain kịp hỏi câu sẵn môi ông. “Họ cần hướng dẫn viên và vệ sĩ.”


      “Có đáng để bàn lại chuyện này với em ?” ông bá tước hỏi.


      .”


      “Đừng nghĩ vậy chứ.” Ông ôm vợ mình. “Phải cẩn thận. Nếu Machiavelli hoặc Dee sẵn sàng mang Disir và Nidhogg vào thành phố, chúng quá liều mạng rồi. Và những người liều mạng làm những việc ngu xuẩn.”


      “Phải,” Flamel đơn giản. “Phải, đúng vậy. Và những kẻ ngu xuẩn mắc sai lầm.”






      CHƯƠNG 35


      Josh cứ ngoái nhìn lui phía sau lưng, cố tự định hướng. Cậu ngày càng xa khỏi ngôi nhà của Saint-Germain và lo lắng mình lạc đường mất. Nhưng giờ cậu thể quay lại; cậu thể bỏ mặc Scatty cho con vật đó. Và chừng nào cậu còn thấy Khải Hoàn Môn ở cuối Champs-Elysees biết là mình có thể quay về ngôi nhà. Đổi lại, tất cả những gì cậu phải làm là theo dòng chạy đều đều của những chiếc xe cảnh sát, cứu hỏa, cứu thương đua nhau xuống con phố chính, hướng theo chiều từ đó mà cậu chạy ra khỏi.


      Cậu cố suy nghĩ quá nhiều về những gì cậu làm bởi vì nếu cậu nghĩ đến nó—cậu đuổi theo con quỷ giống như khủng long chạy khắp Paris— cậu ngưng lại, và Scatty … thôi nào. Bất kể nó là gì, nó tốt đẹp chút nào.


      Đuổi theo Nidhogg tự thân nó là việc khá đơn giản. Sinh vật đó cứ chạy đường thẳng, đâm sầm qua vô số những con phố và những con hẻm chạy song song với Champs-Elysees. Nó để lại những vết tích phá hoại theo sau gót nó. Giẫm nát hết bên đường đầy những chiếc xe đậu, giậm thẳng lên nóc xe, bỏ lại chúng bẹp dúm, dẹp lép, như đống sắt vụn. Khi nó lao xuống con hẻm, cái đuôi của nó quẩy mạnh nhổ lên những khung chắn bằng thép đằng trước những cửa tiệm ở phía bên kia con đường, làm vỡ tan những tấm kính khung chắn phải bảo vệ. Tiếng còi báo động chống đột nhập trong những chiếc xe và còi báo chống trộm trong các cửa tiệm bị dập nát góp phần làm cho tình hình cực kỳ lộn xộn.


      Đột nhiên, màu trắng lóe lên trước mắt làm cậu chú ý.


      Josh thoáng thấy rất nhanh hình thù mặc toàn trắng đứng phía ngoài nhà Saint-Germain. Cậu đoán đó là trong những người canh giữ con quỷ đó. Và bây giờ trông như thể chúng cũng chạy đuổi theo con vật… nghĩa là chúng mất kiểm soát. Cậu liếc lên, cố tính toán thời gian. Ngay đằng trước cậu, trời nhạt dần sạng đông rồi, nghĩa là cậu chạy về hướng đông. Việc gì sắp xảy ra khi thành phố thức dậy và thấy con quỷ thời tiền sử nổi cơn thịnh nộ điền cuồng chạy qua khắp đường phố? có hoảng loạn; chắc chắn cảnh sát và quân đội vào cuộc. Josh chém mạnh thanh kiếm của mình vào nó và hành động đó chẳng làm được cái gì—cậu có cảm giác kinh khiếp khi nghĩ chắc là đạn cũng vô dụng như vậy thôi.


      Những con phố hẹp lại hơn cả con hẻm, và sinh vật đó buộc phải chậm lại khi nó ủi sập những bức tường. Josh khám phá ra rằng cậu bắt kịp hình dáng mặc toàn trắng. Cậu nghĩ đó là người đàn ông, nhưng khó biết chắc được.


      Bây giờ cậu chạy thoải mái, thậm chí còn thở gấp; cậu cho rằng tất cả những tuần những tháng tập dượt bóng đá được thưởng công xứng đáng. Đôi giày đế mềm của cậu gây tiếng động đường phố và cậu cho rằng cái hình dáng mặc toàn đồ trắng kia thậm chí ngờ là chúng bị bám theo. Rốt cuộc, ai là người đủ điên rồ để chạy theo con quỷ trong tay có cả thanh kiếm bảo vệ? Tuy nhiên, khi đến gần hơn, cậu có thể nhìn thấy hình dáng đó cũng cầm thanh kiếm trong tay này và cũng có cái gì đó giống như cái búa ngoại cỡ trong tay kia. Cậu nhận ra thứ vũ khí này trong trò chơi World of Warcaft: cây búa chiến, biến thể rất dữ tợn và sát thương cao của cái chùy. Sáp đến gần hơn trong thinh lặng, cậu phát ra người đó mặc áo giáp làm bằng vòng xích màu trắng, giày bốt bằng kim loại và cái nón sắt với tấm mạng cũng bằng vòng xích quấn quanh cổ. hiểu sao cậu hề thấy ngạc nhiên tí nà


      Rồi, đột nhiên, nhân dáng đó biến hình.


      Ngay trước mắt cậu, hình dáng biến dạng từ chiến binh mặc áo giáp trở thành trẻ tóc vàng hoe, lớn tuổi hơn cậu là bao nhiêu, mặc áo khoác da, quần jeans và mang bốt. Chỉ có thanh kiếm và cây búa chiến trong tay là khác thường. biến mất khi qua góc phố.


      Josh giảm tốc độ: cậu muốn va phải người phụ nữ có thanh kiếm và búa đó. Và, khi nghĩ như vậy, cậu lại đoán ta chắc cũng chẳng phải là trẻ gì đâu.


      Có tiếng nổ của gạch và kính ở đằng trước cậu, Josh bắt lại nhịp chạy và lao qua góc phố, rồi đứng sựng. Sinh vật đó mắc kẹt trong con hẻm. Josh di chuyển tới trước cách thận trọng; trông như thể con quỷ chạy vô thứ giống như con phố thẳng mũi tên khác. Nhưng con phố đặc biệt này uốn cong ở đoạn cuối và rồi hẹp lại, các tầng của hai ngôi nhà hai bên nhô ra khỏi vỉa hè bên dưới. Con quỷ đâm sầm vào khe hở, xé toạc phần bên ngoài của cả hai tòa nhà. Cố đẩy ra phía trước, nó chợt thấy chính mình càng bị lún sâu vào. Nó quẩy từ bàn này sang bên kia, gạch và kính trút như mưa xuống con đường bên dưới. Có chuyển động chớp nhoáng trong ô cửa sổ gần đó, và Josh bắt gặp thoáng người đàn ông săm soi từ trong những ô cửa sổ nhìn ra, đôi mắt và cái miệng tròn vo đầy vẻ kinh hoàng, đông cứng lại chỗ bởi con quỷ ở ngay trước bên ngoài cửa sổ. mảng bê tông kích thước cỡ chiếc ghế tràng kỷ rớt xuống đầu con vật nhưng nó dường như chẳng hề để ý


      Josh biết mình phải làm gì. Cậu cần đến chỗ Scatty, nhưng như vậy có nghĩa là phải vòng qua con vật, và đơn giản là vô phương. Cậu nhìn chăm chăm vào người phụ nữ tóc vàng phóng xuống con hẻm. chần chứ ta nhảy lên lưng con vật và nhanh nhẹn trèo hướng đỉnh đầu nó, hai cánh tay xoạc ra hai bên, hai thứ vũ khí để lơ lửng.


      ta giết con vật. Josh đoán dứt khoát là vậy, cảm giác thoải mái lan tỏa khắp người. Có lẽ rồi cậu cũng có thể nhảy vào và chộp lấy Scatty.


      Ngồi như cưỡi ngựa cái cổ to lớn của con vật, người phụ nữ với xuống và quất vào thân thể mềm rũ và bất động của Scathach.


      Tiếng rũ đầy kinh hãi của Josh tan biến vào tiếng rền rĩ của đủ loại còi báo động.


      “Thưa ngài, chúng tôi có báo cáo về … việc rắc rối.” Viên cảnh sát mặt xanh lét chuyển chiếc điện thoại di động cho Nicholas Machiavelli. “Nhân viên RAID cầu được chuyện riêng với ngài.”


      Dee cắp tay người đàn ông và xoay tròn ta. “Cái gì vậy?” hỏi gặng bằng giọng Pháp hoàn hảo khi Machiavelli chăm chú với chiếc điện thoại, ngón tay bịt tai lại, cố dìm bớt tiếng ồn.


      “Tôi , thưa ông. nhầm lẫn gì đó, chắc vậy.” Viên cảnh sát cố cười rung cả người. “Mấy coố dưới kia, người ta được báo là có… con quỷ mắc kẹt trong ngôi nhà. thể được, tôi biết…” Tiếng ông ta kéo dài ra rồi tắt ngấm khi ông ta quay nhìn cái nhà ba tầng từ rất khang trang mà bây giờ lại có cái lỗ bị cày xới trống hoác ngang bên hông.


      Machiavelli ném trả lại chiếc điện thoại cho viên cảnh sát. “Lấy cho tôi chiếc xe.”


      chiếc xe ạ?”


      chiếc xe và bản đồ,” vọt miệng.


      “Vâng, thưa ngài. Ngài có thể lấy xe của tôi.” Viên cảnh sát là trong những người đầu tiên có mặt tại trường ngay sau hàng chục cú điện thoại của những người dân bị phen khiếp vía. ta bắt gặp Machiavelli và Dee vội vã rời khỏi con hẻm sát cạnh nơi phát ra tiếng ồn và chặn họ lại, đoan chắc rằng họ làm cái gì đó liên quan tới những thông tin được báo là vụ nổ. Tiếng quát tháo ầm ĩ của biến thành tiếng mất tinh thần khi ta phát ra người đàn ông tóc trắng lớn tuổi hơn mặc bộ đồ lớn bị rách và lấm lem bùn đất đích thực là người đứng đầu AGSE.


      Viên cảnh sát trao chìa khóa xe của ta cùng với tấm bản đồ trung tâm thành phố Paris mòn vẹt và rách bươm của hang Michelin. “E rằng tôi chỉ có bây nhiêu đây thôi.”


      có thể lui.” ra hiệu về phía con phố. “ và lo việc điều khiển giao thông; để cánh báo chí hoặc công chúng đến gần ngôi nhà. chưa?”


      , thưa ngài.” Viên cảnh sát phóng , lòng đầy biết ơn vì ta vẫn còn việc làm; ai muốn gây khó chịu cho trong những người đàn ông quyền lực nhất nước Pháp.


      Machiavelli trải tấm bản đồ lên mui xe. “Chúng ta ở đây,” giải thích với Dee. “Nidhogg tiến thẳng về hướng đông, nhưng đến đoạn nào đó, nó phải băng ngang qua Champs-Elysees và mở đường ra sông. Nếu nó cứ theo lộ trình của nó bây giờ, tôi có ý khá hay là nó lộ mặt ra”—ngón tay lên tấm bản đồ—”gần chỗ này.”


      Hai người đàn ông chui vào chiếc xe hơi và Machiavelli nhìn quanh lát, cố nhớ lại cách vận hành bộ điều khiển. thể nhớ lần cuối cùng lái xe là khi nào; luôn luôn có Dagon lo chuyện đó. Cuối cùng, hộp số nghiến rin rít, chiếc xe chuyển động và rẽ ngược chiều vẽ vệt như cái đuôi cá đường, rồi gầm rú lao xuống Champs-Elysees, để lại những đường lằn cao su đằng sau.


      Dee ngồi im lặng trong ghế hàng khách, tay bấu chặt quanh sợi đai an toàn, tay kia chống vào bảng đồng hồ. “Ai dạy ông lái xe vậy?” hỏi giọng run run khi cả bọn nảy lên lề đường.


      “Karl Benz,” Machiavelli ngay. “Lâu lắm rồi,” thêm.


      “Cái xe đó có mấy bánh?”


      “Ba.”


      Dee nhắm tịt mắt lại khi chiếc xe gầm rú vượt qua ngã tư, quệt lướt vào chiếc xe quét đường lết ì ạch. “Vậy chúng ta làm gì khi chạm mặt Nidhogg?” hỏi, tập trung vào vấn đề, cố nghĩ đến kiểu lái xe kinh khủng của Machiavelli.


      “Đó là bài toán dành cho ông,” Machiavelli vặn lại. “Rốt cuộc, chính ông là người phóng thích nó.”


      “Nhưng ông lại là người mời Disir đến đây. Vậy ông cũng có phần lỗi.”


      Machiavelli đạp mạnh chân thắng, làm chiếc xe trượt đường dài với tiếng rít chói tai. Động cơ tắt ngấm và chiếc xe giật cục đứng sựng lại.


      “Sao dừng lại?” Dee hỏi gặng.


      Machiavelli chỉ ra cửa sổ. “Lắng nghe xem.”





      “Nghe ,” Machiavelli nằng nặc. “Cái gì đó đến.” chỉ tay qua bên trái. “Đằng kia.”


      Dee cuốn cửa sổ xuống. Vượt lên những tiếng còi cảnh sát, cứu thương và cứu hỏa, bọn chúng có thể nghe thấy tiếng đá gạch bị nghiền, gạch rớt và tiếng răng rắc loảng xoảng inh tai của kính vỡ…


      Josh chắm chú nhìn, bất lực, khi ngồi phía đầu con quỷ quất vào Scatty bằng thanh kiếm của ả.


      Ngay lúc đó con quỷ giũ vai, vẫn cố thoát khỏi tòa nhà bọc nó lại, và lưỡi kiếm trật ra, bay véo sát vào cái đầu bất tỉnh của Nữ Chiến binh vô cùng nguy hiểm. Dịch lên cao hơn cái cổ to đùng của con quỷ, nắm chặt vào cục da dày, nghiêng bên băng ngang qua con mắt khổng lồ hề chớp và thọc mạnh mũi kiếm vào Scatty. lần nữa con quỷ cục cựa và thanh kiếm đánh trúng tay nó, chỗ gần cái móng ôm chặt quanh Nữ Chiến binh. Con quỷ phản ứng gì, nhưng Josh có thể trông thấy lưỡi kiếm lao vào Scatty sát đến cỡ nào. nghiêng xuống lần nữa, và lần này, Josh biết, ả đánh trúng Nữ Chiến binh.


      Cậu phải làm gì đó! Cậu là niềm hi vọng duy nhất của Scatty. Cậu thể cứ ở đây mà đứng nhìn ai đó cậu quen biết sắp bị giết chết. Cậu bắt đầu chạy. Hồi ở trong ngôi nhà, khi cậu chém vào sinh vật có gì xảy ra,, nhưng khi cậu đâm mũi kiếm vào lớp da dày cộm của nó…


      Cậu cầm chặt thanh Clarent bằng cả hai bàn tay như Joan dạy cậu, Josh lấy hết sức lực tăng tốc độ đến mức cuối cùng và phóng thẳng vào sinh vật. Cậu có thể cảm thấy thanh kiếm kêu lên o o trong tay cậu ngay trước khi cậu đâm nó vào đuôi con quỷ. Tức khắc, sức nóng tỏa lên qua cánh tay cậu và lan tỏa trong ngực cậu. khí sực nức mùi chua của cam trong tích tắc trước khi luồng điện của cậu vụt lóe ánh sáng vàng và rồi biến dần hệt như ánh sáng cam ngả sang đỏ tuôn ra khỏi thanh kiếm nhô ra từ lớp da u nần dày cộp của sinh vật đó.


      Josh vặn thanh Clarent và kéo nó ra. Trong lớp da nâu ngả xám, vết thương cháy đỏ chói và đột ngột bắt đầu cứng lại thành lớp vảy đen thui. Phải mất lúc để cảm giác qua hệ thần kinh thô sơ của sinh vật. Rồi con quỷ bất ngờ giơ chân trước, rít ré và thét lên đau đớn cực độ. Nó vặn mình ra khỏi căn nhà , cơn mưa bất chợt gồm gạch, ngói mái và xà rầm bằng gỗ đẩy Josh lết tuột ra phía sau, ở vào nơi an toàn. Cậu va xuống đất, ôm lấy đầu khi vôi gạch bể nát đổ ầm ầm khắp người cậu. Cậu nghĩ đúng là xui xẻo nếu bị chết bởi viên ngói lợp mái. Chuyển động bất ngờ này gần như đánh bật lưng con quỷ ra. Đu đưa, ả ta đánh rơi cây búa chiến và liều lĩnh chụp vào lưng con vật để giữ chính mình khỏi bị ném xuống ngay trước mặt nó. Nằm đất, gạch trút xuống quanh mình, Josh quan sát cái vảy đen thui dày cộp bắt đầu lan rộng ra khỏi vết thương và bò lên cái đuôi con quỷ. Nó lại lồng lộn lên và rồi cày xới thẳng vào góc căn nhà và băng mình chạy ra Champs-Elysees. Josh người khi nhìn thấy hình hài mềm rũ của Scatty vẫn còn bị lẹp chặt trong những cái vuốt trước của nó.


      Hít sâu vào, Josh lồm cồm bò dậy và vồ lấy thanh kiếm. Ngay tức , cậu cảm thấy năng lượng kêu o o xuyên khắp người cậu, làm mạnh mẽ mọi giác quan. Cậu đứng lắc lư khi năng lượng nguyên sơ tiếp sức lực cho cậu, rồi cậu quay người phóng theo con quỷ. Cậu cảm thấy kinh ngạc. Dù trời chưa hoàn toàn đến lúc bình minh, cậu vẫn có thể nhìn thấy , tuy màu sắc có hơi mờ. Cậu có thể ngửi được vô số mùi trông thành phố ngang qua cái mùi xạ rắn hôi thối chua òm của sinh vật kia. Khả năng nghe thấy của cậu quá sắc sảo, cậu có thể phân biệt những tiếng còi báo động khác nhau của các dịch vụ cấp cứu khác nhau; thậm chí cậu còn có thể phân biệt được từng chiếc xe . Cậu có thể cảm thấy những chỗ lồi lõm theo quy luật nào vỉa hè ngay bên dưới bàn chân cậu qua cái gót cao su của đôi giày đế mềm. Cậu vung thanh kiếm vào khí trước mặt cậu. Nó rên rỉ và kêu o o, và lập tức, Josh tưởng cậu có thể nghe tiếng thầm xa xa và nhận ra vài thứ gần như cậu có thể hiểu được. Lần đầu tiên trong cuộc đời mình, cậu cảm thấy cậu sống: và rồi cậu biết rằng đây là cách mà Sophie cảm nhận khi chị ấy được Đánh thức. Nhưng trong khi chị ấy sợ hãi, bối rối với các giác quan… cậu lại cảm thấy rất hồ hởi.


      Cậu muốn dược như vậy. Hơn bất cứ thứ gì khác thế giới này.


      ⃰ ⃰ ⃰


      Dagon chân vào con hẻm , hốt cây búa chiến binh đánh rơi của Disir lên và phóng theo đứa con trai.


      Dagon nhìn thấy ánh sáng lóe từ luồng điện của đứa con trai và nó biết luồng điện đó mạnh mẽ, dù việc xác nhận đứa con trai và đứa con có đúng là cặp sinh đôi huyền thoại hay lại là chuyện khác. Hiển nhiên, Nhà Giả kim và cả Dee cũng vậy, dường như cả hai đều tin rằng chúng là cặp sinh đôi được nhắc đến. Nhưng Dagon biết rằng ngay cả Machiavelli— trong những con người sáng giá nhất mà nó từng cộng tác—cũng chắc, và cái nhìn thoáng qua rất nhanh mà nó vừa bắt gặp luồng điện của đứa con trai chưa đủ thuyết phục nó suy nghĩ theo hướng khác. Luồng điện vàng và bạc hiếm—dù chưa hiếm bằng luồng điện đen—và Dagon chạm trán ít nhất bốn cặp sinh đôi qua nhiều thời đại có luồng điện của mặt trời và mặt trăng, cũng như hàng tá những người đơn lẻ khác.


      Nhưng cả Dee lẫn Machiavelli ai biết rằng Dagon nhìn thấy cặp sinh đôi đầu tiên.


      có mặt ở Danu Tails vào lúc kết thúc, trong Trận Chiến Cuối Cùng. Nó mặc chiếc áo giáp của cha nó trong ngày đầy triển vọng đó, khi mà tất cả đều biết rằng số phận của hòn đảo được treo lơ lửng bàn cân. Như những người khác, nó co rúm lại vì sợ hãi khi những ánh sáng vàng và bạc chiếu sáng rực rỡ đỉnh Kim tự tháp Mặt trời trong màn trình diễn năng lượng căn bản. Các pháp thuật nguyên tố biến cảnh quan xưa cổ thành vùng hoang phế và tách hòn đảo ra khỏi lòng thế giới.


      Dagon gần như bao giờ ngủ nữa; thậm chi nó còn cái giường. Như con cá mập, nó có thể vừa ngủ vừa tiếp tục chuyển động loanh quanh. Nó hiếm khi nằm mơ, nhưng nếu nó mơ, các giấc mơ luôn luôn giống nhau: cơn ác mộng sống động của những thời kỳ đó khi mà bầu trời bừng cháy những á vàng và bạc và thế giới kết thúc.


      Nó trải qua nhiều năm phục vụ Machiavelli. Nó nhìn thấy những điều đáng kinh ngạc và khủng khiếp suốt những thế kỷ đó, và cùng nhau, chúng trở thành tại cho số khoảnh khắc quan trọng và thú vị nhất trong lịch sử gần đây nhất của trái đất.


      Và Dagon bắt đầu nghĩ rằng đêm nay có lẽ là đêm đáng nhớ nhất.


      “Này, đó là thứ mà ngày nào ông cũng nhìn thấy,” Dee lẩm bẩm.


      Pháp sư và Machiavelli chăm chú nhìn vào xuất đột ngột của Nidhogg qua tòa nhà phía bên trái Champs-Elysees, giẫm nát cây cối kẻ viền cho con đường lao nhanh băng qua đường. Nó vẫn giữ Scatty tóc đỏ trong những cáo vuốt của nó, và Disir dính sát lưng nó. Hai người bất tử nhìn cái đuôi khổng lồ đu đưa qua lại biến cột đèn giao thông thành đống đỏ nát nham nhở sứt sẹo khi nó lao xuống con phố khác.


      “Nó hướng ra sông,” Machiavelli .


      “Nhưng tôi ngạc nhiên biết chuyện gì xảy ra với thằng vậy cà?” Dee trầm ngâm.


      “Có lẽ nó lạc đường,” Machiavelli bắt đầu, “hoặc bị Nidhogg giẫm lên. Hoặc có thể ,” thêm khi Josh Newman ngừng lại nơi những thân cây bị tróc rễ và lao ra con đường rộng. Cậu nhìn trái nhìn phảikhông có xe cộ, và thậm chí cậu hề liếc đến chiếc xe cảnh sát đậu lên lề đường cách trái khuấy. Cậu lao ra đại lộ rộng rãi, thanh kiếm trong tay cậu kéo những sợi khói vàng ánh theo sau.


      “Thằng bé là người sống sót,” Dee bằng giọng đầy than phục. “Can đảm nữa.”


      Ít giây sau, Dagon đột ngột xuất khỏi con phố ngang, đuổi theo Josh. Nó mang theo cây búa chiến. Bắt gặp Dee và Machiavelli trong xe hơi, nó giơ tay kia lên như lời chào mừng, hay là vĩnh biệt.


      “Bây giờ làm gì?” Dee gặng hỏi.


      Machiavelli bật khóa trong bộ phận đánh lửa và kéo mạnh cần số đưa chiếc xe vào số . Nó thình lình xốc chồm tới trước, nảy lên chút; rồi động cơ gầm rú lên khi đạp chân xuống sàn. “Đường de Marignan dẫn ra đại lộ Montaigne. Tôi nghĩ tôi có thể đến đó trước Nidhogg.” bật còi báo động.


      Dee gật đầu. “Có lẽ ông nên nghĩ đến việc sang số.” Đôi môi cử động thành nụ cười khó thấy . “Bằng cách đó ông thấy chiếc xe này chạy nhanh hơn.”






      CHƯƠNG 36


      “Chỗ để xe của chị liền với nhà s” Sophie vừa hỏi vừa chui vào phía sau chiếc Citroen hai mã lực, lấy chỗ sau lưng cho Nicholas ngồi phía trước với Joan.


      “Đây là những cái chuồng ngựa được sửa lại. Trong những thế kỷ trước, những chuồng ngựa bao giờ được ở qua gần nhà. Tôi nghĩ những người giàu có thích sống chung với mùi phân ngựa, Như vậy cũng tệ lắm, dù có thể nó có thể có chút bất tiện vào đêm mưa, em biết mình phải chạy qua ba khối nhà. Nếu tôi và Francis ra ngoài vào buổi tối, chúng tôi thông thường tàu điện ngầm.”


      Joan giảm tốc độ khi chiếc xe ra khỏi nhà xe và quẹo phải, rời xa căn nhà bị hư hại, nhanh chóng bị bao vây bởi những chiếc xe cứu hỏa, cứu thương, cảnh sát và báo chí. Khi họ ra khỏi nhà, Francis chạy lên lầu thay quần áo; ông lập luận rằng tất cả giới quảng cáo làm nên những điều kỳ lạ cho việc bán album mới của ông.


      “Chúng ta cắt ngang Champs-Elysees và rồi hướng xuống phía sông,” Joan , khéo léo điều khiển cách thành thạo chiếc Citroen qua con hẻm hẹp rãi đá cuội. “Ông có chắc Nidhogg đâu ?”


      Nicholas Flamel thở ra. “Tôi chỉ đoán thôi,” ông thú nhận. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả—tôi sống—nhưng tôi tình cờ gặp những sinh vật giống nó trong những chuyến của tôi, và tất cả chúng đều có liên quan đến những loài thằn lằn biển, như con mosasaur. Nó sợ hãi, có thể bị thương nữa. Nó hướng ra phía có nước, tìm bùn mát chữa vết thương.”


      Sophie chồm người vào khoảng giữa hai chỗ ngồi đằng trước. liều lĩnh tập trung vào Nidhogg, liều lĩnh phân loại ra qua ký ức của Bà Phù thủy, tìm kiếm cái gì đó có thể giúp . Nhưng ngay cả Bà Phù thủy cũng biết rất ít về sinh vật nguyên sinh này ngoại trừ việc nó bị giam trong những nhánh rễ của Cây Thế giới, bị Dee phá hủy bằng…


      “Excalibur,” thầm.


      Nhà Giả kim xoay người trong chỗ ngồi để nhìn lại . “Có gì liên quan đến nó?”


      Sophie cau mày, cố nhớ lại. “Josh bảo cháu là trước đây Dee phá hủy Cây Thế giới bằng cây Excalibur.”


      Flamel gật đầu.


      “Và chú bảo cháu rằng thanh Clarent là cây kiếm song sinh của Excalibur.”


      “Đúng.”


      “Nó cùng chung sức mạnh ?” hỏi.


      Đôi mắt xám nhạt của Flamel lóe sáng. “Và cháu thắc mắc, nếu cây Excalibur có thể phá hủy thứ gì đó cổ xưa như Cây Thế giới, Clarent có thể phá hủy Nidhogg ?” ông gật đầu thậm chí cả khi . hững vũ khí uy lực cổ xưa có từ thời các Elder. ai hình dung được chúng từ đâu đến dù chúng ta biết rằng các Elder sử dụng vài món trong số chúng. Thực tế là những thứ vũ khí này vẫn ở quanh đây chứng tỏ chúng khó có thể bị hủy diệt biết chừng nào.” Ông gật đầu. “Chú chắc chắn thanh Clarent có thể gây thương tích và thậm chí có thể giết chết Nidhogg.”


      “Và ông tin là giờ đây Nidhogg bị thương?” Joan bắt được khe hở trong dòng xe cộ sáng sớm và len chiếc xe vừa vặn vào đó. Tiếng còi xe inh ỏi sau lưng .


      “Có cái gì đó đuổi nó ra khỏi nhà.”


      “Vậy ông biết ông vừa xác nhận điều gì ?” .


      Flamel gật đầu. “Chúng ta biết Scatty bao giờ chạm tới Clarent. Vì thế, chính Josh làm bị thương sinh vật đó—đủ để nó điên cuồng lao khắp Paris. Và giờ cậu bé đuổi theo nó.”


      “Còn Machiavelli và Dee?” Joan hỏi.


      “Có lẽ đuổi theo cậu bé.”


      Joan cắt xuyên qua hai làn xe cộ và chiếc xe rú lên lao xuống Champs-Elysees. “Hi vọng bọn chúng bắt được


      ý tưởng bất thình lình vọt ra khỏi trí Sophie. “Dee từng gặp Josh...,” bé im bặt, nhận ra những gì mình vừa .


      “Ở Ojai. Chú biết rồi.” Flamel , làm bé ngạc nhiên. “Cậu ấy kể chú nghe.”


      Sophie ngồi thụt lui lại, ngạc nhiên rằng cậu em trai sinh đôi của mình kể chuyện này cho Nhà Giả kim. Hai má bé đỏ ửng. “Cháu nghĩ Dee gây được ấn tượng với nó.” cảm thấy gần như bối rối khi điều này với Nhà Giả kim, như thể phản bội em trai mình, nhưng vội vã tiếp. Giờ còn là lúc giữ bí mật. “Dee kể với nó vài chuyện về chú. Cháu nghĩ… cháu nghĩ Josh phần nào tin ,” kết thúc vội vàng.


      “Chú biết,” Flamel nhàng. “Tay Pháp sư người đó rất có sức thuyết phục.”


      Joan lái chậm dần và chiếc xe dừng lại. “Chuyện này tốt,” làu bàu. “Hầu như có ai đường vào giờ này.”


      Họ lái xe thẳng vào dòng xe cộ kẹt cứng. Nó kéo dài xuống tận Champs-Elysees ngay trước mặt họ. Đây là ngày thứ hai liên tiếp, xe cộ đường phố chính của Paris gần như ngừng hẳn lại. Người ta đứng bên cạnh xe của họ nhìn vào lỗ trống hoác bên hông của tòa nhà bên kia đường. Cảnh sát vừa đến và cố gắng nhanh chống lấy lại kiểm soát, hối thúc xe cộ tiếp và cho phép những dịch vụ cấp cứu chạy qua để vào tòa nhà.


      Joan Arc dựa ngang tay lái, đôi mắt xám nhạt ước lượng tình hình. “Nó băng ngang qua đường và lối này,” Joan vừa vừa nhanh nhẹn bật đèn hiệu và rẽ phải, vào con đường hẹp de Marignan, chạy qua bộ đèn giao thông nằm nhăn nhở, sứt sẹo. “Tôi nhìn thấy họ.”


      Nicholas rướn mình lên khỏi chỗ ngồi, cố nhìn lấy càng xa càng tốt xuống con phố dài thẳng tắp. “Lối này dẫn ra đâu?”


      đường Francois, ngay trước đại lộ Montaigne,” Joan trả lời. “Tôi bộ, đạp xe và lái xe hơi qua những con đường này hàng mấy thập kỷ. Tôi biết chúng như lòng bàn tay tôi.” Họ chạy vượt qua hơn chục chiếc xe, mỗi cái đều mang dấu vết của Nidhogg; khung kim loại bẹp dúm như giấy thiếc, cửa sổ nứt như mạng nhện và vỡ toang. đống kim loại cuộn tròn từng là chiếc xe đạp bây giờ bị văng tuốt vào vỉa hè, vẫn còn nối với thanh rào chắn bằng sợi dây xích dài.


      “Joan,” Nicholas rất dịu dàng, “tôi nghĩ nên chạy nhanh lên.”


      “Tôi thích lái xe nhanh.” liếc xéo Nhà Giả kim, nhưng mọi đường nét thấy khuôn mặt ông khiến phải nhấn vào bàn đạp đặt sàn. Động cơ rú lên và chiếc xe trong hành trình tiến lên. “Chuyện gì vậy?” gặng hỏi.


      Nicholas nhai nhai môi dưới. “Tôi vừa mới nghĩ đến vấn đề có khả năng,” cuối cùng ông thú nhận.


      “Loại vấn đề gì?” Cả Joan và Sophie đồng thanh hỏi.


      loại vấn đề nghiêm trọng.”


      “Lớn hơn cả Nidhogg ư?” Joan thình lình giật mạnh cần số và đẩy chiếc xe vào số lớn nhất. Sophie thể nhìn thấy nó có chút khác biệt nào; vẫn cảm thấy có thể bộ nhanh hơn. dộng thình thịch vào lưng ghế, phát cuồng vì lo lắng. Họ cần đến chỗ em trai .


      “Tôi vừa đưa Josh hai trang bị mất của cuốn Codex,” Flamel . Ông vặn người trong ghế để nhìn vào Sophie. “Cháu có nghĩ là em cháu mang theo chúng ?”


      “Chắc có,” ngay, rồi gật đầu. “Có, chắc chắn có. Lần cuối cùng tụi cháu chuyện nó vẫn còn đeo cái túi bên dưới áo nó.”


      “Vậy làm thế nào Josh bảo vệ đến cùng những trang giấy này của cuốn Codex được?” Joan hỏi. “Tôi nghĩ ông bao giờ được để cuốn sách rời khỏi tầm nhìn của ông.”


      “Tôi tặng chúng cho cậu ấy.”


      “Ông tặng chúng?” hỏi, đầy ngạc nhiên. “Tại sao?”


      Nicholas quay người và nhìn ra đường phố, lúc này rác rưới cùng với những chúng cứ cho thấy Nidhogg ngang qua. Khi ông nhìn lại Joan, khuôn mặt ông như chiếc mặt nạ dữ tợn. “Tôi tính toán rằng vì cậu ấy là người duy nhất trong chúng ta phải là người bất tử, phải là Elder, cũng phải là người được Đánh thức, cậu ấy dính líu gì đến những xung đột chúng ta đương đầu, cậu ấy cũng phải là mục tiêu: cậu ấy chỉ là con người đúng nghĩa. Tôi nghĩ những trang giấy đó được an toàn cùng với cậu ấy.”


      Có cái gì đó trong câu làm Sophie thấy khó chịu, nhưng nhún mũi vào. “Josh đưa mấy trang giấy đó cho Dee,” bé tuyên bố đầy tin tưởng.


      Nicholas vặn người đối diện với đứa con lần nữa, và ánh nhìn trong đôi mắt nhợt nhạt của ông kinh khiếp. “Ồ, tin chú : Dee luôn luôn có được những gì muốn,” ông với giọng đầy cay đắng, “và đối với những gì thể có— tiêu diệt.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 37


      Machiavelli thả chiếc xe lướt chút rồi dừng hẳn, nằm vắt vẻo nửa dưới lòng đường nửa vỉa hè. kéo thắng nhưng chiếc xe vẫn được gài số, nó xốc nảy tới trước, rồi ngưng. Bọn chúng bãi đậu xe bờ sông Seine, gần nơi tiên đoán là Nidhogg xuất . Trong chốc lát, thanh duy nhất là tiếng động cơ nổ nhè , và rồi Dee để hơi thở buông ra thành tiếng thở phào. “Ông là người tài xế tệ nhất mà tôi từng vớ phải.”


      “Tôi để chúng ta ở đây nhé? Ông cũng biết là giải thích tất cả điều này rất khó khăn,” Machiavelli thêm, rời xa chủ đề bàn về lái xe kinh khủng của . tinh thông những môn nghệ thuật khó khăn và cần nhiều ngón nghề, thao túng lĩnh vực xã hội và chính trị trong nửa thiên niên kỷ, gây ảnh hưởng đến hơn chục loại ngôn ngữ, có thể lập trình bằng năm loại ngôn ngữ máy tính khác nhau và là trong những chuyên gia về vật lý lượng tử. Mà vẫn thể lái tốt chiếc xe. là đáng hổ thẹn. Quay cửa sổ chỗ tài xế xuống, để khí lạnh cuốn vào chiếc xe. “Tôi có thể gây sức &ebuộc cánh nhà báo ỉm tin , tất nhiên, tuyên bố rằng đây là vấn đề an toàn quốc gia, nhưng việc này thành ra quá công khai và có chiều hướng quá hỗn độn.” thở dài. “Những thước phim về Nidhogg chắc lên internet ngay bây giờ.”


      “Người ra xem qua loa như trò đùa tinh quái thôi,” Dee cách tin tưởng. “Tôi nghĩ chúng ta gặp rắc rối khi Chân to bị máy quay chụp được. Nhưng chuyện đó cũng nhanh chóng bị loại bỏ như trò chơi khăm. Nếu tôi từng học được bất cứ điều gì qua từng ấy năm, đó là con người là những bậc thầy trong việc phớt lờ những gì ngay trước mũi họ. Họ quan tâm đến tồn tại của chúng ta hàng thế kỷ, gạt bỏ các Elder và những thời đại của họ, coi đó hơn gì những câu chuyện hoang đường và thần thoại, mặc cho tất cả những chứng cứ. Hơn nữa,” thêm cách bảnh chọe, lơ đãng vuốt chòm râu ngắn, “mọi thứ đến hồi kết thúc. Chúng ta có gần trọn cuốn sách; khi chúng ta lấy được hai trang bị mất, chúng ta mang các Elder Đen tối quay lại và trả thế giới này về tình trạng thích hợp. vẫy tay cách thoải mái. “Ông phải lo về những chuyện nhặt như cánh nhà báo nữa.”


      “Dường như ông quên rằng chúng ta có vài vấn đề khác, như Nhà Giả kim và Perenelle. Bọn họ phải là chuyện nhặt đâu.”


      Dee chiếc điện thoại cầm tay ra khỏi túi và vẫy nó trong trung. “Ồ, tôi lo vụ đó. Tôi gọi cuộc.” Machiavelli liếc xéo qua Pháp sư nhưng gì cả. Theo kinh nghiệm của , người ta thường đơn thuần chỉ để lấp khoảng cuộc chuyện, và biết rằng Dee là người đàn ông thích nghe thanh tiếng của mình.


      John Dee nhìn chòng chọc qua tấm kính chắn gió hướng về phía sông Seine. Khoảng hai cây số về phía cửa sông, ngay khúc cong, tòa thánh đường có kiến trúc Gothic khổng lồ Nhà Thờ Đức Bà Paris từ từ lên trong ánh sáng bình minh sớm tinh khôi. “Lần đầu tôi gặp Nicholas và Perenelle trong thành phố này gần năm trăm năm trước. Tôi là học trò của họ—ông biết chuyện này phải ? Điều đó có trong hồ sơ huyền thoại của ông. Ồ, đừng có vẻ ngạc nhiên quá như vậy chứ,” , bật cười lớn vì vẻ mặt sững sờ của Machiavelli. “Tôi biết về các hồ sơ của ông suốt nhiều năm thập kỷ rồi. Và các bản sao của tôi thậm chí còn cập nhật hơn,” thêm. “Nhưng đúng đó, tôi học với Nhà Giả kim huyền thoại, ở đây trong chính thành phố này. Trong thời gian rất ngắn tôi biết rằng Perenelle mạnh mẽ—nguy hiểm—hơn chồng bà ta. gặp bà ta bao giờ chưa?” hỏi bất ngờ.


      “Rồi,” Machiavelli giọng vững. kinh ngạc vì các Elder—hay chỉ mình Dee thôi?—biết về các hồ sơ bí mật của . “Có, tôi gặp bà ta lần. Chúng tôi đánh nhau; bà ta thắng ngắn gọn. “Bà ta khá ấn tượng.”


      “Bà ta là phụ nữ đặc biệt; khá xuất sắc. Thậm chí vào thời của bà, uy tín của bà cũng dữ dội lắm rồi. biết bà ta còn đạt được những gì nếu chịu ở cùng phe với chúng ta. Tôi chẳng bà ta nhìn thấy điều gì ở Nhà Giả kim nữa.”


      “Ông bao giờ hiểu được khả năng con người trong tình phải ?” Machiavelli hỏi nhàng.


      “Tôi hiểu rằng Nicholas sống sót và phát triển được là bởi vì Nữ Phù thủy. Để tiêu diệt Nicholas, tất cả những gì chúng ta phải làm là giết Perenelle. Chủ nhân của tôi và tôi luôn biết vậy, nhưng chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi có thể bắt được cả hai, kiến thức tích lũy được của họ có giá trị ngang với rủi ro để họ sống.”


      “Và bây giờ?”


      “Giá trị còn xứng với rủi ro nữa. Đêm nay,” thêm, rất nhàng, “cuối cùng tôi làm những gì lẽ ra tôi phải làm từ lâu rồi.” nghe gần như tiếc nuối.


      “John,” Machiavelli quát lên khẩn khoản, xoay mình trong ghế để nhìn thẳng vào Pháp sư người . “Ông làm gì”


      “Tôi gởi Morrigan đến Alcatraz. Perenelle còn được nhìn thấy ánh bình minh nào nữa.”






      CHƯƠNG 38


      Cuối cùng Josh bắt kịp con quỷ bên bờ sông Seine.


      Cậu biết cậu chạy bao xa, chắc hai cây số—nhưng cậu biết rằng lẽ ra cậu thể làm như vậy được. Cậu mở hết tốc lực suốt chặng đường cuối cùng—cậu nghĩ bảng tên con đường ghi là Rue de Marignan— chút gắng sức nào, và bây giờ, quay ngoắt sang trái đại lộ Montaigne, thậm chí cậu còn chút hổn hển.


      Đó là do thanh kiếm.


      Cậu có cảm giác nó kêu o o trong tau cậu khi cậu chạy, nó thầm và rì rào cái gì đó nghe như hứa hẹn mơ hồ. Khi cậu cầm nó ngay trước mặt cậu, hướng về con quỷ, những tiếng thầm phát ra lớn hơn và thấy là nó rung rung trong tay cậu. Khi cậu chuyển ra hướng khác, chúng nhòa bớt .


      Thanh kiếm kéo cậu về phía sinh vật đó.


      Theo dấu vết phá hoại của con quỷ xuống con phố hẹp. phóng qua những người dan Paris bối rối, kinh hoàng và khiếp đảm, Josh thấy những tư tưởng kỳ lạ và xáo trộn lung linh trong mọi bờ rìa của tâm thức cậu:


      … nó ở trong thế giới có đất liền, bơi lặn trong đại dương đủ mênh mông để nuốt trọn những hành tinh, nhung nhúc những sinh vật làm c con quỷ cậu bám đuổi trong còn có tí tẹo…..


      …. Nó du đưa tuốt cao trong trung, bị quấn trong những nhánh rễ dày đặc cắn phập vào da thịt nó, nhìn xuống vùng đất hoang mạc khô cằn nóng đổ lửa, tàn héo quắt queo…


      …. Nó bị lạc đường và bị bấn loạn, trong nơi an toàn là những ngôi nhà nho có nhiều tầng và thậm chí có cả những sinh vật còn bé hơn, và nó bị đau, ngọn lửa nung nóng đốt xoáy tận chân xương sống nó…


      … nó là….


      Nidhogg.


      Cái tên vọt ra trong vùng ý thức của cậu, và cú sốc vì hiểu sao cậu lại nghiệm những tư tưởng của con quỷ gần như đột ngột ngăn chân cậu, làm cậu đứng sựng lại. Cậu biết tượng này phải có liên quan đến thanh kiếm. Trước đây, khi cái lưỡi của sinh vật đó chạm vào lưỡi kiếm, cậu thoáng thấy bức ảnh chụp nhanh của thế giới xa lạ, những hình ảnh kinh tởm của quang cảnh kỳ quái, và bây giờ, khi đâm vào sinh vật lần nữa, cậu bắt được những thoáng lờ mờ của cuộc sống hoàn toàn nằm ngoài kinh nghiệm của cậu.


      ý nghĩ lóe ra trong óc, cậu nhìn thấy những gì sinh vật đó—Nidhogg— nhìn thấy đâu đó trong qua khứ. Cậu trải nghiệm những gì giờ đây nó cảm thấy.


      Phải có liên quan đến thanh kiếm.


      Và nếu đây là thanh kiếm sinh đôi của Excalibur, Josh chợt tự hỏi, liệu có phải thứ vũ khí đó cũng truyền điảm giác, xúc cảm và cảm tưởng khi có ai sử dụng nó? Dee cảm thấy gì khi đâm ngập thanh Excalibur vào cây Yggdrasill cổ xưa? nhìn thấy những cảnh tượng gì, trải nghiệm những gì và học được những gì? Josh thấy mình tự hỏi biết đâu là lý do khiến Dee phá hủy Yggdrasill: có phải giết chết nó để cảm nhận được kiến thức lạ thường chứa trong đó?


      Josh liếc nhanh thanh kiếm đá và cơn rung mình chạy dọc khắp người cậu. thứ vũ khí như thế này mang lại cho người sử dụng nó những năng lực thể tưởng tượng nổi—và cám dỗ đáng kinh hãi biết bao. Chắc chắn thúc đẩy sử dụng nó hết lần này đến lần khác để thu được càng lúc càng nhiều kiến thức trở thành mong muốn sao kiềm chế được.


      Nhưng tại sao Nhà Giả kim lại tặng nó cho cậu?


      Câu trả lời đến ngay tức khắc: vì Flamel biết! Thanh kiếm là phiến đá vô tích cho đến khi nó đâm hoặc chém vật gì đó—chỉ điều đó mới làm nó sống dậy. Josh gật gù với chính mình; giờ cậu mới biết tại sao Saint-Germain, Joan và Scatty muốn chạm vào thứ vũ khí này.


      Khi cậu phóng xuống con phố dẫn ra dòng sông, cậu tự hỏi biết chuyện gì xảy ra nếu cậu giết được Nidhogg bằng thanh Clarent. Cậu cảm thấy gì, cậu học được gì?


      Cậu biết những gì?


      Nidhogg đột ngột ra qua hàng cây và lao ngang qua con đường rồi xuống cảng Champs-Elysees. Nó dừng lại trong bãi đậu xe mảnh đất bên rìa bến cảng gần như ngay trước Dee và Machiavelli và thả mình bò lồm ngồm, cái đầu khổng lồ đu đưa từ bên này qua bên kia, cái lưỡi lè ra khỏi miệng. Nó quá gần đến nổi bọn họ có thể nhìn thấy than hình mềm nhũn của Scatty bị cắp trong mấy cái vuốt của nó và Disir ngồi dạng chân cổ nó. Cái đuôi Nidhogg quất mạnh, hất tung những chiếc xe đậu và đâm mạnh vào chiếc xe buýt đường dài, chọc thủng động cơ. bánh xe nổ tung tiếng ầm vang.


      “Tôi nghĩ chúng ta nên ra khỏi xe…,” Dee lên tiếng, đưa tay ra về phía cánh cửa, đôi mắt dán chặt cái đuôi nhún nhảy vừa đúng lúc nó quất vào mui xe chiếc BMW nặng nề.


      Cánh tay Machiavelli bung ra, các ngón tay khép lại cánh tay Pháp sư như cái mỏ cặp chặt cứng đau điếng. “Thậm chí chỉ nghĩ đến việc cử động thôi cũng được. Đừng làm gì lôi kéo chú ý của nó.”


      “Nhưng cái đuôi..”


      “Nó đau, đó là lý do tại sao cái đuôi cư quẫy đập lung tung. Nhưng hình như nó chậm dần phải.”


      Dee hơi quay đầu. Machiavelli đúng: có cái ổn với cái đuôi của Nidhogg. Khoảng chừng phần ba chiều dài cái đuôi trở màu đen thui—trông gần như hóa đá. Thậm chí ngay lúc Dee chăm chú nhìn, những chùm lông xoắn và những đường gân máu của thứ chất lỏng màu đen ngòm vẫn bò lan qua da thịt cứng ngắc của con vật, chầm chậm bọc nó vào trong cái vảy. Tiến sĩ Dee ngay lập tức biết chuyện gì .


      “Thằng đâm nó bằng thanh Clarent,” thậm chí quay đầu lại nhìn Machiavelli. “Đó là nguyên nhân của phản ứng này.”


      “Tôi nghĩ ông Clarent là Thanh kiếm Hỏa công, chứ đâu phải là Thanh kiếm Cổ Thạch.”


      “Có nhiều hình thái lửa khác nhau,” Dee . “Ai biết được năng lực của lưỡi kiếm gặp thư gì đó giống như Nidhogg phản ứng như thế nào?” nhìn chòng chọc vào cái đuôi, ngày càng nhiều lớp vảy cứng đen true mọc lên lớp da. Khi nó cứng lại bắt gặp thoáng lửa điện đỏ lên chớp nhoáng. “Vảy nham thạch,” , giọng chợt tắt lịm vì kinh ngạc. “Đó là vảy nham thạch. Lửa thiêu đốt bên trong lớp da của sinh vật.”


      “Thảo nào mà nó đau đớn vậy,” Machiavelli lẩm bẩm.


      “Ông nghe cứ như thể tiếc xót cho nó,” Dee buột miệng.


      “Tôi bao giờ đánh nổi nhân tính để lấy cuộc đời dài đằng đẳng, ông Tiến sĩ ạ. Tôi luôn nhớ về cội rễ của mình.” Tiếng đanh lại, có vẻ khinh khỉnh. “àm việc chăm chỉ như chủ nhân Elder của ông đến nổi quên mất cảm giác làm người—là con người— như thế nào. Và chúng ta, những con người,”— nhấn mạnh từ cuối cùng—”có khả năng cảm thấy nỗi đau đớn của sinh vật khác. Đó là những gì nâng con người lên các Elder, đó là thứ làm cho họ trở nên vĩ đại.”


      “Và đó cũng là yếu đuối rốt cuộc hủy diệt họ,” Dee tiếp lời cách đơn giản. “Hãy để tôi nhắc ông rằng sinh vật này phải là con người. Nó có thể nghiền nát ông dưới chân mà thậm chí chẳng để ý. Tuy nhiên, bây giờ phải là lúc để chúng ta tranh cãi; càng khi chúng ta sắp là người chiến thắng. Thằng hẳn giải quyết vấn đề cho chúng ta,” Dee . “Nidhogg từ từ biến thành đá.” cười lớn đầy phấn khích. “Nó nhảy ùm xuống dòng sông ngay bây giờ, sức nặng của cái đuôi của nó kéo nó xuống tới đáy—và mang cả Scathach theo cùng nó.” ranh mãnh nhìn Machiavelli. “Tôi nghĩ chắc là nhân tính của ông dành những cảm xúc tiếc thương cho Bống tối đâu nhỉ.”


      Machiavelli nhăn mặt. “Ý nghĩ Scathach nằm dưới đáy sông Seine và được bao bọc trong móng vuốt của sinh vật đó làm cho tôi hạnh phúc.”


      Hai người bất tử ngồi bất động trong chiếc xe hơi lom nhom vào sinh vật lắc lư tiến thẳng phía trước, giờ di chuyển chậm hẳn, kéo lê lết theo nó là sức nặng của cái đuôi. Tất cả những gì nằm giữa nó và làn nước là trong những chiếc thuyền chung quanh lắp kính—những chiếc du thuyền bateau-mouche—mang những du khách xuôi ngược dòng sông.


      Dee hất đầu về phía du thuyền. “ khi nó leo lên đó, con thuyền chìm; và Nidhogg lẫn Scathach biến mất vào dòng sông Seine vĩnh viễn.”


      “Còn Disir sao ta?”


      “Chắc chắn ả ta bơi được.”


      Machiavelli tự cho phép mình có nụ cười chế giễu. “Vì thế tất cả những gì chúng ta đợi chờ bây giờ…”


      “… là nó bước lên thuyền,” Dee kết thúc, vừa đúng lúc Josh xuất ngang qua cái lỗ trống hoác trong mảnh đất bên bìa bến cảng có hàng cây xanh chạy viền, và cậu lao mình băng ngang bãi đậu xe.


      Khi Josh phong mình lên sinh vật đó, thanh kiếm trong tay cậu bắt đầu cháy lên, những dải lửa dài màu da cam cuồn cuộn bốc lên khỏi lưỡi kiếm. Luồng điện của cậu bắt đầu nổ lách tách màu vàng ánh kim rất hòa hợp, tràn ngập bầu khí là nùi hương cam thơm ngát.


      Bất ngờ, Disir trượt khỏi lưng con quỷ, lung linh biến trở lại thành áo giáp bằng vòng xích trắng trong chớp mắt trước khi chân chạm đất. vòng qua Josh, nacute;t mặt ả bọc trong cái mặt nạ xấu xí và hung tợn. “Mi là cái thứ quấy rầy, thằng kia,” ả gầm lên bằng thứ tiếng khó hiểu. Giơ thanh kiếm rộng bản lên bằng cả hai bàn tay, ả buông mình về phía Josh. “Chuyện này chỉ mất chốc lát thôi.”






      CHƯƠNG 39


      Những đám sương mù khổng lồ cuộn tròn bao quát khắp vịnh San Francisco.


      Perenelle Flamel khoanh tay ngang ngực và nhìn chăm chăm vào bầu trời đêm đầy những con chim. đàn rất đông đúc chao liệng bốc lên khỏi thành phố, tụ tập thành đám mây chuyển động đặc kịt, và rồi, hệt như những vòng xoắn của lọ mực bị đánh đổ, bầy chim tách thành ba luồng bắt đầu lên đường băng ngang vịnh, hướng thẳng về hòn đảo. Và bà biết rằng đâu đó giữa bầy đàn khổng lồ ấy là Nữ thần Quạ. Morrigan đến Alcatraz.


      Perenelle đứng giữa tàn tích của đám cháy trong nhà người cai ngục, nơi cuối cùng bà trốn thoát được những đống nhện lúc nhúc. Dù bị cháy từ hơn ba thập kỷ trước, bà vẫn có thể ngửi thấy mùi thoang thoảng của gỗ cháy thành than, vữa hồ nứt vỡ và ống dẫn nóng chảy quanh quẫn trong khí. Nữ Phù thủy biết rằng nếu bà hạ thấp những vũ khí phòng thủ và tập trung, bà có thể nghe những tiếng của những viên cai ngục và gia đình của họ qua nhiều năm cư ngụ.


      Che đôi mắt xanh nhạt của mình và nheo mắt nhìn cách khó khăn, Perenelle tập trungào những con chim tiến đến gần, cố phân biệt chúng với bóng đêm và nhận ra bà còn được vỏn vẹn bao nhiêu thời gian trước khi chúng đến. Bầy chim rất đông, và sương mù dày đặc khiến thể nào đoán được kích thước hoặc khoảng cách. Nhưng bà đoán có lẽ bà còn mười hay mười lăm phút trước khi chúng đến hòn đảo. Bà đưa ngón tay út và ngón tay cái lên gần nhau. tia lửa nổ lách tách giữa chúng. Perenelle gật gù. Năng lượng của bà trở lại, tuy chưa đủ. Bây giờ chúng tiếp tục mạnh hơn khi bà rời xa được con nhân sư, nhưng luồng điện của bà được nạp vào ban đêm lại chậm hơn. Bà cũng biết rằng bà vẫn còn cách gì mạnh đủ để đánh bại Morrigan và các con thú cưng của mụ ta.


      Nhưng điều đó có nghĩa bà có khả năng tự vệ; cả cuộc đời nghiên cứu dạy bà nhiều điều hữu ích.


      Nữ Phù thủy cảm thấy luồng gió lạnh buốt làm mái tóc dài của bà gợn lên trong tích tắc trước khi hồn ma của Juan Manuel de Ayala lung linh thành người hữu bên cạnh bà. Hồn ma lơ lửng trong trung, lấy chất liệu và độ từ đám phân tử bụi và nước đọng thành giọt trong lớp sương tụ lại. Cũng như những hồn ma khác bà từng gặp, ông ta mặc bộ quần áo mà ông cảm thấy thoải mái nhất khi ông còn sống: chiếc áo sơ mi trắng rộng bằng vải lanh bỏ vào trong chiếc quần dài đến đầu gối. Đôi chân ông thót lại ngay từ phần dưới đầu gối, và, như nhiều linh hồn khác, ông có bàn chân. Lúc còn sống, hiếm khi người ta cúi nhìn xuống chân mình. “Bà có thấy đây từng là nơi xinh đẹp nhất trái đất này ?” ông hỏi,ắt phẳng lì ướt lấp nhấp dán vào thành phố San Francisco.


      “Giờ vẫn vậy,” bà, quay người nhìn xuyên qua vịnh nơi thành phố lấp lánh với vô số những ngọn đèn tí xíu nhấp nháy nhấp nháy. “ nhiều năm nay tôi và Nicholas gọi đó là mái nhà.”


      “Ồ, phải là thành phố này!” de Ayala cách thô bạo.


      Perenelle liếc xéo sang hồn ma. “Ông muốn về cái gì?” bà hỏi. “Trông nó đẹp.”


      có lần tôi đứng ở đây, gần ngay đứng chỗ này, và ngắm nhìn có lẽ đến cả ngàn ngọn lửa cháy bờ biển. Mỗi ngọn lửa đại diện cho gia đình. lần tôi đến quen biết tất cả bọn họ.” Gương mặt dài của người Tây Ban Nha nhăn nhó có lẽ vì đau đớn. “Họ dạy tôi về đất liền, và về nơi này, cho tôi nghe về các vị thần các sinh vật siêu nhiên của họ. Tôi nghĩ đó chính là những người trói buộc tôi vào mảnh đất này. Tất cả những gì tôi nhìn thấy bây giờ là ánh đèn; tôi thể nhìn thấy các vì sao, tôi thể nhìn thấy những bộ tộc hoặc con người riêng lẻ quay quần quanh những ngọn lửa của họ. Nơi chốn tôi từng quý nay đâu rồi?”


      Perenelle hướng đầu vía ngọn đèn xa xa.


      “Vẫn ở đó. Chỉ có điều lớn hơn thôi.”


      “Nó thay đổi còn nhận ra nữa,” de Ayala , “và phải để tốt hơn.”


      “Tôi cũng từng nhìn thế giới này thay đổi, Juan.” Perenelle rất đổi nhàng. “Nhưng tôi thích tin rằng nó thay đổi để trở nên tốt hơn. Tôi còn lớn tuổi hơn ông. Tôi sinh ra vào thời kỳ khi mà bệnh nhức răng thôi cũng có thể giết chết ông, khi cuộc sống ngắn ngủi và tàn bạo, và cái chết thường rất đau đớn. Khoảng cùng thời với lúc ông khám phá ra hòn đảo này, tuổi thọ của mỗi người trưởng thành mạnh khỏe nhiều hơn ba mươi lăm năm. Bây giờ gấp đôi con số đó. Nhức răng còn giết chết được ai nữa—ồ, phải lúc nào cũng vậy,” bà thêm và cười lớn. Đưa Nicholas đến nha sĩ trong thực tế là việc thể. “Con người có những cải tiến đáng kinh ngạc trong vài năm nay; họ tạo ra những điều kỳ diệu.”


      De Ayala thả mình loanh quanh ròi lởn vởn ngay trước mặt bà. “Và rằng vào việc hối hả tạo ra những điều kỳ diệu, họ bỏ qua những điều kỳ diệu khắp nơi chung quanh mình, bỏ qua những điều bí , những nét đẹp. Những chuyện thần thoại và huyền thoại cùng với họ mà nhận thấy, chúng bị bỏ mặc, được công nhận. phải l&uào điều đó cũng như vậy.”


      “Đúng, phải như vậy,” Perenelle tán thành cách buồn bã. Bà nhìn qua vịnh. Thành phố nhanh chóng biến mất trong sương mù, những ánh đèn mang vẻ siêu trần và đầy ma thuật. dễ chịu khi lúc này lại được nhìn thấy những gì chắc hẳn cũng giống ngày xưa… và trông ra sao nếu các Elder Đen tối giành lại trái đất này. Nhiều kỷ nguyên trong quá khứ, loài người nhận ra rằng thực có các tạo vật và giống loài khác—Ma cà rồng, Ma biến hình, Người khổng lồ—sống trong những vùng bóng tối. Đôi khi những loài này mạnh như những vị thần sống trong lòng núi hoặc sâu thẳm trong những khu rừng thể qua được. Có những con ma ăn xác thối dưới lòng đất, những con ma sói rong chơi trong rừng, và có những sinh vật xấu xa gấp nhiều lần hơn những con quỷ khổng lồ dưới chân cầu. Khi những du khách từ những miền đất xa lạ trở về, mang theo những câu chuyện về ma quỷ và các sinh vật họ gặp, những điều kỳ diệu họ nhìn thấy, ai nghi ngờ họ cả. Ngày nay, thậm chí với những tấm ảnh, những đoạn phim hoặc lời tường thuật về những chuyện lạ thường hay thuộc về thế giới bên kia, dù được chứng kiến tận mắt, người ta vẫn nghi ngờ—gạt bỏ như thể đó là trò lừa. ”


      “Và bây giờ trong những sinh vật thần kỳ khủng khiếp nhất đến với hòn đảo của tôi,” Juan buồn buồn . “Tôi có thể cảm nhận nó đên gần. Ai vậy?”


      Morrigan, Nữ thần Quạ.”


      Juan quay sang Perenelle. “tôi có nghe về bà ta; vài phù thủy người Ireland và Scotland trong đoàn của tôi rất sợ bà ta. Bà ta đến đây vì bà à?”


      “Đúng.” Nữ Phù thủy cười cay nghiệt.


      “Bà ta làm gì?”


      Perenelle nghiêng đầu, vẻ như xem xét. “Ồ, chúng cố bắt bỏ tù tôi. Việc đó thất bại. Tôi hình dung cuối cùng những chủ nhân của Dee phê chuẩn giải pháp lâu dài hơn.” Bà cười lớn, giọng rung rung. “Tôi từng trong những tình thế ngặt nghèo hơn…,” giọng bà vỡ ra và nuốt nước bọt cách khó khăn và nuốt lần nữa. “Nhưng lúc nào tôi cũng có Nicholas bên cạnh. Cùng nhau chúng tôi bất khả chiến bại. Ước gì bây giờ có ông ấy ở đây với tôi.” Bà hít hơi dài, giữ vững hơi thở và giơ cả hai bàn tay ra trước mặt bà. Những cuộn khói từ luồng điện trắng tinh như nước đá của bà xoắn vặn ra khỏi đầu mấy ngón tay. “Nhưng tôi là người bất tử Perenelle Flamel, và tôi bị đánh bại mà chiến đấu.”


      “Hãy xem tôi có thể giúp bà bằng cách nào?” de Ayala


      “Ông làm cho tôi như vậy là đủ rồi. Bởi nhờ ông tôi mới trốn thoát được con Nhân sư đó.”


      “Đây là hòn đảo của tôi. Và bây giờ bà ở dưới bảo vệ của tôi.” Ông cười rầu rĩ. “Tuy nhiên, tôi là những con chim có sợ mấy tiếng cửa sập đó . Và thứ tôi có thể làm nhiều lắm.”


      Perenelle cẩn thận rón rén từng bước từ bên này sang qua bên kia ngôi nhà đổ nát. Đứng vào trong những ô cửa sổ hình tam giác, bà chăm chăm nhìn lui lại nhà tù. Bây giờ màn đêm buông xuống, hình dáng nó in lờ mờ và báo hiệu điềm gở nền trời tím. Bà đánh giá tình thế của mình: bà bị giam hòn đảo nhung nhúc những con nhện, có con nhân sư thơ thẩn tự do trong hàng lang bên dưới, và những cây xà lim đầy những sinh vật từ những vùng thần thoại đen tối nhất mà bà từng chạm trán. Thêm vào đó năng lượng của bà giảm xuống cách thể tin được và Morrigan tới. Bà bảo với de Ayala là bà từng ở trong nhiều tình thế hiểm nghèo hơn, nhưng ngay lúc này bà thể nhớ tình huống nào.


      Hồn ma ra bên cạnh Perenelle, đường nét của nó làm cho hình ảnh ngôi nhà phía sau méo mó vặn vẹo. “Tôi có thể làm gì giúp bà?”


      “Ông biết về hòn đảo này cỡ” bà hỏi.


      “A ha! Tôi biết đến từng xen-ti-met . Tôi biết những nơi bí mật, những đường hầm do những tù nhân đào dang dở, những hành lang được giấu kín, những căn phòng bị nít lại, những hang động của những người da đỏ khoét sâu vào bên dưới lớp đá. Tôi có thể giấu bà và bao giờ có ai có thể tìm ra bà.”


      “Morrigan rất có tài xoay sở… và rồi còn có những con nhện. Chúng tìm thấy tôi.”


      Hồn ma trồi lên lòng vòng rồi lại đặt mình ngay trước mặt bà. Chỉ có đôi mắt ông ấy— màu nâu đen thẫm—là người ta có thể nhìn thấy được trong màn đêm. “Ồ, những con nhện đâu phải nằm dưới kiểm soát của Dee.”


      Perenelle ngạc nhiên lùi lại bước. “ phải à?”


      “Chúng chỉ mới bắt đầu xuất khoảng hai tuần nay thôi. Tôi bắt đầu để ý thấy những tấm mạng giăng khắp các cửa ra vào, phủ lên các cầu thang. Cứ mỗi buổi sáng, lại càng có nhiều những con nhện nữa. Chúng lơ lửng trong gió, được những sợi tơ mang . Rồi có những tên canh gác rất giống con người xuất hòn đảo….. nhưng chúng phải là con người,” ông vội thêm. “Những sinh vật có khuôn mặt trống trơn kinh khủng.”


      “Homunculi,” Perenelle mà rung mình. “Những sinh vật Dee nuôi trong những bể chứa mỡ sôi sùng sục. Chuyện gì xảy ra với chúng?”


      “Chúng được giao nhiệm vụ quét sạch các mạng nhện, giữ cho mấy cái cửa sạch . con lỡ sẩy chân ngã vào tấm mạng,” de Ayala . nụ cười thoáng qua làm hàm răng ông ra mờ mờ. “Tất cả những gì còn lại là những mảnh áo quần tơi tả. Thậm chí xương cũng còn,” ông với bà bằng tiếng thào đầy kinh hãi.


      “Đó là bởi vì Homunculi có xương,” bà lơ đãng . “Vậy cái gì gọi những con nhện đó tới đây?”


      De Ayala quay nhìn khối nhà tù. “Tôi …”


      “Tôi tưởng ông biết tất cả về hòn đảo này tức là phải biết những cái đó chứ?” Perenelle vừa vừa mỉm cười.


      “Tận bên dưới khối nhà tù, những con sóng vỗ ngày này qua ngày kia khoét sâu tuốt vào nền đá móng dãy những hang động bí mật dưới lòng đất. Tôi tin rằng những người ngụ cư đầu tiên của hòn đảo này dùng chúng làm kho chứa. Khoảng tháng t người thó….”


      “Dee?”


      “Đúng, Dee, mang thứ gì đó đến hòn đảo trong đêm khuya thanh vắng, và cho hết vào trong những cái hang này, rồi bịt kín toàn bộ khu vực bằng những con dấu và Thần chú Canh giữ đầy ma thuật. Thậm chí cả tôi cũng thể xâm nhập vào tầng tầng lớp lớp bảo vệ này được. Nhưng tôi đoan chắc rằng cái thứ bị nhốt trong những hang động đó kéo những con nhện này đến hòn đảo.”


      “Ông có thể đưa tôi đến những hang động đó được ?” Perenelle vội vã cầu. Bà có thể nghe tiếng soàn soạt huyên náo của hàng ngàn cánh chim, kéo đến gần hơn bao giờ hết.


      ,” de Ayala ngay. “Những hành lang dày đặc những con nhện, và ai biết Dee còn nhốt thứ gì trong những cạm bẫy khác nữa.”


      Perenelle tự động giơ tay chạm vào cánh tay người thủy thủ, nhưng bàn tay bà lại xuyên qua ông để lại hình xoáy những giọt nước liền sau tay bà. “Nếu Dee chôn cái gì đó trong hầm tù kín của Alcatraz, và rồi bảo vệ nó bằng ma thuật hiệu nghiệm đến nỗi ngay cả linh hồn mong manh cũng thể ngang qua, chúng ta cần phải biết đó là thứ gì.” Bà mỉm cười. “Ông bao giờ nghe câu ‘ của kẻ thù là bạn’ chưa?”


      “Chưa, nhưng câu ‘kẻ dại khờ lao đầu vào ngõ cụt’ tôi có nghe.”


      “Nào, thôi—nhanh lên, trước khi Morrigan đến. Hãy đưa tôi trở vào lại Alcatraz.”






      CHƯƠNG 40


      Thanh kiếm của Disir lóe lên về phía đầu Josh.


      Mọi việc xảy ra quá nhanh, cậu có thời gian để sợ hãi. Josh thấy cử động đó thoáng qua và phản xạ theo bản năng, cậu giơ thanh kiếm Clarent lên và quay vòng tròn, giữ cho nó nằm ngang đầu cậu. Thanh kiếm rộng bản đánh vào lưỡi kiếm đá ngắn ngủn và rít lên xé tai cùng với tiếng nổ phát ra những chùm tia lửa. Chúng trút xuống như mưa tóc Josh, chỗ nào chúng chạm vào mặt cậu làm nhói lên. Cơn đau làm cậu nổi giận, nhưng sức mạnh của cú nổ này làm cho cậu khuỵu đầu gối xuống, và rồi Disir bước lùi và đưa vũ khí của ả chém quét vòng rộng. Nó rít lên như thể lạng xuyên khí thẳng về phía cậu… và bằng cảm giác kinh người nơi lõm thượng vị của Josh biết rằng cậu thể nào tránh được.


      Clarent rung lên trong lòng bàn tay Josh.


      Co giật.


      Và chuyển động.


      làn sóng hơi nóng ngứa ran bắn vào bàn tay cậu, làm cho cậuửng sốt, cơn bộc phát thít chặt những ngón tay cậu quanh chuôi kiếm. Rồi thanh kiếm thình lình xốc mạnh, bắn vọt ra gặp ngay lưỡi kiếm kim loại, hất nó qua bên đúng vào giây cuối cùng bằng tiếng nổ phát ra những chùm tia lửa khác nữa.


      Đôi mắt xanh mở lớn bàng hoàng, Disir nhảy . “ con người nào có được kỹ năng như vậy,” ả kinh ngạc thốt lên, tiếng ả khó khăn bật lên khỏi lời thào. “Mi là ai?”


      Josh đứng vững, hoàn toàn nắm chắc những gì vừa xảy ra, mà chỉ biết điều gì đó là những gì thanh kiếm làm; nó cứu cậu. Đôi mắt cậu chuyển qua trinh nữ chiến binh sợ hãi, lung linh giữa khuôn mặt đeo mặt nạ thanh kiếm bạc lấp lánh của ả. Cậu cầm thanh Clarent trước người cậu thăng bằng cả hai tay, cố bắt chước tư thế cậu thấy Joan và Scatty dùng, nhưng thanh kiếm cứ chuyển động trong bàn tay nắm chặt của cậu, chuyển động và tư ý rung lên. “Tôi là Josh Newman,” cậu đơn giản.


      “Chưa bao giờ nghe đến mi,” cách thô bạo. Ả phóng cái nhìn rất nhanh ra sau lưng đến nơi Nidhogg bò trườn xuống nước. Cái đuôi của nó bị kết thành lớp vỏ cứng bằng đá đen true quá nặng nề đến nỗi nó gần như thể cử động nổi.


      “Có lẽ chưa bao giờ nghe đến tôi,” Josh , “nhưng cái này”—cậu chĩa thanh kiếm lên”là Clarent.” Cậu nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lơ nhạt mở khá lớn của . “Và tôi nhận ra là từng nghe đến nó!”


      Quay tròn thanh kiếm của mình cách lỏng lẻo chỉ bằng tay, Disir bắt đầu lách lên quanh mình Josh. Cậu xoay người để đối mặt với ả. Cậu biết làm gì—làm như vậy để lưng cậu nhích đến con quỷ—nhưng cậu biết làm sao để ngăn cho điều đó xảy ra. Khi lưng cậu gần như chạm vào lớp da cứng như đá của Nidhogg, Disir ngừng lại.


      “Khi nào nằm trong tay bậc thầy, thanh kiếm mới thực nguy hiểm,” Disir .


      “Tôi phải là bậc thầy kiếm thuật,” Josh lớn, vui mừng vì tiếng cậu hề run. “Nhưng tôi cần phải vậy. Scathach bảo tôi rằng thứ vũ khí này thực có thể giết chết chị ấy. Tôi hiểu ý chị ấy muốn gì, nhưng bây giờ hiểu. Và nếu tôi có thể giết chết chị ấy tôi nghĩ tôi cũng có thể làm như vậy với .” Cậu thình lình chĩa mạnh ngón tay cái qua vai mình. “Cứ nhìn những gì tôi làm cho con quỷ này chỉ bằng nhát thôi. Tất cả những gì tôi phải làm là làm cho bị xước bằng thanh kiếm này.” Thanh kiếm rung lên trong tay cậu, kêu o o gần như lời tán thành.


      “Thậm chí đến gần ta thôi mi còn thể nữa” Disir vừa nhạo báng, vừa bổ nhào xuống, thanh kiếm rộng bản đan trước ả như kiểu thôi miên. Đột nhiên ả tấn công bằng những cú bất ngờ nhanh cực kỳ.


      Josh bắt kịp cả hơi thở của cậu. Cậu chặn được ba trong số chúng. Thanh Clarent chuyển động chặn đứng từng cú đánh, thanh kiếm kim loại của Disir dội vào thanh kiếm đá của cậu vỡ ra như trận mưa đầy những tia lửa, mỗi cú đẩy cậu lùi lại, sức mạnh lan khắp người làm toàn than cậu rung lên. Disir đúng là quá nhanh. Cú đánh mạnh tiếp theo trúng vào cánh tay trần của cậu khúc giữa vai và cùi chỏ. Clarent thúc vào thanh kiếm đó ngay trong lần cuối cùng, nên chỉ có cạnh cùn của thanh kiếm, thay vì cạnh lưỡi sắt như dao lam, đâm vào cậu. Ngay lập tức, toàn cánh tay cậu tê liệt từ vài đến đầu mấy ngón tay và cậu cảm thấy cơn buồn nôn bất ngờ vì đau đớn, nỗi sợ hãi và chợt nhận ra rằng cậu sắp chết. Thanh Clarent rơi khỏi bàn tay nắm chặt của cậu và kêu loảng xoảng mặt đất.


      Khi mỉm cười, Josh nhìn thấy hàm răng của ả nhọn như mũi kim mỏng manh. “Dễ. Quá dễ. thanh kiếm huyền thoại làm mi trở thành nhà kiếm thuật.” Nhấc thanh kiếm bản rộng lên, ả tiến thẳng đến cậu con trai, đẩy cậu thẳng vào da thịt cứng như đá của Nidhogg, Josh nhắm tịt mắt lại khi ả giơ cao tay và thét lên tiếng kêu trong các cuộc chiến ghê tởm. “Odin!”


      “Sophie,” cậu thào.





      Cách hai khối nhà, bị kẹt cứng trong dòng xe cộ bất động, Sophie Newman ngồi dựng thẳng lên trong ghế sau của chiếc xe, cảm giác như dạ dày bất ngờ bị đánh khuấy lên vì sợ hãi dáng xuống lồng ngực bé, làm trái tim đập thình thịch như điên loạn.


      Nicholas quay qua và nắm bàn tay . “ cho chú nghe!”


      Nước mắt lưng tròng. “Josh,” bé hổn hển, gần như thể được vì cổ họng tắc nghẹn. “Josh gặp nguy hiểm kinh khủng.” Chiếc xe hơi nặng trịch mùi vanilla từ luồng điện bé tiết ra. Những tia lửa tí xíu nhảy múa đôi tóc vàng, nổ lốp bốp như giấy bóng kính. “Chúng ta phải đến với nó!”


      “Chúng ta đâu được cả,” Joan đầy cay đắng. Xe cộ con đường hẹp đứng yên hề nhúc nhích.


      cơn buốt lạnh xâm chiếm dạ dày Sophie: chính là nỗi sợ hãi đến thất kinh rằng em trai sắp chết.


      “Vỉa hè,” Nicholas kiên quyết. “ lên đó .”


      “Nhưng những khách bộ hành—”


      “Có thể tránh khỏi đư̖ đó. Bấm kèn .” Ông ngoái người ra sau với Sophie. “Chúng ta còn ít phút nữa là xong ngay,” ông trong khi Joan lao vọt chiếc xe tuốt lên vệ đường và gầm rú chạy vỉa hè, tiếng kèn kêu ré ré xót cả ruột.


      trễ mất thôi. Chú phải làm gì chứ?” Sophie hằn học trong cơn tuyệt vọng. “ có gì hết sao?”


      Trông già và mệt mỏi, những đường kẻ hằn sâu vào trán và quanh đôi mắt ông, Nicholas Flamel lắc đầu khốn khổ. “Chú thể làm được gì nữa rồi,” ông thú nhận.


      Lửa văng tung tóe, nổ lốp bốp, lửa phụt ra lách tách, tấm lửa màu vàng hôi hám nhấp nháy ra giữa Josh và Disir. Sức nóng quá gay gắt quăng cậu trở lên những bàn chân đầy móng vuốt của Nidhogg và nướng tóc cậu xoăn giòn, làm cháy xém lông mi và lông mày cậu. Disir cũng loạng choạng lùi lại, những ngọn lửa kinh tởm làm mù mắt ả ta.


      “Josh!”


      Có ai đó gọi tên cậu, nhưng những ngọn lửa kinh khủng gầm rú ngay trước mặt cậu.


      Ngọn lửa ở quá gần đánh thức con quỷ. Nó bước run rẩy, chuyển động của cẳng chân nó xô Josh thẳng lên bàn chân trước và đầu gối của nó, ném tung cậu vào những ngọn lửa vô cùng nguy hiểm…. chết ngay lập tức nếu chúng bùng lên. Cậu va phải nền đất cứng, bàn tay đầu gối đau nhói vì cú đụng chạm đó. Mùi trứng thối hãi hung và nước mắt nước mũi cậu tuôn ra, nhưng qua màn nước mắt, cậu nhìn thấy thanh Clarent và cố nhoài người vươn tới chụp lấy nó đúng lúc đó lại có ai kêu lớn.


      “Josh!”


      Disir quăng mình vào Josh lần nữa, thanh kiếm chọc vào cậu. ngọn giáo bằng lửa màu vàng đánh bật , làm nổ tung chiếc áo giáp bằng vòng xích của ả. Ngay tức khắc chúng bị rỉ và rơi hết ra. Và rồi bức tường lửa khác lại gầm rú ra giữa cậu con trai và chiến binh.


      “Josh.” bàn tay thả lên vai cậu và cậu nhảy dựng lên, la hét vì hoảng kinh và vì cơn đau đầu vai thâm tím. Cậu nhìn lên và bắt gặp Tiến sĩ Dee cúi xuống đầu cậu.


      Làn khói vàng dơ bẩn chảy giọt từ hai bàn tay của Pháp sư mang đôi găng tay xám xịt gần như te tua, và bộ đồ lớn từng rất lịch thiệp của bây giờ là mớ rách rưới. Dee mỉm cười tử tế. “Tốt nhất là chúng ta rời khỏi đây ngay.” khoa tay về phía những ngọn lửa. “Tôi thể giữ thế này mãi được.” Ngay cả khi , lưỡi kiếm của Disir vẫn chém đại qua lửa, những ngọn lửa cuộn quanh thanh kim loại khi nó tìm thấy mục tiêu. Dee xốc Josh đứng dậy và kéo lê cậu đằng sau .


      “Chờ ,” Josh khản đặc, tiếng trau chuốt kết hợp giữa n sợ hãi và khói ám. “Scatty…” Cậu ho khùng khục và cố lại. “Scatty bị bắt…”


      “Trốn thoát rồi,” Dee ngay, đặt cánh tay vòng qua vai cậu con trai, đỡ cậu, dìu cậu tiến về chiếc xe cảnh sát.


      “Trốn thoát?” Josh lầm bầm, bối rối.


      “Nidhogg lơ là quắp chặt ấy khi tôi tạo ra tấm màn lửa giữa cậu và Disir. Tôi nhìn thấy ta lăn khỏi mấy cái vuốt, nhảy chân mình và phóng xuống bên tàu.”


      ấy chạy… ấy chạy thoát?” Chuyện này nghe đúng tí nào. Mới đây cậu còn nhìn thấy ấy mềm rũ, bất tỉnh. Cậu cố tập trung, nhưng đầu óc cậu nhảy lung tung, và da thịt mặt cậu cảm thấy căng tớn ra vì những ngọn lửa.


      “Ngay cả Nữ Chiến binh huyền thoại cũng thể chống cự lại Nidhogg. Những vị hung sống sót để tiếp tục chiến đấu bởi vì họ là những người biết khi nào nên bỏ chạy.”


      ấy bỏ tôi sao?”


      “Tôi đoán ấy thậm chí còn biết là cậu ở đó,” Dee vừa nhanh, vừa ấn bừa Josh vào băng ghế sau của chiếc xe cảnh sát đậu cách bừa bãi và chuồi người vào ngồi bên cạnh cậu. vỗ vào vai người tài xế tóc trắng. “ thôi.”


      Josh ngồi nhổm dậy. “Khoan… tôi đánh rơi Clarent mất rồi,” cậu .


      “Tin tôi ,” Dee , “cậu muốn quay lại vì nó đâu.” dựa né người ra sau để Josh có thể nhìn ra cửa sổ. Disir, chiếc áo giáp bằng vòng xích trắng của ả từng mới nguyên giờ treo lủng lẳng và những mảnh vụn mục nát quanh mình ả, sải bước xuyên qua những ngọn lửa nhuộm vàng khè. Ả bắt gặp cậu con trai ngồi đằng sau chiếc xe và phóng về phía nó, hét lớn bằng thứ ngôn ngữ thể hiểu được, như tiếng rú của những con sói.


      “Niccolo,” Dee nhanh. “ ả hơi bị khó chịu. chúng ta nên bây giờ, ngay bây giờ.”


      Josh nhìn Disir tiến đên gần mà quay nhìn người tài xế và cậu kinh hãi nhận ra rằng đó chính là người đàn ông cậu nhìn thấy nơi các bậc thang của Sacre-Coeur.


      Machiavelli vặn chìa khóa trong bộ đánh lửa dã man đến nỗi bộ khởi động rít chói tai. Chiếc xe tròng trành, giật mạnh thình lình về phía trước, rồi chết ngắc.


      “Ồ tuyệt ,” Dee lẩm bẩm. “Đúng là tuyệt .” Josh nhìn chằm chằm vào nhàPháp sư nhoài người ra ngoài cửa sổ, đưa tay lên miệng và thổi mạnh vào đó. khối cầu bằng khói màu vàng lăn từ lòng bàn tay ông ta và rơi đất. Nó nhảy lên hai lần như trái banh cao su, rồi nổ cao ngang đầu người ngay khi nó vừa đến chỗ Disir. Những sợi dây đủ màu dày đặc, dính nhớp nháp và cái thứ bẩn thủi dính chắc này bắn tung tóe khắp người Disir, rồi chảy giọt xuống thành những dải dài, dán ta vào đất. “Thứ này giữ được ta …,” Dee bắt đầu. Thanh kiếm rộng bản của Disir cắt lát xuyên qua sợi dây dễ dàng. “Hoặc cũng có thể là .”


      Qua cơn đau của mình, Josh nhận ra rằng Machiavelli cố gắng—và thất bại—để làm cho chiếc xe khởi động lại. “Để tôi,” cậu làu bàu, bò trườn qua lưng ghế khi Machiavelli trượt qua bên chỗ dành cho hành khách. Vai của cậu vẫn đau, nhưng tí ra cảm giác trở lại nơi các ngón tay cậu, và cậu nghĩ gì đến chuyện bị gãy. Cậu sắp sửa có vết thâm to tướng để thêm vào bộ sưu tập ngày càng lớn ra của cậu. Vặn chìa khóa trong bộ đánh lửa, cậu nhấn ga và đồng thời cho chiếc xe chạy lùi đúng ngay lúc Disir tới bên nó. Cậu chợt cám tạ vì học cách điều khiển cần số chiếc Volvo cũ kỷ mòn vẹt của ba cậu. Người chiến binh vụt thanh kiếm đánh vào cửa sổ, đâm thủng kim loại, mũi kiếm cách chân Josh có vài phân. Khi chiếc xe rít lên đằng sau, Disir đặt chân vững và giữ chặt thanh kiếm của ả bằng cả hai tay. Lưỡi kiếm xé đường xuyên thẳng qua cửa trúng vào cánh quạt phía động cơ, bóc lớp kim loại ra như thể nó bằng giấy. Nó cũng xé cái bánh xe bên phía tài xế thành từnh, rồi tiếng nổ lớn, thanh nghe đùng đục bưng bưng trong tai.


      “Cứ !” Dee hét lên.


      “Tôi ngừng lại đâu,” Josh hứa.


      Với động cơ rền rĩ phản đối và bánh trước lòng thòng hết hơi, Josh lao vút ra khỏi khu đất bên rìa bến cảng…


      … vừa đúng lúc ở đầu bên kia khu đất, Joan bẻ tay lái cho chiếc Citroen hơi bị trầy xước chút ít rẽ vào.


      Joan đạp thắng và chiếc xe kêu rin rít cho tới khi dừng hẳn những phiến đá ướt sương sơm. Sophie, Nicholas và Joan bối rối nhìn chăm chú chiếc xe cảnh sát móp méo mà Josh lùi với tốc độ rất cao để tránh xa Nidhogg và Disir. Họ thể thấy Dee và Machiavelli trong chiếc xe đó khi cậu biểu diễn tiết mục thắng tay rất vụng về và tăng tốc rời khỏi bãi đậu xe.


      Chỉ trong tích tắc, Disir đứng khu đất rìa bến cảng, trông như bị lạc đường ngơ ngác. Rồi ả bắt gặp những người mới đến, quay người, ả phóng đến họ, thanh kiếm giơ cao khỏi đầu, kêu rít lên tiếng hét man rợ thường chỉ được dùng trong những cuộc chiến tranh.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 41


      “Tôi lo vụ này,” Joan , vẻ như khá hài lòng trước viễn cảnh đó. chạm vào tay áo Flamel hất đầu về phía Nữ Chiến binh vẫn bị quắp chặt vuốt của Nidhogg. “Đến với Scathach .” Con quỷ giờ chỉ còn cách bờ cảng chưa đầy hai mét và nhúc nhích được đến bờ tức là đến với an toàn của làn nước.


      người Pháp nhắn chộp lấy thanh kiếm và nhảy ra khỏi xe.


      “Nhiều người có kiếm quá ha,” Disir bạt thanh kiếm về phía người .


      phải người nào cũng có đâu,” Joan , gạt thứ vũ khí đó qua bên dễ dàng, thanh kiếm của khi rút ra đụng mạnh vào vai Disir làm những mảnh còn lại của chiếc áo giáp hoen gỉ kêu xủng xẻng. “Tôi là Joan Arc!” Thanh kiếm dài trong bàn tay xoay tít và xoắn vặn, tạo thành bánh xe thép quay tròn nhắm vào lưng Disir với sức tấn công dữ tợn. “Tôi là Trinh nữ của Orleans.”


      Sophie và Nicholas thận trọng di chuyển về phía Nidhogg. Sophie để ý thấy toàn bộ cái đuôi của nó bị lớp đá đen thui nặng trịch phủ lên, bây giờ lớp đá đó bắt đầu bò trườn lên lưng nó và lan xuống chân sau. Sức nặng của cái đuôi đá như neo níu chặt sinh vật đó xuống đất, và Sophie nhìn thấy những cơ bắp khổng lồ cuồn cuộn và gợn song khi nó giật người về phía mép nước. còn có thể nhìn thấy những vết mẻ như khía răng cưa sâu hoắm vỉa hè do móng vuốt và cái đuôi kéo lê của nó để lại.


      “Sophie,” Flamel hét lên, “chú cần giúp tay!”


      “Nhưng Josh…,” bé lân tiếng, tâm trí rối bời.


      “Josh rồi,” ông ngay. Ông nhào xuống giật lấy thanh Clarent lên khỏi đất, kinh ngạc kêu ré lên trước sức nóng của nó. Phóng tới trước, ông phạt thanh kiếm vào Nidhogg. Lưỡi kiếm nhảy bật lên chẳng ăn thua gì đối với lớp da bọc đá của nó. “Sophie, giúp chú gỡ Scatty ra cái rồi mình kiếm Josh sau. Dùng năng lượng của cháu ấy.”


      Nhà Giả kim chém mạnh vào Nidhogg lần nữa nhưng có chút tác dụng gì. Nỗi lo sợ tồi tệ nhất của ông thành thực: Dee đặt tay lên Josh rồi… và Josh giữ hai trang cuối của cuốn Codex. Nicholas ngoái nhìn lui, Sophie đứng yên, trông đầy khiếp hãi và hoàn toàn chết điếng.


      “Sophie! Giúp chú.”


      Sophie vâng lời giơ hai bàn tay lên, ấn ngón tay cái vào hình xăm của và cố gọi Pháp thuật Lửa. có gì xảy ra. thể nào tập trung được; quá lo lắng cho cậu em trai. Nó làm gì? Tại sao nó lại với Dee và Machiavelli? Trông cứ như bọn họ chúng ép buộc nó gì cả nó còn lái xe chở bọn chúng kia mà!


      “Sophie!” Nicholas gọi.


      Nhưng biết nó gặp nguy hiểm—nguy hiểm và rất kinh khủng. thấy được những cảm xúc sâu tận bên trong con người mình, cố nhận biết xem nó chỉ về điều gì. Bất cứ lúc nào Josh gặp cố, đều biết. Khi Josh suýt chết đuối gần bãi biển Pakala ở Kauai, giật mình thức dậy cảm thấy hụt hơi và thở hổn hển; khi cậu gãy xương sườn sân bóng đá ở Pittsburgh, ràng cảm thấy đau buốt bên hông trái, và cứ nhịp hít thở là chỗ đó lại đau nhói.


      “Sophie!”


      Chuyện gì xảy ra? Lúc này nó gặp nguy hiểm chết người… rồi tiếp tới nữa…?


      “Sophie!” Flamel gầm lên.


      “Dạ?” buột miệng, quay lên Nhà Giả kim. chợt cảm thấy thoáng giận dữ trong lòng; Josh đúng—từ đầu nó đúng. Đây là lỗi của Nhà Giả kim.


      “Sophie,” ông nhàng hơn. “Chú cần cháu giúp. Chú thể làm việc này mình được.”


      Sophie quay nhìn Nhà Giả kim. Ông cúi mình xuống đất. làn hơi nước màu xanh lục mát lạnh quyện lại quanh người ông. sợi dây thừng to bằng khói màu xanh ngọc lục bảo quấn quanh cái chân to tướng của Nidhogg và biến sâu vào lòng đất, như thể Flamel cố buột nó lại. sợi chảo khác, mỏng hơn, kém chắc chắn hơn sợi thứ nhất, quấn lỏng lẻo quanh cái chân sau của sinh vật đó. Nidhogg nhích lên chút nữa và sợi thừng màu xanh gãy đánh tanh tách cái rồi tan rã vào . ít bước nữa thôi, và nó mang theo Scathach—bạn —xuống lòng sông. Sophie để chuyện đó xảy ra.


      Nỗi sợ hãi và giận dữ giúp tập trung được. Khi ấn hình xăm xuống, những ngọn lửa vụt sáng từng ngón tay. vẩy ngọn lửa bạc lên lưng Nidhogg nhưng nhằm nhò gì. Rồi bắn những viên đá lửa xíu như mưa xuống con quỷ, nhưng dường như nó thèm đếm xỉa đến. Cứ tiếp tục dịch gần hơn nữa đến mép nước.


      Lửa có tác dụng, bé thử với gió xem sao. Nhưng những cơn lốc xoáy cỡ ném vào Nidhogg lại nẩy bật lên, còn sinh vật đó vẫn bình yên vô . Sục sạo trong ký ức của Bà Phù thủy, bé thử bí quyết của Hekate dùng để chống lại bộ tộc Mông Cổ. gọi gấp cơn gió buốt đem những mạt đá và bụi đất gây nhức nhối vào mắt Nidhogg. Sinh vật này chỉ nhấp nháy và trong giây, lớp mí mắt bảo vệ trượt xuống đôi mắt to lồ lộ.


      có gì được hết!” bé gào thét lên trong khi con quỷ kéo lê Scatty ngày càng gần đến bờ sông. “ có gì được hết!”


      Thanh kiếm của Disir chém xoạc ra. Joan chúi nhanh xuống và lưỡi kiếm nặng nề xé gió rít lên ngay đầu và lạng miếng vào chiếc Citroen, biến tấm kính chắn gió tan thành thứ bột màu trắng mịn, những chiếc cần gạt nước lỏng chỏng thò ra.


      Joan điên tiết; rất quý chiếc Charleston 2CV này. Francis muốn mua cho chiếc xe mới nhân ngày sinh nhật , hồi tháng Giêng. ma cho đống catalo đủ loại xe hơi hào nhoáng và bảo chọn chiếc. xua hết mấy cuốn catalo sang bên và bảo ấy rằng luôn muốn chiếc xe hơi cổ điển kiểu Pháp. ấy tìm kiếm khắp châu Âu kiểu mẫu hoàn hảo và rồi phải mất nhiều tiền để nhờ khôi phục lại mới tinh khôi theo nguyên mẫu gốc. Khi tặng cho , chiếc xe được thắt ba dải băng lớn màu xanh lơ, trắng và đỏ.


      Từ tay Disir cú chém chệch hướng khác rạch thêm đường mui xe, chỗ rạch xé toang hoác và rồi cú khác nữa chém bay cái đèn pha tròn xinh được uốn cong như con mắt nằm ngang bánh xe trước phía bên phải. Cái đèn văng ra nảy tưng lên và vỡ tan tành.


      “Mi có biết,” Joan hỏi, đôi mắt to tối sầm lại vì giận điên, bồi thêm đợt tấn công khác vào Disir, mỗi từ ra kèm với nhát kiếm như quai búa giáng xuống, “tìm được những phụ tùng nguyên mẫu cho chiếc xe này khó khăn đến mức nào ?”


      Disir ngã ngửa, liều lĩnh cố bảo vệ mình khỏi lưỡi kiếm xoay tít của Joan, những mảnh áo giáp vòng xích mục rửa văng ra khi thanh kiếm của người Pháp nhắn đánh tới càng lúc càng gần hơn. Ả ta cứ cố đỡ bằng đủ các kiểu khác nhau để tự bảo vệ mình, nhưng cách gì chống lại cuộc công kích dữ dội này.


      “Mi để ý thấy,” Joan tiếp, đẩy chiến binh lùi về phía dòng sông, “là ta kiểu đánh nhất định nào. Được như vậy vì người chiên binh vĩ đại nhất trong các chiến binh huấn luyện ta. Ta được rèn bởi Scathach Bóng tối.”


      “Mi có thể đánh thắng ta,” Disir rắn rỏi, “ nhưng các chị của ta trả thù cho cái chết của ta.”


      “Các chị của mi,” Joan , với nhát chém thẳng tay cuối cùng cắt thanh kiếm của Disir kêu tách tiếng gãy làm hai. “Có phải chúng là hai Valkyrie giờ bị đông cứng trong khối băng dành riêng cho chúng nhỉ?”


      Disir trượt chân, đu đưa bờ vách dựng đứng dọc theo dòng sông. “ thể. Chúng ta bao giờ bị đánh bại.”


      “Mọi người đều có thể bị đánh bại.” Thanh kiếm của Joan đâm vào chiếc nón sắt của Disir kêu lanh lảnh, làm ả ta choáng váng. Rồi Joan phóng mình tới trước, vai giáng mạnh vào ngực Disir đu đưa, hất văng ả bật ngửa rơi thẳng xuống dòng sông Seine. “Chỉ có tư tưởng là bất tử,” thầm.


      Vẫn nắm chặt nữa thanh kiếm gãy còn lại, Valkyrie biến mất vào dòng sông tăm tối, cột nước lớn bắn tóe lên đến bờ làm Joan ướt sạch từ đầu đến chân.


      Sophie bối rối. Pháp thuật của thể chống lại Nidhogg… Nhưng Josh sao…? Nó đâu có chút năng lượng gì.


      Thanh kiếm: nó có thanh kiếm.


      Sophie giật lấy thanh kiêm trong tay Flamel. Và ngay lập tức luồng điện của bật sống dậy, phát ra tia lửa nổ lốp bốp, những dòng ánh sáng băng giá giăng khắp người . bé nghe những cảm xúc dồn lên, những ý nghĩ bừa bộn xoáy tít, những ý nghĩ xấu xa, những ý nghĩ đen tối, những ký ức và cảm xúc của những người đàn ông và đàn bà từng mang thanh kiếm này qua mọi thời. Qua kinh tởm, định quăng thanh kiếm , nhưng biết có thể nó là cơ may duy nhất của Scatty. Cái đuôi của Nidhogg bị thương, như vậy hẳn là Josh chém vào đó. Nhưng nhìn thấy Nhà Giả kim chém mạnh vào lớp da dai nhách của nó rồi mà có kết quả gì đâu.


      Trừ phi…


      Phòng mình lên con quỷ, bé đâm ngập mũi nhọn của vũ khí này vào vai nó.


      Hiệu quả tức . Ngọn lửa màu đen ngả đỏ đốt cháy dọc chiều dài lưỡi kiếm, và lớp da con quỷ ngay tức khắc bắt đầu cứng lại. Luồng điện của Sophie chiếu sáng rức hơn bao giờ hết, và ngay lập tức não ngập tràn những hình ảnh thể tưởng tượng. Luồng điện của quá tải và chớp tắt nổ tung đánh bật và quăng chao liệng . hét lên tiếng thất thanh trước khi đâm sầm xuống tấm mui bằng vải bạt của chiếc Citroen, từ từ và nhàng xé toạc dọc theo đường nối và tự đặt mình gọn lỏn vào chỗ hành khách ở băng trước.


      Nidhogg đau đớn, mấy cái vuốt to tướng mở bung ra khi da thịt nó cứng lại.


      Joan Arc phóng ngang qua châ con quỷ, tóm lấy Scatty quanh thắt lưng và giật mạnh ra, quên rằng những bàn chân khổng lồ của nó giậm ầm ầm cách đầu chỉ vài xen-ti-mét.


      Nidhogg kêu rống lên, thanh làm hệ thống báo động tại nhà riêng kêu vang rền khắp thành phố. Mọi còi báo động xe hơi trong bãi đậu xe vụt sống dậy. Con thú dữ cố quay đầu, dõi theo Joan kéo lê Scatty , nhưng lớp thịt cổ xưa của nó hóa cứng thành đá đen trùi trũi. Miệng nó há ra, để lộ hàm răng hệt như hàng hàng lớp lớp những con dao găm.


      Bất ngờ, phần lớn của khu đất bên rìa bến cảng nứt ra; đá bị tán thành bụi, ép thành bột bên dưới sức nặng của sinh vật đó. Nidhogg nghiêng về phía trước và đổ ầm xuống ngang qua chiếc thuyền du lịch bỏ neo, đập nó vỡ đôi, biến mất trong dòng sông Seine trong tiếng nổ nước lớn làm dậy con song khổng lồ đổ ập xuống lòng sông.


      Nằm bờ rìa bến cảng, gần sát mép nước, bị thấm ướt, Scathach từ từ chếch choáng tỉnh dậy. “Tôi chưa hề cảm thấy tồi tệ thế này trong hàng mấy thế kỷ nay,” làu bàu, cố ngồi lên nhưng thể. Joan dựng dậy trong tư thế ngồi và giữ chặt . “Điều cuối cùng tôi nhớ…” đôi mắt màu xanh lục của vụt mở lớn. “Nidhogg…. Josh.”


      “Cậu ấy cố cứu đó,” Flamel , từ từ hướng lên Scatty và Joan. Ông ấy lấy được thanh Clarent ở khu đất bên rìa bến cảng. “Cậu ấy đâm vào Nidhogg làm c chậm lại nên chúng tôi mới kịp đến đây. Rồi Joan đánh nhau với Disir để cứu .”


      “Tất cả chúng tôi đều chiến đấu vì ,” Joan . vòng cánh tay mình quanh Sophie còn loạng choạng trong chiếc xe bị hỏng nặng, mình mẩy bầm tím và người đau nhừ, vết xước dài chạy dọc cẳng tay, còn lại hoàn toàn vô . “Cuối cùng Sophie đánh bại Nidhogg.”


      Nữ Chiến binh chầm chậm đứng lên, quay đầu bên này qua bên kia, vận động cơ cổ bị cứng ngắc. “Còn Josh?” vừa hỏi vừa nhìn quanh. Đôi mắt hốt hoảng mở lớn. “Josh đâu?”


      “Dee và Machiavelli giữ cậu ấy,” Flamel , khuôn mặt ông xám ngoét kiệt quệ. “Chúng tôi hiểu đầu đuôi thế nào.”


      “Bây giờ chúng ta phải đuổi theo bọn họ,” Sophie cách khẩn khoản.


      “Xe của chúng đủ khỏe, chúng thể xa được,” Flamel . Ông quay người nhìn chiếc Citroen. “Tôi e rằng chiếc xe của cũng méo mó hết rồi.”


      “Và tôi cưng chiếc xe đó biết bao nhiêu…” Josn làu


      “Phải ra khỏi đây thôi,” Scatty cách kiên quyết. “Chúng ta sắp bị cảnh sát tràn ngập ở đây bây giờ.”


      Và rồi, như con cá mập nhô lên khỏi những con sóng, Dagon nổi lên khỏi dòng sông Seine. Giận dữ vươn thẳng người lên khỏi mặt nước, bây giờ trông gã giống cá hơn giống người, những lớp mang mở ra cái cổ dài, mắt lồi ra, gã quặp chặt những cái móng ướt nhẹp quanh Scathach và kéo trở ngược lại con sông. “Rốt cuộc, Bóng tối. Rốt cuộc.”


      Chỉ vừa vặn chút nước văng tóe lên, cả hai biến mất tăm vào dòng nước và thấy trở lại nữa.






      CHƯƠNG 42


      Hồn ma Ayala dẫn Perenelle theo ông ngang qua những khối nhà hoang tàn rối rắn như mê cung. Bà cố nép mình trong bóng tối, hụp đầu dưới những bức tường bị đập vỡ tan tác và những ô của trống hoác, liên tục cảnh giác trước những sinh vật di chuyển trong đêm. Bà nghĩ con nhân sư dám ra khỏi nhà tù—mặc cho vẻ ngoài rất kinh khủng, những con nhân sư lại là những sinh vật nhút nhát, rất sợ bóng tối. Tuy nhiên, nhiều giống loài khác nhau bà từng thấy trong những xà lim đầy mạng nhện bên dưới lại là những sinh vật của màn đêm.


      Lối vào đường hầm gần như nằm ngay dưới chân tháp từng là nơi duy nhất cung cấp nước sạch. Giàn khung kim loại của nó bị muối biển, phân chim chứa đầy a-acute;t ăn mòn, làm gỉ rét, và cái thùng chứa khổng lồ bị vô số những lổ thủng li ti. Tuy nhiên, mặt đất ngay bên dưới tháp cây cỏ lại phát triển sum sê, được nuôi cũng bằng cùng thứ nước giọt đó.


      De Ayala chỉ vào đám đất bình thường nằm gần trong những cái chân tháp bằng kim loại. “Bà có thể thấy ống dẫn xuống tới đường hầm dưới chỗ này. Có lối vào đường hầm khác nữa cắt vào mặt vách đá,” ông , “nhưng chỉ có thể vào đó khi thủy triều xuống. Đó là cách Dee mang những tù nhân của đến hòn đảo. hề biết lối vào này.”


      Perenelle tìm thấy khúc kim loại gỉ rét và lấy nó gạt đất , để lộ ra lớp bê tông nứt nẻ và gãy bên dưới lớp đất. Lấy cạnh của thanh kim loại, bà bắt đầu đào xuống chỗ đó. Bà cứ liếc mắt lên, cố phân định những con chim tới gần hòn đảo cỡ nào rồi, nhưng gió lùa khối nhà đổ nát và rên rỉ ai oán xuyên qua những thanh giằng kim loại gỉ rét của tháp nước, thể nhận ra bất kỳ tiếng ồn ào nào khác. Những tua xoắn sương mù dày đặc lúc nãy làm làm sách cả vùng San Francisco và Cầu Cổng Vàng giờ ập đến đảo, bao phủ mọi thứ trong đám mây ướt sung và đầy mùi muối.


      Khi bà cạo lớp đất , de Ayala hướng theo cái đốm đặc biệt. “Ngay đây,” ông , tiếng của ông như tiếng thở bên tai bà. “Những tù nhân khám phá ra tồn tại đường hầm và ráng đào ống thông khí xuống tới đó. Họ nghĩ là qua nhiều thập kỷ nước chảy giọt từ tháp làm mềm đất và thậm chí ăn vào những phiến đá bên dưới. Nhưng họ tình cờ làm bể thủng xuyên tới hầm phía dưới, lúc đó thủy triều cao, và họ thấy nó bị ngập. Vì thế họ từ bỏ ý định, cố đào nữa.” Ông nhe răng cười, nụ cười hề có khi ông còn sống. “Giá mà họ chờ cho đến khi thủy triều xuống.”


      Perenelle càng cạo thêm nhiều đất, lớp đá bể càng lộ ra. Chêm thanh kim loại dưới gờ khối đá, bà bẩy nó lên. Đá đông nhúc nhích. Bà đè lần nữa bằng cả hai bàn tay, và rồi, khi thấy cũng được, bà nhấc viên đá cuội lên và nện như quai búa thanh kim loại lần: tiếng leng keng vang lên khắp đảo, gióng lên như tiếng chuông.


      “Ồ, được,” bà làu bàu. Bà miễn cưỡng phải dùng năng lượng của mình. Điều đó làm lộ vị trí của bà cho con nhân sư biết, nhưng bà còn lựa chọn nào khác. Khum bàn tay phải thành hình cái chén, bà để luồng điện của mình tụ lại trong lòng bàn tay, đọng thành vũng như thủy ngân, Bà hạ bàn tay cách nhàng, rất đỗi nhàng, phiến đá, rồi xoay bàn tay lại và rót nguồn năng lượng thô từ lòng bàn tay bà cho nó chảy thấm vào phiến đá granite. Phiến đá tan chay như sáp nến. Những khối đá lỏng bị nén cứng lại rơi ra và biến mất vào vùng tối om tối mù phía dưới.


      “Tôi chết lâu rồi; tôi nghĩ từng nhìn thấy những điều kỳ diệu, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ cái gì như thế này,” de Ayala đầy kinh sợ.


      pháp sư người Scythe dạy tôi câu thần chú để đổi lấy toàn mạng của ông ta. Nó rất đơn giản, đó,” bà . Bà chồm người lên cái lỗ và thình lình giật mạnh ra sau, mắt đầy nước. “Ối chao ôi, nó bốc mùi!”


      Hồn mà Juan Manuel de Ayala lởn vởn ngay cái lỗ. Ông quay người lại và mỉm cười, răng lại nhe ra. “Tôi thể ngửi thấy gì.”


      “Tin tôi , hãy mừng là ông ngửi thấy,” Perenelle vừa lẩm bẩm vừa lắc đầu, những bóng ma thường có óc hài hước lập dị. Đường hầm nồng nạc mùi có thối và rong biển lâu năm, phân chim và dơi trở mùi ôi, mùi gỗ nhão bét và kim loại han gỉ. Cũng có mùi khác, đắng nghét và cay xè, gần như mùi giấm. Cúi mình xuống, bà xé toạc dải vải khỏi chân áo rồi quấn nó quanh mũi và miệng như cái mặt nạ thô thiển.


      “Có cái thang leo,” de Ayala , “nhưng phải cẩn thận, tôi chắc là nó bị gỉ hết chưa.” Chợt ông liếc nhìn lên. “Những con chim đến đầu phía nam của đảo rồi. và có cái gì khác nữa. Cái rất xấu xa. Tôi ciều đó.”


      “Morrigan đó.” Perenelle cúi mình cái lỗ và bật những ngón tay tanh tách. chiếc lông vũ thon thả bằng ánh sáng trắng dìu dịu tách ra khỏi các đầu ngón tay bà và cuốn xuống cái lỗ, biến mất vào khoảng mờ mờ bên dưới, tung ra làn ánh sáng lập lòe trắng như sữa những bức tường quằn quện ướt đẫm. Ánh sáng cũng cho thấy cái thang hẹp, chĩa ra như những chấn song nhọn đầu cắm vào tường tạo ra những góc trồi sụt theo quy luật nào. Những chấn song nhọn đầu, cái này cách cái kia chỉ khoảng tấc, dày ụ lên vì hoen gỉ sét và hơi ẩm đọng lại thành giọt nhiễu xuống. Chồm người tới, bà nắm chấn song đầu tiên và kéo mạnh hết sức. Hình như nó cũng cứng đủ.


      Perenelle xoay vặn người sập xuống và chuồi chân vào khe hở. Bàn chân bà vừa rà tìm được trong những chấn song ngay lập tức nó trơn tuột trật ra. Co chân lại rút ra khỏi cái lỗ, bà tháo phăng đôi xăng đan ra và nhét chúng vào thắt lưng. Bà có thể nghe tiếng đập cánh của những con chim—hàng ngàn, có lẽ phải đến hàng vạn con— kéo đến rất gần. Bà biết chút tiêu tốn năng lượng để làm tan chảy đá và thắp sáng bên trong đường hầm hẳn báo hiệu cho Morrigan biết vị trí của bà. Bà chỉ có vài giây trước khi bầy chim bay đến.


      Perenelle đặt chân bà vào ống thông gió lần nữa, bàn chân trần của bà chạm vào chấn song nhọn đầu bằng kim loại. Nó lạnh ngắt và nhớp nháp bên dưới da bà, nhưng ít ra bà cũng có thể bám tốt hơn. Cầm chặt trong tay đầy nắm cỏ dai, bà hạ thấp người xuống, bàn chân lại rà tìm chấn song khác, và rồi bà bước xuống, bàn tay trái nắm cái chấn song. Bà nhăn mặt. Cảm thấy có cái gì kinh tởm, lẹp nhẹp bên dưới mấy ngón tay. Rồi bà mỉm cười; sao bà thay đổi đến thế. Khi bà còn là con bé, lớn lên tại Quimper ở Pháp cách đây bằng ấy năm, bà thường lội qua những vũng nước nằm trong đá, bắt và ăn những con trai con sò còn sống nhăn. Bà lang thang bằng chân trần khắp những con đường bùn và rác ngập lút mắt cá chân.


      Kiểm tra từng bước , Perenelle treo xuống hết chiều dài ống thông gió. Có chấn song bên dưới bàn chân bị gãy và kêu vang rền trong vùng bóng tối. Dường như nó rơi khá lâu. Bà dựa lưng vào bức tường hôi thối bẩn thỉu, cam thấy ẩm ướt qua làn áo đầm mỏng màu hè. Đánh liều bám chặt vào, bà lần tìm chấn song khác. Bà cảm thấy cái đinh kim loại trong tay bà như biến đổi, và trong tích tắc nín thở, bà nghĩ nó sút ra khỏi bức tường. Nhưng nó vẫn cắm chắc.


      “Lời mời đến gần. Tôi nghĩ bà sắp tham gia cùng với tôi,” hồn ma của de Ayala , thành bóng mờ mờ ngay trước mặt bà.


      dễ giết được tôi đâu,” Perenelle dứt khoát, tiếp tục leo xuống. “Dù có hơi buồn cười, nhưng sống hàng mấy thập kỷ tập trung chiến đấu với Dee và các Elder Đen tối của , giờ chả nhẽ tôi lại phải chết chỉ vì cú ngã.” Bà nhìn vào hình dáng khuôn mặt ở trước mặt bà. “Chuyện gì xảy ra đó vậy?” Bà hất đầu theo chiều mở ra của ống thông thấy được những dải sương mù xam xám uốn cong rồi giọt chảy vào.


      “Hòn đảo giờ phủ đầy chim,” de Ayala . “Có lẽ phải có đến trăm ngàn con; chúng đậu mọi bề mặt nào có thể đậu. Nữ thần Quạ vào trung tâm nhà tù, chắc chắn là để tìm con nhân sư.”


      “Chúng ta còn nhiều thời gian,” Perenelle cảnh báo. Bà dấn thêm bước và bàn chân bà lại ngập tới mắt cá trong lớp bùn đặc quánh dính nhớp nháp. Bà xuống dưới ống thông gió rồi. Lớp bùn lạnh như nước đá, và bà cảm thấy cái lạnh thấu xương. Có cái gì bò lúc nhúc mấy ngón chân. “Đường nào?”


      Cánh tay de Ayala ra, trắng như ma, ngay phía trước bà, chỉ về bên trái. Bà nhận ra rằng bà đứng ngay lối ra vào của con đường hầm cao. Bị chặt đẽo lởm chởm hơi dốc xuống. phát quang như ma của de Ayala thắp sáng lớp tơ nhện phủ ngoài bao bọc những bức tường. Chúng quá dày đến nỗi những bức tường trông cứ như thể sơn lớp bạc.


      “Tôi thể xa hơn nữa,” hồn ma , tiếng ông gay gắt quanh quẩn mấy bức tường. “Dee đặt những câu thần chú canh giữ và những con dấu mạnh đến khó tin; tôi thể nào qua được. Xà lim mà bà muốn tìm còn phải thẳng tiếp khoảng mười bước chân nữa va nằm bên mé tay trái.”


      Biết còn lựa chọn nào khác nên Perenelle đành miễn cưỡng lại phải dùng đến mà thuật của mình. Bà muốn chắc chắn mình lang thang trong đường hầm tối như hũ hút. Bà bật các ngón tay tanh tách và quả cầu lửa màu trắng nhấp nháy sống động vai của bà. Nó tỏa ra màu trắng sữa dìu dịu và phát sáng đường hầm, làm nỗi bật mỗi cái mạng nhện đến từng chi tiết rối rắm phức tạp. Những tấm mạng trải rộng như tấm màn dày bắt ngang ngay lỗ hổng. Bà có thể nhìn thấy những con nhện lắc lư đầu mấy tấm mạng và tự hỏi biết có bao nhiêu con nhện ở dưới này.


      Perenelle bước thẳng tới trước, ánh sáng di chuyển theo bà, và bà chợt nhìn thấy thần chú đầu tiên trong loạt các Thần chú Canh giữ và Bảo vệ Dee đặt dọc theo đường hầm. dãy cây giáo gỗ có đầu bằng kim loại đước cắm sâu trong cái mền đầy bùn. cái đầu kim loại hình dẹt của mỗi cây giáo cổ xưa, loại chữ viết tượng hình vuông vức hẳn quen thuộc với các dân tộc Maya cổ ở Trung Mỹ. Bà có thể nhìn thấy ít nhất là hơn chục ngọn giáo, mỗi cái được vẽ biểu tượng khác nhau. Bà biết rằng từng biểu tượng đơn lẻ vô nghĩa, nhưng kết hợp với nhau chúng tạo thành mạng lưới gồm năng lượng thô sơ ngoằn ngoèo hình chữ chi mạnh thể tưởng đan chéo suốt hành lang phóng ra những chùm ánh sáng đen nhìn thấy được. Nó nhắc bà liên tưởng đến những hệ thống báo động bằng laser phức tạp các ngân hàng vẫn thường dùng. Năng lượng có tác dụng lên con người—tất cả những gì bà có thể cảm thấy là tiếng kêu vo vo và cảm giác căng căng sau gáy—nhưng nó lại lào cẳn thể qua được đối với mọi Giống loài Elder, Thế hệ Kế tiếp và các Sinh vật thuộc loại Ma biến hình. Ngay cả de Ayala, hồn ma, cũng bị ảnh hưởng bởi rào chắn này.


      Perenelle nhận ra số biểu tượng những đầu giáo; bà từng nhìn thấy chúng trong cuốn Codex và thấy chúng được khắc lên bức tường đổ nát tại Palenque ở Mexico. Hầu hết đều xuất trước khi có loài người; phần nhiều trong số đó thậm chí còn lâu đời hơn cả những Elder và thuộc về giống loài cư ngụ trái đất rất lâu trong qua khứ xa xăm. Chúng là những Ngôn từ Quyền năng, những Biểu tượng Ràng buộc cổ xưa, được thiết kế để bảo vệ—hay giam giữ—cái gì đó hoặc là có giá trị lớn lao đến mức khó tin hoặc là cực kỳ nguy hiểm.


      Bà có cảm giác đây là loại thứ hai.


      Và bà cũng tự hỏi biết Dee kiếm đâu ra những từ ngữ cổ xưa này.


      Bước lõm bỏm qua những đám bùn đặc quánh, Perenelle bước chân đầu tiên vào đường hầm. Tất cả mạng nhện đều kêu sột soạt và rung rung, thanh giống như tiếng thầm xào xạc của lá cây. Phải có đến hàng triệu con nhện ở đây, bà nghĩ. Chúng làm bà sợ hãi; bà từng phải chống cự các sinh vật kinh hãi hơn những con nhện này nhiều, nhưng bà vẫn nhận thức rằng chắc chắn có những con nhện đầy nọc độc màu nâu mang tên người dật, những con nhện màu đen mang tên bà góa hoặc thậm chí con Nam Mỹ còn có thể săn những con nhện khác trong hàng khối rất lớn những động vật thuộc lớp nhện. Chỉ vết cắn từ con trong bọn chúng thôi chắc chắn khiến bà mất hết sức mạnh, thậm chí có thể giết chết bà.


      Perenelle thình lình rút mạnh cây giáo ra khỏi bùn và dùng nó để vụt những tấm mạng . Biểu tượng hình vuông đầu ngọn giáo rực sáng màu đỏ và những sợi mỏng như tơ kêu rít lên và phát ra tiếng xèo xèo khi ngọn giáo chạm vào chúng. bóng tối dày đặc mà bà biết là khối những con nhện chảy ngược vào tạo thành cái bóng mờ mờ. Từ từ xuống đường hầm hẹp, bà bết bùn từ cây giáo lối bà tới để lớp bùn bẩn thỉu rửa sạch Ngôn từ Quyền năng, dần đần tháo gỡ kiểu ma thuật rắc rối phức tạp này. Nếu Dee dùng tất cả điều phiền phức này để giam giữ cái gì đó trong xà lim, có nghĩa là thể kiểm soát cái gì đó. Perenelle muốn tìm ra nó là cái gì và phóng thích nó. Nhưng khi bà đến gần hơn, quả cầu vai bà ném thứ ánh sáng lập lòe qua hành lang, ý nghĩ khác vụt qua đầu óc bà: phải chăng Dee cầm tù thứ gì đó mà ngay cả bà cũng nên dè chừng, thứ gì cổ xưa, thứ gì kinh khiếp? Bất chợt, bà biết mình có phạm sai lầm kinh khủng đây nữa.


      những gióng cửa và lối vào xà lim được vẽ những biểu tượng làm mắt bà xốn xán khi nhìn vào. Thô ráp và đầy góc cạnh, dường như chúng biến đổi và uốn éo xoắn tít đá, như những chữ viết trong cuốn sách Abraham. Trong khi những chữ trong cuốn sách cổ hình thành nên những chữ của những ngôn ngữ gần như có thể hiểu được, hoặc ít nhất cũng nhận ra được, những biểu tượng này xoắn vặn thành những hình thù thể tưởng tượng ra.


      Bà gập người xuống, vốc lên ít bùn và bôi nó lên những con chữể xóa chúng . Chỉ khi bà lau sạch xong những Ngôn từ Quyền năng nguyên sơ bà mới bước tiếp tới trước, rồi khiến quả cầu ánh sáng xoắn lại và nhảy nhót chiếu vào xà lim.


      Perenelle chỉ mất tích tắc để hiểu được những gì bà nhìn thấy. Và ngay lúc đó, bà nhận ra rằng việc tháo gỡ các hoa văn bảo vệ năng lượng có thể sai lầm kinh khủng.


      Toàn bộ xà lim là cái kén mạng nhện rất dày. Giữa xà lim. Đong đưa đến sợi tơ dày hơn ngón trỏ của bà, là con nhện. Sinh vật này khổng lồ, kích thước cũng cỡ như cái tháp nước khổng lồ nhô cao khỏi hòn đảo đầu bà. Nó hơi giống con nhện tarantuala lông lá to lớn ở vùng nhiệt đới, ngoại trừ lớp lông tím ngắt tua tủa phủ khắp mình nó, đầu ngọn lông nhuộm màu xám xịt. Tám chân của nó cái nào cũng lớn hơn cả thân hình Perenelle. Nằm giữa thân mình là cái đầu khổng lồ gần giống như đầu người. Trơn láng và trong trịa, tai, mũi và chỉ có cái vạch nằm ngang cái miệng. Cũng như tarantuala, nó có tam con mắt xíu nằm gần đỉnh sọ.


      Và lần lượt từng cái , cả tám con mắt đó chầm chậm mở ra, mỗi cái đều có màu sắc của vết tím bầm rất cũ kỹ. Chúng đổ dồn lại nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của người phụ nữ. Rồi cái miệng há rộng ngoác, và hai cái răng nanh dài như hai ngọn giáo ló hẳn ra. “Bà Perenelle. Nữ Phù thủy,” nó ngọng nghịu.


      “Areop-Enap,” bà kinh ngạc thốt lên, nhận ra con nhện Elder cổ xưa. tưởng bà chết rồi.”


      “Ý bà là bà tưởng rằng bà giết được tôi có!”


      Tấm mạng co giật mạnh và thình lình sinh vật gớm guốc đó lao thẳng vào Perenelle.






      CHƯƠNG 43


      Tiến sĩ John Dee chồm hẳn qua băng ghế sau trong chiếc xe cảnh sát. “Quẹo đây,” với Josh. Nhìn thấy vẻ gì đó biểu lộ gương mặt cậu con trai và thêm, “Làm ơn.”


      Josh đạp thắng, chiếc xe lướt chút và kêu rin rít, lớp vỏ ở bánh xe trước giờ hoàn toàn tơi tả và bánh xe lăn vành kim loại, những tia lửa bắn tung tóe.


      “Ở đây này.” Dee chỉ tay vào con hẻm hẹp được viền bằng hai hàng thùng rác nhựa. Nhìn vào kính chiếu hậu, Josh có thể nhìn thấy cứ vặn mình trong ghế để ngoái nhìn đằng sau.


      đuổi theo hả?” Machiavelli hỏi.


      “Tôi nhìn thấy ả đâu cả,” Dee quả quyết, “nhưng tôi nghĩ chúng ta nên ra khỏi những đường phố này.”


      Josh phải đấu lắm mới điều khiển được chiếc xe. “Chúng ta đâu xa khỏi đây được,” cậu lên tiếng, và rồi chiếc xe hất mạnh vào cái thùng rác thứ nhất, nó ngã đổ nhào vào cái thứ hai, rồi cái thứ ba, vung vãi rác rưỡi khắp con hẻm. Cậu xoay tay lái gắt để tránh cán phải trong những cái thùng nằm lăn lóc và động cơ bắt đầu nổ ran lên cách đáng lo ngại. Chiếc xe lắc lư mạnh rồi đột nhiên ngưng lại, khói cuồn cuộn từ đầu xe bốc ra. “Ra ngoài ,” Josh nhanh. “Tôi nghĩ nó sắp cháy rồi.” Cậu trườn mình bò ra khỏi xe, Machiavelli và Dee thoát ra theo phía bên kia. Rồi họ quay người chạy thục mạng xuống con hẻm, tránh xa chiếc xe. Chạy có lẽ chưa đầy chục bước tiếng nổ đùng đục vang lên và chiếc xe bùng lên thành những ngọn lửa.


      “Kỳ diệu chưa,” Dee với vẻ cay đắng. “Như vậy dứt khoát là bây giờ Disir biết chúng ta ở đâu rồi. Và ả ta chẳng vui vẻ gì đâu.”


      “Ồ, vui với ông, điều đó là chắc chắn,” Machiavelli kèm thêm nụ cười giễu cợt.


      “Tôi á?” Dee trông có vẻ ngạc nhiên.


      “Chứ tôi đâu có phải là người ném lửa vào ả đâu,” Machiavelli nhắc.


      Y hệt như trẻ chuyện. “Đủ rồi!” Josh vòng quanh hai người đàn ông. “ đó là… là ai vậy?”


      “Là,” Machiavelli với nụ cười tàn nhẫn, “ Valkyrie.”


      Valkyrie?”


      “Đôi khi còn gọi là Disir.”


      Disir?” Josh thấy rằng cậu thậm chí hề ngạc nhiên trước câu trả lời này. Cậu quan tâm đó được gọi là gì; tất cả những gì cậu quan tâm là ả ta cố chém cậu làm đôi bằng thanh kiếm của ả. Có lẽ đây là giấc mơ, đột nhiên cậu nghĩ, và mọi chuyện xảy ra lúc Dee và mấy tên Golem bước vào tiệm sách là gì ngoài cơn ác mộng. Rồi cậu cử động cánh tay phải nhưng những vết bầm tím chống lại cậu. Cậu nhăn mặt đau đớn. Cậu cảm thấy lớp da gương mặt cháy rám vì bị kéo căng và cứng ngắc, và khi cậu liếm môi khô khốc, nứt nẻ, cậu nhận thấy đây phải là giấc mơ. Cậu bừng tỉnh—đây là cơn ác mộng.


      Josh lùi xa khỏi hai người đàn ông. Cậu nhìn lên rồi nhìn xuống con hẻm . bên là những ngôi nhà cao tầng, và bên kia là cái gì trông giống khách sạn. Những bức tường bị bôi màu lem nhem với những lớp chữ thảo và những hình vẽ trang trí công phu theo kiểu cạo bỏ lớp thạch cao bề mặt , số thạch cao còn rơi vãi ám dính lung tung lên những thùng rác. Đứng nhón chân lên, câu cố gắng nhìn thấy được đường chân trời, tìm kiếm tháp Eiffel hoặc Sacre-Coeur, cái gì đó cho cậu biết được cậu ở đâu. “Tôi phải quay lại,” cậu , nhích từng bước cách xa dần hai người đàn ông ăn mặc nhếch nhác, đầu tóc rồi bời. Theo Flamel, họ là kẻ thù—đặc biệt là Dee. Song Dee lại vừa mới cứu cậu thoát khỏi Disir.


      Dee quay người nhìn cậu, đôi mắt xám long lanh vẻ tử tế. “Tại sao, Josh, cậu tính đâu?”


      “Về với chị tôi.”


      “Và cũng với cả Flamel và Saint-Germain nữa? tôi nghe xem; bon họ làm được gì cho cậu?”


      Josh lùi thêm bước nữa. Cậu từng có dịp nhìn thấy Dee ném những ngọn giáo lửa—trong tiệm sách và Disir—và cậu chắc Pháp sư có thể ném chúng bao xa nữa. xa đâu, cậu tính toán. Thêm hay hai bước nữa và quay người chạy xuống con hẻm. Cậu có thể chặn người cậu gặp đầu tiên để hỏi đường đến tháp Eiffel. Cậu nghĩ tiếng Pháp của “ở đâu” là “ou est?” hay có thể là “qui est?” Mà hình như cái này có nghĩa là “ai?” Cậu lắc đầu , hối tiếc vì chịu chú ý trong lớp học tiếng Pháp. “Đừng cố cản tôi,” cậu lên tiếng, quay ngoắt .


      “Cảm thấy thế nào?” Dee hỏi thình lình.


      Josh từ từ quay người nhìn Pháp sư. Cậu biết ngay là về cái gì. Cậu thấy những ngón tay mình cử động co lại, như thể nắm chặt chuôi kiếm.


      “Cậu thấy thế nào khi cầm thanh Clarent, cảm thấy năng lượng thô chạy khắp người cậu phải ? Thấy thế nào khi biết được những ý nghĩ và cảm xúc của sinh vật mà cậu vừa đâm vào?” Dee lần tay bên dưới lớp áo khoác nguyên bộ rách bươm và lôi thanh kiếm sinh đôi của Clarent: Excalibur. “Đó là cảm giác kinh hoàng, phải nào?” lật lưỡi kiếm trong tay, dòng năng lượng màu đen ngả sang xanh lơ vỡ vụn ở mặt bên kia thanh đá. “Tôi biết cậu hẳn trải nghiệm những ý niệm của Nidhogg…. Những cảm xúc…. Ký ức?”


      Josh gật đầu. Chúng vẫn còn tươi nguyên—sống động đến sững sờ—trong đầu cậu. Những tư tưởng, những cảnh tượng quá xa lạ, qua kỳ dị, đến nỗi cậu biết tự mình cậu bao giờ có thể tưởng tượng được như vậy.


      có lúc cậu biết những điều như thần thánh: nhìn thấy thế giới vượt ngoài sức tưởng tượng, trải nghiệm những cảm xúc lạ. Cậu nhìn thấy quá khứ. quá khứ vô cùng xa xăm… thậm chí cậu nhìn thấy cả Vương quốc Bóng tối của Nidhogg.”


      Josh chậm rãi gật đầu, tự hỏi làm sao mà Dee biết được.


      Pháp sư bước tới gần cậu con trai. “Ngay lúc đó, Josh, đúng ngay lúc đó, nó y hệt như cảm giác được Đánh thức—dù còn lâu mới mãnh liệt bằng vậy,” thêm nhanh. “Và cậu muốn năng lượng của mình được Đánh thức chứ?”


      Josh gật đầu. Cậu cảm thấy khó thở, trái tim cậu đập thình thịch trong lồng ngực. Dee đúng; trong những giây phút ấy khi cậu cầm Clarent, cậu cảm thấy mình sống, sống . “Nhưng thể làm điều đó được,” câu nhanh.


      Dee cười lớn. “Ồ được chứ, có thể. Có thể làm ở đây, ngay hôm nay,” kết thúc cách đắc thắng.


      “Nhưng Flamel …” Josh lên tiếng, rồi im bặt, nhận ra những gì mình vừa . Nếu câu có thể Đánh thức…


      “Flamel nhiều thứ lắm. Tôi thậm chí còn ông ta có còn biết đâu là nữa .”


      “Ông làm được gì?” Josh bật hỏi.


      “Luôm luôn.” Dee thình lình đưa ngón tay cái ra phái sau chĩa và“Người Ý này phải là bạn tôi,” thanh thản, nhìn xoáy thẳng vào đôi mắt hoang mang của Josh. “Vậy hãy hỏi ông ta câu: hỏi xem năng lượng của cậu có thể được Đánh thức vào chính sáng hay .”


      Josh quay người nhìn sâu vào Niccolo Machiavelli. Người đàn ông cao ráo tóc trắng trông hơi bối rối, nhưng ông ta gật đầu tán thành. “Pháp sư người đúng: năng lượng của cậu có thể được Đánh thức hôm nay. Tôi nghĩ trong vòng tiếng đồng hồ chúng tôi chắc có thể tìm ra người làm việc này.”


      Mỉm cười đắc thắng, Dee quay lại Josh. “Đó là lựa chọn của cậu. Vậy, hãy cho tôi câu trả lời—câu muốn quay về với Flamel cùng với những lới hứa mơ hồ của ông ấy, hoặc là cậu muốn năng lượng của mình được Đánh thức?”


      Ngay cả khi xoay người dõi theo những dải năng lượng màu đen u tối cuốn khỏi lưỡi kiếm đá Excalibur, Josh biết câu trả lời. Cậu nhớ lại những cảm giác, những cảm xúc, năng lượng chảy qua khắp người cậu khi cậu cầm thanh Clarent. Và Dee những cảm giác đó còn lâu mới mảnh liệt bằng cảm giác được Đánh thức.


      “Tôi cần câu trả lời,” Dee .


      Josh Newman hít hơi sâu. “Tôi phải làm gì?”






      CHƯƠNG 44


      Joan đặt chiếc Citroen móp méo vào đầu con hẻm và thả lỏng cho tới khi dừng hẳn, chặn luôn lối vào. Cúi mình tay lái, mắt sục sạo khắp con hẻm, tìm kiếm những cử động, tự hỏi phải chăng đây là cái bẫy.


      Chạy theo Josh là việc cực kỳ dễ; tất cả những gì phải làm là cứ theo đường rãnh do vành bánh xe kim loại ở bánh trước của chiếc xe cậu ấy cắt sâu xuống đường. thoáng đau thương khi lạc mất cậu trong những con phố rối rắm, nhưng rồi chum khói đen vọt lên khỏi mái nhà và theo dấu đó: nó dẫn đến con hẻm và đến tận chỗ chiếc xe cảnh sát bốc cháy.


      “Ở lại đây nhé,” ra lệnh cho Flamel giờ quá kiệt sức và Sophie với khuôn mặt tái mét, rồi bước ra khỏi xe. Cầm thanh kiếm lỏng lẻo trong tay phải, vừa đập lưỡi kiếm vào lòng bàn tay trái vừa xuống con hẻm. hoàn toàn tin chắc rằng họ đến quá trễ và Dee và Machiavelli và Josh mất rồi, nhưng lại chuẩn bị cho bất kỳ rủi ro nào.


      thầm bước xuống giữa con hẻm, cành giác với những thùng rác hình ống biết đâu có thể nấp tên tấn công, Joan nhận ra rằng vẫn ở trong tình trạng bang hoàng trước biến mất của Scatty. giây trước Joan còn đứng trước người bạn cũ, và giây sau, sinh vật giống cá hơn giống người đó phóng lên khỏi mặt nước và kéo Scatty xuống theo nó.




      Joan đau lòng cho người bạn , và khóc thương cho ấy, nhưng phải là bây giờ. Chưa đâu.


      Joan Arc từng là chiến binh từ thời vừa vặn tuổi thiếu niên, cưỡi ngựa xông vào trận chiến ở vị trí là người dẫn đầu đoàn quân Pháp hùng hậu. từng nhìn thấy quá nhiều người bạn ngã xuống chiến trường và học được rằng nếu tập trung vào cái chết của họ có khả năng chiến đấu. Ngay lúc nay biết cần phải bảo vệ Nicholas và . Sau này, có thời gian khóc thương Scathach Bóng tối, và cũng có thời gian để tìm sinh vật mà Flamel gọi là Dagon. Joan ước lượng sức nặng của thanh kiếm trong tay mình. báo thù cho bạn .


      Pháp mảnh dẻ ngang qua đống tàn tích nóng rực của chiếc xe cảnh sát và cúi sát mình đất, đọc cách thành thạo những vết tích và những dấu hiệu những phiến đá ẩm ướt. nghe thấy Nicholas và Sophie bước ra khỏi chiếc Citroen tả tơi bầm đập và xuống con hẻm, bước vòng tránh những vũng dầu và nước bẩn. Nicholas mang thanh Clarent. Joan nghe tiếng nó kêu vo vo khi ông ấy tiến gần đến chiếc xe hơi cháy, và tự hỏi biết nó có còn kết nối với cậu con trai .


      “Có mấy người chạy ra khỏi xe và dừng lại ở đây,” , nhìn lên, khi họ đừng lại bên cạnh . “Dee và Machiavelli đối diện với Josh. Cậu ấy đứng đằng kia.” chỉ. “Chúng chạy qua vũng nước trở lại đó; hai người có thể nhìn thấy đường viền giày của chúng đất.”


      Sophie và Flamel cúi xuống và nhìn mặt đất. Họ gật đầu, dù biết họ thể nhìn thấy gì cả.


      “Bây giờ, đây mới là điều thú vị,” tiếp. “Đến đoạn những dấu chân của Josh hướng xuống con hẻm, và cậu đứng nhón gót, cứ như thể cậu ấy nghĩ đến việc bỏ chạy. Nhưng nhìn đây.” chỉ vàấu đế giày in đất mà chỉ có mới thấy được. “Bà người bạn họ cùng nhìn nhau khỏi đây, Dee và Josh trước , Machiavelli theo sau.”


      có thể tho dấu bọn họ ?” Flamel hỏi gặng.


      Joan nhún vai. “Để đến cuối con hẻm, có thể, nhưng phí xa kia …” lại nhún vai lần nữa và vươn thẳng người lên, phủi bụi khỏi bàn tay. “Hết cách; có quá nhiều dấu chân khác.”


      “Chúng ta làm gì?” Nicholas thào. “Chúng ta tìm thằng bé bằng cách nào?”


      Ánh mắt Joan lướt từ khuôn mặt Flamel sang Sophie. “Chúng ta thể… nhưng Sophie được.”


      “Cách nào?” ông hỏi.


      Joan chuyển động bàn tay theo đường nằm ngang trước mặt . Nó để lại mảnh ánh sáng có họa tiết rất mờ nhạt trong khí, và con hẻm dơ bẩn thoáng đượm mùi hoa oải hương. “ bé là chị sinh đôi của cậu ấy: bé có thể lần theo luồng điện của cậu ấy.”


      Nicholas Flamel chụp cả hai vai Sophie, buộc nhìn vào mắt ông. “Sophie!” ông ọi giật. “Sophie, nhìn chú này.”


      Sophie nhướng đôi mắt viền đỏ au nhìn Nhà Giả kim. hoàn toàn chết lặng. Scatty bị bắt , và giờ Josh cũng biến mất, Dee và Machiavelli bắt cóc. Mọi thứ như vỡ tan tành.


      “Sophie,” Nicholas rất thanh thản, ánh mắt nhợt nhạt của ông bắt được và bàm theo ánh mắt bé. “Chú cần cháu bây giờ phải mạnh mẽ lên.”


      “Giá trị gì nữa?” hỏi. “Họ bị bắt mất rồi.”


      “Họ chưa bị bắt mất,” ông đầy tin tưởng.


      “Nhưng Scatty…” nấc lên.


      “…là trong những người phụ nữ nguy hiểm nhất thế giới,” ông nốt. “ ấy sống sót hai ngàn năm và chiến đấu với những sinh vật nguy hiểm hơn Dagon gấp bội.”


      Sophie ông cố thuyết phục bản thân mình hay là thuyết phục nữa. “Cháu nhìn thấy cái thứ đó kéo chị ấy xuống dòng sông, và chúng ta chờ cho đến mười phút sau. Chị ấy quay lên lại. Có lẽ chị ấy chết đuối mất rồi.” Tiếng bé nghẹn lại và có thể cnhận từng giọt lệ đọng nơi lưng mắt. Cổ họng như bị nung lửa.


      “Chú từng nhìn thấy ấy sống sót trong những tình huống phải tồi tệ, mà là quá sức tồi tệ kia.” Nicholas cười mệt mỏi. “Chú nghĩ Dagon làm ấy rơi vào tình huống bất ngờ thôi! Scatty giống như con mèo: ấy ghét bị ướt. Dòng sông Seine chảy rất siết; chắc là bọn họ bị cuốn ra đến cửa sông. ấy liên lạc với chúng ta. ”


      “Nhưng bằng cách nào? Chị ấy hình dung chúng ta ở đâu.” Sophie rất ghét cách người lớn dối. Đúng là những lớn dối ấy sao quá lộ liễu.


      “Sophie,” Nicholas nghiêm túc. “Nếu Scathach còn sống, ấy tìm chúng ta. Tin chú .”


      Và trong lúc ấy, Sophie nhận ra rằng hề tin Nhà Gỉả kim.


      Joan vong cánh tay qua vai Sophie và siết . “Nicholas đúng đó. Scatty…” mỉm cười, và cả khuôn mặt sáng bừng. “ ấy đặc biệt lắm. Bà của ấy bỏ ấy trong những Vương quốc Bóng tối Địa ngục: ấy phải mất hàng mấy thế kỷ mới tìm được lối ra. Nhưng ấy làm được.”


      Sophie gật đầu chầm chậm. biết những họ là có —Bà Phù thủy Endor còn biết về Scathach hơn Nhà Giả kim hoặc Joan—nhưng muốn rằng chính họ cũng rất lo lắng.


      “Bây giờ, Sophie,” Nicholas lại tiếp tục. “Chú cần cháu tìm em trai cháu.”


      “Bằng cách nào?”


      “Tôi nghe thấy còi báo động,” Joan vừa gấp gáp, vừa ngoái nhìn xuống con hẻm. “Nhiều tiếng còi lắm.”


      Flamel chú ý đến lời . Ông nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lơ nhàn nhạt của Sophie. “Cháu có thể tìm nó,” ông nằng nặc. “Cháu là chị sinh đôi của nó; có mối liên kết thậm chí còn sâu xa hơn liên kết huyết thống. Cháu luôn biết được khi nào nó gặp chuyện, đúng nào?”


      Sophie gật đầu.


      “Nicholas…,” Joan thúc, “Chúng ta hết thời gian rồi.”


      “Cháu luôn cảm nhận được nỗi đau của nó, biết được nó buồn rầu hay bực bội?”


      Sophie lại gật đầu lần nữa.


      “Cháu được kết nối với nó, cháu có tìm thấy nó.” Nhà Giả kim xoay tròn đứa con để co bé đối mặt xuống con hẻm. “Josh đứng đây,” ông vừa vừa chỉ tay. “Dee và Machiavelli đứng đâu gần đây.”


      Sophie rối tung lên và phát cáu. “Nhưng bây giờ bị bắt hết rồi. Họ đem nó mất rồi.”


      “Chú nghĩ là họ ép buộc nó đâu đó, chú nghĩ nó với họ cách tự nguyện,” Nicholas rất dịu dàng.


      Những lời này đập vào Sophie như cú đấm. Josh rời bỏ đâu, đúng vậy chứ. “Nhưng tại sao?”


      Flamel nhún vai rất . “Ai biết được? Dee lúc nào cũng rất có sức thuyết phục, và Machiavelli là bậc thầy trong việc sử dụng mánh khóe để lôi kéo. Nhưng chúng ta có thể tìm họ, cú chắc chắn như vậy. Những giác quan của cháu được Đánh thức, Sophie. Nhìn lại ; tưởng tượng Josh đứng trước mắt cháu, nhìn thấy nó…”


      Sophie hít hơi sâu và nhắm mắt, rồi mở mắt ra lại. nghe gì khác ngoài những thứ bình thường; đứng trong con hẻm rác rưỡi vung vãi dơ bẩn, những bức tường phủ đầy những hình vẽ trang trí công phu kiểu cạo bỏ lớp thạch cao bề mặt , cùng với lớp khói của chiếc xe cháy cuộn xoáy quanh>“Luồng điện của nó vàng ánh kim,” Flamel tiếp. “ Của Dee màu vàng…. Machiavelli màu xám hoặc màu trắng bị vấy bẩn…”


      Sophie bắt đầu lắc đầu. “Cháu sao nhìn thấy được,” cất tiếng.


      “Vậy để chú giúp cháu.” Nicholas đặt bàn tay ông lên vai bé và đột nhiên mùi khó chịu của chiếc xe cháy được thay bằng mùi bạc hà tươi mát cay the. Ngay lập tức, luồng điện của lóe sáng bao quanh người, kêu lốp bốp và bắn tóe như pháo hoa, màu bạc tinh khiết giờ nhuốm màu xanh ngọc lục bảo từ luồng điện của Flamel.


      Và rồi nhìn thấy cái gì đó.


      Ngay trước mắt mình có thể nhận ra thấp thoáng đường viền mờ nhạt nhất của Josh. Nó giống như ma và rất mong manh, tạo nên từ cái gì đó mỏng hơn những sợi chỉ và li ti như chấm bụi vàng lấp lánh, và khi cử động, cậu kéo theo mình những đường tơ đổi màu trong khí phía sau cậu. Bây giờ biết tìm cái gì, cũng có thể nhận ra chút ít những đường nét của Dee và Machiavelli trong khí.


      chớp mắt chậm, e rằng làm những hình ảnh đó biến mất, nhưng , chúng vẫn lơ lửng trong khí trước mặt , và nếu có bất cứ vật gì xen vào, những màu sắc thậm chí còn bùng cháy lên mảnh liệt. Luồng điện của Josh sáng nhất trong hết thảy. giơ tay sờ soạng, những ngón tay chạm phải bờ rìa vàng ánh của cậu em trai. Đườ như khói cuộn trôi khi cơn gió lùa vào.


      “Cháu nhìn thấy họ rồi,” vẻ kinh sợ, tiếng chỉ vừa vặn chỉnh hơn lời thầm. bao giờ tưởng tượng mình có thể làm bất cứ thứ gì giống vậy. “Cháu có thể nhìn thấy những đường nét của họ.”


      “Họ những đâu?” Nicholas hỏi.


      Sophie dõi theo những vệt đầy màu sắc trong khí; chúng dẫn đến cuối con hẻm. “Đường này,” , và bắt đầu lên đường xuống con hẻm về phía đường phố, với Nicholas sát gót bên .


      Joan Arc nấn ná lần cuối nhìn chiếc xe méo mó tơi tả của rồi theo họ.


      nghĩ gì?” Flamel hỏi.


      “Tôi nghĩ khi tất cả chuyện này qua , tôi trả chiếc xe này về nguyên trạng mới tinh khôi như lúc đầu. Và rồi bao giờ mang nó ra khỏi nhà để xe bao giờ nữa.”


      “Có gì đó ổn rồi,” Flamel khi họ len lỏi qua những con phố.


      Sophie tập trung dữ dội vào việc theo cậu em sinh đôi của mình và chú ý đến ông.


      “ cũng vừa nghĩ như vậy,” Joan . “Thành phố qua yên tỉnh.”


      “Chính xác.” Flamel nhìn quanh. Đâu rồi những người dân Paris đường làm và những du khách thích ngắm cảnh trước khi thành phố chuyển sang nóng ngột ngạt và đông đúc? Vài người đường vội vã qua, chuyện với nhau rất sôi nổi. trưng đầy tiếng còi báo động, và có cảnh sát khắp nơi. Và rồi Nicholas nhận ra rằng cơn điên cuồng của Nidhogg khắp thành phố được đưa tin và mọi người được cảnh báo phải tránh khỏi đường phố. Ông tự hỏi biết nhà chức trách lấy lý do gì để giải thích vụ hỗn loạn này.


      bé cảm thấy luồng cảm xúc sôi nổi: nhõm vì mất cậu. “Họ xuống,” .


      “Xuống?” ông hỏi, mặt biến sắc thành màu tái xanh bệnh hoạn. Ông hạ giọng chỉ hơn lời thầm chút. “Cháu chắc ?”


      “Chắc chắn,” , lo lắng vì vẻ mặt của ông. “Sao vậy ạ, có chuyện gì ổn sao? Cái gì ở dưới đó? Hệ thống cống rãnh ạ?”


      “Hệ thống cống rãnh… và còn tệ hơn nữa.” Nhà Giả kim chợt trông già và đầy mệt mỏi. Bên dưới chúng ta là những Hầm huyền thoại của Paris,” ông thầm .


      Joan cúi sát mình xuống và chỉ vào lớp bùn quanh bờ rìa tấm nắp đậy miệng cống bị xáo lộn. “Cái này được mở ra vừa mới đây thôi.” nhìn lên, vẻ mặt đầy sát khí. “Ông đúng; bọn chúng đưa cậu ấy xuống tận lòng Đế chế Tử thần.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 45


      “Ối, dừng lại!” Perenelle đập mạnh vào đỉnh đầu nhện Elder bằng cạnh cùn của ngọn giáo trong tay bà. Biểu tượng quyền lực cổ xưa rức chiếu luồng ánh sáng trắng lóa nóng bỏng và con nhện văng mạnh trở lại vào xa lim, đỉnh sọ nó kêu xèo xèo, khói xám xịt cuồn cuộn bóc lên.


      “Đau!” Areop-Enap cáu cẳn, vì tức hơn là đau. “Bà lúc nào cũng làm tôi đau điếng. Bà suýt chút nữa giết chết tôi trong lần cuối cùng tôi gặp bà còn gì.”


      “Và tôi có thể nhắc cho bà nhớ rằng lần cuối cùng mình gặp nhau, những tên theo bà định hiến tế tôi để làm cho ngọn núi lửa tắt hoạt động trở lại. Cố nhiên tôi phải cảm thấy khó chịu rồi.”


      “Bà phang nguyên ngọn núi vào đầu tô” Areop-Enap bằng giọng ngọng nghịu rất kỳ dị do những cái chân dài qua khổ. “Bà muốn giết tôi chắc.”


      “Chỉ là ngọn núi thôi,” Perenelle nhắc. Bà nghĩ Areop-Enap là giống cái nhưng cũng chắc chắn lắm. “Bà sống sót được trong hoàn cảnh còn tệ hơn vậy nữa mà.”


      Tất cả những con mắt của Areop-Enap dòm vào ngọn giáo trong tay Perenelle. “Ít nhất bà có thể cho tôi biết tôi ở đâu ?”


      “Ở Alcatraz. Hoặc đúng hơn, bên dưới Alcatraz, hòn đảo nằm trong vịnh San Francisco bờ Tây của nước Mỹ.”


      “Tân Thế giới à?” Areop-Enap hỏi.


      “Phải, Tân Thế giới,” Perenelle , mỉm cười. Nhện Elder dật này thường ngủ đông hàng mấy thế kỷ và bỏ lỡ những giai đoạn lịch sử vô cùng lớn lao của loài người.


      “Bà làm gì ở đây?” Areop-Enap hỏi.


      “Tôi là tù nhân—giống như bà vậy.” Bà bước lùi. “Nếu tôi hạ ngọn giáo xuống, bà có ý định làm điều gì ngu ngố


      “Ví dụ như cái gì?”


      “Như nhảy vào tôi.”


      Tất cả lông mấy cái chân của Areop-Enap dựng lên và buông xuống cùng lúc như trông giàn hợp xướng. “Thỏa ước ngừng chiến nhé?” nhện Elder đề nghị.


      Perenelle gật đầu. “Thỏa ước ngừng chiến,” bà đồng ý. “Dường như chúng ta có kẻ thù chung.”


      Areop-Enap di chuyển đến cánh cửa xà lim. “Bà có biết tôi đến đây bằng cách nào ?”


      “Tôi phần nào hi vọng bà có thể kể cho tôi nghe chuyện đó,” Perenelle .


      Vài con mắt cảnh giác nhìn ngọn giáo bừng sáng, con nhện ngập ngừng bước ra xà lim vào hành lang. “Nơi cuối cùng tôi còn nhớ là đảo Igup. Nó là phần của Polynesia,” nó thêm.


      “Micronesia,” Perenelle . “Tên này được đổi hơn trăm năm mươi năm trước. Chính xác là bà ngủ bao nhiêu năm rồi, Lão Nhện?” bà hỏi, gọi sinh vật này bằng cái tên thườ


      “Tôi … Lần cuối chúng ta gặp nhau và có chút hiểu lầm là khi nào? Tính theo năm loài người ấy, Bà Phù thủy,” nó thêm.


      “Khi tôi và Nicholas ở Pohnpei điều tra tàn tích của Nan Madol,” Perenelle ngay. Bà có trí nhớ gần như hoàn hảo. “Lúc đó khoảng hai trăm năm trước,” bà thêm.


      “Vậy tôi tranh thủ chợp mắt đâu khoảng thời gian đó,” Areop-Enap vừa vừa bước ra xà lim vào hành lang. Đằng sau nó, xà lim trở nên sống động với hàng triệu con nhện. “Tôi như mình vừa thức dậy sau hồi chợp mắt rất ngon lành,” nó chậm rãi . “Tôi nhìn thấy Pháp sư Dee… nhưng mình. Có ai đó nữa— thứ gì đó nữa—với . Chỉ đạo .”


      “Ai vậy?” Perenelle hỏi dồn. “Cố nhớ lại , Lão Nhện, chuyện này rất quan trọng.”


      Areop-Enap nhắm từng con mắt lại và nó cố khơi gợi lại xem chuyện gì xảy ra. “Cái gì đó ngăn tôi lại,” nó , tất cả con mắt của nó mở ra cùng lúc. “Cái gì đó rất mạnh. Ai đó cùng với được bảo vệ bằng tấm chắn ma thuật cực kỳ mạnh.” lên rồi nhìn xuống hành lang. “Đường đó hả?” nó hỏi.


      “Đường này.” Perenelle chỉ bằng ngọn giáo. Dù Areop-Enap kêu gọi ngưng chiến, nhưng Perenelle muốn đừng trước trong những Elder mạnh nhất mà có thứ vũ khí gì. “Tôi ngạc nhiên tại sao muốn bà trở thành tù nhân.” ý nghĩ bất chợt đến và bà đột ngột ngừng lại đến nỗi Areop-Enap va phải bà, gần như úp nguyên phần mặt lên cái sàn đầy bùn. “Nếu bà phải chọn lựa, Lão Nhện, nếu phải chọn giữa việc các Elder trở lại thế giới này với việc để nó lại trong bàn tay của loài người, bà chọn ai?”


      “Nữ Phù thủy,” Areop-Enap , mồm hé ra như tạo nụ cười để lộ những cái răng kinh khủng, “tôi là trong những Elder cổ vũ việc chúng ta nên để lại trái đất này cho dòng dõi loài vượn. Tôi nhận thấy rằng thời của chúng ta hành tinh này qua rồi; chúng ta hầu như hủy hoại nó bằng chính tính ngạo mạn của mình. đến lúc nhường bước và để nó lại cho loài người.”


      “Vậy bà ưa thích gì việc trở lại của các Elder?”


      .”


      “Và nếu có cuộc chiến, bà đứng về phe ai—các con người?”


      “Nữ Phù thủy,” Areop-Enap rất nghiêm túc. “Trước đây tôi từng sát cánh với loài người. Cùng với họ hàng của mình, Hekate và Bà Phù thủy Endor, tôi giúp mang lại văn minh cho hành tinh này. Mặc cho dáng vẻ bề ngoài tôi thế nào, nhưng lòng trung thành của tôi luôn dành cho con người.”


      “Và đó là lý do vì sao bây giờ Dee phải nhốt bà. thể để cho người mạnh như bà kề vài chiến đấu cùng loài người được.”


      “Vậy cuộc đối đầu quả thực phải gần lắm rồi,” Areop-Enap . “Nhưng Dee và các Elder Đen tối thể làm gì được cho tới khi chúng chiếm được Cuốn sách của…” Tiếng Areop-Enap kéo dài ròi mất hút. “Chúng có cuốn sách rồi hả?”


      “Hầu như là vậy,” Perenelle khốn khổ xác nhận. “Và bà nên biết phần còn lại của câu chuyện. Bà có thường nghe đến lời tiên tri về cặp sinh đôi ?”


      “Tất nhiên. Lão già vớ vẩn, Abraham, cứ luôn mồm ra rả về cặp sinh đôi và viết quàng xiên những lời tiên tri thể giải đoán được của lão ấy lên cuốn Codex. Bản thân tôi bao giờ tin lời nào trong đó. Và trong ngần ấăm quen biết lão ta, tôi thấy lão chưa bao giờ có lấy được điều đúng.”


      “Nicholas tìm thấy cặp sinh đôi.”


      “Chà.” Areop-Enap im lặng lúc, rồi nhún cái gì đó như cái vai, những con mắt cùng lúc nhấp nháy đóng lở như dàn hợp xướng. “Vậy là Abraham cũng đúng được điều; giỏi, đó là điều đầu tiên.”


      Trong lúc vất vả bước trong lớp bùn ngập đến mắt cá chân, Perenelle thuật lại những chi tiết những gì bà khám phá trong những xà lim bên , bà để ý thấy dù kích thước to lớn, nhưng nhện Elder lại như lướt bề mặt lớp nhớp nhúa đó. Phía sau họ, tường và trần là rung rung hàng triệu con nhện theo Elder. “Tôi tự hỏi tại sao Dee giết chết bà .”


      thể,” Areop-Enap cách đơn giản. “Cái chết của tôi lay động đến vô số những Vương quốc Bóng tối. như Hekate, tôi có nhiều bạn bè, và rất nhiều trong số họ đến điều tra. Dee muốn chuyện đó.” Areop-Enap im bặt, nó bước đến cây giáo đầu tiên trong số những cây giáo mà Perenelle đẩy xuống. cái chân khổng lồ lật nó lên, con nhện xem xét những vệt mờ nhạt của nét chữ tượng hình được vẻ đầu ngọn giáo. “Tôi tò mò,” nó ngọng nghịu. Những Ngôn từ Quyền Năng này. Chúng cổ xưa lắm rồi từ khi Elder còn thống trị trái đất. Và tôi nghĩ chúng tôi phá hủy chúng lẫn tất cả những gì ghi nhận về chúng. Làm thế nào mà tay Pháp sư người kia khám phá ra chúng được?”


      “Tôi ngạc nhiên vì nhưng thứ tương tự như vậy,” Perenelle lật ngọn giáo trong tay bà để nhìn vào những nét tượng hình vuông vức. “Có lẽ là sao chép được cậu thần chú ở đâu đó.


      ,” Areop-Enap . “Những từ đặt riêng lẻ vẫn có sức mạnh, điều đó đúng, nhưng Dee sắp xếp chúng thành kiểu mẫu đặc biệt để nhốt được tôi trong xà lim. Mỗi lần tôi cố trốn thoát, là cứ như thể là tôi đâm đầu vào bức tường cứng ngắc. Trước đây tôi từng nhìn thấy kiểu mẫu đó, nhưng đó là vào những ngày trước cả cơn sụp đổ của Danu Talis. Thực ra, bây giờ nghĩ lại, tôi mới nhớ lần cuối cùng tôi thấy kiểu này lúc ấy trước khi chúng tôi tạo ra lục địa đảo và kéo nó từ đáy biển lên. người nào đó chỉ dẫn cho Dee; người biết cách tạo ra Thần chú Canh giữ đầy ma thuật này, người nào đó từng nhìn thấy chúng.”


      ai biết Elder của Dee là ai, phục vụ cho ai,” Perenelle tư lự . “Nicholas hoài công hàng thập kỷ cố khám phá xem rốt cuộc ai điều khiển tay Pháp sư


      ai đó già,” Areop-Enap . “Già như tôi hoặc thậm chí còn già hơn. trong những Elder vĩ đại, có lẽ vậy.” Tất cả những con mắt của nhện Elder nhấp nháy. “Nhưng điều đó thể; ai trong số họ sống sót sau Sụp đổ của Danu Talis cả.”


      “Bà sống sót.”


      “Tôi phải là trong những Elder vĩ đại,” Areop-Enap đơn giản.


      Họ đến đầu bên kia của đường hầm và de Ayala chớp mắt hữu trước mắt họ. Ông là hồn mà hàng mấy thế kỷ và nhìn thấy những điều kỳ diệu cũng như những loài quỷ sứ, nhưng ông chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì như Areop-Enap, và việc trông thấy sinh vật khổng lồ này làm ông bang hoàng nên lời.


      “Juan,” Perenelle nhàng. “ tôi nghe xem.”


      “Nữ thần Quạ ở đây,” cuối cùng ông ta mới . “Mụ ta gần như ở phía chúng ta, đậu đỉnh tháp nước hệt như con kền kền khổng lồ. Mụ ta chờ bà bước ra. Mụ ta tranh cãi với con nhân sư,” hồn ma thêm. “Con nhân sư rằng các Elder đãho nó; Morrigan lại tuyên bố rằng Dee bảo bà là của mụ ta.”


      vui vì được nhiều người ưa chuộng,” Perenelle vừa vừa nhìn theo chiều dài của ống thông gió vào vùng tối. Bà liếc xéo sang Areop-Enap. “Tôi tự hỏi biết mụ ta có biết bà ở đây .”


      chắc,” Lão Nhện . “Dee chắc hẳn chẳng có lý do gì phải cho mụ ta biết, và với quá nhiều sinh vật thuộc thần thoại đầy ma thuật hòn đảo này, mụ ta thể phân biệt được luồng điện của tôi đâu.”


      Perenelle xoắn môi bật ra nụ cười làm bừng sáng khuôn mặt bà. “Chúng ta làm mụ ấy ngạc nhiên chăng?”






      CHƯƠNG 46


      Josh Newman dừng lại và nuốt nước bọt cách khó khăn. Lúc này bất cứ giây phút nào, cậu cũng thấy mình như sắp sửa nôn ra. Dù trời mát lạnh và lòng đất ẩm ướt, nhưng cậu vẫn đổ mồ hôi, tóc cậu ép sát vào da đầu, chiếc áo thun lạnh lẽo và dính sát dọc theo chiều dài xương sống cậu. Cậu vượt hoảng sợ, băng qua nổi kinh hãi và lao thẳng vào trạng thái gần như chết điếng.


      vào hệ thống cống rãnh là đủ tồi tệ lắm rồi. Dee giật mạnh tấm đậy miệng cống ra khỏi nền đất mà cần chút cố gắng nào, và họ thình lình bật mạnh ra sau khi chùm khí hôi thối, bẩn thỉu bị hút lên con đường. Khi mùi giạt bớt , Dee tuột vào lỗ hổng đó, giây lát sau Josh làm theo và cuối cùng là Machiavelli. Họ trèo xuống cái thang kim loại ngắn và đứng ở phía đầu bên kia trong đường hầm quá hẹp đến nổi họ phải hàng và quá thấp đến nổi chỉ mình Dee có thể thẳng người. Đường hầm nghiêng dần, và Josh há miệng hớp hơi mạnh vì nước lạnh như nước đá thình lình chảy ngập giày cậu. thứ mùi kinh khủng, và cậu đánh liều cố nghĩ đến những gì cậu lội qua.


      Dee tạo ra quả cầu ánh sáng màu trắng ngả màu xanh lơ lạnh lẽo, mùi trứng thối khó chịu của lưu huỳnh át những mùi trong cống rãnh. Quả cầu nhấp nhô và nhảy múa trong trung cách khoảng ba tấc trước mặt Pháp sư, quét lên toàn bộ bên trong đường hầm mái vòm chật hẹp thứ ánh sáng xám tro trần trụi hòa lẫn vào bóng tối sâu thẳm thể xuyên thấu được. Khi họ lõm bõm tiến lên, Josh có thể nghe tiếng những vật chuyển động và thoáng thấy những điểm sáng màu đỏ lấp lánh đổi chỗ trong bóng đen. Cậu hi vọng chúng là những con chuột.


      “Tôi …” Josh lên tiếng, giọng cậu méo mó vang lên trong đường hầm chật hẹp. “Thiệt tình là tôi thích những gian tí nào.”


      “Tôi cũng vậy,” Machiavelli thêm vừa đủ nghe. “Có thời gian ngắn tôi bị nhốt trong tù, lâu lắm rồi. Tôi bao giờ quên cảm giác


      “Có tệ giống như vậy ?” Cậu hỏi, giọng run run.


      “Tệ hơn chứ.” Machiavelli bước phía sau Josh và chồm người ra đằng trước thêm, “Ráng bình tĩnh . Đây chỉ mới là đường hầm bảo dưỡng; chúng ta vào những cống rãnh riêng trong giây lát nữa.”


      Josh hít hơi sâu và bịt miệng vì cái mùi. Cậu phải nhớ chỉ thở bằng miệng thôi. “Và điều đó giúp được gì?” cậu làu bàu qua kẻ răng.


      “Những cống rãnh của Paris là những tấm gương phản chiếu đường phố bên ,” Machiavelli giải thích, hơi thở ấm của phả vào tai Josh. “Những ống cống lớn hơn cao đến bốn mét rưỡi.”


      Machiavelli đúng; chỉ sau ít phút họ thoát khỏi đường hầm bảo dưỡng tù túng và kín mít để vào ống cống cao có khung vòm đủ rộng để lái chiếc xe hơi xuyên qua. Những bức tường bằng gạch được chiếu sáng và viền bằng những đường ống đen có cảm giác độ dày khác nhau. Đâu đó đằng xa, nước tung tóe chảy ùng ục.


      Josh cảm thấy chứng sợ gian hẹp dịu chút ít. Thỉnh thoảng Sophie lại phát sợ trong những gian mở rộng; cậu sợ những chỗ bị vây chặt chung quanh. Chứng sợ khoảng rộng và chứng sợ khoảng hẹp. Cậu hít hơi thâu; khí vẫn tuôn ra mùi hôi thối, nhưng ít ra còn thở được. Cậu kéo vạt trước của chiếc áo thun đen lên phủ mặt và hít vào: nó bóc mùi. Khi nào ra khỏi đây—nếu cậu còn ra khỏi đây được—cậu phải đốt hết mọi thứ, cả chiếc quần jeans thiết kế riêng đụng hàng mà Saint-Germain tặng cho cậu. Cậu vội vàng thả cái áo xuống, nhận ra rằng gần như cậu phơi ra cái túi đựng hai trang của cuốn Codex sợi dây cậu đeo nơi cổ. Mặc cho chuyện gì xảy ra bây giờ, cậu kiên quyết trao nộp những trang sách này cho Dee, giao cho tới khi cậu chắc chắn—rất rất rất chắc chắn—rằng động cơ của Pháp sư là lương thiện.


      “Chúng ta ở đâu?” cậu kinh ngạc thốt ra, ngoái nhìn Machiavelli. Dee vào giữa ống cống rồi, trái banh cứng màu trắng giờ xoay tròn ngay lòng bàn tay xòe rộng của .


      Tay người Ý liếc nhìn xung quanh. “Tôi hình dung ra,” thú nhận. “Có khoảng hai ngàn trăm ki lô mét ống cống—khoảng ngàn ba trăm dặm,” nhìn thấy cái nhìn trống rỗng khuôn mặt Josh, bổ sung. “Nhưng đừng lo, chúng ta lạc đường đâu. Hầu hết đều có bảng chỉ đường của riêng chúng.”


      “Bảng chỉ đường trong hệ thống cống rãnh?”


      “Hệ thống cống rãnh của Paris là trong những điều kỳ diệu lớn lao nhất của thành phố này,” Machiavelli


      “Lại đây!” Tiếng Dee vỡ ra, vang vọng trong gian phòng.


      “Ông có biết chúng ta ở đâu ?” Josh hỏi cách thanh thản. Bằng kinh nghiệm cậu biết mình cần phải để trí minh mẫn xao lãng ; khi cậu bắt đầu nghĩ đến chật hẹp của các đường hầm và sức nặng khối đất phía cậu, chứng sợ khoảng hẹp biến cậu thành người suy nhược.


      “Chúng ta xuống, vào phần sâu nhất, cổ nhất của hầm mộ. Cậu được Đánh thức.”


      “Ông có biết người mà chúng ta sắp gặp ?”


      Gương mặt thường hay dửng dưng của Machiavelli nhăn nhó đến co rúm lại. “Biết. Qua danh tiếng thôi. Tôi chưa hề gặp mặt bao giờ.” hạ giọng chỉ nhỉnh hơn tiếng thầm chút và nắm tay áo Josh, kéo cậu lùi lại. “Chưa quá trễ để quay lại đâu,” .


      Josh chớp mắt kinh ngạc. “Dee thích vậy.”


      “Chắc chắn là thích rồi,” Machiavelli tán thành kèm theo nụ cười chế giễu.


      Josh bối rối. Dee với Machiavelli phải là bạn , và ràng là hai người đàn ông này hợp nhau. “Nhưng tôi nghĩ ông và Dee cùng phe.”


      “Cả hai chúng tôi đều phục vụ cho các Elder, đó là ,… nhưng tôi bao giờ tán thành Pháp sư người này và những phương pháp của ông ta.”


      Dẫn đầu nhóm, Dee rẽ vào đường hầm và ngừng lại trước cánh cửa kim loại được bảo vệ bằng cái khóa móc dày cộp. cấu ngang bản lề của khóa móc kim loại bằng những móng tay hôi thối nhiễm đầy năng lượng màu vàng bẩn thỉu và kéo cánh cửa mở bật ra. “Nhanh lên,” gọi với ra sau cách thiếu kiên nhẫn.


      “Người… người mà chúng ta sắp gặp đây,” cậu chầm chậm, “họ có thể Đánh thức năng lượng của tôi ?”


      “Tôi nghi ngờ gì về việc này,” Machiavelli dịu dàng. “Việc Đánh thức quan trọng với cậu lắm sao?” hỏi, và Josh ý thức rằng Machiavelli chăm chú nhìn cậu rất gần.


      “Chị tôi được Đánh thức—chị sinh đôi của tôi,” cậu giải thích chậm rãi. “Tôi muốn… tôi cần Đánh thức năng lượng mình để chúng tôi lại được giống nhau.” Cậu nhìn người đàn ông cao ráo có mái tóc t“Điều đó có ý nghĩa gì ?”


      Machiavelli gật đầu, gương mặt mang chiếc mặt nạ rất khó đọc được cảm xúc. “Nhưng đó có phải là lý do duy nhất , Josh?”


      Cậu con trai nhìn hồi lâu trước khi quay chỗ khác. Machiavelli đúng; đó phải là lý do duy nhất. Khi cầm thanh Clarent, cậu trải nghiệm thoáng lờ mờ của những gì hẳn phải giống như những giác quan được Đánh thức. Trong chốc lát, cậu cảm thấy mình sống, cậu cảm thấy trọn vẹn… và hơn bất cứ thứ gì khác, cậu muốn được trải nghiệm cảm giác đó lần nữa.


      Dee dẫn họ vào đường hầm khác, thậm chí còn hẹp hơn đường hầm thứ nhất nữa là khác. Josh cảm thấy dạ dày quặn siết lại và trái tim bắt đầu đập thùi thụi. Đường hầm này bẻ ngoặt và quanh co đâm xuống bên dưới thành chuỗi các cầu thang thanh mảnh. Những phiến đá ở đây cũ hơn, những bậc thang hình dáng đều, những bức tường mềm và bể vụn khi họ chạm qua. Ở vài chỗ nó quá hẹp đến nỗi Josh phải xoay mình nghiêng qua bên để nhét người vào. Cậu bị kẹp lại trong góc đặc biệt chật hẹp và đột nhiên bắt đầu cảm thấy cơn đau khó thở sôi sục trong ngực cậu. Rồi Dee nắm cánh tay cậu và hề khách sáo kéo mạnh cậu lọt qua, xé đường dài phía sau lưng áo thun của cậu. “Gần đến đó rồi,”

      Machiavelli làu bàu. hơi nâng cánh tay lên và trái banh ánh sáng bạc nhấp nhô lập tức bay lên cao hơn trong khí, để lộ ra đường hầm gạch loang lỗ.



      “Đợi chút ; để tôi còn kịp thở chứ.” Josh cúi gập người, bàn tay đặt đầu gối, thở dốc. Cậu nhận ra rằng bao lâu cậu còn tập trung vào trái banh ánh sáng và nghĩ đến tường và trần sát người cậu cậu vẫn OK. “Làm sao ông biết chúng ta đâu?” cậu hổn hển. “Trước nay ông từng ở đây chưa?”


      “Hồi đó tôi từng ở đây… lâu lắm rồi,” Dee , nhe răng cười. “Còn bây giờ, tôi chỉ theo ánh sáng này thôi.” Ánh sáng trắng gay gắt làm cho nụ cười của Pháp sư biến thành cái gì đó rất nguy hiểm.


      Josh nhớ lại mánh khóe huấn luận viên bóng đá của cậu dạy cậu. Cậu quấn bàn tay mình quanh dạ dày và ép mạnh khi cậu hít vào và đứng thẳng dậy. Cảm giác buồn nôn chợt dịu hẳn. “Chúng ta sắp gặp ai?” cậu hỏi.


      “Kiên nhẫn nào, giống người, hãy kiên nhẫn.” Dee nhìn ngang qua Josh đến chỗ Machiavelli đứng. “Tôi chắc chắn ông bạn người Ý của chúng ta tán thành. trong những lợi thế lớn lao của người bất tử là người ta học được tính kiên nhẫn. Có câu : ‘những điều tốt đẹp đến với những ai biết chờ đợi’.”


      phải lúc nào cũng làiều tốt đẹp,” Machiavelli làu bàu khi Dee quay chỗ khác.


      Ở cuối đường hầm hẹp là cánh cửa kim loại thấp, trông như thể được mở ra hàng thập kỷ nay và lớp kim loại cứng bị gỉ ấy ăn vào bức tường đá vôi rỉ nước. Dưới ánh sáng trắng, Josh nhìn thấy rỉ sét nhuộm phiến đá trắng nhờ nhờ thành thứ màu như máu khô.


      Trái banh ánh sáng nhấp nhô trong khí khi Dee miết móng tay màu vàng sáng rực quanh rìa cánh cửa, cắt nó rời khỏi khung, mùi trứng thối khó chịu đè lên mùi cống rãnh.


      qua khỏi đây là cái gì?” Josh hỏi. Vì bắt đầu kiềm chế nỗi sợ hãi của mình, nên cậu cảm thấy chút hồi hộp. khi cậu được Đánh thức, cậu chuồn khỏi đây và trở lại với Sophie. Cậu quay người nhìn Machiavelli, nhưng tay người Ý lắc đầu và chỉ vào Dee. “Tiến sĩ Dee?” Josh hỏi.


      Dee đập cho cánh cửa thấp mở ra và giật nó khỏi cái khung. Đá mềm bể vụn và rơi xuống chung quanh như tuyết. “Nếu tôi đúng—và hầu như tôi luôn đúng,” Pháp sư thêm, “ lối này dẫn chúng ta vào Những Hầm mộ của Paris.” Dee để cánh cửa dựa vào tường rồi bước qua lỗ hổng.


      Josh hụp người lòn xuống theo . “Tôi chưa bao giờ nghe về chúng cả.”


      “&Iười bên ngoài Paris được nghe,” Machiavelli , “song, cùng với cống rãnh, chúng là trong những kỳ công của thành phố này. hai trăm bảy mươi cây số đường hầm bí và rối rắm phức tạp. Những hầm mộ từng là mỏ đá vôi. Và bây giờ chúng đầy …”


      Josh bước qua lổ hổng, đứng thẳng lên và nhìn quanh.


      “… những xương.”


      Cậu con trai cảm thấy cái gì đó quặn lại nơi lõm thượng vị và cậu nuốt nước bọt cách khó khăn, vị chua và đắng nghét đằng sau cổ họng cậu. Ngay phía trước, trong chừng mực cậu có thể nhìn thấy trong đường hầm u ám, những bức tường, khoảng trần uốn vòm và thậm chí dưới sàn đều xếp đầy những khúc xương người bóng láng.






      CHƯƠNG 47


      Nicholas vừa bẩy cái nắp miệng cống lên được điện thoại của Joan reo vang, tiếng líu ríu the thé ở cung bậc chói tai làm tất cả họ đều nhảy dựng lên vì sợ hãi. Nhà Giả kim thả rơi cái nắp đậy vào chỗ cũ kêu tiếng vang rền, ông lẹ làng nhảy giật lùi lại trước khi nó rơi thẳng xuống mấy ngón chân ông.


      “Francis,” Joan vừa bảo họ vừa búng tay mở điện thoại. với Saint-Germain bằng giọng Pháp liến thoắng và rồi bật đóng điện thoại cầm tay nghe tiếng tách. “ ấy” . “ ấy rằng vì bất cứ lý do gì mà chúng ta chui xuống vào hầm mộ mà ấy.”


      “Nhưng chúng ta thể chờ,” Sophie phản đối.


      “Sophie đúng. Chúng ta nên—” Nicholas lên tiếng.


      “Chúng ta chờ,” Joan quả quyết bằng giọng từng có lần ra lệnh cho cả đạo quân. đặt bàn chân nhắn lên cái nắp đậy miệng cống.


      “Họ mất thôi,” Sophie cách tuyệt vọng.


      “Francis ấy biết họ đâu,” Joan rất nhàng. quay người Nhà Giả kim. “ ấy ông cũng biết. Phải vậy ?” hỏi gặng.


      Nicholas hít vào hơi và rồi gật đầu dứt khoát. Ánh sáng trong buổi sáng sớm cuốn hết mọi sức sống khỏi khuôn mặt ông, để lại đó màu da nén bị phai . Những quầng thâm dưới mắt ông tím rịm và sưng phồng lên. “Tôi tin như vậy.”


      đâu cơ?” Sophie hỏi. cố giữ bình tĩnh. luôn kiềm chế tâm trạng của mình tốt hơn cậu em trai, nhưng ngay lúc này chỉ muốn ngửa cổ lên trời v kêu thét lên trong cơn tuyệt vọng. Nếu Nhà Giả kim biết Josh đâu, tại sao họ đến thẳng đó ngay bây giờ?


      “Dee mang Josh nhờ người Đánh thức năng lượng của cậu ấy,” Flamel chậm rãi , ràng là ông cẩn thận lựa lời.


      Sophie cau mày, rối trí. “Điều đó có gì xấu? Chúng ta chẳng phải muốn vậy sao?”


      “Đúng, đó là điều chúng ta muốn, nhưng phải cách chúng ta muốn.” Dù khuôn mặt ông biểu lộ gì, nhưng có nỗi đau trong đôi mắt ông. “Phụ thuộc rất nhiều vào việc ai—hay cái gì—Đánh thức năng lượng của người. Đó là quá trình rất nguy hiểm. Thậm chí có thể chết.”


      Sophie từ từ quay người nhìn ông. “Song chú lại sẵn sàng cho phép Hekate Đánh thức cả cháu và Josh.” Suốt từ đầu đến giờ em trai luôn đúng: Flamel đặt cả hai chị em trong nguy hiểm. Giờ có thể nhìn thấy điều đó.


      “Việc đó cần thiết để cháu tự bảo vệ mình. Có nguy hiểm, phải, nhưng đứa nào trong các cháu gặp bất cứ nguy hiểm nào trong tay Nữ thần ấy.”


      “Vậy những loại nguy hiểm nào?”


      “Hầu hết các Elder bao giờ hào phóng với những gì họ gọi là giống người. Rất ít trong số họ sẵn sàng ban tặng mà kèm vài loại kiều kiện,” Flamel giải thích. “Món quà hấp dẫn nhất các Elder có thể ban cho là bất tử. Con người muốn sống vĩnh hằng. Cả Dee lẫn Machiavelli đều phục vụ cho các Elder Đen tôi là những người tặng cho chúng bất tử.”


      “Phục vụ?” Sophie vừa hỏi vừa nhìn từ Nhà Giả kim sang Joan.


      “Chúng là những kẻ hầu hạ,” Joan dịu dàng , “ vài người gọi là nô lệ. Đó là cái giá cho bất tử và sức mạnh.”


      Điện thoại của Joan reo lên với kiểu đổ chuông đó và bật mở nắp điện thoại. “Francis?”


      “Sophie,” Flamel bình thản tiếp, “món quà bất tử có thể bị lấy khỏi người bất cứ lúc nào, và nếu điều đó xảy ra tất cả những năm tháng họ sống cách tự nhiên đó ập đến với họ trong giây lát. số các Elder bắt những người họ Đánh thức làm nô lệ, biến họ thành những người chỉ đỡ hơn người dở sống dở chết chút thôi.”


      “Nhưng Hekate làm cho cháu thành bất tử khi bà ấy Đánh thức cháu,” Sophie cãi.


      như Bà Phù thủy Endor, trỉa qua vô số những thế hệ Hekate hề quan tâm đến con người. Bà luôn giữ trung lập trong các cuộc chiến tranh giữa những người như bọn chú thường bảo vệ con người chống lại những Elder Đen tối.” nụ cười cay đắng vặn vẹo đôi môi mỏng dính của ông. “Có lẽ nếu bà ấy chọn đứng về phe, đến hôm nay biết đâu bà vẫn còn sống.”


      Sophie nhìn vào đôi mắt xanh nhợt nhạt của ông. lại nghĩ rằng nếu Flamel vào Vương quốc Bóng tối của Hekate, chắc hẳn là Elder đó vẫn còn sống. “Chú Josh gặp nguy hiểm hả?” cuối cùng .


      “Nguy hiểm khủng khiếp.”


      Cái nhìn chằm chằm của Sophie rời khuôn mặt của Flamel. Josh gặp nguy hiểm phải vì Dee và Machiavelli, nhưng bởi vì Nicholas đặt hai chi em vào tình huống kinh khủng này. Ông ta bảo vệ chúng, ông ta vậy, và có lần từng tin như vậy mà hề đặt câu hỏi. Nhưng bây giờ… bây giờ biết phải nghĩ gì.


      “Chà.” Joan đóng nắp điện thoại nghe tiếng tách, nắm tay Sophie và kéo xuống con hẻm về phía con phố. “Francis đường tới đây.”


      Flamel nhìn nắp đậy miệng cống lần cuối, rồi đút thành Clarent bên dưới áo khoác và vội vã theo sau


      Joan dẫn họ ra khỏi con phố ngang hẹp lên địa lộ du President Wilson, rồi nhanh nhẹn rẽ trái vào đường Debrousse và hướng trở lại về phía dòng sông. gian đầy những thanh của vô số tiếng còi xe cảnh sát và xe cứu thương, và trong khoảng trời đầu những chiếc trực thăng cảnh sát kêu rù rù thấp thành phố. Đường phố hầu như hoàn toàn trống trơn, và ai để ý đến ba người chạy tìm chỗ náu.


      Sophie rùng mình; toàn bộ quang cảnh quá kỳ dị. Giống những gì nhìn thấy trong cuốn phim tài liệu về chiến tranh kênh Discovery.


      Đến cuối đường Debrousse, họ gặp Saint-Germain chờ trong chiếc BMW đen có đặc tính gì rệt ngoài việc rất cần phải rửa. Cánh cửa hành khách đằng sau hơi mở hé, và tấm kính cửa sổ nhuộm màu ở chỗ tài xế hạ xuống kêu rền rền khi họ đến gần. Saint-Germain cười toét miệng có vẻ vui mừng. “Nicholas, thầy nên về nhà thường hơn; thành phố hỗn loạn quá. Tất cả đều kích động khủng khiếp. Con chừa từng phấn khích nhiều như thế này hàng mấy thế kỷ nay.”


      Joan chuồi xuống bên cạnh chồng, trong khi Nicholas và Sophie bước ra băng sau. Saint-Germain khỏi động, tiếng động cơ nổ như đại bác, nhưng Nicholas chồm người ra phía trước và siết vai ông.


      “Đừng chạy nhanh quá. Chúng ta cần làm mọi người chú ý đâu,” ông cảnh báo.


      “Nhưng với tình trạng hoảng loạn đường phố thế này, chúng t cũng thể lái xe chậm được,” Saint-Germain chỉ ra ngoài. Ông giảm tốc độ cho xe ra khỏi khúc quanh và bắt đầu lên đường xuống đại lộ New York. Ông lái xe bằng tay đặt tay lên tay lái, còn tay kia rũ xuống lưng ghế, vặn người ra sau để chuyện với Nhà Giả kim.


      Hoàn toàn chết lặng, Sophie ngồi sụp xuống dựa vào cửa sổ, nhìn chồng chọc vào dòng sông lắp lóa bên tay trái mình. Xa xa, phía đối diện với dòng sông Seine giờ có thể nhận ra tháp Eiffel quen thuộc vút lên những mái nhà. thấy kiệt sức và đầu quay mòng mòng. rối tung lên khi nghĩ đến Nhà Giả kim. Nicholas thể là người tồi tệ, phải vậy ? Saint-Germain và Joan—Scatty nữa— ràng rất kính trọng ông. Ngay cả Hekate và Bà Phù thủy Endor cũng thích ông. Những ý nghĩ lung linh mà biết phải của cứ lởn vởn đúng nơi bờ rìa tâm thức , những khi cố tập trung vào, chúng lại trôi . Chúng là ký ức của Bà Phù thủy, và theo bản năng, biết chúng rất quan trọng. Chúng có liên quan đến những hầm mộ, và những sinh vật sống trong vùng sâu thẳm đó…


      “Người ta cho biết, cảnh sát báo cáo là phần hầm mộ bị sụp và làm mấy căn nhà sập theo,” Saint-Germain . “Họ tuyên bố răng những cống rãnh bị gãy làm rỉ khí mê-tan, cacbonic và CO lên thành phố. Khi vức trung tâm Paris bị phong tỏa và di tản. Người ta khuyên mọi người nên ở nguyên trong nhà.”


      Nicholas ngã người vào ghế ngồi bọc da và nhắm mắt. “Có ai bị thương ?” ông hỏi.>“ số ít bị đứt tay chân và thâm tím, ngoài ra thấy báo cáo nào nghiêm trọng hơn.”


      Joan lắc đầu kinh ngạc. “Nếu xét đến những thứ vừa bị giẫm đạp, giày xéo khắp thành phố, đó đúng là phép màu nho rồi.”


      “Nidhogg có bị nhìn thấy ?” Nicholas hỏi.


      “Chưa có bất kỳ tin tức chính thức nào được đăng, nhưng có số hình ảnh lắm chụp bằng điện thoại di động được đưa lên blog, và cả hai tờ Le Monde và Le Figaro đều tuyên bố là họ có những hình ảnh đọc quyền về những gì mà họ gọi là ‘Sinh vật từ Hầm mộ’ và ‘Quái thú Địa ngục’.”


      Sophie chồm người ra phía trước, theo dõi cuộc chuyện. nhìn từ Nicholas sang Saint-Germain và rồi quay trở lại Nhà Giả kim. “Chẳng bao lâu cả thế giới biết . Rồi chuyện gì xảy ra?”


      có gì cả,” hai người đàn ông cùng lượt.


      có gì sao? Nhưng điều đó thể?”


      Joan xoay người trong ghế. “Nhưng đó là những gì sắp xảy ra. Chuyện này được che đậy lại.


      Sophie nhìn Flamel. Ông gật đầu tán thành. “Đơn giản là hầu hết mọi người dù có thế nào cũng tin, Sophie. Chuyện này rồi cũng qua như trò chơi khăm hay trò đùa tinh nghịch thôi. Những người cho đó là chuyện được gọi là những nhà lý luận về mưu ỉm tin. Và cháu có thể chắc chắn rằng người của Machiavelli tiêu hủy hết mấy bức ảnh đó rồi.”


      việc chỉ xảy ra trong hai tiếng đồng hồ,” Saint-Germain , “những biến cố như sáng nay đơn giản được báo cáo là tai nạn rủi ro. Việc trông thấy con quỷ bị cười nhạo và được nêu qua loa như chứng cuồng loạn nào đó thôi.”


      Sophie lắc đầu tin. “Ông thể giấu giiếm những chuyện này như thế mãi được.”


      “Các Elder làm như vậy trong suốt các thiên niên kỷ nay,” Saint-Germain vừa vừa nghiêng tấm kính chiếu hậu để có thể nhìn Sophie. Ở vùng tối bên trong chiếc xe, bé nghĩ đôi mắt xanh lơ nhạt của ông hơi rực sáng. “Và phải nhớ rằng loài người ra muốn tin vào ma thuật. Họ muốn biết rằng thần thoại và huyền thoại là những chuyện hầu như luôn dựa .”


      Joan giơ tay ra và đặt tay mình nhàng cánh tay chồng. “Nhưng em đồng ý; con người luôn tin vào ma t chứ. Chỉ trong vài thế kỷ sau cùng này lòng tin đó mới biến mất thôi. Em nghĩ rằng họ muốn tin, bởi vì tận trong tim mình, họ biết đó là . Họ biết rằng ma thuật thực tồn tại.”


      “Cháu thường tin vào ma thuật,” Sophie rất thanh thản. bé lại quay người nhìn ra thành phố, nhưng phản chiếu trong tấm kính, lại nhìn thấy phòng ngủ của trẻ con được sơn màu tươi sáng: phòng ngủ của bé, năm, có lẽ là sáu năm trước. hình dung được nó ở đâu—căn nhà ở Scottsdale, có thể, hay chắc hẳn là ở Raleigh; lúc ấy họ di chuyển loanh quanh quá nhiều. ngồi giữa giường, chung quanh là những cuốn sánh thích của mình. “Hồi cháu còn , cháu đọc truyện công chúa và thầy phù thủy, hiệp sĩ và pháp sư. Mặc dù biết đó chỉ là truyện, nhưng cháu muốn ma thuật có thực. Cho tới bây giờ,” thêm giọng đầy cay đắng. ngoảnh đầu nhìn Nhà Giả kim. “Tất cả những chuyện thần tiên có thực chú?”


      Flamel gật đầu. “ phải mọi chuyện thần tiên, chỉ những chuyện huyền thoại là dựa vào ; mọi truyện thần thoại là dựa những việc có .”


      “Ngay cả những chuyện rùng rợn?” thào.


      “Đặc biệt là những chuyện rùng rợn.”


      nhóm ba chiếc trực thăng săn tin bay thấp kêu ù ù đầu, tiếng ồn áo từ những cánh quạt của chúng làm rung đến tận bên trong chiếc xe, Flamel chờ đến khi chúng qua rồi ông mới chồm tới trước. “Ta đâu đây?”


      Saint-Germain chỉ thẳng ra phía trước mé bên phải. “Có lối vào bí mật đến các hầm mộ trong vườn Trocadero. Nó dẫn thẳng vào những hầm bị cấm. Con kiểm tra lại những bản đồ cổ; con nghĩ lộ trình của Dee đầu tiên đưa bọn họ xuyên những ống cống rồi xuống những đường hầm sâu hơn. Chúng ta bù được ít thời gian bị mất bằng lối này.”


      Nicholas Flamel ngồi trở lại vào ghế rồi giơ tay siết lấy tay Sophie. “Tất cả rồi tốt thôi,” ông .


      Nhưng Sophie còn tin lời ông.


      Lối vào hầm mộ ngang qua cái vỉ lò thường thấy đặt vào lòng đất. phần phủ đầy rêu và cỏ, nó được giấu trong hàng cây nằm phía sau vòng quay ngựa gỗ được sơn phết rất đẹp và chạm khắc lộng lẫy ở đầu kia vườn rất ăn tượng này đầy tràn du khách, nhưng sáng hôm nay chúng vắng tanh, và những con ngựa gỗ trống lốc của vòng đu quay nhấp nhô lên xuống bên dưới tấm vải bạt kẻ sọc hai màu xanh trắng.


      Saint-Germain cắt ngang lối hẹp và dẫn họ vào miếng cỏ vá màu nâu cháy nắng bởi ánh mặt trời mùa hè. Ông dừng lại tấm vỉ lò kim loại hình tam giác rệt. “Tôi dùng đường này từ năm 194” Ông quỳ xuống, nắm lấy mấy thanh ngang và kéo mạnh. Nó nhúc nhích.


      Joan liếc xéo qua Sophie. “Khi tôi và Francis cùng với những người Kháng chiến Pháp chiến đấu chống lại quân Đức, chúng tôi dùng những hầm mộ này như căn cứ. Chúng tôi có thể xuất bất ngờ bất cứ nơi đâu trong thành phố.” lấy mũi giày gõ vào cái vỉ lò kim loại. “Đây là trong những nơi ưa thích của chúng tôi. Thậm chí trong chiến tranh những khoảnh vườn luôn đầy người, và chúng tôi có thể lẫn vào những đám đông đó cách dễ dàng.”


      khí chợt đượm hương mùa thu đậm đặc mùi lá cháy, và rồi những thanh kim loại trong tay Francis bắt đầu bừng sáng sức nóng đỏ rực, rồi trắng lóa. Kim loại hóa lỏng và chảy tan, những đốm màu sền sệt biến mất bên dưới ống thông gió. Saint-Germain giật mạnh phần còn lại của vỉ lò ra khỏi cái lỗ và ném nó qua bên, rồi đu người xuống cái lỗ. “Có cái thang ở đây.”


      “Sophie, cháu kế tiếp,” Nicholas . “Chú sau cháu. Joan, sau cùng nhé?”


      Joan gật đầu. nắm cạnh của chiếc ghế dài bằng gỗ gần đó và kéo nó ngang qua cỏ. “Tôi kéo nó đặt cái lỗ trước khi trèo xuống. Chúng ta muốn bất kỳ khách tham quan nào rơi vào đây, phải nào?


      Sophie thận trọng trèo xuống cáo lỗ, bàn chân rà tìm những thanh ngang của cái thang. cẩn thận hạ người xuống. tưởng nó phải hôi thối và kinh khiếp lắm, nhưng nó chỉ có mùi nhạt nhẽo và mốc ẩm. bắt đầu đếm những nấc thang nhưng bỏ cuộc đếm nữa đâu đó trong khoảng bảy mươi hai, dù vậy vẫn có thể cách nhanh chóng nhờ vào hình vuông thu của bầu trời đầu họ rằng họ trèo rất sâu xuống bên dưới lòng đất. sợ hãi— phải cho bản thân mình. Những đường hầm và những gian hẹp làm sợ, nhưng em trai rất sợ khoảng hẹp: giờ nó cảm thấy thế nào? Dạ dày đảo lộn như thể có hàng ngàn con bướm dời chuyển; cảm thấy buồn nôn. Miệng khô queo và biết rằng—bằng bản năng, cách mù quáng—rằng đây là cách em trai cảm thấy ngay đúng lúc đo. biết Josh rất sợ hãi.






      CHƯƠNG 48


      Xương,” Josh mà điếng người, cậu nhìn lên nhìn xuống đường hầm.


      Bức tường ở ngay trước cậu được tạo bởi hàng trăm cái đầu lâu chỗ vàng khè bẩn thỉu chỗ trắng hếu như nhúng thuốc tẩy. Dee sải bước xuống hành lang và bầu ánh sáng của ném ra những bóng tối nhảy múa và uốn éo, làm cho khối cầu ra cứ như thể những hốc mắt trống hoác chuyển động, bám theo .


      Josh lớn lên với xương; cậu biết chúng có gì đáng sợ cả. Nghiên cứu của ba cậu là nguyên những bộ xương. Khi còn trẻ con, cả cậu v Sophie chơi trong những nhà kho của viện bảo tang đầy những phần còn lại của bộ xương, nhưng hết thảy chúng là xương của thú và khủng long. Thậm chí Josh còn giúp gắn đuôi của con chim ăn thịt được trung bày trong Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên. Còn những cái xương này… những cái này là… những cái này là…


      “Tất cả những cái này là xương người hả?” cậu thào.


      “Đúng,” Machiavelli nó nhàng, giờ bản chất giọng Ý trong tiếng của . “Những phần còn lại của ít nhất sáu triệu xác người dưới đây. Có lẽ hơn. Những hầm mộ bắt nguồn từ những mỏ đá vôi khổng lồ.” thình lình chĩa ngón tay cái lên phía . “Cũng cùng loại đá vôi này được dùng để xây dựng thành phố. Paris được xây những đường hầm ngang dọc rối rắm.”


      “Họ xuống đây như thế nào?” Tiếng Josh run run. Cậu húng hắng ho, khoanh chặt cánh tay quanh người và ráng giữ vẻ thờ ơ, như thể cậu hoàn toàn sợ hãi gì cả. “Trông chúng cũ kỹ quá; chúng ở đây bao lâu rồi?”


      “Chỉ mới hai trăm năm nay thôi,” Machiavelli , làm cậu ngạc nhiên. “Khoảng cuối thế kỷ mười tám, những bãi tha ma của Paris đầy tràn. Lúc ấy tôi ở trong thành phố,” thêm, miệng vặn xoắn lại vẻ kinh tởm. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ thứ gì như vậy. Có quá nhiều người chết trong thành phố mà những bãi tha ma thường chỉ là những gò đất khổng lồ thấy từng cái xương trong đó. Paris hẳn là trong những thành phố xinh đẹp nhất thế giới, nhưng nó cũng bẩn thỉu nhất. Còn tệ hơn London—và điều này lên được thứ gì đó!” cười lớn, và thanh vang vọng lại giữa những bức tường xương và méo mó thành thứ gớm guốc. “Hôi thối thể tả, và thực có những con chuột bự như con chó. Bệnh tật lan tràn và bộc phát thành trận dịch là chuyện bình thường. Cuối cùng, người ta nhận thấy rằng những khu nghĩa địa đầy tràn này phải có liên quan gì đó đến lây lan. Vì vậy người ta quyết định giải tỏa hết các bãi tha ma và di dời những thứ còn lại xuống các mỏ đá.”


      Cố gắng nghĩ đến thực tế là xương của những người phần lớn chết vì những căn bệnh kinh khủng bao vây quanh mình, Josh tập trung vào những bức tường. “Ai làm ra những hoa văn này?” Cậu vừa hỏi vừa chỉ vào thiết kế trang trí hình pháo hoa mặt trời rất đặc biệt được tạo ra bằng cách dùng xương người với những chiều dài khác nhau để làm những tia nắng.


      Machiavelli nhún vai. “Ai biết được? người nào đó muốn tôn vinh chết, có lẽ vậy; người cố gắng nhận ra được ý nghĩa trong cõi hỗn mạng lạ thường. Con người luôn mong muốn tìm thấy trật tự trong cảnh hỗn loạn,” hắnhàng thêm.


      Josh nhìn . “Ông gọi họ…chúng tôi, là ‘con người’.”


      Cậu quay người tìm Dee, nhưng Pháp sư gần như đến đầu kia của hành lang và ngoài tầm nghe. “Dee gọi chúng tôi là giống người.”


      “Đưng lẫn lộn tôi với Dee,” Machiavelli với nụ cười lạnh tanh.


      Josh bối rối. Ở đây ai là người có quyền lực hơn—Dee hay Machiavelli? Cậu tưởng là Pháp sư, nhưng cậu bắt đầu ngờ rằng tay người Ý này kiểm soát mọi chuyện nhiều hơn. “Scathach với chúng tôi là ông nguy hiểm và xảo quyệt hơn Dee,” cậu vừa nghĩ vừa buột miệng ra.


      Nụ cười của Machiavelli biến thành nụ cười rộng ngoác đầy thích thú. “Đó là điều đẹp đẽ nhất mà ta từng về tôi.”


      “Có vậy ? Ông có nguy hiểm hơn Dee ?”


      Machiavelli ngẫm nghĩ lát. Rồi mỉm cười và đường hầm thoảng mùi rắn nhàn nhạt. “Tất nhiên.”


      “Nhanh lên; lối này,” Tiến sĩ Dee gọi lại, tiếng bị dẹt ra vì những bức tường hẹp và trần thấp. quay người hướng thẳng xuống đường hầm được viền bằng xương, mang ánh sáng theo cùng. Josh định chạy theo , cậu muốn ở mình trong cảnh tăm tối hoàn toàn, nhưng rồi Machiavelli bật tanh tách những ngón tay và ánh sáng trắng xám của ngọn lửa từ vây nến mỏng mảnh thanh lịch ra trong lòng bàn tay.


      phải tất cả những đường hầm đều giống thế này,” Machiavelli vừa tiếp tục, vừa chỉ vào những khúc xương đặt gọn gàng tường, những hình dạng và hoa văn đều đặn. “ số đường hầm đơn giản chỉ là những mẩu và những mãnh xương ăn khớp nhau chất cao lên.”


      Hai người ôm khúc quanh trong đường hầm và thấy Dee chờ, chân gõ nhịp cách nôn nóng. quay người và ngay tiếng nào.


      Josh tập trung nhìn vào lưng Dee và quả cầu ánh sáng nhảy nhót vai khi họ len lỏi sâu dần sâu dần vào khu hầm mộ; làm như vậy giúp cậu quên những bức tường dường nhu cứ tiến sát hơn qua mỗi bước chân. Khi qua đường hầm, cậu để ý có số xương đó những ngày tháng được viết nguệch ngoạc, nghệ thuật cạo bề mặt để lộ lớp bên dưới khác màu này chỉ có từ nhiều thế kỷ nay, và cậu nhận ra rằng chỉ có những bước chân nhắn của Dee in dấu vào lớp bụi dày sàn. Những đường hầm này ai dùng tới từ rất lâu rồi.


      “Người ta có bao giờ xuống tới đây ?” cậu hỏi Machiavelli, chuyện chỉ để nghe được thanh trong im lặng ngột ngạt nặng nề thô


      “Có. phần hầm mộ được mở cho công chúng vào,” Machiavelli , tay vẫn giơ cao, ngọn lửa mỏng manh làm nổi bật hoa văn trang trí bằng xương gắn vào tường, những bóng tối nhảy múa khiến chúng sống động lung linh. “Nhưng có nhiều ki-lô-mét hầm mộ bên dưới thành phố, và cả vùng mênh mông này có bản đồ chỉ dẫn. Thám hiểm những đường hầm đó rất nguy hiểm và hợp pháp, tất nhiên, nhưng người ta vẫn làm. Những người đó được gọi là những cataphile, người nghiên cứu hầm mộ Paris. Thậm chí còn có đơn vị cảnh sát đặc biệt, gọi là những cataflic, tuần tra trong những đường hầm này.” Machiavelli vẫy cánh tay vào những bức tường chung quanh, ngọn lửa nhảy múa dữ dội nhưng bị tắt ngấm. “Nhưng chúng ta gặp nhóm khác dưới đây. Lãnh địa này hoàn toàn ai biết đến. Giờ chúng ta ở sâu bên dưới thành phố, đây là trong những mỏ đá có trước nhất được đào từ nhiều thế kỷ trước.”


      “Sâu bên dưới thành phố,” Josh chầm chậm nhắn lại. Cậu khum vai mình lại, tưởng tượng cậu có thể cảm thấy sức nặng của Paris đầu, nhiều tấn đất, bê tông và thép ép xuống người cậu. Chứng sợ khoảng hẹp có nguy cơ áp đảo cậu, và cậu cảm thấy như thể những bức tường rung động, rộn ràng. Cổ họng cậu khô cong, môi nứt nẻ, và có cảm giác cái lưỡi phồng lớn ra trong miệng. “Tôi nghĩ,” cậu thào với Machiavelli, “tôi nghĩ tôi muốn quay lên trở lại mặt đất bây giờ, nếu việc đó OK.”


      Tay người Ý chớp mắt ngạc nhiên. “ Josh, được, OK chút nào.” Machiavelli vươn tay siết vai Josh và cậu con trai cảm thấy luồng hơi ấm chảy khắp người. Luồng điện của cậu rạn vỡ, và khí ngột ngạt trong đường hầm đượm mùi cam và mùi rắn khét lẹt. “Quá trễ để làm như vậy rồi,” Machiavelli nhàng . hạ thấp giọng xuống thầm. “Chúng ta dấn quá sâu… có đường quay lại. Cậu để những hầm mộ này Đánh thức hoặc là…”


      “Hoặc là gì chứ?” Josh hỏi, khi cậu nhận ra, bằng cảm giác kinh hãi dâng lên, tay người Ý kết thúc câu này như thế nào.


      “Hoặc là cậu bao giờ rời khỏi đó được,” Machiavelli cách đơn giản.


      Họ ôm theo khúc quanh và bắt đầu xuống đường hầm dài thẳng tắp như mũi tên. Những bức tường ở đây thậm chí được trang trí còn lộng lẫy hơn, cũng bằng xương nhưng những hoa văn vuông vức kỳ lạ này Josh gần như nhận ra ngay. Chúng giống hệt những bức vẽ cậu từng thấy trong các nghiên cứu của ba cậu và trông giống như những nét chạm khắc của người Maya hay Aztec; nhưng những chữ viết tượng hình vùng trung Mỹ làm gì trong Hầm mộ ở Paris này?


      Dee đợi họ ở cuối đường hầm. Đôi mắt xám của sáng quắc trong ánh sáng phản chiếu, ánh sáng này cũng làm da ửng đỏ cách bệnh hoạn. Khi , giọng dày cộp, và những con chữ nhả ra quá nhanh đến nỗi khó mà hiểu được gì. Josh thể là Pháp sư bị kích động hay là hồi hộp, và điều đó làm cậu thậm chí còn sợ hãi hơn.


      “Bây giờ đây là ngày vô cùng quan trọng với cậu, cậu bé, ngày trọng yếu. chỉ vì năng lượng cậu được Đánh thức, mà là cậu được gặp trong những Elder mà đến nay loài người vẫn còn nhớ đến. Đó là vinh dự lớn lao.” vỗ tay. Ngụp đầu xuống, giơ hai bàn tay lên, đưa quả cầu ánh sáng ra, và lộ ra hai cây cột bằng xương người uốn vòng cung hình thành dạng khung cửa. Đằng sau lỗ hổng, là bóng đen hoàn toàn. Bước lùi lại, ra lệnh, “Cậu trước.”


      Josh chần chừ và Machiavelli nắm cánh tay cậu và siết chặt. Khi , tiếng thấp và hối hả. “Mặc cho chuyện gì xảy ra, cậu được tỏ ra sợ hãi, và hoảng hốt. Cuộc sống của cậu, chính minh mẫn của cậu, phụ thuộc vào đó. Cậu hiểu ?”


      sợ hãi, hoảng hốt,” Josh nhắc lại. Cậu bắt đầu bị thở quá nhanh. “ sợ hãi, hoảng hốt.”


      “Bây giờ .” Machiavelli buông cánh tay cậu bé ra và đẩy thẳng về phía Dee và ô cửa bằng xương“Hãy để năng lượng được Đánh thức,” , “và tôi hi vọng nó thành công.”


      Có cái gì đó trong giọng của Machiavelli làm Josh ngoái lại. Có ánh nhìn gần như là tội nghiệp đôi mắt xám lóe sáng, môi vặn vẹo nụ cười đáng sợ. nhướng chân mày lên. “Cậu muốn được Đánh thức sao?”


      Và Josh chỉ có câu trả lời.


      Liếc nhìn lại Machiavelli lần nữa, cậu giơ tay nửa vời chào tạm biệt, hít hơi sâu và bước qua ô cửa vòm vào vùng tối đen như mực. Ánh sáng tỏa ra khi Dee theo sau cậu, và cậu bé khám phá ra rằng cậu đứng trong căn phòng hình tròn rộng mênh mông dường như toàn bộ được chạm khắc trong khối xương khổng lồ—những bức tường uốn cong láng mướt, trần màu vàng sáng bóng, thậm chí sàn màu giấy da nén cũng cùng hình dạng và kết cấu như những bức tường đầy xương bên ngoài.


      Dee đặt tay lên eo lưng Josh và thúc cậu tiến tới. Josh bước hai bước rồi dừng lại. Ít ngày vừa qua dạy cho cậu biết đón nhận những điều bất ngờ—những điều kỳ diệu, những sinh vật và những con quỷ: nhưng đây, đây quả đáng thất vọng.


      Gian phòng trống rỗng ngoại trừ cái bệ tượng bằng đá hình chữ nhật nhô lên giữa hai phòng. Quả cầu ánh sáng của Dee nhấp nhô thềm, rọi sáng mọi chi tiết chạm khắc sắc lẻm. Nằm phẳng lì bề mặt phiến đá vôi rổ lỗ chỗ là bức tượng của người đàn ông mặc áo giáp bằng da và kim loại trông rất cổ xưa, hai bàn tay đeo găng dài bọc quanh cái chuôi dày của thanh kiếm rộng bản dài ít nhất mét tám. Nhón chân lên, Josh có thể thấy rằng cái đầu của pho tượng hoàn toàn được bọc trong chiếc nón sắt che kín khuôn mặt.


      Josh nhìn quanh. Dee đứng bên phải khung vòm và Machiavelli bước vào phòng và chọn chỗ bên trái. Cả hai nhìn cậu chăm chú. “Chuyện… chuyện gì xảy ra đây?” cậu hỏi, giọng bèn bẹt và bị bóp nghẹt lại trong gian phòng.


      Cả hai người đàn ông đều ai trả lời. Machiavelli khoanh tay và hơi nghiêng đầu sang bên, đôi mắt hẹp lại.


      “Ai đây?” Josh vừa hỏi vừa chĩa ngón cái vào bức tượng. Cậu mong đợi câu trả lời từ Dee, nhưng khi cậu quay qua tay người Ý cậu nhận ra rằng Machiavelli nhìn cậu, nhìn ra đằng sau. Josh xoay quanh… ngay đúng lúc hai sinh vật như cơn ác mộng hình ra khỏi vùng bóng tối.


      Mọi thứ người chúng đều trắng, từ nước da gần như trong veo cho đến mái tóc mịn chảy xuống lưng và quét lết bết lên mặt sàn sau lưng chúng. thể chúng là đàn ông hay đàn bà. Chúng có kích thước cỡ đứa trẻ con nhắn, ốm tong teo cách tự nhiên, với cái đầu phình ra như củ hành, trán rộng và cằm nhọn hoắc. Tai rộng quá khổ cùng những cái bướu sừng xíu đỉnh sọ. Đôi mắt tròn quay to tướng có con ngươi gắn chặt vào cậu, và khi những sinh vật đó bước tới trước, cậu nhận ra rằng có cái gì ổn nơi cẳng chân chúng. Bắùi chúng cong ngoặt ra sau, rồi cẳng chân lòi ra phía trước ngay nơi đầu gối và kết thúc bằng những cái móng che như chân dê.


      Chúng tách nhau ra vòng qua phiến đá, và theo bản năng, Josh định quay lưng chạy thoát, nhưng rồi cậu nhớ lời Machiavelli dặn phải đứng yên. Hít hơi, cậu nhìn sát vào sinh vật tiến đến gần hơn và khám phá ra rằng nó đến nổi kinh khủng lắm như lúc vừa thoạt nhìn: nó quá bé gần như là mỏng manh, yếu ớt. Cậu nghĩ cậu biết chúng là ai; cậu từng nhìn thấy hình chúng những mảnh gốm vỡ của Hy Lạp hay La Mã kệ sách trong công trình nghiên cứu của mẹ. Chúng là những thần đồng ánh sáng có sừng có đuôi, hoặc có thể là thần rừng nửa người nửa dê; cậu mấy thứ đó khác nhau chỗ nào.


      Nhưng sinh vật này từ từ vây tròn lấy Josh, vươn những bàn tay ra, ngón rất dài và đầu mút là những cái móng đen thui dơ bẩn, bơi bơi chiếc áo thun rách te tua của cậu, cấu véo lên mặt vải của chiếc quần jeans. Chúng chuyện với nhau, tiếng líu ríu the thé, những tiếng gần như thể nghe được đặt những cái răng nhọn sắc. ngón tay lạnh thấu xương chạm vào lớp thịt nơi dạ dày của cậu và luồng điện cậu bạt ra và nổ lốp bốp những tia lửa vàng ánh. “Này!” cậu la lên. Những sinh vật nhảy lùi lại, nhưng chỉ cú chạm đó cũng đủ đưa trái tim Josh vào cuộc đua. Ngay lập tức những nỗi sợ tên mà cậu từng tưởng tượng ghì chặt lấy cậu, và tất cả những cơn ác mộng làm cậu kinh khiếp nay tràn cả ra ngoài, bỏ mặc cậu thở hổn hển và run rẩy, đầm đìa mồ hôi lạnh buốt. Thần đồng ánh sáng thứ hai lao thẳng tới trước và đặt bàn tay lạnh ngắt lên mặt Josh. Đột nhiên, tim cậu nhảy điên cuồng, dạ dày cậu khuấy tung lên với nỗi hoảng hốt suy xét gì được.


      Hai sinh vật nắm lấy nhau và nhảy chồm chồm, những tràng cười ngặt nghẽo làm náo động hết chung quanh.


      “Josh.” Tiếng như ra lệnh của Machiavelli phá vỡ cơn hoảng hốt dâng lên của cậu và làm các sinh vật kia im bặt. “Josh nghe đây. Nghe tôi , tập trung vào. Những vị thần rừng này đơn giản là những sinh vật được nuôi sống bằng phần cơ bản nhất của cảm xúc con người: con đói ngấu những cơn sợ hãi, con còn lại thích cơn hoảng loạn. Chúng là Phobos và Deimos.”


      Vừa nghe kể tên chúng ra, cả hai thần rừng bắt đầu lùi vào, biến mất dần vào vùng tối, cho tới khi chỉ nhìn thấy những con mắt to tướng lỏng quẹt của chúng, đen thui và sáng quắc trong ánh sáng của quả cầu trôi lơ lửng.


      “Chúng là những Kẻ Canh gác cho vị Thần Ngủ.”


      Và rồi, phiến đá cổ nghiến ken két, bức tượng bật ngồi dậy và xoay đầu nhìn Josh. Bên trong chiếc nón sắt, hai con mắt sáng rực màu đỏ lòm như máu tươi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :