BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      71.

      Rượu vang Castelli khiến đầu óc cha Nil hơi quay cuồng. Ông ngạc nhiên thấy người phục vụ đặt trước mặt mình tách cà phê: hoàn toàn bị lôi cuốn bởi câu chuyện của Lev, ông ngốn hết món penne arrabiate và lát thịt làm theo kiểu Milan kế tiếp mà hề để ý. Vẻ lo lắng, Leeland khuấy chiếc thìa trong tách của mình. Ông quyết định hỏi Lev câu mà cha Nil từng đặt ra cho ông, trong sân Belvedere:

      xem, Lev… Tại sao lại gửi cho tôi hai giấy mời đến buổi hòa nhạc, và lại còn thêm lời nhắn rằng có thể bạn tôi cũng quan tâm? Làm thế nào mà biết rằng ông ấy ở Roma, và rất đơn giản là làm thế nào mà biết về tồn tại của ông ấy?

      Lev nhướng mày vẻ ngạc nhiên.

      – Nhưng… chính ông cho tôi biết điều đó! Hôm sau khi tôi đến đây, ở khách sạn đường Giulia tôi nhận được bức thư, có rập huy hiệu của Vatican. Bên trong có vài dòng đánh máy – nếu tôi nhớ , đại ý là: “Đức ông Leeland và bạn ông là cha Nil hân hạnh được tham dự v.v…” Tôi nghĩ là ông nhờ thư ký báo cho tôi, và tôi cũng thấy chuyện này hơi mau lẹ, nhưng hẳn đó là do phong tục của Vatican ảnh hưởng đến ông.

      Leeland nhàng trả lời:

      – Tôi có thư ký, Lev ạ, và tôi chưa bao giờ gửi thư cho . Thậm chí tôi còn biết khách sạn nơi ở trong chuyến lưu diễn của tại Roma. Hãy xem… bức thư đó có chữ ký của tôi ?

      Lev lùa tay vào mái tóc dày.

      – Tôi cũng biết nữa! , phải chữ ký của ông, ở bên dưới chỉ có chữ cái đầu. chữ C viết hoa, tôi nghĩ thế, sau đó là dấu chấm. Dù sao, Rembert ạ, tôi cũng có ý định gặp ông nhân dịp qua đây, và hẳn là tôi cũng làm quen với cha Nil.

      Gương mặt Leeland đột ngột kín bưng: Catzinger hay Calfo? Cơn giận dữ lại dâng lên trong ông.

      Chìm đắm trong dòng suy nghĩ, cha Nil theo dõi câu chuyện cách lơ đãng. Ông vướng bận với rất nhiều câu hỏi khác, và đột ngột cắt ngang:

      – Chỉ kết quả là đáng kể thôi, vì chính nhờ bức thư này, tối nay tôi được nghe phần trình diễn tuyệt vời bản hòa tấu của Rachmaninov. Nhưng xem, Lev… Tại sao lại tâm với chúng tôi những chuyện này? đoán được việc phát ra bức thư tông đồ mới, bức thư được lôi ra khỏi quên lãng cách thần kỳ vào cuối thế kỷ XX, và có thể khiến chúng tôi phải xem lại đức tin của mình, có ý nghĩa như thế nào đối với Rembert và tôi. Tại sao lại với chúng tôi toàn bộ chuyện này?

      Lev trả lời bằng nụ cười quyến rũ nhất. thể với cha Nil: “Vì đó là chỉ thị của Mossad”.

      – Vậy còn ai có thể quan tâm đến chuyện này hơn các ông?

      Dường như hề coi trọng câu hỏi của cha Nil, và quan sát ông cách thân tình.

      – Cha Nil… liệu tài liệu cổ đơn giản phản bác thiên chất của Jesus, có thể thực làm thay đổi điều gì đó đối với các ông?

      Những khách hàng cuối cùng vừa rời khỏi cửa hàng, lúc này chỉ còn lại họ trong căn phòng nơi người chủ bắt đầu nhàng thu dọn. Cha Nil suy nghĩ lúc lâu trước khi trả lời, dường như ông quên mất mình chuyện với ai:

      – Tối nay, cho tôi biết rằng bức thư của tông đồ được phát tại Qumran cùng với các bản thảo vùng biển Chết: từ vài tuần nay, tôi tích lũy được các bằng chứng về tồn tại của nó. Vào thế kỷ III với bản thảo chữ Ai Cập cổ, vào thời điểm bản lề của thế kỷ IV với văn bản của Origène. Vào thế kỷ VIII với mật mã được đưa vào Tín điều Nicée ở Germigny, và cuối cùng là vào thế kỷ XIV với vụ án các Hiệp sĩ. Tất cả những chuyện này sau nhiều năm giải mã văn bản viết vào cuối thế kỷ I, nơi bắt đầu tất cả: kinh Phúc theo thánh Jean. Bức thư của tông đồ thứ mười ba, tôi lần theo được dấu vết của nó, nhờ có cái bóng nó in vào lịch sử phương Tây.

      Ông nhìn thẳng vào Lev.

      – Giờ đây, vừa với tôi rằng mang nó trong chiếc cặp học sinh của mình, khi tìm cách hoàn thành dưới làn bom nhiệm vụ đối với người lãnh đạo của Hagana. Rồi cho tôi biết rằng nó nằm ở đâu đó ở Vatican, bị che giấu hoặc đơn giản là được biết tới. nghe Ygaël Yadin rằng nó chứa đựng bí mật kinh khủng. Dù tôi có biết được nội dung của nó – hẳn là phải rất kinh khủng, thế, để trong suốt những thế kỷ qua có thể gây ra ngần ấy vụ thanh trừng, giết người và cạm bẫy – điều đó cũng làm thay đổi chút nào mối quan hệ giữa tôi với Jesus. Tôi gặp Người cách riêng tư, Lev ạ, có thể hiểu điều đó ? Con người của Jesus thuộc về bất cứ Giáo hội nào, Người cần đến chúng để tồn tại.

      Lev có vẻ bị ấn tượng mạnh. nhàng đặt bàn tay lên cánh tay cha Nil.

      – Tôi chưa bao giờ là tín đồ chăm chỉ, cha Nil ạ, nhưng mọi người Do Thái đều hiểu điều ông với tôi, vì mọi người Do Thái đều xuất thân từ dòng dõi của các nhà truyền giáo, dù muốn hay . Tôi muốn ông biết rằng tôi thấy ông vô cùng dễ mến, và nếu trong đời mình tôi dối nhiều, khi với ông điều này tôi hoàn toàn chân thành.

      đứng dậy, chủ quán bắt đầu quanh bàn của họ.

      – Với tất cả tấm lòng mình, tôi mong rằng ông thành công trong việc tìm kiếm. Đừng cho rằng nó chỉ liên quan đến ông, và tôi thêm điều gì nữa. Hãy cẩn thận: tất cả các nhà truyền giáo và những người giống họ đều phải chịu cái chết tàn khốc. Cả điều này, người Do Thái cũng biết được bằng bản năng, và ta chấp nhận nó giống như Jesus, người Do Thái chấp nhận trước đây. Bây giờ là hai giờ sáng: hãy cho phép tôi trả tiền taxi để đưa ông về San Girolamo.

      Lún sâu người trong ghế ô tô, cha Nil nhìn mái vòm của Vatican lướt qua, ánh lên trong đêm tháng Mười hai lạnh lẽo, mắt ông nhòe nước. Cho đến ngày hôm nay, bức thư này vẫn chỉ là giả thiết, chỉ là giả tưởng. Vậy mà ông vừa bắt bàn tay từng chạm vào nó, vừa bắt gặp ánh mắt từng nhìn thấy tài liệu này.

      Đột nhiên, giả thiết trở thành . Bức thư của tông đồ thứ mười ba hẳn nằm đâu đó sau bức tường thành Vatican cao ngất.

      Ông đến tận cùng. Ông cũng vậy, ông cũng được tận mắt nhìn thấy bức thư này.

      cố gắng sống sót, khác với tất cả những người trước ông.

      72.

      Leeland chơi khúc dạo của Bach cha Nil bước vào căn phòng đường Aurelia. Cho đến lúc bình minh, ông nghiền ngẫm những điều Lev Barjona tiết lộ. Đôi mắt thâm quầng cho thấy nỗi lo lắng trong lòng ông.

      – Tớ chợp mắt suốt đêm qua: cùng lúc, có quá nhiều điều mới mẻ! sao cả, chúng ta hãy đến kho sách, làm việc với các bản thảo giai điệu Grégoire của cậu giúp đầu óc tớ hồi tỉnh. Cậu có ý thức được điều đó , Rembert, bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể ở ngay Vatican!

      – Chúng ta chỉ có thể ở đó sáng nay. Tớ vừa nhận được cú điện thoại của Đức ông Calfo: Hồng y cho gọi tớ đến văn phòng ông ta vào mười bốn giờ chiều nay.

      – Làm gì mới được chứ?

      – Ồ … Leeland đậy nắp đàn piano, vẻ lúng túng, tớ nghĩ là tớ biết tại sao, nhưng tớ muốn chưa trả lời cậu ngay bây giờ. Nếu bức thư bí mà cậu tìm kiếm từ bấy nhiêu năm ở Vatican, cậu làm thế nào để chạm được tay vào nó?

      Đến lượt cha Nil có vẻ ngần ngại.

      – Xin lỗi cậu, Rembert, tớ cũng muốn trả lời cậu ngay lập tức. Cậu thấy Vatican biến chúng ta thành thế nào rồi: những người em còn hoàn toàn là em nữa, bởi vì họ hết mọi chuyện với nhau…

      Ở tầng dưới, Moktar dùng máy ghi và huýt gió. Cha Nil vừa câu đáng giá nhiều đô la: bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể ở Vatican! đúng khi nghe theo lệnh của Cairo, và chưa làm gì hại đến tu sĩ người Pháp bé này. Fatah cũng biết nhiều thông tin ngang với Calfo về bức thư kia, và về tầm quan trọng sống còn của nó đối với đạo Cơ đốc: gọng kìm siết lại quanh cha Nil, phải để ông ta đến cùng.

      Calfo bảo vệ Cơ đốc giáo, nhưng còn , Moktar, bảo vệ đạo Hồi, kinh Coran và Đấng tiên tri của – cầu cho tên người được ban phúc.

      Khi dọc hành lang dài dẫn đến văn phòng của người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Leeland cảm thấy dạ dày quặn lại. Thảm lót dạ phớt, đèn vách kiểu Venise, tường lát gỗ quý: sang trọng này đột nhiên trở nên thể chịu đựng nổi đối với ông. Đó là dấu hiệu phô trương quyền lực của tổ chức ngần ngại nghiền nát những thành viên của chính nó, để duy trì tồn tại của đế chế rộng lớn được xây dựng chuỗi những điều dối trá. Từ khi cha Nil đến đây, ông ý thức được rằng bạn mình trở thành nạn nhân của quyền lực này, giống như ông – nhưng vì lý do hoàn toàn khác. Leeland chưa bao giờ thực đặt ra cho mình câu hỏi về đức tin: những phát của cha Nil làm cho ông bị đảo lộn, và củng cố cuộc nổi loạn trong con người ông. Ông kín đáo gõ vào cánh cửa cao được trang trí bằng những lát vàng mảnh.

      – Mời đức ông vào, tôi chờ ông.

      Leeland chuẩn bị tinh thần gặp ông ta có Calfo kèm, nhưng Catzinger chỉ có mình. bàn làm việc trống trơn có đặt hồ sơ đơn giản có gạch chéo màu đỏ.

      Khuôn mặt Hồng y vốn tròn và hồng hào, giờ cứng như đá.

      – Đức ông, tôi vòng vo. Từ ba tuần nay ngày nào ông cũng gặp cha Nil. Giờ đây ông còn dẫn ông ấy đến dự buổi hòa nhạc, và để ông ấy gặp người mấy đáng tin cậy, người mà những thông tin chúng tôi có được đều rất xấu.

      – Thưa Đức Hồng y, Roma phải là tu viện…

      – Sufficit![[47]] Chúng ta thỏa thuận: ông phải cho tôi biết về những cuộc trò chuyện của ông với cha Nil, và về quá trình tiến triển trong các nghiên cứu cá nhân của ông ấy. nghiên cứu nào có thể là cá nhân trong Giáo hội Cơ đốc: mọi suy nghĩ, mọi phát phải có ích cho nó. Tôi nhận thêm được bất kì báo cáo nào từ ông, và những báo cáo ông gửi cho tôi hoàn toàn hỏng – đó là điều tối thiểu mà ta có thể . Chúng tôi biết rằng cha Nil theo hướng nguy hiểm, và chúng tôi biết rằng ông ấy có chia sẻ với ông. Tại sao, thưa Đức ông, ông lại chọn đứng về phía mạo hiểm thay vì đứng về phía Giáo hội, nơi ông thuộc về và cũng là mẹ của ông?

      Leeland cúi đầu. Với người này, ông có thể trả lời thế nào?

      – Thưa đức Hồng y, tôi hiểu gì nhiều về công việc nghiên cứu uyên thâm của cha Nil…

      Catzinger khô khan cắt ngang:

      – Tôi cầu ông phải hiểu, mà phải báo cáo lại điều ông nghe thấy. Tôi cảm thấy rất khó khăn phải nhắc cho ông nhớ, nhưng ông ở trong tình thế được lựa chọn.

      Ông ta nghiêng xuống bên bàn, mở kẹp hồ sơ và đẩy nó về phía Leeland.

      – Ông nhận ra những bức ảnh này chứ? Có thể thấy ông ở cùng với trong số các tu sĩ của ông ở St Mary, thời kỳ ông là tu viện trưởng. Ở đây – ông ta ve vẩy trước mũi Leeland tấm ảnh đen trắng – hai người đối diện nhau trong vườn tu viện, và cái nhìn mà ông trao cho ta lên nhiều điều. Và ở đây, lần này là tấm ảnh màu, ông ngồi sát vào lưng ta, và tay ông đặt lên vai ta. Giữa hai nhà tu hành, những tư thế này là đoan chính.

      Leeland tái mặt, và tim ông đập dữ dội trong lồng ngực. Ansenlm! trong trắng, đẹp đẽ, cao quý của em Anselm! Hồng y này bao giờ có thể hiểu được điều gì về những tình cảm gắn kết họ. Nhưng ông đời nào để ông ta làm ô danh mình bằng ánh mắt lồi đó, bằng những từ ngữ thoát ra từ cái miệng làm bằng đá cứng rắn và lạnh lẽo đó.

      – Thưa Hồng y, tôi chứng tỏ điều đó và ngài cũng biết, có gì xảy ra giữa đạo hữu Anselm và tôi làm ảnh hưởng đến lời nguyện trinh bạch. Chưa bao giờ có hành động nào, hay thậm chí là mẩu hành động nào ngược lại với đạo đức Cơ Đốc giáo!

      – Đức ông, trinh bạch Cơ đốc chỉ bị xâm phạm bởi những hành động, nó ngự trị trong làm chủ trí tuệ, tấm lòng và tâm hồn. Ông xâm phạm lời thề của mình bằng những ý nghĩ xấu xa, thư từ trao đổi giữa ông với đạo hữu Anselm, ông ta chỉ cho Leeland hàng chục bức thư được xếp cẩn thận dưới những tấm ảnh, quá đủ để chứng tỏ điều đó. Bằng việc lạm dụng quyền hạn của ông đối với ta, ông dẫn đạo hữu bất hạnh này theo khuynh hướng sôi sục trong ông, và chỉ nhắc đến khuynh hướng đó thôi cũng đủ để khiến linh mục như tôi cảm thấy ghê tởm.

      Leeland đỏ mặt đến tận chân tóc, và phẫn nộ. “Làm sao họ lại có được những bức thư này? Anselm, người bạn tội nghiệp, họ làm gì em rồi?”

      – Thưa Hồng y, những bức thư này chứa đựng gì ngoài trìu mến, đúng là rất nồng nhiệt, nhưng trong trắng, giữa tu sĩ và cấp của ta.

      – Ông đùa à! Những tấm ảnh này, cộng thêm những bức thư này, và cộng thêm quan điểm công khai của ông về chuyện hôn nhân của các linh mục, mọi thứ đều chỉ ra rằng ông rơi vào tình trạng xuống cấp về đạo đức đến nỗi chúng tôi phải che chở ông sau phẩm tước Giáo mục nhằm tránh xảy ra vụ bê bối kinh khủng ở Mỹ. Giáo hội Cơ Đốc Mỹ trong cơn bão, những vụ việc lặp lặp lại liên quan đến chứng trẻ em làm suy giảm trầm trọng uy tín của nó đối với con chiên. Tưởng tượng xem tờ báo hung dữ nào đó chống lại chúng ta biến thông tin này thành: “Tu viện St. Mary, nhà phụ của Sodome và Gomorrhe![[48]]” Bằng cách che chở ông dưới cái bóng bảo vệ của Vatican, tôi buộc được các nhà báo làm trầm trọng thêm về con người ông, và chúng tôi phải trả giá rất đắt cho điều đó. Hồ sơ này, Đức ông ạ…

      Ông ta cẩn thận xếp lại những bức ảnh vào dưới tập thư, và đóng kẹp hồ sơ lại bằng cử chỉ khô khan.

      – … hồ sơ này, tôi thể giữ bí mật lâu hơn nếu ông hoàn thành thỏa thuận của chúng ta theo cách mà tôi thấy là thỏa đáng. Từ nay trở , ông báo cáo trực tiếp với tôi về tất cả những tiến triển của ông bạn người Pháp của ông. Với lại, bằng việc để ý sao cho ở Roma ông ấy gặp thêm ai ngoài ông ra, ông đảm bảo được cho an toàn của ông cũng như ông ấy. Capito?[[49]]

      Khi Leeland ra đến hành lang dài vắng vẻ, ông phải tựa vào tường lát. Ông thở hổn hển: cố gắng vừa rồi của ông trước bản thân khiến ông mệt lả, chiếc áo phông dính bết vào ngực. Ông từ từ trấn tĩnh lại, xuống cầu thang lớn bằng đá cẩm thạch và ra khỏi tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. Như người máy, ông rẽ sang phải, theo lối đầu tiên trong số ba lối quanh hàng cột Bernin. Rồi lại rẽ phải, và tiến về phía đường Aurelia. Đầu óc trống rỗng, ông bước hề nhìn xung quanh.

      Ông có cảm giác thể xác ông vừa bị Hồng y giẫm nát. Anselm! Liệu họ có thể biết, liệu họ có thể hiểu được tình là gì ? Đối với những người của Giáo hội này, tình dường như chỉ là từ, chủng loại chung, bên trong cũng trống rỗng như chương trình chính trị. Làm sao người ta có thể đức Chúa vô hình, khi mà người ta chưa từng sinh linh bằng xương bằng thịt? Làm sao có thể là “ em toàn thế giới ” nếu em của em mình?

      làm thế nào, ông ở trước căn hộ của mình, và trèo lên ba tầng gác. Ông rất ngạc nhiên thấy cha Nil ngồi bậc cầu thang, chiếc túi kẹp giữa hai chân.

      – Tớ thể ở lại San Girolamo mà làm gì, tu viện đó thê thảm. Tớ muốn được chuyện, tớ đến đây chờ…

      lời, ông dẫn cha Nil vào phòng khách. Ông cũng cần chuyện: nhưng liệu ông có thể phá vỡ cái vỏ siết chặt ngực ông ?

      Ông ngồi xuống và tự rót cho mình cốc rượu bourbon: mặt ông vẫn còn tái mét, cha Nil nhìn ông, đầu hơi nghiêng.

      – Remby, bạn của tôi… có chuyện gì vậy? Cậu trông như bị phá hủy ấy.

      Leeland ôm lấy chiếc cốc trong hai bàn tay, và nhắm mắt lát. “Liệu mình có thể với cậu ấy ?” Rồi ông uống thêm ngụm, và trao cho cha Nil nụ cười dè dặt. “Người bạn duy nhất của mình kể từ nay.” Ông chịu đựng được bộ mặt kép mà ông buộc phải mang kể từ khi cha Nil đến Roma. Với cố gắng, ông bắt đầu :

      – Cậu biết rằng tớ vào nhạc viện St.Mary từ khi còn rất trẻ, và tớ chuyển thẳng từ ghế nhà trường sang ghế tập tu. Tớ biết gì về cuộc đời, Nil ạ, và chay tịnh đè nặng lên tớ bởi vì tớ biết đến say đắm. Năm tớ dâng lời nguyện, thanh niên vào tập tu, cậu ấy cũng đến từ nhạc viện như tớ, và cũng giống tớ, cậu ấy trong trắng như đứa trẻ sơ sinh. Tớ là nhạc công piano, còn cậu ấy là nhạc công violon. Đầu tiên là nhạc gắn kết chúng tớ, và sau đó là điều gì đấy mà tớ hoàn toàn biết, trước nó tớ hoàn toàn yếu mềm, điều mà người ta bao giờ đến trong tu viện: tình . Phải mất nhiều năm tớ mới xác định được tình cảm mới lạ này trong tớ, để hiểu rằng niềm hạnh phúc mà tớ cảm thấy khi cậu ấy diện chính là tình . Lần đầu tiên, tớ ! Và tớ cũng được , tớ biết điều đó vào ngày mà Anselm và tớ cởi mở tấm lòng với nhau. Tớ , Nil ạ, tu sĩ trẻ hơn tớ, mạch nước trong suốt chảy từ suối nguồn trong vắt, và tớ được cậu ấy !

      Cha Nil phác cử chỉ, nhưng vẫn cắt lời ông.

      – Khi tớ trở thành tu viện trưởng, quan hệ của chúng tớ càng trở nên sâu sắc. Thông qua lựa chọn của tu viện, cậu ấy trở thành con trai của tớ trước Chúa: tình tớ dành cho cậu ấy được tô đậm thêm bởi tình cảm vô cùng dịu dàng…

      Hai giọt nước mắt lăn má ông: ông thể thêm nữa. Cha Nil nhấc chiếc cốc ra khỏi tay ông, và đặt lên chiếc đàn piano. Ông ngập ngừng lát:

      – Tình song phương đó, tình mà cả hai người đều ý thức được, hai người có thể nó qua quan hệ thể xác nào ?

      Leeland ngước nhìn ông bằng ánh mắt đẫm lệ.

      – Chưa bao giờ! Chưa bao giờ cậu hiểu , nếu cậu muốn ám chỉ điều gì đó dung tục. Tớ hít thở diện của cậu ấy, nhưng chưa bao giờ thân thể chúng tớ lao vào hành vi tiếp xúc thô tục. Chưa bao giờ tớ thôi làm tu sĩ, chưa bao giờ cậu ấy ngừng trong trắng như pha lê. Chúng tớ nhau, Nil ạ, và chỉ cần biết thế thôi là đủ cho chúng tớ cảm thấy hạnh phúc. Từ ngày đó, tình Chúa trở nên dễ hiểu hơn, gần gũi hơn đối với tớ. Có thể ngày xưa môn đồ cưng và Jesus cũng từng trải qua điều gì đó tương tự chăng?

      Cha Nil bĩu môi. nên trộn lẫn tất cả, mà phải dừng lại ở việc.

      – Nếu có gì xảy ra giữa hai người, nếu chưa từng có hành động nào, nghĩa là có cơ sở tội lỗi nào, xin lỗi cậu, đó là cách lập luận của các nhà thần học, Catzinger có liên quan gì đến chuyện này? Vì cậu vừa ra khỏi văn phòng ông ta, đúng ?

      – Trước đây tớ viết cho Anselm vài bức thư thể tình này: tớ biết sau đó Vatican gây áp lực thế nào để có được chúng, cùng hai bức ảnh trong sáng trong đó Anselm và tớ ở bên nhau. Cậu biết nỗi ám ảnh của Giáo hội đối với tất cả những gì động chạm đến tình dục: chừng ấy là đủ để nuôi dưỡng trí tưởng tượng bệnh hoạn của họ, để kết tội tớ là suy đồi đạo đức, để bêu xấu và phủ thứ bùn ghê tởm lên tình cảm mà họ thể hiểu được. Những giáo sĩ cấp cao này có còn là người nữa , hả Nil? Tớ nghi ngờ điều đó, họ chưa bao giờ biết đến vết thương tình khiến cho nhân loại sinh ra con người.

      – Như vậy, cha Nil nhấn mạnh, bây giờ Catzinger gây áp lực lên cậu. Nhưng cậu có biết là vì lý do gì ? Ông ta gì với cậu, tại sao cậu có vẻ bị đảo lộn đến thế?

      Leeland cúi đầu, và trả lời trong hơi thở.

      – Ngày cậu đến Roma, ông ta cho gọi tớ. Và giao cho tớ nhiệm vụ phải báo cáo ông ta tất cả các cuộc trò chuyện của chúng ta, nếu ông ta đưa tớ ra làm mồi cho báo chí: tớ chỉ có thể sống sót qua chuyện đó, nhưng Anselm thể tự vệ được, cậu ấy được trang bị để đương đầu với lũ chó săn, tớ biết cậu ấy bị hủy hoại. Vì tớ biết cảm giác , vì tớ dám , nên người ta cầu tớ theo dõi cậu, Nil ạ!

      Giây phút ngạc nhiên ban đầu qua , cha Nil đứng dậy và rót cho mình ly bourbon. Giờ đây ông hiểu thái độ nước đôi của bạn mình, những lúc im lặng đột ngột của Leeland. Mọi thứ ràng: các tài liệu bị đánh cắp trong phòng riêng của ông bên bờ sông Loire hẳn rất nhanh chóng đến văn phòng của Cơ quan truyền bá đức tin. Việc ông bị gọi về Roma với cái cớ nhân tạo, việc ông gặp lại Leeland, mọi chuyện đều được sắp đặt trước, mọi chuyện đều là kết quả của kế hoạch. Theo dõi ư? Ông bị theo dõi ở tu viện, ngay sau ngày cha Andrei chết. Khi ông đến Roma, Rembert bất hạnh chỉ còn là con tốt bàn cờ, ông mới chính là quân cờ trung tâm.

      Ông suy nghĩ căng thẳng, nhưng nhanh chóng đưa ra quyết định:

      – Rembert, hình như những nghiên cứu của tớ và của cha Andrei làm phiền nhiều người. Từ khi tớ phát ra diện của tông đồ thứ mười ba trong căn phòng lớn bên cạnh Jesus, và cách thức mà ông ta ngừng bị loại bỏ bởi quyết tâm dai dẳng, xảy ra những chuyện mà tớ thể tin là có thể xảy ra vào thế kỷ XX. Đối với Giáo hội, tớ trở thành con chiên ghẻ vì cuối cùng tớ chấp nhận điều hiển nhiên thể chấp nhận được: việc biến Jesus thành Chúa Christ là trò bịp bợm. Và cũng vì tớ phát ra mặt bị che giấu trong nhân cách của Giáo hoàng đầu tiên, những thủ đoạn quyền lực bắt nguồn từ Giáo hội. Người ta để tớ tiếp tục con đường này: giờ đây tớ tin chắc rằng vì vướng vào chuyện này mà cha Andrei bị ngã khỏi tàu Roma Express. Tớ muốn trả thù cho cái chết của ông ấy, và chỉ có mới trả thù được. Cậu có sẵn sàng đồng hành với tớ đến cùng ?

      ngần ngại, Leeland trả lời bằng giọng trầm đục:

      – Cậu muốn trả thù cho người bạn quá cố của cậu, còn tớ, tớ muốn trả thù cho người bạn còn sống của tớ, người phải sống khép kín trong xấu hổ và lặng lẽ ở tu viện của chính tớ: từ nhiều tháng nay, cậu ấy viết cho tớ nữa. Tớ muốn trả thù những điều bẩn thỉu mà họ bôi lên chúng tớ, trả thù cho cái chết của điều gì đó quá trong trắng để những người ở Vatican có thể hiểu được. Đúng, tớ ở bên cậu, Nil ạ: cuối cùng chúng ta lại tìm thấy nhau!

      Cha Nil ngả người vào ghế, và nhăn mặt uống cạn ly. “Mình bắt đầu uống như tên cao bồi!” Đột nhiên, căng thẳng trong ông giảm xuống: ông lại có thể chia sẻ mọi điều với bạn mình. Chỉ có hành động mới cho phép họ thoát khỏi tình trạng khép kín.

      – Tớ muốn tìm thấy bức thư đó. Nhưng tớ tự hỏi về chàng Lev Barjona: cuộc gặp gỡ của ta với chúng ta phải là ngẫu nhiên, nó được dàn xếp. Nhưng do ai, và để làm gì?

      – Lev là người bạn, tớ tin ta.

      – Nhưng đó là người Do Thái, và ta từng là thành viên của Mossad. Như ta , người Israel biết về tồn tại của bức thư, bởi vì Ygaël Yadin đọc nó và nhắc đến nó trước khi chết. Còn ai khác biết chuyện nữa ? Có vẻ Vatican biết rằng nó nằm đâu đó giữa những bức tường của mình. Tại sao Lev lại tiết nộ cho tớ thông tin này? Người như ta làm điều gì bộp chộp.

      – Tớ biết gì hết. Nhưng cậu làm thế nào để tìm thấy tờ giấy sơ sài, có thể được bo bo bảo vệ, hoặc cũng có thể đơn giản là bị lãng quên trong góc nào đó? Vatican rất rộng lớn, các bảo tàng, thư viện, nhà phụ, phòng áp mái và hầm ngầm chứa đựng mớ lộn xộn đến khó tin, từ những bản thảo bị bỏ rơi trong ngăn kéo cho đến bản sao Spoutnik mà Nikita Khrouchtchev tặng cho Jean XXIII. Hàng triệu đồ vật hầu như được sắp xếp. Và lần này cậu chẳng có gì chỉ dẫn, dù chỉ là mã số thư viện.

      Cha Nil đứng dậy và vươn vai.

      – Lev Barjona cho chúng ta chỉ dẫn quý báu, mặc dù có thể ta cũng biết điều đó. Để khai thác nó, quân chủ bài duy nhất của tớ là Breczinsky. Người này là pháo đài được ngăn chặn từ mọi nơi: tớ phải tìm cách lọt vào trong đó, ông ấy là người duy nhất có thể giúp tớ. Ngày mai chúng ta vẫn đến kho sách như thường lệ, cậu để tớ hành động.

      Cha Nil rời khỏi phòng: Moktar tháo tai nghe, và cuốn lại những cuộn băng ghi . cuộn là dành cho Calfo. nhét cuộn còn lại vào chiếc phong bì, mang nó đến đại sứ quán Ai Cập. Qua hành lý ngoại giao, sáng mai hẳn nó đến tay Người dẫn đường tối cao ở đại học Al-Azhar.

      chun môi lại ngao ngán. Tu sĩ người Mỹ này chỉ là đồng phạm của cha Nil, ông ta còn là kẻ đồng tính. Cả người này lẫn người kia đều xứng đáng được sống.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      73.

      Cũng tối đó, Calfo triệu tập cuộc họp bất thường của Hội Thánh Pie V. họp ngắn thôi, nhưng các kiện đòi hỏi toàn bộ Mười hai tông đồ phải tập họp về quanh Thầy bị đóng đinh giá chữ thập.

      Hội trưởng liếc mắt nhìn tông đồ thứ mười hai: đôi mắt khiêm tốn cụp xuống bên dưới chiếc mũ trùm, Antonio chờ cuộc họp bắt đầu. Calfo giao cho xử lý Breczinsky, đồng thời cho biết điểm yếu của người Ba Lan này: tại sao chàng người Tây Ba Nha lại đến báo cáo với ông như dự kiến? Phải chăng lòng tin của ông đối với trong số mười tông đồ bị đặt sai chỗ? Nếu thế đây là lần đầu tiên. Ông ngạt bỏ ý nghĩ khó chịu này. Từ sau lễ nghi hôm qua, quỳ trước Sonia biến đổi thành hình thái sống, ông bơi trong niềm khoan khoái. Rumani cuối cùng chấp nhận mọi đòi hỏi của ông, giữ đến cùng chiếc mũ bà xơ mái đầu nhắn xinh xắn.

      Táo bạo hơn vì thành công này, khi cho về ông báo trước với : lần sau ông tổ chức nghi lễ gợi cảm hơn, nó hợp nhất họ cách rất thân mật trong hy sinh của Chúa. Khi ông giải thích cho nghe về nghi lễ mà ông đòi hỏi phải phối hợp, Sonia tái mặt, và vội vàng mất.

      Ông lo lắng: quay lại, chưa bao giờ từ chối ông bất cứ điều gì. Tối nay ông phải giải quyết êm thấm cuộc họp này, để trở về nhà mình, nơi những công việc chuẩn bị lâu dài và tỉ mỉ chờ. Ông đứng dậy, và hắng giọng.

      – Các em, nhiệm vụ tiến hành có biến chuyển bất ngờ, và rất đáng khích lệ. Tôi khiến cho Lev Barjona, người loạt buổi hòa nhạc ở nhạc viện Saint Cecilia, gặp gỡ cha Nil. đúng ra, tôi can thiệp cũng vô ích: dù sao người Israel đó cũng có ý định liên hệ với tu sĩ của chúng ta, điều này cho thấy Mossad quan tâm đến các nghiên cứu của ông ta đến mức nào. Tóm lại, họ gặp nhau, và Lev để lộ trước mặt nhà trí thức vô hại này thông tin mà chúng ta chờ đợi bấy lâu nay: bức thư của tông đồ thứ mười ba mất tích. Vẫn còn bản bức thư này, và hẳn là ở Vatican.

      cái rùng mình lan khắp cử tọa vừa ngạc nhiên vừa phấn khích. trong số Mười hai hội viên đưa hai cánh tay giao nhau ra phía trước.

      – Sao lại thế được? Chúng ta từng nghi ngờ bản của bức thư này thoát khỏi cảnh giác của chúng ta, nhưng… ở Vatican.

      – Chúng ta ở trung tâm của Cơ Đốc giáo, mạng lưới rộng lớn với các mắt lưới bao phủ toàn bộ hành tinh. Mọi thứ đều kết thúc bằng việc đến Vatican vào ngày nào đó, kể cả các bản thảo hoặc các văn tự cổ phát được ở nơi này nơi kia: đó là điều phải xảy ra. Lev Barjona đưa ra thông tin này phải có mục đích: hẳn hy vọng nó khơi dậy tò mò của cha Nil, và ông ta dẫn đến với văn bản mà người Do Thái cũng mong muốn có được kém gì chúng ta.

      – Người em Hội trưởng, chúng ta có cần thiết phải mạo hiểm để khai quật bức thư này ? Ông cũng biết đấy, lãng quên là vũ khí hiệu quả nhất của Giáo hội chống lại tông đồ thứ mười ba, chỉ có lãng quên mới khiến lời chứng nguy hiểm của ông ta gây hại được. Có nên kéo dài căn bệnh quên lãng mang tính cứu rỗi này ?

      Hội trưởng nhân nhịp này để nhắc nhở Mười hội viên về tầm vóc lớn lao trong sứ mệnh của họ. Ông trang trọng duỗi bàn tay phải ra, để lộ viên ngọc thạch gắn chiếc nhẫn.

      – Sau hội nghị Giám mục ở Trente, Thánh Pie V, vốn là Antoine-Michel Ghislieri, tu sĩ dòng Dominique, lo sợ trước suy yếu của Giáo hội Cơ Đốc, làm tất cả để cứu vớt nó khỏi tình trạng chìm xuồng được báo trước. Mối đe dọa nghiêm trọng nhất xuất phát từ cuộc nổi loạn mới đây của Luther, mà từ lời đồn đại cổ xưa mà ngay cả Tòa dị giáo cũng thể dập tắt: nấm mộ có chứa xương cốt của Christ vẫn tồn tại, nó nằm đâu đó trong sa mạc ở vùng Cận Đông. bức thư bị mất của nhân chứng có đặc huệ được chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Đấng Cứu thế khẳng định rằng những Jesus sống lại, mà thi thể của Người còn được người Esseni chôn cất trong vùng này. Các vị đều biết điều đó, đúng ?

      Mười hội viên gật đầu.

      – Trước khi trở thành Giáo hoàng, Ghislieri từng là Thẩm phán Tòa dị giáo: ông quen với việc hỏi cung những kẻ ly khai bị thiêu sống vì theo dị giáo, ông tham khảo số biên bản xử các Hiệp sĩ, ngày nay tất cả các tài liệu này mất. Ông tin chắc rằng nấm mồ của Jesus có tồn tại, và việc phát ra nấm mồ này đồng nghĩa với kết thúc vĩnh viễn của Giáo hội. Thế là vào năm 1570, ông thành lập ra Hội chúng ta để bảo vệ bí mật về nấm mồ.

      Điều này, các hội viên cũng biết. Đoán được nôn nóng của họ, Hội trưởng giơ cao chiếc nhẫn, nó phát ra tia sáng ngắn dưới ánh sáng của những ngọn đèn chiếu.

      – Ghislieri cho thửa chiếc nhẫn Giám mục có hình quan tài này bằng thứ ngọc thạch nguyên chất. Từ đó, dưới hình dạng này, nó nhắc nhở mỗi Hội trưởng, khi lấy nó ra khỏi ngón tay tiền nhiệm chết của mình, nhớ đến sứ mệnh của Hội chúng ta: làm thế nào để bao giờ, cỗ quan tài nào có chứa đựng xương cốt của người bị hành hình giá chữ thập ở Jerusalem có thể bị phát .

      – Nhưng mặc dù tin đồn về bức thư của tông đồ thứ mười ba xuyên qua nhiều thế kỷ, có điều gì chứng tỏ rằng nó chỉ ra vị trí chính xác của nấm mồ. Sa mạc rộng mênh mông, từ rất lâu rồi cát bao phủ tất cả!

      – Đúng thế, có nguy cơ nào về việc nấm mồ của Jesus bị phát chừng nào chỉ có lạc đà đến được sa mạc. Nhưng việc chinh phục gian cho chúng ta các phương tiện tìm kiếm vô cùng hoàn thiện. Nếu người ta có thể tìm ra dấu vết của nước sao Hỏa xa xôi, ngày nay người ta cũng có thể kiểm kê tất cả xương cốt trong các sa mạc ở Negreb hoặc ở Idumea, kể cả những bộ xương bị cát vùi lấp: điều này Giáo hoàng Ghislieri thể tưởng tượng được. Rằng tồn tại của nấm mồ trở nên công khai, và hàng trăm máy bay ra đa hoặc máy dò gian xem xét sa mạc cách kỹ lưỡng, từ Jerusalem cho đến tận biển Chết. tham gia bất ngờ và ồ ạt của công nghệ gian tạo ra nguy cơ mới, mà chúng ta thể mạo hiểm được. Chúng ta phải tìm lại được tài liệu tồi tệ này, và phải nhanh chóng, vì người Israel cũng cùng đường với chúng ta.

      Ông cung kính đưa chiếc quan tài bằng ngọc thạch lên môi, trước khi rút tay vào dưới ống tay áo lễ.

      – Tài liệu nguy hiểm này phải được cất giấu trong chiếc tủ trước mặt chúng ta đây. Phải tìm được nó, chỉ để đưa nó ra ngoài tầm tay kẻ thù của chúng ta, mà còn để nhờ nó, sở hữu được những phương tiện tài chính đáp ứng khát vọng của chúng ta: ngăn chặn phương Tây chệch đường. Các vị biết các Hiệp sĩ dòng Đền có được tài sản khổng lồ của họ như thế nào rồi đấy, thánh tích mà chúng ta sùng kính mỗi thứ Sáu ngày 13 nhắc nhở chúng ta điều đó. Tài sản này có thể trở thành của chúng ta, và chúng ta dùng nó để bảo vệ nhân thân thần thánh của Chúa Cứu thế.

      – Ông có đề xuất gì, người em Hội trưởng?

      – Cha Nil đoán được hướng tìm kiếm, cuối cùng có thể đây là hướng đúng: hãy để ông ta theo nó. Tôi tăng cường việc giám sát xung quanh ông ta: nếu ông ta thành công, chúng ta là người biết đầu tiên. Và sau đó…

      Hội trưởng cho rằng cần thiết phải kết thúc câu . “Sau đó” xảy ra hàng nghìn lần, trong hầm ngầm các lâu đài của Tòa dị giáo vốn toát ra đau đớn hoặc những giàn thiêu vốn chiếu sáng Cơ Đốc giáo suốt chiều dài lịch sử của nó. “Sau đó”, họ có kinh nghiệm lâu dài. Trong trường hợp nay, Cha Nil bị thiêu chết công khai, cha Andrei cũng bị như thế.
      74.

      Mặt trời vuốt ve những viên đá lát trong sân Belvedere khi cha Nil và Leeland bước vào. nhõm vì dốc được bầu tâm , tu sĩ người Mỹ lấy lại tâm trạng vui vẻ, và trong suốt đoạn đường ông chỉ về tuổi trẻ của họ khi là sinh viên ở Roma. Mười giờ, họ có mặt trước cửa kho sách.

      giờ trước đây, linh mục mặc áo dòng đến trước họ. Khi nhìn thấy giấy phép ra vào do đích thân Hồng y Catzinger ký, viên cảnh sát nghiêng mình và kính cẩn dẫn người đó đến tận cánh cửa bọc sắt, nơi Breczinsky chờ đợi với vẻ lo lắng. Lần gặp gỡ thứ hai này cũng chóng vánh như lần đầu. Khi ra, vị linh mục nhìn chăm chú hồi lâu vào người đàn ông Ba Lan bằng đôi mắt đen của mình, môi dưới ông này run run.

      Cha Nil để ý đến sắc mặt rất nhợt nhạt, gần như bợt ra của ông; khi đến kho, cha Nil nhận thấy bối rối trong ông, và đặt thiết bị lên bàn của họ trong khi Leeland tìm những bản thảo mà họ phải xem xét.

      Sau khoảng giờ làm việc, ông tháo găng tay và thầm:

      – Cứ tiếp tục làm mình nhé, tớ thử vận may với Breczinsky.

      Leeland im lặng gật đầu, và cha Nil đến gõ của văn phòng viên thủ thư.

      – Mời cha vào, mời cha ngồi.

      Breczinsky có vẻ sung sướng khi gặp ông.

      – Cha gì với tôi về những nghiên cứu của cha trong kệ các Hiệp sĩ hôm trước: cha có phát được điều gì hữu ích ?

      – Còn hơn thế nữa, cha ạ: tôi tìm lại được văn tự mà cha Andrei từng xem xét và ghi lại chỉ dẫn trong sổ tay.

      Ông hít hơi và thử liều:

      – Nhờ có đạo hữu mất, tôi theo hướng dẫn đến tài liệu quan trọng nhất, nó có thể khiến ta phải xem xét lại những cơ sở của đức tin Cơ Đốc. Xin thứ lỗi cho tôi thể nhiều hơn. Từ khi tôi đến Roma, vì tôi, Đức ông Leeland phải chịu những áp lực đáng kể, nên bằng cách im lặng tôi muốn tránh cho cha mọi điều phiền toái.

      Breczinsky lặng lẽ nhìn ông, rồi khẽ khàng hỏi:

      – Nhưng… những áp lực như vậy đối với Giám mục làm việc ở Vatican có thể xuất phát từ ai?

      Cha Nil quyết định được ăn cả ngã về . Ông nhớ lại nhận xét của người Ba Lan này khi họ gặp nhau lần đầu tiên “Còn tôi tin rằng cha là người của Catzinger!”

      – Từ Cơ quan truyền bá đức tin, và chính xác hơn là từ chính Hồng y đứng đầu cơ quan này.

      – Catzinger!

      Người Ba Lan lau mồ hôi trán, tay run nhè .

      – Cha biết qua khứ của người này, cũng biết điều ông ta từng trải qua!

      Cha Nil giấu ngạc nhiên.

      – Đúng là tôi biết gì về ông ấy, trừ việc ông ấy là nhân vật thứ ba trong Giáo hội, sau bộ trưởng Ngoại giao và Giáo hoàng.

      Breczinsky ngước nhìn ông bằng đôi mắt của con chó bị đòn.

      – Cha Nil ạ, cha quá xa, giờ đây cha cần phải biết. Điều tôi sắp với cha, tôi chỉ mới tâm với cha Andrei thôi, vì chỉ cha ấy mới có thể hiểu được. Gia đình cha ấy cùng gánh chịu những đau khổ như gia đình tôi. Tôi phải giải thích gì, cha ấy hiểu ngay mọi chuyện.

      Cha Nil nín thở.

      – Khi người Đức phá vỡ hiệp ước Đức-Xô, quân đội Wehrmacht ồ ạt kéo đến nơi trước đây là đất nước Ba Lan. Trong vài tháng, sư đoàn Anschluss đảm bảo công tác hậu cần xung quanh Brest-Litovsk cho quân đội xâm lược, và vào tháng Tư năm 1940, trong số các sĩ quan cao cấp của sư đoàn này, người tên là Oberstleutnant đến vét hết đàn ông trong làng tôi. Cha tôi bị đưa vào rừng cùng họ, và chúng tôi bao giờ gặp lại ông nữa.

      – Đúng, cha kể chuyện này với tôi…

      – Sau đó sư đoàn Anschluss gia nhập mặt trận phía Đông, và mẹ tôi cùng tôi cố gắng sống sót tại làng, nhờ vào giúp đỡ của gia đình cha Andrei. Hai năm sau, chúng tôi thấy những tàn quân cuối cùng của quân đội Đức quay ngược lại chạy trốn quân Nga. còn là quân đội Wehrmacht thắng lợi nữa, mà là băng kẻ cướp hãm hiếp và đốt cháy mọi thứ đường chúng qua. Khi đó tôi năm tuổi: hôm, mẹ tôi cầm tay tôi, bà rất hoảng sợ: “Con hãy trốn vào trong hầm, chính là tên sĩ quan dẫn cha con , lại quay lại đấy!” Qua khe cửa bị lỏng ra, tôi nhìn thấy sĩ quan Đức bước vào. lời nào, mở móc thắt lưng, chồm lên mẹ tôi và hãm hiếp bà ngay trước mắt tôi.

      Cha Nil kinh hoàng.

      – Cha có biết tên sĩ quan đó ?

      – Như cha có thể thấy, tôi bao giờ quên được , và ngừng tìm kiếm dấu vết : chết sau đó ít lâu, bị những người kháng chiến Ba Lan giết. là Obersleutnant Herbert von Catzinger, cha của Hồng y đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin nay.

      Cha Nil mở miệng nhưng thể thốt ra lời nào. Trước mặt cha Nil, Breczinsky dường như bị phá hủy. Ông cố gắng tiếp.

      – Sau chiến tranh, trở thành Hồng y tại Viên, Catzinger cầu người Tây Ba Nha thuộc nhóm Opus Dei tìm kiếm trong các hồ sơ lưu của Áo và Ba Lan, và phát ra rằng cha ông ta, người mà ông ta ngưỡng mộ vô bờ bến, bị quân du kích Ba Lan giết chết. Từ đó ông ta căm thù tôi, cũng như căm thù tất cả những người Ba Lan.

      – Nhưng… Giáo hoàng là người Ba Lan kia mà!

      – Cha thể hiểu được: tất cả những ai phải chịu đựng chủ nghĩa phát xít, mặc dù muốn, đều giữ lại dấu ấn sâu sắc. Từng tham gia đội Thiếu niên Hitler, con trai của viên chiến binh thuộc quân đội Wehrmacht bị quân kháng chiến Ba Lan giết chết này vứt bỏ quá khứ của mình nhưng lãng quên nó: ai ra khỏi địa ngục đó mà vẫn còn nguyên vẹn. Đối với Giáo hoàng người Ba Lan mà nay ông ta là cánh tay phải, tôi tin chắc rằng ông ta vượt qua được nỗi căm ghét trong thâm tâm, ông ta sùng kính ngài cách chân thành. Nhưng ông ta biết rằng tôi sinh ra ở làng nơi sư đoàn Anschluss từng đóng, ông ta biết về cái chết của cha tôi.

      – Và…về mẹ của cha?

      Breczinsky đưa mu bàn tay lau nước mắt.

      , ông ta thể biết được, tôi là nhân chứng duy nhất, ký ức về cha ông ta vẫn nguyên vẹn. Nhưng tôi, tôi biết. Tôi thể… tôi thể tha thứ được, cha Nil ạ.

      nỗi thương cảm tràn ngập trong lòng cha Nil.

      – Cha thể tha thứ cho người cha… hay người con?

      Breczinsky trả lời trong hơi thở:

      – Cả người này lẫn người kia. Từ nhiều năm nay, bệnh tật của Thánh Cha cho phép Hồng y làm hoặc để người khác làm những điều ngược lại với tinh thần của kinh Phúc . Ông ta muốn khôi phục Giáo hội của những thế kỷ trước bằng mọi giá, ông ta bị ám ảnh bởi cái mà ông ta gọi là “trật tự của thế giới”. Dưới vẻ bề ngoài đại, đó chính là quay lại thời kỳ đồ sắt. Tôi thấy những nhà thần học, những linh mục, những tu sĩ bị phá hủy đến con số , bị nghiền nát bởi Vatican chút tình thương giống như trước đây cha ông ta từng thể đối với những dân tộc bị Reich biến thành nô lệ. Cha rằng ông ta gây áp lực với Đức ông Leeland? Giá như bạn của cha là người duy nhất… Tôi chỉ là viên sỏi vô nghĩa, nhưng cũng như những người khác tôi phải bị nghiền để cái đế của Giáo lý và Đức tin nứt vỡ.

      – Tại sao lại là cha? Giam mình trong im lặng của kho sách này, cha làm phiền đến ai, cha đe dọa bất cứ quyền lực nào!

      – Nhưng tôi là người của Giáo hoàng, và chức vụ mà tôi đảm nhận ở đây nhạy cảm hơn cha nghĩ nhiều. Tôi… tôi thể gì thêm với cha.

      Vai ông rung lên nhè . Ông cố gắng tiếp tục:

      – Tôi chưa bao giờ nguôi ngoai được sau những đau khổ mà tội lỗi của Herbert von Catzinger gây ra, vết thương chưa khép lại và Hồng y biết điều đó. Mỗi đêm tôi tỉnh dậy người đẫm mồ hôi, bị ám ảnh bởi hình ảnh cha tôi bị dẫn vào rừng dưới đe dọa của những họng súng tiểu liên, và bởi hình ảnh thân thể mẹ tôi bị những gót giày đạp sát vào chiếc bàn trong bếp. Người ta có thể trói buộc người bằng đe dọa, nhưng cũng có thể biến người đó thành nô lệ bằng cách nuôi dưỡng đau khổ của ta: chỉ cần làm nó sống lại, làm cho vết thương chảy máu. Chỉ ai đó biết về những con người bằng đồng này mới có thể hiểu được, và đó là trường hợp của cha Andrei. Từ khi tôi vào phụng Giáo hoàng, tôi luôn bị chà đạp bởi hai gót giày sáng bóng, Catzinger khoác áo choàng tía cai trị tôi, giống như ngày xưa cha ông ta cai trị mẹ tôi và những người nô lệ Ba Lan khác trong bộ quân phục bó chẽn.

      Cha Nil bắt đầu hiểu ra. Breczinsky chưa bao giờ có thể rời khỏi căn hầm thời ấu thơ của ông, nơi ông nép sát vào cánh cửa mà bên ngoài đó người ta hãm hiếp mẹ mình. Chưa bao giờ ông ra khỏi con đường rừng nào đó, nơi ông bước trong giấc mơ, phía sau người cha sắp chết dưới loạt đạn tiểu liên. Ngày cũng như đêm ông bị ám ảnh bởi hai gót giày đánh xi đạp vào chiếc bàn, tai ù bởi tiếng vọng của mệnh lệnh gầm gừ trong họng Herbert von Catzinger: Feuer![[50]]

      Cha ông bị đạn Đức giết chết, nhưng ông cũng ngừng gục ngã, rơi xuống quay cuồng trong cái giếng đen tối và có đáy. Người đàn ông này là người sống mà như chết. Cha Nil ngập ngừng:

      – Có phải… Hồng y đích thân đến đây, tra tấn cha bằng cách nhắc lại quá khứ của cha? Tôi thể tin được.

      – Ồ , ông ta hành động trực tiếp. Ông ta cử người Tây Ban Nha, người thực việc tìm kiếm các hồ sơ lưu trữ ở Viên cho ông ta. Lúc này người đó ở Roma, mấy hôm nay ta đến gặp tôi hai lần, ta… ta tra tấn tôi. ta mặc áo linh mục: nhưng nếu đó thực linh mục của Jesus- Christ, cha Nil ạ, điều đó có nghĩa là Giáo hội kết thúc rồi. ta có tâm hồn, có tình cảm của con người.

      Im lặng lúc lâu, và cha Nil để Breczinsky tiếp:

      – Cha hiểu tại sao tôi giúp cha Andrei, tại sao tôi giúp cha. Cũng như cha, ông ấy rằng ông ấy tìm tài liệu quan trọng: ông ấy tuyệt đối muốn lấy cắp nó khỏi Catzinger, và đưa lại tận tay Giáo hoàng.

      Cha Nil nghĩ nhanh: chưa khi nào ông nghĩ đến việc làm gì nếu tìm thấy bức thư của tông đồ thứ mười ba. Đúng là Giáo hoàng là người phán xét xem tương lai của Giáo hội có bị ảnh hưởng bởi nội dung bức thư này , và tùy ý sử dụng nó.

      – Cha Andrei có lý. Tôi chưa biết tại sao, nhưng ràng thứ tôi phát ra là điều rất nhiều người thèm muốn. Nếu tìm lại được tài liệu mất từ nhiều thế kỷ nay, tôi có ý định thông báo cho Giáo hoàng và chỉ cho ngài biết vị trí của nó. Chỉ có người đứng đầu Giáo hội mới có thể là người nắm giữ bí mật này, giống như ngài là người nắm giữ những bí mật về Fatima. Tôi vừa biết được rằng có thể nó bị vùi lấp đâu đó ở Vatican: rất mong manh!

      – Vatican rộng lớn lắm: cha có chỉ dẫn nào ư?

      – Chỉ có chỉ dẫn duy nhất, rất nhoi. Nếu đúng là nó đến Roma, theo như tôi nghĩ, nó phải lẫn trong những bản thảo cùng biển Chết. Vatican có thể tiếp nhận nó sau cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái, vào khoảng năm 1948. Cha có ý tưởng gì về nơi cất giữ những bản thảo chưa được khai thác của người Esseni ở Qumran ?

      Breczinsky đứng dậy, ông có vẻ mệt mỏi.

      – Tôi thể trả lời cha ngay được, tôi cần phải suy nghĩ. Chiều mai cha hãy đến văn phòng này gặp tôi: có ai khác ngoài cha và Đức ông Leeland. Nhưng tôi xin cha, đừng với ông ấy về cuộc chuyện giữa chúng ta, lẽ ra tôi nên với cha tất cả chuyện này.

      Cha Nil trấn an ông: ông ấy có thể tin tưởng ở ông như tin tưởng cha Andrei. Mục đích của họ chỉ là : thông báo cho Giáo hoàng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      75.

      – Tôi nâng cốc chúc mừng vì kiều dân Do Thái cuối cùng ra khỏi Palestin!

      – Còn tôi, vì thành lập vĩnh viễn của nước Israel vĩ đại!

      Hai người đàn ông mỉm cười trước khi uống cạn. Lev Barjona đột nhiên đỏ mặt và bị nghẹn cổ.

      – Vì các bùa chữ của tôi, Moktar Al-Quraysh, cái gì thế này? Dầu Ả Rập à?

      – Cent’herba. Rượu vùng Abruzzes. Bảy mươi độ, đây là đồ uống dành cho đàn ông.

      Từ khi nể nang lẫn nhau chiến trường, tình cảm tòng phạm kỳ lạ nảy sinh giữa hai người Palestin và Israel này. Giống như kiểu tình cảm trước đây từng tồn tại giữa các sĩ quan thuộc những quân đội thù địch, hoặc giữa các chính trị gia đối thủ của nhau hoặc các viên chức thuộc những tập đoàn lớn đối đầu nhau. Là chiến binh trong bóng tối, họ chỉ cảm thấy thoải mái với những người giống mình, những người tham gia vào cùng những cuộc xung đột như mình. Khinh bỉ xã hội của những người dân thường bình dị, cuộc sống tẻ nhạt và chán ngán của họ. Thường là họ chống đối nhau cách quyết liệt: nhưng khi có hành động nào khiến họ trở nên đối lập, họ từ chối chia sẻ cốc rượu, vài hoặc chiến dịch chung, nếu có cơ hội ở cùng địa bàn trung lập.

      Và cơ hội nay là Đức ông Alessandro Calfo. Ông ta đề xuất với họ trong những nhiệm vụ bẩn thỉu mà Giáo hội muốn hoàn thành, thậm chí muốn chính thức chấp nhận. Ecclesia sanguinem abhorret Giáo hội sợ máu. Cũng thể để những công việc thấp hèn được thực bởi cánh tay ngoại đạo quay lưng lại với mình, từ nay trở Giáo hội buộc phải làm việc với những điệp viên tự do. Thường là tay chân của giới cực tả châu u. Nhưng những người này thể cưỡng lại miếng mồi được lên sân khấu truyền thông, và luôn buộc phải trả công cho dịch vụ của họ bằng những đánh đổi chính trị vướng víu. Calfo đánh giá cao việc Moktar chỉ đòi đô la, và việc hai người để lại bất kỳ dấu vết gì. Họ kín đáo như luồng khí vậy.

      – Moktar, tại sao lại hẹn tôi ở đây? biết rằng nếu có người thấy chúng ta gặp nhau, lãnh đạo của cả hai bên coi đây là lỗi nghề nghiệp vô cùng trầm trọng.

      – Thôi nào, Lev, Mossad có vô số điệp viên diện ở khắp nơi. Nhưng phải ở đây: nhà hàng này chỉ chế biến thịt lợn, và tôi quen ông chủ, nếu ông ta biết rằng là người Do Thái, ở thêm phút dưới mái nhà của ông ta. Chúng ta gặp nhau từ sau vụ chuyển phiến đá Germigny đến Romas, nhưng vừa gặp hai tu sĩ nhà nghiên cứu của chúng ta, mà tôi thường xuyên nghe họ chuyện. Chúng ta phải chuyện với nhau.

      – Tôi dỏng tai…

      Moktar ra hiệu cho ông chủ để bình rượu cent’herba lên bàn.

      – Giữa chúng ta với nhau, cần ra vẻ bí mật thế, Lev ạ, ở đây, chúng ta chơi cùng cuộc chơi. Chỉ có điều, tôi biết hết chuyện, nên tôi thấy căng thẳng: tu sĩ người Pháp đó bắt đầu xoay quanh kinh Coran, có những điều mà người Hồi giáo tha thứ, cũng biết đấy. Phải cho ràng: tôi thực nhiệm vụ này chỉ vì Đức ông Calfo, Fatah cũng có liên quan. Nhưng điều mấy ràng với tôi, đó là lý do mà vì nó cá nhân cũng tham gia cuộc chơi, bằng việc gặp cha Nil và để lộ cho ông ta biết những thông tin đáng giá bằng vàng.

      hỏi tôi về lý do khiến chúng tôi quan tâm đến bức thư bị mất này à?

      – Chính xác là: câu chuyện về tông đồ thứ mười ba này có liên quan gì đến người Do Thái?

      Lev kín đáo gõ nhịp mặt bàn bằng đá cẩm thạch: món pizzas al maiale đành phải đợi.

      – Những người theo trào lưu chính thống ở Likoud giám sát tất cả những điều được ra trong Giáo hội Cơ Đốc có liên quan đến Kinh Thánh. Đối với những người theo đạo này, điều cốt yếu là người Cơ Đốc bao giờ được nghi ngờ thiên chất của Jesus-Christ. Chúng tôi bắt được những thông tin mà cha Andrei để lọt ra ở Roma và với các đồng nghiệp người châu u của ông ta. Cũng vì việc này mà tôi được lệnh sát cánh với trong vụ Roma Express: mọi việc diễn ra đúng lúc, vì học giả này phát ra số điều khiến người của Mea Shearim lo lắng.

      – Nhưng tại sao chứ, nhân danh các ma thần! Có liên quan gì đến các nếu người Cơ Đốc đột nhiên nhận ra rằng họ chế tạo ra Chúa giả, hay đúng hơn là vị Chúa thứ hai? mười ba thế kỷ nay kinh Coran lên án họ vì lý do này. Trái lại, lẽ ra các phải thỏa mãn vì cuối cùng họ cũng chấp nhận rằng Jesus là gì khác ngoài nhà truyền giáo Do Thái, như Muhammad khẳng định.

      – Moktar, biết rằng chúng tôi chiến đấu vì phẩm cách Do Thái của chúng tôi mọi phương diện, chứ chỉ về mặt lãnh thổ. Nếu Giáo hội Cơ Đốc xem lại thiên chất của Jesus và thừa nhận rằng Jesus chưa bao giờ ngừng là gì khác ngoài nhà truyền giáo vĩ đại, điều gì phân biệt chúng tôi với họ? Cơ Đốc giáo, lại trở lại là Do Thái giáo, quay về với nguồn gốc lịch sử của nó, chỉ là hướng của Do Thái đạo. Nếu người Cơ Đốc thờ Jesus thay vì ngưỡng mộ Chúa Christ của họ, đối với dân tộc Do Thái đó hiểm họa mà chúng tôi thể để mình phải đối đầu. Thêm nữa, họ ngay lập tức khẳng định rằng Jesus cao hơn Moise, rằng cùng với Người kinh Torah còn giá trị gì, mặc dù Jesus dạy rằng Người đến để phá hủy Luật lệ mà là để hoàn thiện nó. nhà truyền giáo Do Thái lại đề xuất luật hoàn hảo hơn luật của Moise: biết người Cơ Đốc rồi đấy, cám dỗ là quá lớn. Họ thể tiêu diệt chúng tôi bằng những đợt tàn sát người Do Thái dưới thời Nga hoàng, nhưng chúng tôi bị hủy diệt bởi quá trình đồng hóa. Lửa của những giàn thiêu thanh lọc chúng tôi: nếu Jesus còn là Chúa, nếu Người trở lại là người Do Thái, chẳng bao lâu nữa đạo Do Thái chỉ còn là nhánh phụ của đạo Cơ Đốc, bị nhai, nuốt rồi tiêu hóa trong cái bụng đói của Giáo hội. Chính vì điều đó mà những tìm kiếm như của cha Nil khiến chúng tôi lo lắng.

      Người ta vừa đặt trước mặt họ hai chiếc bánh Pizza to tướng tỏa mùi mỡ rán thơm phức. Moktar bắt đầu ăn chiếc bánh của mình cách tham lam.

      – Thử , cho tôi biết tin tức mới, và ít nhất, chúng ta cũng biết tại sao chúng ta kết thúc ở địa ngục. Hừm…Điều kinh khủng đối với người Do Thái các chính là chứng cuồng ám. Những nỗi lo lắng mà các lôi ra quá xa xôi đối với chúng tôi! Nhưng tôi hiểu các , từ góc nhìn của các , lập luận này là có cơ sở. Nhất là được gần gũi với người Cơ Đốc, để tránh nguy cơ bị nuốt chửng như giọt nước trong biển khơi. Hãy cứ để Giáo hoàng khóc trước các máy quay bên bức tường Than thở, nhưng sau đó ai lại về nhà nấy. Đồng ý. Vậy các làm gì nếu cha Nil vẫn quyết tâm lục lọi?

      – Tôi bị chặn tay lại khi tôi muốn… thế nào nhỉ, ngăn chặn công việc của ông ta hơi sớm. Chỉ thị đưa ra là để cho ông ta tiếp tục, và xem kết quả là gì. Đó cũng là chính sách của Calfo. Khi gặp người tu sĩ Pháp này, khi trò chuyện với ông ta, tôi cho ông ta đầu mối , có lẽ nó cho phép ông ta tìm thấy cái mà tất cả chúng ta tìm kiếm. Hơn nữa, cha Nil thích Rachmaninov, chứng tỏ ông ta là người có khiếu thưởng thức.

      có vẻ đánh giá cao ông ta?

      Lev nuốt miếng pizza al maiale to với vẻ thích thú: những người Do Thái giả danh này đúng là rất biết nấu món thịt lợn.

      – Tôi thấy ông ấy vô cùng dễ mến, thậm chí còn khiến người ta xúc động. Đó là những điều mà người Ả Rập các thể hiểu được, vì Muhammad chưa bao giờ hiểu gì về các nhà truyền giáo của đạo Do Thái. Cha Nil giống Leeland, cả hai đều là những người lý tưởng chủ nghĩa, những người con tinh thần của Élie, người hùng và cũng là hình mẫu của người Do Thái.

      – Tôi biết có phải Muhammad hiểu gì về các nhà truyền giáo của các , nhưng tôi hiểu Muhammad: những kẻ phản bội được sống.

      Lev đẩy chiếc đĩa trống ra:

      người Quraysh, và tôi là người Barjona, nghĩa là hậu duệ của những người Do Thái nước zélote [[51]] xưa kia từng khiến người La Mã kinh hoàng. Cũng giống như , tôi bảo vệ các giá trị và truyền thống của chúng tôi, ngần ngại: những người Do Thái nước cũng được gọi là kiếm khách, vì điêu luyện của họ trong việc điều khiển dao găm và kỹ thuật mổ bụng kẻ thù. Nhưng tôi thấy cha Nil là người dễ mến, còn Leeland là bạn tôi từ hai mươi năm nay. Đừng làm gì họ mà báo trước cho tôi.

      – Ông bạn Leeland của thường bước tay trong tay với người Pháp đó, ông ta cũng biết gần hết mọi chuyện. Hơn nữa ông ta còn là kẻ đồng tính, tôn giáo của chúng tôi lên án những kẻ như ông ta! Còn người kia, nếu ông ta động đến kinh Coran và Đấng Tiên tri, điều gì có thể ngăn được công lý của Chúa.

      – Rembert mà là người đồng tính ư? đùa à! Họ là những con người trong sạch, Morktar ạ, tôi tin chắc rằng bạn tôi còn nguyên vẹn. Điều gì diễn ra trong đầu ông ấy lại là chuyện khác; nhưng kinh Coran chỉ kết tội hành động, chứ lục soát trong bộ não. Nhiệm vụ này liên quan đến toàn vẹn của ba đạo độc thần: đừng động đến sợi tóc của họ mà báo trước cho tôi. Hơn nữa, nếu muốn áp dụng luật Coran với họ, thể thoát ra khỏi chuyện này mà có tôi: chuyện tàu Roma Express chỉ là trò trẻ con, nhưng giữa thành phố này mọi thứ khó hơn đấy. Mossad để lại ít dấu vết hơn là Fatah, biết thế mà… Ở đây, các phương pháp của phù hợp đâu.

      Khi họ chia tay nhau, bình cent’herba rỗng . Nhưng bước chân của hai người đàn ông trong phố vắng vẫn chắc chắn giống như trước đó họ chỉ uống toàn nước suối.

      76.

      Từ lúc bình minh, Sonia cứ thẳng về phía trước như cái máy. nghiền ngẫm những điều Calfo đòi hỏi làm cho ông ta trong lần tới: thể. “Ta chẳng là gì hơn con điếm, nhưng thế là quá nhiều.” phải chuyện với ai đó, cần chia sẻ cảnh đơn chiếc tuyệt vọng của mình. Moktar ư? ta đưa trở lại Ả Rập Xê út mất. ta lấy hộ chiếu của , và cho xem ảnh gia đình , những bức ảnh mới chụp ở Rumani. Các chị em và bố mẹ có thể bị đe dọa, họ phải trả giá thay nếu tỏ ra ngoan ngoãn. lau nước mắt và hỉ mũi.

      ngược lên bờ sông Tiber, và nhận thấy mình vừa qua ngã tư nhộn nhịp vào đầu buổi sáng. Ở đầu con phố rộng quang đãng ngoặt về phía trụ sở thành phố, thấp thoáng hai giáo đường cổ và trán tường của Nhà hát Marcellus. muốn theo hướng đó, có thể có khách du lịch mà cần ở mình. qua: trước mặt , cổng nhà thờ Saint Mary in Cosmedin mở. bước qua, qua cửa Miệng Thần , nhìn mà thẳng vào trong.

      chưa từng đến đây, và bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của các bức tranh ghép. có bình phong hình thánh, nhưng nhà thờ này rất giống với những nhà thờ mà từng lui tới khi còn trẻ. Nơi đây ngự trí bầu khí yên bình và bí , đức Christ trong ánh hào quang là Đức Chúa của những người theo Chính giáo, và còn phảng phất mùi hương. Người ta vừa tổ chức lễ Mixa bàn thờ chính, em bé trong dàn đồng ca thổi tắt từng ngọn nến. bước lại gần, rồi quỳ xuống hàng ghế đầu tiên bên trái.

      linh mục: mình muốn chuyện với linh mục. Những người Cơ Đốc cũng tôn trọng bí mật của lời xưng tội, giống như ở nước mình.”

      Vừa lúc đó, linh mục ra từ cửa bên trái, hẳn là từ kho đồ thờ ra. Ông mặc áo lễ khoác ngoài rộng bằng đăng ten trắng, có dấu hiệu gì đặc biệt. Khuôn mặt ông tròn và nhẵn như mặt em bé, nhưng mái tóc bạc trắng cho thấy đây là người từng trải. ngước nhìn ông bằng đôi mắt đỏ hoe vì đêm khóc nhiều, và bị ấn tượng bởi dịu dàng trong ánh mắt ông. Với vẻ hăm hở suy xét, ngẩng đầu lên khi ông qua.

      – Thưa cha…

      Ông đưa mắt nhìn .

      – Thưa cha, con theo đạo chính thống…nhưng liệu con có thể xưng tội với cha ?

      Ông mỉm cười với cách nhân từ: ông ưa thích những dịp hiếm hoi mà ông có thể thực hành chức phận nhân từ của mình cách vô danh. Ánh sáng phản chiếu từ những bức tranh ghép mạ vàng khiến khuôn mặt Sonia hõm sâu vì căng thẳng ánh lên vẻ đẹp của người Xênia nguyên thủy.

      – Cha thể ban cho con lễ phước xá tội, con của cha, nhưng Chúa mang đến cho con niềm an ủi…Hãy đến đây.

      ngạc nhiên thấy mình quỳ trước mặt ông, hàng rào cũng có chướng ngại vật nào theo phong tục ở Roma. Mặt ông cách mặt vài xen ti mét.

      – Nào, cha nghe con đây…

      Khi bắt đầu , có cảm giác khối nặng được nhấc ra khỏi ngực . kể về người phụ nữ tuyển dụng ở Rumani, rồi về người Palestin sai đến nhà của viên chức cao cấp người Ả Rập. Cuối cùng là về Roma và người đàn ông bé mũm mĩm, giáo sĩ Cơ Đốc cao cấp mà phải thỏa mãn bằng mọi giá.

      Khuôn mặt vị linh mục đột ngột rời xa khỏi mặt , và cái nhìn của ông trở nên sắc nhọn.

      – Vị giáo sĩ cao cấp Cơ Đốc đó, con có biết tên ông ta ?

      – Con biết, thưa cha, nhưng hẳn ông ấy là Giám mục: ông ấy đeo chiếc nhẫn kỳ lạ, con chưa từng thấy bao giờ. Có thể gọi là cái quan tài, viên đá quý hình quan tài.

      Vị linh mục vội vàng quay mặt chiếc nhẫn Giám mục đeo ngón tay vào phía trong, và giấu bàn tay phải vào sau những nếp gấp của chiếc áo lễ. toàn tâm với việc xưng tội nên Sonia hề nhìn thấy cử chỉ lén lút đó.

      Giám mục… kinh khủng! Và con rằng ông ta bắt con làm…

      cách khó nhọc, Sonia kể lại cảnh tượng diễn ra trước hình thánh kiểu bizăngtin, chiếc mũ bà xơ bọc đầu , cơ thể trần truồng của dâng cho người đàn ông vừa quỳ phía sau ghế cầu nguyện vừa thầm những lời thể hiểu nổi về việc hợp nhất với Hư vô.

      Vị linh mục ghé sát mặt vào .

      – Và con rằng trong lần gặp tới, ông ta muốn…

      lại với ông điều vị Giám mục giải thích cho nghe trước khi cho về, cũng là điều khiến cuống cuồng trốn chạy khỏi căn hộ đó. Gương mặt vị linh mục lúc này gần như chạm vào mặt , nó trở nên cứng như thứ đá cẩm thạch lát sàn mà quỳ lên. Ông chậm, tách từng từ:

      – Con của cha, Chúa tha thứ cho con vì con bị lạm dụng bởi trong những người đại diện cho Người trái đất này, và con có lựa chọn nào khác. Hôm nay, nhân danh Người, cha ban cho con bằng an. Nhưng được, con hiểu ý cha chứ, được chấp nhận dâng hiến thân xác cho giáo sĩ này trong lần gặp tới: điều ông ta muốn làm với con là báng bổ ghê tởm đối với Jesus-Christ, Đấng Cứu thế bị đóng đinh thập giá.

      Sonia ngẩng khuôn mặt ngao ngán về phía ông.

      thể được! Điều gì xảy ra với con nếu con vâng lời ông ấy? Con thể rời khỏi Roma, hộ chiếu của con…

      có chuyện gì xảy ra với con hết. Trước hết là vì Chúa che chở con, lời thú tội của con chứng tỏ tâm hồn con trong sạch. Con biết đấy, cha giữ bí mật về lời xưng tội của con. Nhưng cha biết số người ở Roma, và cha làm thế nào đó để có chuyện gì xảy ra với con mà vẫn phản bội lời hứa giữ bí mật. Con bất hạnh vì rơi vào tay Giám mục đồi bại, kẻ còn xứng đáng với chiếc nhẫn đeo. Chiếc quan tài trang trí cho bàn tay tội lỗi của , giờ đây trở thành biểu tượng cho cái chết tinh thần của chính . Nhưng con cũng ở trong tay Chúa: hãy có lòng tin. Đừng đến gặp vào ngày mà con với cha.

      Cuộc gặp bất ngờ với vị linh mục đối với Sonia giống như câu trả lời của Chúa đáp lại lời cầu xin của . Lần đầu tiên từ khi lao xuống cầu thang căn hộ của Calfo, có thể hít thở tự do. Vị linh mục quen biết này nghe cách nhân từ, bảo đảm với về khoan dung của Chúa! Được giải thoát khỏi khối nặng đè lên mình, nắm tay ông và hôn lên đó giống như những con chiên Cơ Đốc ngoan đạo vẫn làm. nhận thấy rằng đó là tay trái của ông: bàn tay phải vẫn luôn được giấu trong vạt áo lễ.

      Trong khi bước về phía cửa ra, vị linh mục đứng dậy và quay vào kho đồ lễ. Trước hết ông xoay lại chiếc nhẫn Giám mục có khắc dấu của thánh Peter. Rồi cởi áo lễ, để lộ chiếc thắt lưng màu tía to bản. Bằng cử chỉ chính xác, ông vuốt mái tóc bạc và đặt lên đó chiếc mũ chỏm cũng màu tía của Hồng y.

      Cho đến nay, ván bài của Catzinger vẫn ở vào thế ít thuận lợi hơn so với ván bài của người Napoli kia. Vô tình, Sonia mang đến cho ông quân bài chủ. Quân bài này, ông dùng nó bằng cách giao cho Antonio, người trung thành trong số những người trung thành thành công trong việc đánh lừa cảnh giác của Hội Thánh Pie V: chàng trai gốc Andalousia này chưa bao giờ nhân nhượng hay chệch đường, có thể tỏ ra mềm dẻo như lưỡi dao Toledo, và cũng giống như lưỡi dao đó, chỉ gập lại để bật ra tốt hơn

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      77.

      Ngồi trước cánh cửa bọc sắt đầu tiên, viên cảnh sát của Tòa Thánh để họ qua mà kiểm tra giấy phép của cha Nil: những người quen thuộc…Breczinsky dẫn họ đến trước bàn nơi những bản thảo hôm trước chờ đợi.

      Cha Nil báo trước cho Leeland biết rằng họ chỉ đến Vatican vào đầu buổi chiều: ông cần phải suy nghĩ. tin tưởng mà người đàn ông Ba Lan kia dành cho ông lúc đầu khiến ông ngạc nhiên, sau đó hoảng sợ. “Ông ấy ra vì đơn đến tuyệt vọng, hay vì điều khiển mình?” Chưa bao giờ vị giảng viên trầm tĩnh của tu viện bên bờ sông Loire phải đối mặt với hoàn cảnh như vậy. Ông quyết định lần theo dấu vết của tông đồ thứ mười ba: cũng như ông ấy, ông ở giữa những xung đột lợi ích vượt quá chính ông.

      Breczinsky muốn giúp ông, nhưng ông ấy có thể làm gì được? Vatican rất rộng lớn, mỗi bảo tàng và thư viện ở đây hẳn phải có hoặc nhiều nhà phụ nơi hàng nghìn đồ vật có giá trị yên ngủ. Đâu đó trong các nhà phụ này có thể có thùng rượu Cognac hiệu Napoleon, có chứa những bản thảo bị xé lẻ của người Esseni, và mảnh giấy, mảnh giấy da rất được buộc bằng sợi dây lanh. Lời mô tả của Lev Barjona vẫn khắc sâu trong tâm trí cha Nil, nhưng liệu cái thùng đó có bị dốc ra, và những thứ đựng trong đó có ngẫu nhiên bị phân tán bởi nhân viên vội vàng nào đó ?

      Khoảng giữa chiều ông tháo găng tay ra.

      – Đừng hỏi tớ nhé: tớ phải gặp lại Breczinsky.

      Leeland lặng lẽ gật đầu, và nở nụ cười khuyến khích với cha Nil trước khi lại cúi xuống bản thảo thời Trung cổ mà họ xem xét.

      Tim đập mạnh, tu sĩ người Pháp gõ cửa văn phòng viên thủ thư.

      Khuôn mặt Breczinsky như lên cơn sốt, phía sau cặp kính tròn đôi mắt ông có quầng thâm rệt. Ông ra hiệu cho cha Nil ngồi xuống.

      – Cha ạ, cả đêm tôi cầu nguyện để Chúa soi sáng cho tôi, và tôi quyết định. Điều tôi làm cho cha Andrei, tôi làm cho cha: chỉ cần cha biết rằng tôi lại lần nữa vi phạm những quy định thiêng liêng nhất được truyền lại cho tôi khi tôi nhận chức vụ này. Tôi quyết định như vậy vì cha đảm bảo với tôi rằng cha tìm cách chống lại Giáo hoàng, mà ngược lại cha có ý định thông báo cho ngài tất cả những gì cha phát được. Cha có thể thề với tôi điều đó trước Chúa ?

      – Tôi chỉ là tu sĩ, cha Breczinsky ạ, nhưng tôi luôn tìm cách để vẫn là tu sĩ đến cùng. Nếu điều tôi phát ra là mối nguy cho Giáo hội, Giáo hoàng là người duy nhất được cảnh báo.

      – Tốt… Tôi tin cha, như tôi tin cha Andrei. Việc quản lý các tài sản cất giữ ở đây chỉ là trong các chức phận của tôi, chức phận duy nhất được biết đến và cũng ít quan trọng nhất. Trong khu vực kéo dài của kho sách, có nơi mà cha nhìn thấy bất kỳ bản thiết kế nào vẽ các công trình ở đây, cha thấy được nhắc đến ở bất kỳ đâu vì nó tồn tại cách chính thức. Nó được xây dựng theo mong muốn của Thánh Pie V vào năm 1570, thời điểm kết thúc việc xây dựng đại giáo đường Saint Peter.

      – Các tài liệu lưu trữ bí mật của Vatican à?

      Breczinsky mỉm cười.

      – Các tài liệu lưu trữ bí mật hoàn toàn chính thức, chúng nằm ở hai tầng đầu chúng ta, nội dung của chúng được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo những quy định công khai. , khu vực này chỉ được rất ít người biết đến, và vì tồn tại, nên nó có tên. Cha có thể gọi nó là hầm bí mật của Vatican, phần lớn các nhà nước hành tinh này đều sở hữu thứ gì đó tương tự. Tôi xin nhắc lại là vì nó tồn tại, nên nó cũng có thủ thư được chỉ định chính thức, và những thứ được đặt trong đó có mã số cũng chẳng có danh mục. Đó là thứ địa ngục nơi mà người ta chôn vào quên lãng những tài liệu nhạy cảm, vì người ta muốn ngày nào đó chúng được biết đến bởi các nhà sử học hoặc các phóng viên. Tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về nó trước Đức Thánh Cha. Trải qua nhiều thế kỷ, người ta chất vào đó cả đống những thứ lẻ bộ, theo sáng kiến của Giáo hoàng hoặc Hồng y bộ trưởng nào đấy. Khi ai đó quyết định gửi tài liệu đến hầm bí mật, người ta lấy nó ra nữa, ngay cả người quyết định chết. Tài liệu ấy bao giờ được lưu trữ hay khai quật.

      – Cha Breczinsky… tại sao cha lại tiết lộ với tôi về tồn tại của căn hầm bí mật này?

      – Vì đó là trong hai nơi ở Vatican mà ta có thể tìm thấy thứ cha tìm. Nơi còn lại là những tài liệu lưu trữ bí mật được công bố hàng năm, năm mươi năm sau những việc có liên quan đến chúng. Trừ phi có quyết định ngược lại, nhưng nhìn chung quyết định đó thường có động cơ chính thức. Cha rằng thùng rượu có chứa các bản thảo vùng biển Chết đến Vatican vào năm 1948, thời điểm xảy ra cuộc chiến Israel-Ả Rập đầu tiên: nếu được xếp vào loại các tài liệu lưu trữ bí mật, hẳn nó ra khỏi đó rồi. Và nếu tài liệu nào đó trong số này được cho là quá nhạy cảm để công khai với quần chúng, hẳn là tôi cũng phải được biết: điều này đôi khi vẫn xảy ra, tôi thường nhận được tập hồ sơ hoặc kiện hàng cần được cất giấu trong hầm bí mật để tránh những kẻ tò mò ác ý. Tôi là người duy nhất có tư cách làm điều đó: vậy mà từ năm năm nay, tôi nhận được thứ gì mới, dù là tài liệu lưu trữ bí mật hay thứ gì khác.

      – Nhưng… cha có hiểu những thứ mà cha phải cất giữ vĩnh viễn trong hầm bí mật này ? Liệu có ngày nào đó cha tò mò liếc qua những thứ mà những người tiền nhiệm của cha cất giữ ở đó từ cuối thế kỷ XVI ?

      Breczinsky trả lời với giọng gần như vui vẻ.

      – Giáo hoàng Wojtyla khiến tôi phải thề bao giờ được tìm cách biết nội dung của những thứ mà tôi tiếp nhận, hoặc những thứ có trong hầm này. Trong vòng mười lăm năm, tôi chỉ đến đó ba lần, để mang vào đó những thứ cần cất giữ. Tôi trung thành với lời thề của mình, nhưng tôi ngăn được mình nhìn thấy loạt giá sách có dán nhãn Bản thảo vùng biển Chết. Tôi biết khu vực đó của hầm chứa đựng những gì. Khi tôi điều này với cha Andrei, người mà tôi cũng tâm những điều với cha, ông ấy xin được xem qua nơi đó. Tôi có thể xin phép ai chứ? Chỉ có Giáo hoàng thôi, nhưng chính Giáo hoàng lại là người mà cha Andrei và tôi muốn ngầm bảo vệ. Tôi đồng ý, và cho phép ông ấy ở trong đó giờ.

      Cha Nil thầm:

      – Và ngay hôm sau ông ấy vội vã rời khỏi Roma đúng ?

      – Đúng. Ông ấy lên tàu Roma Express ngay hôm sau, gì với tôi. Phải chăng ông ấy phát ra điều gì? Ông ấy có với ai ? Tôi biết.

      – Nhưng ông ấy bị rơi khỏi tàu Roma Express trong đêm, và đó phải là tai nạn.

      Breczinsky đưa hai tay lên mặt.

      – Đó phải là tai nạn. Điều tôi có thể với cha, đó là khi theo đuổi công việc của bạn mình, cha đặt bản thân vào hoàn cảnh nguy hiểm tương tự. Cũng như ông ấy, việc tìm kiếm dẫn cha đến tận ngưỡng cửa của cái nơi tồn tại này. Tôi sẵn sàng để cha vào đó, tôi tin tưởng ở cha giống như tin tưởng ông ấy. Catzinger, mà tôi e là còn rất nhiều người khác nữa, cũng theo hướng tìm kiếm này: nếu đến đích trước họ, cha gặp nguy hiểm giống cha Andrei. Vẫn còn đủ thời gian để cha từ bỏ mọi thứ, cha Nil ạ, và quay về phòng bên cạnh để nghiên cứu những bản thảo vô hại thời Trung cổ. Cha quyết định thế nào?

      Cha Nil nhắm mắt lại. Dường như ông nhìn thấy tông đồ thứ mười ba ngồi bên phải Jesus trong căn phòng lớn, kính cẩn nghe Người . Rồi trở thành người nắm giữ bí mật nặng nề, phải đơn độc chiến đấu chống lại căm thù của Peter và Mười hai tông đồ, những người chỉ muốn có mười hai người và độc quyền nắm giữ thông tin truyền lại. Những người buộc ông phải chịu cảnh lưu đày và câm lặng, để Giáo hội mà họ xây dựng dựa kí ức dối trá về Jesus được tồn tại vĩnh viễn, alpha và omega.

      Bí mật này trải qua nhiều thế kỷ trước khi đến được với ông. Nằm dài bên bàn trong bữa ăn cuối cùng, người tựa lên khủy tay, ngày nay môn đồ cưng của Jesus cầu ông tiếp bước.

      Cha Nil đứng dậy.

      – Chúng ta nào, cha.

      Họ ra khỏi văn phòng. Leeland vẫn cúi người bên bàn, thậm chí ngẩng đầu lên khi nghe bước chân họ qua phía sau. Họ dọc các phòng của kho sách. Breczinsky mở cánh cửa và ra hiệu cho cha Nil theo.

      hành lang dốc xuống thoai thoải. Cha Nil tìm cách định hướng. Như đoán được ý nghĩ của ông, Breczinsky thầm:

      – Chúng ta ở bên dưới cánh ngang bên phải của đại giáo đường Saint Peter. Nơi này được đào vào trong móng, cách nấm mồ của Thánh tông đồ được phát trong quá trình đào bới theo lệnh của Pie XII dưới bàn thờ chính khoảng bốn mươi mét.

      Hành lang tạo thành chỗ ngoặt, và dẫn đến cánh cửa bọc sắt. Tu sĩ người Ba Lan mở cúc cổ áo kiểu Roma và lấy ra chiếc chìa khóa mà ông đeo sát vào người. Vừa mở cửa ông vừa nhìn đồng hồ.

      – Bây giờ là mười bảy giờ, kho sách đóng cửa vào mười tám giờ: cha có giờ. Tất cả các cánh cửa đều có thể mở được từ bên trong mà cần chìa khóa, cánh cửa này cũng vậy: khi ra ngoài, cha chỉ cần đóng lại, nó tự động khóa. Cha tắt điện trước khi ra ngoài và đến tìm tôi trong văn phòng.

      Cánh cửa bọc sắt mở ra tiếng động, Breczinsky đưa tay vào tường bên trong và bật công tắc.

      – Cha cẩn thận đừng làm hỏng thứ gì. Chúc cha may mắn!

      Cha Nil bước vào: cánh cửa đóng lại sau lưng ông với tiếng cạch trầm đục.



      78.

      Ông đứng trước đường hầm dài có hình vòm, được chiếu sáng rực. Bức tường bên phải trần trụi, hình như bằng đá: cha Nil đưa tay lướt mặt tường, và nhận ra ngay kỹ thuật đẽo đá. phải là những thanh đỡ nóc của các thợ nề thời Trung cổ, cũng phải là những đường cưa của thời đại gần đây. Dấu vết đều đặn của những đường kéo và khoảng cách giữa chúng là cách ký tên của các thợ đẽo đá thời Phục hưng.

      Dọc bức tường bên trái, những kệ sách chạy dọc cho đến cuối đường hầm. số giá sách được chạm khắc cầu kỳ, đó là những giá sách cổ nhất. Những chiếc khác chỉ đơn giản bằng gỗ mộc, hẳn là được thêm vào qua các thế kỷ theo nhu cầu sắp xếp sách.

      Sắp xếp… Mới nhìn qua, cha Nil nhận ra phân loại hợp lý nào cả. Những thùng, những hộp, những thùng giấy, những chồng hồ sơ nằm chồng chất các giá. “Cần gì phải đưa trật tự vào chốn địa ngục? bao giờ có thứ gì ra khỏi đây hết.”

      Ông bước lên bước để nhìn vào phần cuối đường hầm: khoảng năm mươi mét. Hàng chục kệ, hàng nghìn tài liệu: tìm cây kim trong bó cỏ khô này, trong vòng giờ… là điều thể. Tuy nhiên cha Andrei tìm thấy ở đây thứ gì đó, cha Nil tin chắc như thế, chỉ điều này mới giải thích được tại sao ông ấy trốn chạy và thiệt mạng. Ông bước tiếp, vừa vừa chăm chú nhìn những kệ sách bên tay trái.

      hề có sắp xếp, nhưng có những tấm biển đóng tại từng khu giá sách, pha trộn giữa kiểu chữ viết thanh lịch thời xưa với những nét chữ đại hơn. Ông có cảm giác thời gian bị phá vỡ.

      Cathares… Các vụ xử Hiệp sĩ, cả kệ. Savonarole, Jean Huss, Vụ Galilei, Giordano Bruno, các giáo sĩ Pháp bỏ đạo, danh sách những linh mục tuyên thệ bị Roma kết tội bội giáo vào năm 1792. vài thư từ trao đổi S.S với Garibaldi… Toàn bộ lịch sử bí mật của Giáo hội trong cuộc chiến với kẻ thù của nó. Đột nhiên cha Nil sững lại: kệ xếp đầy những hộp bằng bìa cứng có vẻ còn mới, với cái nhãn duy nhất: Nghiệp vụ Ratlines.

      Quên mất tại sao mình lại ở đây, cha Nil bước vào trong dãy giá sách và mở ngẫu nhiên hộp: thư từ trao đổi giữa Pie XII và Draganovich, cựu linh mục sau đó trở thành chỉ huy của các oustachi, những tên phát xít Croatia từng gây nên bao nỗi kinh hoàng trong chiến tranh. Ông mở vào hộp khác: phiếu căn cước của những tên tội phạm phát xít nổi tiếng, bản kê hộ chiếu của Vatican lập ra dưới tên chúng, biên nhận những khoản tiền đáng kể. Nghiệp vụ Ratlines là tên gọi mã hóa của cơ cấu cho phép những tội phạm phát xít trốn thoát ngay sau chiến tranh mà hề bị trừng phạt, nhờ giúp đỡ của Trụ sở Thánh.

      Cha Nil đưa tay lên mặt. Ông chẳng biết thêm gì mới. Những việc làm tổn hại đến thanh danh Giáo hội, thậm chí những tội ác, là đoạn tiếp theo đúng logic của những điều mà tông đồ thứ mười ba phải chịu đựng vào thế kỷ I. Ông ra khỏi dãy, và mắt ông bị thu hút bởi tập hồ sơ được đặt qua loa giá sách: Auschwitz, báo cáo trong ngục tối 1941. Ông kìm nén mong muốn mở tập hồ sơ: “Trụ sở Thánh biết về Auschwitz ngay từ năm 1941…”

      Ông nhìn đồng hồ: chỉ còn nửa giờ. Ông bước tiếp.

      Đột nhiên, ông dừng lại: mắt ông vừa bắt được nhãn có nét chữ còn mới.

      Manoscritti del mare Morto, Spuria.

      Khoảng chục chiếc hộp phủ bụi nằm chồng đống lên nhau. Ông nhặt chiếc hộp cùng và mở ra: bên trong nhiều cuộn giấy bị thời gian phá hủy đến nửa. Ông tiếc mình đeo găng, và nhấc cuộn lên: những mảnh giấy da rời ra và rơi xuống phủ đầy đáy hộp. “Chữ viết Do Thái ở vùng Qumran!” Đúng là những bản thảo vùng biển Chết, nhưng tại sao chúng lại bị giam hãm trong địa ngục này, bị buộc phải tan vụn ra trong khi các nhà bác học toàn thế giới tìm kiếm chúng? Spuria, “rác”: phải chăng người ta muốn rút bỏ những thứ rác này ra khỏi cộng đồng thế giới, vì chúng có giá trị gì… hay vì chúng đại diện cho thứ rác của Lịch sử cần phải che giấu mọi người mãi mãi vì lịch sử ngoặt sang hướng khác?

      Ông đặt lại chiếc hộp vào chỗ của nó. Chiếc thùng bên dưới được làm bằng gỗ màu trắng, và bên cạnh nó có in dòng chữ: Cognac Napoleon, hầm của Hoàng đế.

      Chiếc thùng của Giáo chủ Samuel, chiếc thùng được giao lại cho tu sĩ cần vụ của dòng tu Dominique ở Jerusalem!

      Tim đập thình thịch, cha Nil kéo nó ra khỏi đống hộp. nắp thùng, bàn tay nào đó viết lên ba chữ cái: MMM. Ông nhận ra nét chữ thô nháp của cha Andrei.

      Đầu óc ông quay cuồng: như vậy, khi viết MMM lên mảnh giấy lúc ở tàu, cha Andrei ám chỉ lô bản sao của Thư viện Huntington được cất giữ trong thư viện của tu viện Saint-Martin. Ông ấy còn muốn đến chiếc thùng này, thứ mà cha Nil vừa phát ra. Chính cha Andrei viết lên nắp thùng ba chữ cái kia để có thể nhận ra nó dễ dàng hơn ngày nào đó: nó mới là thứ mà ông ấy muốn đến. Phát này, thực được nhờ cuộc gặp với Breczinsky, chính là kết quả của những tìm kiếm của họ, và ông ấy có ý định hết với cha Nil.

      Đó là lý do vì sao ông ấy bị giết.

      Cha Nil mở chiếc thùng: cũng vẫn là những mảnh vụn rơi ra từ những cuộn giấy chất đống. Và ở bên cạnh, cuốn giấy da đơn giản được cuộn lại. Tay cha Nil run lên khi ông tháo sợi dây lanh buộc quanh bản thảo. Ông cẩn thận mở ra: chữ Hy Lạp, nét chữ thanh lịch hoàn toàn có thể đọc được. Chữ viết của tông đồ thứ mười ba! Ông bắt đầu đọc:

      “Ta, môn đồ cưng của Jesus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…”

      Khi đọc xong, mặt cha Nil tái xanh. Phần đầu của bức thư cho biết thêm điều gì ngoài những điều ông biết: Jesus phải là Chúa, Mười hai tông đồ, bị thôi thúc bởi tham vọng chính trị của họ, thần thánh hóa Người. Nhưng tông đồ thứ mười ba biết rằng điều này có thể đủ để giữ gìn gương mặt của Thầy mình: ông đưa ra lời chứng, cách thể chối cãi được, rằng ngày 9 tháng Tư năm 30, ông gặp những người mặc đồ trắng, những người Esseni, trước nấm mồ nơi họ vừa lấy thi thể Jesus ra, và chuẩn bị mang thi thể này đến trong những nghĩa trang của họ sa mạc để chôn cất cách xứng đáng.

      Nấm mồ này, ông chỉ ra vị trí chính xác của nó. Bằng câu ngắn gọn, ông khẳng định rằng chỉ cát sa mạc mới có thể bảo vệ nấm mồ của Jesus khỏi ham muốn của loài người. Giống như tất cả các nhà truyền giáo khác, người Nazareth này sống trong cõi vĩnh hằng, và sùng kính đối với xương cốt của Người có thể khiến nhân loại trệch khỏi cách thức duy nhất để gặp gỡ Người: cầu nguyện.

      Trong những tháng tìm kiếm vừa qua, cha Nil tin rằng bí mà ông đối mặt là bí về tông đồ thứ mười ba, về vai trò của ông này ở Jerusalem và đối với hậu duệ của ông. Người tự tay viết những dòng này cũng biết mình bị loại khỏi Giáo hội, bị xóa tên khỏi tương lai của Giáo hội. Tương lai đó, ông tiên liệu trước là có gì liên quan đến cuộc đời và lời dạy của Thầy mình. Ông gửi gắm vào mảnh giấy da này điều bí mật mà ngày nào đó có thể cho phép thế giới phát ra gương mặt thực của Jesus. Ông làm điều đó mà hề có chút ảo tưởng nào: mảnh giấy mỏng manh có ý nghĩa gì khi phải đối diện với tham vọng bao giờ thỏa mãn nổi của những người sẵn sàng làm mọi chuyện để đạt được mục đích, bằng cách sử dụng ký ức về người mà ông quý hơn bất cứ ai?

      Tông đồ thứ mười ba vừa đưa ông đến với điều bí mật có : tồn tại thực về mặt vật lý của nấm mồ chứa đựng xương cốt của Jesus.

      Cha Nil liếc nhìn đồng hồ: mười tám giờ mười phút. “Miễn là Breczinsky còn chờ mình!” Ông xếp lại bức thư được tìm thấy cách kỳ diệu vào thùng, và đặt lại chiếc thùng vào vị trí của nó. Ông giữ lời: Giáo hoàng được thông báo, thông qua trung gian là viên thủ thư người Ba Lan, về tồn tại của bức thư tông đồ mà ngần ấy thế kỷ cũng như người của Giáo hội thể làm biến mất được. Nhờ vào ghi chú MMM, Breczinsky dễ dàng tìm được nó và đưa lại cho ngài.

      Chuyện xảy ra sau đó còn liên quan gì đến tu sĩ bé như ông. Chỉ liên quan đến Giáo hoàng mà thôi.

      Cha Nil nhanh chóng ra khỏi đường hầm, cẩn thận tắt đèn: phía sau ông, cánh cửa tự động khóa lại. Khi ông đến nơi Leeland và ông làm việc những ngày qua, căn phòng trống và đèn trần tắt. Ông đến gõ cửa văn phòng viên thủ thư: có ai trả lời, Breczinsky chờ ông.

      Cha Nil lo lắng tự hỏi liệu tất cả những cánh cửa dẫn ra sân Belvedere có mở được từ bên trong : ông hiểu mình khổ sở thế nào nếu phải qua đêm trong bầu khí tù hãm của kho sách. Nhưng Breczinsky dối ông: ông qua hai cánh cửa bọc sắt cách dễ dàng. Sảnh vào vắng hoe, nhưng cánh cửa bên ngoài tòa nhà mở hé. suy nghĩ, cha Nil bước ra sân và hít hơi sâu. Ông cần phải bộ, để sắp xếp lại suy nghĩ chút.

      Ông vội vàng rời tòa nhà nên để ý đến ô cửa kính màu nơi viên cảnh sát của Vatican đứng hút thuốc. Vừa nhìn thấy ông qua, ta nhấc điện thoại nội bộ của Thành Vatican và ấn lên nút.

      – Thưa Đức Hồng y, ông ấy vừa ra… Vâng, mình ạ: người kia ra trước ông ấy. Di niente, Eminenza[[52]].

      Trong văn phòng mình, Hồng y Catzinger vừa gác máy vừa thở dài: sắp đến giờ của Antonio, sắp đến rồi.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      79.

      Cha Nil qua quảng trường Saint Peter, và máy móc ngước mắt lên: cửa sổ phòng Giáo hoàng vẫn sáng đèn. Ngay ngày mai ông với Breczinsky, chỉ cho ông ấy vị trí của vỏ thùng Cognac có đánh dấu MMM và nhờ ông ấy lại lời nhắn của ông đến vị Giáo hoàng già. Ông bước vào đường Aurelia.

      Đến thềm nghỉ ở tầng ba, ông dừng lại: qua cánh cửa, ông nghe thấy Leeland chơi bản Gymnopédie thứ hai của Erik Satie. Giai điệu nhàng thể nỗi u sầu vô tận, nỗi tuyệt vọng nhuốm màu hài hước và nhạo báng. “Rembert… hài hước của cậu có giúp cậu vượt qua nỗi tuyệt vọng của chính cậu ?” Ông khẽ gõ vào cánh cửa.

      – Vào , tớ sốt ruột chờ cậu đây.

      Cha Nil ngồi xuống, gần chiếc đàn piano.

      – Remby, tại sao cậu rời kho sách trước khi tớ quay trở lại?

      – Breczinsky đến thông báo với tớ vào lúc mười tám giờ: phải đóng cửa, ông ấy thế. Ông ấy có vẻ rất lo lắng. Nhưng chuyện đó quan trọng: xem, cậu có phát được gì ?

      Cha Nil chia sẻ được vô tư của Leeland: vắng mặt của Breczinsky khiến ông lo lắng. “Tại sao ông ấy ở đó như thống nhất, khi mình quay lại?” Ông gạt ý nghĩ này ra khỏi đầu.

      – Ừ, tớ tìm thấy cái mà cha Andrei và tớ tìm kiếm từ bấy lâu nay: bản nguyên vẹn bức thư của tông đồ thứ mười ba, thực ra là bản gốc.

      – Tuyệt vời! Nhưng bức thư này… nó khủng khiếp đến thế sao?

      – Nó ngắn thôi, và tớ thuộc lòng rồi. Origène đúng, nó chứa đựng bằng chứng thể chối cãi rằng Jesus phải sống lại như Giáo hội rao giảng. Như vậy, Người phải là Chúa: nấm mồ trống ở Jerusalem, đó mộ Chúa Jesus được xây lên, là lừa bịp. Nấm mồ trong đó chứa đựng xương cốt của Jesus nằm đâu đó sa mạc.

      Leeland có vẻ sửng sốt:

      sa mạc! Nhưng chính xác là ở đâu?

      – Tông đồ thứ mười ba từ chối nêu chính xác vị trí nấm mồ, nhằm bảo vệ thi thể Jesus khỏi thèm muốn của loài người: ông ấy chỉ đến sa mạc Idumea, vùng rộng lớn ở phía Nam Israel, giới hạn của nó thay đổi nhiều theo thời gian. Nhưng ngành khảo cổ học có những tiến bộ đáng kể: nếu sử dụng phương tiện, người ta tìm ra. bộ xương đặt trong nghĩa trang bị bỏ quên của người Esseni trong vùng này, mang những dấu vết của việc đóng đinh câu rút, được xác định bằng phương pháp carbon 14 là có niên đại vào giữa thế kể I có thể gây ra cơn địa chấn ở phương Tây.

      – Cậu có công bố những kết quả tìm kiếm của cậu cho cả thế giới biết về bức thư này và cùng những đoàn khảo cổ ? Nil, cậu có muốn người ta tìm lại được nấm mồ này ?

      Cha Nil im lặng lát. Trong đầu ông vẫn vang vọng giai điệu của Satie.

      – Tớ theo tông đồ thứ mười ba đến cùng. Nếu lời chứng của ông ấy được Lịch sử ghi nhận, hẳn bao giờ có Giáo hội Cơ Đốc. Chính vì biết điều đó mà Mười hai tông đồ từ chối coi ông ấy là người trong số họ. Hãy nhớ đến bản khắc ở Germigny: chỉ có mười hai người được chứng kiến Jesus, mãi mãi là thế, alpha và omega. Liệu hai mươi thế kỷ sau, có cần thiết phải xem xét lại tòa nhà mà họ xây lên nấm mồ rỗng đó ? Ngày nay, mộ phần của tông đồ Peter đánh dấu trung tâm của nền Cơ Đốc giáo. Thay cho nấm mồ rỗng, người ta xây lên nấm mồ đầy đủ, nấm mồ của người đầu tiên trong số mười hai tông đồ. Sau đó Giáo hội tạo ra các thánh lễ, để mỗi người hành tinh này có thể trực tiếp liên hệ với Chúa. Nếu tước mất của các tín đồ điều này, họ còn lại gì? Jesus cầu làm theo Người hàng ngày, và phương pháp duy nhất Người đề xuất là cầu nguyện. Nhưng dân chúng, và cả nền văn minh, chỉ có thể được dẫn dắt bởi những phương tiện cụ thể, có thể sờ mó được. Tác giả của bức thư đúng: đặt lại xương cốt của Jesus vào trong mộ Chúa có thể biến nấm mộ này thành vật duy nhất để chiêm ngưỡng đối với những đám đông cả tin. Việc đó khiến những người hèn mọn và bé vĩnh viễn bị chệch hướng tiếp cận với vị Chúa vô hình, thông qua các phương tiện vốn bấy lâu nay vẫn thuộc về họ: thánh lễ.

      – Thế cậu làm gì?

      – Báo cho Đức Thánh Cha về tồn tại của bức thư, cho ngài biết về vị trí của nó. Ngài phải nắm giữ thêm bí mật nữa, vậy thôi. Khi nào trở về tu viện, tớ chôn vùi kết quả tìm kiếm của tớ trong câm lặng của tu viện. Chỉ trừ thứ mà tớ muốn công bố chậm trễ: vai trò của những người Nazareth trong ra đời của kinh Coran.

      Ở tầng dưới, Moktak chu đáo ghi hai bản Gymnopédie của Satie, rồi từ sau lúc cha Nil vào phòng và bắt đầu trò chuyện. Đến lúc này, áp chặt tai nghe vào tai.

      – Bức thư tông đồ thứ mười ba cho cậu biết thêm điều gì mới về kinh Coran à?

      – Ông ấy gửi bức thư này đến các Giáo hội, nhưng thực tế nó được dành cho các môn đồ của ông ấy, những người Nazareth. Cuối cùng, ông ấy đề nghị họ hãy trung thành với lời chứng và lời dạy của ông ấy về Jesus, dù họ có phải lưu đày đến đâu nữa. Như vậy, ông ấy khẳng định điều mà tớ vẫn ngờ vực: sau thời gian trốn ở Pella, họ lại phải lên đường, hẳn là trước cuộc xâm lược của người La Mã vào năm 70. ai biết sau đó họ ra sao, nhưng dường như cũng ai nhận ra rằng, trong kinh Coran, Muhammad thường xuyên đến các naçâra, từ này luôn được dịch thành “những người Cơ Đốc”. thực tế, naçâra là từ Ả Rập để chỉ “người Nazareth”!

      – Kết luận của cậu là gì?

      – Muhammad hẳn gặp người Nazareth ở Mecca, nơi họ náu sau khi khỏi Pella. Bị quyến rũ bởi những lời giảng dạy của họ, chính ông ấy cũng suýt trở thành người trong số họ. Rồi ông ấy trốn đến Medina, nơi ông ấy trở thành thủ lĩnh: chính trị và bạo lực chiếm ưu thế, nhưng ông ấy vĩnh viễn mang dấu ấn của Jesus xứ Nazareth, Jesus của tông đồ thứ mười ba. Nếu Muhammad bị giày vò bởi ham muốn chinh phục, có lẽ đạo Hồi bao giờ ra đời, người Hồi giáo hẳn là hậu duệ của người Nazareth, giá chữ thập của nhà truyền giáo Jesus có lẽ nổi ngọn cờ của đạo Hồi!

      Leeland có vẻ bị lây phấn khích của bạn mình.

      – Tớ có thể đảm bảo với cậu rằng dù thế nào các giảng viên đại học ở Mỹ cũng say mê với những công trình của cậu! Tớ giúp cậu làm quen với họ ở đó.

      – Tưởng tượng xem, Remby! Cuối cùng người Hồi giáo cũng chấp nhận rằng bộ kinh thiêng liêng của họ mang dấu ấn người thân của Jesus, người cũng bị Giáo hội loại bỏ vì phủ nhận thiên chất của Người, giống như họ! Có thể đây là cơ sở mới để người Hồi giáo, người Cơ Đốc và người Do Thái xích lại gần nhau. Và hẳn là khi đó việc Djihad chống lại phương Tây chấm dứt!

      Mặt Moktar đột ngột nhăn nhúm lại. Căm thù trào lên, chỉ nghe cuộc trò chuyện bằng tai: cha Nil hỏi Leeland về những dự định của ông ta, xem ông ta làm thế nào để giấu Catzinger tất cả chuyện này. Liệu Leeland có đủ khả năng chống chọi với áp lực để gì với ông ta ? Điều gì xảy ra nếu Hồng y chuyển từ đe dọa sang hành động, và công bố rộng rãi mối quan hệ ưu ái của ông ta với Anselm?

      Họ chuyện trò dông dài như đàn bà: những chuyện này khiến người Palestin quan tâm nữa, nhấc tai nghe ra. Hai người này vừa vượt quá đường biên giới cấm: được động đến kinh Coran. Các học giả đạo Cơ đốc cứ việc chọc thủng điều bí mật giấu trong kinh Phúc , đó là vấn đề của họ. Nhưng bao giờ được đưa kinh Coran ra để áp dụng những phương pháp chú giải báng bổ của họ, trường đại học Al-Azhar phản đối chối bỏ này. ai được phân tích lời thánh Allah do Đấng Tiên tri của Người truyền lại, cầu cho tên Người được ban phúc.

      Muhammad mà lại là môn đồ bí mật của Jesus người Do Thái! Tu sĩ người Pháp đó có thể áp dụng những phương pháp của kẻ dị giáo với văn tự thiêng này, ông ta có thể công bố những kết quả nghiên cứu với giúp đỡ của người Mỹ kia. Trong tay nước Mỹ, tay sai của Israel, những công trình của ông ta trở thành vũ khí kinh hoàng chống lại đạo Hồi.

      Trán nhăn lại, cuộn lại những cuốn băng từ và tự nhắc mình câu mà thường xuyên nhắc với sinh viên của mình: “Những kẻ dị giáo, hãy bắt và giết chúng ở bất kỳ nơi nào các con gặp chúng”![[53]]

      Moktar cảm thấy được an ủi: Đấng Tiên tri, cầu cho tên Người được ban phúc, quyết định dứt khoát.
      80.

      Hôm đó trời mưa cả ngày. Những lớp sương mù chầm chậm lan sườn dãy núi Abruzzes phía chúng tôi, rồi dường như ngần ngại lát trước khi vượt qua đỉnh núi và tan biến về phía biển Adriatic. Những cánh chim săn mồi như bị hút về phía chân trời.

      Cha Nil cho tôi trú lại gian nhà đơn sơ đào ngay trong vách đá của ông. chiếc đệm rơm đặt chiếc giường dương xỉ khô, chiếc bàn kê trước cửa sổ tí hon. lò sưởi sơ sài, cuốn Kinh Thánh đặt giá, vài bó củi. Còn ít hơn cả những thứ thiết yếu nhất: thứ chủ yếu ở đây nằm ở nơi khác.

      Ông báo trước với tôi rằng chúng tôi đến hồi kết của câu chuyện. Sau mọi chuyện, trong tĩnh lặng của vùng núi này, ông mới hiểu hết những tình tiết xung quanh nó. Ông chỉ bối rối có lần, và tôi nhận thấy điều đó qua run rẩy trong giọng của ông: đó là khi ông với tôi về Rembert Leeland, về nỗi đau khổ nội tâm dai dẳng mà người đàn ông này phải trải qua, nỗi đau kết thúc trong vòng vài giờ, cách bi thảm.

      Ngay từ khi ông tìm ra bản thảo bị mất tích, các kiện tác động đến nhau. Khi lôi văn tự thuở xưa này ra khỏi lãng quên, ông mở những chiếc van mà phía sau chúng những người ông hề quen biết nôn nóng đợi chờ, mỗi người trong số họ đều bảo vệ cho nghiệp của mình với kiên quyết và bạo liệt mà cho đến hôm nay ông vẫn thể hiểu nổi.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :