Bá tước Dracula - Bram Stocker(Kinh dị)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 5



      THƯ CỦA MINA MURRAY GỬI CHO LUCY WESTENRA





      Ngày 9 tháng 5.





      Bạn Lucy thân ,



      Tha lỗi cho mình về việc mình viết thư cho bạn suốt thời gian dài vừa qua, nhưng tất cả cũng chỉ vì công việc khiến mình tối tăm mặt mũi. Với cương vị là trợ lý cho hiệu trưởng, mình càng lại phải cố gắng. Mình chỉ ao ước được biển với bạn, tha hồ tán gẫu và mơ mộng về tất cả mọi thứ đời. Dạo gần đây mình làm việc hăng lắm. Mình muốn tỏ ra xứng đáng với Jonathan mà, và mình rấr chăm tập viết tốc ký. Khi chúng mình cưới nhau, việc mình biết viết tốc ký rất có ích cho Jonathan. Mình có thể ghi lại tất cả những gì ấy rồi sau đó đánh máy lại cho ấy. Bạn thấy đấy, đó là lý do chính đáng khiến mình học tập rất hăng hái.





      ấy và mình thỉnh thỏang vẩn viết thư tốc ký cho nhau, và ấy viết tốc ký lại chuyến du hành của ấy ở nước ngòai. Khi nào mình đến chơi với bạn, mình cũng làm như vậy. Tất nhiên rằng quyển nhật ký của mình phải là thứ nhật ký mà mỗi tuần được dành đúng trang với ngày chủ nhật được đánh thành dấu phân cách ở góc. Mình chỉ viết khi nào mình thấy thích thôi.





      Nó hẳn nhiên phải là thứ thú vị đối với nhiều người khác rồi, nhưng mình đâu có viết cho họ.



      Mình cho Jonathan xem khi nào mà hai chúng mình cùng chia xẻ với nhau mọi thứ trong thế giới này. Còn giờ cuốn sách bài tập đấy. Mình cố làm tất cả những gì mà mình thấy các phu nhân của những nhà báo thường làm, phỏng vấn và viết lại những chi tiết, cố mà nhớ lấy những cuộc đàm thoại. Mình có nghe rằng, với chút luyện tập, con người có thể nhớ hết tất cả những gì ta nghe thấy trong suốt cả ngày.





      Tuy nhiên, chúng mình cùng thử. Mình với bạn về những kế hoạch nho của mình khi chúng ta gặp nhau. Bây giờ Jonathan ở xứ Transylvania xa ơi là xa. ấy khỏe, và trở về trong khỏang tuần lễ nữa. Mình lúc nào cũng nóng lòng chờ tin ấy. Được thăm đất nước xa lạ tuyệt nhỉ. Chẳng biết bao giờ chúng mình, tức là Jonathan và mình ấy mà, được cùng nhau du lịch ở những vùng đất xa xôi ấy. Thôi, đồng hồ điểm mười tiếng rồi. Tạm biệt nhé. Bạn Mina thân của bạn.





      Nhớ kể cho mình tất cả mọi thứ về bạn khi bạn viết thư. Bạn cũng lâu rồi chẳng hề liên lạc gì với mình. Mình nghe nhiều tin đồn về bạn lắm đấy nhé, đặc biệt là về người đàn ông cao lớn, đẹp trai, tóc xoăn đấy, thế là thế nào???



      THƯ CỦA LUCY WESTENRA GỬI MINA MURRAY





      Ngày 17, đường Chatham





      Thứ tư



      Bạn Mina thân ,



      Mình phải là bạn chẳng hề công bằng với mình tí nào. Mình viết cho bạn hai lần kể từ khi chúng mình chia tay, còn lá thư mình vừa nhận chỉ là bức thư thứ hai của bạn. Ngòai ra, mình chẳng có gì để kể với bạn cả. Chẳng có gì hấp dẩn cả, thế đấy.





      Thị trấn bây giờ tuyệt lắm. Khi mà dạo hay đánh xe ngang công viên, chúng mình cứ như lạc vào phòng triển lãm tranh vậy. Còn về cái chàng cao lớn tóc xoăn ấy hả, thiên hạ cứ tòan là đồn những chuyện nhảm mà bạn cũng tin. Chắc là họ trông thấy chàng mà mình gặp ở buổi nhạc Pop gần đây nhất ấy mà.




      Đấy là Holmwood. ấy hay đến chỗ tụi mình chơi, và ấy chuyện với Mamma nhà mình hợp lắm, họ có rất nhiều điểm chung.





      Gần đây bọn mình gặp chàng cứ như sinh ra là để dành cho bạn ấy, đấy là mình nếu bạn chưa đính hôn với Jonathan. ta là chàng tuyệt lắm, rất đẹp trai, phong lưu và gia thế. ta là bác sĩ và hiển nhiên là thông minh cực kỳ. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! ta chỉ mới hai mươi chín tuổi, vậy mà điều khiển viện điều dưỡng cực lớn dành các bệnh nhân tâm thần. Holmwood giới thiệu ấy với mình, ấy đến làm quen và bây giờ thường đến đây thăm mình lắm. Mình nghĩ ấy là người đàn ông cương quyết nhất mà mình từng gặp.



      ấy có vẻ bình thản tuyệt đối. Chẳng có gì có thể làm ấy mất quân bình được. Mình tưởng tượng ấy chắc là phải có cái vẻ quyền lực tuyệt đối như vậy để làm việc với các bệnh nhân của mình. ấy có sở thích nhìn thẳng vào mặt người đối diện để đọc những ý nghĩ của họ. ta cũng thử làm điều đó với mình, nhưng mà đừng có hòng nhé, lần này ấy gặp phải quả hạch khó đập vỏ đấy. Cứ nhìn qua gương là mình biết tất.





      Bạn bao giờ cố đọc khuôn mặt của chính mình chưa. Mình thử rồi đấy, và mình có thể rằng đấy phải là nghiên cứu vô ích đâu, và nó đem đến cho bạn nhiều rắc rối hơn bạn tưởng nếu bạn chưa bao giờ thử nó đấy.





      ấy rằng mình đem đến cho ấy trường hợp tâm lý đáng chú ý. Và mình khiêm tốn nghĩ rằng đúng như thế đấy. Bạn cũng biết rồi đấy, mình chẳng bao giờ có quan tâm đến thời trang để ăn mặc cho hợp mốt cả. Ăn diện là công chuyện tẻ ngắt. Thời trang luôn thay đổi xoành xoạch và chẳng bao giờ có cho mình chính kiến xác định. Arthur như thế mỗi ngày đấy thôi.





      Mina ơi, đó là tất cả đấy. Từ bé đến giờ chúng ta luôn cho nhau những bí mật của mình. Chúng ta cùng ăn và ngủ với nhau, chúng ta khóc và cười với nhau, và bây giờ, dù mình rồi, mình vẩn muốn tiếp nữa. Mina ơi, chẳng lẽ bạn lại đóan được ra sao? Mình ấy mất rồi. Mình thẹn đỏ mặt khi viết ra những điều này đấy, bởi vì mình nghĩ dù ấy mình, ấy cũng chưa hề với mình thành lời.



      Nhưng, ôi, Mina ơi, mình ấy. Mình ấy! Chính điều đó làm mình sung sướng vô cùng.





      Mình ước là mình có thể ngồi bên bạn, bạn quý, ngồi bên ngọn lửa tàn, như chúng ta ngày xưa vẩn làm ấy, rồi mình kể cho bạn nghe mình cảm thấy thế nào. Mình biết phải làm cách nào để cho bạn hiểu hết những điều này. Mình buộc phải ngừng lại thôi, nếu mình xé luôn bức thư này mất.



      Mình chẳng muốn dừng đâu, mình muốn kể cho bạn tất cả cơ. Hãy viết lại cho mình, và mình biết bạn nghĩ gì về những chuyện này. Mina ơi, cầu nguyện cho hạnh phúc của mình nhé.





      Lucy




      T.B. Có lẽ mình cũng chẳng cần phải với bạn rằng đây là điều bí mật đấy. Tạm biệt lần nữa. L



      THƯ CỦA LUCY WESTENRA





      GỬI CHO MINA MURRAY





      Ngày 24 tháng 5





      Mina thân ,





      Cám ơn, cám ơn bạn nhé, cám ơn vô vàn vì bức thư êm đềm của bạn. Kể hết mọi chuyện với bạn để được bạn cảm thông, điều ấy là tuyệt. Bạn thân ơi, có những điều chẳng bao giờ xảy đến nhưng thình lình nó ào ạt dội xuống đầu mình. Câu danh ngôn cổ này là đúng. Mình đây, sắp hai mươi tuổi vào tháng Chín, và cho đến hôm nay chưa hề có ai cầu hôn mình, lời cầu hôn ấy, nhưng thình lình hôm nay mình nhận được đến ba lời cầu hôn. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! Ba lời cầu hôn trong ngày! Đấy hẳn phải là điều tồi tệ rồi! Mình cảm thấy rất tiếc, và thành thực tiếc cho hai chàng trai hạnh phúc.



      Ôi, Mina ơi, mình hạnh phúc đến nổi mình biết điều gì xảy ra cho mình nữa. Những ba lời cầu hôn! Nhưng mà tốt nhất đừng gì với những khác, nếu họ lại tưởng tượng ra những ý kiến thái quá, rồi họ cảm thấy thương tổn và tự ti nếu trong cái ngày quan trọng nhất trong đời họ nhận được ít nhất sáu lời cầu hôn. Có những như vậy đấy! Bạn và mình, Mina thân mến ơi, những người đính hôn và mau chóng trở thành những người phụ nữ có gia đình chuẩn mực, chúng mình có thể bỏ qua những phù phiếm ấy. Ôi, mình với bạn rằng có ba chàng trai cầu hôn mình, bạn phải giữ bí mật ấy nhé, bạn thân mến, tất nhiên là ngoại trừ Jonathan của bạn rồi.



      Bạn có thể với ta, bởi vì nếu mình ở vào hoàn cảnh của bạn, mình cũng với Arthur thôi.



      người phụ nữ nên kể hết mọi chuyện với chồng mình. Bạn nghĩ sao, Mina? Và mình nghĩ mình cũng nên công bằng chút. Những người đàn ông thích những người phụ nữ, đặc biệt là vợ họ, biết giữ im lặng. Còn phụ nữ, mình e rằng chẳng bao giờ giữ nỗi bí mật những điều mà họ nên giấu.





      Nào, bạn thân mến ơi, người số đến ngay trước bữa ăn trưa. Mình kể về ấy với bạn rồi đấy, bác sĩ John Seward, trưởng viện tâm thần, người có cái quai hàm khỏe mạnh và vầng trán cao. ấy có bề ngoài lạnh lùng, nhưng lại dễ bị khích động. ràng là ta tự rèn luyện mình như thế và cố giữ bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Nhưng ta cứ suýt nữa là ngồi luôn lên cái mũ lụa rộng vành của mình, điều mà người lạnh lùng chẳng bao giờ làm, và mỗi lần ta muốn giữ bình tĩnh, ta lại mân mê cái lưỡi dao mổ của mình trông ngộ nghĩnh đến nỗi mình cứ muốn cười phá lên.



      ta với mình, Mina ạ, rất là thẳng thắn. ấy mình là thân thiết với ấy như thế nào, và mặc dù ấy chỉ mới biết mình, nhưng nếu có mình bên cạnh đó giúp đỡ và động viên rất quý báu trong cuộc đời của ấy. ấy còn rằng bất hạnh nếu như mình hề quan tâm đến ấy, rồi khi ấy thấy mình khóc, ấy rằng ấy là thô lỗ khi đem đến cho mình phiền phức như vậy. Sau đó ta ngưng lại và hỏi xem mình có nhận lời hay . Tay ấy run lên khi mình lắc đầu, và lưỡng lự lát ấy hỏi mình xem mình ai khác chưa.



      ấy lịch thiệp rằng ấy hề muốn can thiệp vào chuyện riêng của mình, nhưng ấy muốn biết chỉ vì rằng khi mà trái tim người phụ nữ còn tự do người đàn ông vẩn còn hy vọng. Mina ơi, mình cảm thấy như có lỗi với ấy khi mình rằng mình có người rồi. Mình chỉ thế thôi, rồi ấy đứng dậy. ta rất rắn rỏi và can đảm nắm lấy cả hai tay mình và rằng ấy chúc mình hạnh phúc, và nếu khi nào mình cần người bạn ta có mặt trong số những người tốt nhất.





      Ôi Mina thân mến, mình chẳng thể nào cầm được nước mắt, và bạn hãy tha lỗi cho mình vì lá thư này thấm đẫm nước mắt của mình. Lời đề nghị đưa ra tử tế và chân thành, nhưng làm sao mà mình có thể vui khi nhìn thấy người đàn ông thất vọng, người mà bạn biết bạn chân thành, cất bước ra với trái tim tan nát, người hiểu rằng, dù ấy có gì lúc này chăng nữa, bạn ra khỏi cuộc đời ấy rồi. Bạn thân mến ơi, mình phải ngừng lại lúc thôi, mình đau khổ dù mình là hạnh phúc.





      Buổi chiều tối.





      Arthur vừa , và mình cảm thấy khá hơn so với lúc mình dừng bút, và mình có thể kể tiếp với bạn về cái ngày đặc biệt này.





      Bạn thân mến ơi, thế là người số Hai đến sau bữa cơm trưa. ta là chàng Mỹ trẻ tuổi đẹp trai đến từ miền Texas. ta trông trẻ và ngây thơ đến mức khó mà tin rằng ta từng sống ở nhiều nơi và trải qua nhiều chuyến phiêu lưu mạo hiểm. Mình thông cảm với Desdemona khi nàng cảm thấy như sét đánh ngang tai lúc chạm mặt với người đàn ông mặc đồ đen. Mình cho rằng phụ nữ chúng mình vốn nhút nhát, và mong muốn cưới người đàn ông có thể che chở, bảo bọc cho mình. Bây giờ nếu mình là đàn ông mình biết cách nào làm cho mình. ra mình chẳng biết gì sất, bởi vì Morris kể cho chúng mình những câu chuyện về ta, còn Arthur chẳng hề gì cả…





      Bạn thân mến, hình như mình hơi hấp tấp phải. Quincy P.Morris đến lúc mình mình. Đó là chàng luôn tìm đến những đúng lúc họ đơn. Arthur chẳng bao giờ làm được như thế, dù ấy cố gắng gấp đôi để tìm cơ hội, và mình ra sức giúp đỡ, mình chẳng xấu hổ khi thú nhận với bạn điều ấy đâu. Mình phải trước với bạn là Morris phải lúc nào cũng tiếng lóng, ấy hề thứ tiếng đó khi chuyện với những người lạ. Đó là người có giáo dục tốt và có dáng vẻ bặt thiệp.



      Tuy nhiên ấy khám phá ra rằng mình thích nghe ấy chuyện bằng thứ tiếng lóng của Mỹ, nên khi có mặt mình và ai tỏ ra khó chịu, ấy lại bằng cái thứ ngôn ngữ buồn cười ấy. Bạn thân mến, lúc đầu mình nghĩ rằng ấy sáng tác ra tất cả những thứ đó, bởi vì nó luôn luôn thích hợp cách kỳ lạ với những gì ấy ra. Nhưng đó là cách mà người Mỹ lóng. Mình chẳng biết là có lúc nào đó mình những thứ tiếng lóng đó ra hay . Mình cũng chẳng biết là Arthur có thích nó , nhưng chẳng bao giờ ấy dùng đến nó cả.





      Thế đấy, Morris ngồi bên mình, nhìn mình với tất cả vẻ hạnh phúc và vui tươi mà ấy có thể tạo ra được, nhưng mình có thể thấy ngay rằng ta rất hồi hộp. ấy nắm lấy tay mình, và ngọt ngào…





      " Lucy ơi, tôi biết rằng tôi ra cũng chẳng xứng làm vật trang trí những chiếc giày của , nhưng tôi tin rằng nếu như đợi đến khi tìm thấy người đàn ông xứng đáng mang đến cho bảy người phụ nữ trẻ khác niềm hy vọng nếu như từ bỏ ý định đó. Vậy sau cùng tôi thắng chung cỗ yên cương, cùng giật cương ngựa thả bước lang thang đường đời rộng mở?"





      Ôi, với vẻ hóm hỉnh và tươi vui của ấy khiến cho việc đưa ra lời từ chối chỉ khó bằng nữa so với khi làm điều ấy với bác sĩ Seward tội nghiệp. Với tất cả vẻ nhàng của mình, mình rằng mình chẳng biết tí gì về việc giật cương ngựa cả, và vì thế mình làm gãy cỗ yên cương mất thôi. Đoạn ấy với vẻ nhàng rằng, vì đây là kiện quá quan trọng cho ấy, và vì thế nếu ấy có làm điều đó cách quá sỗ sàng, quá quan trọng, mình hãy tha lỗi cho ấy. ấy tỏ ra rất nghiêm túc khi điều đó, và mình cảm thấy hân hoan vì ấy là người thứ Hai làm điều đó trong ngày.



      Và bạn thân mến ơi, trước khi mình có thể thốt nên lời ấy bắt đầu đổ ập xuống đầu mình hàng lọat những cơn sóng chứa đầy những lời lẽ đương, rằng ấy mang trái tim và tâm hồn của ấy đặt dưới chân mình. ấy trông nghiêm chỉnh đến nỗi mình bao giờ nghĩ rằng con người luôn khôi hài lại có thể nghiêm chỉnh đến vậy, bởi vì lúc nào ấy trông cũng vui vẻ. Mình nghĩ rằng ấy nhìn thấy mặt mình điều gì đó ngăn trở ấy, vì vậy ta thình lình ngừng lại, và với vẻ nhiệt tình đầy nam tính rằng mình có thể ấy nếu như lúc này mình vẩn còn tự do…





      " Lucy, biết em là có trái tim trung thực. ở đây để với em như nãy giờ nếu như tin rằng mình có thể hiểu được những nơi sâu thẳm trong tâm hồn em. Hãy với như người trung thực với người trung thực, rằng em có để ý đến ai chưa? Và nếu điều đó là thực bao giờ quấy rầy em về điều này nữa, nhưng hãy để cho trở thành người bạn trung thành của em, nếu như em cho phép điều đó."





      Mina thân của mình, vì sao những người đàn ông lại là cao thượng đến thế, trong khi phụ nữ chúng ta ra chưa hẳn hòan tòan xứng đáng với những điều đó? Những trái tim cao quý của những người đàn ông trung thực này khiến mình cảm thấy rất vui. Mình lại bật khóc nữa rồi, bạn thân mến ơi, mình e rằng lá thư này lại còn thấm đẫm nước mắt hơn lúc trước nữa đấy, và mình lại cảm thấy đau khổ vô cùng.




      Vì sao người ta cho phép cưới ba người đàn ông, hoặc tất cả những người nào ấy nhỉ? Nhưng điều này dị giáo quá, mình được ra. Mình rất vui để kể lại cho bạn rằng, mặc dù đầm đìa nước mắt, mình vẩn có thể nhìn thẳng vào đôi mắt can đảm của Morris và trả lời ấy thẳng thắn…





      "Vâng, em có người, dù ta chưa bao giờ ấy em." Mình là sáng suốt khi quyết định với ấy, bởi vì khi nghe thấy những điều ấy, mặt ấy bừng sáng, và hai tay ấy nắm lấy hai tay mình, ra mình nghĩ là mình đặt chúng vào tay ấy, và ta cách nồng nhiệt…





      " Đúng là dũng cảm của tôi. Dù sao có cơ hội để sau này có em vẩn tốt hơn là lãng phí thời gian với những khác thế giới. Đừng khóc, em thân mến của tôi. Với đây là quả hạch khó đập vỏ đấy, nhưng chẳng lùi bước đâu. Còn cái tên kia, cái gã biết là niềm hạnh phúc như thế nào , hừ, tốt hơn là nên biết điều đó cho sớm, nếu có công chuyện phải giải quyết với đấy. , em là tử tế và can đảm khi nhận là bạn, còn thích làm người của em hơn, xem ra có vẻ ích kỷ quá nhỉ.



      em thân , sắp phải có đoạn đường dài độc từ đây về thủ đô. Em có thể cho nụ hôn được ? Nó làm cho bóng tối còn bao phủ nữa. Em có thể làm điều đó mà, vì em cũng biết là người đàn ông tốt số kia vẩn còn chưa ngỏ lời và xem như em vẩn chưa thuộc về ai."





      Vẻ dũng cảm và ngọt ngào của ấy chiến thắng mình, và còn thêm vào cao thượng của ta nữa, khó từ chối, phải Mina? Và ấy trông buồn, buồn đến nỗi mình trườn người tới và hôn ấy.




      ấy đứng đó, giữ chặt tay mình, và nhìn sâu vào mặt mình. Mình e rằng lúc đó mình đỏ bừng mặt lên, ấy , " , cầm tay em, và em hôn . Nếu những điều này khiến chúng ta trở thành bạn chẳng có điều gì có thể làm được điều đó cả. Cám ơn em vì tử tế êm đềm em dành cho , và tạm biệt." ấy siết chặt tay mình, rồi nhặt lấy mũ, chẳng hề ngập ngừng, run rẩy hay giọt nước mắt, ấy ra mà hề nhìn lại, còn mình khóc như đứa trẻ.





      Ôi, vì sao người đàn ông như thế lại có thể tìm thấy hạnh phúc khi mà có biết bao luôn ngưỡng mộ ta khắp các nẻo đường mà ấy qua? Mình ước mình là tự do, nhưng chỉ vì mình muốn làm tự do. Bạn thân mến ơi, điều này làm bối rối quá, và mình cảm thấy mình thể viết ngay lúc này về hạnh phúc của mình, sau khi kể với bạn về những chuyện vừa qua, và mình muốn kể về người số Ba đến khi mình cảm thấy hòan tòan hạnh phúc. Mãi mãi bạn… Lucy



      T.B – Ồ, về cái người số Ba ấy, chắc mình chẳng cần phải với bạn về người số Ba phải ? Ngòai ra, tất cả là mù mờ. Hình như chỉ là trong khỏanh khắc nào đó ấy vào phòng mình, hai tay ấy ôm lấy mình, và ấy hôn mình. Mình rất, rất là hạnh phúc, và mình biết phải làm gì để xứng đáng với nó. Mình chỉ cố làm sao trong tương lai đừng tỏ ra vô ơn với Chúa vì tất cả những chuyện này. Chúa tốt với mình khi gửi đến cho mình người , người chồng và người bạn như thế.





      Tạm biệt.





      NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD (Thu trong máy quay dĩa)





      Ngày 25 tháng 5:



      Hôm nay lòng khao khát của tôi rút xuống như cơn sóng thủy triều. thể ăn được, thể ngủ được, và thay và đó là đoạn nhật ký này. từ chối dứt khóat mà tôi nhận được hôm qua khiến tâm hồn tôi trống rỗng. Chẳng có gì thế giới này còn có ý nghĩa để mà làm nữa. Và tôi biết rằng chỉ có liều thuốc duy nhất có thể chữa được căn bệnh này, đó là làm việc, và tôi lại lao vào giữa đám bệnh nhân. Tôi lại tìm thấy người bệnh khiến cho tôi cảm thấy thú vị. ta có cái vẻ kỳ quặc khiến tôi quyết định phải cố gắng tìm hiểu ông ta. Tối nay có lẽ tôi tiến sâu hơn mọi khi vào trái tim bí của ông ta.





      Tôi hỏi ông ta nhiều hơn mọi lần, và cảm thấy có vấn đề khi làm việc với những ảo giác của ông ta. Với cách làm của tôi trong trường hợp này, tôi cảm thấy có phần tàn nhẫn. Tôi giữ bệnh nhân của mình trong đỉnh điểm của những cơn điên của ông ta, cái điều mà tôi tránh làm với những bệnh nhân khác khi tôi cảm thấy ở ngưỡng cửa của địa ngục.





      (Lạ , tại sao trong lần này tôi lại tránh cái hố của địa ngục nhỉ?) Ommia Romae venalia sunt. Địa ngục cũng có cái giá của nó! Nếu như bên trong bản năng này có điều gì đó đáng giá cho theo dõi xác đáng, tôi bắt đầu làm đây, vậy





      R.M, Renfield, 59 tuổi. Tính khí lạc quan, thể chất khỏe mạnh tuyệt vời, dễ bị kích động cách bệnh hoạn bởi những chu kỳ buồn bã, chứa đựng bên trong những ý tưởng sâu thẳm mà tôi thể hiểu được. Tôi giả sử rằng chính cái tính khí lạc quan kia tạo nên những xáo động nội tại dồn nén lại bên trong ý nghĩ, khiến cho con người có thể trở thành nguy hiểm, trở nên nguy hiểm nếu như bên trong ta ích kỷ. Bên trong mỗi con người, ích kỷ giúp họ tạo thành cái áo giáp giúp họ chống lại chính mình.



      Trong trường hợp này, tôi nghĩ rằng bản chất con người trở thành điểm cân bằng cho các lực hướng tâm, tức những ý nghĩ ích kỷ triệt tiêu với những lực ly tâm, là những ý nghĩ cao thượng. Khi những điều cao thượng như bổn phận, lý tưởng v.v… là điểm cân bằng đó, những thứ lực ly tâm có tác dụng mạnh mẽ, mà chỉ tai nạn bao gồm hàng chuỗi những tai nạn mới có thể cân bằng được với nó.




      THƯ TỪ QUINCEY P.MORRIS GỬI CHO





      HON. ARTHUR HOLMOOD





      Ngày 25 tháng 5.





      Art thân mến.



      Chúng mình từng huyên thuyên đủ thứ chuyện bên những lán trại thảo nguyên, người này băng bó vết thương cho kẻ khác sau khi thử nhảy xuống dòng Marquesas, và uống mừng sức khỏe nhau bên bờ biển Titicaca. có nhiều điều để mà huyên thuyên, rồi còn những vết thương khác để mà băng bó, nhiều thứ sức khỏe để uống mừng lắm. Sau cậu lại đến chỗ trại của tớ vào tối mai nhỉ? Tớ chẳng ngại ngùng gì mà mời cậu đến đâu, vì tớ biết chắc tối mai tiểu thư kia có lời mời ăn tối và cậu hoàn toàn tự do.



      chẳng có thêm ai ngòai ông bạn cũ của chúng ta tại Triều Tiên, Jack Seward. cũng đến luôn, để hai chúng tớ trộn lẩn nước mắt của mình vào những cốc rượu vang, để uống mừng sức khỏe từ tận đáy lòng mình cho người đàn ông hạnh phúc nhất thế giới, người được Chúa ban cho trái tim cao thượng nhất và nhận được phần thưởng xứng đáng nhất. Chúng tớ hứa là cậu được đón tiếp nồng nhiệt, chào hỏi thân tình và sức khỏe của cậu được đảm bảo y như là nó được giữ chặt tay cậu. Cả hai chúng tớ xin thề là đưa cậu về nhà nếu cậu uống say đến mức mắt mở hết lên nổi. Nào, đến nhé!





      và mãi là bạn của cậu,





      Quincey P.Morris



      ĐIỆN TÍN TỪ ARTHUR HOLMWOOD GỬI CHO QUINCEY P.MORRIS





      Ngày 26 tháng 5.





      Đến chỗ tớ ngay. Tớ có chuyện làm cho cả hai tai cậu phát ù lên nếu nghe thấy. Art.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 6


      NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY




      Ngày 24 tháng 6. Whitby.




      Lucy gặp tôi ở nhà ga, trông bạn ấy dễ thương và đáng hơn bao giờ hết, và chúng tôi quay về những căn phòng ở Crescent. Nơi đây là đáng . Con sông Esk nho chảy qua vùng thung lũng sâu, rồi mở rộng ra khi đến gần cảng. cây cầu dài bắc ngang phía với những chân móng cao vút, khiến cho phong cảnh trải rộng ra hơn tầm vóc thực của nó. Thung lũng là cả màu xanh tuyệt đẹp, và nó dốc đến nỗi khi bạn ở cao bạn có thể nhìn xuyên qua nó, trừ khi bạn ở quá gần để nhìn xuống.


      Những ngôi nhà ở thị trấn cổ nằm đối diện với chúng tôi đều lợp ngói đỏ, nằm san sát nhau giống như những bức tranh chúng tôi thấy ở Nuremberg. Nằm phía bên phải thị trấn là những tàn tích còn lại của tu viện Whitby, bị những người Đan Mạch bỏ hoang, và đó là phần của giáo phái "Marmion", nơi mà tục đa thê khiến các sống chen chúc lẩn nhau. Đấy là khu tàn tích nguy nga có tầm vóc khổng lồ, đầy rẫy những phong cảnh tráng lệ và diễm tình còn sót lại.


      Có truyền thuyết rằng người ta từng thấy tiểu thư mặc đồ trắng giữa những khung cửa sổ của tu viện. Giữa nó và thị trấn là nhà thờ khác nằm trong khu xứ đạo, bao quanh bởi nghĩa địa lớn đầy những ngôi mộ. Đối với tôi, đấy là nơi đẹp nhất của Whitby, nó nằm phía bên phải thị trấn, có thể nhìn tòan cảnh bến cảng và trông ra nơi mũi biển Kettleness vươn mình ra biển cả. Đường từ cảng xuống dốc đến nổi phần đê rơi xuống, tiêu hủy mất số ngôi mộ.




      số ngôi đá vươn ra đến tận con đường cát nằm xa phía dưới. Dọc con đường xuyên qua khu đất nhà thờ này người ta đặt những ghế đá, và lúc nào trong ngày cũng có người đến ngồi ở đấy thưởng thức cảnh đẹp và đón gió.




      Tôi nhất định thường đến ngồi ở đấy và làm việc. lúc này tôi ngồi đây, sách đầu gối, và lắng nghe ba người đàn ông lớn tuổi ngồi cạnh tôi chuyện. Hình như họ chẳng có gì làm, nên họ suốt ngày ngồi đây và tán gẫu suốt.




      Hải cảng nằm phía dưới tôi. Nằm ở phía xa là bức tường dài bằng đá granit vươn thẳng ra biển, kết thúc bằng đường cong, bao bọc giữa chúng là ngọn hải đăng. bức tường khác chạy dài ra khỏi nó. Ở phía bên này, bức tường khác tạo thành đường gãy khúc chạy về phía ngược lại, và cũng tận cùng là ngọn hải đăng khác.Nằm giữa hai bức tường chắn là lối hẹp dẩn vào cảng, thường được mở ra đột ngột.



      Khi thủy triều lên phong cảnh là đẹp, nhưng khi thủy triều xuống nó cuốn sạch mọi thứ dãi cát ngầm, chỉ còn dòng chảy của con sông Esk chảy len lỏi giữa những mỏm đá. Nằm bên ngòai cảng theo hướng này là dãi đá ngầm nhô cao khỏang nữa dặm, chạy thẳng ra từ phía sau ngọn hải đăng phía nam. Tận cùng của nó là cái phao treo cùng với cái chuông. Khi nào thời tiết xấu, nó lại ngân lên những thanh buồn bã được gửi muôn phương theo tiếng gió thỏang.


      Có truyền thuyết rằng khi có con tàu bị đắm tiếng chuông ngân vang lên giữa biển. Tôi phải hỏi người đàn ông già về chuyện này mới được. Ông ta đến kia…




      Đấy là ông già vui tính. Ông ấy hẳn là phải già lắm rồi. Da mặt ông ấy lấm tấm và xương xẩu như vỏ cây.


      Ông ấy bảo rằng ông ấy gần trăm tuổi, khi xưa, khi mà Waterloo được tìm thấy, ông là thủy thủ nằm trong đội thuyền đánh cá Greenland. Tôi nghĩ rằng ông ấy là người rất hay hòai nghi, khi tôi hỏi về những tiếng chuông vang biển và về Tiểu Thư Áo Trắng, ông ta trả lời khá cộc cằn,




      " Tôi chẳng quan tâm gì đến những chuyện ấy, thưa . Những chuyện như thế bị quên lãng sạch rồi. Tôi là chúng chưa bao giờ xảy ra, nhưng tôi là chúng phải xảy ra ở thời của tôi. Chúng hấp dẩn những khách du lịch, những kẻ vi hành, những bọn đại loại như vậy, chứ phải cho tiểu thư trẻ trung xinh đẹp như . Cái lũ lang thang từ York và Leed đến đây để ăn cá trích chữa bệnh và uống trà luôn trông ngóng những câu chuyện rẻ tiền như vậy bởi tính tin dị đoan của chúng. Tôi biết là những tên nào kể lếu láo với chúng, thậm chí còn đăng báo nữa, tòan là những chuyện nhảm nhí."




      Tôi nghĩ rằng người đàn ông này là người thú vị, có thể học tập được nhiều, vì vậy tôi đề nghị ông ấy kể lại cho tôi nghe về công việc đánh cá voi vào những ngày xa xưa. Ông ấy chuẩn bị chuông đồng hồ điểm sáu tiếng, rồi ông nặng nhọc đứng dậy và ,




      " Tôi phải rút về nhà ngay, thưa . Cháu của tôi thích đợi khi bữa trà sẳn sàng. Từ đây về nhà còn xa, và nếu về muộn tôi hụt ăn mất, thưa ."




      Ông ta tập tễnh bước . Tôi thấy ông ta vội vã nhanh hết sức mình xuống những bậc thang. Những bậc thang này là nét đặc biệt của vùng đất này. Nó dẩn từ thị trấn đến nhà thờ, có đến hàng trăm bậc, tôi chẳng thể đếm xuể. Chúng tạo thành những đường uốn lượn thanh nhã, khiến những chỗ dốc trở nên dễ đến nỗi ngựa có thể lên xuống dễ dàng. Tôi nghĩ chắc là chúng được xây dựng cùng lúc với tu viện. Tôi cũng về nhà vậy. Lucy thăm mẹ bạn ấy rồi, và họ chắc có chuyện riêng để tâm , tôi hẳn là nên .


      Ngày 1 tháng 7




      Tôi đến đây cả giờ với Lucy, và có cuộc chuyện thú vị với ông bạn già của tôi và hai người khác luôn nhập bọn với ông. Ông ta ràng là thủ lĩnh của nhóm, và tôi nghĩ rằng lúc thịnh thời hẳn ông này là tay độc tài cực kỳ.


      Ông ta chẳng đồng ý với cái gì cả, và luôn gây với mọi người. Nếu cãi lý thắng, ông ta bèn giở trò át giọng và bắt mọi người phải im lặng đồng ý với ông.




      Lucy trông là đẹp trong chiếc váy trắng. Cứ nhìn thấy bạn ấy là người ta lại trông thấy những sắc màu tươi tắn.




      Tôi thấy ngay là những ông già kia lập tức tiến tới và ngồi sát vào Lucy khi chúng tôi ngồi xuống. Bạn ấy tỏ ra rất thân mật với họ, còn họ có cảm tình với bạn ấy ngay tức khắc. Thậm chí ông bạn già ương ngạnh của tôi cũng chẳng hề tranh cãi gì với Lucy, và tôi tất nhiên cũng được chia xẻ mối cảm tình ấy. Tôi lại gợi chuyện về những truyền thuyết xưa, và ông ấy bắt đầu huyên thuyên. Tôi phải cố nhớ để ghi lại.




      " Tất cả chỉ là những chuyện nhảm nhí, nhăng cuội, tào lao cả. Tất cả những cái mớ ma quỷ, phù thủy, bọn người độc ác gì đó chỉ dùng để dọa trẻ con hay những phụ nữ yếu bóng vía mà thôi. Tất cả những cái lũ ma quỷ, với những dấu hiệu, những lời cảnh cáo của chúng đều được sáng chế ra bởi những kẻ vô công rồi nghề, những tên bịp bợm muốn mọi người làm theo ý chúng. Tôi rất ghét cái lũ đó. Vì sao mà những cái điều chẳng hề được viết lại thành văn và truyền giảng bởi các giáo sĩ lại muốn được khắc lại các ngôi mộ thế kia? hãy nhìn chung quanh .


      Tất cả những ngôi mộ kia, kiêu hãnh đưa ra những giá trị mà bản thân chúng hề có, và sau đó ngã lộn nhào bởi sức nặng của những điều giả dối được khắc chúng. ‘Nơi đây yên nghỉ’ hay là ‘Mãi mãi ghi nhớ’ là những câu được khắc đó, nhưng gần nữa trong số chúng chẳng chôn người nào bên dưới cả, và ký ức về chúng chỉ còn lại như ngọn nến leo lét gần tắt mà thôi. Tất cả đều là giả dối, ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác, giả dối tất. Lạy Chúa, rồi đến cái Ngày Phán Xét ai nấy có cái áo quan của mình, rồi lại khắc lên tấm bia mộ những lời hoa mỹ, trong khi đó họ run rẩy, tuyệt vọng rồi chìm đắm ở đâu đó ngòai biển khơi, nơi mà chẳng bao giờ họ có cái gì chứa đựng họ cả."




      Tôi có thể nhận thấy là người đàn ông già nọ tỏ ra rất tự mãn về bầu khí mà ông gây ra, ông nhìn quanh để tận hưởng tán thành của những người bạn nối khố của mình về những gì mà ông , còn tôi lúi húi ghi chép lại chúng.




      "Oh, ông Swales, thể như lời ông được. Chẳng lẽ những ngôi mộ kia lại là giả hay sao?"




      "Yabblins! Cái số là , là nơi chôn cất những người tốt, những người bị biển cả nuốt chửng. Còn lại tòan là giả dối cả. Nào hãy đến đây. người lạ, và hãy thử nhìn khu nghĩa địa này."




      Tôi gật đầu, vì tôi nghĩ tốt nhất là tôi đồng ý. Cái thứ thổ ngữ của ông già này là khó hiểu. Hình như là ở khu nghĩa địa này có cái gì đó bình thường phải.




      Ông ta tiếp tục, "Và nghĩ rằng tất cả những phiến đá này đều che phủ cho những con người ư?" Tôi gật đầu. "Đều là giả dối sạch. Đó là những thứ được dựng nên vào cái ngày thứ Sáu đen tối."




      Ông ta thúc vào trong những người bạn mình, và cả ba cười phá lên. "Ôi, Chúa ơi! ra những người này là như thế nào? Hãy nhìn thử cái này xem, đọc những gì khắc mộ ấy!"




      Tôi đến gần và đọc, "Edward Spenceland, thủy thủ trưởng, bị cướp biển giết bờ biển Andres, tháng Tư 1854, 30 tuổi." Và khi tôi quay lại, ông Swales tiếp,




      "Tôi tự hỏi là ai mang ông ta về đây, để chôn cất nơi đây? Trong khi bị giết ở bờ biển Andres! Và tin là thi hài của ông ấy nằm đó! A, tôi còn có thể kể tên hàng tá những bộ xương khác nằm vùng biển Greenland đó," ông ta chỉ về hướng bắc, "hoặc những dòng chảy khác cuốn trôi chúng . Và chỉ còn có những tấm bia đá nơi đây. Với đôi mắt trẻ trung của mình, có thể nhìn thấy những dòng chữ giả dối khác được khắc quanh đây.


      Kia là Braithwaite Lowery, tôi biết cha , chết ở Lively off Greenland vào năm 20, hoặc Andrew Woodhouse, chết đuối cùng nơi vào năm 1777, hoặc John Paxton, chết đuối ở Mũi Tạm Biệt vào năm sau, rồi John Rawling, ông biển với tôi, chết đuối ở Vịnh Phần Lan năm 50. có nghĩ là tất cả những người này quay về Whitby khi tiếng kèn trumpet cất lên ? Chắc là họ chen chúc nhau tảng băng trôi miền bắc trong khi chúng tôi ở tảng băng khác từ sáng đến tối, cố buộc lại những kênh đào của chúng tôi bằng ánh bình minh phương bắc." Chắc đây là cách khôi hài của dân địa phương, nên tôi thấy người đàn ông già cười khúc khích, trong khi các bạn ông ta hưởng ứng với vẻ thích thú.




      "Nhưng," tôi , "hình như ông chưa đúng lắm. Ông bắt đầu bằng cách cho rằng những người đáng thương kia, hoặc là linh hồn của họ, được chôn cất và khắc tên bia đá vào Ngày Phán Xét. Điều này làm sao xảy ra được?"


      "Ờ, những tấm bia đá kia được khắc lên làm gì? Trả lời tôi , thưa !"




      "Để an ủi những người thân của họ, tôi nghĩ thế."


      "Để an ủi những người thân của họ, nghĩ thế!" ông ta với khinh miệt rệt. "Làm sao có thể an ủi những người thân của họ với giả dối được viết đây, trong khi tất cả mọi người dân trong vùng đều biết rằng chúng là những lời dối trá?"




      Ông ta chỉ về phía bia đá đổ sập xuống, tạo thành nơi nghĩ chân nằm gần mũi đá nhô ra biển.


      "Hãy đọc những lời dối trá tấm bia đá này," ông ta .




      Những chữ khắc bia đá nằm ở phía bên kia so với chỗ tôi ngồi, nhưng Lucy ngồi ở hướng đối diện, bạn ấy chồm tới và đọc, "Đời đời tưởng nhớ George Canon, chết ngày 29 tháng Sáu năm 1873 do rơi từ mũi đá Kettleness với niềm hy vọng hồi sinh trong vinh quang. Ngôi mộ được lập nên bởi người mẹ đau khổ cho đứa con trai thương thân thiết của bà. ‘ ta là đứa con trai duy nhất của bà, và bà là góa phụ.’


      Ông Swales, tôi chẳng thấy có gì đáng cười ở đây cả!" Bạn ấy với vẻ dũng cảm và nghiêm khắc.



      " chẳng thấy gì buồn cười à! Ha – ha! Nhưng cũng chỉ vì biết rằng người mẹ đau buồn kia là con mèo dưới địa ngục luôn căm ghét đứa con trai bởi vì ta sống quá chuẩn mực, còn con trai ghét mẹ đến nỗi quyết định tự tử để bà ta thể lãnh được số tiền bảo hiểm mà bà ta đóng cho mạng sống của ta. ta bắn vào đầu mình bằng cây súng hỏa mai cũ, nó để lại cái dấu toang hoác đầu ta. Đó là cái cách mà ta rơi xuống từ mõm đá. Và còn cái gọi là phục sinh trong vinh quang nữa chứ.


      Tôi thường nghe con trai với tôi khi nó còn sống là hy vọng được xuống địa ngục, bởi vì mẹ ngoan đạo như vậy chắc hẳn được lên đến thiên đường, và hoàn toàn muốn lẩn quẩn ở bất kỳ nơi nào có mẹ . Chẳng lẽ lời khắc đá " ta đóng đinh bằng cây gậy như lời ta " là sai hay sao? Gabriel, người liệm George phải cân nhắc vô cùng về lời ghi mộ đá của ta, hãy hỏi nếu cần bằng chứng."




      Tôi biết phải gì thêm, nhưng Lucy quay lại cuộc hội thoại ngay, bạn ấy cao giọng, "Ô, vì sao lại với chúng tôi điều này? Đây là chỗ ngồi ưa thích của tôi, và tôi thể xa rời nó được, còn bây giờ tôi biết là tôi phải ngồi bên mộ của người tự sát rồi."




      "Điều đó chẳng có hại gì cho con đâu, con của ta, và điều này có thể làm cho Geordie tội nghiệp cảm thấy được an ủi khi có thiếu nữ xinh đẹp ngồi ghé bên. Nó chẳng có hại gì cho con cả. Ta ngồi ở đây gần hai mươi năm, và có gì phiền tóai đến cho ta đâu. Đừng bận tâm xem những lời khắc kia có phải là những lời dối hay ? Nó để lại cho con những kỷ niệm khi ngày nào đó những ngôi mộ này dời , và chung quanh đây trở nên xơ xác như đám ruộng trơ rạ. đến giờ rồi, ta phải thôi. Sẳn sàng phục vụ các , các tiểu thư!" Và ông ta khập khiễng bước .




      Lucy và tôi ngồi lại thêm lát, và cảnh đẹp trải rộng trước mặt khiến chúng tôi bồi hồi nắm chặt tay nhau.


      Lucy kể lại lần nữa về Arthur và đám cưới sắp đến của họ. Điều này làm tim tôi đau nhói, bởi vì tôi chưa có tin tức gì về Jonathan suốt cả tháng nay cả.




      Cùng ngày hôm đó, tôi quay lại đây, đơn và buồn bã. Chẳng có lá thư nào cho tôi cả. Tôi hy vọng là Jonathan chẳng gặp chuyện gì. Đồng hồ điểm chín giờ. Ánh đèn tỏa lan trong thành phố, chạy thành hàng theo những con đường, và sáng lên đơn độc ở đôi chỗ. Nó chạy dọc phía bên phải dòng Esk và chấm dứt chỗ đường cong dẩn vào thung lũng. Ở bên trái tôi cắt ngang bởi vệt đen tạo ra bởi ngồi nhà cổ nằm cạnh bên tu viện. Bầy cừu kêu buồn ở những cánh đồng phía sau tôi, có tiếng vó lừa lóc cóc ở con đường lát gạch phía dưới. Ban nhạc phía móng cầu chơi điệu valse êm ả, và phía xa bờ ke là đạo quân Salvation tập hợp ở con đường phía sau. Cả hai phía đều chẳng thấy nhau nhưng ở đây tôi thấy và nghe được cả hai. Tôi biết bây giờ Jonathan ở đâu, và ấy có nghĩ về tôi hay ! Ước gì ấy ở đây với tôi.




      NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD




      Ngày 5 tháng 6. – Càng nghiên cứu trường hợp về Renfield tôi càng thích thú khi hiểu thêm về người đàn ông này. Ông ấy ngày càng lộ tính ích kỷ, bí và có mục đích xác định.




      Tôi muốn biết về vấn đề sau này . Ông ta hình như có thời khóa biểu riêng mà tôi chẳng thể biết được. Ông ta bù lại có tình với thú vật, mặc dù đôi khi ông ta tỏ ra rất tò mò khiến tôi cho rằng ông ta chỉ là kẻ độc ác khác thường. Những con thú nuôi của ông ta là những con vật dị thường.




      Bây giờ sở thích của ông ta là bắt ruồi. Cái sở thích kỳ quặc này khiến tôi buộc phải thắc mắc. Tôi kinh ngạc khi thấy ông ta chẳng hề nổi giận như tôi tưởng, mà lại có dáng vẻ nghiêm túc khi trả lời. Ông ta nghĩ lúc, đoạn , " Cho tôi ba ngày? Tôi giũ sạch chúng." Tất nhiên, tôi chấp nhận. Tôi phải chú ý đến ông ta.




      Ngày 18 tháng 8. – Bây giờ ông ấy quay sang bắt nhện, và bỏ những con lớn vào trong hộp. Ông ta nuôi nhện bằng những con ruồi của ông ấy, và số lượng ruồi ông ta có được giảm đáng kể, mặc dù ông ta cố quyến rũ chúng bằng phân nữa số thức ăn ông ta có.




      Ngày 1 tháng 7. – Số nhện của ông ta trở nên nhiều đến nỗi khiến lòai ruồi trong phòng gần tuyệt chủng, và tôi với ông ta rằng cần phải dẹp bỏ bọn nhện .




      Ông ta trông có vẻ rất buồn bã, nên tôi rằng ông ta có thể giữ lại số trong bọn chúng. Ông ta vui mừng với cho phép này, và tôi cho ông ta số thời gian để lựa chọn.


      Ông ta làm tôi vô cùng ghê tởm, khi mà dùng những thứ thức ăn thối rửa để thu hút bọn ruồi nhặng dơ dáy.


      Chúng bay vo ve đầy phòng, ông ta bắt lấy chúng, vui mừng vân vê chúng giữa hai ngón tay, và trước khi tôi hiểu ra ông ta định làm gì, ông ta bỏ chúng và miệng và ăn chúng.




      Tôi la rầy ông ta về chuyện này, nhưng ông ta tranh cãi cách mềm mỏng rằng chúng rất ngon và vô hại, chúng rất có lợi cho sức khỏe và mang lại cuộc sống cho ông ta. Điều này làm tôi nảy ra ý nghĩ, suy nghĩ tiền đề. Tôi phải theo dõi xem ông ta làm cách nào mà giũ bỏ bọn nhện.




      Ông ta ràng là có điều gì ám ảnh sâu trong tâm hồn, vì ông ta có bên mình cuốn sổ tay, ông ta thường ghi chép vội vã vào đó. Có trang ông ta vẽ đầy những con số được xếp thành dãy, tổng số của chúng lại được xếp thành từng dãy khác, và ông ta chăm chú tính tóan như kế tóan viên thực thụ.



      Ngày 8 tháng 7. - Lại có trò điên của ông ta, và cái ý tưởng phôi thai trong tôi định hình dần. Nó trở thành ý nghĩ tòan vẹn sớm thôi, đó là hoạt động ý thức của não.




      Tôi tránh mặt bạn bè vài ngày để quan sát mọi thay đổi có thể diễn ra. Chẳng có gì mới, ngoại trừ việc ông ta chia tay với số con vật thân thiết của mình và bắt thêm số mới.


      Ông ta cố gắng bắt được con chim sẻ và ra sức thuần hóa nó. Quá trình thuần hóa của ông ta dẩn đến kết quả đơn giản là giảm bớt số nhện . Tuy nhiên số còn lại vẩn cần phải ăn, và ông ta lại tiếp tục dùng thức ăn của mình để quyến rũ lòai ruồi.




      Ngày 19 tháng 7. – Chúng ta lại có tiến bộ mới đây. Ông bạn của tôi có được tập đoàn chim sẻ, còn lũ ruồi và nhện gần như tiêu ma hoàn toàn. Khi tôi đến ông ta chạy ào đến chỗ tôi và rằng ông ta muốn cầu tôi đặc ân, đặc ân rất quan trọng. Và trong khi , ông ta xun xoe chung quanh tôi như con chó.




      Tôi hỏi ông ta xem đặc ân đó là gì, và ông ta với dáng vẻ và giọng điệu đầy hí hửng, " con mèo con, con mèo con khỏe mạnh, dễ thương để tôi chơi với nó, và cho nó ăn, cho nó ăn, cho nó ăn!"



      Tôi chưa chuẩn bị cho cầu như vậy, nhưng chẳng khó để nhận ra rằng cái lũ vật nuôi của ông ta ngày càng gia tăng về kích cỡ và tiến hóa, và tôi dám chắc là cái bầy sẻ được thuần dưỡng của ông ta rồi được biến cùng cách với lũ ruồi và nhện hay . Vì vậy tôi hỏi xem vì sao ông ta chọn con mèo lớn thay cho chú mèo con.


      hăm hở của ông ta phản bội lại ông khi ông trả lời, "Ồ, vâng, tôi thích con mèo! Tôi chỉ xin con mèo con vì ngài có thể từ chối tôi chú mèo lớn. Tôi con mèo con chứ ạ?"



      Tôi lắc đầu, và rằng giờ tôi e rằng điều đó là chưa được, nhưng tôi xem xét nó. Khuôn mặt ông ta xịu xuống, và tôi có thể thấy những nét đe dọa và nguy hiểm bên trong nó, manh nha ý định giết người.


      Con người có bản năng điên dại giết người tiềm trong mình. Tôi kiểm tra ông ta qua cầu mà ông vừa đưa ra và xem mọi chuyện diễn tiến như thế nào, tôi biết thêm.




      Mười giờ tối. - Tôi thăm ông ta lần nữa và thấy ông ta ngồi ngẫm nghĩ ở góc phòng. Khi tôi đến, ông ta quỳ sụp xuống đầu gối và khẩn nài ông ta cho ông con mèo, rằng cứu rỗi của ông ta phụ thuộc vào đó.




      Tuy nhiên tôi rất cương quyết rằng cầu này là thể giải quyết được. Vậy là ông ta thêm nữa lời, quay về góc của mình và gặm ngón tay. Tôi gặp lại ông ta vào sáng sớm mai.




      Ngày 20 tháng 7. – Tôi đến thăm Renfield rất sớm, trước khi những người chăm sóc mang ông ta dạo. Tôi thấy ông ta ư ử giai điệu vo ve. Ông ta ve vẩy cục đường mà ông ta còn để dành được ra ngòai cửa sổ, với ý định ràng là tái lập lại cái trò bắt ruồi, với khởi đầu đầy hứng khởi và khéo léo.




      Tôi nhìn quanh tìm những con chim của ông ta, nhưng chẳng thấy đâu. Tôi bèn hỏi ông ta xem chúng đâu.


      Ông ta trả lời mà chẳng buồn quay lại rằng chúng bay mất rồi. Có đám lông vũ vung vãi trong phòng, máu rỏ ra từ cái xích của ông ta. Tôi gì thêm, quay ra dặn người coi giữ phòng phải báo cáo ngay với tôi tất cả những gì lạ lùng xảy đến với ông ta trong ngày.




      11 giờ sáng. – Người chăm sóc phòng vừa đến rằng Renfield bệnh và ông ta nôn ra tòan lông chim.


      "Thưa bác sĩ, tôi tin rằng ," ta , "ông ta ăn những con chim của mình. Ông ta bắt và ăn sống chúng."




      11 giờ tối. – Tôi cho Renfield uống liều thuốc ngủ mạnh khiến ông ta nằm mê , rồi lấy cuốn sổ trong túi ông ta ra để đọc. Những điều thắc mắc lẩn quẩn trong đầu tôi được giải đáp, những lý thuyết của tôi được chứng minh.




      Tôi gặp trường hợp bản năng cuồng sát đặc biệt. Tôi nghĩ ra cách giải thích khác cho trường hợp của ông ta, mà tôi gọi là cuồng ăn thịt (thịt sống). Cái mà ông ta muốn là hút càng nhiều sống vào người càng tốt. Ông ta cho con nhện ăn nhiều con ruồi, con chim ăn nhiều con nhện, rồi ông ta muốn con mèo ăn nhiều con chim. Tiếp theo ông ta muốn tới cái gì đây?




      Cái giá phải trả để hòan tất những kinh nghiệm này cũng đáng lắm chứ. Nó hòan thành nếu như nó có được nguyên nhân chính đáng. Lòai người từng chế nhạo việc mổ xẻ, nhưng hãy nhìn những thành tựu mà công việc này đem lại ngày nay! Vì sao phát triển của khoa học luôn gặp phải những khó khăn và thách đố vì những định kiến từ đầu óc con người?




      Nếu tôi nắm được bí mật này, tôi biết được điều cốt yếu để sâu vào tâm hồn những người mất trí, tôi có những đóng góp đáng giá vào khoa học để so sánh với nhà sinh lý học Burdon – Sanderson hoặc thiên tài Ferrier. Nếu như nó có được nguyên nhân chính đáng! Đừng nghĩ nhiều về nó, hoặc là tôi làm cho mình trở nên kích động mất. điều khiến tôi bình tâm, đó là tôi phải là người có tài năng đặc biệt bẩm sinh.




      suy luận của con người tuyệt vời. Những người mất trí luôn sống trong thế giới riêng của họ.


      hiểu người đàn ông này đánh giá con người bằng với bao nhiêu sống, hay chỉ bằng thôi.


      Ông ta gần tính chính xác được rồi, và hôm nay ông ấy lại bắt đầu bản ghi mới. Ai trong số chúng ta bắt đầu nghiên cứu mỗi ngày để tính tóan về sống của chính chúng ta.




      Tối qua cuộc sống của tôi gần như kết thúc đối với tôi và tôi bắt đầu tính tóan lại cho mình cuộc sống mất. Nó tiếp tục cho đến khi Quan Tòa Vĩ Đại cộng hết tất cả lại cho tôi trong con tính cuối cùng, cân bằng lại cho tôi những lợi nhuận và mất mát của tôi.




      Ôi, Lucy, thể giận em, cũng như thể giận bạn mình, người hạnh phúc cùng em. Nhưng chỉ có thể đợi chờ trong hy vọng và làm việc. Làm việc! Làm việc!




      Nếu như tôi có thể mạnh mẽ được như người bạn mất trí tội nghiệp của tôi nhỉ, với lý do tốt đẹp, vị kỷ để làm công việc của tôi. Đó là điều hạnh phúc .


      NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY




      Ngày 26 tháng 7. – Tôi là lo âu, và chỉ có thể xoa dịu bằng cách tự kể với mình bằng những trang nhật ký này. Điều đó giống như người tự thầm và lắng nghe chính mình cùng lúc. Và đó cũng là lý do tôi dùng những ký hiệu viết tắt, nó gây ra cảm giác khác biệt so với chữ viết thường. Tôi vui về Lucy và Jonathan.


      Tôi chẳng có tin tức gì về Jonathan thời gian qua, và rất lo lắng. Nhưng hôm qua ngài Hawkins đáng mến, người luôn luôn tỏ ra tốt bụng, chuyển cho tôi bức thư của ấy. Tôi viết thư hỏi thăm ấy, ấy trả lời là nhận được thư. Và chỉ có hàng đề ngày tháng từ Lâu đài Dracula , báo tin ấy bắt đầu trở về nhà. Chẳng giống Jonathan tí nào. Tôi hoàn toàn hiểu gì, và điều này làm tôi bất an.




      Lại còn Lucy nữa. Mặc dù bạn ấy vẩn khỏe, nhưng dạo gần đây bệnh mộng du của bạn ấy bắt đầu quay trở lại.


      Mẹ bạn ấy có bàn về chuyện này với tôi, và chúng tôi quyết định rằng tôi khóa cửa phòng chúng tôi mỗi tối.

      Bà Westenra có cho tôi biết là những người mộng du hay mái nhà, dọc theo những cạnh đá. Thình lình họ tỉnh giấc và rơi xuống với những tiếng kêu thảng thốt làm vang động chung quanh.




      Bà mẹ tội nghiệp tất nhiên là rất lo lắng cho Lucy. Bà ấy với tôi là chồng bà, tức cha Lucy, cũng có thói quen như vậy. Ông ấy thức giấc vào nữa đêm, tự thay quần áo và ra ngòai nếu ai đánh thức dậy.




      Lucy cưới vào mùa thu, và bạn ấy chuẩn bị quần áo và nhà cửa của mình. Tôi thông cảm với bạn ấy, tôi cũng làm như vậy nếu tôi là bạn ấy.Chỉ có điều tôi và Jonathan sống cuộc sống đơn giản, và cố hòa hợp hai lối sống với nhau.




      Holmwood, ấy tên là Hon. Arthur Holmwood, là con trai duy nhất của ngài Godalming, thỉnh thỏang lại đến, ngay khi ấy có thể rời thị trấn được, vì cha ấy được khỏe. Tôi thấy Lucy luôn khắc khỏai chờ ấy đến.




      Bạn ấy luôn muốn ngồi cùng ấy khu đất nhà thờ, chỉ cho ấy cảnh đẹp miền Whitby. Tôi dám chắc là chờ đợi làm bạn ấy rối tung lên, và bạn ấy trở lại bình thường khi ấy đến chơi.



      Ngày 27 tháng 7. – Chẳng có tin tức gì của Jonathan. Tôi cảm thấy vô cùng lo lắng cho , nhưng tôi chẳng biết phải làm gì. Ước gì ấy viết cho tôi, dù chỉ hàng.




      Lucy lại càng hay mộng du, mỗi đêm tôi đều bị đánh thức bởi tiếng chân bạn ấy lang thang khắp phòng. May là dạo này trời nóng nên bạn ấy bị nhiễm lạnh. Nhưng xáo động liên tục ấy rốt cuộc ảnh hưởng đến tôi, tôi trở nên căng thẳng và mất ngủ. Tạ ơn Chúa, sức khỏe của Lucy vẩn ổn. Holmwood vừa đột ngột được gọi về gặp mặt cha, vì ông ấy yếu nhiều. Lucy cáu kỉnh vì bị chia cắt, nhưng để lộ điều ấy ra mặt. Bạn ấy cố đùa cợt, và má bạn ấy đỏ hồng lên đáng . Bạn ấy còn xanh xao nữa. Tôi mong sao điều ấy diễn ra mãi.




      Ngày 3 tháng 8. – Lại tuần nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì về Jonathan, hay thậm chí là từ ông Hawkin, người tôi nóng lòng chờ đợi. Ôi, tôi mong sao ấy đừng ngã bệnh. ấy phải nên viết cái gì cho tôi chứ. Tôi xem lại bức thư cuối cùng của ấy, nhưng nó chẳng làm tôi thỏa mãn. Nó giống cách ấy viết, dù là nét chữ của ấy. thể sai lầm được.




      Trong tuần này Lucy mộng du nhiều như trước, nhưng bạn ấy có cái vẻ quan tâm là lạ nào đó mà tôi hiểu, hình như ngay trong khi ngủ bạn ấy cũng theo dõi tôi. Bạn ấy thử mở cửa, và khi thấy cửa khóa bạn ấy lùng sục trong phòng để tìm chìa khóa.




      Ngày 6 tháng 8. – Lại ba ngày nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì. Khỏang thời gian chờ đợi này là chết người. Chỉ cần biết nơi nào đó để viết vài chữ hay để đến, tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng chẳng ai biết gì thêm về Jonathan kể từ lá thư cuối cùng của ấy. Tôi chỉ còn biết cầu Chúa để giúp mình kiên nhẫn hơn.



      Lucy trở nên kích động hơn, nhưng ngòai ra mọi thứ đều tốt đẹp. Đêm hôm qua tiết trời có vẻ là lạ, và những người đánh cá rằng sắp có cơn bão ập đến chỗ chúng tôi. Tôi phải học cách quan sát và đóan nhận từ những dấu hiệu do thời tiết mang lại mới được.




      Ngày hôm nay là u ám, và khi tôi viết những dòng này mặt trời vào những đám mây dày che phủ miền Kettleness. Mọi thứ đều u ám ngoại trừ bãi cỏ xanh nổi lên như viên ngọc lục bảo giữa phong cảnh chung quanh. Những mỏm đá màu xám, những đám mây màu xám, pha lẫn với ánh mặt trời nhàn nhạt xa xa, trôi lững lờ mặt biển, phủ màu xám lên tòan bộ bức tranh thiên nhiên. Biển như tràn ngập lên tất cả những chỗ cạn và những dãi cát với màn sương hung dữ, dày đặc từ đại dương vào đất liền.


      Chân trời biến mất trong màn sương xám xịt này. Tất cả đều mênh mông xa vắng, mây trời ùn ùn kéo lại thành từng lớp như những tầng đá khổng lồ, và thỉnh thoảng lại có những tiếng kêu vang dội khắp mặt biển như vang lên từ địa ngục. bóng đen thỉnh thỏang lại xuất mặt biển, đôi khi chìm khuất trong màn sương, giống như ‘người đàn ông bộ những mảnh ván’. Những chiếc thuyền đánh cá vội vã quay trở vào bờ. Sóng biển cuồn cuộn hung hãn đập vào bờ như muốn cuốn phăng cả hải cảng , rồi rút ra qua những lỗ thông nước. Ông bạn già Swales đến thăm. Ông ta thẳng lại chỗ tôi, và qua cái cách ông ta nhấc mũ tôi hiểu rằng ông ta muốn chuyện.




      Tôi có phần xúc động trước thay đổi nơi người đàn ông tội nghiệp già cỗi này. Khi ông ấy ngồi cạnh tôi, ông với vẻ rất lịch thiệp, "Tôi muốn với đôi điều, thưa ."




      Tôi thấy ông ấy bình tĩnh lắm, nên tôi nắm lấy bàn tay nhăn nheo già nua của ông trong tay tôi và ông ấy hãy cứ hết.




      Ông ta rút tay ra khỏi tay tôi và , " quý của tôi, tôi sợ rằng làm bị sốc với những điều khủng khiếp tôi sắp ra về cái chết.Trong những tuần qua tôi về chúng, nhưng tôi muốn nhớ kỹ khi tôi ra . Chúng tôi là những kẻ lang thang sau những bánh lái khắp mọi nơi trái đất, mà chẳng có ai buồn nghĩ đến nó, chúng tôi cũng chẳng sợ hãi gì về nó. Trái tim tôi tự hào rằng tôi hoàn toàn xem thường cái chết. Nhưng mà, bạn ạ, Chúa phù hộ cho , tôi chẳng sợ gì cái chết, nhưng tôi muốn chết nếu như tôi vẩn còn có thể tìm thấy lối thóat.


      Thời điểm của tôi sắp đến rồi, và tôi biết rằng, trăm năm là cuộc đời dài so với cuộc sống của con người, và tôi cảm thấy lão Thần Chết vung lưỡi hái của lão đâu đây. thấy đấy, tôi vẩn chưa dứt được thói quen đùa cợt với nó. Cái lưỡi hái ấy lão vẩn thường vung lên trước mặt tôi như trò đùa quen thuộc của . Rồi sắp đến thổi lên tiếng kèn gọi của cho tôi. Nhưng đừng tỏ ra như thế chứ, bạn thân !" – đó là lúc ông ấy thấy tôi khóc – "nếu đến vào lúc khuya khoắt này tôi từ chối chẳng thèm trả lời lời gọi của đâu. Cuộc sống là cái mà, sau khi những gì mà người ta làm được, người ta chờ đợi cái gì khác xảy đến, cái chết chính là cái điều hợp lý để đợi chờ. Nhưng tôi hài lòng nếu nó đến với tôi, bạn thân mến, và hãy đến nhanh lên.


      Nó có thể đến trong khi được trông ngóng và đợi chờ. Có thể nó nằm đâu đó trong những cơn gió biển mang đến mất mát và tàn phá, làm tâm hồn tan nát, làm con tim nhói đau. Nhìn xem! Nhìn xem!" ông ta đột ngột kêu lên. "Có cái gì đó trong cơn gió này. Nó mang theo mùi vị, thanh, mang theo sắc màu của cái chết. Nó đâu đó trong khí. Tôi cảm thấy nó đến đấy. Chúa ơi, hãy làm cho vui sướng khi ngài gọi con!" Ông ta giơ tay lên cách nhiệt thành, nhấc mũ lên. Môi ông ta mấp máy như cầu nguyện. Sau vài phút im lặng, ông ấy đứng dậy, bắt tay tôi, chúc phúc cho tôi, rồi chào tạm biệt và khập khiểng bước . Điều này làm tôi xúc động tận tâm can và buồn rầu ngớt.




      Tôi vui lên khi người lính tuần duyên đến mình, với cái kính viễn vọng trong tay. Ông ta dừng chân chuyện với tôi như mọi khi, nhưng vẩn chăm chú theo dõi con tàu lạ.




      "Con tàu này lạ quá," ông ta . "Nó là tàu Nga, qua dáng vẻ bên ngòai. Nhưng nó kéo còi liên tục cách dị thường. Hình như chẳng có ai điều khiển nó. Giống như nó thấy trước cơn bão, nhưng biết là nên chạy thẳng lên phía bắc để tránh hay cập vào đây. Nhìn lại xem! Nó di chuyển rất kỳ quặc, hình như chẳng có ai điều khiển bánh lái cả. Cứ mỗi cơn gió lại làm nó đổi hướng. Ngay trước sáng mai chúng ta biết thêm về nó."

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 7


      (ĐƯỢC DÁN TRONG NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY)


      Theo tin của phóng viên.




      Whitby.



      trong những cơn bão hung hãn và bất ngờ nhất mà người ta ghi nhận lại được diễn ra ở đây, mà kết quả để lại của nó lạ lùng và khó tin. Thời tiết gần đây có vẻ khá oi bức, nhưng cũng đến nỗi quá đặc biệt trong tiết tháng Tám này. Chiều chủ nhật vẩn đẹp trời như thường lệ, và lượng khách du lịch khổng lồ đổ dồn về hôm qua được dẩn thăm Rừng Mulgrave, Vịnh Robin Hood, Đồi Rig, Runswick, Staithes và những địa danh du lịch khác chung quanh Whitby.


      Những con tàu hơi nước thực những chuyến du hành lên xuống bờ biển, và số lượng khách du lịch đến và Whitby tăng lên cách bất thường. bất thường tuyệt diệu đó kéo dài đến tận trưa, cho đến khi số tin đồn được lan ra từ Vách đá Phía Đông khu nhà thờ, rằng giáo chủ ra lệnh hãy để quang bờ biển phía bắc và phía tây, để có thể thuận tiện quan sát xuất của tượng "đuôi ngựa cái" bầu trời phương bắc. Gió nam thổi mơn man, mà theo ngôn ngữ khí tượng học là ‘Gió cấp hai, thổi .’




      Những người lính tuần duyên làm những bản báo cáo theo đúng chức năng của mình, và người đánh cá già, người hơn nữa thế kỷ quan sát những dấu hiệu của thời tiết từ Vách đá Phía Đông, tiên đóan dứt khóat về cơn bão sắp diễn đến thình lình. Hòang hôn diễn ra đẹp tuyệt vời, với những đám mây hòa lẫn nhiều sắc màu pha trộn thành bức tranh hùng vĩ, khiến cho khối lượng lớn khách dạo vách đá nằm khu nghĩa địa gần nhà thờ tập trung lại để thưởng thức cảnh đẹp.


      Trước khi mặt trời chìm hẳn vào bóng đêm của Kettleness, nó liều lĩnh xuyên qua vùng trời phía tây, khiến quá trình lặn dần của nó tạo nên vô số những đám mây sặc sỡ với những màu sắc đặc trưng cho buổi hòang hôn, hồng lửa, tía, hồng cẩm chưởng, xanh lá cây, tím violet và tất cả các cung bậc khác nhau của sắc vàng, pha trộn với những mảng đen đây đó với nhiều hình dạng khác nhau, phác họa lên hình bóng đêm đen ấn tượng. Cảnh đẹp chiều nay chẳng thể nào phai mờ trong tâm hồn những người nghệ sĩ, và còn nghi ngờ gì nữa, những nét phác thảo về bức tranh "Khúc dạo đầu cho Cơn Bão Lớn" làm rạng danh cho những bức tường của R.A và R.I vào tháng Năm tới.




      Nhiều loại tàu khác nhau được thuyền trưởng của mình cho cập vào cảng, với ý định ở lại đây cho đến khi bão tan. Gió tắt hẳn trong suốt chiều, và đến nữa đêm khí vô cùng oi bức và ngột ngạt do còn chút gió biển nào, và tiếp theo cách thường lệ là những tiếng sấm vang dội làm run sợ những người yếu bóng vía.




      Có vài ánh chớp lóe lên biển, chiếu sáng những con tàu chạy hơi nước được neo chắc gần cột chống bờ biển, và vài chiếc thuyền đánh cá khác. Chiếc tàu duy nhất ngòai khơi là chiếc thuyền buồm ngoại quốc với tất cả các cánh buồm được giương lên, hình như định về phía tây. liều lĩnh hoặc ngây thơ của những kẻ điều khiển chiếc tàu buồm này làm dội lên những tiếng bình luận ngớt trong khi nó còn được nhìn thấy, trong lúc mọi người cố gắng ra hiệu cho nó biết nguy hiểm ập đến với chuyến của nó.


      Trước khi đêm xuống hẳn chiếc thuyền buồm còn được trông thấy bềnh bồng giữa những cơn sóng chập chờn của biển cả cách bình thản.




      "Nó bình thản như con tàu được vẽ bức tranh về biển."




      Gần đến mười giờ, thời tiết vẩn oi bức, và im lặng bao trùm làm nổi bật lên những tiếng kêu của bầy cừu, những tiếng sủa xa xăm của lũ chó bên trong thị trấn, khiến cho giữa hai đầu bờ đê như chìm trong buổi hòa lặng lẽ của thiên nhiên mang đầy đặc trưng của nước Pháp. Sau nữa chút tiếng động lạ vọng lại từ bờ biển, và vang trong khí là tiếng nổ lớn vọng về từ xa vắng.


      Rồi thình lình cơn bão ập đến mà chẳng có gì báo trưóc. Với tốc độ nhanh đến mức tưởng, mà sau đó người ta thể hình dung lại được, tòan bộ thiên nhiên như bùng lên cơn chấn động khôn cùng.


      Những cơn sóng hung hãn dâng cao, đợt này nối tiếp đợt khác, làm cho biển cả chỉ êm ả mới đây nay trở nên hung hăng và cuồng nộ như con quái vật. Những cơn sóng điên cuồng tràn lên bãi cát và cuốn mọi thứ vách đá. Những cơn sóng khác công phá vào bến tàu, bọt sóng tung tóe đến tận những ngọn đèn hải đăng treo ở hai đầu Cảng Whitby.




      Gió biển gầm vang như cơn sấm sét, và thổi mạnh đến nỗi ngay cả người khỏe mạnh cũng khó có thể đứng vững đôi chân của mình nếu như được móc chặc vào cây cột thép. Người ta thấy là cần phải giải tán ngay cái đám đông khổng lồ tập trung ở chỗ móng đê, nếu thiệt hại do cơn bão gây ra trong đêm nay càng gia tăng lớn hơn. Thêm vào cho những khó khăn và nguy hiểm của tình thế, bầy lớn những con hải cẩu tràn vào bờ. Cái đám đông trắng và ẩm ướt kia lập tức bị quét cách ma quái bởi bầy thú nhám nhúa, đen đua và lạnh giá này. Có thể tưởng tượng rằng linh hồn của những con hải cẩu bị chết ngày xưa trong biển cả chạm những bàn tay lạnh giá của cái chết vào những đồng loại của chúng, và nhiều người chợt rùng mình khi màn sương cuồn cuộn của biển cả tan ra.




      Ngay khi sương tan ra, mặt biển chớp lên vầng hào quang sáng chói, rực rỡ và mau chóng, tiếp theo là hàng loạt những tiếng gầm của sấm sét khiến cho cả bầu trời cao như run rẩy dưới những bước chân hung hãn của bão tố.




      Quang cảnh diễn ra có dáng vẻ hùng vĩ khôn tả và thu hút hết thần trí của con người. Biển cả cuộn lên những cơn sóng cao như những ngọn núi, tung lên trời những đám bọt trắng xóa, giống như thiên nhiên muốn vồ lấy mọi thứ và ném chúng vào giữa khoảng vô tận. Thấp thóang những chiếc thuyền đánh cá, buồm rách tả tơi, cuống cuồng tìm kiếm chỗ nấp giữa thiên nhiên hung dữ, là những đôi cánh trắng của những con hải âu bị dập vùi giữa các đợt sóng khổng lồ. đỉnh của Vách Đá Phía Đông có cây đèn pha lớn vừa được đưa ra thử nghiệm, nhưng chưa được sử dụng lần nào.


      Bây giờ những nhân viên phụ trách của nó bắt đầu điều khiển, và ánh sáng của nó xua tan bóng tối rọi sáng bề mặt của biển cả. nỗ lực của nó cũng có tác dụng được hai lần, khi mà chiếc thuyền đánh cá bị nước tràn qua mép có thể tìm về cảng cách an tòan dưới điều khiển của ánh đèn pha, tránh được mối nguy hiểm va vào các chân đê. Khi mỗi chiếc thuyền đánh cá an toàn về đến cảng đám đông đứng bên bờ biển lại kêu lên những tiếng vui mừng, những tiếng kêu như muốn xua tan cơn bão và tống khứ chúng .




      Chẳng mấy chốc chiếc đèn pha phát ra từ phía xa con thuyền buồm với những cánh buồm giương cao, ràng nó chính là chiếc thuyền gây nên chú ý ban chiều. Gió bây giờ thổi ngược về phía Đông, và cái rùng mình lan giữa đám đông khi họ nhận thức mối nguy hiểm mà chiếc thuyền phải đương đầu.




      Giữa con tàu này và cảng là dãi đá ngầm lớn mà qua nhiều thế hệ làm bao con thuyền phải khốn khổ, và với hướng gió hung hãn như thế này, khó mà con thuyền kia có thể về đến cảng.




      Thủy triều càng lúc càng dâng cao, các cơn sóng càng lúc càng mạnh, chúng gần như nuốt chửng bờ biển, và chiếc tàu buồm kia, với tất cả các cánh buồm vẩn giương cao, vẩn lướt băng băng. Người ta nghe thấy tiếng của thủy thủ lão luyện vang lên "nó chỉ có thể dừng lại ở nơi gọi là địa ngục mà thôi." Rồi màn sương biển khác ập đến, dày đặc hơn lúc nào hết. Cái khối sương ẩm ướt kia phủ tấm vải xám lên mọi vật, và bây giờ người ta chỉ còn nghe thấy những giọng , tiếng gầm của thời tiết, tiếng vang của sấm sét, và rồi tiếng động khủng khiếp truyền mơ hồ giữa các cơn sóng, lớn hơn tất cả các tiếng động trước đây. Hướng rọi sáng của đèn pha được giữ từ phía cổng hải cảng xuyên qua Vách Đá Phía Đông, và mọi người đều chờ đợi cú sốc, tất cả đều nín thở.




      Gió biển thình lình thổi giạt sang hướng bắc, và khối sương còn đọng lại cũng tan trong gió. Và, điều kỳ diệu xảy ra, giữa những nhịp đê, trườn mình lên những ngọn sóng, xông pha cách liều lĩnh, con tàu buồm lạ lùng kia vẩn lướt cùng gió, tất cả các cánh buồm giương cao, và cập bến an toàn vào cảng. Ánh đèn pha vẩn dõi theo nó, và tất cả mọi người khi trông nó đều rùng mình bởi họ nhìn thấy thi hài được buộc chặt nơi bánh lái con tàu, đầu gục xuống, lắc lư cách kinh khiếp theo từng nhịp sóng. còn ai khác ở tàu.




      nỗi kinh khiếp lan giữa mọi người, khi họ nhận thấy rằng con tàu kia, bằng phép màu kỳ diệu, tìm về được hải cảng dưới bàn tay cầm bánh lái của người chết. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra còn nhanh hơn hơn là chúng được ghi lại. Chiếc tàu buồm kia dừng lại, cứ thế đâm sầm qua cảng, lao vào khối cát và sỏi được tráng lên bởi những cơn sóng thủy triều và những cơn bão thổi về góc phía nam của bến tàu nhô lên dưới Vách Đá Phía Đông, được gọi là Ngọn Đồi Bến Tàu Tate.




      Tất nhiên là con tàu chịu chấn động khủng khiếp khi nó lao vào khối cát. Tất cả cột trụ, dây thừng, dây néo đều căng lên, rồi sập xuống như bị cây búa khổng lồ nện xuống. Nhưng lạ lùng hơn hết thảy là ngay khi con tàu chạm vào bờ biển, con chó khổng lồ phóng vụt xuống, và giống như bị kích thích bởi chấn động, phóng vội , nhảy những bước dài các mô cát.




      Nó chạy thẳng về phía vách đá cao, nơi có con đường dẩn từ khu nghĩa địa vào Bến Tàu Phía Đông, nơi có ngôi mộ hay những bia đá được gọi bằng những thứ tiếng địa phương của Whitby. Người ta có kế hoạch trùng tu lại vách đá để nó đừng đổ ập xuống. Con chó biến mất vào bóng tối, điều này càng gây nên ấn tượng mạnh khi mà ánh đèn pha vẩn dõi chặt theo nó.


      Khi điều này xảy ra chẳng có ai ở Ngọn Đồi Bến Tàu Tate cả, bởi vì tất cả ngôi nhà ở đó đều đóng chặt cửa để ngủ hoặc leo lên đồi để quan sát. Đoạn người lính tuần duyên làm phận ở phía tây hải cảng chạy xuống bến tàu , ta là người đầu tiên leo lên boong. Những người điều khiển đèn pha, sau khi sục xạo lối vào hải cảng mà chẳng thấy gì thêm, bèn chiếu hờ hững ánh đèn lên tàu và giữ nó ở yên đấy.


      Người lính tuần duyên chạy xuống đuôi tàu, đến bên bánh lái để kiểm tra, và thình lình giật lùi lại như gặp phải biến cố gì đó thình lình. Điều này càng khêu gợi tò mò chung, và lượng lớn người bắt đầu chạy đến.




      con đường vòng từ Vách Đá Phía Tây qua cây cầu Draw dẩn đến Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, và người phóng viên trung thành của bạn là tay chạy rất tuyệt, ta dẩn dầu đông. Tuy nhiên, khi tôi đến nơi, tôi thấy đám đông bao quanh bến tàu, nhưng những người lính tuần duyên và cảnh sát cho phép ai vào cả. Nhưng đội trưởng của những người chèo thuyền thuê lịch lãm khi cho phép tôi, người phóng viên trung thành của bạn, được phép leo lên boong. Ở đây có nhóm quan sát người thủy thủ chết lúc này vẩn còn bị buộc chặt vào bánh lái.




      có gì lạ khi người lính tuần duyên tỏ ra ngạc nhiên, thậm chí kinh sợ trước những gì được nhìn thấy.


      Người chết chỉ bị buộc hai tay vòng qua bánh lái để ta được giữ chặt với nó. Nắm giữa tay và lớp gỗ là cây thánh giá, chuỗi tràng hạt được buộc vòng quanh cổ tay và bánh lái, và được giữ chặt bằng những sợi thừng buộc lại. Người đàn ông khốn khổ bị ngồi xuống bởi những cánh buồm được đặt xuyên qua bánh lái, giữ ta lắc lư quật ta lên xuống qua lại, và những sợi thừng trói ta cắt qua da thịt vào đến tận xương.


      Người ta ghi chép cẩn thận lại mọi chuyện, và bác sĩ, bác sĩ giải phẫu J.M.Caffyn, ở 33, Vùng Đông Elliot, người đến ngay sau tôi, sau khi kiểm tra, rằng người đàn ông này chết được khỏang hai ngày.




      Trong túi ta là cái chai, mà sau khi mở nút, người ta cẩn thận lấy ra cuộn giấy, những thứ sau này được biết là phần thêm vào của nhật ký hàng hải.




      Người lính tuần duyên rằng người đàn ông này tự trói mình, và buộc gút bằng răng. kiện người lính tuần duyên là người đầu tiên lên tàu gây ra những rắc rối sau này, vì theo luật hải quân, người lính tuần duyên có quyền đòi hỏi quyền lợi mà thường dân được hưởng nếu ta vào con tàu bỏ hoang. Tuy nhiên, việc tranh cãi về tính hợp pháp để sỡ hữu những tài sản này còn được tranh cãi, sinh viên luật trẻ lớn tiếng chứng minh rằng dù người chủ nhân có tòan quyền dâng hiến tài sản của mình, tuy nhiên việc chiếm hữu tòan bộ những tài sản là hợp pháp, bởi vì bánh lái vẩn còn được giữ trong tay người chết như là tượng trưng cho sở hữu.




      Chẳng cần phải thêm là người thủy thủ xấu số được mang chôn cất cách trang trọng từ cái nơi mà ta dũng cảm gìn giữ danh dự của mình cho đến chết, với tinh thần kiên định đầy quả cảm như chàng Casabianca trẻ tuổi, và đám tang của ta được cử hành sau cuộc điều tra.




      Lúc này bão tạnh, thiên nhiên còn hung dữ nữa. Đám đông giải tán rải rác, và bầu trời lại ửng hồng khắp miền Yorkshire.




      Trong những kỳ phát hành sắp tới tôi tiếp tục gửi đến quý vị những chi tiết về con tàu hoang vượt qua cơn bão cách kỳ diệu để về đến bến cảng.




      Ngày 9 tháng 8. – Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đến trong cơn bão tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với số lượng hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.




      Những hàng hóa này được gửi cho cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.




      Lãnh Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v…




      có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại xác nhận hoàn toàn mọi việc được làm đúng theo luật lệ. ‘Cái điều thể tin được’ xảy ra, ủy ban này cho thấy cách ràng là họ đưa ra phàn nàn nào.




      chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực Whitby nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì thể tìm ra chú chó. Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hỏang sợ, con chó trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẩn là những vùng bí lãnh thổ.




      số người sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì ràng nó sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy con chó lớn, thuộc giống chó lớn tai cụp lai của thương gia buôn bán than nằm chết con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. trận chiến diễn ra, và ràng là con chó đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.




      Đêm khuya. – Do tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẩn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ kiện số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.




      Do có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng bị cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẩn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được thư ký của lãnh Nga tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.




      NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA "DEMETER" VARNA WHITBY




      Được viết vào ngày 18 tháng 7, có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi ghi chép lại chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.




      Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm… hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).




      Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong.


      Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến lúc 4 giờ chiều.




      Đến 12 tháng 7 ngang Daradnelles. Thêm số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh chóng. Họ muốn chúng tôi sớm. Đến tối vào Archipelago.




      Đến 13 tháng 7 ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đòan hình như hài lòng về chuyện gì đó. số sợ hãi, nhưng ra.




      Đến 14 tháng 7 thủy thủ đòan trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng từng biển với tôi. Thuyền phó thể hiểu được xảy ra chuyện gì. Họ chỉ với ông ta là có CÁI GÌ ĐÓ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với người trong bọn họ và đánh ta. cuộc ẩu đả hẳn nổ ra, nhưng tất cả vẩn im lặng.




      Đến ngày 16 tháng 7 thuyền phó trong buổi sáng hôm đó phát trong số thủy thủ đòan, Petrofsky, mất tích. thể tìm thấy ta. Vào tám giờ tối hôm truớc ta lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng gì hơn là có CÁI GÌ ĐÓ ở boong. Thuyền phó mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối vẩn còn tiếp tục.




      Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, người trong bọn họ, Olgaren vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, ta kể với tôi rằng ta nghĩ là có người đàn ông lạ ở tàu. rằng khi ra trú cơn mưa bão ở căn phòng dưới boong tàu, ta thấy người đàn ông cao, gầy, chẳng giống ai trong số thủy thủ đòan, theo lối dẩn lên, mình lên boong và biến mất. ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu chẳng thấy ai, còn những cánh cửa sập vẩn được đóng chặt. ta hoảng lạn trong nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hỏang lạn này còn lan rộng. Để trấn an ta, tôi tổ chức cuộc kiểm tra vào thứ hai tòan bộ con tàu từ đầu đến cuối.


      Đến khuya tôi tập hợp tòan bộ thủy thủ đòan, rằng do họ tin chắc là có ai lạ tàu, chúng tôi kiểm tra tòan bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo ý kiến nhảm nhí như vậy chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu cuộc kiểm tra, cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi bỏ qua ngóc ngách nào. Và ngòai những cái thùng gỗ kia, còn ngóc ngách khốn kiếp nào mà con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông gì.




      Ngày 22 tháng 7. – Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như quên phứt mối sợ hãi kinh khiếp của mình.


      Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.




      Ngày 24 tháng 7. – Những điều tồi tệ lại xảy ra tàu. Sau chặng đường ngắn, chúng tôi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, ta thực phiên gác của mình, và ai thấy lại nữa. Tất cả mọi người đều hỏang loạn trong sợ hãi, và đưa ra bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác có hai người, do họ sợ ở mình. Thuyền phó nổi giận.


      Sợ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đòan dùng đến bạo lực.




      Ngày 28 tháng 7. – Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. sắp gác được vì mọi người đều còn sức lực nữa.


      Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu , nhưng biển cả xem ra vẩn còn ghê rợn, và con tàu vẩn là nơi mọi người tin tưởng hơn.




      Ngày 29 tháng 7. – Lại bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác mình, do thủy thủ đòan quá mệt để có thêm ai gác đôi với ta. Đến sáng người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng ai tìm thấy. Bây giờ chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đòan hỏang loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.




      Ngày 30 tháng 7. – Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi gần đến nước . Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để rằng cả người gác và người lái biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa con tàu.




      Tháng 1 tháng 8. – Hai ngày chìm đắm trong sương mù và thấy cánh buồm nào khác. hy vọng rằng khi đến được Kênh đào có thể cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn . Lòng can đảm suy giảm, nhưng thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như bị cuốn trôi vào địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hỏang loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta.


      Thủy thủ vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bĩ làm việc, sẳn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.




      Ngày 2 tháng 8. – Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngòai phòng của tôi. thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng thấy bóng dáng ai cả. Lại người nữa ra . Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó rằng chúng tôi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ trôi dạt đến vùng Biển Bắc, chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như bỏ rơi tôi rồi.




      Ngày 3 tháng 8. – Lúc nữa đêm tôi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi thấy ai cả. Gió vẩn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này chúng ta thể chệch hướng. Tôi dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thầm bằng giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong khí. "Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngòai. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua khí vậy."


      Và khi ông , ông vung mạnh dao găm trong trung cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, "Nhưng Nó ở đây, và tôi tìm ra Nó. Nó có thể là nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi mở tung chúng từng cái . Ngài giữ tay lái." Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta xuống. Tôi thấy ông ta xuất boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi xuống cửa sập. Ông ấy là điên cuồng, hòan tòan điên cuồng, và tôi thể cản ông lại được.


      Ông ta thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan . Rồi lúc đó, nếu tôi thể cập vào hải cảng nào khi gió vẩn thổi như thế này, tôi cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu…




      Bây giờ hình như là mọi chuyện qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó bình tĩnh hơn và ra, tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình lình từ cửa sập vang lên tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hỏang loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. "Cứu tôi với! Cứu tôi với!" ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. hỏang loạn của ông chuyển thành tuyệt vọng, rồi với giọng bình thản ông ta , "Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn.


      ở đây! Tôi biết điều bí mật rồi. Đại dương bảo vệ tôi trước , và đấy là tất cả những gì còn lại!" Trước khi tôi kịp lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này tôi nghĩ rằng tôi cũng biết được điều bí mật. Đấy là người điên lần lượt ném từng người trong thủy thủ đòan xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ điều đó xảy ra?




      Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đến vì tôi là thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi dám xuống, tôi dám rời tay lái, và tôi ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi thấy nó. ! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như con người. Để chết như thủy thủ giữa làn nước xanh, ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi thể bỏ con tàu của mình.


      Nhưng tôi chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi buộc vào thêm thứ mà , Nó, dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi trở nên yếu hơn, và bóng đêm xuống dần. Nếu lại xuất trước mặt tôi lần nữa, tôi còn thời gian để hành động… Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này được tìm thấy, và người nào đọc nó hiểu. Nếu … được thôi, mọi người biết là tôi là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh giúp cho linh hồn tội nghiệp ngu dại cố thực nhiệm vụ của mình…



      Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. có bằng chứng nào được đưa ra, có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là hùng, và ta xứng đáng có lễ tang bởi quần chúng. Theo sắp xếp, thi hài của được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang vách đá. Chủ nhân của hơn trăm chiếc thuyền cầu được cử đại diện theo đưa về nơi an nghỉ cuối cùng.




      Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng ta được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ cử hành, và nó chấm hết cho thêm "bí của biển cả."




      NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY




      Ngày 8 tháng 8. – Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng sao ngủ được. Bão táp là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưỡi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải chướng ngại nào đường , bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy thức vậy.




      Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay . Vẩn còn rất đông người cảng, và dù mặt trời sáng rực, khí thóang đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẩn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như kẻ hung hãn lao vào đám đông. Ở chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan biển tối hôm qua, mà là ở bờ. Nhưng, than ôi, ấy biển hay ở đất liền? ấy ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho . Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho !




      Ngày 10 tháng 8. – Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia gần xong. Mọi chiếc thuyền bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy với tôi, và chúng tôi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở thuyền lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy tòan cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra.




      Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có cái gì đó rất lạ. Bạn ấy thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng thể tự hiểu thực điều đó là gì.




      Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ rằng ông ấy ràng rất sợ hãi cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sợ hãi và kinh dị còn mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân !


      Lucy dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy rất phiền muộn vì điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.



      người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với chú chó theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, con chó lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im , rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.




      Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó tìm cách chạy , nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.




      Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy cố để chạm vào con chó, nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có bản năng siêu nhiên để run sợ mà nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi người chết, những điều ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.




      Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi cùng bạn ấy bộ những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 8



      Nhật ký của Mina Murray.



      Cùng ngày, 11 giờ đêm. – Ôi, tôi mệt quá! Nếu như mọi việc đến nỗi nào tôi khỏi phải mở nhật ký ra như thường lệ nữa. Chúng tôi đạo rất vui. Lucy, sau lúc, trở nên vui vẻ, tôi nghĩ chắc là do mấy con bò đáng cánh đồng gần ngọn hải đăng tiến lại gần chúng tôi làm chúng tôi chết khiếp.



      Tôi tin rằng chúng tôi quên mọi thứ, tất nhiên là trừ nỗi lo sợ riêng tư, mây mù dường như xua ta và trả lại cho chúng tôi bầu trời trong sáng. Chúng tôi dùng ‘ bữa trà đơn giản’ làm bữa ăn chính lại quá ăn cổ kính đáng ở Vịnh Robin Hood, với cánh cửa sổ phía bên phải trông ra mỏm đá phủ đầy rong biển bền bờ biển. Tôi tin rằng chúng tôi khiến cho "Người Phụ Nữ Mới" phải bàng hòang trước vẻ ngon miệng của mình. Mọi người trong có vẻ dễ chịu quá, Chúa phù hộ cho họ! Rồi chúng tôi bộ về nhà, nhiều lần phải dừng lại nghỉ vì quá sợ những con bò đực hoang dã kia.





      Lucy có vẻ rất mệt, và chúng tôi định leo ngay lên giường ngay tức khắc. Nhưng ông cha xứ trẻ đến, và cái Westenra ấy mời ông ta ở lại dùng bữa tối. Lucy và tôi đều khốn khổ về khó chịu này.Tôi biết rằng đây là việc khó khăn cho tôi, và tôi rất xứng làm hùng. Chắc là lúc nào đó các giám mục phải đào tạo ra các cha phó mới biết ăn bữa tối dù có cảm thấy thôi thúc như thế nào nữa, và luôn luôn biết lúc nào các trẻ mỏi mệt.





      Lucy ngủ và thở nhè . Đôi má bạn ấy trông lúc ngủ lại càng thêm gợi cảm. Nếu Holmwood bạn ấy khi chỉ thấy bạn ấy trong phòng khách, hiểu ấy gì khi thấy bạn ấy lúc này. ngày nào đó các nhà văn của "Người Phụ Nữ Mới" nảy ra ý tưởng là rằng những người đàn ông và phụ nữ hãy cho phép người khác ngắm mình trong giấc ngủ trước khi tỏ tình và chấp thuận.



      Nhưng những "Người Phụ Nữ Mới" chẳng chiếu cố đến những ý tưởng này đâu. Họ tự mình tỏ tình. Và họ cũng tự mình tìm lấy những nghề nghiệp thích hợp. Những ý nghĩ đó làm tôi vui lêm. Và tối nay tôi là vui, vì bạn Lucy quý trông khá hơn. Tôi tin rằng bạn ấy vượt qua thời kỳ khó khăn, và chúng tôi còn phải bận tâm về những giấc mơ của bạn ấy nữa. Tôi hạnh phúc hơn nếu như tôi có thể biết tin về Jonathan… Chúa phù hộ và giữ gìn cho .





      Ngày 11 tháng 8. - Tôi lại viết nhật ký. Lúc này vẩn chưa buồn ngủ, và tôi vẩn có thể viết. Tôi quá xúc động đến nổi thể ngủ được. Chúng tôi vừa trải cuộc phiêu lưu, trải qua những biến cố kinh hòang. Tôi ngủ thiếp ngay khi tôi vừa đóng nhật ký lại. Thình lình tôi bừng tỉnh, ngồi dậy với cảm giác kinh hòang khiến tôi kinh sợ, bao quanh tôi là cảm giác trống vắng. Căn phòng tối đen, và tôi thể nhìn thấy giường của Lucy. Tôi lẻn sang giường Lucy và sờ tìm bạn ấy.



      Chiếc giường trống rỗng. Tôi bật diêm và thấy bạn ấy chẳng có trong phòng. Cửa đóng nhưng khóa, giống như trạng thái tôi làm hồi hôm. Tôi dám đánh thức mẹ bạn ấy, vì gần đây bà ấy đau ốm luôn. Vì vậy tôi quàng vội quần áo và cuống cuồng kiếm bạn ấy. Khi tôi rời khỏi phòng, thình lình tôi nảy ra ý nghĩ là những quần áo bạn ấy mặc gợi ý cho tôi biết nơi bạn ấy định trong giấc mơ. Áo chòang và quần áo của bạn ấy vẩn y như cũ. "Lạy Chúa," tôi tự nhủ, "bạn ấy thể xa khi mà chỉ mặc quần áo ngủ như vậy."





      Tôi chạy vội xuống thang và nhìn vào phòng khách. Chẳng có ai! Rồi tôi tìm trong tất cả các căn phòng khác của căn nhà, với nỗi sợ hãi càng lúc càng tăng làm tim tôi như thắt lại. Cuối cùng tôi chạy ra cửa chính và thấy nó mở ra. Cửa mở rộng, nhưng cài then. Mọi người trông nhà luôn cẩn thận kiểm tra cửa nẻo hàng đêm, và tôi sợ rằng bạn Lucy làm như vậy để ra ngòai. còn thời gian để nghĩ xem chuyển gì xảy ra nữa.Mỗi nỗi sợ hãi khủng khiếp mơ hồ chập chờn trong tôi.





      Tôi lấy cái khăn chòang lớn và chạy vội ra. Đồng hồ điểm giờ khi tôi ở Crescent, và chẳng trông thấy ai. Tôi chạy lên Nền Đất Phía Bắc, và cũng chẳng hề thấy tăm hơi của cái bóng trắng mà tôi trông đợi.



      Đứng cạnh của Vách Đá Phía Tây bờ đê tôi nhìn xuyên qua hải cảng về phía Vách Đá Phía Đông, trông hy vọng hoặc sợ hãi mà chính tôi cũng phân định , là trông thấy Lucy tại chỗ ngồi quen thuộc của chúng tôi.





      Đó là đêm trăng tròn, sáng rực, với những đám mây đen dày trôi lượn, ném tòan bộ phong cảnh chìm vào bức tranh phối cảnh giữa áng sáng và bóng tối khi chúng lướt qua. Trong thóang tôi chẳng nhìn thấy gì, khi bóng đen của những đám mây phủ chung quanh nhà thờ Saint Mary và bao chung quanh nó. Khi những đám mây trôi qua, tôi có thể thấy cái tu viện hoang tàn đó lần lượt ra, và ánh sáng trải ra thành luồng hẹp sắc bén như lưỡi gươm chuyển động xuyên qua khung cảng, soi sáng dần dần khu nhà thờ và nghĩa trang.



      Điều mong chờ của tôi trở nên vô dụng, bởi vì, ngay tại chỗ mà chúng tôi thường dùng, ánh sáng bạc của mặt trăng rọi qua hình người ngồi tựa xuống, trắng như tuyết. Mây trôi quá nhanh nên tôi chẳng nhìn thấy gì nhiều, vì ngay sau đó bóng tối phủ lên vùng sáng ngay tức khắc, nhưng lúc mà ánh sáng chiếu qua tôi thấy hình như là bóng đen đứng phía sau chỗ mà cái bóng trắng kia ngồi và chồm lên nó. Nó là cái gì, người hay thú, tôi thể khẳng định được.





      Tôi thể đợi đến khi ánh sáng có lại thêm lần nữa, mà lao như bay xuống các bậc đê, băng qua chợ cá để đến cây cầu, đó là con đường duy nhất để đến Vách Đá Phía Tây. Thị trấn dường như chết lặng, chẳng hề có bóng người. Điều này làm tôi vui mừng, vì tôi muốn ai nhìn thấy tình cảnh nay của bạn Lucy tội nghiệp. Thời gian và khỏang đường dài như vô tận, đầu gối tôi run lên, hơi thở trở nên nặng nhọc khi tôi cố gắng leo lên những bậc thang dài vô tận của tu viện. Tôi phải cố nhanh, và những bước chân leo lên của tôi trở nên vô cùng nặng nề, những khớp nối cơ thể tôi dường như muốn bung cả ra.




      Khi lên đến đỉnh tôi có thể nhìn thấy tại chỗ ngồi quen thuộc của mình cái bóng trắng, và lúc này tôi đến đủ gần để có thể phân biệt mọi vật trong tấm màn của bóng đêm. còn nghi ngờ gì nữa, có vật gì đó, cao và đen chồm qua cái bóng trắng ngồi dựa kia. Tôi kêu lên trong hỏang hốt, "Lucy!Lucy!", rồi cái vật kia ngẩng đầu lên, từ chỗ mình tôi có thể thấy khuôn mặt trắng và đỏ, đôi mắt lờ đờ.





      Lucy trả lời, và tôi chạy vội về lối chính của nghĩa địa. Khi tôi vào nhà thờ nằm giữa tôi và chỗ Lucy ngồi, nên trong thoáng tôi thể nhìn thấy bạn ấy. Khi tôi nhìn thấy được bạn ấy trở lại những đám mây bay , ánh trăng sáng rực giúp tôi có thể nhìn thấy ngồi dựa đầu vào phía sau chỗ ngồi. Bạn ấy chỉ có mình, có dấu hiệu nào về sinh vật sống chung quanh bạn ấy.





      Khi tôi cúi xuống xem xét bạn ấy, bạn ấy vẩn còn ngủ. Đôi môi của bạn ấy hé mở, và bạn ấy thở nhàng như thường lệ, mà là những hơi thở dài, nặng nhọc như muốn hít đầy khí vào phổi mình sau mỗi nhịp thở. Khi tôi đến gần, bạn ấy giơ tay lên trong giấc ngủ và kéo cổ áo ngủ lại như thể cảm thấy lạnh. Tôi tung cái khăn chòang lên phủ ấm,buộc kín lại quanh cổ bạn ấy. Tôi sợ rằng bạn ấy gặp phải những nguy hiểm chết người khi ra ngòai mà mặc đủ ấm trong đêm trăng lạnh lẽo này.



      Tôi chưa dám đánh thức bạn ấy lại vào lúc này, vì muốn tay mình được rảnh để giúp đỡ bạn ấy. Tôi vội vã quàng cái khăn chòang quanh cổ họng bạn ấy và cài lại thành bằng cái ghim băng lớn. Nhưng do quá bối rối, tôi trở nên vụng về nên hình như là quẹt phải hay đâm phải nó vào bạn ấy, và ngay lúc đó, khi hơi thở của bạn ấy trở nên dịu hơn, bạn ấy giơ tay lên họng mình lần nữa và khẽ rên rỉ. Khi tôi cẩn thận phủ ấm đầy đủ cho bạn ấy, tôi đôi giầy của tôi vào chân bạn ấy rồi bắt đầu dịu dàng đánh thức bạn ấy dậy.




      Đầu tiên bạn ấy trả lời, nhưng dần dần bạn ấy càng trở nên khó chịu hơn trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại rên rĩ và thở dài. Cuối cùng, do thời gian trôi nhanh cùng nhiều lý do khác, tôi lắc mạnh bạn ấy cho đến khi bạn ấy mở mắt và tỉnh dậy. Hình như bạn ấy ngạc nhiên lắm khi thấy tôi, và tất nhiên bạn ấy chưa nhận ra được ngay là mình ở đâu.





      Lucy luôn luôn có những cử chỉ duyên dáng, và thậm chí ngay lúc bấy giờ, khi mà cơ thể bạn ấy vẩn còn run rẩy vì cái lạnh, tâm trí bạn ấy phần nào hoảng loạn khi nhận ra mình nghĩa địa trong đêm mà chỉ mặc đồ ngủ, bạn ấy vẩn mất vẻ duyên dáng của mình. Bạn ấy thóang rùng mình, rồi ôm chặt lấy tôi. Khi tôi với bạn ấy phải trở về nhà ngay với tôi, bạn ấy đứng dậy mà lời nào, ngoan ngõan như đứa trẻ. Khi chúng tôi , sỏi cứa vào chân tôi, và Lucy nhận thấy tôi nhăn mặt.



      Bạn ấy dừng lại, khăng khăng đòi tôi phải lại giày của mình, nhưng đừng hòng tôi nghe theo. Tuy nhiên, khi chúng tôi ra khỏi khu nghĩa địa, có vũng nước còn lại sau cơn bão, tôi nhúng chân tôi vào bùn, chân này rồi chân kia, do vậy khi chúng tôi về nhà có ai, nếu như chúng tôi có gặp ai đó, có thể nhận ra là tôi chân .





      Vận may mỉm cười với chúng tôi, và chúng tôi về đến nhà mà chẳng gặp ai cả. Có lần chúng tôi thấy người có vẻ như say rượu mình đường phía trước chúng tôi. Nhưng chúng tôi trốn sau cánh cửa cho đến khi ta biến mất trong ngõ hẻm đâu đó, gần với chỗ vách đứng mà người Scotland gọi là "wynds". Tim tôi đập mạnh đến nỗi có những lúc tôi nghĩ mình quị mất. Tôi rất lo cho Lucy, chỉ là chuyện sức khỏe của bạn ấy bị tổn hại như thế nào, mà còn làm sao cho chuyện này đừng để bị lộ, nếu danh dự của bạn ấy gặp rắc rối với những kẻ ngồi lê đôi mách. Khi chúng tôi về đến nhà và rửa chân, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn chúa, và tôi giục bạn ấy lên giường. Trước khi ngủ bạn ấy cầu, thậm chí van nài tôi đừng lời nào về chuyến phiêu lưu này với bất cứ ai, thậm chí với mẹ bạn ấy.





      Đầu tiên tôi do dự trước khi hứa, nhưng tôi nghĩ đến tình trạng ốm đau nay của mẹ bạn ấy, và những câu chuyện như thế này làm bà rất phiền muộn, và ngòai ra câu chuyện này còn bị bóp méo bởi những lời xuyên tạc khi nó được đồn đại ra ngòai. Tôi nghĩ để lộ nó ra là hành động khôn ngoan. Tôi hy vọng tôi làm đúng. Tôi khóa cửa và buộc chìa khóa vào cổ tay mình, do đó có thể tôi còn bị xáo trộn nữa. Lucy ngủ say. Ánh bình minh phản chiếu từ cao ở ngòai biển khơi xa thẳm.





      Cùng ngày, sáng sớm. – Mọi việc đều tốt đẹp. Lucy ngủ cho đến khi tôi đánh thức bạn ấy dậy và chẳng tỏ ra có gì khác lạ. Cuộc mạo hiểm đêm qua hình như chẳng có hại gì cho bạn ấy, ngược lại nó còn có lợi cho bạn ấy, vì vào sáng nay bạn ấy trông khá hơn cả tuần qua. Tôi rất tiếc khi nhận thấy vụng về của mình với cái cây ghim băng làm bạn ấy bị thương. ra mọi việc có thể trở nên nghiêm trọng, vì làn da cổ họng bạn ấy bị trầy. Chắc là tôi chạm cây ghim băng vào cùng da non và đâm xuyên qua nó, nên bây giờ có hai chấm đỏ giống như vết kim châm và dải băng áo ngủ của bạn ấy có vết giọt máu. Khi tôi xin lỗi và lo lắng về điều này, bạn ấy cười phá lên và giả vờ giận dỗi tôi, rằng bạn ấy chẳng cảm thấy gì hết. Cũng may là vết thương này để lại sẹo, vì nó tí ti.





      Cùng ngày, ban đêm – Chúng tôi trải qua ngày đầy vui vẻ. khí thóang đãng, mặt trời lên cao, và những cơn gió lạnh. Chúng tôi ăn trưa ở Rừng Mulgrave, bà Westenra bằng xe lửa, còn Lucy và tôi bộ qua lối ở vách đá và gặp bà ở ga. Tôi cảm thấy buồn cho mình, vì có được cảm giác hạnh phúc tuyệt đối khi có Jonathan bên mình. Nhưng thôi nào! Tôi phải kiên nhẫn mới được. Đến buổi chiều chúng tôi dạo ở Lối Sòng Bài, nghe buổi hòa nhạc rất hay của Spohr và Mackenzie, rồi ngủ sớm. Lucy có vẻ mệt hơn thường lệ và bạn ấy ngủ ngay. Tôi khóa lại cửa và cẩn thận giữ lại chìa khóa như đêm trước, dù tôi cho rằng tối nay chẳng có rắc tối nào.





      Ngày 12 tháng 8. – Những điều tiên đóan của tôi sai lầm, vì hai lần tôi bị đánh thức trong đêm khi Lucy tìm cách ra ngòai. Mặc dù bạn ấy ngủ, bạn ấy thậm chí tỏ ra bực dọc khi phát ra cửa bị khóa và trở về giường cách vùng vằng. Tôi thức dậy vào lúc bình minh, lắng nghe tiếng chim hót ngòai cửa sổ. Lucy cũng thức dậy và tôi vui mừng khi thấy bạn ấy thậm chí trông còn khá hơn hôm qua. Tất cả những nét vui tươi quen thuộc trở lại với bạn ấy, bạn ấy qua và xích lại gần tôi, rồi với tôi mọi điều về Arthur. Tôi cũng với bạn ấy những điều phiền muộn của mình về chuyện Jonathan và bạn ấy tìm cách an ủi tôi. Trong chừng mực nào đó bạn ấy cũng thành công, vì dù thông cảm thể giải quyết được vấn đề, nó cũng làm cho con người thêm sức chịu đựng.





      Ngày 13 tháng 8. - Lại ngày khác lặng lẽ trôi qua, và tôi ngủ với chiếc chìa khóa buộc chặt ở cổ tay như trước. lần nữa tôi lại thức dậy trong đêm, và thấy Lucy ngồi dậy giường, vẩn ngủ, hướng về phía cửa sổ. Tôi nhàng ngồi dậy, kéo tấm màn qua bên và nhìn ra. Trăng sáng rực rỡ, và ánh trăng dịu dàng trải rộng bầu trời và biển cả trộn lẩn cùng điều bí kỳ lạ diễn ra trong đêm khuya trong thanh vắng khiến cho cảnh vật trở nên tuyệt đẹp mà lời nào có thể tả xiết.



      Giữa tôi và ánh trăng kia là con dơi khổng lồ bay lượn tới lui thành những vòng tròn lớn. hoặc hai lần nó bay đến gần, và tôi có cảm giác là nó nhìn tôi với vẻ đe dọa, rồi nó bay xuyên qua bến cảng về hướng thung lũng. Khi tôi từ cửa sổ quay lại Lucy nằm xuống trở lại và ngủ với dáng vẻ rất thanh thản. Bạn ấy gây nên chuyện lộn xộn nào khác trong cả đêm.



      Ngày 14 tháng 8. – Tôi đọc và viết Vách Đá Phía Tây suốt cả ngày. Lucy trở nên thích nơi này giống như tôi, và việc mang bạn ấy ra khỏi chỗ này khi đến giờ ăn trưa, dùng trà hay bữa chiều trở nên khó khăn.



      Khi chiều xuống bạn ấy thốt lên ý tưởng rất buồn cười. Lúc này chúng tôi về nhà dùng bữa tối, và ở đỉnh Bến Tàu Phía Tây và dừng lại để nhìn ngắm cảnh vật như chúng tôi vẩn thường làm. Mặt trời lặn, chìm dần sau bầu trời Kettleness. thứ ánh sáng đỏ chiếu Vách Đá Phía Tây và cái tu viện cũ, và dường như nhúng tất cả mọi vật mà ánh sáng hồng huyền ảo. Chúng tôi im lặng trong thóang, rồi thình lình Lucy lẩm bẩm như với chính mình…





      "Lại những con mắt đỏ của ông ta! Chúng vẩn ở đấy!" diễn đạt này rất lạ lùng, xem ra chẳng ăn nhập gì với chung quanh, và điều này làm tôi giật mình. Tôi quay người nhìn quanh, và thấy là chẳng có ai nhìn Lucy cả. Bạn ấy bắt đầu trở nên nữa mê man và vẻ mặt của bạn ấy trông là khác lạ mà tôi sao hiểu được, do đó tôi gì mà nhìn theo mắt bạn ấy. Bạn ấy có vẻ như nhìn về phía chỗ ngồi của chúng tôi, nơi có bóng áo đen ngồi đơn độc. Tôi cảm thấy giật bắn người, khi trong thóang tôi nhìn thấy người lạ mặt kia có đôi mắt lớn đỏ rực như những ngọn lửa, nhưng cái nhìn tiếp theo xua những ảo giác này.



      Những tia sáng đỏ chiếu sáng những khung cửa sổ của nhà thờ Saint Mary đằng sau chỗ ngồi của chúng tôi, và khi mặt trời chìm sâu nó tạo ra những tượng khúc xạ và phản xạ gây ra những hiệu ứng đặc biệt. Tôi Lucy chú ý đến tượng kỳ lạ này, bạn ấy tỏ ra có quan tâm, nhưng vẩn buồn bã như cũ. Có thể bạn ấy nghĩ về cái đêm kinh khủng kia. Chúng tôi chẳng bao giờ nhắc đến nó, và vì tôi chẳng gì, chúng tôi trở về nhà dùng bữa tối. Lucy nhức đầu và ngủ sớm. Tôi thấy bạn ấy ngủ rồi, bèn ra ngoại và dạo lát.





      Tôi bộ dọc theo những vách đá của bờ biển phía tây, và khi nghĩ đến Jonathan, lòng tôi lại tràn ngập nỗi buồn man mác. Khi tôi về nhà, ánh trăng sáng rực, sáng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy tường tận vùng Crescent trước mặt, dù nó chìm trong bóng đêm. Tôi liếc nhìn lên khung cửa sổ của chúng tôi, và thấy Lucy thò đầu ra. Tôi lấy khăn tay ra và vẫy bạn ấy. Bạn ấy dường như chẳng nhận ra và cũng chẳng làm cử động gì. Lúc này ánh trăng tỏa quanh góc tòa nhà, và ánh sáng chiếu thẳng vào cửa sổ.



      Lucy ra mồn , đầu bạn ấy thò ra khỏi thành cửa sổ, mắt nhắm nghiền. Bạn ấy ngủ say, và tại chỗ bạn ấy ngồi cạnh cửa sổ có cái gì đó giống như con chim cỡ lớn. Tôi sợ bạn ấy lạnh, bèn chạy vội lên, nhưng khi tôi vào phòng bạn ấy trở về giường, ngủ say, thở cách nặng nhọc. Bạn ấy giữ tay cổ họng, giống như bảo vệ nó khỏi giá lạnh.





      Tôi đánh thức bạn ấy, mà đắp ấm cho bạn ấy. Tôi kiểm tra kỹ cửa nẻo và cài then cửa sổ cẩn thận.





      Bạn ấy trông là dễ thương trong lúc ngủ, nhưng bạn ấy trắng bệch hơn bình thường, và dưới mắt bạn ấy có dáng vẻ buồn bã, bơ phờ mà tôi chẳng thích tí nào. Tôi sợ là bạn ấy gặp phải chuyện gì phiền muộn.



      Ước gì tôi biết được nó là cái gì.





      Ngày 15 tháng 8. – Dậy muộn hơn thường lệ. Lucy trông uể oải và mệt mõi, khi mà chúng tôi được gọi dậy.



      Chờ đón chúng tôi tại bàn ăn sáng là bất ngờ thú vị. Cha Arthur khá hơn, và muốn tổ chức đám cưới sớm. Lucy tràn ngập mừng vui, còn mẹ bạn ấy nữa vui nữa buồn. Sau đó bà cho tôi nghe nguyên nhân.



      Bà ấy buồn khi mất Lucy của riêng bà, nhưng bà vui mừng là bạn ấy sớm có người bảo bọc cho bạn ấy.



      Người đàn bà dịu dàng, đáng mến và tội nghiệp! Bà thổ lộ cho tôi biết rằng bà cảm thấy trát gọi của thần chết. Bà cho Lucy biết và bắt tôi phải hứa giữ bí mật. Bác sĩ của bà cho bà biết nhiều nhất vài tháng nữa bà chết, vì tim bà yếu lắm rồi. Trước tình thế này, cú sốc thình lình vào lúc này ràng giết chết bà. A, chúng tôi quả là khôn ngoan khi giấu bà về cái đêm mộng du hãi hùng của Lucy.




      Ngày 17 tháng 8. – hai ngày nay tôi đụng đến nhật ký. Tôi còn tâm trí nào để viết nữa. Có vẻ như có tấm màn u ám bao phủ lên hạnh phúc của chúng tôi. có tin tức gì từ Jonathan, còn Lucy càng yếu hơn, trong khi những giờ khắc còn lại của mẹ bạn ấy càng lúc càng cạn dần. Tôi hiểu vì sao mà Lucy lại như vậy. Bạn ấy ăn tốt, ngủ ngon, hít thở khí trong lành, nhưng theo thời gian vẻ hồng hào đôi má bạn ấy càng nhạt , bạn ấy yếu hơn và càng bơ phờ hơn ngày theo ngày. Đêm đêm tôi nghe bạn ấy thở hổn hển như cần khí.





      Cửa phòng chúng tôi luôn đóng chặt, và khi ngủ chìa khóa luôn đeo ở cổ tay tôi, nhưng bạn ấy thức giấc và lòng vòng khắp phòng, rồi ngồi bên cánh cửa sổ hé mở. Đêm hôm qua khi tôi tỉnh giấc tôi thấy bạn ấy chồm người ra, và tôi thể nào cố thử đánh thức bạn ấy dậy được.





      Bạn ất rất mệt mõi. Khi tôi cố làm bạn ấy thức giấc, bạn ấy yếu ớt như giọt nước, và hít thở những hơi khẽ, dài, đau khổ để tìm khí. Khi tôi hỏi bạn ấy ngồi bên cửa sổ để làm gì, bạn ấy lắc đầu và quay .




      Tôi tin là căn bệnh của bạn ấy thể từ vết trầy vô tình gây ra bởi cái ghim băng kia được. Tôi nhìn vào cổ họng bạn ấy trong khi bạn ấy nằm ngủ, và vết thương kia vẩn chưa lành. Chúng vẩn tiến triển, lớn hơn lúc trước, và cạnh của nó hình như có màu trắng đầy bệnh hoạn. Chúng trông như những chấm trắng bao quanh chấm đỏ ở giữa. Nếu hai ngày nữa mà nó vẩn chưa lành, tôi nhất định phải gọi bác sĩ đến xem xét chúng.





      THƯ TỪ SAMUEL F.BILLINGTON VÀ CON TRAI, LUẬT SƯ WHITBY, GỬI CHO MESSRS.



      CARTER, PATERSON VÀ CÔNG TY, LONDON.





      Ngày 17 tháng 8





      " Kính thưa Quý Ngài,





      "Tôi xin vui mừng báo ngài rằng tôi nhận được những hóa đơn cho chuyến hàng gửi bởi Hãng Xe lửa Vĩ đại Phương Bắc. Chúng cũng được gửi đến Carfax, gần Purfleet, ngay theo hóa đơn tại trạm chuyển Chữ Thập Vua đáng tin cậy. Ngôi nhà lúc này trống rỗng, nhưng xin gửi kèm những chìa khóa được dán nhãn ràng.






      "Quí ngài nhận được những cái hộp, mà số lượng ghi hóa đơn vận chuyển là mười lăm cái, nằm trong phần bị hư hại của tòan nhà, được đánh dấu chữ ‘A’ trong sơ đồ gửi kèm. Nhân viên của quí ngài dễ dàng tìm được nơi này, đó là nhà thờ cổ trong lâu đài. Hàng hóa được chuyển bằng xe lửa lúc 9:30 tối nay, và đến Chữ Thập Vua lúc 4:30 sáng mai. Vì khách hàng của chúng ta muốn việc chuyển hàng diễn ra càng nhanh càng tốt, chúng ta bắt buộc phải sắp xếp sao cho người của quí ngài phải sẳn sàng tại Chữ Thập Vua theo giờ định và ngay lập tức mang hàng hóa đến đích.



      Để loại trừ mọi chậm trễ có thể xảy ra, xin quí ngài hãy hoãn lại những công việc định trước vào lúc đó, chúng tôi xin gửi kèm quí ngài tấm chi phiếu 10 bảng ngay lúc này, xin quí ngài vui lòng báo lại khi nhận được hóa đơn. Nếu công việc tốn kém ít hơn, xin quí ngài gửi trả số tiền thừa, còn nếu nhiều hơn, chúng tôi lập tức gửi tiếp tờ chi phiếu khác khi có tin của quí ngài. Xin quí ngài hãy để lại chìa khóa lối vào tiền sảnh của tòa nhà, chủ nhân của ngôi nhà này nhận lại nó khi ông ta vào nhà bằng chiếc chìa khóa thứ hai.




      "Xin đừng nghĩ là chúng tôi phóng đại tầm vóc của công việc khi cầu quí ngài hãy khẩn trương đến mức tối đa bằng mọi cách có thể được. "Xin dừng bút, thưa Quý Ngài, "Trân trọng,"SAMUEL F.BILLINGTON & SON"




      THƯ CỦA MESSRS. CARTER, PATERSON & CÔNG TY, LONDON, GỬI CHO MESSRS.



      BILLINGTON & CON TRAI, WHITBY.





      Ngài 21 tháng 8.





      "Kính thưa Quí Ngài,





      "Chúng tôi xin được phản hồi là nhận được 10 bảng và gửi trả về chi phiếu 1 bảng 17s, 9d tiền thừa, được ghi trong hóa đơn kèm theo. Hàng hóa được phân phối chính xác theo chỉ dẩn, và chìa khóa được để lại dưới tấm thảm trong phòng chính như quí ngài mong muốn. "Xin được dừng bút, thưa Quí Ngài," Trân trọng, "Pro CARTER, PATERSON & CÔNG TY."





      NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY.





      Ngày 18 tháng Tám. – Hôm nay tôi rất vui, và tôi ngồi viết tại chỗ ngồi quen thuộc của mình khu nghĩa địa. Lucy khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Tối qua bạn ấy ngủ ngon suốt cả đêm và chẳng hề quấy rầy tôi.




      Vẻ hồng hào trở về đôi má của bạn ấy, dù bạn ấy vẩn còn tái xanh ốm yếu và trông rất vàng vọt. Nếu bạn ấy bị thiếu máu bởi nguyên nhân nào đó tôi còn có thể hiểu được, đằng này bạn ấy đâu có sao.



      Bạn ấy lên tinh thần, rất đời và vui sướng. Căn bệnh tiềm tàng hình như bắt đầu lánh xa bạn ấy, và nhìn bạn ấy lúc này chỉ còn gợi tôi nhớ lại, nếu như tôi còn chút gì để nhớ, về cái đêm hôm ấy, và tại nơi đây, chính tại nơi này, tôi thấy bạn ấy ngủ.





      Bạn ấy vừa cố rút hòn đá trong giày đâm vào gót chân của bạn ấy vừa ,





      "Cái chân tội nghiệp của mình làm phiền mình quá! Mình dám chắc là ông bạn già tội nghiệp Swales chuyện với mình vì mình muốn quấy rầy Geordie."





      Thấy bạn ấy ở trong tâm trạng cởi mở, tôi hỏi bạn ấy xem đêm đêm bạn ấy mơ thấy những gì,





      Trước khi bạn ấy trả lời, trán bạn ấy nhăn lại theo nét cau mày đáng . Arthur, tôi gọi ấy là Arthur theo ý thích của Lucy, từng rằng ta bạn ấy qua cử chỉ này, thực là điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên. Đoạn bạn ấy trở nên nữa mơ mộng như thể cố phục hồi ký ức của mình.





      "Mình chẳng có mơ đâu, mà tất cả dường như diễn ra đấy. Mình chỉ muốn trở về nơi đây. Mình chẳng biết vì sao, dù mình lại sợ hãi cái gì đó mà mình cũng biết là cái gì. Mình còn nhớ, dù lúc đó mình còn ngủ, là mình ngang những con đường và qua cây cầu. con cá nhảy lên đường, và mình trườn người tới để ngắm nó, và mình nghe thấy rất nhiều tiếng chó tru. Cả thị trấn lúc ấy dường như phủ đầy tiếng chó tru, và mình lại tiếp tục lên.



      Rồi diễn ra mơ hồ trong ký ức mình là cái gì đó cao và đen với đôi mắt đỏ rực như là khi chúng ta thấy trong hòang hôn, rồi cái gì đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng vờn quanh mình cùng lúc. Rồi mình cảm thấy như chìm vào hồ nước xanh, rồi có những tiếng hát vang lên bên tai mình, mà mình cảm thấy là bài hát dành cho những người chết đuối, và mọi thứ dần rời xa mình. Linh hồn của mình dường như rời khỏi thể xác và bay lơ lững trung. Mình nhớ là lúc đó Ngọn Hải Đăng phía Tây nằm ở ngay dưới mình, và lúc đó mình có cảm giác đau đớn kỳ lạ, giống như là mình ở trong cơn động đất, mình quay trở lại và nhìn thấy bạn lay cơ thể mình. Mình thấy bạn trước khi mình cảm thấy bạn."





      Bạn ấy bắt đầu cười. Tôi cảm thấy là có cái gì đó rất là lạ, và tôi lắng nghe tiếng cười hổn hển của bạn ấy.



      Tôi thích điều này chút nào, tốt hơn đừng để cho bạn ấy bận tâm về những chuyện như vậy nữa, và chúng tôi bắt đầu chuyển sang những chủ đề khác, và Lucy lại cảm thấy đời hơn. Khi chúng tôi về nhà, khí trời khuyến khích bạn ấy, và đôi má trắng bệch của bạn ấy lại ửng hồng. Mẹ bạn ấy rất vui khi thấy bạn ấy, và chúng tôi trải qua buổi tối vui vẻ cùng nhau.





      Ngày 19 tháng 8. - Vui, vui, là vui! Mặc dù phải mọi chuyện đều đáng vui. Cuối cùng, có tin tức của Jonathan. chàng tội nghiệp ấy bệnh, và đó là lý do vì sao ấy chẳng hề viết thư. Bây giờ tôi còn lo lắng khi nghĩ hay về ấy. Ngài Hawkins gửi đến tôi lá thư và còn tử tế viết thêm mấy dòng. Trong buổi sang nay tôi đến chỗ Jonathan, giúp đỡ chăm sóc cho ấy nếu có thể và mang ấy trở về. Ngài Hawkins rằng cũng chẳng có gì dở nếu chúng tôi cưới nhau luôn ở đấy.



      Tôi khóc suốt với bức thư mà người nữ tu tốt bụng gửi đến cho tôi đến nỗi tôi cảm thấy ngực áo mình, nơi mà mình để lá thư vào, ướt đẩm. Nó là của Jonathan, và nó phải nằm gần trái tim tôi. Cuộc hành trình của tôi được họach định, hành lý sẳn sàng. Chỉ có lại quần áo của tôi mà thôi. Lucy mang hòm rương của tôi tới London và giữ nó đến khi tôi cần lại nó, có thể cho dịp… Tôi phải được viết nữa. Tôi cần phải giữ nó để với Jonathan, người chồng của em. Lá thư mà ấy đọc và chạm lấy an ủi tôi cho đến khi chúng tôi gặp nhau.





      THƯ CỦA DÌ PHƯỚC AGATHA, BỆNH VIỆN THÁNH JOSEPH VÀ THÁNH NỮ MARY BUPA-PESH,



      GỬI CHO WILLHELMINA MURRAY.





      Ngày 12 tháng 8,





      "Kính thưa .





      "Tôi viết lá thư này theo cầu của ngài Jonathan Harker. Ông ấy ốm và thể tự tay mình viết được, dù nhờ ơn Chúa, thánh Joseph và thánh nữ Mary, bệnh tình ông ấy tiến triển tốt đẹp. Ông ấy bị cơn sốt não, và chúng tôi chăm sóc cho ông ấy được sáu tuần. Ông ấy nhờ tôi chuyển đến tình của ông ấy, và cũng nhờ tôi chuyển hộ lời đến ngài Peter Hawkins, Exeter, với tất cả kính trọng, rằng ông ấy rất tiếc về chậm trễ này, nhưng tất cả công việc hòan tất. Ông ấy cần phải nghĩ ngơi vài tuần tại viện điều dưỡng đồi của chúng tôi, nhưng trở về ngay. Ông ấy cũng nhờ tôi hộ rằng ông ấy có đủ tiền, và ông ấy muốn trả tiền cho những phí tổn của mình ở đây, ngõ hầu chúng tôi có thể cưu mang những người khác.





      Xin hãy tin tưởng tôi,





      Với tất cả niềm tin và lời chúc tốt lành, Sơ Agatha"





      "T.B – Bệnh nhân của tôi ngủ, và tôi lại mở lá thư này ra để thêm vào đôi điều. Ông ấy với tôi tất cả về , và trở thành vợ ông ấy trong thời gian ngắn nữa. Xin chúc mừng cả hai! Bác sĩ của chúng tôi rằng ông ấy trải qua cú sốc kinh hòang, và trong cơn mê sảng ông ấy thường hay về những việc hãi hùng, bao gồm chó sói, chất độc và máu, gồm ma và ác quỷ, và tôi rất sợ khi về những điều này. Hãy luôn để mắt đến ông ấy và đừng để ông ấy bị khích động trong thời gian dài. Những gốc rễ của căn bệnh này thể loại trừ dễ dàng. Đáng lý chúng tôi viết thư sớm hơn, nhưng chúng tôi biết gì về bạn bè của ông ấy, và ông ấy cũng cho biết được điều gì, bất cứ điều gì mà người nào đó có thể hiểu. Ông ấy đến chuyến xe lửa từ Klausenburg, và những người bảo vệ được trưởng ga ở đấy rằng ông ta lao vào ga và gào lên đòi vé trở về. Qua dáng vẻ điên cuồng của ông ta, người ta nhận ra rằng ông ta là người , và họ cho ông vé đến nhà ga xa nhất mà chuyến xe đến.





      "Hãy tin chắc là ông ấy được chăm sóc tốt. Ông ấy chinh phục được trái tim của tất cả mọi người với vẻ dịu dàng và tao nhã của mình. Ông ấy khỏe dần, và tôi hề nghi ngờ là ông ấy hồi phục hoàn toàn trong vài tuần tới. Nhưng hãy cẩn thận chăm sóc ông ấy để đảm bảo mọi . Và tôi xin cầu nguyện Chúa, thánh Joseph và thánh mẹ Mary cho hai bạn được nhiều, nhiều năm hạnh phúc."





      NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD





      Ngày 19 tháng Tám. – Renfield vừa có biểu lạ lùng và đột ngột tối hôm qua. Vào khỏang tám giờ ông ta bắt đầu trở nên kích động và hít ngửi như con chó. Những người phục vụ chú ý tới dáng vẻ của ông ta, và biết tôi rất quan tâm đến ông, nên khuyến khích ông chuyện. Ông ấy luôn tỏ ra kính trọng những người phục vụ và đôi khi cả những người nô lệ, nhưng tối nay, mọi người với tôi là ông ta tỏ ra rất kiêu kỳ. Ông ấy thèm hạ mình chuyện với ai cả.





      Tất cả những gì ông ấy là, "Tôi muốn chuyện với các người. Các người xứng đáng. Chỉ có Ông Chủ mà thôi."





      Những người phục vụ nghĩ rằng ông ta bị xâm chiếm bởi chứng cuồng tín tôn giáo nào đó. Nếu đúng vậy chúng tôi lại càng phải canh chừng mọi biến cố, vì người đàn ông khỏe mạnh lại có chứng cuồng sát và cuồng tín tôn giáo vô cùng nguy hiểm. kết hợp hai tính cách trở thành thảm họa khôn lường.



      Đến chín giờ tôi đích thân đến thăm ông ta. Dưới mắt ông ta tôi cũng như những người phục vụ. Trong cảm giác đường bệ mà ông ta tự cảm thấy về mình khác nhau giữa tôi và những người phục vụ là hoàn toàn có. Quả đó là chứng cuồng tín tôn giáo, và ông ta sớm nghĩ mình chính là Chúa Trời.




      khác nhau giữa cơ man người với người là đáng lưu tâm đối với Đấng Tòan Năng. có bao nhiêu người điên tự nhủ lòng như thế! Chúa Trời luôn cẩn thận lưu tâm để con sẻ cũng chẳng bị rơi.



      Còn Chúa Trời được tạo ra từ phù phiếm của lòai người thấy khác nhau giữa đại bàng và chim sẻ. Ôi, phải chi chỉ cần con người biết được điều này!





      nữa giờ trôi qua và Renfield càng lúc càng trở nên kích động. Tôi giả vờ chú ý đến ông ta, mà tôi giữ cái nhìn nghiêm khắc tất cả mọi việc. Nhìn thẳng vào đôi mắt gian xảo của người điên, chúng ta luôn luôn biết được khi nào ông ta có ý định nào đó, và những chuyển động lươn lẹo của cái đầu và lưng ông ta giúp những người phục vụ nắm bắt được điều đó. Ông ta bắt đầu trở nên trầm lặng hơn, rồi đến và ngồi bên cạnh giường với vẻ cam chịu, rồi nhìn vào khỏang với cặp mắt thiếu sinh khí.





      Tôi nghĩ là tôi cần tìm xem thờ ơ của ông ta là hay giả tạo, nên tôi thử bắt chuyện với ông ta về những con thú nuôi của ông ta, việc đề cập đến đề tài này bao giờ thất bại trong việc kích động chú ý của ông ta.





      Đầu tiên ông ấy trả lời, sau đó dài giọng với vẻ khó chịu, "Mặc xác chúng! Tôi buồn quan tâm đến chúng nữa."





      "Sao" tôi . "Ông muốn với tôi rằng ông thèm chú ý gì đến lũ nhện nữa à?" (Nhện lúc này là sở thích của ông ta và quyển sổ tay của ông ta viết đầy những cột số ."





      Ông ấy trả lời cách khó hiểu. "Trong mắt những trẻ sắp lấy chồng lần đầu tràn ngập niềm vui sắp trở thành dâu. Nhưng khi ngày cưới đến gần, niềm vui còn hoàn toàn sáng rực trong mắt họ nữa."




      Ông ấy chịu giải thích gì, và bướng bĩnh ngồi tại chỗ của mình trong suốt thời gian tôi ngồi lại với ông ta.




      Tôi rất mệt mõi và xuống tinh thần. Tôi thể nghĩ về Lucy, và bao nhiêu biến cố khác nhau xảy ra. Nếu tôi ngủ được ngay, tôi dùng đến các loại thuốc ngủ đại và hiệu nghiệm nhất! Phải cẩn thận nếu tôi trở nên nghiện mất. , tối nay tôi dùng đến nó! Nếu tôi nghĩ về Lucy, điều đó cũng thể làm hại ấy. Nếu cần, đêm nay ngủ cũng được.





      Đêm khuya. – Sau khi quyết định dứt khóat, tôi cảm thấy trở nên thanh thản hơn. Tôi nằm trằn trọc cho đến khi nghe đồng hồ điểm hai tiếng, và người gác đêm chạy đến chỗ tôi, thò đầu lên từ phía tường, và rằng Renfield bỏ trốn. Tôi mặc quần áo và lao ra ngay. Người bệnh của tôi nếu để lang thang rất nguy hiểm. Những ý tưởng kỳ quặc của ông ta khi thi hành rất nguy hiểm cho những người lạ mặt.




      Người phục vụ đợi tôi. ta ta còn thấy ông ta mười phút trước, có vẻ như ngủ giường khi ta nhìn qua cái cửa sập dùng để quan sát cửa. Sau đó ta chợt nghe thấy tiếng cánh cửa sổ bị vặn ra. ta chạy lại và nhìn thấy những dấu vết của ông ấy biến mất ngòai cửa sổ và ngay lập tức cho gọi tôi. Ông ta chỉ mặc bộ đồ ngủ và thể đâu xa.





      Người phục vụ đáng lý có lẽ hữu dụng hơn khi đuổi theo ông ta ngay thay vì chỉ đứng quan sát, nếu như ta có thể làm giảm trọng chính mình lúc cố len người qua sửa sổ. ta là người lực lưỡng, và thể leo qua cửa sổ được.





      Tôi là người mảnh dẻ, và với trợ giúp của ta, tôi leo ra ngoài cửa sổ, nhưng thòng chân xuống trước. Cửa sổ chỉ cao hơn mặt đất vài bộ và tôi nhảy xuống chẳng bị thương tích gì.





      Người phục vụ với tôi là bệnh nhân rẽ trái rồi chạy thẳng, và tôi cố hết sức chạy nhanh theo. Khi tôi rẽ trái qua đám cây, tôi thấy bóng trắng bức tường ngăn cách vùng đất của tôi với ngôi nhà hoang.





      Tôi chạy trở về ngay, gọi người canh gác lấy thêm ba hoặc bốn người nữa ngay và theo tôi đến vùng đất Carfax, đề phòng trường hợp người bạn của chúng tôi có thể trở nên nguy hiểm. Tôi lấy cái thang, leo qua tường, nhảy xuống phía bên kia. Tôi còn có thể thấy bóng Renfield biến mất sau góc nhà, và tôi chạy đuổi theo ta. Ở góc xa của ngôi nhà tôi thấy ông ta cố đóng lại cái cửa bằng gỗ sồi có khung thép của nhà thờ.





      Ông ta có vẻ chuyện với ai đó, nhưng tôi sợ là nếu tôi đến gần để nghe ông ta , ông ta lại sợ hãi khi trông thấy tôi và lại chạy mất.





      Săn đuổi bầy ong lang thang chả thấm thía gì so với việc đuổi theo người mất trí mặc quần áo, nhất là khi cơ hội trốn thóat nằm trong tay ông ta! Tuy nhiên, sau vài phút, tôi nhận thấy là ông ta hình như chẳng để ý gì đến mọi việc chung quanh mình, tôi bèn mạo hiểm áp sát lại ông ta, tôi tiến lại gần hơn nữa, băng ngang qua tường và tiến sát bên ông. Tôi nghe ông ta





      "Tôi đến đây để van nài ngài, Ông Chủ. Tôi là đầy tớ của ngài, và ngài ban thưởng cho tôi, vì tôi rất trung thành. Tôi tôn thờ ngài từ lâu dù vô cùng cách biệt. Bây giờ ngài đến, và tôi đợi lệnh ngài, và ngài bỏ rơi tôi, thưa ngài, Ông Chủ kính mến, với những ân sủng của ngài?"





      Ông ta là người ăn mày già ích kỷ, trong chừng mực nào đó. Ông ta nghĩ mình buổi Thiết triều nghĩ đến bánh mì và cá. Những cơn điên cuồng của ông ta hợp nhất lại. Khi chúng tôi đến gần ông, ông giống như con hổ. Ông ta khỏe kinh hồn, trông ông giống như con thú hoang hơn là con người.





      Tôi chưa bao giờ thấy cơn giận dữ bộc phát của người mất trí trước đây, và tôi hy vọng là thấy nó lại lần nữa. Cũng may là chúng tôi lường trước đến sức mạnh và hung dữ của ông ta ta. Với sức mạnh và tính kiên nghị của ông ta, ông ta có thể làm nhiều chuyện tày trời trước khi bị tóm trở lại.





      Với bất kỳ giá nào, lúc này phải giữ ông ta ở nơi an tòan.Ngay cả Jack Sheppard cũng thể thóat khỏi cái áo trói kìm giữ ông, và ông ta bị xích vào tường trong phòng cách ly.





      Đôi khi ông ta gào thét cách rất kinh khiếp, nhưng im lặng tiếp theo đó còn đáng hãi hơn, vì hình như ông ta giống như tên sát nhân trong mọi hành vi và cử chỉ.





      Ngay khi đó ông ta thốt lên tràng. "Tôi kiên nhẫn, Ông Chủ. Nó đến, đến, đến.!"





      Bây giờ đưa ra lời chú thích, rồi cũng . Tôi quá mệt rồi, tôi cần phải ngủ, nhưng quyển nhật ký này cứ làm rộn tôi, tôi cảm thấy tối nay nhất định tôi ngủ được chút.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 9


      THƯ CỦA MINA HARKER GỬI LUCY WESTENRA.




      Buda-Pesh, ngày 24 tháng 8.




      "Bạn Lucy thân ,




      "Mình biết bạn rất khao khát được nghe những gì diễn ra từ khi chúng ta chia tay ở nhà ga xe lửa vùng Whitby.




      "Thế đấy, bạn thân ạ, mình đến Hull và từ đó đáp tàu Hamburg, rồi từ đó tiếp tục xe lửa. Mình cảm thấy là mình khó mà nhớ lại được những gì diễn ra trong chuyến , chỉ trừ điều là mình đến với Jonathan, và lúc đó mình chăm sóc cho ấy, tốt nhất là mình cố gắng ngủ vậy. Mình tìm thấy người của mình, gầy gò, tái xanh và bệnh tật. Đôi mắt thân thương của ấy còn kiên quyết, và có thể ấy hầu như đánh mất mình. ấy chỉ còn là cái bóng của chính mình, và ấy chẳng nhớ gì xảy ra cho ấy trong khỏang thời gian dài. Cuối cùng, ấy muốn mình hãy tin như vậy, và mình hỏi ấy thêm điều gì.




      " ấy trải qua cơn sốc hãi hùng, và mình sợ là nó có thể khiến cho bộ não tội nghiệp của ấy thêm nặng nề nếu ấy cố nhớ lại về nó. Sơ Agatha, người có thiên hướng nhân từ và tốt bụng bẩm sinh với mình là ấy muốn bà ấy kể lại cho mình nghe những gì họ trải qua, nhưng bà chỉ làm dấu thánh và rằng bà bao giờ kể lại. Những lời trong cơn mê sảng là bí mật của Chúa, và người y tá làm tròn chức năng của mình nếu họ cố gắng nghe trộm những lời ấy.




      "Bà ấy có tâm hồn chứa chan tình cảm và tốt bụng, và qua ngày hôm sau, thấy mình vẩn còn run sợ, bà ấy bèn hé mở những điều mà Jonathan thân tội nghiệp mê sảng, và thêm vào, ‘Ta có thể với con nhiều thứ, con . ấy chẳng làm điều gì lầm lỗi cả, và với tư cách là vợ ấy, con có gì phải lo lắng cả. ấy quên con, về những gì ấy hứa với con. Nỗi sợ hãi của ấy có nguyên nhân từ những điều khủng khiếp ghê gớm mà con người nào có thể hiểu được.




      "Mình tin rằng sâu thẳm trong tâm hồn của mình vẩn còn ghen tuông khi cho rằng ấy có thể khác. là kỳ khi mình lại có ý ghen về Jonathan! Và, nghe mình này, bạn thân , mình nhé, mình cảm thấy tràn ngập niềm vui khi biết rằng phải người phụ nữ nào khác gây ra những lo sợ này. Bây giờ mình ngồi cạnh ấy, và mình có thể vẻ mặt của ấy trong khi ấy ngủ. ấy thức dậy!




      "Khi ấy thức dậy, mình mang cho ấy cái áo khoác của ấy, vì ấy muốn lấy cái gì đó trong túi ra. Mình hỏi sơ Agatha, và bà ấy mang đến tất cả những gì của ấy. Mình nhìn thấy quyển sổ ghi chép của ấy trong số chúng, và ấy cho mình xem qua nó vì mình biết là nó cho mình số chỉ dẩn về nỗi kinh hãi của ấy. Mình tin rằng ấy trông thấy mong ước thiết tha trong mắt mình, nên ấy mình hãy ra cửa sổ, ấy muốn được ở mình lúc.




      "Rồi ấy gọi mình trở lại, và ấy với vẻ rất trịnh trọng ‘Wilhelmina’, mình biết là ấy hoàn toàn nghiêm túc, bởi vì ấy chưa hề gọi mình như thế kể từ khi ấy cầu hôn mình, "Em thân , em cũng biết là luôn cho rằng người chồng và người vợ phải luôn tin tưởng nhau, có điều gì bí mật, có gì phải che đậy. trải qua cú sốc hãi hùng, và khi cố gắng nghĩ xem điều đó là gì luôn cảm thấy đầu óc mình quay cuồng, và cũng biết đấy là hay chỉ là giấc mộng của người điên. Em cũng biết là trải qua cơn sốt nặng, và rất có thể là trở nên điên mất. Điều bí mật nằm trong đây, và chẳng hề muốn biết nó.


      muốn tiếp tục cuộc sống của mình với tình của chúng ta.’Vì vậy, thân , chúng ta cưới ngay khi mọi thủ tục đều hòan tất.’Em muốn chia xẻ những điều dại khờ của ư, Wilhemina? Đây, cuốn sách ấy đây. Em hãy cầm lấy và giữ nó, hãy đọc nó nếu em muốn, nhưng đừng bao giờ cho biết trừ khi có những nghĩa vụ bắt buộc nào đó khiến buộc phải quay lại những giây phút kinh hòang này, tất cả những điều xảy ra với , lúc thức hay ngủ, tỉnh hay điên, đều được ghi lại nơi đây.’ ấy kiệt sức trở lại, và mình nhét cuốn sổ vào dưới gối , rồi hôn ấy, sau đó mình nhờ xơ Agatha thỉnh cầu Ơn cho phép chúng mình làm đám cưới ngay chiều nay, và mình chờ trả lời của bà ấy…"




      "Bà ấy quay lại và với mình rằng Giáo sĩ của nhà thờ truyền giáo quốc trả lời. Chúng mình cưới trong giờ nữa, hoặc là ngay khi Jonathan tỉnh giấc."




      "Lucy, thế là mọi việc diễn ra rồi. Mình cảm thấy rất là bối rối, nhưng rất, rất hạnh phúc. Jonathan tỉnh lại sau hơn giờ, và hoàn toàn sẳn sàng. ấy ngồi giường, tựa vào gối. ấy trả lời ‘tôi đồng ý’ cách mạnh mẽ và cương quyết. Mình thể gì. Trái tim mình ngập tràn cảm xúc đến nỗi mình bị nghẹn mất nếu thốt lên dù chỉ lời.




      ‘Những dì phước ở đây là tốt bụng. Xin Chúa hãy phù hộ cho mình bao giờ, bao giờ quên họ, hay quên những trách nhiệm ngọt ngào và dũng cảm mà mình tự đặt ra cho bản thân. Mình phải với bạn là đám cưới của mình cử hành. Khi giáo sĩ và những dì phước để mình ở lại mình với chồng của mình – ôi Lucy bạn ơi, đây là lần đầu tiên mình viết từ ‘chồng của mình’ đấy nhé – để mình ở lại mình với chồng của mình, mình lấy cuốn sổ dưới gối ấy ra, bọc nó bằng tờ giấy trắng, dùng dãi ruy băng xanh nhạt mình đeo quanh cổ cột quanh nó thành cái nơ, niêm phong lại bằng sáp ong, và con dấu niêm phong là chiếc nhẫn cưới của mình.


      Đoạn mình hôn nó và chỉ nó cho chồng mình. Mình rằng đấy là bằng chứng sống động và ràng trong cuộc sống của chúng mình rằng chúng mình luôn tin tưởng lẫn nhau, và mình bao giờ mở nó ra trừ phi nếu ấy cần, hay vì cầu khẩn thiết nào khác. Rồi ấy cầm lấy tay mình, và Lucy ơi, đấy là lần đầu tiên ấy cầm tay vợ ấy, rằng đó là điều thân thương nhất trái đất này, và ấy sẳn sàng chịu đựng lại tất cả những gì xảy ra trong quá khứ lần nữa để có được nó, nếu cần. Con người đáng tội nghiệp của mình có vẻ như cắt đứt hoàn toàn với quá khứ, và thậm chí ấy cũng chẳng nhớ nỗi đến ngày tháng, và mình chẳng ngạc nhiên đâu nếu như ấy nhầm lẫn phải là hàng tháng mà là cả năm.




      "Thế đấy, bạn thân , mình vừa gì nhỉ? Mình chỉ với bạn rằng mình là người phụ nữ tốt hạnh phúc nhất thế giới rộng lớn này, và mình chẳng có gì để dâng hiến cho ấy ngoại trừ cuộc sống của mình, niềm tin của mình và cùng với nó là tất cả tình và bổn phận của mình trong tòan bộ những tháng ngày đằng đẵng của cuộc sống. Và, bạn thân ơi, khi ấy hôn mình, khi ấy ôm lấy mình trong vòng tay yếu đuối đáng thương của ấy, điều đó dường như là lời đính ước trọng thể của hai đứa mình.




      "Lucy thân , bạn có biết vì sao mà mình với bạn tất cả ? chỉ vì tất cả diễn ra quá ngọt ngào với mình, mà còn là vì bạn là người rất, rất thân thương với mình. Mình là quá được ưu đãi khi làm bạn của bạn và là người hướng dẩn cho bạn khi bạn chuẩn bị bước chân vào đời từ trường lớp. Mình muốn bạn được nhìn thấy mình lúc này, với đôi mắt vô cùng hạnh phúc của người vợ, với những bổn phận ràng buộc mình, để cho bạn thấy rằng đến đám cưới của chính bạn, bạn cũng vô cùng hạnh phúc như mình.


      Bạn thân ơi, xin Chúa Tòan Năng phù hộ, để cuộc đời bạn đầy những ước mơ, những tháng ngày ngập tràn ánh nắng, có những cơn gió hung dữ, chẳng quên những bổn phận của mình, còn những hòai nghi. Mình luôn ước ao sao cho bạn chẳng bao giờ phải đau khổ, và mình hy vọng bạn luôn hạnh phúc như mình lúc này. Tạm biệt, bạn thân . Mình gửi lá thư này ngay, và có thể viết tiếp cho bạn liền đấy. Mình phải ngừng lại thôi, vì Jonathan tỉnh dậy kìa. Mình phải chăm sóc chồng mình chứ! "Bạn của bạn. "Mina Harker."




      THƯ CỦA LUCY WESTERA GỬI MINA HARKER.




      Whitby, ngày 30 tháng 8.




      "Bạn Mina thân ,




      "Hẳn là lúc này bạn và chồng bạn làm tràn ngập căn nhà của bạn trong đại dương tình ái với hàng triệu nụ hôn. Mình ước gì bạn có thể về đây kịp để chung vui với chúng mình. khí trong lành giúp Jonathan phục hồi. Nó giúp mình phục hồi đấy. Mình thèm ăn như kẻ cuồng ăn, đời và ngủ ngon lắm. Bạn chắc là rất vui khi biết rằng lúc này mình còn mộng du nữa. Mình nghĩ là cả tuần nay mình chẳng rời khỏi giường kể từ lúc mình đặt mình xuống cho đến sáng.


      Arthur là mình mập ra đấy. Nhân tiện, mình quên với bạn rằng Arthur ở đây. Chúng mình cùng dạo, xe, cởi ngựa, và rồi bơi thuyền, đánh tennis, cùng nhau đánh cá, và mình ấy hơn bao giờ hết. ấy cũng ấy cũng mình hơn, nhưng mình nghi ngờ đấy, bởi vì ngày xưa ấy từng là chẳng bao giờ mình hơn lúc này. Nhưng điều này xem ra vô lý quá. ấy lại gọi mình kìa. Tình của chúng mình chắc cũng chẳng thua gì bạn đâu, "Lucy.




      "T.B – Mẹ của mình gửi lời hỏi thăm bạn. Bà ấy trông khỏe hơn, tội nghiệp bà.




      "T.T.B – Chúng mình làm đám cưới vào ngày 28 tháng 9."




      NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD




      Ngày 20 tháng 8 - Trường hợp của Renfield càng lúc càng thú vị. Ông ta bây giờ trở nên bình lặng, chấm dứt thời kỳ bùng nổ của ông. Sau cuộc nổi loạn đầu tiên của mình, ông ta trở nên hung hăng ngớt.


      Rồi đến đêm nọ, khi mặt trăng lên cao, ông ta trở nên bình lặng, và liên tục lẩm bẩm với chính mình. "Bây giờ tôi có thể đợi. Bây giờ tôi đợi được."




      Những người phục vụ kêu tôi, và tôi chạy vội xuống gặp ông ta. Ông ấy vẩn mặc chiếc áo trói trong phòng cách ly, nhưng sắc mặt ông ấy thay đổi, và trong mắt ông ta có điều gì đó giống như là cầu xin.


      Tôi gần như có thể cách nhàng là khúm núm. Tôi hài lòng với tình trạng nay của ông ta, và cho phép ông ta được tự do. Những người phục vụ ngập ngừng, nhưng cuối cùng tuân theo lời tôi mà phản kháng gì.




      là lạ khi bệnh nhân cũng nhận ra nghi ngờ của họ, nên ông ta tới gần tôi, thầm trong khi lén lút quan sát bọn họ, "Họ nghĩ là tôi có thể làm ông bị thương! Tưởng tượng ra là tôi có thể làm ông bị thương! Lũ ngốc!"



      mức độ nào đó, tôi cảm thấy dễ chịu khi cảm thấy mình được người đàn ông điên tội nghiệp này đánh giá khác với mọi người, nhưng những điều tôi làm hoàn toàn giống như những điều ông ấy nghĩ. Những điều tôi làm với ông ta cũng giống như những điều tôi làm với mọi bệnh nhân khác, và chúng tôi vẩn đứng cạnh nhau trước mặt ông ta. Hoặc là ông ta cảm thấy ở tôi có khác lạ nào đó mà dễ chịu của tôi là cần thiết cho Ông Ta? Tôi tìm hiểu sau. Tối nay ông ta . Thậm chí với việc đem con mèo con và cả con mèo trưởng thành ra làm mồi nhử cũng quyến rũ được ông ấy.




      Ông ta chỉ , "Tôi dự trữ mèo. Tôi còn nhiều điều để suy nghĩ lúc này, và tôi có thể đợi. Tôi có thể đợi."




      Sau đó tôi bỏ . Những người phục vụ lại với tôi rằng ông ta yên lặng cho đến ngay trước lúc rạng đông, và ông ta bắt đầu cảm thấy khó chịu, và trở nên hung hăng, cho đến khi cơn giận dữ bộc phát làm ông ta kiệt sức và bất tỉnh nhân và hôn mê.




      … Ba đêm liền mọi việc diễn ra theo cùng cách thức như nhau, hung hăng suốt cả ngày và trầm tư từ lúc mặt trăng mọc đến lúc mặt trời mọc. Ước gì tôi có thể dò ra được điều gì để giải thích cho việc này. Gần như là có điều gì đó gây ảnh hưởng lên ông ta trong thời gian rồi hết. A, tôi nghĩ ra điều rất hay! Chúng ta sử dụng mưu kế lành mạnh để đối phó với người điên. Trước đây ông ta bỏ trốn mà chẳng có giúp đỡ của chúng tôi. Tối nay ông ta trốn thóat với nó. Chúng tôi cho ông ta cơ hôi, và mọi người sẳn sàng khi cần thiết.




      Ngày 23 tháng Tám. - ‘Những điều được mong đợi xảy ra." Disraeli nhận xét chí lý về cuộc sống. Con chim của chúng tôi hề bay khi nhận thấy cửa lồng mở, khiến cho kế hoạch tinh vi của chúng tôi trở thành con số .Dù sao chúng tôi cũng chứng minh được điều là chu kỳ của trầm uất kia là phụ thuộc vào thời gian. Có lẽ trong tương lai chúng tôi để cho ông ta được tự do vài giờ mỗi ngày.


      Tôi vừa ra lệnh cho những người phục vụ chỉ nhốt ông ta vào phòng cách ly vào ban đêm, đến khi bình minh. Thân xác của con người tội nghiệp kia được hưởng tự do ngay cả khi tâm hồn của ông ta ý thức được điều đó. Hark! Lại điều chờ đợi khác. Người ta gọi tôi. Bệnh nhân lại bỏ trốn.




      Đêm khuya. – Lại chuyến mạo hiểm trong đêm khác. Refield khôn khéo đợi cho đến khi những người phục vụ vào phòng kiểm tra. Đoạn ông ta lẻn ra phía sau họ và lao xuống lối phía dưới. Tôi ra lệnh cho những người phục vụ đuổi theo. lần nữa ông ta vào vùng đất của ngôi nhà hoang, và chúng tôi tìm thấy ông ta ở đúng chỗ cũ, lần nữa đẩy cửa tiến vào ngôi nhà thờ cổ. Khi ông ta thấy tôi ông ta trở nên rất giận dữ, và nếu những người phục vụ giữ ông ta lại đúng lúc, hẳn là ông ta cố giết tôi. Khi chúng tôi tóm được ông ta điều lạ lùng xảy ra.


      Ông ta cố gắng vùng vẫy gấp đôi, rồi thình lình trở nên bình tĩnh. Theo bản năng, tôi liếc nhìn chung quanh, nhưng chẳng thấy gì. Đoạn tôi quan sát mắt bệnh nhân và dõi theo tia nhìn của ông ta để nhìn vào bầu trời đầy ánh trăng, nhưng chẳng thấy gì, ngoại trừ con dơi lớn, vỗ cánh trầm lặng và ma quái bay về phía tây. Dơi thường bay vòng, nhưng con này hình như cứ bay thẳng tiến, tuồng như nó có mục đích ràng và biết nơi mình đến.




      Bệnh nhân trở nên bình tĩnh hơn bao giờ hết, và lặng lẽ , "Các người cần trói tôi. Tôi trở về kháng cự.!" Và chúng tôi trở về nhà mà gặp rắc rối gì hết. Cái vẻ bình tĩnh của ông ta có cái gì đó khiến cho tôi trở nên bất an, và tôi quên đêm nay.




      NHẬT KÝ CỦA LUCY WESTENRA




      Hillingham, ngày 24 tháng Tám. – Tôi phải bắt chước Mina, ghi lại mọi chuyện mới được. Để rồi khi chúng tôi gặp nhau, chúng tôi có nhiều chuyện mà với nhau. biết khi nào điều đó xảy ra nhỉ. Tôi ước gì bạn ấy lại đến với tôi lần nữa, vì tôi hạnh phúc lắm. Tối hôm qua hình như tôi lại có giấc mơ giống như lần ở Whitby. Có thể do thay đổi khí, hoặc do việc tôi lại trở về nhà. Nó là tối tăm và dễ sợ, dù tôi chẳng nhớ được gì cả. Nhưng tôi sợ lắm, tôi cảm thấy mình vô cùng yếu ớt và kiệt sức. Khi Arthur đến ăn trưa, ấy trông có vẻ buồn bã khi nhìn thấy tôi, nhưng tôi còn tâm trạng nào để vui vẻ nữa. Chắc là tối nay tôi ngủ trong phòng mẹ thôi. Tôi xin lỗi mẹ về việc này.




      Ngày 25 tháng Tám. – Lại đêm tồi tệ nữa. Mẹ muốn tôi ngủ chung. Bà khỏe, và ràng là bà ấy sợ làm tôi lo. Tôi cố thức, và cũng thức được lúc, nhưng đồng hồ điểm mười hai tiếng tôi bắt đầu ngủ lơ mơ, và tôi bắt đầu ngủ thiếp . Hình như là có tiếng cào hay tiếng vỗ cánh gì đó ở bên cửa sổ, nhưng tôi biết đó là cái gì, mà cũng chẳng nhớ gì hết. Đến sáng nay tôi yếu ớt khủng khiếp. Mặt tôi trắng bệch trông đến là kinh, và cổ họng tôi đau nhói. ràng là phổi tôi có vấn đề, bởi vì tôi cảm thấy mình đủ khí để thở. Tôi phải cố vui lên khi gặp Arthur mới được, bởi vì nếu thấy tôi trong tình trạng này ấy buồn lắm.


      THƯ CỦA ARTHUR GỬI CHO BÁC SĨ SEWARD




      "Khách sạn Albemarle, ngày 31 tháng Tám




      "Jack thân,




      "Tớ muốn cậu giúp tớ việc. Luccy bệnh, dù nàng chẳng có bệnh gì ràng, nhưng nàng trông rất tệ, và mỗi ngày mỗi yếu . Tớ hỏi xem nàng có biết nguyên nhân nào của tình trạng này hay , vì tớ chẳng dám hỏi mẹ nàng, sợ khiến cho tâm hồn người đàn bà tội nghiệp ấy thêm lo âu về con trong khi bà ấy lâm vào căn bệnh nan y. Bà Westenra có giãy bày với tớ là bà gần hết quãng đời của mình, tim bà rất yếu, dù Lucy tội nghiệp chẳng biết gì cả. Tớ chắc là có cái gì đó làm xáo trộn tâm hồn của nàng. Cứ nghĩ về nàng là tớ rối tung lên.


      Tớ cảm thấy đau nhói mỗi khi tớ trông thấy nàng. Tớ có với nàng là tớ kêu cậu đến gặp nàng, và dù lúc đầu nàng tỏ ra bẽn lẽn, ông bạn già, tớ chẳng hiểu vì sao đâu nhé, cuối cùng nàng cũng nhận lời. Tớ biết đây là công chuyện có thể làm cậu thương tổn, nhưng tớ ngần ngại chút nào khi khẩn khỏan cầu cậu đến. Ngày mai cậu đến ăn trưa tại Hillingham, lúc hai giờ, và đừng có làm gì khiến bà Westenra nghi ngờ. Sau bữa ăn Lucy dàn xếp để gặp cậu mình. Tớ lo lắm. và muốn gặp riêng cậu để xin ý kiến ngay khi tớ gặp cậu sau khi cậu gặp nàng. Đừng thất bại đấy!"




      Arthur."



      ĐIỆN TÍN, ARTHUR HOLMWOOD GỬI SEWARD




      Ngày 1 tháng 9




      "Tớ được gọi về vì cha tớ ốm. Tớ viết để báo cậu biết. Hãy viết cho tớ về mọi chuyện bằng chuyến thư tối nay đến Ring. Đánh điện gấp cho tớ nếu cần thiết."




      THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD GỦIW CHO ARTHUR HOLMWOOD




      Ngày 2 tháng Chín


      "Bạn già,




      "Với quan tâm sâu sắc đến sức khỏe của Westenra, tớ vội vã cho cậu biết ngay rằng, quan điểm của tớ trong vụ này là, chưa bao giờ tớ gặp trường hợp bệnh lý hay xáo trộn tâm hồn như thế cả. Ngay khi gặp mặt nàng, tớ hoàn toàn hài lòng vì sắc diện của nàng. Nàng có vẻ ốm yếu hơn nhiều kể từ lúc tớ gặp nàng lần cuối. Tất nhiên cậu phải chấp nhận điều là tớ có cơ hội để khám bệnh cho nàng cách kỹ càng như ý mình.


      Tình bạn của chúng mình khiến cho lần chữa bệnh này trở thành ca đặc biệt hơn bất kỳ công việc nghiên cứu y học hay cho bất kỳ khách hàng nào. Tớ kể với cậu chính xác những gì xảy ra, để chúng mình cùng bàn bạc và tìm ra cách xử lý thích hợp. Bây giờ tớ kể lại những gì tớ làm và tiếp theo là những đề xuất của tớ.




      "Tớ thấy rằng Westenra trông khá vui vẻ. Mẹ nàng cũng có mặt, và sau vài giây tớ nhận ra là nàng cố gắng đánh lạc hướng mẹ mình, cho bà biết là nàng bất an. Tớ hề nghi ngờ rằng nàng đóan được, nếu muốn biết được, nguyên nhân vì sao phải cẩn trọng như vậy.




      "Chúng tớ ăn trưa riêng với nhau, và khi chúng tớ cố hết sức mình để tỏ ra vui vẻ, chúng tớ cũng nhận được phần thưởng cho việc này, bởi vì sau đó tự bản thân chúng tớ cũng cảm thấy vui vẻ . Sau đó bà Westenra nằm, và chỉ còn lại Lucy với tớ. Bọn tớ vào phòng riêng của nàng, và khi những người phục vụ vẩn còn lại, Lucy vẩn còn cố tỏ ra vui vẻ.




      "Tuy nhiên, ngay khi cánh cửa phòng đóng lại, chiếc mặt nạ cải trang rơi ngay khỏi mặt nàng, nàng ngồi xuống ghế với hơi thở dài nặng nề, rồi dấu mặt sau cánh tay. Khi tớ thấy cố gắng để tự nâng tinh thần mình của nàng chấm dứt, tớ bèn lợi dụng nó để thực cuộc chẩn bệnh.




      "Nàng với tớ cách rất dịu dàng, ‘Em thể với rằng em khinh ghét việc tự về bản thân mình như thế nào.’ Mình nhắc nàng nhớ rằng những lời giãi bày với bác sĩ luôn có ý nghĩa thiêng liêng, và cậu hết sức lo lắng cho nàng như thế nào. Nàng hiểu ý mình ngay, và quả quyết . ‘Hãy với Arthur những gì thấy cần thiết. Em lo lắng cho mình, nhưng mà với ấy lại khác!’ Và tớ cảm thấy vô cùng nhõm.




      "Tớ có thể thấy dễ dàng là nàng trong tình trạng thiếu máu, nhưng tớ thể tìm thấy những dấu hiệu thiếu máu y học thông thường, và tớ tìm thấy cơ hội để có thể kiểm tra về chất lượng máu của nàng, đó là khi nàng mở cánh cửa sổ vốn bị buộc chặt bằng đoạn dây thừng, tay nàng bị cứa bởi mảnh kính vỡ. Nó chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng nó cho tớ cơ hội tốt, và tớ cẩn thận giữ lại vài giọt máu để phân tích chúng.



      "Kết quả phân tích cho thấy máu nàng ở trạng thái bình thường, và từ đó tớ có thể suy ra rằng chủ nó phải có tình trạng sức khỏe tốt. Về phương diện vật lý tớ có thể hài lòng rằng có gì phải phàn nàn, nhưng vì phải có nguyên nhân nào đó cho tình trạng bệnh lý của nàng, nên tớ đến kết luận rằng nó phải là điều gì đó thuộc lãnh vực tinh thần.




      "Nàng phàn nàng với tớ rằng đôi khi hơi thở của nàng trở nên nặng nhọc, và giấc ngủ của nàng nặng nề, ngon giấc, với những cơn mộng luôn làm nàng hỏang sợ, dù rằng nàng chẳng thể nhớ gì về nó. Nàng khi là đứa trẻ, nàng thường bị mộng du, và khi ở Whitby nàng trở lại thói quen đó, có lần nàng mộng du lang thang trong đêm và đến tận Vách Đá Phía Đông, Murray tìm thấy nàng ở đấy.


      Nhưng nàng đảm bảo là sau này nàng còn thói quen đó.


      "Tớ cảm thấy nghi ngờ, và vì vậy tốt nhất tớ gửi thư cho người bạn cũ cũng là thầy tớ, Giáo sư Van Helsing, ở Amsterdam, người hiểu biết về những căn bệnh lạ hơn bất cứ ai thế giới này. Tớ cầu ông ấy đến ngay, và vì cậu bảo tớ hãy làm mọi việc có thể nhân danh cậu, tớ cho ông ấy biết cậu là ai, mối quan hệ giữa cậu và Westenra. bạn thân mến ạ, điều này có nghĩa là, vừa tuân theo triệt để những ý muốn của cậu, tớ cũng lấy làm tự hào và hạnh phúc khi làm mọi chuyện có thể được cho nàng.




      "Tớ biết là Van Helsing làm tất cả mọi thứ cần thiết cho tớ vì những lý do cá nhân, nên bất kể ông ta muốn làm gì, chúng mình phải tuân theo tuốt. Ông ấy là con người độc đóan, bởi vì ông ta biết rằng những gì ông ta luôn hay hơn tất cả những người khác. Ông ta là nhà triết học cũng đồng thời là nhà siêu hình học, trong những khoa học gia cấp tiến nhất trong thời đại mình, và tớ tin chắc là ông ấy có tinh hồn cực kỳ rộng mở.


      Ông ấy có tinh thần thép, tính khí lạnh băng, cương quyết gì có thể khuất phục, khả năng tự chủ, con người càng trở nên cao quý bởi tính hay làm phúc, là trái tim tử tế và trung thực nhất còn đập, đó là tất cả những gì mà ông ấy trang bị cho những công việc cao thượng mà ông ấy làm vì lợi ích của lòai người, cả hai phương diện lý thuyết và thực hành, và quan điểm của ông ấy cũng rộng mở như tấm lòng quảng đại bao dung của ông. Tớ phải với cậu tất cả những việc này để giải thích cho cậu biết vì sao mà tớ đặt niềm tin của mình vào ông ấy. Tớ cầu ông ấy đến ngay. Tớ gặp lại Westenra vào sáng mai. Nàng gặp tớ tại Stores, vì tớ muốn mẹ nàng chú ý khi tớ lại lần nữa đến gặp nàng.



      "Cần cho nhau."




      John Seward.




      THƯ CỦA ABRAHAM VAN HELSING, MD, DPH, D.LIT,V.V…,V.V…, GỬI BÁC SĨ SEWARD




      Ngày 2 tháng 9.




      "Bạn hữu,




      "Khi nhận được thư cũng là lúc tôi có thể đến chỗ được ngay. May mắn là lúc này tôi có thể ngay, chẳng gặp rắc rối gì với những tín đồ của tôi. cách khác là chúng ta gặp may, bởi vì mọi chuyện rất tệ nếu như trong lúc tôi đến gặp bạn mình tín đồ lại gọi tôi lại để biểu lộ tình thân ái. với bạn của là nếu so sánh với trường hợp hút chất độc gây hoại tử từ vết thương của tôi, được gây ra từ con dao của người bạn khác của chúng ta do quá căng thẳng trượt tay, lần này còn làm được nhiều hơn cho ta khi cầu tôi giúp đỡ, đó là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà ta có thể nhận được trong trường hợp này. Nhưng điều dễ chịu nhất cho ta cũng như cho chính là việc tôi đích thân đến.


      Để mọi việc thuận tiện, xin hãy sắp xếp để chúng ta có thể gặp người phụ nữ trẻ kia đừng quá trễ vào ngày mai, bởi vì tôi phải trở về ngay buổi tối. Nhưng nếu cần tôi có thể quay lại trong ba ngày tới, và có thể ở lại lâu hơn, nếu như cần phải thế. Hẹn gặp mặt, bạn John.




      "Van Helsing."




      THƯ CỦA BÁC SĨ SEWARD CHO HON. ARTHUR HOLMWOOD




      Ngày 3 tháng 9




      "Art thân,




      "Val Helsing đến rồi ngay. Ông ấy cùng tớ đến Hillingham, và với sắp xếp khôn ngoan của Lucy, mẹ nàng ăn trưa ở ngòai, và chỉ có chúng tớ với nhau.




      "Van Helsing cuộc khám nghiệm rất kỹ lưỡng bệnh nhân của mình. Ông ấy lại với tớ, và tớ chuyển lời đến cậu, vì tất nhiên là tớ có mặt trong cuộc khám bệnh. Tớ sợ là ông ấy quá lo lắng, và rằng ông ấy còn phải suy nghĩ. Khi tớ với ông ấy về tình bạn của chúng ta, về vấn đề cậu tin tưởng tớ như thế nào trong công chuyện này, ông ta bảo, ‘ có thể với bạn tất cả những gì nghĩ. với ta là tôi còn phải suy nghĩ, và nếu thích có thể đóan xem nó là cái gì. Hừ, tôi chế nhạo đâu. Đây phải là chế nhạo, mà là vấn đề sống chết, có thể còn hơn nữa.’ Ông ấy tỏ ra rất nghiêm trọng khi tớ hỏi xem như vậy là ông ấy muốn gì.


      Rồi chúng tớ quay về thị trấn, ông ta uống vài tách trà rồi quay về Amsterdam. Ông ấy chẳng cho tớ thêm gợi ý nào cả. Cậu đừng có mà cáu với tớ đấy, Art, bởi vì cái trầm lặng của ông ấy chứng tỏ là ông ấy vận dụng tất cả trí não cho căn bệnh của nàng. Ông ấy hết khi nào đúng lúc. Tớ bèn với ông ấy là tớ chỉ đơn giản làm bản kê khai về viếng thăm của chúng tớ, giống như tớ viết bản kê khai mục báo đặc biệt cho tờ Điện tín Hàng ngày. Ông ấy gì thêm , nhưng nhấn mạnh là tình hình an ninh ở London nay đến nỗi tệ như thời ông ta còn là sinh viên ở đấy. Nếu có thể được ngày mai tớ có bản báo cáo của ông ta. Trong trường hợp đó tớ viết cho cậu.




      "À, còn về cuộc viếng thăm của chúng tớ như thế này, Lucy có vẻ vui vẻ hơn ngày đầu tiên tôi gặp nàng, và ràng là trông khá hơn. Nàng bớt cái vẻ nhợt nhạt từng làm cậu điên đầu, và hơi thở của nàng trở lại bình thường. Nàng có vẻ rất dịu dàng với Giáo sư (nàng vẩn luôn như vậy mà), và cố làm ông ấy yên lòng, dù tớ thấy tội nghiệp ấy phải cố lắm để làm điều đó.




      "Tớ tin là Van Helsing cũng nhận thấy điều ấy, bởi vì tớ thấy cái liếc nhìn rất nhanh dưới đôi mày rậm của ông ấy, tớ tớ biết cái kiểu ấy lắm. Rồi ông ấy bắt đầu tán gẫu về mọi thứ ngoại trừ những chuyện về chúng tớ và những căn bệnh, với vui vẻ tột độ và tớ có thể thấy là Lucy tội nghiệp cũng giả vờ hưởng ứng nồng nhiệt. Thế rồi, chẳng hề đổi giọng, ông ấy lịch thiệp chuyển hướng cuộc đối thoại thẳng vào mục đích cuộc thăm viếng của ông ấy, và thẳng,




      " trẻ thân mến của tôi, phải là tôi rất dễ chịu khi thấy là đáng đến thế. bạn thân ạ, có lẽ là còn nhiều điều mà tôi còn chưa nhìn thấy. Họ với tôi là mất tinh thần, và xanh xao ghê lắm. Tôi với họ "Phì!" và ông ấy bật ngón tay với tôi rồi tiếp. ‘Nhưng tôi và chỉ cho bọn họ thấy bọn họ sai lầm như thế nào. có thể làm được gì’, ông ấy chỉ về phía tớ với giáng vẻ như ông ấy từng chỉ về phía tớ trong những lớp học của ông ấy, tớ bao giờ quên được cái dáng điệu đặc biệt này, ‘ biết gì về những trẻ? suốt ngày chơi đùa với những người điên, mang hạnh phúc đến cho họ, và điều đó khiến mến họ.


      Đó là công việc nặng nhọc, nhưng phần thưởng chúng tôi nhận được trong những công việc đại loại như vậy chính là việc chúng tôi có thể tìm thấy hạnh phúc cho mình. Nhưng còn với các trẻ! chẳng có vợ hay con , và những con người trẻ tuổi về chính mình với những con người trẻ tuổi, nhưng với những người già, chẳng hạn như tôi, những người trải qua nhiều đau khổ do tuổi trẻ mang lại, khác. Vì vậy, bạn thân mến, chúng ta ra ngòai hút xì gà trong vườn, trong khi đó tôi và chuyện về chính mình.’ Tớ hiểu ý ngay, bèn bắt đầu dạo lòng vòng, lúc sau giáo sư đến bên cửa sổ và gọi tớ đến. Ông ấy trong rất nghiêm trọng, và , ‘Tôi khám kỹ lưỡng, nhưng chưa tìm thấy nguyên nhân nào. Tôi đồng ý với ra èng ấy bị mất máu, trước đây vậy nhưng lúc này .


      Nhưng lúc này cơ thể ấy có tình trạng bệnh lý nào. Tôi cầu ấy cho tôi mượn người hầu , vì tôi cần hỏi thêm hai câu nữa, để tôi bỏ qua bất cứ cái gì. Tôi hiểu những gì ấy . Và chưa biết được nguyên nhân. Phải có nguyên nhân cho tất cả mọi . Tôi phải về nhà và suy nghĩ. đánh điện cho tôi mỗi ngày, và nếu có gì đặc biệt tôi lại đây. Căn bệnh mà chưa hiểu là bệnh gì này hấp dẩn tôi, và trẻ dịu dàng đáng này cũng hấp dẩn tôi luôn. ấy mê hoặc tôi, và tôi quay lại, phải vì hay vì căn bệnh đâu, mà vì chính ấy.’




      "Như tớ kể với cậu rồi đấy, ông ấy thêm nữa lời, ngay cả khi chỉ còn hai chúng tớ. Và đến bây giờ cậu biết hết những gì tớ biết rồi, Art ạ. Tớ luôn chú ý theo dõi. Tớ tin là cha cậu phục hồi. là kinh khủng cho cậu khi hai người thân của cậu lại rơi vào tình cảnh như vậy, cậu bạn thân của tôi. Tớ biết quan điểm của cậu về bổn phận đối với cha mình, và cậu đúng khi ở bên ông ấy. Nếu cần, tớ cậu đến ngay với Lucy, và đừng quá lo lắng trừ khi cậu nhận tin từ tớ."




      NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD




      Ngày 4 tháng Chín. – Kẻ bệnh nhân cuồng ăn thịt vẩn tiếp tục khiến chúng tôi phải chú ý đến ông ta. Ông ta chỉ bộc phát lần vào giờ giấc bất thường tối hôm qua. Ngay trước khi đồng hồ điểm giữa trưa, ông ta bắt đầu trở nên bồn chồn. Những người phục vụ biết triệu chứng này, bèn gọi mọi người sẳn sàng. May mắn là mọi người tập hợp lại đúng lúc, bởi vì ngay khi đúng giữa trưa ông ta trở nên điên dại khiến mọi người phải cố hết sức mới kiềm giữ ông ta lại được.


      Tuy nhiên, khỏang năm phút sau ông ta bình tĩnh hơn, và cuối cùng chìm vào trạng thái u sầu, và ông ta cứ giữ nguyên trạng thái đó cho đến giờ. Những người phục vụ tôi rằng tiếng gào thét trong cơn động kinh của ông ta rất man dại. Tôi bị vây kín bởi những bệnh nhân khác khiếp hãi bởi tiếng thét này khi tôi bước vào phòng. Điều này chẳng làm tôi ngạc nhiên, bởi vì chính tôi còn phải kinh động bởi tiếng gào này, dù tôi đứng ở quãng xa. Bây giờ là đến giờ ăn trưa của viện điều dưỡng, nhưng người bệnh nhân của tôi vẩn ngồi ở góc phòng, mặt ông ta trông vô thức, ủ rũ và thiểu não, có vẻ như muốn lên điều gì đấy. Tôi thể hiểu nó là cái gì.




      Sau đó. – Lại thay đổi khác nơi bệnh nhân của tôi. Đúng năm giờ tôi đến khóa cửa phòng ông ta, thấy ông ta tỏ ra hạnh phúc và hăng hái như thường lệ. Ông ta bắt ruồi và ăn chúng, rồi đánh dấu lại số lượng ruồi mà ông ta bắt bằng cách đánh dấu lên cạnh cánh cửa ngăn cách phòng cách ly. Khi thấy tôi, ông ta chạy đến và xin lỗi vì hạnh kiểm xấu của ông, rồi với tôi bằng vẻ nhún nhường, khúm núm xin cho ông ấy trở về phòng để lấy lại cuốn sổ ghi chép.


      Tôi nghĩ rằng điều này có lẽ tốt cho ông ta, nên ông ta được trở về phòng mình, cửa sổ mở rộng. Ông ta lấy đường trong tách trà của mình trải ra cửa sổ, và lại bắt đầu vụ mùa thu hoạch ruồi. Bây giờ ông ta ăn chúng, và bỏ vào hộp, và bắt đầu tìm kiếm nhện ở góc phòng như cũ. Tôi cố gợi ông ta về vài ngày qua, vì bất kỳ điều gợi ý nào trong ý nghĩa của ông ấy cũng là giúp đỡ to lớn đối với tôi, nhưng ông ta hưởng ứng. lát sau ông ta trở nên buồn bã, và bằng giọng xa vắng, giống như với ông ta hơn là với tôi.




      "Hết cả! Hết cả rồi! Ông ấy bỏ rơi tôi. còn hy vọng gì nữa, trừ khi tôi tự làm lấy." Và rồi thình lình ông ấy quay sang tôi, bằng giọng cương quyết, "Bác sĩ, liệu ngài có đủ lòng tốt để cho tôi xin thêm ít đường được ạ? Tôi nghĩ nó rất tốt cho tôi."




      "Và ruồi nữa chứ?" Tôi hỏi.




      "Vâng! Ruồi cũng rất thích nó, và tôi thích nó, chính vì vậy mà tôi thích nó." Và mọi người đều biết rằng nên tranh cãi với người điên. Tôi cung cấp gấp đôi những gì ông ta cầu, khiến cho ông ta trở nên hạnh phúc đến nỗi tôi nghĩ rằng ai thế giới này có thể sung sướng hơn. Ước gì tôi hiểu được tâm hồn ông ta.




      Nữa đêm. – Lại thay đổi khác nơi ông ta. Tôi thăm Westenra, nàng trông khá hơn nhiều, và chỉ vừa mới qua về, đứng ngay cổng nhà mình để ngắm cảnh hòang hôn, tôi nghe tiếng ông ta kêu thét lên. Tiếng kêu của ông ta ở góc này của ngôi nhà nghe còn hơn lúc sáng. Tôi chợt bàng hòang khi thấy cảnh đẹp mờ ảo như khói sương của buổi hoàng hôn London bỗng nhiên chìm vào luồng sáng xanh mét của đám mây tối tăm phủ màn đen như mực lên những sắc màu xinh tươi của cuộc sống giống như cơn mưa nước màu đen dội xuống.


      Ngôi biệt thự bằng đá lạnh giá của tôi như chìm hẳn vào màu u ám, hơi thở của nó trở nên đầy đau khổ, và trái tim tan nát của tôi sẳn sàng đón nhận tất cả. Tôi đến chỗ ông ta đúng vào lúc mặt trời lặn xuống, và nhìn cái dĩa đỏ ấy chìm hẳn xuống từ cửa sổ ông ta. Khi nó lặn ông ta càng lúc càng mất vẻ điên cuồng của mình, và cuối cùng ông ta trượt khỏi tay những người giữ mình, ngã quay đơ nền nhà. Những người mất trí lại có nguồn năng lực tinh thần tuyệt vời, nên vài phút sau ông ta đứng dậy với vẻ bình thản, và liếc nhìn chung quanh.


      Tôi ra hiệu cho những người phục vụ đừng giữ ông ta nữa, vì tôi nóng ruột muốn biết ông ta làm gì tiếp theo. Ông ta thẳng về phía cửa sổ và ném những mảnh đường vụn ra ngòai. Rồi ông ta lấy cái hộp ruồi, và thả sạch chúng ra, rồi ném cái hộp . Đoạn ông ta đóng cửa sổ, cài then, ngồi xuống bên giường. Tôi hết sức ngạc nhiên, hỏi ông ta, "Ông còn bắt ruồi nữa ?"




      "," ông ta . "Tôi chán ngấy cái thứ rác rưởi ấy rồi!" Ông ta ràng là bài học thú vị. Ước gì tôi có thể hiểu sơ được tâm hồn của ông ta hoặc nguyên nhân khiến ông ta có hành động đột ngột này.


      Dừng lại. Cuối cùng hẳn phải có chỉ dẩn nào đó, hôm nay ràng chúng ta thấy những cơn động kinh của ông ta đến lúc giữa trưa đứng bóng và lúc hòang hôn. Có thể do ảnh hưởng thâm hiểm nào đó từ chu kỳ của mặt trời khiến gợi nên những bản năng tự nhiên, và đôi khi mặt trăng gây ra những ảnh hưởng khác chăng? Chúng ta hãy xem.




      ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM




      "Ngày 4 tháng Chín. – Bệnh nhân hôm nay vẩn tiếp tục bình phục."




      ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM




      "Ngày 5 tháng Chín. – Bệnh nhân phục hồi rất tốt. Thèm ăn, ngủ ngon, lên tinh thần, và có vẻ hồng hào trở


      lại."



      ĐIỆN TÍN, SEWARD, LONDON, GỬI VAN HELSING, AMSTERDAM




      "Ngày 6 tháng Chín. – Mọi thay đổi cách tồi tệ. Đến ngay. Đừng để mất giờ nào. Tôi cũng gửi điện cho Holmwood đến để gặp ngài."

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :