Bí Mật của Nicholas Flamel Bất Tử (Tập 2: Pháp sư) - Michael Scott (Kỳ ảo)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 14


      Tháp Eiffel mang vẻ phức tạp rất lộng lẫy vút cao hơn trăm năm mươi mét đầu Josh. có lần cậu sưu tập danh sách cho dự án ở trường về mười Mỹ quan của Thế giới đại. Tháp kim loại này đứng thứ hai trong danh sách đó, và cậu luôn hứa với lòng rằng ngày nào đó cậu phải đến xem nó cho bằng được.


      Rốt cuộc bây giờ khi ở Paris, cậu lại còn chẳng buồn nhìn lên nó.


      Đứng gần như ngay dưới trung tâm tháp, cậu nhón chân, quay đầu qua trái qua phải, tìm chị sinh đôi của mình trong số đông những du khách tham quan vào lúc sáng sớm, đông đến đáng kinh ngạc. Chị ấy đâu?


      Josh đâm sợ.


      , còn hơn cả sợ—cậu thấy kinh khiếp.


      Hai ngày vừa qua dạy cậu ý nghĩa đích thực của sợ hãi. Trước khi xảy ra những cố trong ngày thứ năm, Josh chỉ từng sợ rớt bài kiểm tra hay sợ bị bẽ mặt trước các bạn trong lớp. Cậu cũng có những nỗi sợ khác, những ý nghĩ mơ hồ, ớn lạnh đến trong đêm vắng ngắt, khi cậu chợt tỉnh giấc nằm mình tự hỏi chuyện gì xảy ra nếu ba mẹ cậu gặp tai nạn. Sara và Richard Newman cả hai đều là Tiến sĩ khảo cổ học và cổ sinh vật học, và dù đó thuộc hàng những công việc nguy hiểm nhất, nhưng những cuộc nghiên cứu của họ thỉnh thoảng đưa họ đến những quốc gia nằm giữa những vùng tôn giáo hay chính trị ổn định, hoặc họ phải hướng dẫn khai quật trong những khu vực thế giới bị tàn phá bởi cuồng phong hoặc trong những vùng bị động đất hoặc gần những núi lửa hoạt động. Những chuyển động bất ngờ của vỏ trái đất thường phá tan những công cuộc tìm tòi khảo cổ đặc biệt.


      Nhưng nỗi sợ sâu sắc nhất, đen tối nhất là những gì xảy đến với chị cậu. Dù Sophie lớn hơn cậu hai mươi tám giây, nhưng cậu luôn nghĩ chị ấy là em bé bỏng của mình. Cậu to con hơn, khỏe mạnh hơn, và công việc của cậu là phải bảo vệ chị ấy.


      Và bây giờ, cách nào đó, có cái gì kinh khủng lắm xảy đến cho người chị sinh đôi của cậu.


      thay đổi theo những cách mà cậu thể nào hiểu. trở nên giống Flamel và Scathach và giống loài của họ hơn là giống cậu: trở nên hơn hẳn con người.


      Lần đầu tiên trong đời mình, cậu cảm thấy đơn. Cậu mất người chị . Nhưng có con đường để cậu lại sánh bằng với ấy như trước: phải có ai đó Đánh thức năng lượng của riên


      Josh quay lại—ngay khi Sophie và Scathach xuất , vội vã băng qua cây cầu rộng dẫn thẳng vào tháp. Cảm giác nhõm dội xuống cậu. “Họ đây rồi,” cậu với Flamel, day mặt về hướng ngược lại.


      “Biết rồi,” Nicholas , giọng Pháp nghe mạnh hơn lúc nào hết. “Và họ mình”.


      Josh rút ngay cái nhìn chăm bẩm ra khỏi chị và Scathach tiến dần đến. “Ý chú là sao?”


      Nicholas cúi đầu xuống chút vừa lúc Josh quay lại. Hai chiếc xe buýt du lịch vừa đến Place Joffre và đổ hành khách xuống. Những du khách—người Mỹ, Josh đoán qua cách ăn mặc của họ—nhặng xị, tán gẫu, cười ồn ào, quay phim, chụp hình ì xèo trong khi các hướng dẫn viên cố tụ họp họ lại với nhau. chiếc thứ ba, màu vàng tươi, dừng lại, đổ ra hơn chục du khách người Nhật mặt mày hớn hở bước xuống vệ đường. Bối rối, Josh nhìn vào Nicholas: ông muốn đến chiếc xe buýt nào?


      “Đồ đen,” Flamel cách bí , chỉ trỏ bằng cái hất hàm.


      Josh quay lại và nhận ra người đàn ông mặc đồ đen sải bước về họ, di chuyển nhanh chóng băng qua nhóm người nghỉ. Trong nhóm du khách thậm chí ai có cái liếc mắt về phía người khách lạ len lỏi qua họ, lạng lách và xoay người như vũ công, cẩn thận để bị chạm vào họoán người đàn ông này có lẽ cao khoảng bằng cậu, nhưng thể nhận ra dáng người vì ông ta mặc chiếc áo khoác đen bằng da dài đến ba phần tư người, vạt áo đập phần phật khi ông ta bước . Cổ áo kéo cao, bàn tay ông ta thọc sâu vào túi áo. Josh cảm thấy tim thắt lại: chuyện gì nữa đây?


      Sophie chạy nhanh đến và đấm vào cánh tay cậu. “Em đây rồi,” kịp thở. “Có rắc rối gì ?”


      Josh nghiêng đầu về phía người đàn ông mặc áo măng-tô bằng da đến gần. “Em chắc”.


      Scathach xuất bên cạnh cặp sinh đôi. Josh để ý thấy thậm chí thở chẳng chút khó khăn. Thực tế, thở gì cả.


      “Rắc rối hả?” Sophie vừa hỏi vừa nhìn Scathach.


      Nữ chiến binh mỉm cười, mím chặt môi. “Còn tùy vào việc em định nghĩa rắc rối như thế nào,” lẩm bẩm.


      “Trái lại,” Nicholas , cười thoải mái. Ông thở ra nhõm. “Đó là bạn. Bạn cũ. người bạn tốt.”


      Người đàn ông mặc áo khoác đen giờ đến gần hơn, và cặp sinh đôi nhận thấy ông ta có gương mặt , gần như tròn quay, da rất rám nắng và đôi mắt xanh lơ sắc sảo. Mái tóc đen dày dài chấm vai phủ lên vầng trán cao. Vừa leo lên bận thang, ông ta vừa rút cả hai tay ra khỏi túi và giang rộng cánh tay, những chiếc nhẫn bạc lấp lánh mỗi ngón tay và cả hai ngón cái, hợp với những chiếc hoa tai bạc hai tai. nụ cười rộng mở để lộ hàm răng méo mó, ngả vàng.


      “Thầy,” ông ta , choàng cả hai cánh tay quanh Nicholas và hôn ông nhanh lên cả hai má. “Thầy trở lại.” Người đàn ông nhấp nháy, mắt ướt, và trong thoáng hai con ngươi lấp loáng đỏ lên. chút mùi cháy chợt đến trong khí.


      “Còn bao giờ khỏi đây,” Nicholas ấm áp, giữ người đàn ông trong tay và xem xét ông ta tỉ mỉ. “ trông khỏe đó, Francis. Khỏe hơn lần cuối cùng tôi gặp .” Ông quay người, đặt cánh tay choàng lên vai người đàn ông.


      “Scathach, biết rồi, tất nhiên.”


      “Ai có thể quên được Bóng tối?” Người đàn ông mắt xanh bước tới, nắm bàn tay xanh xao của Scathach trong tay mình và đưa nó lên theo cử chỉ lịch lỗi thời.


      Scathach chồm người ra trước và cấu vào má người đàn ông đủ mạnh để lưu lại vết máu đỏ. “Tôi với lần trước rồi, đừng làm như vậy với tôi


      “Thừa nhận thích vậy.” Ông ta cười toe. “Và đây hẳn phải là Sophie và Josh. Bà Phù thủy với con về họ,” ông thêm. Đôi mắt xanh lơ của người đàn ông mở to, chớp khi nhìn lần lượt cả hai đứa . “Cặp sinh đôi huyền thoại,” ông lẩm bẩm, hơi cau mày khi chăm chú nhìn chúng. “Thầy chắc ạ?”


      “Chắc,” Nicholas kiên quyết.


      Người lạ gật đầu và cúi chào . “Cặp sinh đôi huyền thoại,” ông ta lặp lại. “Hân hạnh làm quen với các bạn. Cho phép tôi tự giới thiệu. Tôi là Comte de Saint-Germain,” ông ta giới thiệu đột ngột, và rồi ngừng lại chút, gần như thể ông ta mong đợi hai đứa nhận biết cái tên này.


      Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta, cảm xúc giống nhau lộ gương mặt chúng.


      “Nhưng các bạn cứ gọi tôi là Francis, tất cả những người bạn của tôi đều gọi như vậy.”


      “Học trò cưng của chú đó.” Nicholas trìu mến thêm. “Tất nhiên cũng là học trò giỏi nhất của chú. Tụi chú biết nhau lâu lắm rồi.


      “Bao lậu ạ?” Sophie hỏi cách máy móc, dù có sẵn câu trả lời trong đầu ngay khi đặt câu hỏi này.


      “Chừng ba trăm năm hay đâu khoảng đó.” Nicholas . “Francis học giả kim với chú. Và nhanh chóng vượt qua chú,” ông thêm. “ chuyên gia trong lĩnh vực tạo đá quý.”


      “Tôi học mọi thứ về thuật giả kim từ thầy đây: Nicholas Flamel,” ông ta nhanh.


      “Hồi thế kỷ mười tám, Francis cũng là ca sĩ hoàn hảo và là nhà soạn nhạc. Còn thế kỷ này làm gì?” Nicholas hỏi.


      “Vâng, phải là con rất thất vọng khi thầy nghe biết gì về con,” người đàn ông tiếng có trọng . “ ràng là thầy theo kịp tin tức rồi. Con đoạt được năm giải hạng nhất tại Mỹ và ba giải tại Đức, và con thắng giải Người mới Xuất sắc nhất của MTV châu Âu.”


      “Người mới Xuất sắc nhất?” Nicholas cười toe, nhấn mạnh chữ mới. “ á!”


      “Thầy biết con luôn là nhà soạn nhạc, nhưng trong thế kỷ này, thầy Nicholas,à ngôi sao nhạc rock!” ông ta tự hào . “Con là người Đức!” Ông ta nhìn cặp sinh đôi khi ông , cặp chân mày hướng lên, gật đầu chờ chúng phản ứng lại với lời giới thiệu này.


      Hai đứa đồng loạt lắc đầu. “Chưa bao giờ nghe đến,” Josh thẳng thừng.


      Saint-Germain nhún vai và có vẻ thất vọng. Ông ta kéo cổ áo khoác cao lên đến tai. Năm giải nhất đó,” ông ta rù rì.


      “Loại nhạc gì ạ?” Sophie hỏi, cắn vào bên trong má để cố nín cười khi nhìn thấy vẻ tiu nghỉu gương mặt ông ta.


      “Khiêu vũ… điện tử… kỹ thuật… đại loại vậy.”


      Sophie và Josh lắc đầu lần nữa. “ nghe loại đó,” Josh trả lời, nhưng Saint-Germain còn nhìn vào cặp sinh đôi nữa. Đầu ông ngoái về phía đại lộ Gustave Eiffel, nơi chiếc Mercedes đen dài kiểu dáng rất đẹp đỗ xịch cạnh lề đường. Ba chiếc xe tải loại thường bán sát đằng sau.


      “Machiavelli!” Flamel gầm lên giận dữ, “Francis, bị theo dõi.”


      “Nhưng làm thế nào…,” ông bá tước


      “Hãy nhớ, người chúng ta đối đầu chính là Niccolo.” Flamel nhìn quanh nhanh, thẩm định tình hình. “Scathach, đưa hai đứa với Saint-Germain. Hãy lấy tính mạng mà bảo vệ chúng.”


      “Chúng tôi có thể ở lại, tôi có thể chiến đấu mà,” Scathach .


      Nicholas lắc đầu. Ông vung tay về phía những du khách tụ tập. “Quá nhiều người. Ai đó bị giết mất. Nhưng Machiavelli phải là Dee; xảo quyệt. dùng đến phép thuật— dùng nếu còn có thể chịu được. Chúng ta có thể khai thác khía cạnh đó để giành lợi thế về chúng ta. Nếu chúng ta tách ra, theo dõi tôi.” Thò tay vào dưới chiếc áo thun, ông lôi ra cái túi vuông .


      “Cái gì vậy?” Saint-Germain hỏi.


      Nicholas trả lời cho Saint-Germain nhưng lại nhìn vào cặp sinh đôi. “Cái túi này từng đựng toàn bộ cuốn Codex, nhưng bây giờ Dee lấy nó rồi. Josh xé được hai trang cuối của cuốn sách. Chúng ở trong này. Những trang chứa lời Hiệu triệu Cuối cùng,” ông thêm đầy ý nghĩa. “Dee và những Elder của cần những trang này.” Ông vuốt thẳng làn vải và đột nhiên trao cái túi cho Josh. Hãy giữ nó an toàn,” ông >“Cháu sao?” Josh nhìn cái túi rồi lại nhìn sang gương mặt của Flamel nhưng làm động tác nào để lấy nó khỏi tay người đàn ông.


      “Đúng, cháu đó. Lấy ,” Flamel ra lệnh.


      Cậu con trai rụt rè với lấy cái túi, lằn vải tóe lửa kêu lốp đốp khi cậu nhét nó vào bên dưới áo thun của cậu. “Tại sao lại là cháu?” cậu hỏi. Cậu nhìn nhanh qua chị . “Ý cháu là Scathach hay Saint-Germain tốt hơn…”


      “Cháu cứu những trang này, Josh. Vậy đúng là cháu nên giữ chúng.” Flamel ôm chặt hai vai Josh và nhìn vào mắt cậu bé. “Chú biết chú có thể tin là cháu chăm sóc chúng được mà.”


      Josh ấn bàn tay vào dạ dày, cảm thấy làn vải da mình. Khi Josh bắt đầu làm việc trong tiệm sách và Sophie làm trong tiệm cà phê, ba chúng dùng câu gần giống hệt như vậy để về Sophie. “Ba biết ba có thể tin là con chăm sóc cho chị con.” Vào lúc đó, cậu cảm thấy cả tự hào pha lẫn chút sợ hãi. Còn bây giờ, cậu chỉ cảm thấy sợ hãi thôi.


      Cánh cửa phía tài xế của chiếc Mercedes mở ra và người trang phục đen bước ra, cặp kính râm phản chiếu in hình bầu trời lúc sáng sớm, nên trông cứ như là có hai cái lỗ mặt>“Dagon,” Scathach gầm lên, hàm răng nhọn đột nhiên lộ ra, với tay vào cái túi của mình để lấy vũ khí, nhưng Nicholas chộp cánh tay , bóp mạnh.


      phải lúc này.”


      Dagon mở cánh cửa sau và Niccolo Machiavelli nhô người lên. Dù ở cách xa dễ đến gần trăm mét, họ vẫn có thể thấy vẻ chiến thắng mặt .


      Phía sau chiếc Mercedes, cánh cửa của mấy chiếc xe tải trượt mở đồng thời rồi các cảnh sát mặc áo giáp, trang bị vũ khí hạng nặng nhảy ra khỏi đó, bắt đầu chạy về phía chân tháp. du khách kêu thất thanh, và hàng chục người đứng vây quanh chân Tháp Eiffel ngay tức xoay máy quay phim theo hướng đó.


      “Đến lúc phải ,” Flamel nhanh. “ hướng sông, tôi dẫn bọn chúng theo chiều ngược lại. Saint-Germain, bạn tôi,” Nicholas thầm dịu dàng, “chúng ta cần trò đánh lạc hướng để giúp chúng ta trốn thoát. cái gì đó ngoạn mục.”


      “Thầy đâu?” Saint-Germain gặng hỏi.


      Flamel mỉm cười. “Đây là thành phố của tôi rất lâu trước khi Machiavelli đến. Có lẽ số những nơi tôi thường lui tới trước đây vẫn còn.”


      “Đãay đổi nhiều kề từ lần gần nhất thầy ở đây,” Saint-Germain cảnh báo. Ông ta vừa vừa cầm bàn tay trái của Flamel trong cả hai tay mình, xoay ngửa lên và ấn múi thịt ở đầu ngón tay cái mình vào giữa lòng bàn tay của Nhà Giả kim. Sophie và Josh đứng đủ gần để thấy khi ông ta rút tay về, có dấu hằn như cánh bướm đen xíu da Flamel. “Nó đưa thầy về với con,” Saint-Germain cách bí . “Bây giờ, thầy muốn cái gì đó ngoạn mục, này nhé.” Ông ta cười toe và kéo ống tay của chiếc áo măng-tô bằng da lên để lộ cánh tay trần. Hàng chục hình xăm những con bướm xíu phủ lên da ông, và bao quanh cổ tay như chiếc vòng, chúng quấn quanh cánh tay lên đến chỗ cùi chỏ gập lại. Đan những ngón tay vào nhau, ông ta xoay cổ tay và bẻ cong chúng ra phía ngoài, có thể nghe được cả tiếng lắc rắc, giống như các nghệ sĩ đàn dương cầm chuẩn bị trình diễn. “ bao giờ các bạn thấy những gì Paris làm để chào đón thiên niên kỷ này chưa?”


      “Thiên niên kỷ này?” Cặp sinh đôi ngây người nhìn ông ta.


      “Thiên niên kỷ này. Năm 2000. Dù rằng lễ mừng thiên niên kỷ này lẽ ra nên được tổ chức vào năm 2001,” ông ta thêm.


      “Ồ, cái thiên niên kỷ đó hả,” Sophie . nhìn em trai, bối rối. “Mà thiên niên kỷ có liên quan gì tới chuyện này cơ chứ


      “Ba mẹ đưa tụi mình đến Quảng trường Thời đại,” Josh . “Mà sao?”


      “Vậy các bạn bỏ lỡ thứ ngoạn mục ở đây ngay tại Paris này. Lần sau online, nhớ tìm xem những bức ảnh.” Saint-Germain chà xát mạnh hai cánh tay và rồi, đứng bên dưới tháp kim loại khổng lồ, ông ta giơ cao hai bàn tay và thình lình mùi hương lá cháy tràn ngập khí.


      Cả Josh và Sophie nhìn chăm chú vào những hình xăm con bướm bung ra, run rẩy và nhịp cánh hai cánh tay Saint-Germain. Những đôi cánh mỏng manh như tơ rung động và ù ù ngân lên, những cái râu giật giật… và rồi những hình xăm nhấc mình lên khỏi da thịt của người đàn ông.


      dòng vô tận những con bướm tí xíu màu đỏ màu trắng tách ra khỏi làn da xanh xao của Saint-Germain và cuộn xoắn lại bay vào bầu khí mát lạnh của Paris. Chúng đánh vòng lên phía , xoay tròn khỏi người đàn ông nhắn, thành hình xoắn ốc gồm những chấm màu đỏ sẫm và xám tro kéo dài dường như vô tận. Những con bươm bướm cuộn quanh thanh giằng và xà dọc, đinh tán và bu lông của cái tháp kim loại, bao phủ nó trong lớp vỏ lung linh, óng ánh ngũ sắc.


      “Ma trơi,” Saint-Germain thầm , quay ngoắt lại và vỗ tay.


      Và ngọn Tháp nổ tung thành dòng suối ánh sáng nổ lắc rắc, phát ra những tia lửa.


      Ông ta c1;i lớn vẻ hài lòng vì nét mặt của cặp sinh đôi và , “Biết tôi chưa: tôi là le Comte de Saint-Germain. Tôi là Bậc Thầy của lửa!”






      CHƯƠNG 15


      “Pháo hoa,” Sophie tỏ vẻ kinh sợ.


      Tháp Eiffel được thắp sáng bằng màn trình diễn pháo hoa ngoạn mục. Những mảng ánh sang xanh lơ và vàng ánh kim lao gần cả ba trăm mét để đến được cây cột ở ngay đỉnh tháp, ở đó chúng nở thành những vòi phun toàn là những quả cầu xanh toàn là xanh lơ. Những sợi chỉ màu cầu vồng tóe lửa, rít lên, của tháp vọt ra những tia lửa trắng, trong khi những thanh xà dọc hình vòng cung trút những giọt nước đá xanh lơ xuống con phố tít bên dưới.


      Hiệu quả ấn tượng, nhưng chỉ ngoạn mục khi Saint-Germain bật tanh tách hết những ngón cả hai bàn tay và toàn bộ Tháp Eiffel nhuộm màu vàng đồng, rồi vàng kim, rồi xanh lục và cuối cùng là xanh lơ hòa trong ánh mặt trời buổi sáng. Những mảng ánh sáng kêu lách tách bắn lên bắn xuống khung kim loại. Những vòng pháo hoa và pháo sáng, những vòi phun và những ngọn nến La Mã, những quả xoáy bay bổng và những ngọn nến La Mã, những quả xoáy bay bổng và những con rắn lộn vòng ra vòng ra khỏi mỗi tầng tháp. Cây cột ở tận chót tháp phun ra những tia lửa màu đỏ, trắng và xanh lơ chảy như thác toàn thứ chất lỏng sủi bọt băng băng tràn xuống lòng tháp.


      Đám đông bị mê hoặc.


      Người ta tụ tậptháp, kêu lên những tiếng ồ à, vỗ tay trước những màn nổ mới, máy chụp hình của họ bấm dữ dội. Những người lái xe hơi dừng lại đường và trèo ra khỏi xe, giơ những chiếc điện thoại chụp hình để bắt kịp những hình ảnh ấn tượng và tuyệt đẹp. Trong giây lát, hang chục người quanh tháp nhân thành hàng trăm và rồi khoảng độ ít phút sau số người này cứ nhân đôi rồi nhân đôi nữa khi người ta đổ xô từ những cửa tiệm và nhà riêng đến quan sát màn trình diễn bất thường này.


      Và Nicholas Flamel cùng các bạn đồng hành của ông bị đám đông nuốt mất.


      Trong màn trình diễn hiếm hoi đầy cảm xúc này, Machiavelli bị đụng vào sườn xe mạnh đến nỗi bàn tay bị đau. chăm chú nhìn đám đông cứ lớn dàn lên và biết những người thể nào qua kip để ngăn cho Flamel và những tên khác trốn thoát.


      khí đầy tiếng xèo xèo và đập vỗ của pháo hoa; pháo sáng rít vèo vèo vào trung, ở đó chúng nổ thành những quả cầu và những vòng ánh sáng. Những viên pháo thường và pháo xì nổ lốp bốp quanh từng cái trong bốn cái chân kim loại khổng lồ của ngọn tháp.


      “Thưa ngài,” mMột viên đội trưởng cảnh sát dừng trước Machiavelli và chào. “Xin ngài ra lệnh? Chúng tôi có thể xong qua đám đông, nhưng có thể vài người bị thương.”


      Machiavelli lắc đầu. “, đừng làm vậy.” Dee hành động như vậy, biết. Dee ngn ngại san bằng cái tháp, giết hàng trăm người chỉ để bắt được Flamel. Đứng thẳng người lên, Machiavelli có thể nhận ra ngay hình dạng chiếc áo khoác bằng da của Saint-Germain và Scathach chết người dồn cậu biến mất. Nhưng ngạc nhiên và sửng sốt, khi nhìn lại, Nicholas Flamel vẫn ở ngay nơi mới trông thấy ông ta lúc đầu, đứng gần như ngay bên dưới trung tâm ngọn tháp.


      Flamel đưa tay phải lên chào bằng kiểu chào đầy vẻ nhạo báng, chiếc vòng bạc mắt xích ông đeo phản chiếu ánh sáng lấp lóa.


      Machiavelli nắm lấy vai người đội trưởng cảnh sát, xoay người ta quay lại bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên và dùng những ngón tay mảnh và dài của chỉ trỏ. “Tên đó! Nếu hôm nay thể làm được gì khác hãy bắt cho tôi tên đó. Tôi muốn còn sống và suy suyễn!”


      Trong khi cả hai chăm chú nhìn Flamel xoay người vội vã về phía tây của tháp Eiffel, hướng đến cầu Iena, nhưng xét thấy nhiều người khác cũng bang qua cây cầu này, nên Flamel quẹo tay phải, hướng lên bến Quai Branly.


      “Vâng thưa ngài!” Người đội trưởng lao nghiêng ra, quyết định đốn gục Flamel. “Theo tôi,” ta hét lớn, và cả đọi rải thành hành sau ta.


      Dagon bước đến bên Machiavelli. “Ông có muốn tôi đuổi theo Saint-Germain và Bóng tối ?” Đầu nó quay sang, cánh mũi nở ra thanh nhớp nháp ướt nhẹp. “Tôi có thể theo của chúng.”


      Nicholas Machiavelli lắc đầu rồi trèo lại vào xe. “Đưa chúng ra khỏi đây trước cánh nhà báo xuất . Saint-Germain là gì cả nếu muốn là dễ dự đoán. Chắc chắn về trong những căn nhà của , và chúng ta theo dõi những căn nhà này kỹ càng. Tất cả những gì mà chúng ta có thể làm là hi vọng bắt được Flamel.”


      Gương mặt của Dagon bình thản khi nó sập mạnh cánh cửa xe đóng lại phía sau ông chủ. quay về hướng Flamel chạy và nhìn thấy ông ta biến mất trong đám đông. Cảnh sát ngay đằng sau, di chuyển nhanh lẹ cho dù họ bị đè bởi lớp áo khoác toàn thân và vũ khí. Nhưng Dagon biết rằng trải qua nhiều thế kỉ Flamel trốn khỏi thế lực săn đuổi ông ta, cả con người lẫn phải là con người, tuột khỏi tay những sinh vật trong qua khứ từng là huyền thoại trước khi có tiến hóa của loài vượn người và đánh lừa được những con quái vật có quyền tồn tại bên ngoài những cơn ác mộng. Dagon nghi ngờ việc cảnh sát có thể bắt được Nhà Giả Kim.


      Rồi nó nghểnh đầu lên, lỗ mũi nở ra lần nữa, bắt được mùi hương của Scathach. Bóng tối trở lại!


      Mối thù của Dagon và bóng tối đến từ nhiều thiên nhiên kỷ trước. Dagon là tên cuối cùng trong chủng loài của nó ….bởi vì ấy phá hủy hoàn toàn giống loài trong đêm kinh khủng vào hai ngàn năm trước. sau cặp kính râm phản chiếu úp sát quanh mắt, đôi mắt sinh vật này chưa đầy những giọt lệ màu nhớp nháp, và nó thề rằng, bất kể có chuyện gì xảy ra Machiavelli và Flamel, lần này nó phải trả cho bằng được mối thù với Bóng tối.


      , chạy,” Scathach ra lệnh. “Saint-Germain dẫn đầu, Sophie và Josh ở giữa, tôi cuối cùng.” Giọng của Scatty có gì phải bàn cãi.


      Họ lao qua chiếc cầu và rẽ phải lên đại lộ de NewYork. loạt rẽ trái và phải đưa họ đến con phố ngang chật hẹp. Trời vẫn còn sớm, và cả thành phố vẫn còn chìm trong bóng tối. Nhiệt độ rơi xuống đột ngột, và cặp sinh đôi để ý ngay rằng những ngón tay trong bàn tay trái của Saint-Germain từ từ chạm lên bức tường dơ bẩn, để lại những tàn lửa đằng sau nó.


      Sophie cau mày, lựa chọn trong kí ức —kí ức của Bà phù thủy Endor, tự nhắc mình—những gì liên quan đến Saint-Germain. bắt gặp cậu em trai nhìn xéo qua và nhướng mày hỏi trong im lặng.


      “Đôi mắt chị ánh bạc lên. Chỉ loáng,” cậu .


      Sophie liếc lui về Scathach theo đằng sau rồi nhìn người đàn ông trông chiếc áo măng tô bằng da. nghĩ cả hai đều vượt khỏi tầm nghe. “Chị vừa cố nhớ lại những gì chị biết…” lắc đầu. “Những gì bà phù thủy biết về Saint-Germain.”


      “Những gì về ông ấy?” Josh hỏi. “Em chưa bao giờ nghe đến ông ấy>”


      “Ông ấy là nhà giả kim người Pháp nổi tiếng,” thầm, “và cùng với Flamel, có lẽ là trong những người đàn ông bí nhất trong lịch sử.”


      “Ông ấy có phải là người ?” Josh tự hỏi thành tiếng, nhưng Sophie ém xuống.


      “Ông ấy phải là Elder hay thế hệ kế tiếp. Ông ấy là con người. Ngay cả bà phù thủy cũng biết nhiều về ông ấy. Bà gặp ông ấy lần đầu tiên ở London vào năm 1740. Ngay lập tức bà biết ông ấy là người bất tử, và ông ấy thừa nhận mình khám phá ra bí mật của bất tử khi theo học với Nicholas Flamel.” lắc đầu nhanh. “Nhưng chị nghĩ bà phù thủy chịu tin như vậy. Ông ấy bảo với bà ấy rằng trong khi du hành đến Tibet ông ấy hoàn thiện công thức bất tử mà cần làm mới lại tháng. Nhưng khi bà ấy hỏi xin ông ấy bản sao, ông ấy làm mất rồi. ràng, ông ấy mọi ngôn ngữ thế giới này rất trôi chảy, ông ấy là nhà soạn nhạc tài hoa và là nhà đá quý nổi tiếng.” Đôi mắt lại lung linh ánh bạc ngay lúc kí ức nhòa . “Và bà phù thủy thích hoặc tin tưởng ông ấy.”


      “Vậy chúng ta cũng nên,” Josh thầm nhanh


      Sophie gật đầu, đồng ý. “Nhưng Nicholas thích ông ấy, và ràng là rất tin tưởng,” chậm rãi. “Tại sao nhỉ?”


      Vẻ mặt Josh đanh lại. “Em dã từng với chị lúc nãy rồi: em nghĩ chúng ta nên tin tưởng vào Nicholas Flamel. Ông ta có cái gì đó đúng—em đoán chắc.”


      Sophie nén phản ứng của minh lại và nhìn chỗ khác. biết tại sao Josh lại cáu giận nhà giả kim; em trai ganh tị năng lượng được đánh thức của , và biết cậu đổ lỗi cho Flamel đặt vào tình trạng nguy hiểm. Nhưng điều đó có nghĩa là ông sai.


      Con phố ngang chật hẹp dẫn lên tới con đường rộng rãi nhiều cây xanh. Dù trời vẫn còn quá sớm thể là giờ cao điểm, nhưng màn trình diễn pháo hoa quanh tháp Eiffel làm giao thông trong khu vực nghẹt cứng. Bầu khí om sòm đầy tiếng còi xe và tiếng kêu la của những chiếc còi cảnh sát. chiếc xe chữa cháy bị mắc dính trong vụ kẹt xe, tiếng rên rỉ của no cứ tiếp tục cất cao rồi hạ xuống, dù có lối nào cho nó được. Saint-Germain vừa sải chân băng qua đường, nhìn sang trái cũng nhìn sang phải, vừa rút trong túi ra chiếc điện thoại di động màu đen thanh mảnh. Ông búng tay mở nó và bấm phím gọi nhanh. Rồi ông thứ tiếng Pháp liếng thoắng.


      “Ông gọi giúp đỡ ạ?” Sophie hỏi vừa khi ông ta đóng điện thoại.Saint-Germain lắc đầu. “Đặt bữa. Tôi đói rũ ra rồi.” Ông ta chợt chĩa ngón tay cái ra sau lung theo hướng tháp Eiffel vẫn phun pháo hoa. “Làm ra mấy thứ như vậy —nếu bạn tha thứ cho chơi chữ—đốt rất nhiều năng lượng.”


      Sophie gật đầu, bây giờ mới hiểu dạ dày từng sôi ùng ục vì đói khi tạo ra sương mù.


      Scathach bắt kịp cặp sinh đôi và bước xéo với Sophie khi họ vội vã ngang qua nhà thờ American Cathedral. “Tôi nghĩ là chúng ta bị theo dõi,” , nghe có vẻ ngạc nhiên. “Tôi cho rằng Machiavelli phải cho người theo sau chúng ta chứ.” cọ sát cạnh ngón tay vào môi dưới, nhai những chỗ móng đều của mình.


      Sophie tự động hất bàn tay Scathach ra khỏi miệng. “Đừng cắn móng tay.”


      Scathach chớp mắt ngạc nhiên, rồi tự ý thức thả tay xuống. “ thói quen cũ,” lẩm bẩm. “ thói quen lâu đời.”


      “Bây giờ đến chuyện gì?” Josh hỏi.


      “Chúng ta ra khỏi những con phố này và nghỉ ngơi,” Scathach dứt khoát. “Chúng ta phải xa lắm gọi với theo Saint-Germain vẫn dẫn đầu.


      vài phút nữa,” ông ta , quay lại. “ trong những ngôi nhà phố của tôi ở gần đây.”


      Scathach gật đầu. “ khi đến được đó, chúng ta mình kín đáo cho tới khi Nicholas trở lại, nghỉ ngơi và thay quần áo.” nhăn mũi và hướng về phía Josh. “Và còn tắm nữa,” thêm cách đầy ý nghĩa.


      Đôi má chàng thanh niên ửng đỏ. “Ý chị là em bốc mùi hả?” cậu hỏi, vẻ bối rối pha lẩn cáu bẳn.


      Sophie đặt tay lên cánh tay cậu em trai trước khi Nữ Chiến binh kịp trả lời “Chỉ chút thôi,” . “Tất cả chúng ta đều thế mà.”


      Josh nhìn chỗ khác, hết bực bội, rồi lại liếc sang Scathach đứng đằng sau. “Em thấy chị có mùi,” cậu ngay.


      ,” , “Tôi có tuyến mồ hôi. Ma cà rồng tiến hóa hơn loài người mà.”


      Họ tiếp tục im lặng cho đến khi đường Pierre Charron mở ra lên đại lộ Champs-Elysees rộng rãi, đường phố chin của Paris. Họ có thể nhìn thấy Khải Hoàn Môn phía bên phải. Xe cộ ở hai bên đường đứng lạ hết, những người tài xế đứng dọc theo xe của họ bàn tán sôi nổi, khoa tay múa chân lung tung. Mọi con mắt đều hướng về tháp Eiffel.


      “Ông nghĩ chuyện này được đưa tin như thế nào?” Josh . “Tháp Eiffel đột nhiên được phun pháo hoa.”


      Saint-Germain liếc qua vai mình. “ ra điều này bất thường lắm. Ngọn tháp này thường được thắp sáng bằng pháo hoa—vào đêm Giao thừa hay ngày Quốc khánh Pháp, ví dụ vậy. Tôi hình dung là người ta đưa tin rằng pháo hoa cho ngày Quốc khánh vào tháng tới được tiến hành sớm.” Ông ta nhìn lại và nhìn quanh, nghe có tiếng ai đó gọi tên ông.


      “Đừng nhìn…” Scatty vọt miệng, nhưng qua trễ: cặp sinh đôi và Saint-Germain quay về hướng có tiếng kêu.


      “Germain…”


      “Kìa, Germain….”


      Hai thanh niên đứng cạnh chiếc xe kẹt cứng của họ chỉ vào Saint Germain và la lớn tên ông ta.


      Cả hai đều mang quần Jeans, áo thun và trông rất giống nhau, với mái tóc láng o chải ngược ra sau và cặp kính râm to qúa khổ. Bỏ mặc chiếc xe giữa đường, họ lạng lách chạy xuyên qua đám xe cộ nằm yên, cả hai cầm vật gì đó trong tay mà Josh thấy giống như lưỡi dao dài và hẹp.


      “Francis,” Scatty gấp rút cảnh báo, đôi tay ghì chặt thành nắm đấm. tiến thẳng đến ngay lúc người thanh niên thứ nhất chạm đến Saint-Germain, “cho tôi…”


      “Quý vị,” Saint Germain quay về phía hai người thanh niên, miệng cười dù cặp sinh đôi ở ngay đằng sau vẫn nhìn thấy những ngọn lửa màu vàng—xanh nhảy múa qua những đầu ngón tay ông.


      “Buổi hòa nhạc lớn đêm qua,” người thanh niên thứ nhất kịp thở, kiểu tiếng bằng giọng mạnh của tiếng Đức. Ang ta tháo kính râm và chìa bàn tay phải ra, và Josh nhận ra vật mà cậu tưởng là con giao gì hơn là cây viết lớn. “Tôi có thể có cơ hội xin chữ kí ạ?”


      Những ngọn lửa ngón tay Saint-Germain nhấp nhánh tan ra. “Tất nhiên,” ông , cười vui vẻ, giơ tay lấy cây viết và rút quyển sổ gáy lò xo khỏi túi áo trong. “Các bạn có đĩa mới chưa?” ông ta vừa vừa búng tay lật quyển sổ.


      Người thanh niên thứ hai, đeo cặp kính y chang, kéo lên chiếc iPod màu đỏ ra khỏi túi quần sau. “Mới lấy được nó iTunes hôm qua,” ta trả lời cũng bằng chất giọng đặc biệt đó.


      “Và đừng quên đặt mua DVD của buổgrave;nh diễn hôm qua ra thị trường trong tháng nữa. Có thêm nhiều cái rất hay, hai bài hòa mới và phối tuyệt vời,” Saint-Germain thêm trong lúc kí tên bằng nét cong bay bướm tinh vi và xé trang giấy ra khỏi cuốn sổ. “Tôi rất thích tán gẫu, các bạn nhưng tôi vội. Cám ơn vì dừng lại với tôi, tôi rất cảm kích.”


      Họ bắt tay nhanh và hai người thanh niên chạy vội về xe mình họ giơ tay đập vào nhau sau khi so sánh chữ kí vừa xin được.


      Với nụ cười mở rộng, Saint-Germain hít hơi dài quay lại cặp sinh đôi. “ với các bạn tôi nổi tiếng mà.”


      “Và ông nhanh chóng nổi tiếng vì cái chết của ông nếu chúng ta ra khỏi con đường này được.” Scathach nhắc nhở ông ta. “Hoặc có thể chỉ là chết thôi.”


      “Chúng ta ở ngay đây rồi,” Saint-Germain lẩm bẩm. Ông ta dẫn họ băng ngang Champs-Elysees và xuống con phố ngang, rồi hụp người vào con hẻm chật hẹp và lát sỏi có tường cao hai bên uốn éo quanh mặt lưng của tòa nhà. Ngừng giữa đường dẫn xuống con hẻm hơn, ông ta chìa khóa vào cánh cửa phẳng lì với bức tường. Cánh cửa gỗ sứt mẻ và đầy vết thẹo, nước sơn màu xanh lá cáu bẩn tróc ra từng dải dài đẻ lộ mặt gỗ phồng giộp bên dưới, mùn và vụn gỗ rớt ra khỏi chân cửa do cọ sát với nền đất.


      “Tôi có thể đề nghị cái cổng mới ?” Scathach .


      “Đây là cái cổng mới.” Saint-Germain cười nhanh. Gỗ chỉ là ngụy trang. Bên dưới nó là lớp thép cứng với hệ thống năm điểm then chết.” Ông ta lùi lại để cặp sinh đôi trước ông bước qua lối vào. “Xin vào thoải mái và muốn làm gì tùy thích,” ông ta trịnh trọng.


      Cặp sinh đôi bước tới trước và hơi thất vọng trước những gì chúng thấy. Đằng sau cánh cổng là khoảng sân dẫn vào ngôi nhà bốn tầng. Những bức tường bên trái và bên phải lắp chấn song nhọn đầu, tách ngôi nhà ra khỏi hàng xóm. Sophie và Josh mong chờ cái gì đó kì lạ hoặc thậm chí là ấn tượng sâu sắc kia. bể nước cho chim tắm bằng đá khổng lồ và gớm guốc đặt ở chính giữa sân, nhưng thay vì là nước, cái vũng lõm đó chứa đầy lá mục và những phần còn lại của mấy tổ chim. Tất cả cây trồng trong chậu, trong giỏ đặt quanh và chính giữa cái vòi phun nước đều chết hoặc sắp chết cả.


      “Bác làm vườn rồi,” Saint-Germain chút bối rối, “và tôi giỏi lắm về cây cối.” Ông ta ngửa bàn tay phải lên và mở rộng ngón tay. Mỗi ngón bùng cháy nổ lốp bốp ngọn lửa màu khác nhau. Ông cười toe và ngọn lửa đầy màu sắc nhuộm khuôn mặt ông thành những mảng tối lung linh. “ phải chuyên môn của tôi.”


      Scathach dừng lạ trước cửa, nhìn lên nhìn xuống con hẻm , nghiêng đầu qua bên, nghe ngóng. Khi hài lòng là họ bị theo dõi, mới đóng cánh cửa và xoay chìa khóa trong ổ. Những cái then chết trượt vào đúng chỗ với đoạn mã được lập trình sẵn.


      “Làm sao chú Flamel tìm được chúng ta?” Josh hỏi. Mặc dù cậu cảnh giác và sợ nhà giả kim, nhưng cậu cảm thấy hồi hộp hơn khi ở gần Saint-Germain.


      “Tôi đưa ông ta chỉ dẫn rồi,” Saint-Germain giải thích.


      “Chú ấy sao chứ?” Sophie hỏi Scathach.


      “Tôi chắc rằng ông ấy sao,” ta giọng và ánh mắt của giấu được nỗi sợ hãi. Vừa quay khỏi cửa bỗng sững người, quai hàm rời ra, hàm răng ma cà rồng tự dưng— kinh khủng— .


      Cánh cửa của ngôi nhà thình lình bật mở, và hình dáng bước vào trong sân. Lập tức luồng điện của Sophie chiếu sáng rực ánh trắng bạc, cú sốc khiến xoay ngược vào cậu em trai, cũng làm bừng tỉnh luồng điện của cậu, viền quanh người cậu toàn ánh vàng và đồng. Và khi cặp sinh đôi chạm vào nhau, ánh sáng từ hai luồng điện bạc và vàng của chúng sáng lóa mắt, chúng nghe Scathach thét lên. Đó là thanh kinh khủng nhất chưa từng nghe bao giờ.








      CHƯƠNG 16


      “Dừng lại”


      Nicholas Flamel cứ chạy, rẽ phải, lao xuống bến Quai Branly.


      “Dừng lại, nếu tôi bắn!”


      Flamel biết cảnh sát bắn—họ thể. Machiavelli muốn ông ta suy suyễn gì.


      Tiếng nện của giày da mặt đường bê tông và tiếng leng keng của vũ khí giờ gần sát, và ông ta có thể nghe cả tiếng thở của những người rượt đuổi. Tiếng thở của Nicholas bắt đầu thở hổn hển nặng nề, và cơn nhói lên ở bên hông ngay dưới bên cạnh sườn. Công thức trong cuốn Codex giữ ông ta sống và khỏe mạnh, nhưng có cách gì giúp ông ta có thể vượt được viên cảnh sát này ràng là sung sức và được đào tạo cao cấp.


      Nicholas Flamel dừng lại đột ngột đến mỗi viên đội trưởng cảnh sát gần như đâm sầm vào ông. Đứng yên, nhà giả kim quay đầu ngoái nhìn ra đằng sau mình. Viên cảnh sát rút khẩu súng đen xấu xí và giữ chặt nó bằng cả hai tay.


      “Đứng yên. Giơ tay lên.”


      Nicholas chầm chậm quay người đối mặt với viên cảnh sát. “Rồi, quyết định , rồi sao nữa?” ông ta dữ dằn


      Đằng sau cặp kính bảo hộ, người đàn ông chớp mắt nhìn ông đầy ngạc nhiên.


      “Tôi có đứng yên ? Hay là tôi có giơ tay lên ?”


      Viên cảnh sát ra hiệu bằng báng súng và Flamel giơ tay lên. Năm nhân viên RAID nữa chạy đến. Họ vừa chĩa đủ loại vũ khí vào nhà giả kim vừa dàn thành hàng dài cạnh viên đội trưởng của họ. Vẫn giữ hai tay giơ lên trời, Nicholas chầm chậm quay đầu nhìn lần lượt từng người trong họ. Mặc đồng phục đen, mũ bảo hiểm, mũ trùm kín đầu cổ và đeo cặp kính bảo hộ, trông họ như những con côn trùng.


      “Nằm xuống đất. Nằm , nằm ngay !” viên đội trưởng ra lệnh. “Đưa tay lên trời.”


      Nicholas chậm chạp khuỵu gối xuống.


      “Giờ nằm xuống! Úp mặt xuống!”


      Nhà giả kim nằm bẹp đường phố Paris, cằm ông chạm vào lề đường mát lạnh, đầy sạn.


      “Giang cánh tay rộng ra”


      Nicholas giang rộng tay. Các viên cảnh sát đổi vị trí, nhanh chóng vây tròn quanh ông, nhưng họ vẫn giữ khoảng cách.


      “Chúng tôi bắt được ông ấy.” Viên đội trưở vào micro đặt ngay trước môi ta. “Thưa ngài, ạ. Chúng tôi chạm vào ông ấy. Vâng thưa ngài. Ngay lập tức”


      Nicholas ước gì Perenelle ở đây với ông giờ này; ấy biết phải làm gì. Nhưng nếu nữ phù thủy ở với ông ông rơi vào tình trạng lộn xộn ngay từ nơi đầu tiên. Perenelle là chiến binh. Bà thường giục ông đừng chạy, để sử dụng kiến thức về giả kim của ông cùng với thuật phù thủy và ma thuật của bà cả nữa thiên niên kỉ mà chiến đấu với các Elder đen tối như thế nào? Bà muốn ông quy tụ những người bất tử, những Elder và thế hệ kế tiếp hỗ trợ loài người và tiến hành cuộc chiến tranh chống lại các Elder đen tối, Dee và đòng loại của . Nhưng ông thể; cả đời mình ông chờ cặp sinh đôi được tiên báo trong cuốn Codex.


      “Hai là , là tất cả.”


      Trong đầu ông có chút nghi ngờ nào là ông khám phá ra cặp sinh đôi. Những lời tiên tri trong cuốn Codex bao giờ sai, nhưng như mọi cuốn sách khác, những lời của Braham bao giờ ràng và được viết bằng loại chữ cổ hay ngôn ngữ bị quên lãng.


      Hai là , là tất cả.


      đến lúc cuốn sách bị lấy


      Và nữ hoàng của ngươi liên minh với Quạ


      Rồi Elder bước ra khỏi b>


      Và người bất tử phải huấn luyện người bất tử


      Hai là phải trở thành là tất cả


      Và Nicholas biết— gợn chút bóng nghi ngờ—rằng là ông là người bất tử được đến trong lời tiên tri: người đàn ông với bàn tay khoằm với ông như vậy.


      Nửa thiên niên kỉ trước, Nicholas và Perenelle Flamel khắp Châu Âu để cố hiểu cuốn sách bí có bìa và gáy đóng bằng kim loại kia. Cuối cùng ở Tây Ban Nha, họ gặp được người đàn ông, tay bí giúp họ diễn dịch những phần thay đổi ngừng trong văn bản. Người đàn ông tay đó tiết lộ rằng bí mật của cuộc sống vĩnh cửu luôn luôn xuất trang số bảy của cuốn Codex vào ngày trăng tròn, trong khi công thức có thể biến đổi, để thay đổi thành phần cấu tạo của các chất liệu bất kì lại chỉ xuất trang mười bốn. Khi người đàn ông tay diễn dịch lời tiên tri thứ nhất, ông ta nhìn vào Nicholas bằng đôi mắt đen như than và đưa tay vỗ vào ngực ông bạn người Pháp bằng bàn tay trái có hình móc câu của ông ta.


      “Nhà giả kim, đây là số phận của ông,” ông ta thầm.


      Những lời huyền bí cho rằng ngày kia Flamel tìm thấy cặp sinh đôi… lời tiên tri hé lộ ra rằng ông phải nằm giang người đường phố Paris dơ bẩn và những viên cảnh sát dung mảnh trang bị đầy vũ khí vây quanh.


      Flamel nhắm mắt và hacute;t thở sâu. Đè những ngón tay xòe xuống mặt đá, miễn cưỡng kéo dòng điện của mình lên. Sợi tơ nhện năng lượng màu xanh chuối mỏng dính rỉ ra khỏi đầu ngón ông thấm vào thấm vào đá. Nicholas cảm thấy luồng năng lượng điện xoay tít của ông cuộn xoáy xoay qua lề đường, rồi thấm xuống lòng đất bên dưới. Những sợi mảnh như tóc uốn éo xuyên mặt đất, nhìn ngó… mò mẫm… và rồi, cuối cùng, thấy những gì ông tìm kiếm: khối sinh vật sống đông đúc lúc nhúc sôi sục. Rồi biến đổi đơn giản được sử dụng, lý thuyết căn bản của thuật giả kim, tạo ra đường glucoza và fructoza rồi kết hợp chúng với nhau bằng liên kết glucozit để tạo thành đường mía. sống khuấy trộn, biến đổi thành ngọt ngào.


      Viên đội trưởng cảnh sát cất cao giọng. “Giữ ông ta lại. Lục soát ông ta.”


      Nicholas nghe tiếng chân đến gần của hai viên cảnh sát, mỗi người bên. Ngay trước mặt ông, ông thấy đôi bốt bằng da đen có đế giày bóng loáng oai phong.


      Và rồi, bị phóng lớn do khoảng cách quá gần ngay mặt ông, Nicholas nhận ra những con kiến. Nó bất ngờ xuất khỏi vết nứt ở lề đường, cặp râu vẫy vẫy. Theo sau nó là con thứ hai, rồi con thứ ba.


      Nhà Giả kim lấy hai ngón tay cái đè mạnh lên ngón thứ ba trong mỗi bàn tay và bật những ngón tay kêu tanh tách. Những đốm lửa xíu mùi bạc hà màu vàng chanh xoay tròn trong khí, bao phủ sáu nhân viên cảnh sát bằng những hạt năng lượng vô cùng .


      Rồi ông biến những hạt ấy thành đường


      Đột nhiên, lề đường quanh Flamel hóa đen. đống kiến xíu nhô lên từ dưới con đường, tràn lên khỏi các khe nứt trong đá. Như thứ si-rô ngọt dày đặc, chúng lan khắp vệ đường, chảy lên những đôi dày bốt trước khi thình lình cuộn lên quanh chân các nhân viên cảnh sát, bao phủ họ bằng đàn côn trùng dày đặc. Trong chốc lát những người đàn ông bị choáng váng đến bất động. Quần áo và găng tay vẫn còn bảo vệ họ thêm chút nữa, rồi người giật nảy lên, đến người khác, và lại người khác vì đàn kiến tìm được những khe hở nhất trong quần áo của họ và lao vào bên trong, cù vào chân, cắn vào miệng. Những người đàn ông bắt đầu co giật, uốn éo, quay lòng vòng, vỗ đập vào nhau, quăng ném vũ khí của họ , tháo găng tay ra, giật tung nón bảo hiểm, hất mắt kiếng bảo vệ và nón trùm đầu tới ngang cổ trong khi hàng ngàn con kiến bò nhung nhúc khắp người họ.


      Viên đội trưởng vừa nhìn chăm chăm vào người tù binh của họ—lớp mền kiến dày nặng nề hoàn toàn chưa đụng chạm gì đến ông—vừa ngồi dậy và khó chịu phủi mình trước khi guồng chân đứng lên. Viên đội trưởng cố chĩa súng vào người đàn ông, nhưng kiến bám lấy cổ tay ta, cù vào lòng bàn tay, cắn vào da thịt, và ta sao giữ chắc được vũ khí. ta muốn ra lệnh cho mọi người ngồi xuống, nhưng có những con kiến bò lúc nhúc môi, và ta biết nếu mở miệng chúng chui tọt vào bên trong. Vươn tay lên, gạt cái nón bảo hộ khỏi đầu, ta lột luôn cái mũ trùm đầu tới ngang cổ và ném xuống đất, cong lưng lại vì bọn côn trùng bò lúc nhúc dọc xương sống. ta chà bàn tay lên đầu và cảm thấy đánh bật đượcục con kiến. Chúng rơi ngang qua mặt ta và ta nhắm nghiền mắt lại. Khi ta mở mắt ra lại, người tù binh về phía ga xe lửa tại cầu Alma, hai tay đút túi, ra vẻ như màng gì đến thế .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 17


      Josh cố mở mắt ra. Những chấm đen nhảy múa trước mắt, và khi cậu đặt tay lên mặt, cậu có thể trông thấy thoáng luồng điện vàng ánh kim của riêng cậu vẫn còn ràng quanh da thịt cậu. Đưa tay ra, cậu tìm bàn tay chị cậu và nắm lấy nó. siết nhàng, và cậu quay sang nhìn đôi mắt nhấp nháy của mở lớn.


      “Chuyện gì vậy?” cậu lẩm bẩm, quá choáng và thậm chí chết lặng vì sợ.


      Sophie lắc đầu. “Giống như vụ nổ…”


      “Em nghe Scathach hét lên,” cậu thêm.


      “Và chị nghĩ chị còn thấy ai đó chạy ra khỏi nhà…,” thêm vào.


      Cải hai quay người lại nhìn ngôi nhà phố. Scathach đứng trước cửa, cánh tay ôm chầm trẻ, giữ chặt, xoay tròn ấy vòng. Cả hai người con cười lớn và kêu ré lên mừng rỡ, la hét lên với nhau bằng thứ tiếng Pháp liếng thoắng. “Em đoán họ quen nhau,” Josh trong lúc giúp chị cậu đứ


      Cặp sinh đôi quay nhìn Comte de Saint-Germain đứng bên, khoanh tay trước ngực, cười vui vẽ. “Họ là bạn cũ,” ông giải thích. “ lâu họ chưa gặp… rất lâu rồi.” Saint-Germain đằng hắng. “Joan,” ông ta lịch .


      Hai rời nhau ra và mà ông ta gọi là Joan quay lại nhìn Saint-Germain, đầu ấy nghiêng góc nhìn giễu cợt. thể đoán tuổi ấy được. Mặc chiếc quần jeans và áo thun trắng, cao khoảng Sophie, mảnh mai cách gần như tự nhiên, làn da nâu sậm và hoàn hảo làm nổi bật đôi mắt màu xám to. Mái tóc nâu vàng cắt kiểu con trai. gạt những giọt nước mắt gò má bằng cử động lòng bàn tay nhanh. “Francis?” hỏi.


      “Và đây là những vị khách của chúng ta.”


      Vẫn nắm tay Scathach, trẻ bước lại gần Sophie hơn. Khi đến gần, Sophie cảm thấy sức ép bất ngờ trong bầu khí quanh họ, như thể có sức mạnh vô hình đẩy ra sau, và rồi, đột nhiên, luồng điện bạc lấp lánh quanh khí tràn ngập mùi hương vanilla ngọt ngào. Josh túm lấy cánh tay chị và luồng điện của cậu lốp bốp sáng lên, thêm mùi hương cam tỏa quyện khí.


      “Sophie… Josh…,” Saint-Germain mở lời. Mùi thơm hoa oải hương ngọt ngào, đậm đầy đặc khoảng sân khi luồng điện bạc xì xèo lớn lên quanh cái trẻ cắt tóc ngắn. Nó cứng lại và đông đặc, như kim loại và phản chiếu, tự đúc thành giáp che ngực, giáp che ống chân, găng tay và giày bốt trước khi cuối cùng đông cứng lại thành bộ đồ chiến binh thời trung cổ hoàn hảo. “Xin giới thiệu vợ tôi, Joan…”


      “Vợ ông!” Scatty kêu ré lên, choáng váng.


      “…người mà các bạn—và lịch sử—gọi là Joan Arc.”


      Bữa ăn sáng được dọn ra chiếc bàn gỗ dài đánh vec-ni đặt trong bếp. khí sực nức mùi bánh mì mới ra lò và cà-phê pha. Những chiếc đĩa đầy ắp trái cây tươi, bánh kếp và bánh nướng, cùng với xúc xích và trứng chiên trong chảo đặt bếp lò bằng sắt lỗi thời.


      Dạ dày Josh bắt đầu sôi lên ngay khi cậu bước vào phòng và nhìn thấy thức ăn. Miệng cậu đầy nước bọt, nhắc nhở cậu nay là rất lâu rồi cậu chưa ăn. Cậu chỉ kịp uống vài hớp sô--la nóng ở tiệm cà-phê trước khi cảnh sát đến.


      “Ăn , ăn ,” Saint-Germain , túm lấy cái đĩa trong tay và cái bánh sừng trâu lớn bên tay kia. Ông ta cắn vào bột, làm rơi ra những mảnh vỏ mỏng tang sàn lát gạch vuông. “Các bạn phải đói ngấu ra rồi chứ.”


      Sophie tựa sát em trai. “Em lấy cho chị ít thức ăn được ? Chị muốn chuyện với Joan. Chần hỏi ấy vài thứ.”


      Josh liếc nhanh trông khá trẻ kéo những chiếc tách ra khỏi máy rửa chén bát. Mái tóc cắt ngắn làm người ta thể đoán được tuổi của . “Chị có nghĩ rằng ấy đích thực là Joan Arc ?”


      Sophie siết cánh tay em mình. “Sau tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, em nghĩ sao?” gật đầu về phía bàn ăn. “Chị chỉ muốn trái cây và ngũ cốc.”


      xúc xích, trứng?” cậu ngạc nhiên hỏi. chị của cậu chính là người duy nhất mà cậu biết có thể ăn nhiều xúc xích hơn cả cậu.


      ,” cau mày, đôi mắt xanh nhòa . “ buồn cười, nhưng chỉ mới nghĩ đến việc ăn thịt thôi làm chị muốn ói.” chộp lấy cái bánh nướng và quay trước khi cậu có ý kiến gì, và tiến đến gần Joan rót cà phê vào cái tách thủy tinh cao. Cánh mũi Sophie nở ra. “Cà phê Kona của Hawaii?” hỏi.


      Đôi mắt xám của Joan nhấp nháy đầy vẻ ngạc nhiên và cúi đầu xuống. “Tôi ấn tượng.”


      Sophie cười nhún vai. “Em làm việc trong tiệm bán cà ph nhận biết mùi Kona bất cứ nơi đâu.”


      “Tôi thích nó khi chúng tôi ở Hawaii,” Joan . tiếng pha chút giọng Mỹ. “Tôi phải giữ nó bằng phương pháp đặc biệt.”


      “Em thích mùi; ghét vị. Đắng quá.”


      Joan nhắp chút cà phê. “Tôi cược là em đến đây để bàn về cà phê đấy chứ?”


      Sophie lắc đầu. “, em định vậy. Em chỉ…” ngừng lại. chỉ vừa mới gặp người phụ nữ này, song lại định hỏi ấy câu vô cùng riêng tư. “Em có thể hỏi chị chút được ?” nhanh.


      “Bất cứ gì,” Joan cách chân thành, và Sophie tin . bé hít hơi vào và lời tuôn ra gấp gáp.


      “Có lần Scathach với em chị là người cuối cùng có luồng điện bạc thuần khiết.”


      “Đó là lý do tại sao luồng điện của em phản ứng lại với luồng điện của tôi,” Joan , bọc cả hai bàn tay quanh chiếc tách và nhìn chăm chăm vào qua vành tách. “Tôi xin lỗi. Luồng điệnàm luồng điện của em bị quá tải. Tôi có thể dạy em làm sao để ngăn việc này xảy ra nữa.” mỉm cười, để lộ hàm răng trắng đều. “Dù cơ hội gặp luồng điện bạc thuần khiết khác trong đời em là mỏng manh đến mức khó tin được.”


      Sophie hồi hộp gặm miếng bánh nướng nhân dâu dại. “Xin bỏ qua cho em, nhưng chị có phải đúng là ….đúng là Joan Arc, chính là Joan Arc ?”


      “Đúng tôi đích thực là Joan d’Arc.” hơi cúi mình, “La Pucelle, Trinh nữ xứ Orleans, xin được phục vụ.”


      “Nhưng em nghĩ… Ý em là, em luôn đọc thấy chị chết…”


      Joan hạ đầu xuống và mỉm cười. “Scathach cứu tôi.”


      đưa cánh ra chạm vào Sophie, và ngay lập tức, những hình ảnh lung linh nhảy múa trước mắt : Scathach lưng, con ngựa đen khổng lồ, mình mặc áo giáp trắng và đen, tay nắm hai thanh gươm sáng chói.


      “Bóng tối tay chiến đấu mở đường xuyên qua đám đông tụ tập xem tôi bị hành quyết. ai có thể kháng cự lại . Trong hoảng loạn, lộn xộn và rối loạn đó, chộp lấy tôi chạy thoát ngay trước mũi những người hành hình tôi.”


      Nhưng hình ảnh chớp lóa trong đầu Sophie: Joan, mặc quần áo rách tả tơi và cháy xém, bám vào Scathach khi Nữ Chiến binh tay điều khiển con ngựa trong bộ áo giáp đen vượt qua đám đông hoảng loạn, những thanh gươm sáng chói trong tay kia vạch đường cho họ .


      “Tất nhiên, mọi người phải rằng họ nhìn thấy Joan chết,” Scatty , tham gia vào với họ, cẩn thận lạng mỏng trái thơm thành những khoanh gọn gang bằng con dao quắm. ai—cả người vẫn người Pháp muốn thừa nhận rằng Trinh nữ xứ Orleans bị bắt cóc mất tiêu ngay trước mũi mình, có lẽ có đến năm trăm hiệp sĩ trang bị vũ khí hạng nặng, được cứu bởi nữ chiến binh đơn lẻ.”


      Joan đưa tay lấy miếng thơm từ những ngón tay của Scathach và thảy nó vào miệng. “Scatty đưa tôi đến với Nicholas và Perenelle,” tiếp tục. “Họ cho tôi chỗ trú chăm sóc tôi. Tôi bị thương đường trốn chạy và bị yếu trong nhiều tháng bị giam cầm. Nhưng dù có quan tâm tốt nhất của Nicholas, tôi hẳn chết mất nếu có Scatty.” giơ tay và siết chặt tay bạn lần nữa, dường như chú ý đến những giọt lệ rơi má mình.


      “Joan mất nhiều máu lắm” Scathach . “Mặc những gì Nicholas và Perenelle làm, ấy vẫn khá hơn, vì thế Nicholas tiến hành trong những việc truyền máu đầu tiên chưa bao giờ có.”


      “Máu của ai” Sophie bắt đầu hỏi, cho tới khi chợt nhận ra là biết câu trả lời. “Máu của chị?”


      “Máu ma cà rồng của Scathach cứu tôi. Và cũng giúp tôi sống— làm tôi thành bất tử.” Joan cười toe. Sophie để ý thấy răng bình thường, nhọn như Scatty. “May thay có phản ứng phụ của ma cà rồng. Dẫu sao tôi là người ăn chay,” thêm. “ qua vài thế kỉ rồi.”


      “Và lập gia đình,” Scathach như buộc tội. “Chuyện đó xảy ra hồi nào, và như thế nào, sao mời tôi?” hỏi dồn hơi.


      “Chúng tôi lấy nhau bốn năm trước tại bãi biển Hoàng hôn ở Hawaii, tất nhiên là vào lúc mặt trời mọc. Chúng tôi tìm khắp nơi ngay sau khi chúng tôi quyết định,” Joan nhanh. “Tôi muốn có ở đó; tôi muốn làm phù dâu danh dự cho tôi.”


      Đôi mắt xanh của Scatty nhíu lại, hồi tưởng. “Bốn năm trước… tôi nghĩ tôi ở Nepal truy đuôi tay lừa đảo Nee-gued. tên người tuyết kinh tởm,” thêm khi nhìn thấy Sophie và Joan ngây mắt ra nhìn.


      “Chúng tôi có cách gì liên lạc với c Điện thoại di động của làm việc, thư điện tử bị trả lại báo rằng hộp thư của đầy rồi.” Joan nắm tay Scathach. “Lại đây, tôi có máy cái hình có thể cho xem.” quay lại Sophie. “bây giờ em nên ăn. Em phải bù lại phần năng lượng đốt hết. Uống nhiều chất lỏng. Nước, nước ép trái cây, nhưng đừng uống thứ chứa có cà-phê-in, trà, cà phê, uống những thứ làm em thức. Sau khi xong bữa, Francis chỉ phòng cho hai chị em, các em có thể tắm và nghỉ ngơi.” chậm rãi nhìn từ xuống dưới. “Tôi lấy ít quần áo cho em. Em khoảng cỡ tôi. Và sau đó chúng ta về luồng điện của em.” Joan ngửa bàn tay trái và xòe các ngón ra. “Tôi chỉ em làm thế nào để kiểm soát nó, làm thế nào để định hình nó, biến nó thành bất cứ cái gì em muốn.” Chiếc găng tay biến thành cái vuốt của loài chim ăn thịt bằng kim loại đầy đủ với các móng cong trước khi trở lại mờ nhạt thành da thịt rám nắng của Joan. Chỉ có những chiếc móng tay vẫn còn bạc. dựa người vào và hôn Sophie nhanh mỗi bên má. “Nhưng trước hết em phải nghỉ ngơi. Bây giờ,” vừa vừa nhìn Scathach, “để tôi cho xem hình.”


      Hai vội vã rời khỏi bếp, và Sophie theo đường mình quay trở xuống căn phòng dài nơi Saint-Germain chuyện sôi nổi với em trai . Josh đưa cho dĩa đầy trái cây và bánh mì. Dĩa của cậu nhiều trứng và xúc xích. Sophie cảm thấy dạ dày mình khó chịu thấy mấy thứ đó và buộc phải quay chỗ khác. vùa nhấm nháp trái cây vừa lắng nghe câu chuyện.


      , tôi là người thể đánh thức năng lượng của cậu được,” Saint-Germain khi bước vào cùng tham gia với họ. “Để làm được việc đó cậu cần phải có Elder hay trong ít người thuộc thế hệ kế tiếp, người nào có thể làm được ấy.” Ông mỉm cười, để lộ hàm rang lộn xộn. “Đừng lo, Nicholas tim thấy ai đó đanh thức cậu.”“


      “Có ai ở đây, tại Paris này có thể làm được ?”


      Saint-Germain suy xét lúc. “Machiavelli biết ai đó, tôi chắc lắm. ta biết đủ thứ. Còn tôi .” Ông ta quay sang Sophie, hơi cúi người. “Tôi hiểu may mắn lắm mới được Hekate huyền thoại đánh thức và được thầy cũ của tôi, Bà Phù thủy Endor, huấn luyện pháp thuật khí.” Ông ta lắc đầu. “Bà phù thủy gìa thế nào? Bà ấy chẳng bao giờ thích tôi,” ông thêm.


      “Tới giờ vẫn thích,” Sophie nhanh, rồi chợt đỏ mặt vì ngượng. “Xin lỗi. hiểu tại sao tôi lại vậy.”


      Ông bá tước cười lớn. Ồ, Sophie, đâu … đúng, . Bà Phù thủy . mất thời gian để sắp xếp lại ký ức của mình. Tôi nhận được điện thoại của bà ấy sáng nay. Bà ấy bảo tôi rằng bà ấy làm cho thấm nhuần chỉ Pháp thuật khí mà còn toàn bộ kiến thức của bà ấy nữa. Kĩ thuật xác ướp được dùng trong ký ức sống; nguy hiểm tưởng tượng được.”


      Sophie liếc nhanh cậu em trai. Cậu chăm chú nhìn Saint-Germain cách cẩn thận, lắng nghe từng lời. để ý thấy cậu mím chặt môi làm cổ và xương hàm căng cứng.


      hẳn phải nghỉ ngơi ít nhất hai mươi bốn tiếng mới có thể hồi tỉnh lại và đủ thời gian cho tiềm thức sắp xếp lại các ký ức, ý nghĩa và tư tưởng xa lạ bị thu nạp đột ngột vào.”


      “Tôi chẳng có thời gian,” Sophie lẩm bẩm.


      “Nào, giờ có rồi đó. Ăn nhanh ; rồi tôi chỉ phòng cho các bạn. Cứ ngủ bao lâu tùy ý. Các bạn tuyệt đối an toàn. ai biết các bạn ở đây cả.”






      CHƯƠNG 18


      Bọn chúng ở trong ngôi nhà của Saint-Germain gần Champs-Elysees. “Machiavelli áp điện thoại vào tai và ngã lưng trong chiếc ghế bọc da màu đen, xoay người nhìn ra ngoài ô cửa sổ cao. Xa xa, ngang qua những mái ngói nghiêng nghiêng, có thể nhìn thấy tháp iffel. Pháo hoa ngưng hẳn, nhưng đám mây màu sắc cầu vồng vẫn còn lơ lưng trong trung. “Đừng lo, Tiến sĩ, chúng tôi cho theo dõi ngôi nhà kỹ càng. Saint-Germain, Scathach và cặp sinh đôi bên trong. có người nào khác.”


      Machiavelli đưa điện thoại ra xa tai khi tĩnh điện rì rầm và nổ lốp bốp. Phản lực của Dee vừa cất cánh từ sân bay tư nhân ở miền bắc Los Angeles. Nó dừng lại ở New York để tiếp nhiên liệu, rồi bay vượt qua Đại Tây Dương đến Shannon ở Ireland và tiếp nhiên liệu lần nữa trước khi tiếp tục lên đường đến Paris. Tiếng lốp bốp nhạt dần rồi giọng Dee, mạnh và , đến qua điện thoại.


      “Còn Nhà giả Kim?”


      “Biến mất ở Paris rồi. Nhưng người của tôi bắt được nằm xuống, súng chĩa vào người, vậy mà bằng cách nào đó ta lại phủ đường lên họ và khiến cả tập đoàn kiến trong thành phố bò lên người họ. Họ náo loạn cả lên; ta trốn mất.”


      “Thuật chuyển hóa,” Dee nhận xét. “Nước được hình thành bởi hai phân tử hiđrô và phân tử oxi, và đường mía có cùng tỉ lệ đó. biến đổi nước thành đường; chỉ là trò vụn vặt—tôi vẫn cứ mong đợi nhiều hơn kia.”


      Machiavelli lùa bàn tay vào mái tóc cắt ngắn trắng như tuyết của mình. “Tôi lại nghĩ việc này khá thông chứ,” ôn tồn . “ ta đưa sáu viên cảnh sát vào nhập viện.”


      ta trở lại với hai cặp sinh đôi,” Dee cáu kỉnh. “ cần mấy đứa đó. chờ đợi cả đời mình để tìm được chúng.”


      “Tất cả chúng tôi chờ,” Machiavelli bình thản nhắc lại với Pháp sư. “Và bây giờ, chúng ta biết bọn chúng ở đâu, nghĩa là biết Flamel đâu.”


      “Đừng làm gì chó tới khi tôi đến đó,” Dee ra lệnh.


      “Ông có ý tưởng gì khi điều đó—” Machiavelli vừa cất tiếng, nhưng đường dây tắt ngấm. ta Dee cúp máy hay cuộc gọi bị rớt. Biết tính Dee, đoán là tên này cúp máy; đó là phong cách thường lệ của Dee. Người đàn ông dáng cao, lịch gõ nhè chiếc điện thoại vào đôi môi mỏng của mình rồi mới trả máy về chỗ cũ. ta có ý định theo lệnh của Dee; bắt Flamel và cặp sinh đôi trước khi máy bay của Dee chạm xuống Paris. làm được những gì Dee thất bại trong nhiều thế kỷ, và đổi lại, các Elder ban cho những gì muốn.


      Chiếc điện thoại của Machiavelli phát ra tiếng rù rù trong túi . lôi nó ra và nhìn vào màn hình. tràng số dài nhằng lạ hoắc chạy qua, giống với dãy số nào từng thấy trước nay. Người đứng đầu DGSE cau mày. Chỉ có tổng thống Pháp, vài bộ trưởng các nội các cao cấp và nhân viên trực tiếp của mới có số điện thoại riêng của . nhấn nút trả lời nhưng gì cả.


      “Pháp sư người tin rằng cố gắng và bắt được Flamel cùng với cặp sinh đôi trước khi ta đến.” Giọng ở đầu dây đằng kia tiếng Hy Lạp bằng thổ ngữ còn dung cả thiên niên kỷ nay.


      Niccolo Machiavelli ngồi dựng đứng lên trong ghế mình. “Chủ nhân?” .


      “Hãy hỗ trợ Dee hết sức . động đậy gì tới Flamel cho đến khi ta đến.” Đường dây tắt ngúm.


      Machiavelli cẩn thận đặt chiếc điện thoại vào chỗ trống bàn và ngồi xuống trở lại. Úp hai tay lên mặt, ngạc nhiên khi thấy chúng hơi run. Lần cuối cùng chuyện với Elder mà gọi là Chủ nhân hơn thế kỷ rưỡi trước rồi. Đây là Elder ban cho bất tử hồi đầu thế kỷ mười sáu. Bằng cách nào Dee liên lạc với ông? Machiavelli lắc đầu. ràng là thể được; có lẽ nào Dee liên lạc với chủ nhân của riêng và nhờ ông đưa ra cầu. Nhưng chủ nhân của Machiavelli là trong những Elder Đen tối mạnh nhất… Điều đó đưa quay lại câu hỏi từng làm bối rối qua nhiều thế kỷ: ai là chủ nhân của Dee?


      Mỗi con người được Elder b tặng bất tử đều bị ràng buộc vào Elder đó. Elder ban cho ai bất tử cũng có thể dễ dàng lấy lại y như vậy. Machiavelli trông thấy chuyện đó xảy ra: ông từng chăm chú nhìn người thanh niên khỏe mạnh đột nhiên héo quắt lại và già xọm chỉ trong khoảng độ tích tắc, cuối cùng người đó đổ sụm xuống thành đống xương nát vụn và da thịt biến thành bụi.


      Hồ sơ của Machiavelli về những người bất tử được tham chiếu chéo với các Elder hoặc Elder Đen tối mà họ phục vụ. Chỉ có số rất ít là con người—như Flamel, Perenelle và Saint-Germain—những người nợ lòng trung thành với Elder nào, vì họ trở thành bất tử bằng nỗ lực của riêng họ.


      ai biết Dee phục vụ cho ai. Nhưng hiển nhiên đó phải là người có quyền lực hơn chủ nhân Elder Đen tối của chính Machiavelli. Và tất cả những điều đó làm cho Dee càng nguy hiểm hơn.


      Chồm người về phía trước, Machiavelli nhấn nút chiếc điện thoại bàn của . Cảnh cửa lập tức mở ra và Dagon bước vào phòng, cặp kính râm phản chiếu của nó phản ánh lại những bức tường trống trơn.


      “Có báo cáo nào về Nhà Giả kim ?”


      có gì. Chúng tôi truy cập hình ảnh từ những camera quan sát trong nhà ga tại cầu Alma và mọi nhà ga liên kết với nó và chúng tôi phân tích dữ liệu, nhưng phải mất ít thời gian.”


      Machiavelli gật đầu. Thời gian là thứ có. vẫy bàn tay với những ngón dài vào khí. “Được, chúng ta có thể biết bây giờ ta ở đâu, nhưng chúng ta biết nơi đến: nhà của Saint-Germain.”


      Đôi môi Dagon hở ra nhớp nháp. “Ngôi nhà đó được theo dõi kỹ càng. Tất cả mọi lối vào và ra đều được thắt chặt; thậm chí còn đặt người trong hệ thống cống rãnh bên dưới tòa nhà. ai có thể vào hoặc ra mà chịu giám sát của chúng tôi. Có hai đội RAID trong xe tải đậu gần những con phố ngang và đội thứ ba ém trong ngôi ngà kế bên nhà của Saint-Germain. Họ có thể trèo qua tường trong chốc lát.”


      Machiavelli đứng lên và bước ra khỏi phía sau bàn. Chắp tay sau lưng, vòng quanh căn phòng danh xíu. Mặc dù đây là địa chỉ chính thức, nhưng ít khi sử dụng căn phòng này, và nó cũng chẳng có gì ngoài cái bàn làm việc, hai cái ghế, và điện thoại. “Nhưng tôi tự hỏi biết như đả đủ chưa? Flamel trốn thoát khỏi sáu viên cảnh sát được huấn luyện cao cấp khi họ chĩa súng vào ta, mặt còn úp xuống vệ đường. Và chúng ta biết Saint-Germain—Bậc thầy về Lửa—lại ở trong nhà mình. Chúng ta ví dụ về khả năng của rồi đó.”


      “Pháo hoa đâu có nguy hại gì,” Dagon .


      “Tôi dám chắc ta có thể dễ dàng biến cái tháp thành chất lỏng y như vậy. Hãy nhớ cho, ta làm ra kim cương từ than đá


      Dagon gật đầu.


      Machiavelli tiếp tục. “Chúng ta cũng biết rằng năng lượng của con bé người Mỹ được đánh thức, và chúng ta từng thấy chút trong số những gì con bé đó có thể làm. Sương mù ở Sacre-Coeur là chiến công ấn tượng đối với người chưa được huấn luyện và còn quá trẻ như vậy.”


      “Và rồi lại có cả Bóng tối,” Dagon thêm.


      Bộ mặt Niccolo Machiavelli biến thành cái mặt nạ kỳ quặc. “Và rồi lại có cả Bóng tối,” đồng ý.


      “Mụ ta xóa sạch mười hai tên nhân viên được trang bị vũ khí hạng nặng trong tiệm cà phê sáng nay,” Dagon chút cảm xúc. “Tôi từng quan sát mụ ta đương đầu với toàn thể quân đội, và mụ ta sống sót sau hàng thế kỷ trong Vương quốc Bóng tối Địa ngục. ràng Flamel dùng mụ ta để bảo vệ cho hai đứa sinh đôi. Mụ ta phải bị tiêu diệt trước khi chúng ta xử đến bất cứ tên nào khác.”


      “Đúng vậy.”


      “Ông cần cả đội quân.”


      “Có lẽ . Nhớ là, xảo quyệt và mánh khó phục vụ con người mọi lúc hơn là sức mạnh,” trích dẫn.


      “Ai vậy?” Dagon hỏi.


      “Tôi, trong cuốn sách, lâu lắm rồi. Điều đó là chân lý trong triều đình thời Medicis, và đến nay vẫn là chân lý.” nhìn lên. “ cho người mời Disir chưa?”


      “Họ đường đến đây.” Giọng Dagon lính dính. “Tôi tin họ.”


      ai tin Disir.” có chút hài hước nào trong nụ cười của Machiavelli. “ từng nghe câu chuyện làm thế nào mà Hekate nhốt được Scathach trong Địa ngục đó chưa?”


      Dagon nhúc nhích.


      “Hekate sử dụng Disir. Mối tử thù của chúng với Bóng tối có từ hồi sau khi Danu Talis bị nhấn chìm.” Đặt bàn tay lên vai sinh vật này, Machiavelli bước đến gần Dagon, cẩn thận thở bằng miệng. Dagon tiết ra mùi cá; bao phủ lớp da xanh mướt của nó như mồ hôi nhờn nhợt, trở mùi thum thủm. “Tôi biết ghét Bóng tối, và tôi bao giờ hỏi tại sao, dù tôi có nghe loáng thoáng. ràng là mụ ta gây đau khổ cho . Tuy nhiên, tôi muốn bỏ qua bên cảm xúc của mình; ghét là thứ vô ích nhất trong tất cả các cảm xúc. Thànhông là cách trả thù hay nhất. Tôi cần phải tập trung và ở bên cạnh tôi. Chúng ta nay gần, rất gần với chiến thắng, gần với trở lại của giống loài Elder thế giới này. Hãy bỏ mặc Scathach cho Disir. Nhưng nếu chúng thất bại, mụ ta là của . Tôi hứa.”


      Dagon há miệng ra để lộ vòng rang nhọn hoắt. “Chúng thất bại. Disir định đem theo Nidhogg.”


      Niccolo Machiavelli nheo mắt ngạc nhiên. “Nidhogg… nó được thả à? Chuyện thế nào?”


      “Cây Thế giới bị phá hủy.”


      “Nếu chúng ta thả Nidhogg vào Scathach, đúng. Chúng ta thất bại. thể.”


      Dagon đưa tay cởi cặp kính. Cặp mắt cá lồi ra to tướng của nó mở lớn và chớp. “Và nếu chúng mất kiểm soát Nidhogg, nó có thể phá hủy toàn bộ thành phố này.”


      Machiavelli suy xét lúc. Rồi gật đầu. “ giá hời để trả cho việc tiêu diệt Bóng tối.”


      “Ông nghe giống hệt Dee.”


      “Ồ, tôi có cái gì giống tay Pháp sư người đó cả,” Machiavelli với vẻ kích“Dee là tên cuồng tín nguy hiểm.”


      “Còn ông à?” Dagon hỏi.


      “Tôi chỉ nguy hiểm thôi.”


      Tiến sĩ John Dee ngồi dựa lưng vào chỗ ngồi bọc da mềm mại và ngắm nhìn mạng lưới đèn của Los Angeles lấp lánh rơi bên dưới . Kiểm tra chiếc đồng hồ bỏ túi được trang trí công phu, tự hỏi biết Machiavelli nhận được cuộc gọi điện thoại từ chủ nhân của chưa. tưởng tượng là rồi. Dee cười toe, tự hỏi tay người Ý làm gì với cuộc gọi đó. Nếu có gì khác, ít nhất nó cho Machiavelli thấy ai là người phụ trách.


      phải là thiên tài mới nhận ra rằng tay người Ý đó tự mình truy đuổi Flamel và bọn . Nhưng Dee mất quá lâu trong việc đuổi bắt Nhà Giả kim để rồi lại chịu vuột mất ông ta đúng ngay ở chặng cuối… đặc biệt vào tay người như Niccolo Machiavelli.


      nhắm mắt lại khi chiếc máy bay nâng lên và dạ dày quặn lại. tự động đưa tay lấy túi giấy chỗ ngồi bên cạnh: thích bay, nhưng dạ dày của luôn luôn phản đối. Nếu mọi thứ diễn ra như kế hoạch, chẳng bao lâu điều khiển toàn bộ hành tinh này và bao giờ còn cần phải bay nữa. Mọi người đến với .


      Chiếc phản lực chĩa lên theo góc dựng đứng và nuốt nước bọt cách khó khăn; ăn phần gà cuộn ở phi trường và giờ hối hận. Thức uống có ga ràng lại là sai lầm khác nữa.


      Dee hân hoan mong đợi thời điểm các Elder trở lại. Có lẽ họ thiết lập lại mạng lưới cổng tuyến xuyên khắp thế giới và làm cho những chuyến máy bay còn cần thiết nữa. Nhắm mắt, Dee tập trung vào các Elder và nhiều lợi ích mà họ mang lại cho hành tinh này. Trong quá khứ, biết các Elder tạo ra thiên đường trái đất. Tất cả những cuốn sách cổ và những cuộn giấy da, những truyện hoang đường và thần thoại của mọi giống loài, đều đến thời vàng son đó. Chủ nhân của hứa với rằng các Elder dùng sức mạnh phép thuật của mình để đưa hành tinh này trở về thiên đường đó. Họ đảo ngược lại những hiệu ứng làm cho địa cầu ấm dần lên, sửa vá những lỗ thủng trong tầng ozone và mang sống đến cho các sa mạc. Sahara nở hoa; những chóp băng giá hai cực tan chảy , để lộ đất đai phì nhiêu bên dưới. Dee nghĩ tìm thấy thành phố thủ đô của ở Antarctica bên bờ hồ Vanda. Các Elder có thể thiết lập lại vương quốc cổ của họ ở Sumer, Ai Cập, Trung Mỹ và Angkor, và với hiểu biết chứa trong cuốn sách của Abraham, có thể họ nâng dậy Danu Talis lần nữa.


      Tất nhiên, Dee biết rằng cư dân loài người trở thành nô lệ, và số trở thành thức ăn cho những Elder đó, họ vẫn cần phải ăn, nhưng đó là cái giá hời để trả cho nhiều lợi ích khác.


      Chiếc phản lực giữ độ cao và thấy dạ dày mình ổn định. Mở mắt ra, hít thở sâu và kiểm tra đồng hồ lần nữa. thấy rằng khó có thể tin rằng chỉ còn cách vài giờ nữa—giờ theo nghĩa đen—là có thể bắt được Nhà Giả kim, Scathach và, bây giờ, cặp sinh đôi. Bọn chúng là phần thưởng cộng thêm. khi có Flamel và những trang sách từ cuốn Codex, thế giới thay đổi.


      bao giờ hiểu được tại sao Flamel và vợ ông ta lại làm việc cực nhọc như vậy để ngăn cản Elder mang nền văn minh trở lại trái đất. Nhưng chắc chắn hỏi ông ta… ngay trước khi giết ông ta.






      CHƯƠNG 19


      Nicholas Flamel dừng chút đường Beaubourg và chậm rãi quay người, đôi mắt xanh nhạt của ông quét khắp con phố. Ông nghĩ là ông bị ai theo, nhưng ông cần phải chắc chắn. Ông lấy xe lửa đến ga Saint-Michel Notre-Dame và băng qua sông Seine cầu Arcole, hướng về công trình kỳ quái làm bằng kín và thép mang tên Trung tâm Pompidou. Còn nhiều thời gian, ông thường hay ngừng lại, lao từ bên này sang bên kia đường, dừng chút ở quầy bán báo để mua tờ báo sáng, ngừng lại để uống ly cà phê hạng bét trong cái ly giấy, ông kiểm tra bất cứ ai chú ý đến cử động của ông. Nhưng theo những gì ông có thể nhận thấy, có ai theo ông cả.


      Paris thay đổi kể từ lần cuối cùng khi ông còn ở thành phố này, và dù bây giờ ông gọi San Francisco là mái ấm, nơi đây vẫn là thành phố nơi ông sinh ra và vẫn luôn là thành phố của ông. Chỉ mới hai tuần trước, Josh tải Google Earth và máy tính ở văn phòng sau của tiệm sách và chỉ cho ông cách sử dụng nó. Nicholas mất hàng giờ để nhìn xuống những con phố ông từng có lần qua, tìm những tòa nhà ông từng biết hồi còn trẻ, cả việc khám phá ra vị trí của nhà thờ Holy Innocents, được cho là nơi chọn cất ông.


      Ông đặc biệt quan tâm đến con phố. Ông tìm nó chương trình bản đồ và gần như rảo bước xuống đó, bao giờ nhận ra rằng chẳng bao lâu ông làm như vậy trong thực tế.


      Nicholas Flamel rẽ trái ra khỏi đường Beaubourg vào đường de Montmorency—và ngừng lại bất thình lình như thể ông va vào bức tường vô hình.


      Ông kéo hơi thở sâu và nghe nó run lên, ý thức rằng trái tim ông nện thùi thụi. thứ cảm xúc cực mạnh. Con phố quá hẹp đến nỗi mặt trời thể tới được, nên luôn để nó trong bóng tối. Nó được kẻ hai bên bằng những tòa nhà cao, hầu hết là màu trắng và kem, nhiều nhà treo cái giỏ tường, hoa và cây xanh mọc tràn ra bên ngoài. Những cây sào bằng kim loại màu đen có hình tròn được chen vào lề đường cả hai bên con phố để cho xe hơi đậu.


      Nicholas chầm chậm bộ xuống phố, nhìn thấy nó như trước đây từng nhìn thấy. Ông nhớ lại.


      Hơn sáu trăm năm trước, ông và Perenelle từng sống con phố này. Những hình ảnh Paris thời trung cổ lung linh trong mắt ông, tình trạng bừa bộn những căn nhà làm bằng gỗ và đá lung tung hài hòa; những con hẻm xíu quanh co chật hẹp; những chiếc cầu mục nát; những tòa nhà và con phố nằm trong danh sách sắp sụp đổ chỉ khá hơn những cái cống rãnh trống hoác chút. Tiếng ồn, tiếng ồn liên miên chịu nổi, và chướng khí hôi thối lơ lửng khắp thành phố— hỗn hợp con người tắm rửa mang đầy bệnh tật và những con thú bẩn thỉu—là những thứ bao giờ ông qu


      Ở cuối con đường de Montmorency, ông thấy tòa nhà mà ông tìm kiếm.


      Nó chẳng thay đổi mấy. Đá trước đây thường có màu kem, nay cổ xưa, sứt nẻ và giải dầu nắng gió, vấy đen bồ hóng. Ba chiếc cửa sổ bằng gỗ và các cửa đều mới, nhưng bản thân nó là tòa nhà cũ nhất ở Paris. Ngay phía cánh cửa giữa là con số kim loại màu xanh lơ—51—và bên nữa là tám biển bằng đá trông rất quen thuộc thông báo đây từng là NGÔI NHÀ CỦA NICHOLAS FLAMEL VÀ PERENELLE, PHU NHÂN ÔNG bằng tiếng Pháp. tấm biển màu đỏ hình cái khiên thông báo rằng đây là NHÀ HÀNG NICHOLAS FLAMEL. Bây giờ nó là tiệm ăn.


      thời là nhà ông.


      Bước lên cửa sổ, ông giả vờ đọc thực đơn để nhìn vào bên trong. Nội thất hoàn toàn được tu sửa lại, tất nhiên, có lẽ vô số lần, những thanh xà sẫm màu bắc ngang qua trần màu trắng xem ra đúng là những thanh xà ông rất thường nhìn lên hơn sáu trăm năm trước.


      Ông và Perenelle từng hạnh phúc ở đây, ông nhận thức .


      Và an toàn.


      Cuộc sống của họ hồi ấy đơn giản hơn nhiều; họ biết về Elder và Elder Đen tối gì cả; họ biết gì về cuốn Codex, hay về những người bất tử canh giữ và chiến đấu vì nó.


      Và cả ông lẫn Perenelle vẫn hoàn toàn là con người.


      Những phiến đá cổ xưa của ngôi nhà khắc sâu những hình ảnh hài hòa, những kí hiệu và chữ cái mà ông biết làm lúng túng và kích thích trí tò mò của đọc giả qua mọi thời. Hầu hết chúng đều vô nghĩa, số ít hơn là những biển hiệu của các cửa tiệm vào thời họ, nhưng có hay hai cái lại có ý nghĩa đặc biệt. Nhanh chóng liếc trái liếc phải và lần theo đường viền của chữ N, được khắc vào phiến đá phía tay trái của cửa sổ giữa. Luồng năng lượng màu xanh lục cuộn quanh con chữ. Rồi ông lần theo chữ F được trang trí công phu mặt đối dện cửa sổ, để lại đường viền quanh con chữ tỏa sáng lờ mờ trong trung. Nắm khung cửa sổ bằng tay trái, ông hít người lên gờ cửa và giơ tay phải lên đầu, mấy ngón tay ông dò tìm hình dạng của các con chữ trong phiến đá cổ. Cho phép dòng chữ nhất trong luồng điện của ông chảy qua ngón tay, ông ấn vào chuỗi kí tự…. và phiến đá dưới da thịt ông hóa ra ấm và mềm. Ông đẩy… và những ngón tay ông chìm vào trong đá. Chúng bao quanh vật mà ông cất giấu trong khối đá granite cứng hồi thế kỉ mười lăm. Kéo nó long ra, ông bước ra khỏi gờ cửa sổ và thả mình xuống đất, bọc nhanh tờ Le Monde của ông quanh vật đó. Rồi ông quay người hướng xuống con phố, ngay cả ánh mắt liếc ra sau cũng .


      Trước khi bước ra đường Beaubourg, Nicholas rẽ qua tay trái. Nằm ngay giữa lòng bàn tay ông là dấu hằn của con bướm đen hoàn hảo Saint—Germain ấn vào da ông. “Nó đưa thầy trở lại với con,” ta vậy.


      Nicholas Flamel chạm ngón trỏ vào hình xăm. “Hãy đưa tôi trở lại với Saint-Germain,” ông lẩm bẩm. “Hãy mang tôi đến với ta.”


      Hình xăm run rẩy tay ông, mấy cái cánh khẽ lay động. Rồi thình lình nó bong ra khỏi da thịt ông và lơ lửng vỗ cánh vỗ cánh trước mặt ông. lúc sau, nó nhảy múa và uốn lượn xuống phố. “Thông minh,” Nicholas khẽ, “rất thông minh.” Và ông bắt đầu lên đường theo sau nó.






      CHƯƠNG 20


      Perenelle Flamel bước khỏi xà lim của nhà tù.


      Cánh cửa bao giờ khóa. cần thiết: có gì bước qua con nhân sư. Nhưng bây giờ con nhân sư rồi. Perenelle hít thở sâu; mùi chua của sinh vật, phối hợp của mùi mốc meo của rắn, sư tử và chim, giảm bớt, nhường chỗ cho mùi thường lệ của Alcatraz—muối và kim loại gỉ, rong biển và đá bể—thay thế vào. Bà quay sang trái, nhanh chóng xuống hành lang dài hai hàng xà lim dọc theo hai bên. Bà đảo Đá; nhưng biết chính xác bà ở đâu trong cái khu phức tạp khổng lồ đổ nát này. Dù bà và Nicholas sống ở San Francisco nhiều năm nhưng bà bao giờ bị cám dỗ muốn đến tham quan hòn đảo ma ám này. Tất cả những gì bà biết là bà ở sâu dưới bề mặt trái đất. Chỉ có ánh sáng đến từ bóng đèn công suất rải rác theo quy luật được gắn vào phía sau những phòng giam có chấn song kim loại. Đôi môi Perenelle vặn vẹo nụ cười nhăn nhó; ánh sáng ủng hộ lợi ích của bà. Con nhân sư sợ bóng tối; sinh vật này đến từ thời điểm và nơi nào đó thực có những con quỷóng tối.


      Con nhân sư bị hồn ma Juan Manuel de Ayala dụ mất. Nó bỏ để tìm kiếm những tiếng ồn ào bí , những thanh sắt lách cách và những cánh cửa rầm rầm thình lình vang khắp tòa nhà. Con nhân sư mỗi lúc xa xà lim của bà, luồng điện của Perenelle được nạp lại. Bà chưa lấy lại được trọn lại sức mạnh—bà cần phải ngủ, và ăn nữa—nhưng ít ra bà cũng còn bị canh giữ. Tất cả những gì bà phải làm là tránh xa lối của sinh vật này.


      cánh cửa đánh rầm ở đâu đó phía đầu bà, và Perenelle cứng người lại khi những móng vuốt kêu lách cách lập cập. Bà mặc cái áo đầm mùa hè tay, và bình thường bà có thể điều hòa nhiệt độ của mình bằng cách điều chỉnh luồng điện, nhưng giờ bà còn rất ít năng lượng và bà chần chừ biết có nên sử dụng nó bằng mọi cách . trong những tài năng đặc biệt của con nhân sư là khả năng đánh hơi và ăn hết năng lượng pháp thuật.


      Đôi giày dây đế bằng của Perenelle gây ra tiếng động những phiến đá ẩm ướt khi bà xuống hành lang. Bà cảnh giác, nhưng sợ. Perenelle Flamel sống hơn sáu trăm năm rồi, và trong khi Nicholas say mê thuật giả kim bà lại tập trung vào thuật phù thủy. Nghiên cứu của bà đưa bà đến số nơi rất nguy hiểm và u tối, chỉ trái đất này, mà còn có những nơi tiếp giáp với Vương quốc Bóng tối.


      Ở nơi đó cách khoảng xa, kính vỡ và rơi loảng xoảng phương hướng, nhưng thanh nghe rất xa. Perenelle mỉm cười: de Ayala làm cho con nhân sư bận rộn, và dù cho nó nhìn cật lực đến thế nào chăng nữa, nó bao giờ thấy được ông ấy. Ngay cả sinh vật mạnh mẽ như con nhân sư cũng có quyền lực gì hồn ma hay con tinh.


      Perenelle biết rằng bà cần phải lên mức cao hơn và bước vào ánh sáng mặt trời, nơi luồng điện của bà được nạp lại nhanh hơn. khi bà ở giữa trời, bà có thể sử dụng hàng tá câu thần chú, những phép phù thủy, những bùa chú đơn giản mà bà biết làm tồn tại của con nhân sư trở thành nỗi bất hạnh. pháp sư xứ Scythe người tuyên bố từng giúp xây kim tự tháp cho những người sống sót của Danu Talis rồi những người này lại đến đặt ở Ai Cập, dạy bà câu thần chú rất hiệu nghiệm để làm tan chảy đá. Perenelle ngần ngại sử dụng nó để mang toàn bộ tòa nhà này đỗ ập xuống con nhân sư. Có thể làm nó sống sót được—loài nhân sư hầu như thể bị giết—nhưng chắc chắn nó bị làm chậm lại.


      Perenelle phát những bậc thang bằng kim loại bị hoen rỉ và lao về phía đó. Vừa định đặt chân lên bậc cuối cùng bà để ý thấy sợi chỉ màu xám giăng ngang tấm kim loại. Perenelle cứng đơ người, chân giơ lên …và rồi và chầm chậm và cẩn thận bước lùi lại. Cúi sát xuống, bà nhìn những bậc thang kim loại.


      Từ góc này, bà có thể nhìn thấy những sợi tơ nhện đan chéo nhau và len lỏi khắp các bậc thang. Bất cứ ai bức lên những bậc thang kim loại này đều bị bắt. Bà quay lại, chăm chăm nhìn vào bóng tối mù mịt. Những cọng chỉ quá dày thể do bất kì con nhện bình thường nào nhả ra và đó lấm tấm những giọt bạc lỏng. Perenelle biết hàng tá sinh vật có thể chăng tơ thành mạng, v bà muốn gặp lại loài nào trong chúng, gặp ở đây và bây giờ, khi bà quá cạn kiệt năng lượng.


      Xoay người lại, bà bổ nhào xuống hành lang dài và được thắp sáng bởi duy bóng đèn ở mỗi đầu. Bây giờ bà biết bà tìm cái gì, bà có thể nhìn thấy những tấm mạng bạc ở khắp nơi, giăng ngang trần nhà, kéo ngang những bức tường và có những cái tổ khổng lồ đan trong gốc nhà, mọc lên trong những vùng tối sâu nhất. diện của những tấm mạng này có thể giải thích lý do tại sao bà bắt gặp bọn kí sinh nào trong nhà tù này— kiến, ruồi, muỗi hay chuột. khi những thứ ở trong mấy cái tổ này nở ra, tòa nhà lúc nhúc những con nhện…nếu đó là những loài giăng tơ. Qua nhiều thế kỉ, Perenelle chạm trán với các Elder kết giao với loài nhện, gồm Arachne và Bà chúa Nhện huyền bí và khinh khủng, nhưng theo chỗ bà biết, ai trong số họ đứng trong hàng ngũ của Dee và các Elder Đen tối.


      Perenelle vội vã qua cánh cửa để ngỏ, cái mạng nhện hoàn hảo đóng khung trong khe hở, vừa lúc bà bắt được lờ mờ mùi hôi thối chua gay gắt. Bà bước chậm, rồi dừng lại. Mùi này mới; phải mùi của con nhân sư. Quay lại cánh cửa, bà sát vào tấm mạng mà chạm vào nó và nhìn sát vào bên trong. Phải mất lúc mắt bà mới quen với bóng tối và thêm lúc nữa để nhận ra những gì bà nhìn thấy.


      Vetala.


      Trái tim Perenelle bắt đầu đập mạnh trong lồng ngực đến mỗi bà thực có thể cảm thấy da thịt mình rung rung. Treo ngược từ trần nhà xuống là hơn chục sinh vật. Móng nửa giống chân người nửa giống vuốt chim cắm sâu trong đá mềm, còn những cái cánh dơi lông vũ phủ quanh thân người như bộ xương. Những cái đầu treo ngược rất đẹp, với bộ mặt của những chàng trai trẻ chưa đến tuổi thiếu niên.


      Vetala.


      Perenelle thầm thốt lên. Những con ma cà rồng từ tiểu lục địa Ấn Độ. Và giống Scathach, bè lũ này uống máu và ăn thịt. Nhưng chúng làm gì ở đây, và quan trọng hơn, làm thế nào mà chúng đến được đây? Vetala luôn luôn gắn liền với vùng hay bộ tộc: Perenelle chưa từng biết con nào từng rời xa quê nhà của nó.


      Nữ Phù thủy chầm chậm quay người để nhìn vào ô cửa để ngỏ khác xếp hàng dọc theo hành lang tối om. Còn cái gì khác nằm trong những xà lim bên dưới Alcatraz?


      Dee trù tính những gì?






      CHỦ NHẬT, ngày 3 tháng Sáu

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 21


      Tiếng gào thét thất thanh của Sophie kéo giật Josh ra khỏi giấc ngủ mộng mị và cuốn cậu bay thốc ra khỏi giường, để cậu đứng lảo đảo, cố lấy phương hướng trong thứ bóng tối đen ngòm.


      Sophie lại kêu thét lên, thanh sống sượng và đầy kinh hãi.


      Josh mò mẫm bước qua phòng ngủ, va nguyên cái đầu gối vào thành ghế rồi mới phát ra cánh cửa, chỉ có thể thấy được nhờ đường kẻ ánh sáng mỏng dính sát dưới chân nó. Chị cậuăn phòng ngay bên kia hành lang.


      Từ sớm, Saint-Germain đưa hai đứa lên tận lầu và cho chúng chọn những căn phòng tầng cao nhất của ngôi nhà phố. Sophie ngay lập tức chọn căn phòng nhìn ra Champs-Elysees—từ cửa sổ phòng ngủ, có thể nhìn thấy Khải Hoàn Môn qua các mái nhà—trong khi Josh lấy căn phòng bên kia sảnh, nhìn ra khoảng vườn khô quắt phía sau. Những căn phòng , trần thấp và những bức tường gồ ghề, hơi dốc, nhưng mỗi cái đều có cái phòng tắm riêng với buồng tắm vòi hoa sen xíu chỉ có hai chế độ—nóng và lạnh. Khi Sophie vặn nước chảy trong phòng vòi sen của Josh ngưng bặt. Và dù cậu hứa với chị rằng cậu chuyện với sau khi tắm và thay áo quần xong, nhưng cậu ngồi yên cạnh giường mình và gần như rơi vào giấc ngủ li bì ngay tức khắc.


      Sophie thét lên lần thứ ba, tiếng nức nở làm cậu nhòa lệ.


      Josh giật mạnh cánh cửa phòng cậu mở tung và chạy bay qua hành lang hẹp. cậu đẩy cánh cửa mở vào phòng chị cậu… và sựng lại.


      Joan Arc ngồi cạnh giường chị cậu, nắm tay Sophie bằng hai bàn tay của . có ngọn đèn nào trong phòng được bật lên, nhưng căn phòng tối đen hoàn toàn. Bàn tay của Joan phát ra ánh sáng bạc mát dịu và trông như ta mang chiếc găng tay xám mềm mại. Khi cậu nhìn, bàn tay chị cậu cũng có bề mặt và màu sắc như vậy. khí sực nức mùi vanilla và hoa oải hương.


      Joan quay nhìn Josh, cậu giật mình khi nhận ra rằng đôi mắt sáng rực như đồng bạc cắc. Cậu bước bước về phía chiếc giường, nhưng ta đưa ngón tay lên môi và lắc đầu nhè , &y bảo cậu đừng gì cả. Ánh sáng rực nhạt bớt trong mắt ta. “Chị cậu nằm mơ,” Joan , cậu , là ta thành tiếng hay là cậu nghe tiếng của trong đầu mình. “Cơn ác mộng qua rồi. Nó trở lại nữa,” , cung giọng làm cho lời đó trở thành lời hứa.


      Gỗ kêu cót két đằng sau Josh và cậu ngoái lại nhìn thấy Comte de Saint-Germain bước xuống cầu thang hẹp ở cuối sảnh. Francis ra hiệu cho Josh từ nấc cuối cầu thang, cậu con trai nghe tiếng ông ràng, “Vợ tôi chăm sóc chị cậu. thôi.”


      Josh lắc đầu. “Tôi nên ở lại.” cậu muốn để Sophie mình với người phụ nữ lạ, nhưng theo bản năng cậu cũng biết rằng Joan bao giờ làm hại chị cậu.


      “Cậu thể làm gì cho ấy cả,” Saint-Germain lớn. “Mặc quần áo vào và lên tầng gác mái . Tôi có phòng làm việc của mình đó.” Ông ta quay và biến mất thẳng theo cầu thang.


      Josh nhìn lại Sophie lần cuối. nằm yên, hơi thở chậm và cậu để ý thấy nhũng quầng thâm bên dưới mắt biến mất.


      ngay ,” Joan . “Tôi phải vài thứ với chị cậu. Chuyện riêng.


      “Chị ấy ngủ…,” Josh bắt đầu.


      “Nhưng tôi vẫn cứ ,” lầm bầm. “Và ấy vẫn nghe.”


      Trong phòng mình, Josh nhanh nhẹn thay quần áo. bọc áo quần để cái ghế bên dưới cửa sổ: đồ lót, quần jeans, áo thun và vớ. Cậu đoán chắc là quần áo của Saint-Germain: chúng khoảng cỡ của ông bá tước. Josh mặc nhanh chiếc quần jeans đen kiểu dáng thiết kế riêng và chiếc áo thun lụa đen rồi mới xỏ chân vào giày mình và thoáng nhìn mình trong gương. Cậu thể nhịn được cười; cậu chưa bao giờ tưởng tượng ra chính mình lại mặc những áo quần đắt tiền đến thế này. Trong phong tắm, cậu bẻ bàn chải đánh răng mới ra khỏi bao, đánh răng, té nước lạnh lên mặt và lùa ngón tay vào mái tóc vàng quá dài, vuốt ngược nó ra sau trán. Liếc nhìn đồng hồ cậu giật thót người khi thấy bây giờ mới qua nửa đêm rạng sáng ngày chủ nhật. Cậu ngủ nguyên ngày và gần trọn đêm.


      Cậu rời phòng ngủ, ngừng lại ở phòng chị cậu và nhìn vào bên trong. Mùi hoa oải hương mạnh đến nỗi làm cậu chảy nước mắt. Sophie nằm yên động đậy giường, hơi thở đều và êm. Joan ở cạnh , nắm tay , khẽ thầm, nhưng bằng ngôn ngữ mà cậu có thể hiểu được. Người phụ nữ quay đầu chầm chậm nhìn cậu, và cậu nhận ra rằng đôi mắt lại lần nữa như hai chiếc đĩa bạc, hề thấy tròng trắng hay con ngươi đâu cả. quay người lại cù


      Josh nhìn chằm chằm vào họ lúc rồi mới quay . Khi Bà Phù thuỷ Endor dạy Sophie phép thuật khí, cậu bị đuổi ; giờ đây cậu bị xua đuổi lần nữa. Cậu nhanh chóng nhận ra rằng trong thế giới phép thuật này, có chỗ cho ai đó như cậu, người có năng lượng.


      Josh chầm chậm bước lên cầu thang hẹp uốn cong dẫn lên phòng làm việc của Saint-Germain. như những gì Josh mong đợi mình thấy tầng gác mái, đây là gian to lớn làm bằng gỗ trắng và vàng được chiếu sáng trưng. Căn gác mái chạy dọc suốt chiều dài ngôi nhà và được thiết kế lại thành khoảng gian mở bao la, với cửa sổ mái vòm nhìn qua Champs-Elysees ở nút đầu bên kia. Gian phòng khổng lồ đầy những nhạc cụ và đồ điện tử, nhưng có dấu hiệu của Saint-Germain.


      Dựa vào bức tường bên phải, chiếc bàn dài kéo từ đầu gian bên này đến tuốt đầu bên kia. Chất đó những đóng cao nghều toàn là máy tính, cả để bàn lẫn xách tay, cùng với những màn hình đủ hình dạng và kích cỡ, bộ tổng hợp các nhạc cụ điện tử điều , bàn phối , những bộ phím và những bộ trống điện tử.


      Cạnh đối diện bên kia của gian phòng là những cây ghi-ta điện được đặt giá, còn bộ phím được xếp quanh màn hình LCD khổng lồ.


      “Cậu thấy thế nào?” Saint-Germain hỏi.


      Phải ít giây sau Josh nhận định được tiếng phát ra từ đâu. Nhà soạn nhạc nằm ngửa dưới bàn, trong tay ông à bó sợi cáp USB. “Khỏe ạ,” Josh mà cảm thấy ngạc nhiên vì đó là . Cậu cảm thấy khỏe hơn lúc nào hết. “Tôi nhớ đến việc mình nằm xuống…”


      “Cậu kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần. Và tôi nghĩ là những cổng tuyến hút hết giọt năng lượng cuối cùng còn sót lại của cậu. phải vì tôi từng qua cái như vậy rồi,” ông thêm. “ tình, tôi ngạc hiên hiểu vì sao cậu vẫn có thể đứng được chân của mình,” Saint-Germain khẽ, vừa thả mấy sợi dây cáp xuống. “Cậu ngủ suốt mười bốn tiếng đồng hồ.”


      Josh quỳ xuống cạnh Saint-Germain. “Ông làm cái gì vậy ạ?”


      “Tôi dịch chuyển cái màn hình và cọng cáp sút ra; tôi biết cọng nào là cọng nào nữa.”


      “Ông nên làm kí hiệu màu cho chúng bằng mấy dải băng,” Josh . “Tôi làm như vậy.” Duỗi thẳng chân, cậu với lấy đầu cáp gắn vào cái màn hình ảnh rộng và giật lên giật xuống. “Cái này nè.” Sợi cáp giật giật trong tay Saint-Germain.


      “Cám ơ”


      Cái màn hình đột nhiên chớp chớp sống lại, lên màn ảnh đầy con trượt và nút bấm.


      Saint-Germain lồm cồm bò dậy và phủi bụi người. Quần áo của ông cũng giống bộ đồ Josh mặc. “Vừa đó.” Ông gật đầu. “Cậu mặc coi đẹp đó. Cậu nên mặc quần áo màu đen thường hơn.”


      “Cám ơn vì bộ đồ…” Cậu ngừng lại. “Thế nhưng tôi biết làm sao có thể trả lại ông.”


      Francis bật cười lớn. “Chúng phải là món nợ, chúng là món quà. Tôi muốn chúng quay về với tôi đâu.”


      Trước khi Josh kịp cám ơn ông lần nữa, Saint-Germain đánh vào bàn phím và Josh nhảy nhổm lên khi loạt hợp piano mạnh dộng thẳng ra từ những cái loa chìm. “Đừng lo, tầng gác mái được cách ,” Saint-Germain . “Nó đánh thức Sophie được.”


      Josh gật đầu hướng vào màn ảnh. “Ông viết tất cả nhạc của ông bằng máy tính hả?”


      “Gần như vậy.” Saint-Germain nhìn quanh gian phòng. “Ngày nayứ ai cũng có thể sáng tác nhạc; cậu cần gì hơn là cái máy vi tính, ít phần mềm, lòng kiên nhẫn và nhiều trí tưởng tượng. Nếu tôi cần vài nhạc cụ cho lần hòa cuối cùng, tôi thuê nhạc công. Nhưng tôi có thể làm hầu hết mọi thứ tại đây.”


      có lần tôi tải về vài phần mềm tách nhịp,” Josh thú nhận. “Nhưng tôi chưa bao giờ có thể làm cho đúng.”


      “Cậu sáng tác gì vậy?”


      “Dạ, nhưng tôi chắc ông có thể gọi đó là sáng tác…tôi chỉ ráp mấy cái phố lẻ tẻ lại với nhau thôi.”


      “Tôi rất thích được nghe những gì cậu có”


      “Mất hết rồi. Tôi bị mất máy tính, điện thoại di động và iPod khi Yggdrasill bị phá hủy.” Thậm chí chuyện này ra cũng làm cậu phát ốm. Và có phần tệ hại nhất đó là cậu nắm cậu bị mất những gì. “tôi bị mất dự án hè và mọi thứ nhạc của tôi, có khoảng chín mươi GB. Tôi còn có vài phần mềm lậu xài rất ngon. chẳng bao giờ có cái gì thay thế chúng được.”


      Cậu thở dài. “Tôi còn bị mất hàng trăm tấm hình; chụp tất cả những n mẹ đưa chúng tôi đến. Ba mẹ chúng tôi là nhà khoa học—khảo cổ học và cổ sinh vật học,” cậu thêm, “vì thế chúng tôi được nhìn tháy số nơi rất đáng kinh ngạc.”


      “Mất hết mọi thứ! may,” Saint-Germain thông cảm. “Có lưu trữ dự phòng ?”


      Vẻ bần thần khuôn mặt Josh thay thế cho mọi câu trả lời mà ông bá tước muốn.


      “Cậu sài Mac hay PC?”


      ra là cả hai. Ba tôi xài PC ở nhà, nhưng hầu hết các trường mà tôi và Sophie học đều dùng Mac. Sophie rất thích cái Mac của chị ấy, nhưng tôi lại thích PC hơn,” cậu . “Nếu có bất cứ cái gì hư, thường tôi có thể gỡ từng cái ra và tự sửa lấy.”


      Saint-Germain đến cuối bàn và lục lọi loay hoay dưới gầm bàn. Ông lôi ra ba cái máy tính xách tay, khác nhãn hiệu và kích cỡ màn hình, và xếp chúng hàng sàn. Ông làm cử chỉ đột ngột. “Lấy cái .”


      Josh chớp mắt nhìn ông đầy ngạc nhiên. “Lấy cái?”


      “Tất cả đều là PC,” Saint-Germain ti“và chúng còn công dụng gì với tôi nữa. Bây giờ tôi chuyển qua xài Mac hết rồi.”


      Josh nhìn Saint-Germain rồi nhìn sang mấy cái laptop, rồi lại quay nhìn về nhà soạn nhạc. Cậu chỉ vừa mới gặp người đàn ông này, chưa từng biết ông, và giờ đây ông cho cậu quyền chọn trong ba cái laptop đắt tiền. Cậu lắc đầu. “Cám ơn, nhưng tôi thể.”


      “Sao lại thể?” Saint-Germain gặng hỏi.


      Và Josh có câu trả lời nào cho câu hỏi đó.


      “Cậu cần cái máy tính. Tôi tặng cậu trong những cái này. Tôi rất vui nếu cậu nhận lời.” Saint-Germain mỉm cười. “Tôi lớn lên trong thời đại mà việc tặng quà là nghệ thuật. Tôi thấy người ta trong thế kỷ này biết cách tiếp nhận món quà sao cho phải phép.”


      “Tôi biết phải gì.”


      cảm ơn?” Saint-Germain gợi ý.


      Josh cười toe. “Vâng. Cám ơn.” Cậu chần chừ. “Cám ơn rất nhiều.” Ngay cả khi , cậu biết cậu muốn cái máy nào: cái laptop xíu dày inch với màn hình mười inch


      Saint-Germain cào xới lung tung dưới bàn và rút ra ba sợi dây nguồn, thả chúng xuống cạnh mấy cái máy. “Tôi dùng chúng. Mà có lẽ dùng lại chúng nữa. Tôi format cho sạch ổ cứng và mang tặng các trường học địa phương. Cứ lấy bất cứ cái nào cậu thích. Cậu cũng tìm thấy cái túi đeo cũng nằm dưới bàn ấy.” Ông dừng chút, đôi mắt xanh nhấp nháy, và vỗ và lưng chiếc máy Josh nhìn, rồi cười toe và thêm, “tôi có cục pin dự phòng xài được lâu giờ cho cái này. Đó là cái tôi thích nhất.”


      “Dạ, nếu ông còn dùng nữa…?”


      Saint-Germain quẹt ngón tay ngang qua lưng chiếc laptop , vạch đường lớp bụi mờ, đưa nó lên cao đủ để Josh có thể nhìn thấy vết đen ở đầu ngón tay ông. “Tin tôi : tôi còn dùng chúng nữa.”


      “OK… cám ơn. Tôi muốn cám ơn ông. Trước giờ chưa từng có ai tặng tôi món quà như thế này,” cậu vừa vừa cầm cái máy lên và quay nó tay mình. “Tôi lấy cái này… nếu ông chắc chắn rằng…”


      “Tôi bảo đảm. Nó được tải về đầy đủ rồi; có kết nối dây nữa, và nó tự động chuyển nguồn từ dòng châu Âu thành dòng Mỹ. Còn nữa, có tất cả các al của tôi trong đó,” Saint-Germain , “vậy cậu có thể bắt đầu lại bộ sưu tập nhạc của cậu. Cậu cũng thấy file .mpeg về buổi hòa nhạc mới đây nhất. Mang về ; nó tốt lắm đó.”


      “Tôi làm như vậy,” Josh , cắm dây vào laptop để sạc pin.


      cho tôi biết cậu nghĩ như thế nào. Cậu có thể thành thực với tôi,” Saint-Germain thêm.


      chứ?”


      Ông bá tước ngẫm nghĩ chút rồi lắc đầu. “, hẳn vậy. Chỉ với tôi là cậu nghĩ là tôi giỏi. Tôi thích những đánh giá tiêu cực, dù cậu cho rằng sau gần ba trăm năm, tôi nên quen với chúng.”


      Josh mở laptop và bật nguồn. cái máy rên ư ử và rung rinh sống dậy. Chồm người xuống, cậu thổi bụi khỏi bàn phím. Khi chiếc laptop khởi động xong, màn hình nhấp nháy và ra bức ảnh của Saint-Germain sân khấu, vây quanh bởi hơn chục loại nhạc cụ. “Ông đặt hình mình làm nền sao?” Josh ngờ vực hỏi.


      “Đó là trong những cái hình tôi ưa thích nhất,” nhà soạn nhạc .


      Josh hất đầu về phía màn hình lớn và nhìn quanh gian phòng. “Ông có thể chơi tất cả những cái này sao?”


      “Tất cả mọi cái. Tôi bắt đầu với cây vĩ cầm cách đây rất lâu, rồi chuyển qua đàn clavico và sáo. Nhưng tôi vẫn theo kịp thời đại, luôn luôn học những nhạc cụ mới. Vào thế kỷ mười tám, tôi dùng công nghệ mới nhất thời đó—những cây vĩ cầm, những bàn phím đời mới nhất—và giờ tôi ở đây, gần ba trăm năm sau, vẫn làm như vậy. Đây là thời điểm tuyệt vời để là nhà soạn nhạc. Và với kĩ thuật này, cuối cùng tôi có thể chơi tất cả các thanh tôi nghe thấy trong đầu mình.” Những ngón tay ông chải bàn phím và nguyên dàn hợp xướng hát lên từ mấy cái loa.


      Josh nhảy dựng. thanh quá đến nỗi cậu nhìn ra sau lưng mình.


      “Tôi tải lên máy tính những thanh mẫu, từ đó tôi có thể dùng bất cứ cái gì trong công việc của tôi.” Saint-Germain quay màn hình lại và những ngón tay ông nhảy múa phím. “Cậu nghĩ rằng những pháo hoa sáng hôm qua đó được làm bằng những thanh tuyệt vời sao? Nổ lốp bốp. Bật tanh tách. Có lẽ đến lúc để làm bộ pháo hoa khác.”


      Josh dạo quanh gian phòng, nhìn vào tất cả những bản ghi đóng khung vàng, những tấm áp phích được ký tên, và những bao cứng đựng CD. “Tôi biết có sẵn cái rồi,” cậu .


      “Geogre Frideric Handel, 1749, nhạc dành cho Pháo hoa Hoàng gia. đêm lạ lùng biết bao! nhạc sao mà tuyệt diệu!” Những ngón tay Saint-Germain lướt qua bàn phím, gian phòng tràn đầy gian điệu mà Josh cho là nghe quen quen. Có lẽ cậu nghe chương trình quảng cáo tivi. “Ông già Geogre hay ,” Saint—Germain . “Tôi bao giờ thích ông ấy.”


      “Bà Phù thủy Endor thích ông,” Josh ngần ngừ . “Tại sao vậy ạ?”


      Saint—Germain cười toe. “Bà Phù thủy thích ai hết. Bà ấy đặc biệt thích tôi bởi vì tôi trở thành người bất tử, và như Nicholas và Perry, tôi cần công thức nào trong cuốn sách để giữ mình chết .”


      Josh cau mày. “Ý ông là có những kiểu bất tử khác nhau?”


      “Nhiều kiểu khác nhau, và cũng nhiều loại người bất tử khác nhau. Nguy hiểm nhất là những người bất tử vì lòng trung thành của họ đối với Elder nào đó. Nếu họ bị thất sủng với Elder đó, món quà bị hủy bỏ, tất nhiên.” Ông gõ các ngón tay và Josh nhảy chồm lên. “Kết quả là tuổi già đến ngay tức khắc. Tuổi già cổ xưa. Đó là cách tuyệt nhất để bảo đảm lòng trung thành.” Ông quay lại bàn phím và những ngón tay ông vẽ nên thanh nghe cả tiếng thở vang từ những mấy cái loa. Ông nhìn lên ến tham gia với ông trước màn hình. “Nhưng lý do làm bà phù thủy thích tôi là bởi vì tôi— người bất tử bình thường lại trở thành Bậc thầy của Lửa.” ông giơ cao bàn tay trái và ngọn lửa đủ màu sắc nhảy múa mỗi đầu ngón tay. Phòng ghi tầng gác mái chợt đầy mùi lá cháy.


      “Và tại sao điều đó lại làm bà ấy bực bội?” Josh hỏi mà mắt nhìn chằm chằm vào những ngọn lửa nhảy múa. Cậu muốn—muốn cách liều lĩnh—mình có thể làm được như vậy.


      “Có lẽ vì tôi học được bí mật của lửa từ bà ấy.” nhạc biến đổi, trở nên nghịch tai và thô ráp. “Đúng, khi học được, thực tôi nên đánh cắp được.”


      “Ông đánh cắp bí mật của lửa!” Josh .


      Conte de Saint-Germain gật đầu vui vẻ. “Từ Prometheus.”


      “Và có ngày cậu tôi đòi nó lại,” Giọng Scathach làm cả hai nhảy dựng ngược. ai nghe tiếng bước vào phòng. “Nicholas ở đây,” , và quay ngoắt .






      CHƯƠNG 2


      Nicholas Flamel ngồi ở đầu của chiếc bàn bếp, hai tay ông ủ quanh chén súp bốc khói. Trước mặt ông là chai Perrier, ly cao và dĩa chất đầy bánh mì khô cắt dày và phô mai. Ông nhìn lên, gật đầu và mỉm cười với Josh và Saint-Germain theo sau Scathach vào phòng.


      Sophie ngồi phía bên kia bàn, đối diện với Joan Arc, và Josh nhanh nhẹn chuồi vào ngồi cạnh chị mình trong khi Saint-Germain lấy chỗ bên cạnh vợ ông. Chỉ có Scathach còn đứng, dựa vào chậu rửa phía sau Nhà Giả kim, nhìn chăm chú ra ngoài và hướng tầm mắt vào bóng đêm. Josh để ý vẫn đeo cái băng đô mà cắt ra từ chiếc áo thun đen rộng rinh của Flamel.


      Josh chuyển chú ý qua Nhà Giả kim. Người đàn ông này trông mệt lử và già hẳn, dường như có lớp bụi màu bạc mái tóc cắt sát của ông mà trước đây hề thấy. Da ông xanh xao cách tồi tệ, làm nỗi bật những vòng đen thâm dưới mắt ông cùng với những đường hằn sâu trán. Áo quần ông nhàu nát và loang lỗ ướt mưa, và có vệt bùn dài ống tay của chiếc áo khoác ông treo sau lưng ghế gỗ. Những giọt nước lấp lánh lớp da mòn vẹt.


      ai gì khi nhà giả kim húp hết chén súp và bẻ khoanh phô mai với bánh mì. Ông nhai từ từ và cẩn thận, rồi rót nước từ trong cái chai màu xanh ve vào ly và uống từng ngụm . Khi xong, ông lau miệng bằng khăn ăn và tự cho phép mình thở ra khoan khoái. “Cám ơn.” Ông gật đầu với Joan. “ ngon.”


      “Củ đầy thức ăn, Nicholas,” , đôi mắt xám mở ra đầy quan tâm. “ ra ông nên dùng thêm ít súp, bánh mì và phô mai.”


      “Đủ rồi,” ông dịu dàng. “Ngay lúc này tôi cần nghỉ ngơi, và tôi muốn đưa vào dạ dày nhiều thức ăn quá. Chúng ta bữa điểm tâm lớn vào sáng mai. Thậm chí tôi tự nấu nữa kia.”


      “Con biết thầy có thể nấu ăn,” Saint-Germain .


      “Ông ấy nấu được đó,” Scathach thầm.


      “Cháu nghĩ chú ăn phô mai vào lúc khuya quá chú bị ác mộng đó,” Josh . Cậu liếc nhìn chiếc đồng hồ tay. “Gần giờ sáng rồi ạ.”


      “Ồ, chú cần phô mai mới thấy ác mộng. chú thấy chúng bằng xương bằng thịt nữa kìa.” Nicholas mỉm cười, dù chút gì hài hước trong câu đó. “Chúng đáng sợ.” ông nhìn từ Josh sang Sophie. “Tụi cháu thấy an toàn và khỏe chứ?”


      Cặp sinh đôi liếc nhìn nhau rồi gật đầu.


      “V nghỉ ngơi chưa?”


      “Hai đứa tụi cháu ngủ cả ngày và gần hết đêm,” Josh


      “Tốt,” Flamel gật. “Bọn cháu cần có lại tất cả sức mạnh của mình. Và chú thích những bộ quần áo này.” Trong khi Josh quần áo giống Saint-Germain Sophie lại mặc áo cotton và quần jeans xanh lơ với lai bật lên để lộ ra đôi giày bốt cao ngang mắt cá chân.


      “Joan cho cháu đó,” Sophie giải thích.


      “Gần như vừa y,” lớn tuổi hơn . “Chúng ta lục qua tủ quần áo, lấy cho em mấy cái để thay cho phần còn lại của cuộc hành trình.


      Sophie mỉm cười tỏ ý cảm ơn.


      Nicholas quay sang Saint-Germain. “Pháo hoa tháp Eiffel sáng hôm qua: đầy sáng tạo, đầy sáng tạo.”


      Ông bá tước cúi mình. “Cám ơn, thưa thầy,” ông trông vô cùng vừa lòng với chính mình.


      Tiếng cười của Joan hạ thấp xuống thành tiếng rừ rừ. “ ấy để tìm cái cớ để làm thứ đó giống vậy cả mấy tháng rồi. Chắc ông chưa thấy màn trình diễn ấy diễn ở Hawaii hồi chúng tôi làm đám cưới. Chúng tôi chờ mặt ti lặn hẳn; rồi Francis thắp sáng cả bầu trời trong gần tiếng đồng hồ. là quá đẹp, dù nỗ lực đó làm ấy kiệt sức cả tuần,” ấy thêm và cười toe.


      Hai đốm lửa màu hồng ửng lên gò má ông bá tước và ông đưa tay siết tay vợ. “Xứng đáng để được nhìn thấy nét mặt em như thế này.”


      chưa điều khiển được lửa trong lần cuối mình gặp nhau,” Nicholas chậm rãi . “Nếu tôi nhớ lầm, chút khả năng với việc này, nhưng có gì giống năng lượng mà biểu diễn hôm qua. Ai đào tạo vậy?”


      “Con mất khá lâu ở Ấn Độ, trong thành phố Ophir bị mất tích,” ông bá tước đáp lại, liếc nhanh Nhà Giả kim. “Ở đó họ vẫn còn nhớ thầy. Thầy có biết họ dựng bức tượng cho thầy và Perenelle ở quảng trường trung tâm chưa?”


      “Chưa. Tôi hứa với Perenelle là đưa ấy trở lại nơi ấy ngày nào đó,” Nicholas đầy vẻ khao khát. “Nhưng ở đó có cái gì mang lại trình độ tinh thông về lửa cho như vậy?”


      “Con gặp người ở đó… người huấn luyện cho con,” Saint-Germain cách bí . “Chỉách dùng tất cả những kiến thức bí mật mà con góp nhặt từ Prometheus..”


      đánh cắp được chứ,” Scathach chỉnh lại.


      “Đúng, đầu tiên là đánh cắp nó,” Saint-Germain đốp chát.


      Bàn tay Flamel đánh xuống bàn với lực đủ mạnh để làm rung chai nước, chỉ có Scathach là giật mình. “Đủ rồi!” ông gầm lên, và trong chốc lát, mọi chỗ bằng phẳng hay gốc cạnh gương mặt ông đều biến đổi, xương gò má ông chợt nhô lên, làm liên tưởng đến cái đầu lâu bên dưới lớp da thịt. Đôi mắt gần như màu của ông trông tối om, hóa xám rồi nâu và cuối cùng là đên tuyền. Tựa cùi chỏ lên bàn, ông lấy cả hai lòng bàn tay xoa lên mặt và hít mộ hơi thở rung lên. Thoang thoảng mùi bạc hà trong trung, nhưng lẫn chút mùi chua chua. “Xin lỗi. Điều đó thể khoan thứ. Tôi nên cao giọng,” ông êm ả cùng khoảng yên lặng kinh khủng theo sau. Khi ông lấy tay ra khỏi mặt, môi ông nhếch lên thành nụ cười hợp với đôi mắt ông. Ông lần lượt nhìn từng người, tia nhìn chòng chọc nán lại khuôn mặt sững sờ của cặp sinh đôi. “Hãy tha thứ cho chú. Lúc này chú mệt quá, quá mệt mỏi rồi; chú có thể ngủ tuần lễ liền. Tiếp tục , Francis, nào. Ai huấn luyện cho ?”


      Comte de Saint-Germain lấy hơi. “Ông ấy bảo con.. ông ấy rằng con được ra tên ông ấy,” ông vội vã kết thúc.


      Flamel chống cùi chỏ lên bàn, đan những ngón tay vào nhau và tựa cằm ông lên hai nắm tay đan lại. ông nhìn nhà soạn nhạc, nét mặt ông dửng dung. “Đó là ai?” Ông gặng hỏi cách kiên quyết.


      “Con hứa với ông ấy rồi,” Saint-Germain cách khổ sở. “Đó là trong những điều kiện ông ấy đặt ra khi huấn luyện con. Ông ấy quyền lực trong từ ngữ và số cái tên nào đó tạo ra những rung động cho cả thế giới này lẫn các Vương quốc Bóng tối và thu hút chú ý mong đợi.” Scathach bước tới và đặt ty lên vai Nhà Giả kim. “Nicholas, ông biết đó là . Có những từ nào đó mà bao giờ nên ra, có những cái tên bao giờ được nhắc đến. Những chuyện xưa cũ. Những chuyện bao giờ bỏ được.”


      Nicholas gật đầu. “Nếu hứa với người đó, nên quay trở lại chuyện này nữa, tất nhiên. Nhưng cho tôi biết”—ông dừng chút, nhìn vào ông bá tước—”người bí này, ông ta có mấy tay?”


      Saint-Germain bất chợt ngồi phịch xuống, và vẻ mặt kinh hoàng lên gương mặt ông tiết lộ . “Làm sao thầy biết?” ông thều thà


      Miệng nhà giả kim vặn vẹo vẽ nhăn nhó kỳ cục. “Ở Tây Ban Nha, sáu trăm năm trước, tôi gặp người đàn ông có tay dạy tôi những bí mật của cuốn Codex. Ông ấy cũng từ chối xưng tên mình ra.” Flamel chợt nhìn vào Sophie, đôi mắt mở lớn và nhìn trừng trừng. “Cháu mang trong mình kí ức của bà phù thủy. Nếu bây giờ có cái tên đến với cháu— tốt hơn cho tất cả mọi người ở đây nếu cháu cái tên đó ra.”


      Sophie ngậm miệng lại đến nỗi cắn vào bên trong môi. biết cái tên người đàn ông mà Flamel và Saint-Germain nhắc đến. cũng biết ông ấy là ai—và là cái gì. Và suýt chút nữa cái tên đó.


      Flamel quay lại Saint-Germain. “ biết rằng năng lực của Sophie được đánh thức. Bà phù thủy dạy con bé những căn bản của Pháp thuật khí, và tôi quyết tâm rằng cả hai đứa phải được đào tạo những pháp thuật cơ bản càng nhanh càng tốt. Tôi biết ở đâu có các bậc thầy về pháp thuật Đất và Nước. Chỉ mới hôm qua, tôi mới nghĩ chúng ta phải tìm trong những Elder liên kết với lửa, Maui hay Vulcan hoặc ngay cả nữ thần báo ứng cũ của và bản thân ông Prometheus. Bây giờ tôi hi vọng điều đó còn cần thiết nữa.” Ông dừng chút để thở. “ có nghĩ có thể dạy cho Sophie pháp thuật Lửa ?”


      Saint-Germain chớp mắt ngạc nhiên. Ông ta khoanh hai tay trước ngực và đứa con sang nhà giả kim và bắt đầu lắc đầu. “Con chắc là con có thể. Thậm chí biết con có nên…”


      Joan giơ tay ra và đặt bàn tay phải của mình lên lưng cánh tay chồng. Ông ta quay lại nhìn gật đầu, gần như thể nhìn thấy. Đôi môi hề cử động, song mọi nghe rất , “Francis, phải làm việc này.”


      Ông bá tước chần chừ. “ làm… nhưng như vậy có khôn ngoan ?” ông ta hỏi, nghiêm túc.


      “Cần thiết,” giản dị.


      có nhiều thứ ấy phải nắm được…” Ông cúi người về Sophie. “Tha thứ cho tôi. Tôi có ý về như thể có mặt ở đây.” Ông ta nhìn lại Nicholas và thêm cách nghi ngờ, “Sophie vẫn còn phải xử lí kí ức của bà phù thủy.”


      “Hết rồi. Em lo chuyện đó.” Joan siết chặt cánh tay chồng. quay đầu nhìn từng người quanh bàn cuối cùng dừng lại nơi Sophie. “Trong khi Sophie ngủ, tôi với ấy, giúp ấy sắp xếp lại kí ức, phân loại chúng, chia tách tư tưởng riêng của khỏi tư tưởng riêng của bà phù thủy. Tôi nghĩ từ nay chúng gây rắc rối nhiều cho nữa.”


      Sophie bàng hoàng. “Chị vào trong đầu em khi em ngủ?”


      Joan nhè lắc đầu. “Tôi xâm nhập vào trí em… Chỉ đơn giản là tôi chuyện với em, hướng dẫn em làm cái gì và làm như thế nào thôi.”


      “Tôi nhìn thấy chị chuyện…” Josh cất lời, và rồi cau mày. “Nhưng Sophie có vẽ như ngủ. Chị ấy thể nghe chị.”


      ấy có nghe tôi đó,” Joan . ta nhìn thẳng vào Sophie và đặt tay trái mình bệt xuống bàn. màn sương bạc mờ nổ lốp bốp những ngón tay , những vệt sáng lốm đốm xíu nhảy múa da thịt nhảy vụt ra, như những giọt thủy ngân, băng ngang qua mặt bàn tiến về phía đôi bàn tay đặt mặt gỗ đánh vec-ni. Khi chúng đến gần, những ngón ta của Sophie sáng rực lớp bạc ngầm, và rồi bất thình lình, những điểm sáng bao quanh ngón ta .


      “Em có thể làm chị em sinh đôi với Josh, nhưng chúng ta là chị em, em và tôi. Chúng ta là Bạc. Tôi biết cảm giác thế nào khi nghe giọng ở trong đầu mình; tôi biết cảm giác thế nào khi tháy những điều nên thấy, biết được những gì nên biết.” Đầu tiên Joan nhìn vào Josh và rồi đến Nhà Giả kim. “Trong khi Sophie ngủ, tôi trực tiếp với tiềm thức của ấy. Tôi dạy ấy làm thế nào để kiểm soát đượ ký ức của bà phù thủy, làm thế nào bỏ qua những tiếng , đóng lại các hình ảnh. Tôi dạy ấy bảo vệ chính mình.”


      Sophie ngẩng đầu lên, đôi mắt mở lớn đầy ngạc nhiên. “Khác nhau biết chừng nào!” , cả bang hoàng lẫn kinh ngạc. “Em còn nghe những tiếng nữa.” nhìn cậu em trai sinh đôi của mình. “Chúng bắt đầu khi bà phù thủy rót kiến thức vào chị. Có đến hàng ngàn tiếng la hét, rù rì bằng những ngôn ngữ gần như chị hiểu gì hết. Bây giờ là yên tĩnh.”


      “Chúng vẫn còn đó,” Joan giải thích. “Chúng luôn luôn ở đó. Nhưng từ bây giờ em có thể gợi lại chúng khi em cần, để sử dụng những kiến thức đó. Tôi cũng bắt đầu qua trình dạy em làm sao kiểm soát được luồng điện của mình.”


      “Nhưng làm sao chị có thể dạy trong lúc chị ấy ngủ?” Josh nhấn mạnh. Thậm chí cậu thấy ý tưởng này lộn xộn thể tin được.


      “Chỉ có ý thức ngủ thôi—còn tiềm thức luôn luôn thức.”


      “Ý chị là sao, kiểm soát luồng điện của em?” Sophie bối rối hỏi. “Em nghĩ nó chỉ là điện trường ánh bạc bao quanh người mình thôi.


      Joan nhún vai, cử động tinh tế của đôi vai . “Luồng điện của em là năng lượng giống trí tưởng tượng của em. Em có thể định dạng nó, pha trộn nó, tạo hình nó theo ý em.” buông bàn tay trái ra. “Đó là cách tôi làm nó.” chiếc găng tay kim loại từ bộ giáp kêu lách cách thành thực thể tồn tại bao quanh da thịt . Mỗi cái đinh tán được hình thành cách hoàn hảo, và lưng những ngón tay còn lấm tấm bụi. “Thử ,” ta đề nghị.


      Sophie mở bàn tay ra và nhìn vào nó cách cứng cỏi.


      “Hãy hình dung ra chiếc găng tay,” Joan gợi ý. “Hãy nhìn thấy nó trong trí tưởng tượng của em.”


      cái đê bằng bạc xíu xuất ngón tay út của , rồi nhấp nháy tan biến mất.


      “Nào, tập lại chút nữa, có thể được đó,” Joan thừa nhận. liếc xéo Saint-Germain và rồi nhìn thẳng vào nhà giả kim. “Hãy để tôi làm việc với Sophie hai gìờ, dạy con bé chút về việc kiểm soát và định hình luồng điện của nó, trước khi Francis bắt đầu dạy nó Pháp thuật Lửa.”


      “Pháp thuật Lửa này. Nó có nguy hiểm ạ?” Josh vừa hỏi gặng, vừa nhìn khắp phòng. Cậu vẫn còn nhớ như in nhũng gì xảy ra với chị cậu khi Hekate đánh thức như là chết rồi. Và còn hơn vậy nữa khi học với bà phù thủy Endor, cậu nhận ra rằng Sophie cũng gần như chết khi học phép thuật Khí. Khi ai trả lời, cậu quay sang Saint-Germain. “Có nguy hiểm ạ?”


      “Có,” nhà soạn nhạc trả lời đơn giản. “Rất nguy hiểm.”


      Josh lắc đầu. “Vậy tôi muốn—”


      Sophie đưa tay siết cánh tay cậu em trai. Cậu nhìn xuống: bàn tay cầm chặt cánh tay cậu được bọc trong chiếc găng tay làm bằng vòng kim loại xâu vào nhau. “Josh, chị phải học.”


      , chị được.”


      “Chị học.”


      Josh nhìn vào khuôn mặt chị . Nó mang chiếc mặt nạ ngu ngốc mà cậu biết qua . Cuối cùng, cậu quay , gì. Cậu muốn chị cậu học thêm bất cứ phép thuật gì nữa— chỉ nguy hiểm… mà nó cũng làm khoảng cách giữa chị ấy ngày càng xa cậu hơn nữa.


      Joan quay sang Flamel. “Và bây giờ, Nicholas, ông phải nghỉ thôi.”


      Nhà Giả kim gật đầu. “Tôi đây.”


      “Chúng tôi mong ông trở lại sau thời gian dài,” Scathach . “tôi nghĩ tôi phải ra ngoài tìm ông.”


      “Cánh bướm dẫn tôi đến đây mấy tiếng trước,” Nicholas mệt mỏi , tiếng bị nghẹn lại vì kiệt sức. “ khi tôi biết các bạn ở đâu rồi, tôi muốn chờ cho đến khi màn đêm buông xuống mới lại gần ngôi nhà, phòng khi nó bị giám sát kỹ.”


      “Machiavelli còn biết ngôi nhà này còn tồn tại.” Saint-Germain cách tự tin.


      “Perenelle dạy tôi câu thần chú tang hình lâu lắm rồi, nhưng nó chỉ hoạt động được trong mưa thôi—nó dùng những hạt nước mưa để khúc xạ ánh sáng quanh người sử dụng,” Flamel giải thích. “Tôi quyết định chờ đến khi sẫm tối để tang cơ hội giữ cho tôi cơ hội bị trông thấy.’


      “Chú làm gì cả ngày nay ạ?” Sophie hỏi


      “Chú lang thang quanh thành phố, tìm kiếm vài nơi ngày xưa chú thường lui tới.”


      “Chắc hầu hết là còn?”


      “Hầu hết thôi, phải là tất cả.” Flamel cúi xuống nhấc lên vật gói trong tờ giấy báo nằm sàn nhà. Nó phát ra tiếng mạnh và cứng khi ông thả nó bàn. “Căn nhà ở Montmorency vẫn còn ở đó.”


      “Đáng lẽ tôi nên đoán ra là ông đến thăm Montmorency,” Scathach với nụ cười buồn. nhìn cặp sinh đôi và giải thích, “Đó là căn nhà mà Nicholas và Perenelle sống hồi thế kỉ mười lăm. Họ có những thời gian hạnh phúc ở đó.”


      “Rất hạnh phúc,” Flamel đồng ý.


      “Và nó vẫn còn ở đó?” Sophie hỏi, kinh ngạc.


      trong những căn nhà cổ nhất ở Paris,” Flamel tự hào .


      “Rồi thầy làm gì khác nữa ạ?” Saint-Germain hỏi.


      Nicholas nhún vai. “Tham quan bảo tàng de Cluny. phải ngày nào bạn cũng có thể xem mộ của chính mình. Tôi thấy an ủi khi biết rằng người ta vẫn còn nhớ tôi—tôi kia.”


      Joan mỉm cười. “Có con đường được đặt tên ông, Nicholas: đường Flamel. Và con đường cũng được đặt tên để tỏ lòng trọng với Perenelle. Nhưng dù thế nào chăng nữa, tôi nghĩ đó là lý do khiến ông thăm viện bảo tàng, phải nào?”


      Nhà Giả kim mỉm cười. “Đúng, phải chỉ lý do đó,” ông thừa nhận. Ông thò tay vào túi áo khoác và kéo cái ống hình trụ hẹp. Mọi người quanh bàn đều chồm tới. Ngay cả Scatty cũng bước vào để nhìn. Vặn mở hai đầu, Flamel lấy ra và cuộn mở ra khúc giấy da nén kêu sột soạt. “Gần sáu trăm năm trước, tôi giấu vật này trong ngôi mộ của tôi, thoáng nghĩ rằng biết đến bao giờ tôi mới cần dùng đến nó.” Ông trải tấm da nén vàng dày cộp lên bàn. Được vẽ bằng mực đỏ phai thành màu gỉ sét là hình bầu dục với vòng tròn bên trong nó, bao quanh bởi ba đường hình thành nên tam giác thô ráp.


      Josh cúi người. “Trước đây cháu từng thấy cái gì giống vậy.” Cậu cau mày. “ có cái gì giống vậy tờ đô la sao?”


      “Nó giống cái gì cũng mặc,” Flamel . “Nó được vẽ theo cách này để che giấu ý nghĩa của nó.”


      “Cái gì vậy?” josh hỏi.


      “Đó là tấm bả” Sophie đột ngột.


      “Đúng, tấm bản đồ,” Nicholas đồng ý. “Nhưng sao cháu biết? Bà phù thủy chưa thấy cái này bao giờ…”


      , có gì liên quan tới bà phù thủy trong chuyện này cả,” Sophie mỉm cười. chồm người qua bàn, đầu chạm vào đầu em trai. chỉ tay vào gốc bên cùng bên phải của tấm da nén, nơi có hình chữ thập xíu gần như thể nhìn thấy được khắc bằng mực đỏ. “Cái này ràng trong giống chữ B,” vừa , vừa chỉ tay vào đỉnh chữ thập, “và cái này là chữ N.”


      “Bắc và nam.” Josh gật đầu đồng ý ngay. “Thiên tài, Soph!” Cậu nhìn Nicholas, “Đây là tấm bản đồ.”


      Nhà giả kim gật đầu. “Giỏi lắm. Đây là tấm bản đồ chỉ tất cả những cổng tuyến ở Châu Âu. Các thị trấn và thành phố, những đường biên giới thậm chí thay đổi còn nhận ra nữa, nhưng những đường tuyến vẫn giữ nguyên xi.” Ông giơ tấm da hình vuông lên. “Đây là hộ chiếu của chúng ta để rời khỏi châu Âu trở về Mỹ.”


      “Hi vọng chúng ta có cơ hội dùng đến nó,” Scatty làu bàu.


      Josh chạm vào cạnh của bó gì đó gói trong giấy báo nằm giữa bàn. “Còn đây là cái gì ạ?”


      Nicholas cuộn tấm da nén cho lại vào ống và đút gọn vào túi áo khoác của mình. Rồi ông bắt đầu mở từng lớp báo ra khỏi cái vật để bàn. “Tôi và Perenelle ở Tây Ban Nha hồi gần cuối thế kỷ mười bốn, lúc người đàn ông tay tiết lộ bí mật thứ nhất của cuốn Codex,” ông , nhắm riêng vào người nào, giọng Pháp của ông nghe hẳn.


      “Bí mật thứ nhất?” Josh hỏi.


      “Cháu nhìn thấy cuốn sách rồi đó—nó biến đổi… nhưng biến đổi theo chuỗi toán nghiêm ngặt. phải ngẫu nhiên. Những biến đổi này nối kết với các chuyển động của các vì sao và hành tinh, những gian đoạn của mặt trăng.”


      “Như cuốn lịch vậy?” Josh .


      Flamel gật đầu. “Đúng là như cuốn lịch. Chúng tôi từng học về chuỗi mã này, nên biết được rằng cuối cùng mình có thể trở lại Paris. Chúng tôi mất cả đời—cả mấy đời ấy chứ—để diễn dịch cuốn sách, nhưng ít ra chúng tôi phải biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy tôi biến vài viên đá thành kim cương, và biến vát đá phiến sét phẳng phiu thành vàng, và rồi chúng tôi gom vốn liếng bắt đầu tiến hành cuộc hành trình dài trở về Paris. Từ lúc đó, tất nhiên, chúng tôi rơi vào chú ý của các Elder Đen tối, và Bacon, tên tiền bối đáng kim tởm của Dee, cứ áp sát dần. Thay vì thẳng vào nước Pháp, chúng tôi đành chọn con đường vắng vẻ và tránh những ngọn đèo xuyên qua núi, nơi chúng tôi biết là thường dễ bị quan sát. Tuy nhiên, năm đó mùa đông đến sớm—tôi ngờ rằng các Elder Đen tối làm cái gì đó—và chúng tôi thấy mình bị cùng đường ở Andorra. Và đó là nơi tôi tìm thấy cái này…” ông chạm vào vật nằm bàn.


      Josh nhìn chị cậu, chân mày nhướng lên thay câu hỏi thầm. Andorra? Cậu to lên; giỏi môn địa lý hơn cậu.


      trong những quốc gia nhất thế giới,” thào giải thích, “ở trong rặng Pyrenees và nằm giữa Tây Ban Nha và Pháp.”


      Flamel mở thêm lớp giấy báo ra. “Trước khi tôi ‘chết’, tôi giấu vật này bên trong phiến đá rầm đỡ cửa sổ của ngôi nhà đường de Montmorency. Tôi bao giờ nghĩ tôi lại cần đến nó.”


      “Bên trong?” Josh hỏi, đầy bối rối. “Chú vừa là chú giấu nó bên trong?”


      “Bên trong. Chú biến đổi cấu trúc phân tử của đá granite, nhét vật này vào trong tảng đá rồi biến nó lại thành thanh dầm đỡ cứng y như tình trạng nguyên thủy. chuyển hóa: như nhấn quả hạnh đào vào cây kem vậy.” Tờ báo trong cũng bị rách toạc khi ông kéo vật đó ra.


      “Đó là thanh kiếm,” Josh vừa sợ hãi lào thào, vừa nhìn vào thứ vũ khí hẹp lẩn khuất chiếc bàn phủ đầy giấy báo. Cậu phỏng chừng nó dài khoảng năm sáu tấc, phần chuôi kiếm hình chữ thập đơn giản bọc trong những mảnh da sẫm màu hoen ố. “ cây kiếm đá,” cậu cau mày thốt lên. Nó nhắc cậu nhớ đến thứ—hầu như cậu từng thấy nó trước đây rồi.


      Nhưng thậm chí khi cậu còn , Joan và Saint-Germain lui ra khỏi bàn, chiếc ghế của đổ nhào khi lật đật tránh xa lưỡi kiếm. Sau lưng Flamel, Scathach rít lên như con mèo, hàm răng ma cà rồng lộ ra khi há hốc miệng, và khi , tiếng run run, giọng khản đặc và man rợ. thanh phát ra gần như giận giữ hay đúng hơn là… sợ hãi. “Nicholas,” rất chậm, “ông định làm gì với cái thứ đồ bất nhân này?”


      Nhà Giả kim động gì đến . Ông nhìn Josh và Sophie, vẫn ngồi yên nơi bàn, bàng hoàng nhúc nhích gì trước phản ứng của như những người khác, hai đứa chuyện gì xảy ra. “Có bốn thanh kiếm năng lượng,” Flamel vội, “mỗi cái kết nối với trong các yếu tố: Đất, kh, Lửa và Nước. Người ta chúng xuất trước cả các giống loài Elder cổ xưa nhất. Những thanh kiếm này qua nhiều thời đại mang nhiều cái tên: Excalibur và Joyeuse, Mistelteinn và Curtana, Durendal và Tyrfing. Lần cuối cùng người ta sử dụng thanh kiếm làm vũ khí trong thế giới loài người khi Charlemagne, Hoàng đế La Mã Thần thánh, mang thanh Joyeuse vào chiến trận.”


      “Đây là thanh kiếm Joyeuse?” Josh thầm. Chị cậu giỏi về địa lý, nhưng cậu biết nhiều về lịch sử, và Charlemagne luôn mê hoặc cậu.


      Tiếng cười lớn của Scathach như tiếng gầm đầy cay đắng. “Joyeuse có nghĩa là vật xinh đẹp. Còn cái này….cái này là thứ đáng ghê tởm.”


      Flamel cầm chuôi kiếm và những tinh thể pha lê tí xíu trong đá lấp lánh dưới ánh đèn màu xanh lá. “Đây phải là thanh kiếm Joyeuse, dù có lần nó thuộc về Charlemagne. Tôi cũng tin rằng bản than hoàng đế giấu lưỡi kiếm này ở Andorra vào lúc nào đó trong thế kỷ thứ chin.”


      “Nó cũng giống như thanh Excalibur,” Josh , chợt nhận ra tại sao thanh kiếm đá này lại trong quen đến dữ vậy. Cậu nhìn chị . “Dee và Excalibur; dùng nó để phá hủy cả thế giới.”


      “Excalibur là Thanh kiếm Băng Hà,” Flamel tiếp. “Còn đây là lưỡi kiếm song sinh của nó: Clarent, Thanh kiếm Hỏa Công. Vũ khí duy nhất có thể chống lại Excalibur.”


      “Nó là lưỡi kiếm đáng nguyền rủa,” Scathach dứt khoát. “Tôi chạm vào nó.”


      “Tôi cũng ,” Joan ngay, và Saint-Germain gật tán thành.


      “Tôi cầu ai trong các vị mang nó hay sử dụng nó,” Nicholas đốp chát. Ông xoay vũ khí bàn cho tới khi chuôi kiếm vào những ngón tay của cậu con trai và ông nhìn lần lượt từng người . “Chúng ta biết Dee và Machiavelli đến gần. Josh là người duy nhất trong chúng ta có khả năng tự vệ. Từ nay cho tới khi năng lượng của cậu ấy được đánh thức, cậu ấy cần có thứ vũ khí. Tôi muốn cậu ấy giữ thanh Clarent.”


      “Nicholas,” Scathach kinh hoảng la lên. “Ông nghĩ gì vậy. Cậu ấy là con người chưa hề qua huấn luyện—”


      “—với luồng điện vàng thuần khiết,” Flamel lạnh lùng . “Và tôi kiên quyết giữ cậu ấy an toàn.” Ông đẩy thanh kiếm vào những ngón tay Josh. “Cái này của cháu. Cầm lấy .”


      Josh chồm tới trước và cảm thấy hai trang giấy của cuốn Codex nằm trong cái túi vảưng cứng chạm vào da mình. Đây là món quà thứ hai mà nhà giả kim tặng cậu sau ngần ấy ngày. Về phần mình, cậu muốn thừa nhận những món quà theo giá trị bề ngoài của chúng—để tin cậy ông ấy và tin tưởng rằng đổi lại Flamel cũng thích cậu và tin cậy cậu. Song, song… ngay cả cuộc chuyện giữa họ đường, đâu đó sâu tận trong tâm trí cậu, Josh thể nào quên những gì Dee bên đài phun nước ở Ojai: nửa những gì mà Flamel là dối trá, và nửa còn lại cũng hoàn toàn là . Cậu cố tình quay khỏi thanh kiếm và nhìn vào đôi mắt nhạt màu của Flamel. Nhà Giả kim nhìn cậu chằm chằm, khuôn mặt ông như chiếc mặt nạ ngây ra. Vậy Nhà giả kim tính làm gì? Josh tự hỏi. Ông chơi trò gì? Nhiều lời của Dee bật lên đầu cậu hơn nữa: “Giờ đây ông ta, như ông ta luôn là, kẻ dối, tay lòe bịp, và tên lừa đảo.”


      “Cậu muốn nó sao?” Nicholas hỏi. “Cầm lấy ” Ông đẩy chuôi kiếm vào rãnh tay cháu.


      Hầu như chống lại ý muốn của cậu, những ngón tay Josh khép lại cái bọc da mướt rượt của thanh kiếm đá. Cậu nhấc nó lên—dù nó ngắn, nhưng có sức nặng đáng kinh ngạc—và quay nó đôi tay mình. “Cháu chưa bao giờ điều khiển kiếm trong dời,” cậu . “Cháu biết cách…”


      “Scathach chỉ cháu vài điều căn bản,” Flamel ng tối, nhưng chuyển câu đơn giản này thành mệnh lệnh. “Làm sao để mang nó, đâm thọc và gạt đỡ. Tập thử và tránh để nó đâm vào người,” ông thêm.


      Josh nhận ra rằng cậu cười tơ và cố xóa nụ cười đó, nhưng khó: thanh kiếm cảm thấy kinh ngạc khi ở trong tay cậu. Cậu cử động cổ tay và thanh kiếm giật giật. Rồi cậu nhìn Scatty, Francis và Joan và cậu thây mắt họ dán chặt vào thanh kiếm, theo sát từng chuyển động của nó, và nụ cười của cậu nhạt . “Có cái gì đó ổn ở thanh kiếm ạ?” cậu gặng hỏi. “Tại sao mọi người sợ nó đến vậy?”


      Sophie đặt tay mình lên cánh tay em trai, đôi mắt lấp loáng ánh bạc với kiến thức của bà phù thuỷ. “Clarent,” , “là tai họa, vũ khí bị nguyền rủa, thỉnh thoảng còn bị gọi là lưỡi kiếm hèn nhát. Đây là thanh kiếm Mordred dùng để giết cậu mình, Vua Arthur.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 23


      Trong phòng ngủ của mình ở tầng cao nhất của ngôi nhà, Sophie thụp vào bậu cửa sổ và nhìn xuống Champs-Elysees. Con đường rộng và có những hàng cây xanh kẻ viền ướt đẫm nước mưa và tỏa sáng bằng những ngọn đèn màu hổ phách, đỏ và trắng phản chiếu từ những chiếc xe hơi và xe buýt. nhìn lại chiếc đồng hồ đeo tay của mình: bây giờ là gần hai giờ sáng ngày chủ nhật, song xe cộ vẫn nườm n. Bất cứ lúc nào sau nửa đêm, những con đường ở San Francisco đều vắng vẻ.


      khác biệt này nhấn mạnh rằng ở cách nhà bao xa.


      Khi còn , qua giai đoạn cho rằng mọi thứ về mình đều nhàm chán. ý thức phải cố gắng để kiểu cọ hơn—như Elle bạn , thay màu tóc hàng tuần và có tủ quần áo đầy những kiểu dáng mới lạ nhất. Sophie sưu tập mọi thứ có thể tìm thấy về những thành phố kỳ lạ ở châu Âu nơi tạo ra thời trang và nghệ thuật mà đọc được trong các tạp chí: London và Paris, Rome, Milan, Berlin. quyết định mình chạy theo thời trang; tạo ra nét riêng cho mình. Gian đoạn đó kéo dài khoảng tháng. Thời trang là chuyện tốn kém, còn khoản tiền cha mẹ cấp phát cho và cậu em trai lại giới hạn chặt chẽ.


      Dù vậy, vẫn mong muốn đến thăm những thành phố lớn thế giới. và Josh bắt đầu bàn đến việc nghĩ hẳn năm trước khi vào đại học hay cao đẳng để du lịch ba-lô vòng quanh châu Âu. Và giờ này tại đây khi trong những thành phố xinh đẹp nhất trái đất, và hoàn toàn có chút hứng thú nào để khám phá nó. Chỉ có việc duy nhất muốn làm ngay bây giờ là trở về San Francisco.


      Nhưng trở lại để làm gì?


      Ý nghĩ này chặn đứng ngay cơn lạnh của .


      Dù gia đình phải chuyển nhà rất nhiều, và lại còn nhiều hơn, nhưng hai ngày trước, vẫn biết mình mong đợi chuyện gì trong những tháng tới. Chương trình tính đến cuối năm được v với những chi tiết chán phèo. Mùa thu, cha mẹ nhận lại chân giảng ở trường đại học ở San Francisco, và cả hai quay lại trường. Tháng mười hai, cả nhà du lịch theo định kỳ hằng năm đến Providence đảo Rhode, nơi ba trình bày bài thuyết trình Giáng sinh ở đại học Brown trong hai thập kỷ qua. Ngày hai mươi mốt tháng mười hai, sinh nhật hai chị em, cặp sinh đôi được New York để xem các cửa tiệm, ngắm đèn, nhìn cây cối ở Trung tâm Rockefeller rồi trượt băng. Họ ăn trưa ở Stage Door Deli: cosups matzo (bánh mì lên men) viên và bánh xăng uých to bằng cái đầu người ta lận, ở giữa kẹp lát bánh bí đỏ mỏng. Đêm trước Giáng sinh, họ hướng thẳng ra nhà gì Christine ở Montauk đảo Long, ở lại đó hết kỳ nghỉ rồi đón năm mới. Đó là truyền thống của gia đình trong suốt mười năm qua.


      Còn bây giờ?


      Sophie hít hơi sâu. Bây giờ sỡ hữu những năng lượng và các khả năng mà hầu như hiểu cái gì cả. ký ức hầu như là mớ pha trộn giữa với thần thoại hoang đường và kỳ quặc; biết những bí mật mà có thể viết lại thành cuốn sách lịch sử. Nhưng ước ao, hơn bất cứ điều gì khác, là có cách nào đó cho quay ngược lại thời gian, quay trở về tới buổi sáng ngày thứ năm… trước tất cả những gì xảy ra. Trước khi thế giới biến đổi.


      Sophie tì người vào mặt cửa kính mát lạnh. Chuyện gì sắp xảy ra? sắp phải làm gì.. phải ngay bây giờ, nhưng trong những năm tới? Em trai định hướng nghề nghiệp nào cố định trong đầu; mỗi năm cậu thông báo thứ khác—cậu nhà thiết kế trò chơi cho máy tính hay lình viên, cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp, nhân viên phụ giúp về y tế hay là lính cứu hỏa—nhưng lại luôn biết mình làm gì. Từ hồi giáo cấp hỏi câu hỏi—”Mai sau khi lớn lên em làm gì, Sophie?”— biết câu trả lời. muốn học khảo cổ học và cổ sinh vật học giống cha mẹ , chu du khắp thế giới và liệt kê lại quá khứ, có thể làm vài cuộc khám phá giúp đặt lịch sử vào trật tự. Nhưng chuyện đó bao giờ xảy ra nữa. Đêm trước, cho rằng việc nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, địa lý và khoa học được cho là vô ích… hoặc nếu vô ích, cũng là sai lầm hoàn toàn.


      dòng cảm xúc đột ngột làm sửng sốt, cảm thấy nóng ran ở đằng sau cổ họng và cảm thấy những giọt nước mắt lăn dài má. ép cả hai lòng bàn tay lên mặt và quyệt nước mắt .


      “Cốc cốc cốc…” tiếng Josh làm giật mình. Sophie quay nhìn cậu em sinh đôi. En trai đứng nơi cửa, thanh kiếm đá trông tay này, chiếc laptop trong tay kia. “Em vào được ?”


      “Em bao giờ hỏi trước.” mỉm cười


      Josh bước vào phòng và ngồi rìa chiếc gường đôi. Cậu cẩn thận dùng chân đặt thanh Clarent xuống sàn và để chiếc laptop lên đầu gối. “Quá nhiều thay đổi,” cậu êm ả, đôi mắt xanh đầy phiền muộn.


      “Chị cũng nghĩ vậy,” tán thành. “Ít nhất cũng có điều đó là thay đổi.” Cặp song sinh thường thấy rằng chúng có cùng ý tưởng trong cùng lúc, và chúng biết nhau đến nỗi thậm chí có thể hoàn chỉnh các câu của nhau. “Chị chỉ ước chúng ta có thể quay ngược thời gian, đến trước lúc mọi chuyện này xảy ra.”


      “Tại sao?”


      “Có vậy chị phải thế này… có vậy chúng ta mới khác nhau.”


      Josh nhìn vào mặt chị và hơi nghiêng đầu. “Chị muốn từ bỏ nó hả?” cậu hỏi rất dịu dàng. “Năng lượng, kiến thức.”


      “Trong tích tắc,” ngay. “Chị thích những gì xảy đến với chị. Chị bao giờ muốn nó xảy ra.” Tiếng vỡ ra, nhưng tiếp. “Chị muốn là người bình thường, Josh. Chị muốn lại được làm người. Chị muốn giống em.”


      Josh nhìn xuống. Cậu mở laptop và tập trung việc cấp nguồn cho nó.


      “Nhưng em như vậy, phải ?” chầm chậm, giải thích cho thời gian im lặng dài sau“Em muốn năng lượng, em muốn có thể định hình luồng điện của em và kiểm soát các yếu tố, phải ?”


      Josh ngập ngừng. “Nó cũng… thú vị, em nghĩ vậy,” cuối cùng câu vừa vừa nhìn chằm chặp vào màn hình. Khi cậu nhìn lên, đôi mắt phản chiếu hình màn hình đăng nhập. “Đúng, em muốn có thể làm được như vậy,” cậu thừa nhận.


      Sophie há miệng định bật ra câu trả lời, để bảo cậu rằng cậu biết cậu gì, để bảo cậu rằng cảm thấy buồn nôn như thế nào, sợ hãi như thế nào. Nhưng tự chặn mình lại; muốn tranh luận, và từ đây cho tới khi Josh tự mình trải nghiệm, cậu bao giờ hiểu được.


      “Ở đâu có cái máy tính này vậy?” hỏi, đổi chủ đề khi cuối cùng chiếc laptop nổ lách tách.


      “Francis cho em,” Josh . “Chị có ở đó khi Dee phá hủy Yggdrasill. đâm cái cây đó bằng thanh Excalibur và nó hóa thành nước đá rồi vỡ tan như thủy tinh. Cái ví của em, điện thoại di động, iPod và laptop đều ở trong cây,” cậu rầu rĩ . “Em mất hết mọi thứ. Bao gồm hết thảy những hình chụp của mình.”


      “Và ông bá tước cho em cái laptop ngay?”


      Josh gật đầu. “Ông ấy cho em, cứ nằng nặc đòi em phải lấy. Ắt hẳn hôm nay là ngày nhận quà của em.” Ánh sáng yếu ớt từ màn hình máy vi tính chiếu vào gương mặt cậu từ dưới lên, làm đầu cậu có vẻ hơi ghê ghê. “Ông ấy chuyển qua xài Mac; chúng có phần mềm nhạc tốt hơn, hình như vậy, và ông ấy sài PC nữa. ông ấy tìm thấy cái này chất đống dưới cái bàn ở lầu,” cậu tiếp đôi mắt vẫn dính chặt vào màn hình . Cậu liếc nhanh qua chị . “Thiệt đó,” cậu , nhận thấy im lặng của như nghi ngờ.


      Sophie nhìn chỗ khác. biết cậu em trai , và điều đó có liên quan gì đến kiến thức của bà phù thủy. luôn biết khi nào Josh dối, mặc dù, kỳ lạ, là cậu bao giờ biết khi nào dối cậu..dầu sao cũng thường làm như vậy lắm, mà chỉ khi nào điều đó tốt cho cậu. “Vậy bây giờ em làm gì?” hỏi.


      “Kiểm tra thư của em.” Cậu cười toe. “Cuộc sống cứ trôi ….” cậu mở lời.


      “…còn e-mail chờ đợi ai,” Sophie hoàn tất câu với nụ cười. Đó là trong những câu ưa thích nhất của Josh, và nó thường làm cho phát điên.


      “Có hàng đống,” cậu lẩm bẩm. “Tám mươi Gmail, sáu mươi hai yahoo, hai mươi tám AOL, ba mươi FastMail…”


      “Chị bao giờ hiểu nổi em tại sao em lại cần nhiều hộp thư đến vậy,” Sophie . co chân lên ngực, vòng cánh tay quanh ống quyển và dựa đầu lên gối. Cảm thấy thoải mái vì có cuộc chuyện thông thường với cậu em; nó nhắc về những thứ vốn dĩ phải thế… và từng là vậy cho đến chiều thứ năm, chính xác lúc hai giờ mười lăm. nhớ giờ này; khi chuyện với Elle bạn ở New York phát ra chiếc xe hơi dài màu đen đậu sát vào tiệm sách. xem giờ ngay trước khi người đàn ông bước ra khỏi xe, người mà bây giờ hóa ra chính là tiến sĩ John Dee.


      Josh nhìn lên. “Chúng ta có hai lá thư của mẹ, của ba.”


      “Đọc chị nghe . Bắt đầu từ cái cũ nhất.”


      “OK. Mẹ gởi cái hôn thứ sáu, ngày mồng . Mong cả hai đứa ăn ở cho phải phép. Bà Fleming thế nào? khỏe hẳn chưa?” Josh nhìn lên cau mày, bối rối.


      Sophie thở dài. “Nhớ ? Chúng ta với mẹ rằng cửa tiệm đóng vì Perenelle cảm thấy khỏe.” lắc đầu. “Thử và tiếp tục !”


      “Tại hơi bận rộn chút,” Josh nhắc chị . “Nên em nhớ hết mọi thứ được. Vả lại, đó là việc của chị mà.”


      chúng ta là Nicholas và Perenelle mời chúng ta dành thêm chút thời gian ở lại chơi nhà họ trong sa mạc.”


      “Vậy là.” Josh nhìn chị , những ngón tay lơ lửng phím. “Em gì với mẹ đây?”


      với mẹ mọi chuyện ổn rồi và Perenelle cảm thấy khỏe ra nhiều. Dù sao cũng phải nhớ gọi họ là Nick và Perry,” nhắc chừng.


      “Cám ơn,” cậu , đánh vào phím Backspace, thay Perenelle bằng Perry. Khi gõ, những ngón tay cậu nhảy ngắt quảng bàn phím. “OK, tới lá kế,” cậu tiếp. “Cũng của mẹ, đề ngày hôm nay. ‘Cố điện thoại cho con, nhưng cuộc gọi thẳng vào hộp thư thoại của con. Mọi thứ ổn ? Gọi cho gì Agnes . Dì ấy các con về nhà lấy quần áo hay xà bông, bàn chải gì hết. Cho mẹ số nào mẹ có thể gọi cho con. Ba mẹ lo.’” Josh nhìn chị.”Vậy mình với mẹ cái gì bây giờ?”


      Sophie nhai nhai vào môi dưới, lớn nhưng gì nghĩ. “Mình nên với mẹ….” ngập ngừng. “ với mẹ là có mấy thứ đó ở tiệm rồi. Mẹ biết mình để quần áo ở đó mà. Đó phải là dối. Chị ghét dối mẹ.”


      “Viết vậy nhé,” Josh , gõ rất nhanh. Cả hai đứa sinh đôi đều cất quần áo của chúng trong ngăn tủ phía sau tiệm sách để thỉnh thoảng buổi chiều tối có xen phim hoặc dạo xuống Embarcadero.


      với mẹ là mình có dịch vụ điện thoại tại đây. Chỉ ở đây là ở đâu thôi,” kèm theo nụ cười.


      Josh có vẻ bực bội. “Chị muốn là mình có chiếc điện thoại di động nào…”


      “Chị vẫn còn cái của chị. Nhưng hết pin rồi. với mẹ mình gọi ngay khi có tính hiệu.”


      Josh tiếp tục gõ. Ngón tay của cậu lơ lửng bàn phím Enter. “Vậy được chưa?”


      “Gởi .”


      Cậu đánh vào phím Enter, “ gởi .”


      “Em còn cái th của ba?” hỏi.


      “Ba gởi cho em.” Cậu mở thư ra, đọc nhanh rồi cười rộng hoác. “Ba gởi file .jpeg chụp mấy cái răng cá mập hóa thạch mà ba tìm được. Trông cũng hay hay. Và ba còn lấy được vài viên sỏi phân để đành cho bộ sưu tập của em.”


      “Phân hóa đá.” Sophie vờ lắc đầu kinh tởm. “Phân hóa thạch! Tại sao em thể sưu tập tem hay tiền đồng như những người bình thường khác? Đúng là kì quái quá sức.”


      “Kỳ quái?”Josh nhìn lên, chợt phấn khích. “Kỳ quái! Để em cho chị nghe cái gì kỳ quái: chúng ở trong cùng nhà với con ma cà rồng ăn chay hai ngàn rưỡi tuổi, nhà giả kim bất tử, người bất tử khác là nhà soạn nhạc chuyên về Pháp thuật Lửa và nữ hùng người Pháp lẽ ra chết ở đâu đó giữa thế kỷ mười lăm.” Cậu lấy khuỷu tay dứ dứ vào thanh kiếm nằm sàn kề bên chân cậu. “Và đùng đừng quên thanh kiếm người ta dùng để giết vua Arthur.’


      Khi , tiếng Josh cất cao rồi cậu chợt ngưng bặt và rung mình lấy hơi sâu, tự điềm tĩnh lại. Cậu bắt đầu cười. “So sánh với tất cả điều đó, em nghĩ sưu tập phân hóa thạch có lẽ là việc ít kỳ quái nhất ở quanh đây!” Nụ cười của cậu bổng chuyển thànhười toe toét và Sophie bật cười, rồi cả hai chị em cùng cười rũ ra. Josh cười đến nỗi cậu bị nấc cụt, và vì vậy càng làm chúng cười dữ hơn, cho đến khi nước mắt chảy xuống má và dạ dày đau quặn đau nhói.


      “Thôi, thôi,” Josh rên rỉ. Cậu lại nấc cụt, và cả hai rơi vào tình trạng quá kích động.


      Phải sử dụng ý chí khủng khiếp lắm cả hai đứa mới tự kiềm chế được, nhưng đây là lần thứ nhất kể từ khi Sophie được đánh thức, Josh cảm thấy được gần gũi chị mình. Thường ngày nào chúng cũng cười; trước khi lao vào công việc hôm sáng thứ năm, lần cuối cùng chúng cười với nhau là khi thấy người đàn ông ốm nhom mang giày trượt và mặc quần thể dục bị con chó đốm khổng lồ kéo thao nó. Tất cả những gì chúng cần làm là tìm những thứ có thể cười được—nhưng may vì chẳng còn nhiều thứ như vậy trong suốt mấy ngày qua.


      Sophie thoát khỏi trận cười trước cậu em trai và quay lại cửa sổ. có thể nhìn cậu em trai trong tấm kính và chờ cho đến khi cậu nhìn xuống màn hình rồi mới . “Chị ngạc nhiên là em phản đối thêm nữa khi Nicholas đề nghị Francis huấn luyện Pháp thuật Lửa cho chị,” .


      Josh nhướng mắt nhìn vào mặt chị phản chiếu cửa sổ. “Nếu em phản đối có làm cho mọi thứ khác được ?” cậu nghiêm túc .


      suy nghĩ chút. “. Chị cho là thừa nhận.


      “Em nghĩ vậy. Lẽ ra chị vẫn có thể làm cho mọi thứ khác .”


      Sophie quay người nhìn thẳng vào cậu em sinh đôi. “Chị phải làm. Chị cần phảỉ làm như vậy.”


      “Em biết mà,” cậu giản dị. “Bây giờ em biết rồi.”


      Sophie nhấp nháy máy đầy ngạc nhiên. “Em biết?”


      Josh đóng laptop lại và thả nó xuống giường. Rồi cậu cầm thanh kiếm lên và bắc ngang đầu gối, lơ đãng cọ xát vào cái lưỡi kiếm trơn láng. Mặt đá tạo cảm giác ấm. “Em rất giận, hoảng sợ—, hơn cả hoảng sợ—kinh khiếp khi Flamel nhờ Hekate Đánh thức chị. Ông ấy hề với chúng ta về những nguy hiểm. Ông ta hề với chúng ta rằng chị có thể chết , hay rơi vào hôn mê. Em bao giờ tha thư cho ông ấy về điều đó.”


      “Chú ấy gần như chắc chắn rằng có gì xảy ra…”


      “Gần như chắc chắn phải là chắc chắn.’


      Sophie gật đầu, tự tin để .


      “Còn bây giờ Bà Phù thủy Endor chuyển kiến thức của bà cho chị, lần nữa em lại sợ. Nhưng phải sợ cho chị..Em sợ chính chị,” cậu thừa nhận cách rất nhàng.


      “Josh, ngay cả điều đó em cũng có thể ra được sao?” Sophie bắt đầu, sửng sốt . “Chị là chị em sinh đôi của em.” Ánh mắt gương mặt cậu làm im bặt.


      “Chị nhìn thấy được những gì em thấy,” cậu nghiêm chỉnh. “Em quan sát thấy chị dũng cảm đương đầu với người đàn bà đầu mèo. Em nhìn thấy môi chị mấp máy, nhưng khi chị , những lời phát ra đồng bộ với môi, và khi chị nhìn em, chị nhận ra em. Em biết chị là gì—nhưng chị phải là người chị sinh đôi của em sau đó nữa. Chị bị chiếm hữu mất rồi.”


      Sophie chớp mắt và những giọt nước mắt tuôn ào lăn tròn xuống má. chỉ có những ký ức rất nhạt nhòa, còn mơ hồ hơn những mảnh vỡ huyền ảo, mà những gì cậu em trai kể.


      “Rồi, ở Ojai, em quan sát chị làm ra gió lốc, và hôm nay—hôm qua—em nhìn thấy chị làm sương mù chẳng từ cái gì cả.”


      “Chị biết bằng cách nào mà chị làm được mấy thứ đó,” lẩm bẩm.


      “Em biết, Soph, em biết.” Cậung lên và ngang qua cửa sổ, nhìn ra những mái nhà của Paris. “Bây giờ em hiểu rồi. Em suy nghĩ rất nhiều về nó. Năng lượng của chị được đánh thức, nhưng chỉ có cách để từ nay chị có thể kiểm soát được chúng, chỉ có cách từ nay chị được an toàn, đó là chị phải được huấn luyện. Lúc này chúng là mối nguy hiểm cho chị cũng như kẻ thù của chúng ta. Hôm nay Joan Arc giúp chị, đúng ?”


      “Đúng, ấy giúp rất nhiều. Chị còn nghe những tiếng nữa. Đó là giúp đỡ đáng kể. Nhưng cũng lý do gì khác, phải ?” Sophie hỏi.


      Josh lật qua lật lại thanh kiếm tay cậu, lưỡi kiếm gần như biến thành màu đen trong đêm tối, những tinh thể pha lê trong đá lấp lánh như những vì sao. “Chúng ta thể hình dung được chúng ta mắc phải loại phiền phức nào,” cậu chậm rãi. “Nhưng chúng ta biết chắc rằng chúng ta gặp nguy hiểm… nguy hiểm thực . Chúng ta mười lăm tuổi rồi—chúng ta nên nghĩ đến việc bị giết chết… hoặc bị ăn thịt… hoặc những gì tệ hại hơn!” Cậu vẫy vẫy tay áng chừng về hướng cánh cửa ra vào. “Em tin họ. Chỉ có người duy nhất em có thể tin là chị… chị ấy.”


      “Nhưng Josh,” Sophie rất khẽ khàng, “Chị lại tin họ. Họ là những người tốt. Scatty chiến đấu vì loài người hai ngàn năm, và Joan là ười tử tế và cao quý.”


      “Và Flamel cất giữ cuốn Codex mấy thế kỷ,” Josh bật . Cậu sờ cằm mình và Sophie nghe tiếng sột soạt mà hai trang giấy nằm trong cái túi mà Flamel giao cho cậu. “Có những công thức trong cuốn sách này có thể làm hành tinh này thành thiên đường, có thể chữa lành mọi bệnh tật.” Cậu ấy có cảm giác nghi ngờ thoáng qua trong đôi mắt chị và nhấn mạnh. “Và chị biết đó là .”


      “Ký ức của Bà Phù thủy cũng bảo chị rằng có những công thức trong cuốn sách đó có thể phá hủy thế giới này.”


      Josh lắc đầu nhanh. “Em nghĩ chị nhìn thấy những gì họ muốn chị nhìn thấy.”


      Sophie chỉ vào thanh kiếm. “Nhưng tại sao Flamel lại cho em thanh kiếm và hai trang của cuốn Codex đó?” hỏi cách đắc thắng.


      “Em nghĩ—em biết—họ sử dụng chúng ta. Em chỉ biết họ sử dụng cho cái gì. Dù sao bây giờ cũng chưa.” Cậu nhìn thấy chị sinh đôi của mình lắc đầu. “Dù sao, chúng ta cũng cần năng lượng của chị mới giữ cho cả hai được an toàn.”


      Sophie vươn tay ra siết bàn tay cậu em trai. “Em biết chị bao giờ để bất cứ cái gì làm en tổn thương.”


      “Em biết vậy mà,” Josh nghiêm túc. “Ít ra là chị chủ tâm. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu có cái gì đó sử dụng chị, như nó làm ở Vương quốc Bóng tối?”


      Sophie gật đầu. “Hồi đó chị chưa kiểm soát được,” thừa nhận. “Giống như chị ở trong giấc mơ, quan sát người nào đó giống y như mình.”


      “Huấn luận viên bóng đá của em rằng trước khi bạn có thể nắm được quyền kiểm soát, bạn phải thực việc kiểm soát. Nếu chị có thể học cách kiểm soát luồng điện của mình và làm chủ các phép thuật,” Josh tiếp, “ ai có thể làm điều đó với chị bao giờ nữa. Chị mạnh mẽ thể tin được. Và để em luôn, ví dụ, năng lượng của em được Đánh thức. Em có thể học cách sử dụng thanh kiếm này.” Cậu xoắn nó trong tay mình, cố xoay tròn lưỡi kiếm, nhưng nó trượt sang bên và chém rảnh sâu vào bức tường. “Ối.”


      “Josh.”


      “Gì cơ? Chị khó lòng để ý thấy điều đó được.” Cậu chà ống tay áo vào vết chém. Sơn và trát vữa tường bong ra, để lộ lớp gạch bên dưới.


      “Em làm cho mọi chuyện tệ thêm. Và chắc là em làm hỏng thanh kiếm mất rồi.”


      Nhưng khi Josh đưa vũ khí này đưa lên ánh sáng lưỡi kiếm có đến dấu vết .


      Sophie từ từ gật đầu. “Chị vẫn nghĩ—chị biết—em nhầm về Flamel và những người khác.”


      “Sophie, chị phải tin em.”


      “Chị tin em. Nhưng hãy nhớ rằng Bà Phù thủy biết những người này, và bà ấy tin họ.”


      “Sophie,” Josh trong tâm trạng thất vọng, “chúng ta biết bất cứ gì về Bà Phù thủy.”


      “Ô, Josh, chị biết mọi thứ về bà ấy,” Sophie xúc động . ngón tay trỏ của vào thái dương. “Và chị ước gì đừng như vậy. Cả cuộc đời bà, hàng ngàn năm, nằm ở đây.” Josh há miệng định trả lời, nhưng Sophie giơ cao bàn tay . “Đây là những gì chị làm: chị làm việc với Saint-Germain, học tất cả những gì ông ấy phải dạy cho chị.”


      “Và đồng thời để mắt đến ông ấy; cố tìm ra xem ông ấy và Flamel mưu gì.”


      Sophie để ý lời cậu. “Có lẽ lần tới nếu bị tấn công, chúng ta có thể bảo vệ mình,” nhìn ngang qua những mái nhà của Paris. “Ít nhất chúng ta vẫn an toàn ở đây.”


      “Nhưng liệu được bao lâu?” cậu em trai sinh đôi của bật hỏi.






      CHƯƠNG 24


      Tiến sĩ John Dee tắt đèn và ra khỏi phòng ngủ rộng mênh mông để bước lên ban công, dựa khuỷu tay thanh chắn và nhìn ra khắp thành phố Paris. Trời mưa hồi sớm và khí ẩm ướt và lạnh lẻo, bị ô uế bởi mùi chua chua từ dòng sông Seine phảng phất khói thải.


      ghét Paris.


      phải lúc nào cũng vậy. có lần, đây là thành phố ưa thích nhất của ở châu Âu, tràn ngập những ký ức kỳ diệu và lạ lùng nhất. Cuối cùng, được làm người bất tử tại thành phố này. Trong hầm tối sâu bên dưới ngục Bastille, pháo đài dùng làm nhà tù, Nữ thần Quạ đưa đến gặp Elder cho cuộc sống vĩnh hằng và đổi lấy lòng trung thành mù quáng.


      Tiến sĩ John Dee phục vụ các Elder, làm gián điệp cho họ, đảm đương nhiều nhiệm vụ nguy hiểm qua vô số các Vương quốc bóng tối. chiến đấu chống các quâ của người chết, đuổi theo những quái vật xuyên khắp các hoang mạc ác liệt, đánh cắp số vật thần thánh có phép thuật và quý báu nhất đối với cả chục nền văn minh. Và thời trở thành nhà vô địch của các Elder đen tối; có gì vượt ngoài khả năng của , nhiệm vụ nào qua khó khăn… ngoại trừ những việc có liên quan đến nhà Flamel. Tay pháp sư người thất bại, hết lần này đến lần khác, trong việc đuổi bắt Nicholas và Perenelle Flamel, nhiều lần trong thành phố này.


      Chỉ còn lại trong những bí lớn nhất suốt cuộc đời thăng trầm đằng đẳng của : làm sao nhà Flamel lại lẩn trốn được?” chỉ huy đạo quân bao gồm con người, người dị thường và cả phải con người; có quyền sử dụng chim bầu trời; có thể ra lệnh cho chuột, mèo và chó. tùy ý sử dụng những sinh vật từ những bờ rìa u tốt nhất của huyền thoại. Vậy mà hơn suốt bốn trăm năm nay, nhà Flamel cứ trốn thoát các cuộc vây bắt, đầu tiên là ở đây tại Paris này, rồi xuyên qua châu Âu, và vào châu Mỹ, luôn luôn chỉ cách bước ngay trước mũi , thường hay rời thành phố nào đó chỉ vài giờ trước khi đến. Cứ như thể bọn họ được báo trước. Nhưng việc đó, dĩ nhiên, thể nào có được. Tay pháp sư chưa hề chia sẻ các kế hoạch của cho ai.


      Cánh cửa mở ra đóng vào trong căn phòng sau lưng . Cánh mũi Dee nở ra, thoáng nghe mùi rắn ẩm mốc. “Chào buổi sáng, Niccolo,” Dee , quay lại.


      “Chào mừng đến với Paris,” Niccolo Machiavelli tiếng Latin bằng giọng Ý“Tôi tin ông có chuyến bay tốt lành và hài lòng với căn phòng này?” Machiavelli sắp xếp cho Dee hoàn tất nhanh chóng các thủ tục tại phi trường và cho cảnh sát hộ tống về ngôi nhà phố rộng lớn nằm gần Place du Canada.


      “Bọn chúng ở đâu?” Dee hỏi sống sượng, bỏ qua những câu hỏi chủ nhà, khẳng định quyền lực của . hẳn hơn tay người Ý vài tuổi, nhưng ở đây là người chịu trách nhiệm.


      Machiavelli bước ra khỏi phòng và đứng bên cạnh Dee ngoài ban công. muốn làm nhăn bộ đồ mặc, đứng chắp tay sau lưng. Tay người Ý cao ráo, lịch thiệp, mày râu nhẳn nhụi với mái tóc cắt sát tương phản với người đàn ông mặt nhọn hoắt, chòm râu tam giác và mái tóc xám vuốt ngược ra sau cột kiểu đuôi ngựa. “Họ vẫn còn ở nhà Saint-Germain. Và mới đây Flamel gia nhập vào đó luôn rồi.”


      Tiến sĩ Dee liếc xéo sang Machiavelli. “Tôi ngạc nhiên hiểu sao ông thử cố tự mình bắt bọn chúng,” giả nhân giả nghĩa.


      Machiavelli nhìn bao quát thành phố kiểm soát. “Ồ, tôi nghĩ nên để phần chung cuộc của việc bắt giữ bọn người đó cho ông,” ta ôn tồn .


      “Ý ông là ông được chỉ thị phải để bọn chúng cho tôi có.


      Machiavelli gì.


      “Nhà Saint-Germain bị bao vây hoàn toàn chứ?”


      “Hoàn toàn.”


      “Và chỉ có năm người bọn chúng trong nhà? người giúp việc, người bảo vệ?”


      “Nhà giả kim và Saint-Germain, cặp sinh đôi và Bóng tối.”


      “Scathach là vấn đề đó,” Dee làu bàu.


      “Tôi có thể có giải pháp,” Machiavelli đề nghị cách nhàng. chờ cho đến khi pháp sư quay qua nhìn , đôi mắt màu đá nhấp nháy ánh da cam phản chiếu những ngọn đèn đường. “Tôi cho người nhắn Disir, kẻ thù ác liệt nhất của Scathach. Ba trong số đó vừa đến nơi.”


      nụ cười hiếm hoi cong đôi môi mỏng dính của Dee. Rồi bước lùi cách Machiavelli chút và hơi nghiêng mình. “Valkyrie— lựa chọn xuất sắc.”


      “Chúng ta cùng phe mà,” Machiavelli cúi chào đáp lễ. “Chúng ta cùng phục vụ những chủ nhân


      Pháp sư định bước trở lại phòng chợt dừng lại và quay nhìn Machiavelli. Trong chốc lát, mùi trứng thối của lưu huỳnh phàng phất lơ lửng khí. “Ông hình dung được tôi phục vụ cho ai đâu,” .


      Dagon xông tới mở rộng hai cánh cửa đôi khá cao rồi lùi lại nhường bước. Niccolo Machiavelli và tiến sĩ John Dee sải chân bước vào thư viện chứa đầy sách được trang hoàng lộng lẫy để chào đón các vị khách.


      có ba trẻ trong phòng.


      Thoạt nhìn giống như họ là chị em sinh ba. Cao và ốm, với mái tóc vàng dài chấm vai. Họ ăn mặc như những cỗ xe tăng đen tuyền bên dưới áo khoác da mềm và quần jeans xanh lơ nhét vào đôi giày bốt cao đến gối. Khuôn mặt của họ tất cả đều góc cạnh: gò má cao, mắt sâu hoắm, cằm nhọn. chỉ có đôi mắt mới giúp người ta mới phân biệt được họ. Chúng mang những sắc thái khác nhau của màu xanh, từ màu xanh ngọc bích nhạt nhất cho đến sẫm, gần như màu chàm tím. Cả ba trông như thể mới mười sáu hay mười bảy, nhưng thực tế, họ còn lớn tuổi hơn hầu hết những nền văn minh.


      Họ là Disir.


      Machiavelli bước vào giữa phòng và lần lượt quay nhìn từng , cố phân biệt họ. ngồi ở cây đàn dương cầm, khác ngồi tràng kỷ, trong khi thứ ba đứng tựa vào cửa sổ, nhìn chăm bẳm vào bóng đêm, trong tay là cuốn sách gáy da chưa rọc trang. Khi đến gần họ, đầu họ xoay cổ như xoay cái trục, và để ý thấy mắt của họ trùng với màu nước sơn móng tay. “Cám ơn vì đến,” , bằng tiếng Latin, thứ ngôn ngữ mà hầu hết các Elder đều quen thuộc, bên cạnh tiếng Hy Lạp.


      Các nhìn cách trống rỗng.


      Machiavelli liếc nhìn Dagon, vừa bước vào phòng và đóng cánh cửa sau lưng. Nó tháo mắt kính ra, để lộ đôi mắt lồi, và nhanh bằng thứ ngôn ngữ như người có thanh quản hoặc lưỡi bị đánh bật.


      Các lờ nó .


      Tiến sĩ John Dee đột ngột thở dài. thả mình vào chiếc ghế bành bằng da có lưng tựa cao và vỗ hai bàn tay nhắn vào với nhau thành tiếng vỗ chói tai. “Mấy thứ tiếng linh tinh như vậy là đủ rồi,” bằng tiếng . “Các có mặt ở đây là vì Scathach. Bây giờ, các có muốn ta hay ?”


      ngồi nơi chiếc dương cầm nhìn chằm chằm vào pháp sư. Nếu để ý thấy đầu ấy hơi vặn theo góc độ mà người thường thể làm được, nhưng phản ứng gì. “Ả ta đâu?” Tiếng của ta hoàn hảo.


      “Gần đây thôi,” Machiavelli vừa vừa chầm chậm quanh phòng.


      Ba hướng chú ý vào , quay đầu dõi theo , như những con cú dõi theo con chuộ


      làm gì?”


      bảo vệ Nhà giả kim Flamel, Saint-Germain và hai con người,” Machiavelli . “Bọn tôi chỉ muốn bọn con người và Flamel. Scathach là của các .” ngưng chút rồi thêm, “Các cũng có thể có thêm Saint-Germain nữa, nếu các muốn. chẳng có ích gì cho chúng tôi cả.”


      “Bóng tối. Chúng tôi muốn Bống tối,” ngồi nơi chiếc đàn dương cầm . Đầu những ngón tay sơn màu chàm di chuyển lướt qua những phím đàn, thanh réo rắt và điệu đẹp.


      Machiavelli cầm chiếc bình cao bằng bạc từ cạnh bàn này sang cạnh bàn kia để rót cà phê. nhìn Dee, nhướng mày và đồng thời giơ chiếc bình lên. Pháp sư lắc đầu. “các nên biết rằng Scathach vẫn rất mạnh,” Machiavelli tiếp tục, giờ với ngồi nơi chiếc dương cầm. Con ngươi trong đôi mắt màu chàm của ta hẹp và nằm ngang. “Sáng hôm qua ta hạ nốc ao đơn vị cảnh sát được huấn luyện cao cấp.”


      “Con người,” Disir gần như nạt lại. “ con người nào chống cự nổi Bóng tối cả.”


      Nhưng chúng tôi phải con người,” đứng ở cửa sổ .


      “Chúng tôi là Disir,” ngồi xéo Dee kết thúc. “Chúng tôi là Trinh nữ bảo vệ, Nữ thần báo tử, Chiến binh của—”


      “Vâng, vâng, vâng,” Dee kiên nhẫn buột miệng. “Chúng tôi biết các là ai rồi: những Valkyrie. Hẳn là những chiến binh vĩ đại nhất mà thế giới từng được biết đến—tùy ý các , thế nào cũng được. Chúng tôi muốn biết các có thể đánh bại Bóng tối hay ?”


      Disir có đôi mắt màu chàm xoay người khỏi chiếc dương cầm và đứng bật dậy. ta ngang nhiên băng qua tấm thảm và đứng trước mặt Dee. Hai chị của bất ngờ xuất bên , và nhiệt độ trong phòng đột ngột rơi tụt xuống.


      “Xúc phạm đến chúng tôi hẳn là sai lầm đó, Tiến sĩ Dee,” .


      Dee thở dài. “Các có thể đánh bại bóng tối đây?” hỏi lại. “Bởi vì nếu các thể, tôi chắc chắn có những người khác cũng sẵn lòng được thử sức.” cầm điện thoại lên. “Tôi có thể gọi cho các nữ chiến binh Amazon, Samurai hay những vị hùng Bogat


      Nhiệt độ trong phòng tiếp tục hạ trong khi Dee , và hơi thở của phà ra thành từng chùm khói trắng trong trung, những tinh thể nước đá như pha lê kết lại chân mày và bộ râu của .


      “Trò bịp này tới đây là đủ rồi!” Dee bật ngón tay tanh tách và luồng điện của lóe sáng ngay tức . Gian phòng ấm dần, rồi nóng lên, nặng mùi trứng thối.


      cần những chiến binh kém cỏi đó đâu. Disir đập tan Bóng tối.” đứng bên phải Dee .


      “Bằng cách nào?” Dee đốp chát.


      “Chúng tôi có những thứ mà các chiến binh khác có.”


      “Các cứ những điều bí khó hiểu quá,” Dee còn kiên nhẫn.


      “Bảo cho ông ta biết ,” Machiavelli


      Disir đôi mắt nhạt nhất quay đầu hướng về rồi quay đầu lại nhìn Dee. Những ngón tay dài huơ huơ gần chạm đến mặt ta. “Ông hủy diệt Yggdrasill và phóng thích ra tạo vật cưng của chúng tôi bị giam cầm rất lâu trong rễ Cây Thế giới.”


      cái gì lung linh trong đầu Dee và khóe thịt nơi miệng vặn vẹo. “Nidhogg?” nhìn Machiavelli. “Ông biết chuyện này?”


      Machiavelli gật đầu . “Tất nhiên.”


      Disir mắt màu chàm bước đến gần Dee và nhìn xuống mặt . “Đúng, ông thả Nidhogg, Kẻ nuốt Tử thi.” Vẫn chồm người về phía Dee, ta quay đầu nhìn Machiavelli. Các chị cũng quay theo hướng đó. “Chỉ cho chúng tôi nơi Scathach và những tên kia núp, rồi để mặc chúng tôi. khi chúng tôi thả Nidhogg, coi như Scathach đến ngày tận số.”


      “Các có thể kiểm soát sinh vật đó ?” Machiavelli tò mò hỏi.


      khi nó nuốt tươi Bóng tối, đầu tiên là ngốn ký ức của ả, rồi đến da thịt và xương, nó cần ngủ. Sau khi chén hết bữa yến tiệc như Scathach, chắc nó phải ngủ đến hai thế kỷ. Chúng tôi nhốt nó ngay sau đó.”


      Niccolo Machiavelli gật đầu. “Chúng ta chưa bàn đến thù lao cho các .”


      Cả ba Disir đều mỉm cười, và ngay cả Machiavelli mà cũng thấy sợ, chùn lại trước vẻ mặt họ. “ thù lao gì hết,” Disir mắt màu chàm . “Chúng tôi làm việc này để phục hồi danh dự của phe tôi và trả thù cho những người ngã xuống trong gia đình chúng tôi.”


      Machiavelli gật đầu. “Tôi hiểu. Khi nào các tấn công?”


      “Rạng sáng.”


      “Tại sao phải là ngay bây giờ?” Dee gặng hỏi.


      “Chúng tôi là những tạo vật của thời điểm tranh tối tranh sáng. Tại những thời khắc rất ngắn giữa đêm và ngày, chúng tôi mạnh hơn lúc nào hết,” .


      “Đó là lúc chúng tôi có đối thủ,” chị tiếp lời.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 25


      “Em nghĩ là em vẫn còn theo giờ ở Mỹ,” Josh .


      “Sao vậy?” Scathach hỏi. Họ đứng trong phòng tập thể dục được trang bị đầy đủ các dụng cụ dưới hầm ngôi nhà của Saint-Germain. bức tường là tấm gương soi, phản chiếu cậu trai ma cà rồng, bao quanh là các dụng cụ thể dục đời mới nhất.


      Josh liếc lên chiếc đồng hồ tường. “Bây giờ là ba giờ sáng. Em mệt lử, nhưng em vẫn còn tỉnh rụi v&i bây giờ ở nhà chỉ mới sáu giờ tối.”


      Scathach gật đầu. “Đó là trong nhiều lý do. lý do khác là vì cậu ở giữa những người như Nicholas và Saint-Germain, và đặc biệt là chị cậu và Joan. Dù năng lượng của cậu vẫn chưa được đánh thức, nhưng cậu ở cùng với những luồng điện mạnh nhất hành tinh. Luồng điện của riêng cậu hấp thu được chút năng lượng của họ, và nó tiếp sinh lực cho cậu. Nhưng nếu cậu thấy mệt, điều đó có nghĩa là cậu nên nghĩ ngơi,” thêm. “Cũng nên uống nhiều nước nữa. Năng lượng của cậu bị đốt cháy thông qua lượng lớn chất lỏng. Cậu phải luôn duy trì quá trình thủy hợp.”


      Cánh cửa mở ra và Joan bước vào phòng tập. Trong khi Scathach ăn vận toàn đồ đen, Joan lại mặc chiếc áo thun tay dài phủ ra ngoài chiếc quần trắng và mang đôi giày đế mềm cũng màu trắng. Tuy nhiên, giống như Scathach, mang thanh kiếm. “Tôi biết có cần phụ giúp gì ,” hỏi, như có cái gì e thẹn.


      “Tôi tưởng ngủ rồi,” Scathach .


      “Mấy ngày nay tôi ngủ được nhiều. Và khi ngủ, những giấc mơ của tôi rắc rối lộn xộn. Tôi cứ thường mơ thấy lửa cháy.” mỉm cười buồn buồn. “Đó phỉ là trớ trêu kỳ lạ đó chứ: tôi lấy Bậc thầy về Lửa, song tôi lại sợ hãi những ấc mơ về lửa.”


      “Francis ở đâu?”


      “Trong phòng làm việc của ấy, làm việc. ấy còn ở trong ấy nhiều giờ nữa. Tôi chắc ấy có ngủ nữa . Bây giờ,” , nhìn Josh và đổi chủ đề, “cậu thấy thế nào?”


      “Em vẫn học cách cầm chắc thanh kiếm này,” Josh lẩm bẩm, nghe có hơi bối rối. Cậu từng xem phim; cậu tưởng cậu hiểu được cách người ta đánh nhau bằng kiếm. Tuy nhiên, cậu bao giờ tưởng tượng nỗi là chỉ mỗi việc cầm nó cho chắc cũng khó khăn lắm rồi. Scathach phải mấy ba mươi phút vừa qua để dạy cậu làm sao để cầm chắc và huơ thanh Clarent mà làm nó rơi. ta được thành công lắm; mỗi lần cậu quay tròn thứ vũ khí này, trọng lượng cứ kéo nó ra khỏi tay cậu. Cái sàn gỗ đánh bằng vec-ni cao cấp bị trầy xước và thủng lỗ chỗ vì lưỡi kiếm va phải. “Nó khó hơn em nghĩ,” cuối cùng cậu thú nhận. “Em bảo đảm là học được.”


      “Scathach có thể dạy cậu cách chiến đấu bằng kiếm mà,” Joan cách cách tin tưởng. “ ấy dạy tôi đó. ấy chọn đứa con nông thôn và biến con bé thành chiến binh.” ta vặn cổ tay, và thanh kiếm của cao gần bằng đến cao người , di chuyển và xoáy trông trung với tiếng rên rĩ như tiếng người. Josh cố sao chép lại hành động này và thanh Clarent quay tròn vượt khỏi cánh tay cậu. Nó cắm sâu cái đầu nhọn xuống sàn, làm nứt gỗ, và rung rinh lắc lại.


      “Xin lỗi,” Josh làu bàu.


      “Quên hết mọi thứ mà em tưởng là mình biết về trò đánh kiếm ,” Scathach . liếc nhìn qua Joan. “Cậu ta xem tivi quá nhiều. Cậu ấy nghĩ mình có thể xoay thanh kiếm thành vòng tròn như cây gậy của hoạt náo viên sân bóng.”


      Joan cười toe toét. khéo léo vụt thanh kiếm dài của mình và đưa nó cho cậu, ngay nơi cái chuôi. “Cầm lấy.”


      Josh giơ bàn tay phải vươn tới thanh kiếm.


      “Cậu phải nghĩ đến việc sử dụng cả hai tay,” người Pháp gợi ý.


      Josh lờ . Vòng những ngón tay quanh cán kiếm của Joan, cậu cố nhấc nó ra khỏi kiềm chặt của Joan. Nhưng cậu thua. Nó nặng lạ lùng.


      “Cậu có thể thấy tại sao chúng ta cứ đứng ở phần căn bản này hoài,” Scatty . kéo giật thanh kiếm khỏi bàn tay ghì chặt của Josh và quăng nó cho Joan, bắt lấy dễ dàng.


      “Hãy bắt đầu với việc làm sao được thanh kiếm.” Joan đứng vào chỗ bên phải Josh, trong khi Scathach đứng bên trái. “Nhìn thẳng phía trước.”


      Josh nhìn vào gương. Trong khi có thể nhìn thấy cậu và Scathach trong gương lại có làn sương mờ mờ bạc bao quanh Joan Arc. Cậu nhấp nháy, dụi mắt, nhưng khi mở mắt ra lại, làn sương vẫn ở đó.


      “Đó là luồng điện của tôi,” Joan giải thích, đoán trước được câu hỏi ngay khi cậu chưa kịp hỏi, “nhưng thỉnh thoảng nó bất ngờ lên hình và qua gương.”


      “Và luồng điện của chị giống của Sophie,” Josh .


      Joan Arc lắc đầu. “Ồ , giống như của chị cậu đâu,” , làm cậu ngạc nhiên. “Của ấy mạnh hơn nhiều.”


      Joan nâng thanh kiếm dài lên, quay trong tay cho đến khi mũi kiếm nằm giữa hai bàn chân của và cả hai tay đặt núm tròn của chuôi kiếm. “Bây giờ, cứ làm như chúng tôi làm… và làm từ từ thôi.” xòe rộng bàn tay phải ra, nắm lấy lưỡi kiếm dài chắc. Bên trái Josh, Bóng tối duỗi thẳng hai cánh tay, giữ thanh kiếm ngắn của thẳng đứng ngay trước mặt.


      Josh vòng mấy ngón tay quanh chuôi kiếm đá và giở cánh tay phải lên. Ngay khi chưa duỗi hết tay ra, cậu bắt đầu rung r vì sức nặng của lưỡi kiếm. Nghiến răng, cậu cố giữ cánh tay mình đứng yên. “Quá nặng,” cậu thở hổn hển khi thả tay xuống và xoay xoay bả vai; cơ vai của cậu nóng lên. Cảm thấy giống như ngày đầu tiên tập luyện bóng đá sau kỳ nghỉ hè.


      “Cố làm vậy đó. Quan sát tôi nè.” Joan chỉ cậu cách làm thế nào kiềm chặt tay kiếm bằng cả hai bàn tay.


      Dùng cả hai tay, cậu thấy giữ thanh kiếm thẳng đứng dễ hơn. Cậu thử lại, lần này cầm bằng tay. Hết khoảng ba mươi giây thứ vũ khí này vẫn đứng yên; rồi mũi kiếm bắt đầu rung lên. Thở hắt ra, Josh hạ cánh tay cậu xuống. “ thể làm tay,” Cậu làu bàu.


      đến lúc thôi,” Scathach vọt miệng, hết kiên nhẫn nổi. “Nhưng trong lúc này, tôi dạy cậu làm thế nào để sử dụng hai tay, đúng kiểu phương Đông.”


      Josh gật đầu. “Có vẻ dễ hơn.” Cậu mất nhiều năm học taekwondo, và luôn muốn học kendo, thuật đánh kiếm Nhật Bản, nhưng cha mẹ cậu từ chối, rằng nó quá nguy hiểm.


      “Tất cả những gì cậu cần là tập luyện,” Joan nghiêm túc, nhìn vào Scathach phản chiếu trong gương, đôi mắt xám rực sáng và lấp lánh.


      “Phải tập luyện bao nhiêu nữa?” Josh


      “Ít nhất là ba năm.”


      “Ba năm?” Hít hơi sâu, cậu chùi bàn tay rồi đến bàn tay kia vào ống quần và giữ chặt chuôi kiếm lần nữa. Rồi cậu nhìn mình trong gương và duỗi thẳng cả hai cánh tay. “Em hi vọng Sophie làm giỏi hơn em,” cậu lầm bầm.


      Comte de Saint-Germain đưa Sophie lên mảnh vườn xíu mái nhà. Phong cảnh Paris ngoạn mục, dựa vào lan can nhìn xuống Champs-Elysees. Xe cộ mờ nhạt và cuối cùng còn hơn dòng chảy giọt thưa thớt, và thành phố yên tỉnh và lặng lẽ. hít sâu; bầu khí mát lạnh và ẩm thấp, mùi chua thoang thoảng của dòng sông quyện lẫn mùi hương của cây cỏ đến từ hàng chục cái bình cây lá mọc tràn và những cái chậu kiểu cọ đặt chỗ này chỗ kia khắp mái nhà. Sophie vòng tay ôm lấy thân người, chà xát mạnh vào khuỷu tay và rung mình.


      “Lạnh hả?” Saint- Germain.


      chút thôi ạ,” , mặc dù là mình lạnh hay hồi hộp. biết Saint-Germain đưa lên đây để dạy cho Pháp thuật Lửa.


      “Sau đêm nay, bao giờ cảm thấy lạnh nữa,” Saint-Germain hứa. “ có thể bộ qua lục địa Nam Cực chỉ với quần sọoc và áo thun mà vẫn cảm thấy gì.” Vuốt mái tóc dài hỏi trán, ông bứt chiếc lá cái bình và cuộn nó giữa hai lòng bàn tay, rồi chà mạnh. Mùi hương bạc hà khô lạnh tràn ngập trong khí. “Joan thích nấu ăn. ấy trồng tất cả các loại thảo mộc của ấy ở đây,” ông giải thích, hít sâu vào. “Có cả chục loại bạc hà, kinh giới dại, cỏ xạ hương và hung quế khác nhau. Và tất nhiên cả oải hương nữa. ấy rất thích hoa oải hương; nó nhắc ấy nhớ thời tuổi trẻ của mình.”


      “Ông gặp Joan ở đâu ạ? Ở đây ngay tại nước Pháp này hở?”


      “Rốt cuộc tôi gặp lại ấy ở đây, nhưng tin hay là tùy nhé, lần đầu tiên tôi gặp ấy là ở California. Đó là năm 1849; tôi tạo ra vàng và Joan làm việc như nhà truyền giáo, phân phát cháo gà và đưa vào bệnh viện những người vắt kiệt sức tìm vàng.”


      Sophie cau mày. “Ông cũng kiếm vàng suốt thời Cơn sốt vàng à? Tại sao?”


      Saint-Germain nhún vai và trông ông hơi bối rối. “Chỉ là giống mọi người khác ở Mỹ những năm 48 và 49, tôi cũng đổ về miền tây tìm vàng.”


      “Tôi tưởng ông có thể làm ra vàng. Nicholas chú ấy có thể làm chuyện đó.”


      Tạo ra vàng là quá trình dài và khó nhọc. Tôi nghĩ đào nó lên từ lòng đất dễ dàng hơn nhiều. Và khi nhà giả kim tìm được chút vàng, ta có thể sử dụng nó để nhân lên nhiều hơn. Đó là những gì tôi cho mình làm. Nhưng mảnh đất tôi mua hóa ra nó vô dụng. Vì thế tôi bắt đầu chôn xuống miếng đất ít vàng và rồi bán lại cho những người mới đến.”


      “Nhưng đó là việc làm sai trái,” Sophie , đầy sửng sốt.


      “Hồi đó tôi còn quá trẻ,” Saint-Germain , “Và đói. Nhưng thể bào chữa cho chuyện đó,” ông thêm vào. “Dù sao nữa, Joan vẫn làm việc ở Sacramento, và ấy vẫn thường gặp những người mua lại mảnh đất vô dụng của tôi. ấy nghĩ tôi là tên bịp bợm—mà đúng tôi là như vậy —còn tôi lại coi ấy là trong những nhà cải cách đầy lý tưởng hết sức rầy rà. ai trong chúng tôi biết là người kia bất tử, tất nhiên rồi. Chúng tôi ghét nhau ra mặt. Chúng tôi cứ va đụng nhau qua nhiều năm, và rồi, trong Cuộc Chiến tranh Thế giới Thứ hai, chúng tôi lại gặp nhau, ở tại Paris này. ấy chiến đấu cho phong trào kháng chiến còn tôi làm gián điệp cho Mỹ. Đó là lúc chúng tôi nhận ra chúng tôi có cái gì đó rất khác. Chúng tôi sống sót qua cuộc chiến tranh, và chúng tôi hề xa cách nhau kể từ đó, nhưng Joan giữ những thông tin rất kín đáo. blog hâm mộ hoặc tạp chí tầm phào nào biết được chúng tôi cưới nhau. Chắc chúng tôi có thể bán vài tấm ả với giá cả gia tài, nhưng Joan lại thích hé lộ thông tin ở mức độ vô cùng khiêm tốn.”


      “Tại sao?” Sophie biết rằng những người nổi tiếng đánh giá rất cao riêng tư của họ, nhưng giữ hoàn toàn cho ai nhìn thấy dường như quá kỳ lạ.


      “Vâng… phải nhớ rằng lần ấy nổi tiếng gần đây nhất là lúc người ta đòi thiêu ấy cọc.”


      Sophie gật đầu. Thình lình, việc giữ cho người ta nhìn thấy nghe ra hoàn toàn có lý. “Ông biết Scathach bao lâu rồi?” hỏi.


      “Nhiều thế kỷ. Khi tôi và Joan biết nhau, chúng tôi khám phá ra rằng chúng tôi quen biết nhiều người có cùng điểm chung. Tất cả đều bất tử, tất nhiên. Joan quen biết Scathach trước tô khá lâu. Dù tôi là có ai khác biết về Bóng tối hay ,” ông thêm và cười gượng gạo. “ ấy dường như luôn quá…” Ông dừng lại chút, cố tìm từ thích hợp.


      đơn?” gợi ý.


      “Đúng. đơn.” Ông nhìn ra khắp thành phố và lắc đầu buồn bã rồi ngoái lại nhìn Sophie. “ có biết ấy thường đơn độc chống cự với các Elder Đen tối , có biết bao nhiêu lần ấy tự đ mình vào hiểm nguy khủng khiếp để giữ cho thế giới này an toàn khỏi bọn họ ?”


      Ngay cả khi Sophie bắt đầu lắc đầu chuỗi hình ảnh lóe lên xuyên qua tâm thức , những mảnh vỡ từ ký ức của Bà Phù thủy.


      Scathach, mặc áo giáp da kết bằng vòng kim loại, đứng lẻ loi cây cầu, hai thanh kiếm sáng chói trong tay, chờ những con quỷ có hình thù như con sên khổng lồ tụ tập ở đầu cầu bên kia.


      Scathach mặc áo giáp toàn thân, đứng trong cánh cửa của tòa lâu đài vĩ đại, cánh tay khoanh trước ngực, những thanh kiếm cắm xuống đất ngay chân . Đối diện với đoàn quân gồm những sinh vật trông như những con thằn lằn to khủng hoảng.


      Scathach, trang phục bằng da chó biển và lông thú, đứng thăng bằng tảng băng nổi biến dạng thành những sinh vật vây quanh trông như thể chúng được tạc vào băng.


      Sophie liếm môi. “Tại sao … tại sao chị ấy lại làm như vậy?”


      “Bởi vì đó chính là con người ấy. Đó chính là những gì làm nên ấy.” Ông bá tước nhìn và mỉm cười buồn hiu. “Và bởi vì đó là tất cả những gì ấy biết làm. Bây giờ,” ông mạnh mẽ, lại chà sát hai bàn tay vào nhau, tàn lửa và bụi tro vặn thành hình xoắn ốc bốc lên và tan vào bầu khí đêm. “Nicholas muốn học Pháp thuật Lửa. hồi hộp” ông hỏi.


      chút ạ. Ông từng dạy ai khác chưa?” Sophie ngập ngừng hỏi.


      Saint-Germain cười toe, lộ cả hàm răng cái ra cái vào. “Chưa ai. là học trò đầu tiên của tôi… và chắc cũng là người cuối cùng.”


      cảm thấy dạ dày như muốn lộn ngược, và bất chợt điều này dường như còn là ý hay nữa. “Sao ông vậy?”


      “Ừ, cơ hội đến với người được Đánh thức năng lực ma thuật rất mong manh, trong số ít đó mà tìm thấy được ai có luồng điện thuần khiết như của , gần như là điều thể. Luồng điện bạc cực kỳ hiếm. Joan là người cuối cùng có nó, mà ấy sinh năm 1412. Quả là rất đặc biệt, Sophie Newman.”


      Sophie nuốt nước bọt cách khó khăn; có cảm giác gì là rất đặc biệt cả.


      Saint-Germain ngồi xuống cáo ghế dài đơn sơ đặt dựa vào lườn ống khói. “Ngồi xuống cạnh tôi đây, và tôi chỉ cho những gì tôi biết.”


      Sophie ngôi xuống bên cạnh Comte de Saint-Germain và ngang qua mái nhà, nhìn ra khắp thành phố. Ký ức phải của thoáng qua bên lề tâm thức, mở ra thành phố với con đường chân trời khác, thành phố với những tòa nhà chúm tụm quanh phđài đồ sộ, hàng ngàn vệt khói bốc lên vào màn đêm. chủ tâm tránh xa khỏi những ý nghĩ này, nhận ra rằng mình nhìn thấy Paris như thể Bà Phù thủy nhớ về nó, đâu đó trong quá khứ xa xăm.


      Saint-Germain quay người nhìn vào . “Đưa tay đây,” ông dịu dàng. Sophie đặt bàn tay phải vào lòng bàn tay ông, và ngay lập tức cảm giác ấm chạy khắp người , quét sạch mọi lạnh lẽo. “Để tôi cho nghe về ông thầy của tôi dạy tôi những gì về lửa.” Vừa , ông bá tước vừa di ngón trỏ nóng rực của ông khắp lòng bàn tay , những đường kẻ và gò nổi trong tay, lần theo những đường chỉ da. “Ông thầy tôi bảo rằng có những người rằng Pháp thuật Khí hoặc Pháp thuật Nước hoặc thậm chí cả Pháp thuật Đất là những thứ mạnh nhất. Họ lầm. Pháp thuật Lửa vượt xa những ma thuật khác.”


      Khi ông , khí ngay trước họ bắt đầu nóng rực, rồi lờ mờ tỏa sáng. Cứ như thể có làn sương mù kết từ hơi nóng, Sophie chăm chú nhìn khói xoắn vặn và nhảy múa theo từng lời của ngài bá tước, tạo thành những hình tượng, ký hiệu, những bức vẽ. muốn với tay chạm vào chúng, nhưng vẫn bất động. Rồi mái nhà nhòa và Paris biến mất; thanh duy nhất có thể nghe là tiếng liên tục khẽ khàng của Saint-Germain, và tất cả những gì có thể nhìn thấy là tro bụi cháy. Nhưng khi ông , các hình tượng bắt đầu hình thành trong lửa.


      “Lửa thiêu rụi khacute;. Nó có thể nung nóng nước thành sương mù và có thể tách mở mặt đất.”


      nhìn chăm chú vào ngọn lửa phun nham thạch lên trung. Dung nham màu đỏ bầm và tro bụi bị nung trắng tuôn xối xả xuống thành phố đầy bùn và đá.


      “Lửa phả hủy, nhưng nó cũng kiến tạo. khu rừng cần có lửa để phát triển. số loại hạt giống nhất định phụ thuộc vào nó để nảy mầm.”


      Những ngọn lửa xoắn như những chiếc lá và Sophie nhìn thấy khoảng rừng bị cháy đen và hoang tàn, những thân cây đầy sẹo là bằng chứng của đợt cháy khủng khiếp. Nhưng ngay dưới gốc cây, những mầm non màu xanh lục tươi roi rói đâm xuyên qua đám tro tàn, vươn mình lên..


      “Nhiều thời kỳ trong quá khứ, lửa sưởi ấm con người, cho phép họ sông nổi trong những vùng khí hậu khắc nghiệt.”


      Ánh lửa hé lộ phong cảnh tiêu điều, lổn nhổn đá và tuyết bao phủ trắng xóa, nhưng có thể nhìn thấy những vách đá đầy những hang động rải rác lấm chấm sáng bừng lên trong những ngọn lửa màu đỏ vàng ấm áp.


      vết nứt đột ngột và ngón tay lửa ốm tong teo như cây bút chì vụt phóng vào bầu trời đêm. ngóng cao cổ, dõi theo nó lên, lên nữa, lên cho đến khi biến mất trong số những vì sao.


      “Đây là Pháp thuật Lửa.


      Sophie gật đầu. Da ngứa râm ran và nhìn xuống, thấy những ngón tay lửa màu xanh chuối tí xíu lăn quăn rời khỏi các ngón tay của Saint-Germain. Chúng lập lòe băng ngang qua da , cuộn quanh cổ tay , mềm như long và mát rượi, để lại những vết đen đen rất nhạt da thịt. “Tôi biết lửa quan trọng như thế nào. Mẹ tôi là nhà khảo cổ học,” mơ màng. “Có lần mẹ tôi bảo tôi rằng mãi đến khi con người bắt đầu nấu được món thịt cho mình từ đó ta mới có thể lên đường tìm kiếm văn minh.”


      nụ cười bừng sáng gương mặt của Saint-Germain. “ phải cám ơn Prometheus và Bà Phù thủy vì việc đó. Họ mang lửa đến cho loài người nguyên thủy đầu tiên. Việc nấu nướng làm cho loài người dễ tiêu hóa lượng thịt mà họ săn bắn được, cho phép họ hấp thu chất dinh dưỡng dễ dàng hơn. Nó giữ họ ấm áp và an toàn trong những hang động của họ, và Prometheus cũng chỉ cho họ cách sử dụng chính ngọn lửa đó để làm các công cụ và vũ khí của họ trở nên cứng rắn hơn.”


      Ông bá tước nắm chặt cổ tay Sophie trong bàn tay ông, giữ nó như thể ông bắt mạnh cho . “Lửa lèo lái mọi nền văn minh lớn, từ thế giới cổ đại tiến thẳng đến ngày hôm nay. có sức nóng mặt trời, hành tinh này là gì cả ngoài đá tảng và băng hà.”


      Khi ông , những hình ảnh lần nữa lại vỡ ra thành thực trước mắt Sophie, hình t từ những làn khói cuốn từ hai bàn tay ông. Chúng lơ lửng uốn lượn trong bầu khí yên tĩnh.


      hành tinh màu nâu xám quay trong gian, vầng trăng lẻ loi xoay tròn quanh nó. chút gợn mây trắng, màu nước xanh lơ, bóng dáng lục địa màu xanh lục hay sa mạc vàng ánh kim. Chỉ toàn màu xám. Và những đường viền yếu ớt của khối đất cắt sâu vào đá cứng. Bất ngờ Sophie nhận ra rằng nhìn trái đất, có lẻ ở đâu đó xa, xa trong tương lai. thở hổn hển vì bàng hoàng và hơi thở của xua làn khói tan , mang theo hình ảnh đó.


      “Pháp thuật Lửa mạnh nhất dưới ánh mặt trời.” Saint-Germain cử động bàn tay trái của ông và lấy ngón trỏ lần theo ký hiệu. Treo lơ lửng trong khí là vòng tròn với những bông hoa oải hương chĩa ra như pháo hoa mặt trời. Ông bá tước thổi phù hơi và nó tan thành những ánh li ti lấp lánh. “ có lửa, chúng ta chẳng có gì hết.”


      Bàn tay trái của Saint-Germain bây giờ hoàn toàn bọc trong lửa, nhưng ông vẫn nắm chắc cổ tay Sophie. Những dải lửa màu trắng đỏ cuộn quanh những ngón tay của và đọng thành vũng trong lòng bàn tay . Mỗi ngón tay cháy bùng lên như cây nến cỡ —đỏ, vàng, xanh lục, xanh lơ và trắng—song cảm thấy đau đớn mà cũng chẳng thấy sợ hãi.


      “Lửa có thể chửa lành; nó có thể làm liền vết thương, có thể xua tan bệnh tật,” Saint-Germain tiếp. Bụi tro vàng óng của lửa bùng cháy trong đôi mắt màu xanh nhạt của ông“Nó như những phép thuật khác, bởi vì chỉ có mình nó mới kết nối trực tiếp được với thuần khiết và mạnh mẽ trong luồng điện của . Hầu như bất cứ ai cũng có thể học những phần căn bản của Pháp thuật Đất, Pháp thuật Khí hoặc Pháp thuật Nước. Những câu thần chú và bùa phép có thể được ghi nhớ và viết trong những cuốn sách, nhưng sức mạnh để làm bùng cháy lên ngọn lửa lại đến tận trong tâm hồn. Luồng điện càng thuần khiết, ngọn lửa càng mạnh mẽ, và điều đó có nghĩa là, Sophie, phải rất cẩn thận, bởi vì luồng điện của quá tinh khiết. Khi tung ra Pháp thuật Lửa, nó có uy lực thể tưởng tượng. Flamel cảnh báo với được lạm dụng năng lượng của mình chưa, kẻo sợ rằng bốc cháy thành lửa?”


      “Scatty bảo tôi chuyện gì có thể xảy ra,” Sophie .


      Saint-Germain gật đầu. “Đừng bao giờ tạo ra lửa khi mệt hoặc yếu trong người. Nếu mất kiểm soát yếu tố này, nó quay lại táp và đốt thành lát khoai tây chiên chỉ trong tích tắc.”


      Giờ quả banh lửa cứng cáp cháy đều đều trong bàn tay phải của Sophie. ý thức rằng bàn tay trái của mình ngứa râm ran và vội nhấc tay ra khỏi chiếc ghế dài. Dấu hằn đen hình bàn tay ràng ăn vào mặt gỗ hãy còn bốc khói. Rồi tiếng nổ bốp đùng đục vang lên, vũng màu xanh lơ trong tay trái và mỗi ngón tay đều phát ra ánh lửa sáng trưng.


      “ mình có cảm giác gì?” Sophie kinh ngạc thốt lên.


      được luồng điện của mình bảo vệ,” Saint-Germain giải thích. “ có thể định hình lửa, cùng cách như Joan chỉ cho làm sao để định hình luồng điện của mình thành những vật bằng bạc vậy. còn có thể tạo ra những quả cầu, giáo mác bằng lửa.” Ông bật tanh tách những ngón tay và vòng dày đặc những tàn lửa nhảy vọt ra rơi lả tả xuống mái nhà. Rồi ông lấy ngón trỏ chỉ thẳng vào và ngọn lửa nho có hình mác lởm chởm lao về phía tàn lửa gần nhất, đập vào nó cú chính xác. “Khi hoàn toàn kiểm soát được năng lượng của mình, có thể gọi Pháp thuật Lửa theo ý muốn, nhưng từ đây đến đó cần cái mồi lửa.”


      cái mồi lửa?”


      “Bình thường phải mất nhiều giờ trầm tư mặc tưởng để tập trung luồng điện vào điểm nào mà đó có thể làm nó bốc cháy. Nhưng từ hồi rất xa xưa, người ta khám phá ra cách tạo ra mồi lửa. con đường tắt. từng thấy mấy con bướm của tôi chưa?”


      Sophie gật đầu, nhớ lại hàng chục hình xăm con bướm xíu bao quanh cổ tay ông bá tước và cuộn lên tới cánh tay ông.


      “Chúng là mồi lửa của tôi.” Saint-Germain nhấc hai tay lên. “Và bây giờ có những cái của riêng .”


      Sophie nhìn xuống tay mình. Lửa biến mất hết để lại những vệt mồ hống đen mịn gò bàn tay và quanh cổ tay. cọ hai tay vào với nhau, nhưng chỉ giũ được những vết bụi bẩn.


      “Cho phép tôi.” Saint-Germain xách đến bình nước và lắc nó lên. Chất lỏng chòng chành bên trong. “Xòe tay ra.” Ông rót nước đầy lòng bàn tay —nước kêu xèo xèo khi chạm vào da thịt—rửa sạch những vệt đen. Ông bá tước rút từ trong túi sau ra chiếc khăn tay mà trắng tinh tươm, nhúng vào bình nước và cẩn thận lau sạch phần mồ hóng còn lại. Nhưng quanh cổ tay bên phải, nơi Saint-Germain cầm vào, mồ hóng chịu sạch . dải băng màu đen dày bám quanh cổ tay như chiếc vòng.


      Saint-Germain bật những ngón tay tanh tách rồi ngón trỏ và ngón út sáng lên. Ông mang ánh sáng gần đến bàn tay Sophie.


      nhìn xuống khám phá ra rằng hình xăm được khắc vào da .


      Im lặng nhấc cánh tay lên, vặn cổ tay mình để kiểm tra dải băng trang trí quấn quanh. Hai sợi dây, vàng và bạc, tết lại rồi xoắn vào nhau tạo thành mớ rối beng, trông gần giống những mẫu hoa văn của người Celt. Ở mặt dưới cổ tay, nơi Saint-Germain ấn ngón tay cái của ông vào, là vòng tròn hoàn hảo màu vàng với cái chấm đỏ ngay ở giữa.


      “Khi nào muốn mồi lửa cho Pháp thuật Lửa, hãy ấn ngón tay cái vào vòng tròn và tập trung luồng điện của mình,” Saint-Germain hướng dẫn. “Việc đó làm lửa sống dậy ngay lập tức.”


      “Vậy là xong?” Sophie hỏi, giọng hơi ngạc nhiên. “Tất cả chỉ có vậy?”


      Saint-Germain gật đầu. “Vậy là xong. Sao vậy, còn mong đợi điều gì nữa à?”


      Sophie lắc đầu. “Tôi biết, nhưng khi Bà Phù thủy Endor dạy tôi Pháp thuật khí, bà quấn tôi trong những dải băng như xác ướp.”


      Saint-Germain cười thẹn. “Đúng, tôi phải là Bà Phù thủy Endor, tất nhiên. Joan với tôi là Bà Phù thủy thấm đẫm bằng những ký ức và kiến thức của bà. Tôi hình dung được tại sao bà ấy lại làm như vậy; dứt khoát điều đó chẳng cần thiết gì cả. Nhưng cũng loại trừ là bà phải có lý do riêng. Hơn nữa, tôi biết cách làm như vậy—và tôi đoán chắc là muốn biết tất cả những ý nghĩ và ký ức của tôi đâu,” ông cười toe và thêm. “ số chẳng hay ho gì cho lắm.”


      Sophie mỉm cười. “Tôi được khai thông rồi— lô ký ức khác nữa phải là vấn đề lớn.” Giở tay lên, ấn vào vòng òn cổ tay và ngón tay út của bóc khói; rồi móng tay nóng rực màu da cam xỉn đục trong chốc lát trước khi bừng sáng thành ngọn lửa mỏng manh, chập chờn. “Làm sao ông biết được mình phải làm gì?”


      “Ừ, đầu tiên và hết thảy tôi là nhà giả kim. Hôm nay tôi đề nghị gọi tôi là nhà khoa học. Khi Nicholas bảo tôi huấn luyện về Pháp thuật Lửa, tôi hình dung được mình phải làm cách nào, vì vậy tôi chỉ tiếp cận việc này như bất kỳ thử nghiệm nào khác.”


      thử nghiệm?” Sophie chớp mắt. “Hẳn có sai sót gì đó?”


      “Nguy hiểm chỉ đơn giản là nó hoạt động.”


      “Cảm ơn ông,” cuối cùng , rồi toét miệng cười. “Tôi mong rằng quá trình này mang lại nhiều ấn tượng sâu sắc hơn. lòng tôi rất mừng khi thấy nó quá”— dừng lại chút, tìm từ thích hợp—”bình thường.”


      “Ồ, có lẽ bình thường lắm đâu. Đâu phải ngày nào cũng được học cách điều khiển lửa. Còn những việc phi thường thế nào?” Saint- Germain gợi ý.Dạ, chắc cũng vậy thôi.”


      “Vậy là xong. Ồ, có những thủ thuật tôi có thể—và —dạy . Ngày mai, tôi chỉ cách tạo ra những khối cầu, hình xuyến và vòng lửa. Nhưng khi có mồi lửa rồi, có thể gọi lửa ra bất cứ lúc nào.”


      “Nhưng tôi có cần gì đó ?” Sophie hỏi. “Tôi có cần đọc mấy từ gì ?”


      “Như từ gì?”


      “À, khi ông thắp sáng Tháp Eiffel, ông từ gì đó nghe như eggness.”


      “Ignis,” ông bá tước . “lửa, tiếng Latin. , cần gì cả.”


      “Vậy tại sao ông lại ?”


      Saint-Germain cười toe. “Chỉ vì tôi nghĩ nó nghe hay hay.”






      CHƯƠNG 26


      Perenelle Flamel bối rối.


      Bò dọc theo những hành lang được rọi bằng thứ ánh sáng nhờ nh khám phá ra rằng tất cả các xà lim ở bên dưới khối nhà tù đảo này đều đầy những sinh vật đến từ những bờ rìa tăm tối của huyền thoại. Nữ Phù thủy từng chạm trán với hơn chục giống ma cà rồng khác nhau và đủ loại quái thú, cũng như ma xó, khổng lồ dã tâm và tinh. xà lim giam giữ ai cả ngoài đứa bé nhân ngư ngủ, trong khi ở xà lim đối diện, hai con Windigo ăn thịt người nằm mê man bên cạnh bộ ba quỷ Oni. Nguyên hành lang xa lim tràn ngập toàn loài họ rồng, rồng bay và rồng phun lửa.


      Perenelle nghĩ chúng là những tên tù— xà lim nào bị khóa—song tất cả bọn chúng đều ngủ, và được an toàn đằng sau những mạng nhện bằng bạc lấp lóa. Thậm chí, bà là các sinh vật bị giữ để làm tù binh hay được giữ để chúng tách riêng nhau ra. sinh vật nào bà tìm thấy có mối liên hệ chiến hữu với nhau. Bà ngang qua xà lim có mạng nhện giăng trong những miếng giẻ rách tả tơi. Xà lim này trống rỗng, nhưng mạng và sàn đầy kín những xương, trong đó thậm chí cái nào giống con người.


      Có những sinh vật đến từ cả hơn chục miền đất thấm đẫm truyền thuyết thần thoại. số—như Windigo—bà chỉ mới nghe đến, nhưng ít ra chúng là cư dân của địa lục châu Mỹ. Còn những sinh vật khác, theo chỗ bà biết, bao giờ đến tận Tân Thế giới mà thường chỉ ở quê nhà chúng hoặc trong các Vương quốc Bóng tối tiếp giáp với vùng đất đó là nơi an toàn và bảo đảm. Oni của người Nhật nên cùng chung sống bên cạnh các con rồng biển của người Celt.


      Ở đây có cái gì đó sai lầm kinh khủng.>Perenelle đánh vòng góc tường và cảm thấy con gió làm gợn tóc bà. Bà day mặt về phía đó, cánh mũi nở ra, ngửi thấy mùi muối và tảo biển. Liếc nhanh đằng sau, bà vội vã lao xuống hanh lang.


      Dee phải tập hợp các sinh vật này, phải quy tụ chúng lại với nhau, nhưng tại sao? Và quan trọng hơn, bằng cách nào? Bắt vetala đơn lẻ thôi là chuyện chưa từng nghe, vậy mà có đến hơn cả chục? Và làm thế nào lấy được quỷ đầu bò con khỏi mẹ nó được? Ngay cả Scathach, biết sợ hãi và liều mạng như ấy, mà còn bao giờ đương đầu với những giống đầu bò đó nếu như có thể tránh được.


      Perenelle như bay lên các bậc thang. Bây giờ mùi khí pha lẫn muối nồng hơn, gió mát hơn, nhưng bà chần chừ trước khi đặt chân xuống và cúi gập người để kiểm tra cầu thang xem có những sợ tơ bằng bạc . có. Bà vẫn phát ra cái gì chăng những tấm mạng như kết hoa ở các xà lim bên dưới, và giả sử như sinh vật đó ngủ… có nghĩa là sớm hay muộn chúng thức dậy. Khi chúng dậy, toàn bộ nhà tù này nhung nhúc những con nhện—hoặc có thể tệ hại hơn—và bà muốn lộ thân mình khi việc đó xảy ra.


      chút năng lượng của bà trở lại—chắc chắn đủ để bà tự bảo vệ, mặc dù ngay thời điểm bà sử dụng phép thuật của mình, bà thu hút con nhân sư đến với bà, đồng thời làm bà yếu và già . Perenelle biết bà chỉ có cơ hội để đương đầu với sinh vật đó, và bà muốn—cần—càng mạnh mẽ càng tốt để chuẩn bị cho cuộc chạm trán này. Lao lên những bậc thang kim loại kêu cót két, bà ngừng lại nơi cánh cửa bị gỉ sét ăn mòn. Hất tóc ra sau lưng, bà áp tai vào tấm kim loại mục ruỗng. Tất cả những gì bà có thể nghe được là tiếng đập đều đều của biển như thể nó tiếp tục ăn hết hòn đảo này. Cầm chặt nắm cửa bằng cả hai tay, bà nhàng gạt xuống và đẩy cánh cửa mở ra, nghiến răng khi những chiếc bản lề cũ kỹ kêu cọt kẹt và rít lên, thanh vang rền xuyên qua mấy dãy hành lang.


      Perenelle bước ra khoảng sân rộng vay quanh bởi những tòa nhà đổ nát và bừa bải. Phía bên phải mặt trời chìm xuống hướng tây, và nhuộm những tảng đá bằng ánh sáng màu da cam ấm áp. Với tiếng thở ra khoan khoái, bà giang rộng cánh tay, quay mặt về phía mặt trời, ngửa đầu ra sau và nhắm mắt lại. Khi luồng điện bất thình lình được nạp lại, tĩnh điện nổ lốp đốp và chạy dọc theo chiều dài mái tóc đen nhánh, tung nó lên khỏi vai bà. Gió lùa vào gần vịnh nên rất mát, và bà hít thở sâu, tống sạch khỏi buồng phổi những mùi hôi thối của những thứ thối rữa, nấm mốc và các thứ quái vật bên dưới lòng đất.


      Và rồi bất ngờ bà nhận ra rằng tất cả mọi sinh vật trong các xà lim đều có điểm chung: chúng đều là quỷ dữ.


      Đâu rồi những sinh vật siêu tự nhiên có phần cao quý hơn, những tinh và kẻ báo điểm gở, nữ rừng thẳm huldra và nàng tiên cá rusalka, những người bé tí hon và thần lương thực inari? Dee chỉ tụ họp những kẻ săn mồi, những con dã thú: lão Pháp sư tập hợp đội quân quỷ sứ.


      tiếng rú hoang dã làm rung chuyển khắp hòn đảo, làm rung từng phiến đá dưới chân bà. “Nữ Phù thủy!>”


      Con nhân sư phát ra Perenelle mất tích.


      “Bà ở đâu, Nữ Phù thủy?” khí biển trong lành bất chợt nhiễm mùi hôi thối của con nhân sư.


      Perenelle quay lại đóng cánh cửa bà bắt gặp chuyển động trong vùng bóng tối bên dưới. Bà nhìn vào mặt trời quá lâu, và những trái banh màu vàng ánh kim để lại những du ảnh trong vỏng mạc. Bà nhắm chặt mắt lại lúc; rồi mở ra lại để nhìn kỹ vào vùng u ám.


      Những bóng tối chuyển động, xòa xuống các bức tường, tụ lại ở đáy bậc thang.


      Perenelle lắc đầu. có bóng tối nào cả. Đây là khối các sinh vật, hàng ngàn, hàng vạn. Chúng dâng lên cầu thang, chỉ chậm lại khi tiến đến gần ánh sáng.


      Lúc đó Perenelle mới vỡ lẽ chúng là gì—nhện, chết người và đầy nọc độc—và giờ mới biết tại sao những cái mạng lại khác lạ như vậy. Bà thoáng thấy khối sôi ùng ục toàn những con nhện sói và những con nhện lông lá khổng lồ ở vùng nhiệt đới, những con nhện màu đen mang tên bà góa và những con nhện màu nâu mang tên người dật, những con nhện vườn và những cái mạng hình phễu. Bà biết chúng nên tồn tại cung nhau… như vậy nghĩa là có cái gì đó gọi chúng, và bây giờ kiểm soát chúng, cái đó vẫn còn núp bên dưới kia.


      Nữ Phù thủy dập mạnh cho cánh cửa kim loại đóng sập lại và lèn chặt tảng khối xây vào chân cửa. Rồi người và chạy. Nhưng chỉ mới được hơn chục bước cánh cửa bị bong bản lề dưới sức nặng của những con nhện kết thành khối.






      CHƯƠNG 27


      Josh mệt phờ đẩy cánh cửa dẫn vào bếp mở ra rồi bước vào căn phòng thấp và dài. Sophie quay đầu khỏi bồn rửa chén và nhìn chăm chú cậu em trai ngồi sụp xuống ghế, thả thanh kiếm xuống sàn, buông lỏng cánh tay bàn và ngả đầu dựa lên đó.


      “ Thế nào rồi?” Sophie hỏi.


      “Em chỉ còn đủ sức nhúc nhích thôi,” cậu làu bàu. “Vai đau, lưng đau, cánh tay đau, đầu đau, bàn tay phồng giộp lên và thể khép ngón tay lại.” Cậu chìa cho xem lòng bàn tay trầy xước. “Em chưa bao giờ nhận ra rằng chỉ giữ được kiếm thôi lại khó đến vậy.”


      “Nhưng em có học được gì ?”


      “Em học được cách làm sao để giữ được nó.”


      Sophie đẩy dĩa đầy bánh mì nướng chéo qua bàn và Josh nhổm người lên ngay, chộp lấy miếng ngốn vào miệng. “Ít ra em vẫn có thể ăn được,” . Nắm giữ bàn tay phải của cậu, lật nó lên và nhìn vào lòng bàn tay. “Ối!” vẻ thông cảm. Chỗ da ở chân ngón tay cái đỏ au, nổi lên vết phồng rộp có nước trông rất đau đớn.


      chị rồi,” cậu bằng cái miệng đầy nhóc bánh mì. “Em cần cái băng cá nhân.”


      “Để chị thử làm cái gì đó.” Sophie nhanh nhẹn chà xát hai bàn tay vào nhau, rồi ấn ngón cái tay trái vào cổ tay phải. Nhắm mắt lại, tập trung… và ngón tay út của vụt sáng, bùng cháy ngọn lửa màu xanh lơ mát dịu.


      Josh ngưng nhai và nhìn chằm chằm.


      Trước khi cậu có thể phản đối, Sophie chạy ngón tay phần thịt bị phồng của cậu. Cậu cố kéo nó ra, nhưng giữ chặt tay cậu bằng sức mạnh đáng ngác nhiên. Cuối cùng khi nới lỏng tay, cậu giật tay mình về ngay.


      “Chị nghĩ chị là cái gì mà…,” cậu bắt đầu, nhìn vào tay mình. Rồi cậu phát ra rằng vết phồng biến mất, chỉ để lại dấu tròn mờ mờ da.


      “Francis với chị là lửa có thể chữa lành.” Sophie giơ bàn tay phải lên. Làn khói mỏng manh xam xám cuộn khỏi các ngón tay ; rồi chúng bất thần sáng lên. Khi nắm tay lại thành nắm đấm, lửa mới tắt hẳn.


      “Em nghĩ”—Josh nuốt nước bọt khó khăn và cố lần nữa—”Thậm chí em còn biết là chị bắt đầu học về lửa.”


      bắt đầu và xong.”


      “Xong?”


      “Làm hết rồi.” phủi hai bàn tay vào nhau; tàn lửa bay ra.


      Vừa nhai miếng bánh mì, Josh vừa nhìn chị vẻ trách cứ. Đầu tiên khi được Đánh thức và khi học Pháp thuật Khí, cậu nhận thấy những khác lạ nơi , đặc biệt quanh khuôn mặt và đôi mắt. Cậu còn để ý thấy được cả hơi khác nhau rất tinh tế trong màu mắt . Lần này cậu thể nhìn thấy bất cứ chút thay đổi nào. trông hệt như trước… nhưng phải. Và Pháp thuật Lửa thậm chí lại tạo thêm khoảng cách giữa với cậu. “Chị dường như chút khác lạ.”


      “Chị cũng cảm thấy chút khác lạ nào. Ngoại trừ thấy ấm hơn,” thêm. “Chị còn cảm thấy lạnh.”


      Vậy ra giờ đây chính là chị cậu, Josh nghĩ. chỉ trông như bất cứ tuổi teen nào khác mà cậu từng biết. Song… lại giống bất cứ ai khác hành tinh này: có thể điều khiển hai trong số những pháp thuật căn bản.


      Có lẻ đó là phần đáng sợ nhất trong tất cả chuyện này; những người bất tử—những người như: Flamel và Perenelle, Joan, Saint-Germain hoa mỹ và ngay cả Dee tất cả họ đều rất đỗi bình thường. Họ là mẫu người bạn có thể ngang qua phố mà giây nào liếc mắt qua nhìn. Scathach, với mái tóc đỏ và đôi mắt xanh màu cỏ, luôn gây chú ý. Nhưng ta lại phải là con người.


      “Nó có… nó có đau gì ?” cậu hỏi tò mò.


      tí nào.” mỉm cười. “Gần như gây thất vọng. Francis kiểu như thấm đẫm tay chị với lửa… bùm, và chị có cái này,” , giơ cao cổ tay phải và để ống tay áo tụt xuống lộ ra kiểu trang trí in sâu vào da thịt .


      Josh chồm người tới trước để nhìn kỹ cánh tay Sophie. “Hình xăm,” cậu , ganh tị nghe ràng trong tiếng . Cặp sinh đôi luôn bàn với nhau về các hình xăm. “Mẹ cho ăn đòn nếu thấy cái đó.” Rồi cậu thêm, “Chị lấy nó ở đâu ra thế? Và để làm gì?”


      “Nó phải là mực, nó được đốt bằng lửa,” Sophie giải thích, vặn cổ tay để chỉ cho cậu kiểu trang trí.


      Thình lình Josh nắm tay và chỉ vào chấm đỏ được bao bởi vòng tròn màu vàng ánh kim ở mặt dưới cổ tay. “Em từng nhìn thấy cái gì giống vậy trước đây rồi,” cậu từ từ, và cau mày, cố nhớ lại.


      chị sinh đôi của cậu gật đầu. “Phải mất lúc, nhưng rồi chị nhớ ra rằng Nicholas cũng có cái gì đó giống như vậy ở cổ tay chú ấy,” Sophie . “ cái vòng với chữ thập xuyên qua.”


      “Đúng rồi.” josh nhắm mắt lại. Lần đầu tiên cậu để ý thấy hình xăm cổ tay Flamel là khi cậu bắt đầu làm việc cho ông trong tiệm sách, và dù cậu tự hỏi tại sao nó lại nằm ở chỗ bình thường như vậy, nhưng cậu chưa bao giờ hỏi ông. Cậu mở mắt ra lại và nhìn hình xăm, cậu chợ nhận ra rằng Sophie bị đóng nhãn bởi ma thuật, bị đánh dấu như người có thể kiểm soát những nguyên tố cơ bản. Và cậu thích điều đó. “Chị cần có nó để làm gì vậy?”


      “Khi nào chị muốn dùng lửa, chị ấn vào tâm vòng tròn này và tập trung luồng điện. Saint-Germain gọi nó là đường tắt, mồi lửa cho năng lượng của chị.”


      “Em tự hỏi biết Flamel cần cái mồi lửa để làm gì,” Josh ngạc nhiên buột miệng.


      Ấm nước kêu lanh canh và Sophie quay lại bồn rửa chén. tự hỏi câu hỏi đó. “Có lẽ chúng ta có thể hỏi chú ấy khi chú ấy thức dậy.”


      “Còn bánh mì ?” Josh hỏi. “Em đói muốn chết.”


      “Em lúc nào cũng đói muốn chết.”


      “Ừ, đúng vậy, dợt kiếm làm em đói.”


      Sophie xiên nĩa vào lát bánh mì và đưa ra trước mặt . “Nhìn đây,” . ấn vào bên dưới cổ tay và ngón tay trỏ bùng lên ngọn lửa. Chân mày cau mạnh, tập trung, dồn sức lại, tập trung vào ngọn lửa uốn éo thành ánh lửa màu xanh lơ và rồi đưa nó lên miếng bánh mì, nhàng nướng nó. “Em có muốn nướng hai mặt luôn ?”


      Josh nhìn chăm chú với vẻ ngưỡng mộ trộn lẫn khiếp sợ. Cậu biết hồi học môn khoa học ở lớp là bánh mì được nướng ở nhiệt độ khoảng 1550C.






      CHƯƠNG 28


      Machiavelli ngồi ở băng ghế sau chiếc xe hơi của bên cạnh là Tiến sĩ John Dee. Đối diện là ba Disir. Dagon ngồi ở ghế tài xế, đôi mắt ai nhìn thấy sau cặp kính râm ôm sát quanh mắt. Chiếc xe nghe thoang thoảng mùi cá chua chua của


      chiếc điện thoại cầm tay rung lên, phá vỡ im lặng nặng nề. Machiavelli búng ngón tay mở nắp điện thoại ra mà nhìn vào màn hình. Gần như đóng điện thoại ngay tức . “Tất cả . Người của tôi kéo lại và có hàng rào an ninh trong khu vực chung quanh tất cả các khu phố liên kết. ai tình cờ lang thang vào vùng cấm.”


      “Bất kỳ chuyện gì xảy ra, ai được vào nhà,” Disir mắt tím . “ khi chúng tôi thả Nidhogg, chúng tôi có rất ít quyền kiểm soát cho tới khi chúng ăn no.”


      John Dee chồm người về phía trước, và trong chốc lát, trông như thể sắp sửa khều vào đầu gối trẻ. Ánh nhìn gương mặt ngăn lại. “ được để thoát Flamel và mấy đứa .”


      “Câu đó như lời đe dọa, Tiến sĩ,” chiến binh ngồi bên trái . “Hoặc là mệnh lệnh.”


      “Chúng tôi thích những lời đe dọa,” chị ngồi bên phải thêm. “Và chúng tôi làm theo lệnh.”


      Dee chớp mắt chầm chậm. “Đây phải là lời đe dọa mà cũng phải mệnh lệnh. Đơn giản chỉ là …ời thỉnh cầu,” rốt cuộc .


      “Chúng tôi ở đây chỉ vì Scathach,” chiến binh mắt tím . “Những người còn lại phải là mối quan tâm của chúng tôi.”


      Dagon bước ra khỏi chiếc xe và mở cửa. hề liếc nhìn ra sau, các Valkyrie bước ra và vào vùng sáng lờ mờ đầu tiên của vùng sáng trước rạng đông, họ dàn ra và di chuyển chậm xuống con phố hẹp. Trông họ như ba trẻ trở về nhà sau bữa tiệc thâu đêm.


      Dee chuyển vị trí, ngồi đối diện Machiavelli. “Nếu họ thành công, tôi bảo đảm các chủ nhân của chúng ta biết rằng Disir là ý tưởng của ông,” vui vẻ .


      “Tôi chắc chắn ông làm vậy.” Machiavelli nhìn Pháp sư người và tiếp tục dõi theo hành trình của ba trẻ khi các bộ xuống con phố. “Và nếu họ thất bại, ông có thể với các chủ nhân rằng Disir là ý tưởng của tôi, và ông có thể tự mình phủi sạch mọi khiển trách,” thêm. “Đỗ lỗi: tôi tin tôi bắt đầu cái khái niệm đó khoảng hai mươi năm trước khi ông chào đời.”


      “Tôi tưởng ông họ mang theo Nidhogg?” Dee hỏi, tảng lờ những gì .


      Niccolo Machiavelli gõ và cửa sổ bằng những cái móng tay được cắt giũa. “Đúng vậy.”


      Khi Disir di chuyển xuống ngõ hẻm hẹp lát sỏi cuội và có tường cao hai bên, chúng biến hình.


      Việc biến hình được chúng thực khi chúng ngang qua mảng tối. Chúng vừa vào vai những trẻ, mặc áo khoác da mềm, quần jeans và giày bốt… và chỉ trong chớp mắt thành các Valkyrie: các trinh nữ chiến binh. Áo choàng dài làm bằng những vòng xích trắng như băng tuyết buông ngang đầu gối, bao phủ bàn chân là đôi giày bốt bằng kim loại cổ cao đến gối với mũi giày được đóng đinh nhọn, găng tay da dát kim loại nặng nề. Nón sắt tròn bảo vệ đầu và mặt nạ che mắt mũi nhưng để hở miệng. Ngang hông quấn thắt lưng da màu trắng treo bao kiếm và dao. Các Valkyrie mỗi ả thanh kiếm rộng bản trông tay, còn có thứ vũ khí thứ hai dắt sau lưng: cái giáo, chiếc rìu hai đầu và búa chiến.


      Chúng dừng lại trước cánh cổng màu xanh lục mục nát chìm sâu vào bức tường. trong số Valkyrie quay lại nhìn chiếc xe hơi và chỉ vào chiếc găng tay cánh cổng.


      Machiavelli bấm nút cuốn cánh cửa xuống. chĩa ngón tay trái lên trời và gật đầu. Mặc cho vẻ bề ngoài hư nát, nó đúng là cánh cổng sau ngôi nhà của Saint-Germain.


      Từng Disir đều với tay vào cái túi da treo ở thắt lưng. Lấy ra nắm những vật giống như những miếng đá phẳng bẹt, chúng ném tung vào cánh cửa.


      “Chúng Đúc Dấu Ma Thuật,” Machiavelli giải thích. Chúng gọi Nidhogg… sinh vật ông phóng thích, loài mà chính các Elder giam giữ cẩn thận.”


      “Tôi biết nó bị nhốt trong Cây Thế giới,” Dee lẩm bẩm.


      ngạc nhiên. Tôi tưởng ông biết mọi chuyện.” Machiavelli xoay chuyển trong chỗ mình để nhìn thẳng vào Dee. Trong ánh lờ mờ tranh tối tranh sáng, có thể nhìn thấy Pháp sư trông xanh xao và những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra lấp lánh trán. Nhiều thế kỷ kiềm chế cảm xúc đủ bảo đảm để Machiavelli mỉm cười. “Tại sao ông phá hủy Yggdrasill?”


      “Đó là vì nguồn năng lượng của Hekate,” Dee ngay, đôi mắt dán chặt vào các Valkyrie, chăm chú nhìn chúng. Chúng bước lùi khỏi những miếng đá mà chúng vừa ném xuống đất và khẽ khàng bàn tính với nhau, tay chỉ về những viên ngói xếp lớp.


      “Nó có số tuổi bằng với tuổi của hành tinh này. Vậy mà ông phá hủy nó giây suy nghĩ. Tại sao ông lại làm vậy?” Machiavelli lấy làm lạ bật hỏi.


      “Tôi nghĩ đó là những gì cần thiết.” Những lời của Dee lạnh băng. “Tôi làm bất cứ điều gì cần thiết để mang các Elder trở lại thế giới.”


      “Nhưng ông cân nhắc hậu quả,” Niccolo Machiavelli nhàng. “Mỗi hành động đều có hậu quả. Yggdrasill mà ông phá hủy trong vương quốc của Hekate kéo dài đến tận Vương quốc Bóng tối khác. Những nhánh cao nhất vươn đến Vương quốc Bóng tối của Asgard, và rễ cắm sâu vào Nifheim, Thế giới Đen tối.” thấy Dee cứng người lại. “Khi phá hủy Cây Thế giới, những ông phóng thích Nidhogg, mà còn phá hủy ít nhất ba Vương quốc Bóng tối—có lẽ còn hơn thế nữa.”


      “Tôi biết…”


      “Ông gây thù chuốc oán với nhiều người,” Machiavelli phớt lờ , cứ như tuôn ra, “những kẻ thù nguy hiểm. Tôi nghe rằng Elder Hel trốn thoát khỏi cuộc sụp đổ vương quốc của bà. Tôi nghĩ bà săn lùng ông.”


      “Tôi sợ bà ta đâu,” Dee đốp chát, nhưng tiếng của thoáng run rẩy.


      “Ồ, phải đó,” Machiavelli thào. “Bà ta làm tôi chết khiếp.”


      “Chủ nhân của tôi bảo vệ tôi,” Dee đầy tin tưởng.


      “Ông ta phải là Elder mạnh mới bảo vệ được ông khỏi Hel; ai ch lại bà ta mà còn sống sót.”


      “Chủ nhân của tôi có mọi sức mạnh.” Dee ngắt lời.


      “Tôi mong được biết nhân dạng của vị Elder bí này.”


      “Khi mọi chuyện này qua , có lẽ tôi giới thiệu ông,” Dee . hất đầu xuống con hẻm. “Và có thể rất sớm thôi.”


      Những miếng đá ma thuật rít lên và kêu xèo xèo dưới đất.


      Chúng là những miếng đá dẹp đen thui bình thường, mỗi cạnh là dãy đường kẻ đầy góc cạnh, hình vuông và vạch xiên. Bây giờ những đường kẻ đó bừng bừng đỏ, bốc ra những làn khói đỏ cuốn xoắn tan vào bầu khí yên tĩnh trước rạng đông.


      Disir lấy mũi kiếm xê dịch ba miếng đá ma thuật vào với nhau. Disir thứ hai hất miếng đá nằm trệch đường bằng đầu mũi thép của giày bốt, rồi kéo rê miếng khác vào đúng chỗ. Disir thứ ba lấy miếng đá ma thuật nằm lẻ loi ở cạnh trụ cửa và lấy thanh kiếm đó dích nó vào vị trí cuối của dãy ký tự.


      “Nidhogg,” Disir thầm, gọi cơn ác mộng mà họ niệm chú tên của nó trong các phiến đá cổ xưa.


      “Nidhogg,” Machiavelli rất khẽ. nhìn chéo qua vai Dee đến chỗ Dagon ngồi chằm chằm nhìn thẳng đằng trước, có vẻ quan tâm đến những gì diễn ra phía bên trái nó. “Tôi biết những gì huyền thoại về nó, nhưng Dagon, chính xác nó là cái gì vậy?”


      “Dân tộc tôi gọi nó là Kẻ Nuốt Tử thi,” tay tài xế , tiếng dính nhớp nháp và sôi sung sục. “Nó ở sẵn đây rồi trước cả khi giống loài tôi giành quyền biển, mà chúng tôi lại nằm trong số những loài đầu tiên đặt chân lên hành tinh này.”


      Dee nhanh xoay người ghế để nhìn thẳng vào tay tài xế. “ là ai?”


      Dagon phớt lờ câu hỏi. “Nidhogg quá nguy hiểm đến nỗi hội đồng Giống loài Elder phải tạo ra Vương quốc Đen tối, để chứa nó, và rồi họ dùng những cái rễ gì có thể phá vỡ được của Yggdrasill quấn quanh sinh vật này, hầu khóa chặt chúng vĩnh viễn.”


      Machiavelli giữ mắt dán chặt vào làn khói đen đỏ cuộn bốc lên khỏi những miếng đá ma thuật. tưởng là nhìn thấy đường viền của hình hài bắt đầu được hình thành. “Tại sao các Elder lại giết chết nó ?”


      “Nidhogg là thứ vũ khí,” Dagon .Các Elder cần thứ vũ khí để làm gì?” Machiavelli kinh ngạc lớn. “Sức mạnh của họ hầu như có giới hạn rồi. Họ đâu có kẻ thù.”


      Dù ngồi với hai bàn tay buông lỏng tay lái thép, nhưng vai Dagon xoay sở và cái đầu của nó xoay gần như thành vòng tròn để đối diện với Dee và Machiavelli. “Các Elder phải là loài đầu tiên trái đất,” nó đơn giản. “ có những loài khác.” Nó ra những lời này cách chầm chậm và cẩn trọng. “Các Elder sử dụng Nidhogg và vài sinh vật nguyên thủy khác làm vũ khí trong cuộc Chiến tranh Vĩ đại để tiêu diệt hoàn toàn bọn kia.”


      Machiavelli sửng sờ nhìn Dee, trông cũng bang hoàng kém trước tiết lộ này.


      Miệng Dagon hé mở thành cái gì đó có thể là nụ cười, để lộ cái họng đầy răng của nó. “Chắc các ông biết rằng lần cuối cùng Disir sử dụng Nidhogg, bọn chúng mất kiểm soát sinh vật này. Nó ăn sạch bọn chúng. Trong thời gian ba ngày dùng để bắt nó lại và xích nó vào rễ cây Yggdrasill, nó tiêu diệt toàn bộ dân tộc Anasazi sống đâu đó trong vùng đất mà ngày nay là New Mexico. Người ta răng Nidhogg chén sạch hàng vạn con người mà còn đói muốn ăn thêm.”


      “Liệu những Disir này có kiểm soát được nó ?” Dee gặng hỏi.


      Dagon nhún vai. “Mười ba chiến binh Disir tinh nhuệ thể kiểm soát nó ở New Mexico.”


      “Có lẽ chúng ta nên—” Dee bắt đầu.


      Machiavelli bỗng cứng đờ. “Quá trễ,” thào. “Nó kia rồi.”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :