BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      61.

      – Sáng nay có lễ tuyên phúc: chúng ta thể qua quảng trường Saint Peter được, phải vòng vậy.

      Chìm trong suy nghĩ của chính mình, hai người vòng qua khu Santo Spirito rồi quay lại thành Vatican qua Lâu đài San Angelo, trước đây từng là lăng của hoàng đế Hadrien trước khi trở thành pháo đài và nhà ngục của Giáo hoàng. Cha Nil cảm thấy khó chấp nhận những khoảng im lặng nặng nề chen giữa họ từ khi ông đến Roma.

      Cuối cùng Leeland cũng cất tiếng:

      – Tớ hiểu nổi cậu: cậu ra khỏi tu viện từ nhiều năm nay, và ở đây cậu cũng sống như người tu kín. Cậu mến Roma biết bao khi chúng ta còn là sinh viên, hãy tận dụng chút, thăm vài viện bảo tàng, gặp lại những người mà cậu quen biết trước đây… Cậu cư xử như cậu chuyển tu viện của cậu đặt giữa thành phố này vậy!

      Cha Nil ngẩng đầu về phía bạn ông.

      – Khi vào tu viện, tớ chọn nỗi đơn ở giữa cộng đồng toàn cầu là Giáo hội Công giáo. Hãy nhìn đám đông kia, họ có vẻ rất sung sướng trước lễ phong thánh mới! Trong thời gian dài, tớ tin rằng họ là gia đình của tớ, thay thế cho gia đình từ bỏ tớ. Giờ đây, tớ biết rằng công việc nghiên cứu về nhân thân của Jesus loại tớ ra khỏi gia đình thứ hai này. ai xem xét lại những cơ sở của tôn giáo là nền tảng của cả nền văn minh mà lại hề hấn gì! Tớ mường tượng rằng tông đồ thứ mười ba kia, khi chống đối lại Mười hai tông đồ, phải chịu đựng nỗi đơn tương tự. Tớ chỉ còn người bạn, là Đấng Jesus mà tớ cố gắng vén màn bí về Người.

      Ông thêm trong tiếng thở dài:

      – Và cả cậu nữa, tất nhiên.

      Lúc này họ dọc những bức tường cao của Thành Vatican. Tu sĩ người Mỹ thọc tay vào túi rồi lấy ra hai tấm bìa màu hồng.

      – Tớ có bất ngờ cho cậu. Tớ nhận được hai giấy mời xem buổi hòa nhạc của Lev Barjona tại nhạc viện Saint Cecillia ở Roma, đúng vào trước Noel. Tớ cho phép cậu lựa chọn đâu, cậu với tớ.

      chàng Lev Barjona này là ai?

      nhạc công dương cầm nổi tiếng người Israel, tớ quen ở đó khi ta còn là học sinh của Arthur Rubinstein: chúng tớ trở thành bạn của nhau dưới chân người thầy này. con người đáng ngạc nhiên, có cuộc sống giống ai. ta ưu ái viết thêm dòng riêng tư vào giấy mời, rằng tấm giấy mời thứ hai là để dành cho cậu. ta biểu diễn bản Concerto thứ ba của Rachmaninov, ta là người chơi bản này hay nhất.

      Họ vào trong Thành Vatican.

      – Tớ rất vui, cha Nil , tớ thích Rachmaninov và rất lâu xem buổi hòa nhạc nào, có thể điều đó khiến tớ thay đổi suy nghĩ.

      Đột nhiên, ông dừng phắt lại và nhíu mày.

      – Nhưng… làm thế nào mà bạn cậu lại gửi cho cậu tấm vé thứ hai để dành cho tớ?

      Leeland có vẻ ngạc nhiên vì nhận xét này, và chuẩn bị trả lời họ bị tách nhau ra: chiếc limousine công vụ sang trọng lướt qua ngay trước mặt họ. Bên trong, họ thoáng nhìn thấy bộ áo chùng tím của Hồng y. Chiếc xe chậm lại để qua cổng Belvedere, và cha Nil đột nhiên nắm lấy cánh tay của tu sĩ người Mỹ.

      – Rembert, hãy nhìn biển số chiếc xe này xem!

      sao? S.C.V., Sacra Civitas Vaticani, đó là biển số của Vatican. Cậu biết rồi đấy, ở đây ngày nào mà chẳng thấy những chiếc xe như thế.

      Cha Nil vẫn đứng như trời trồng giữa sân Belvedere.

      – S.C.V.! Nhưng đó chính là ba chữ cái mà cha Andrei viết trong sổ của ông ấy, ngay trước chữ “Hiệp sĩ dòng Đền”! Từ nhiều ngày nay, tớ cố vắt óc xem nó có nghĩa là gì: vì tiếp sau nó là mã số Dewey đầy đủ, tớ tin chắc rằng nó chỉ thư viện ở đâu đó thế giới. Rembert, tớ nghĩ mình vừa hiểu ra rồi! S.C.V. và đằng sau là bốn chữ số chính là vị trí của loạt tác phẩm tại trong các thư viện thuộc Sacra Civitas Vaticani, Vatican. Lẽ ra tớ phải nghĩ đến điều này: cha Andrei là người mắc bệnh lục lọi mãn tính. Ở thư viện San Girolamo, ông ấy tìm thấy văn bản hiếm của Origène, nhưng chính ở đây ta phải tìm tác phẩm thứ hai mà ông ấy viết sổ tay.

      Cha Nil ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà sừng sững.

      – Trong đó, giấu ở nơi nào đó, có cuốn sách có thể cho phép tớ biết được nhiều hơn về bức thư của tông đồ thứ mười ba. Nhưng còn có điều gì đó mà tớ chưa hiểu, Rembert ạ: các hiệp sĩ dòng Đền có liên quan gì đến chuyện này nhỉ?

      Leeland nghe ông . Tại sao Lev Barjona lại gửi cho ông hai tấm giấy mời nhỉ?

      Ông máy móc bấm mã số cửa vào kho sách Vatican.

      Khi tiếng chuông vang lên, Breczinsky căng thẳng nắm lấy khuỷu tay người chuyện với mình.

      – Chắc là họ đấy, sang nay tôi chờ tiếp ai khác. Nếu ra bằng cửa trước chắc là gặp họ. Kho sách này có cầu thang dẫn thẳng ra Thư viện Vatican: tôi dẫn lối đó, nhanh lên, họ sắp đến rồi.

      Mặc chiếc áo dòng bó sát, Antonio ném cái nhìn sang tu sĩ người Ba Lan, gương mặt nhợt nhạt của ông vẻ hốt hoảng. Mọi việc dễ dàng: chỉ sau lát trao đổi trong văn phòng mình, Breczinsky như bị tan chảy ra trước mặt . Hồng y hiểu tâm hồn con người: chỉ cần biết cách tìm được vết thương bí mật, và ấn lên đó.

      62.

      Sonia vuốt tóc ra trước ngực, và ngắm nhìn người đàn ông mặc lại quần áo. Xét cho cùng, ông ta cũng dữ tợn. Chỉ có điều kỳ quặc là cái cách chuyện ngừng trong khi làm điều mà ông ta chờ đợi ở . Khi đến Ả Rập Xê út do bị hấp dẫn bởi viễn cảnh có được việc làm, chấp nhận bị giam trong căn phòng dành cho phụ nữ của quan chức cao cấp. Khi làm tình, quan chức người Ả Rập này lời nào, và kết thúc rất nhanh. Trong khi đó, Calfo ngừng lẩm bẩm những điều thể hiểu nổi, và bao giờ cũng về vấn đề tôn giáo.

      Vốn là người theo Chính giáo, Sonia tôn trọng các vị chức sắc tôn giáo giống như tất cả những người Rumani khác. Nhưng người này hẳn là hơi bị rối loạn: ông ta cầu tiến hành chậm chạp, đôi khi khiến sợ bằng việc nhìn chăm chăm vào . Chất giọng du dương của ông, giọng của Giám mục, những điều gợi lên trong nỗi chán ngán dữ dội.

      thể chuyện này với Moktar, người đưa đến Roma. “Em gặp, ta với , khách hàng trả công rất hậu.” Đúng vậy, vị Giám mục này rất hào phóng. Nhưng giờ đây Sonia cảm thấy quá chật vật mới kiếm được khoản tiền này.

      Vừa cài cúc cổ chiếc áo dòng, Calfo vừa quay sang .

      – Em phải thôi, tối mai ta có cuộc họp. cuộc họp quan trọng. Em có hiểu ?

      gật đầu. Vị Giám mục giải thích cho rằng để có thể lên đến cấp độ của Tầng trời [[36]], phải duy trì mối liên kết biện chứng giữa hai khối, xác thịt và tinh thần. chẳng hiểu gì về bài thuyết giảng đầu cuối này, nhưng biết rằng mình chỉ phải quay lại sau hai ngày nữa.

      Ông ta luôn như vậy mỗi khi có “cuộc họp quan trọng”. Và ngày mai là thứ Sáu ngày 13.

      Mười hai tông đồ tỏ vẻ đặc biệt trang trọng. Mặc áo lễ màu trắng, Antonio lặng lẽ lách vào sau chiếc bàn dài để ngồi vào chỗ của mình. Ánh mắt đen kỳ lạ của , thứ duy nhất lộ ra sau tấm vải che mắt, rất trong sáng và an bình.

      – Như tất cả các thứ Sáu ngày 13 khác, thưa các em, Hội chúng ta lại có cuộc họp thể thức. Nhưng trước khi thể lòng tôn kính đối với vật quý mà chúng ta sở hữu, tôi phải thông báo cho các vị biết những tiến triển mới nhất của nhiệm vụ được tiến hành.

      Hội trưởng ngắm nhìn cây thánh giá trước mặt mình lát rồi tiếp tục trong bầu khí im lặng hoàn toàn :

      – Nhờ vào điệp viên người Palestine của tôi, chúng ta có được băng ghi tất cả những điều được ra trong căn phòng đường Aurelia. Tu sĩ người Pháp tỏ ra là người kế tục xứng đáng của cha Andrei. Ông ta phá được mật mã của bản khắc Germigny, và hiểu được ý nghĩa của bản khắc này dựa vào câu đầu tiên trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ. Ông ta tìm lại được lời kể của Origène, và dựa vào câu thứ hai trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, ông ta con đường dẫn đến bức thư của tông đồ thứ mười ba – bức thư mà cha Andrei chỉ nghi ngờ là có tồn tại trước khi đến Roma.

      cơn rùng mình lan khắp Hội, và trong số các tông đồ đưa cẳng tay ra:

      – Người em Hội trưởng, liệu chúng ta có đùa với lửa ? Từ thời các Hiệp sĩ dòng Đền, ai tiếp cận gần đến thế bí mật mà chúng ta có sứ mệnh bảo vệ.

      – Hội chúng ta cân nhắc và đến quyết định. Để cha Nil tiếp tục việc nghiên cứu là mạo hiểm, nhưng là mạo hiểm có tính toán. Mặc dù các vị tiền bối của chúng ta rất cố gắng, nhưng dấu vết của bức thư đó hoàn toàn biến mất. Chúng ta biết rằng nội dung của nó có thể hủy hoại Giáo hội Công Giáo, và cùng với đó là nền văn minh mà Giáo hội là linh hồn đồng thời cũng là nguồn cảm hứng. Có thể vẫn còn lại bản sao thoát khỏi kiểm soát chặt chẽ của chúng ta. Đừng lặp lại sai lầm phạm với cha Andrei: chúng ta thả con chồn ra, vậy lần này đừng ngăn cản nó đuổi theo con mồi. Nếu ông ta xác định được vị trí của bức thư, chúng ta hành động, rất nhanh chóng. Cha Nil làm việc cho chúng ta…

      Ông bị tông đồ ngắt lời, chiếc áo lễ trắng giấu nổi được căn bệnh béo phì ở người này.

      – Phần lớn thời gian họ ở kho sách Vatican: chúng ta có phương tiện nào để kiểm soát được những điều họ trong khu vực chiến lược này?

      Hội trưởng là người duy nhất biết rằng tông đồ này là thành viên cao cấp trong Cơ quan truyền bá đức tin, trong những cơ quan tình báo hiệu quả nhất thế giới. Ông trả lời với vẻ tôn trọng: người này nắm được tất cả các thông tin thu thập được năm châu lục, cho đến từng xứ đạo nhất ở nông thôn.

      – Hôm qua, người trong số chúng ta đến thăm cha Breczinsky, để nhắc nhở ông ta số điều. Có vẻ ông ta hiểu. Tôi nghĩ chúng ta nhanh chóng xác định được khả năng của cha Nil trong việc tìm thấy bức thư. Bây giờ chúng ta chuyển sang phần thể thức của cuộc họp.

      Với trợ giúp của hai tông đồ, ông cho trượt tấm bảng gỗ sang bên, và trân trọng nhấc chiếc hộp đặt giá giữa lên. Trước mặt Mười tông đồ bất động, ông đặt nó lên bàn rồi nghiêng mình thấp.

      – Thứ sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, quan chưởng ấn Guillaume de Nogaret bắt thượng tế của dòng Đền là Jacques de Molay và trăm ba mươi tám đạo hữu của ông ta tại đền ở Paris. Họ bị giam trong những hầm ngầm và bị hỏi cung, tra tấn liên tục. Cùng ngày hôm đó, toàn nước Pháp, hầu hết các thành viên của dòng Đền bị bắt và vô hiệu hóa: cộng đồng theo đạo Cơ Đốc được cứu vớt. Hôm nay, theo quy định, chúng ta kỷ niệm ngày thứ Sáu ngày 13 này, ngày trở thành ngày tiền định toàn thế giới.

      Rồi ông cúi xuống, mở chiếc hộp ra. Cha Nil tìm được hầu hết các dấu vết mà bức thư của tông đồ thứ mười ba để lại trong Lịch sử, nhưng dấu vết này hẳn ông ta để tuột mất. Ông lùi lại bước.

      – Các em, xin mời thực nghi lễ.

      Các tông đồ đứng dậy, rồi từng người tiến đến gần để hôn lên chiếc nhẫn của hội trưởng, sau đó là vật đựng trong hộp.

      Khi đến lượt mình, Antonio đứng bất động lát bàn: được đặt sơ sài chiếc gối con bằng nhung đỏ, khối vàng tự nhiên ánh lên nhè . Nó rất nhẵn và mang hình giọt nước mắt.

      “Thứ còn lại từ kho báu của các Hiệp sĩ dòng Đền!”

      nghiêng mình, lồng mặt mình vào trong hộp và đặt môi lên giọt lệ vàng. cảm giác nó vẫn còn cháy bỏng, và cảnh tượng kinh hoàng ra sau đôi mắt nhắm lại của .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      63.

      Cha Breczinsky đón họ với nụ cười nhợt nhạt, rồi dẫn họ đến bàn làm việc mà lời nào. Sau khi gật đầu ra hiệu, ông vào văn phòng mình và để cửa mở hé.

      Chìm đắm trong phát mới của mình, cha Nil để ý đến thái độ dè dặt của ông. “S.C.V., mã số của Vatican. Đây là trong những thư viện lớn nhất thế giới! Tìm cuốn sách trong đó: quả nhiệm vụ bất khả thi.”

      Ông làm việc như cái máy trong vài phút, rồi bỗng thở mạnh và quay sang Leeland.

      – Rembert, cậu có thể làm việc mình lát được ? Breczinsky là người duy nhất có thể giúp tớ tìm xem mã số S.C.V. mà cha Andrei để lại trong sổ tay của ông ấy ứng với cái gì. Tớ hỏi ông ấy.

      bóng đen lướt qua khuôn mặt tu sĩ người Mỹ, ông thầm :

      – Tớ xin cậu, hãy nhớ lại điều tớ với cậu: ở đây, cậu đừng tin tưởng bất cứ ai.

      Cha Nil gì: “Tớ biết những điều mà cậu biết.” Ông tháo găng và gõ vào cánh cửa văn phòng của viên thủ thư.

      Breczinsky ngồi bất động trước màn hình vi tính tắt, hai tay đặt nằm bàn.

      – Cha ạ, hôm trước cha là cha sẵn sàng giúp tôi. Tôi có thể nhờ cha việc ?

      Tu sĩ người Ba Lan nhìn ông gì, nét mặt hoảng hốt. Rồi ông cúi xuống nhìn vào đôi bàn tay, và bằng giọng trầm đục, như với chính mình, như thể cha Nil có ở đó :

      – Cha tôi bị giết chết vào cuối năm 1940, tôi biết mặt ông. Mẹ tôi kể lại: buổi sáng, sĩ quan cao cấp thuộc quân đội Wehrmacht đến tìm tất cả đàn ông trong làng, là để làm công việc trong rừng. Cha tôi bao giờ quay trở lại, còn mẹ tôi chết khi tôi sáu tuổi. người họ ở Cracovie đón tôi về nhà, tôi là đứa trẻ bơ vơ sau chiến tranh và tôi thể được nữa. Cha xứ trẻ của xứ đạo bên cạnh thương xót đứa trẻ câm: ông đón tôi về ở cùng ông, giúp tôi lấy lại niềm vui sống. Rồi ngày, ông ấy làm dấu thánh lên trán, lên môi và lên tim tôi. Ngày hôm sau, lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi . Sau đó ông ấy cho tôi vào trường dòng trong địa phận Cracovie nơi ông làm Giám mục. Tôi nợ ông mọi thứ, ông là cha của tâm hồn tôi.

      – Thế ông ấy tên là gì ?

      – Karol Wojtyla. Ông là Giáo hoàng nay. Vị Giáo hoàng mà tôi phụng với tất cả sức lực của mình.

      Cuối cùng ông ngước mắt lên và nhìn chăm chăm vào mắt cha Nil.

      – Cha là tu sĩ chân chính, cha Nil ạ, giống như cha Andrei: các cha sống trong thế giới khác. Tại Vatican, có mạng lưới được dệt nên xung quanh Giáo hoàng, bởi những kẻ trục lợi từ việc ngài biết được tất cả những điều chúng làm nhân danh ngài. Tại Ba Lan, Karol Wojityla chưa bao giờ biết đến chuyện gì tương tự thế: ở đó, giới tăng lữ hoàn toàn đoàn kết, chống lại kẻ thù Xô Viết chung. Mỗi người đều đặt vào người khác niềm tin mù quáng, Giáo hội Ba Lan có lẽ tồn tại được nếu có những thủ đoạn trong nội bộ. Chính với tinh thần này mà Giáo hoàng giao phó các trách nhiệm của ngài cho những người như Hồng y Catzinger. Và tôi, tôi là nhân chứng thầm lặng của rất nhiều điều.

      Ông cố gắng đứng lên.

      – Tôi giúp cha, giống như tôi giúp cha Andrei. Nhưng tôi làm việc rất mạo hiểm: hãy thề với tôi là cha tìm cách hại Giáo hoàng.

      Cha Nil trả lời nhàng :

      – Tôi chỉ là tu sĩ, cha ạ, gì khiến tôi quan tâm ngoài khuôn mặt và nhân thân của Jesus. Chính trị và các phong tục của Vatican hoàn toàn xa lạ đối với tôi, tôi liên quan gì đến Hồng y Catzinger, ông ta biết gì về công việc của tôi. Cũng như cha Andrei, tôi là con người của .

      – Tôi tin cha: Giáo hoàng cũng vậy, ngài là con người của . Tôi có thể làm gì cho cha ?

      Cha Nil đưa ra cuốn sổ tay của cha Andrei.

      – Trong thời gian ở Roma, cha Andrei tra cứu cuốn sách mà ông ấy ghi lại mã số ở đây: nó có lên điều gì với cha ?

      Breczinsky chăm chú xem xét trang giấy trong cuốn sổ, rồi ngẩng đầu lên.

      – Tất nhiên, đây là mã số thuộc kho sách này. Nó chỉ toàn bộ kệ sách nơi cất giữ biên bản thẩm tra các Hiệp sĩ dòng Đền. Khi đến đây, cha Andrei hỏi tôi xem có thể xem được , mặc dù ông ấy có giấy phép. Cha theo tôi.

      Họ im lặng qua phía trước chiếc bàn nơi Leeland cúi người bản thảo và thèm ngẩng lên. Đến căn phòng thứ ba, Breczisky ngoặt sang trái và dẫn cha Nil đến trước kệ sách đặt trong khu được gia cố.

      – Ở đây – Ông chỉ vào những giá sách đặt dọc theo tường – cha thấy các văn bản của Tòa án dị giáo liên quan đến vụ các Hiệp sĩ dòng Đền, các văn bản gốc. Tôi có thể với cha rằng cha Andrei dừng rất lâu các biên bản thẩm tra Hiệp sĩ Esquieu de Floyran do Guillaume de Nogaret thực , và thư từ trao đổi của Philippe le Bel, chính tôi xếp lại chúng vào đúng chỗ sau khi ông ấy . Tôi hy vọng cha làm việc nhanh như ông ấy: tôi để cha ở đây trong vòng hai giờ. Và cha nhớ cho: cha chưa bao giờ đến khu vực này của kho sách.

      Ông tránh như cái bóng. Trong cái xó vắng vẻ này, chỉ còn nghe thấy tiếng máy điều hòa nhiệt độ kêu ro ro. Khoảng mười chiếc hộp giấy xếp thành hàng, được đánh số thứ tự. Trong hộp, trang giấy mà cha Andrei tìm thấy do chứng thực viên của Tòa án dị giáo ghi lại trước mặt tù nhân bị tra tấn đến kiệt sức, có lẽ có dấu vết của tông đồ thứ mười ba.

      Ông cả quyết kéo chiếc hộp đầu tiên: Lời thú nhận của đạo hữu Esquieu de Floyran, Hiệp sĩ vùng Béziers, do tôi, Guillaume de Paris, đại diện cho vua Phillippe le Bel và Quan tòa Tòa án dị giáo Pháp, ghi lại với diện của Đức ông Guillaume de Nogaret
      64.

      Bờ biển Chết, tháng Ba năm 1149

      – Cố gắng thêm chút nữa, Peter, chúng bám gót chúng ta.

      Esquieu de Floyran ôm ngang lưng người đồng hành của mình. Họ ở dưới chân vách núi dốc đứng do những đám đá kết thành, đó có những đường mòn quanh co do bầy dê lại tạo nên. Thấp thoáng có những cái lỗ màu đen: lối vào các hang động tự nhiên nhô ra phía khoảng .

      Từ khi gặp nhau ở Vézelay ba năm trước đây, hai người rời nhau ra nữa. Hừng hực nhiệt huyết sau khi nghe bài thuyết giáo của Thánh Bernard, họ khoác lên người chiếc áo lễ màu trắng có chữ thập đỏ và gia nhập cuộc Thập Tự Chinh lần thứ hai đến Palestine. Ở đó, trong dải Gaza, các Hiệp sĩ rơi vào bẫy của những người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc đế chế Seldjoukide. Esquieu muốn thoát khỏi chiến lũy: dẫn đầu đoàn khoảng mười lăm kỵ sĩ, giữa ban ngày vượt ra ngoài hòng đánh lạc hướng, và đương nhiên bị số quân địch vây hãm đuổi theo. đường chạy về phía Đông, những người đồng hành của lần lượt gục ngã. Bên cạnh chỉ còn lại Peter de Montbrison, người bạn trung thành

      Đến bên bờ biển Chết, ngựa của họ quỵ ngã. Hai Hiệp sĩ nhảy qua bức tường gỗ, và vào vùng đổ nát vẫn còn mang dấu vết của trận cháy khủng khiếp. Họ chạy qua hồ chứa nước lớn đào trong đá, rồi dọc theo những con kênh dẫn nước tưới đổ về phía vách đá. Đó là lối thoát của họ

      Đúng lúc họ ra khỏi vùng được cây che phủ, Peter thét lên tiếng rồi ngã xuống. Khi người đồng hành của cúi xuống, mũi tên xuyên qua bụng , ở chỗ thắt lưng.

      – Để mặc tôi, Esquieu, tôi bị thương rồi!

      Để mặc rơi vào tay chúng ư? bao giờ! Chúng ta trốn trong vách đá này, và thoát được nhờ bóng đêm. Có ốc đảo ngay gần đây, ốc đảo Ein Feshka: đó là con đường về phía Tây, con đường thoát. hãy dựa vào tôi, đây phải là mũi tên đầu tiên bị trúng: lên kia chúng ta rút nó ra, và gặp lại nước Pháp cũng như đội quân của

      Những lời lẽ sục sôi của Thánh Bernard vẫn văng vẳng bên tai : “Các kỵ sĩ của Christ dâng hiến cái chết cách bình yên. Nếu ta chết, là tốt cho ta, nếu ta giết người, đó là vì Christ.”[[37]]. Nhưng lúc này, điều cần nhất là phải thoát khỏi nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ điên cuồng

      Allahou Akbar! Tiếng hét của chúng ở rất gần rồi. “Peter thể trụ được nữa. Chúa ơi, hãy cứu chúng con!”

      Người nọ dìu người kia, họ lách vào trong vách đá.

      Họ dừng lại bên lối vào hang đá, và Esquieu đưa mắt liếc nhìn xuống phía dưới: những kẻ đuổi theo hình như để mất dấu họ, và bàn bạc với nhau. Từ nơi họ đứng, có thể nhìn thấy chỉ những đống đổ nát cháy đen họ vừa qua, mà cả vịnh thuộc biển Chết ánh lên dưới mặt trời buổi sáng

      Bên phải , Peter tựa mình vào vách đá, tái mét

      phải nằm xuống, và tôi rút mũi tên ra. Lại đây, chúng ta phải lách vào lỗ hổng này, rồi chờ đến đêm

      Lối vào hẹp đến nỗi họ phải đưa chân vào trước. Esquieu đỡ người đồng hành rên rỉ, người đầy máu. Kỳ lạ là bên trong hang khá sáng. đặt người bị thương nằm xuống bên trái lối vào, đầu gối lên thứ giống như là cái bát bằng đất nung nhô lên cát. Rồi bằng động tác dứt khoát, rút mũi tên ra: Peter thét lên tiếng và bất tỉnh

      “Mũi tên xuyên từ bên này sang bên kia bụng, máu chảy nhiều quá: ấy hỏng rồi”

      nốt những giọt nước cuối cùng trong mình vào môi người hấp hối. Rồi xem xét thung lũng phía dưới: bọn người Thổ vẫn ở đó, phải chờ đến lúc chúng khỏi. Nhưng có lẽ Peter chết trước lúc đó

      Là người có học thức uyên bác, Esquieu tiếp nhận đất của mình tu viện của các tu sĩ da trắng thuộc dòng tu mới do Thánh Bernard khởi lập. dành thời gian rỗi để đọc các bản thảo tập hợp trong phòng viết của họ, và nghiên cứu y thuật của Gallien trong văn bản tiếng Hy Lạp: Peter vẫn chảy máu, máu tụ lại dưới thân thể thành vũng sẫm màu. Có lẽ chỉ còn sống được khoảng giờ nữa, hoặc ít hơn thế

      bối rối đưa mắt nhìn xuống nền đất trong hang. Dọc theo vách bên trái, những chiếc bát bằng đất nung nhô lên khỏi cát. ngẫu nhiên nhấc chiếc thứ ba từ cửa vào lên: đó là chiếc vại bằng đất, vẫn còn nguyên vẹn. Bên trong, nhìn thấy có cuộn vải dày được phủ dầu. Sát thành vại có cuộn hơn được xếp riêng ra. nhấc nó ra chút khó khăn. Đó là mảnh giấy da còn tốt, được buộc lại chỉ bằng sợi dây lanh mà dễ dàng tháo ra

      liếc nhìn Peter: này nằm bất động và thở cách khó nhọc, gương mặt mang màu xỉn của những xác chết. “Bạn tội nghiệp của tôi… chết vùng đất xa lạ thế này!”

      giở mảnh giấy da ra. Chữ viết đó là tiếng Hy Lạp, vẫn còn rất ràng. lối viết thanh lịch, và dễ dàng nhận ra các từ ngữ: ngôn ngữ của các tông đồ

      lại gần lối ra, rồi bắt đầu đọc. Mắt mở to, và tay bắt đầu run nhè

      “Ta, môn đồ cưng của Jessus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…” Tác giả rằng vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng trong căn phòng lớn, họ phải có mười hai, mà là mười ba tông đồ, và rằng tông đồ thứ mười ba chính là ông ta. Bằng những từ ngữ trang trọng, ông ta phản đối việc thần thánh hóa Jesus xứ Nazareth. Và khẳng định rằng Jesus sống lại, mà sau khi chết được chuyển đến nấm mồ, nấm mồ đó nằm ở…

      – Peter, nhìn này! bức thư của tông đồ ở thời Jesus, bức thư của trong số các tông đồ của Người…. Peter!

      Đầu của bạn khẽ lệch ra khỏi chiếc bắt bằng đất úp chiếc vại đầu tiên trong hang. Bạn chết

      giờ sau, Esquieu đưa ra quyết định: thân thể Peter ở lại đây để chờ đến thời điểm phục sinh cuối cùng. Nhưng bức thư này của tông đồ của Jesus, bức thư mà chưa từng được nghe đến, phải tiết lộ nó với thế giới Cơ Đốc. Mang mảnh giấy da này theo là quá mạo hiểm: bị thời gian làm cho chai cứng, có thể nó nhanh chóng bị vỡ vụn ra. Và liệu tối nay có thoát khỏi tay đám người Hồi Giáo ? có sống sót để đến được Gaza an toàn ? Bản gốc của bức thư ở lại hang đá này, nhưng chép ra bản. Ngay lập tức

      kính cẩn lật xác bạn, cởi áo choàng và xé mảnh lớn từ áo sơ mi của bạn. Rồi cẩn thận gọt mẩu gỗ, đặt mảnh vải lên phiến đá phẳng. Nhúng ngòi bút tự tạo vào vũng máu thấm đỏ nền đất. Và bắt đầu chép lại bức thư của tông đồ, như vẫn thường nhìn thấy mọi người làm trong phòng viết của tu viện

      Mặt trời lặn sau vách đá Qumran. Esquieu đứng dậy: bức thư của tông đồ thứ mười ba giờ được chép lại bằng máu áo sơ mi của Peter. cuộn mảnh giấy da, buộc lại bằng sợi dây lanh và cẩn thận đặt lại vào chiếc vại thứ ba – cố gắng để nó chạm vào cuốn vải phủ dầu. Đậy lại nắp vại, cẩn thận gập bản sao vừa hoàn thành rồi luồn vào thắt lưng

      Từ cửa hang, đưa mắt nhìn xuống dưới: bọn người Thổ giảm xuống chỉ còn nửa. chỉ có mình, có lẽ thoát được chúng. phải chờ đến đêm, và chạy qua khu đồn điền của Ein Fesskha. Có lẽ thành công.

      Hai tháng sau, chếc thuyền buồm có đóng dấu chữ thập đỏ vượt qua lạch cảng Saint-Jean-d’Acre, và hướng mũi về phía Tây. Đứng mũi thuyền, kỵ sĩ dòng Đền mặc áo choàng trắng đưa mắt nhìn lần cuối về phía đất nước của Christ

      bỏ lại phía sau thi thể người bạn tốt nhất. Trong cái hang nhô ra phía Qumran có chứa hàng chục chiếc vại đựng đầy những cuộn vải lạ lùng. Ngay khi có thể, phải quay lại đó. Để lấy lại mảnh giấy da trong chiếc vại thứ ba, ở bên trái lối vào, và mang nó về Pháp, với tất cả cẩn trọng xứng đáng với tài liệu thiêng liêng như vậy

      Cái chết của Peter hẳn vô ích: bản sao bức thư của tông đồ mà chưa bao giờ có ai nghe đến, trao lại cho Giáo chủ của dòng Đền, Robert de Craon. Nội dung của nó có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới. Và chứng tỏ với mọi người rằng các Hiệp sĩ dòng Đền đúng khi bác bỏ Christ, nhưng lại say mê Jesus

      Khi đến Paris, Esquieu de Flyran cầu được gặp riêng Robert de Craon. Trước mặt ông, rút từ thắt lưng ra cuộn vải phủ đầy chữ màu hạt dẻ sẫm, và đưa nó cho Giáo chủ dòng Đền. người thứ hai giữ chức vị này

      lời, Giáo chủ trải tấm vải ra. Vẫn im lặng, ông đọc văn bản được viết lại rất ràng. Ông nghiêm khắc bắt Esquieu phải thề giữ bí mật, máu của người em và cũng là bạn của , và để ra về chỉ với cái gật đầu

      Robert de Craon ở mình cả tối và đêm trước mặt bàn đó có mảnh vải phủ đầy máu người em của ông. Vết máu tạo nên những dòng chữ thể tin nổi, những dòng chữ có khả năng gây đảo lộn nhất mà ông từng đọc

      Ngày hôm sau, vẻ mặt nghiêm trang, ông cho gửi đến các Hiệp sĩ dòng Đền khắp châu u lệnh triệu tập bất thường. ai trong số các em thuộc hội đồng thầy tu, quan án hoặc trưởng tu viện, từ những người được lấy tên đặt cho các pháo đài nổi tiếng cho đến những quân lộc nhất, được vắng mặt trong cuộc họp toàn thể này

      ai.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      65.

      Khi quay lại gặp người bạn vẫn cúi người bên bàn trong phòng làm việc ở kho sách, mặt cha Nil kín bưng. Leeland ngẩng đầu khỏi bản thảo.

      – Thế nào?

      phải ở đây. Về đường Aurelia

      Roma chuẩn bị mừng đón Noel. Theo truyền thống riêng của Thành phố vĩnh hằng, trong thời gian này, mỗi nhà thờ đều vun đắp thể diện cho mình bằng cách trưng bày presepio, nghĩa là máng cỏ được trang trí bằng tất cả những gì mà trí tưởng tượng kỳ cục có thể sáng tạo ra. Người dân Roma dành những buổi chiều tháng Mười hai của mình để lang thang từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, so sánh tác phẩm trưng bày của từng nhà thờ rồi vung mạnh tay bình luận.

      thể, cha Nil nghĩ khi nhìn các gia đình với đầy đủ thành viên khuất vào trong những cổng nhà thờ, những đôi mắt mở to vì hạnh phúc của trẻ em, thể với họ rằng tất cả những điều này đều dựa lời dối có từ lâu đời. Họ cần có vị Chúa theo tưởng tượng của họ, vị Chúa trẻ con. Giáo hội chỉ có thể bảo vệ bí mật của mình: Nogaret đúng”

      Hai người lặng lẽ bước . Về đến phòng, họ tới ngồi bên đàn piano, và Leeland mang ra chai bourbon. Ông rót cho cha Nil cốc đầy, ông này làm cử chỉ ngăn lại.

      – Nào, Nil, đồ uống của đất nước chúng tớ mang tên các vị vua Pháp. Uống vài ngụm giúp cậu kể cho tớ nghe cậu làm gì mình cả sáng nay, trong khu vực thuộc kho sách Vatican mà về nguyên tắc cậu có quyền tiếp cận…

      Cha Nil đáp lại lời bóng gió đó: lần đầu tiên, có thể ông giấu bạn mình điều gì đó. Những tâm thầm kín của Breczinsky, gương mặt hoảng sợ của ông ấy có liên quan gì đến việc tìm kiếm của ông: ông cảm thấy mình là người nắm giữ bí mật mà có lẽ ông chia sẻ với bất cứ ai. Ông uống ngụm rượu, nhăn mặt và bật ho

      Tớ biết bắt đầu từ đâu: cậu phải là sử gia, cậu nghiên cứu các biên bản hỏi cung của Tòa án dị giáo mà tớ vừa đọc. Tớ tìm thấy những văn bản cha Andrei tham khảo khi đến kho sách, và ngay lập tức chúng với tớ: chuyện này vừa ràng, lại vừa mù mờ

      – Cậu có tìm thấy thứ gì liên quan đến tông đồ thứ mười ba ?

      – Những từ “tông đồ thứ mười ba” hoặc “bức thư của tông đồ” xuất trong bất kỳ biên bản hỏi cung nào. Nhưng giờ đây khi tớ biết thứ mà chúng ta tìm, có hai chi tiết khiến tớ chú ý, và tớ hiểu. Philippe le Bel đích thân soạn thảo bản luận tội các Hiệp sĩ, trong bức thư gửi đến các cảnh sát trưởng trong vương quốc vào ngày 14 tháng Chín năm 1307, tháng trước cuộc tổng vây ráp tất cả các thành viên dòng Đền. Bức thư này được lưu trữ trong kho sách. Sáng nay tớ chép lại nó

      Ông cúi xuống và lấy từ trong túi đeo ra tờ giấy

      – Tớ đọc cho cậu nghe lời luận tội đầu tiên: “Đây là điều cay đắng, điều tệ hại, rất kinh khủng, tội ác đáng khinh…” Và đó là điều gì? “Rằng các Hiệp sĩ, khi gia nhập dòng tu của họ, phủ nhận ba lần Đấng Christ và nhổ ngần ấy lần vào mặt Người [[38]]”

      – Ồ ồ!

      – Sau đó, kể từ cuộc hỏi cung Esquieu de Floyran lần đầu tiên vào hôm sau ngày thứ Sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, cho đến cuộc hỏi cung Jacques de Molay lần cuối cùng giàn thiêu vào ngày 19 tháng Ba năm 1314, câu hỏi ngừng được đặt ra: “Có đúng là các người phủ nhận Christ ?” Tất cả các Hiệp sĩ, dù bị tra tấn dã man đến thế nào, đều thừa nhận là đúng, họ bác bỏ Christ. Nhưng họ bác bỏ Jesus, và rằng họ được gia nhập quân đội nhân danh chính Jesus

      – Thế sao?

      đó chính xác là điều mà những người Nazareth từng khẳng định theo như Origène tra cứu được trong các văn tự ở Alexandria. Chúng ta biết rằng đó là lời dạy của thầy họ, tông đồ thứ mười ba: nếu chỉ mình bức thư của ông ấy có đủ khả năng phá hủy Giáo hội, nếu nó phải bị hủy bỏ ở khắp nơi theo như cầu trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, chỉ bởi nó phủ nhận việc thánh hóa Jesus – rất nhiều người khác sau ông ấy làm điều này – mà còn vì, theo Origène, nó chứa đựng bằng chứng rằng Người phải là Chúa

      – Liệu các Hiệp sĩ có biết về bức thư bị mất của tông đồ thứ mười ba ?

      – Tớ biết, nhưng tớ nhận thấy rằng vào thế kỷ XIV, nhiều Hiệp sĩ bị tra tấn và giết chết vì dám tuyên bố giáo lý giống như người Nazareth, và họ nhấn mạnh lựa chọn của mình bằng hành động có tính nghi lễ: nhổ vào Christ. Có thể có giả thiết thứ hai – cha Nil đưa tay xoa trán – những người này có quan hệ chặt chẽ với người Hồi giáo trong thời gian dài. Việc từ chối vị thánh khác Allah ngừng được nhắc lại trong kinh Coran, và cậu đừng quên rằng chính Muhammad cũng thuộc và nhiều lần trích dẫn lời của những người Nazareth…

      – Điều đó có nghĩa là gì? Cậu xáo trộn hết mọi thứ!

      , tớ liên hệ những yếu tố tản mát lại với nhau. Người ta thường rằng các Hiệp sĩ dòng Đền bị ảnh hưởng của đạo Hồi: có thể thế, nhưng việc họ bác bỏ thiên chất của Jesus bắt nguồn từ kinh Coran. Còn nghiêm trọng hơn thế: thông qua các biên bản hỏi cung, số người thú nhận rằng theo họ, quyền lực của Peter và Mười hai tông đồ được chuyển sang con người của Giáo chủ dòng Đền.

      – Giáo chủ, kiểu như người kế vị tông đồ thứ mười ba?

      – Họ thể điều đó qua những lời này, nhưng khẳng định rằng việc họ bác bỏ Christ dựa con người Giáo chủ của họ, người mà họ coi là có quyền lực cao hơn cả quyền lực của Mười hai tông đồ và Giáo hội. Mọi chuyện xảy ra cứ như là có kế tục của giáo lý tông đồ bí mật được truyền lại qua nhiều thế kỷ, song song với giáo lý của Peter. Bắt nguồn từ tông đồ thứ mười ba, sau đó dựa những người Nazareth, rồi khi họ bị tiêu diệt dựa bức thư bí này.

      Cha Nil uống thêm ngụm

      – Philippe le Bel đưa ra lời kết tội nghiêm trọng thứ hai chống lại các Hiệp sĩ: “Khi gia nhập dòng tu, họ hôn người đón nhận họ – Giáo chủ – đầu tiên là vào phần cuối lưng, sau đó vào bụng. [[39]]

      Leeland phá lên cười:

      – Gosh! Templar queers! [[40]]

      , các Hiệp sĩ phải là người đồng tính, họ thề giữ đức hạnh và mọi thứ đều cho thấy rằng họ tôn trọng lời thề đó. Đó là cử chỉ mang tính nghi lễ trong buổi lễ tôn giáo trang trọng và công khai. Cử chỉ này cho phép Philippe le Bel kết tội họ là nhiễm thói đồng tính, vì ông ta hiểu ý nghĩa của nó – trong khi thực tế chắc chắn nó mang ý nghĩa biểu tượng rất cao.

      – Hôn mông của Giáo chủ, sau đó vòng lại và hôn bụng ông ta: đó mà là nghi lễ mang tính biểu tượng trong nhà thờ à?

      nghi lễ trang trọng mà họ coi là có tầm quan trọng lớn. Vậy cử chỉ này có ý nghĩa gì đối với họ? Lúc đầu tớ nghĩ rằng họ thể lòng tôn kính đối với các chakra của Giáo chủ, những nơi giao nhau của năng lực tinh thần mà ngày nay người Hinđu cho là nằm đúng ở bụng và… mông, theo như cậu . Nhưng các Hiệp sĩ biết triết lý Hinđu. Vậy nên tớ có cách giải thích nào ngoại trừ cách này: đây là cử chỉ tỏ lòng tôn kính đối với con người Giáo chủ, vị tông đồ mà đối với họ quyền lực còn vượt cao hơn quyền lực của Peter và những người kế cận ông. Qua đó, họ thể lòng gắn bó với kế tục khác, kế tục tông đồ thứ mười ba. Nhưng tại sao lại hôn vào đúng vị trí này, ở phía dưới lưng? Tớ biết

      Đêm đó, cha Nil tài nào ngủ được. Những câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu ông. Cử chỉ báng bổ đó, cử chỉ khiến ký ức về các Hiệp sĩ dòng Đền mãi mãi bị vấy bẩn, có ý nghĩa gì? Và nhất là mối quan hệ giữa cử chỉ này với bức thư của tông đồ thứ mười ba là gì?

      lần nữa, ông trở mình giường, làm tấm đệm lò xo kêu lên kèn kẹt. Ngày mai, ông nghe buổi hòa nhạc. giải khuây đúng lúc.
      66.

      Paris, ngày 18 tháng Ba năm 1314

      – Lần cuối cùng, chúng ta cầu người hãy thú nhận: có phải ngươi bác bỏ thiên chất của Christ? Ngươi có chịu cho chúng ta biết nghi lễ báng bổ mà các người thực khi gia nhập Dòng tu có ý nghĩa gì ?

      Ở mũi đảo của Thành phố, Giáo chủ của dòng Đền Jacques de Molay bị kéo lên đống củi. Hai tay bị trói bên dưới chiếc áo choàng trắng có in hình chữ thập màu đỏ, ông đối diện với Guillaume de Nogaret, quan chưởng ấn và cũng là người hầu cận trung thành của vua Philippe IV le Bel. Dân chúng Paris xúm đông hai bờ sông Seine: liệu vào phút cuối cùng, Giáo chủ dòng Đền có rút lại những lời , khiến những kẻ hiếu kỳ bị hụt mất cảnh tượng tuyệt hảo ? Viên đao phủ, hai chân giạng ra, tay phải cầm bó đuốc cháy rực, chỉ còn phải làm cử chỉ nữa thôi

      Jacques de Molay nhắm mắt lại lát, và nhớ lại toàn bộ ký ức về Dòng tu của ông. Chuyện xảy ra trước đó gần hai thế kỷ, vào năm 1149. xa giàn thiêu nơi ông sắp chết

      Hôm sau ngày kỵ sĩ Esquieu de Floyran đến Paris, Giáo chủ Robert de Craon triệu tập gấp cuộc họp bất thường của dòng Đền.

      Trước đông đủ các em, ông đọc to bức thư của tông đồ thứ mười ba, mà bản sao vừa đến được tay ông cách thần kỳ. Nó đưa ra bằng chứng thể chối cãi rằng Jesus phải là Chúa. Thân thể của Người chưa bao giờ sống lại, mà được những người Esseni chôn cất ở đâu đó trong tận cùng sa mạc Idumea. Tác giả bức thư này rằng ông bác bỏ lời chứng của Mười hai tông đồ và quyền lực của Peter, người bị kết tội là chấp nhận việc thần thánh hóa Jesus để chinh phục quyền lực.

      Sững sờ, các Hiệp sĩ nghe ông đọc trong bầu trông khí im lặng chết chóc. người trong số họ đứng dậy và bằng giọng trầm đục:

      – Các em, tất cả chúng ta ở đây sống nhiều năm gần các kẻ thù Hồi giáo. Ai cũng biết rằng kinh Coran của họ bác bỏ thiên chất của Jesus, với những lời lẽ hoàn toàn giống với bức thư của tông đồ này, và rằng đó là nguyên nhân chính khiến họ chống đối người theo đạo Cơ Đốc kịch liệt đến thế. Phải cho cộng đồng Cơ Đốc giáo biết về bức thư này, để cuối cùng nhân thân thực của Jesus được thừa nhận: điều đó chấm dứt vĩnh viễn cuộc chiến thảm khốc giữa những người kế tục Muhammad và những người kế tục Peter. Chỉ có như vậy những người thống nhất tuyên bố rằng Jesus, con trai của Joseph, phải là vị thần mà là con người đặc biệt, người dẫn đường có thần cảm, mới có thể cùng nhau sống hòa bình!

      Robert de Craon cẩn thận cân nhắc từng từ để trả lời: bao giờ, ông với các em tụ họp, bao giờ Giáo hội có thể từ bỏ giáo lý căn bản của họ, nguồn gốc của quyền lực toàn cầu. Ông có dự định khác, dự định này được chấp thuận sau cuộc thảo luận dài.

      Trong các thập kỷ tiếp theo, của cải của các Hiệp sĩ tăng lên cách kỳ lạ. Chỉ cần Giáo chủ đến gặp vị vua hoặc Giám mục, là lập tức những khoản hiến tặng bằng đất đai hoặc kim loại quý đổ dồn về. Đó là vì những người kế tục Robert de Craon biết mang lại giá trị cho lập luận thể chối cãi.

      – Hãy cho chúng tôi phương tiện để hoàn thành sứ mệnh của mình, họ , hoặc chúng tôi công bố văn bản của tông đồ mà chúng tôi sở hữu, nó tiêu diệt các ngài thông qua việc phá hủy nền Cơ Đốc giáo, thứ mang lại cho các ngài quyền lực cũng như tất cả của cải

      Các vị vua, thậm chí cả các Giáo hoàng, đều chi trả, và các đoàn Hiệp sĩ hùng mạnh mọc lên ở khắp nơi. thế kỷ sau, các Hiệp sĩ đảm nhận vai trò ngân hàng cho toàn Châu u: bức thư của tông đồ thứ mười ba trở thành cửa van của dòng sông vàng chảy vào két của các Hiệp sĩ.

      Nhưng nguồn gốc của giàu có đến thế, vật khiến tất cả mọi người mơ ước, có nguy cơ bị đánh cắp: cần cất giữ mảnh vải mỏng manh này ở nơi chắc chắn. Con người của Giáo chủ, người kế tục của tông đồ thứ mười ba và cũng như ông, là người chống đối lại nền Cơ Đốc giáo do Peter xây dựng nên, con người thể xác của ông trở thành thứ thể chạm tới. trong số họ nhớ đến cách các tù nhân phương Đông giấu tiền: để tiền trong ống kim loại rồi nhét ống kim loại đó vào bụng, nhờ đó tiền của họ bị đánh cắp. Ông liền cho làm cái ống bằng vàng, đặt bản sao bức thư được cuộn cẩn thận vào đó, rồi cho vào trong người, từ đó bức thư nằm sâu trong chính con người ông, giờ đây trở nên cao quý gấp đôi.

      Để ai nghi ngờ về bí mật liên quan đến bức thư, phải làm sao để bất cứ dấu vết nào, dù là nhất, đều được xóa sạch. Quan án của quân lộc Patay nghe đến bản khắc đặt tại nhà thờ Germigny, nghĩa là nằm địa phận của ông. tu sĩ uyên bác rằng bản khắc này mang ý nghĩa kín đáo, trong cách thức đặc biệt mà văn bản của Tín điều Nicée được chép lại. Ông ta có thể giải được mật mã này.

      Quan án cho gọi tu sĩ này đến, và giam mình cùng với ông ta trong nhà thờ Germigny. Khi ra ngoài, ông có vẻ nghiêm trọng, và cho áp giải ngay tu sĩ đó đến quân lộc của mình ở Patay

      Vị tu sĩ uyên bác đó chết vào ngày hôm sau. Phiến đá ngay lập tức bị phủ lớp vữa, và bản khắc kỳ lạ đó biến mất khỏi ánh mắt cũng như trí nhớ của người dân

      Từ đó trở , nghi lễ gia nhập dòng tu của các Hiệp sĩ dòng đền có thêm cử chỉ kỳ quặc mà những người tập tu phải kính cẩn thực : trong lễ mixa và trước khi được tiếp nhận chiếc áo choàng trắng, mỗi người phải quỳ xuống trước Giáo chủ và hôn lên đầu tiên là phần dưới lưng, sau đó là bụng ông.

      Người em mới đó hề biết rằng mình tỏ lòng sùng kính đối với bức thư của tông đồ thứ mười ba, bức thư mà Giáo hội bị nó đe dọa căm thù tầm nã khắp nơi. Và nằm trong lòng của Giáo chủ, người chỉ lấy nó ra khỏi chiếc ống quý giá để đe dọa nhằm đạt được thêm nhiều đất, nhiều vàng hơn nữa.

      Kho báu của các Hiệp sĩ được cất giữ trong hầm của rất nhiều quân lộc. Nhưng nguồn gốc của kho báu này, nguồn gốc thể cạn kiệt, được các Giáo chủ truyền lại cho người kế nhiệm, đến lượt người này lại bảo vệ nó bằng chính thân thể mình.

      giàn thiêu, Jacques de Molay ngẩng đầu lên. Chúng tra tấn ông bằng nước, bằng lửa và những lần kéo giãn thân người, nhưng chúng lục soát bụng ông. Chỉ cần co người lại, ông có thể cảm nhận được từ sâu kín con người mình diện của chiếc ống bằng vàng: bức thư biến mất cùng ông, vũ khí duy nhất của các Hiệp sĩ chống lại các vị vua và giáo sĩ cấp cao của Giáo hội, Giáo hội ấy còn xứng đáng với Jesus. Bằng giọng mạnh mẽ đến bất ngờ, ông trả lời Guillaume de Nogaret:

      – Chính vì bị tra tấn, số em của ta thừa nhận những điều kinh tởm mà ngươi kết tội ta. Trước trời đất, giờ đây ta thề rằng tất cả những điều ngươi vừa về những tội lỗi và hành động báng bổ của các Hiệp sĩ chỉ là vu khống. Và chúng ta đáng phải chết vì biết cách chống cự lại nỗi đau mà các quan tòa dị giáo gây ra

      Với nụ cười chiến thắng, Nogaret quay về phía nhà vua. Đứng ở ban công có mái che nhô ra bên sông Seine, Philippe giơ tay lên: ngay lúc đó viên đao phủ hạ tay xuống, châm bó đuốc cháy rừng rực vào đóng củi giàn thiêu

      Tàn lửa bốc lên đến tận tháp nhà thờ Đức Bà. Jacques de Molay vẫn còn sức để thét lên:

      – Giáo hoàng Clément, vua Philippe! Trong vòng năm nữa, ta gọi các ngươi ra trước tòa án của Chúa để nhận hình phạt dành cho chính các ngươi! Ngươi và những kẻ đến sau ngươi, các ngươi bị nguyền rủa!

      Giàn thiêu đổ sập xuống, làm những tia lửa bắn tung tóe. Sức nóng lan đến tận bờ sông Seine.

      Cuối ngày, cha xứ của nhà thờ Đức Bà đến cầu nguyện đống tro còn bốc khói của giàn thiêu. Quân cảnh rút hết, chỉ có mình, ông quỳ xuống. Rồi giật mình: trước mặt ông, giữa đống tro than vẫn còn nóng, vật sáng lên trong ánh hoàng hôn. Dùng cành cây, ông cời nó lại gần: đó là khối vàng, vàng bị chảy ra do sức nóng của giàn thiêu, rồi đông lại thành hình giọt nước mắt

      Tất cả những gì còn lại của chiếc ống có chứa bức thư của tông đồ thứ mười ba, tất cả những gì còn lại từ Giáo chủ cuối cùng của dòng Đền: tất cả những gì còn lại từ kho báu thực của các Hiệp sĩ.

      Cũng giống như nhiều người khác, cha xứ biết rằng các Hiệp sĩ vô tội, và cái chết thảm khốc của họ thực ra chính là tử vì đạo: ông kính cẩn đặt môi lên giọt lệ vàng, cảm thấy nó phải chỉ ấm mà nóng bỏng. Đó là di vật của vị thánh, ngang hàng với tất cả những vị thánh hi sinh cuộc đời mình để gìn giữ ký ức về Jesus. Ông giao nó cho phái viên của Giáo hoàng Clément, người chết sau đó năm.

      Sau cuộc phiêu lưu vòng vèo, giọt lệ vàng rơi vào tay hội trưởng của Hội Thánh Pie V. Người này hiểu được ý nghĩa của nó, phải tất cả các Hiệp sĩ dòng Đền đều chết vào đầu thế kỷ XIV: gì khó xóa bỏ hơn là ký ức.

      Vật chứng gián tiếp về cuộc nổi dậy của tông đồ thứ mười ba chống lại Giáo hội cai trị này được vị hội trưởng giữ gìn cẩn thận trong số các kho báu của Hội.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      67.

      Đại sảnh thực ra là phòng khách của dinh thự rộng lớn theo phong cách quý tộc. Cách trung tâm thành phố sôi động chỉ hai bước chân, đường Giulia mang lại cho Roma vẻ quyến rũ với những vòm cuốn phủ cây đậu tía, và vài lâu đài cổ được chuyển đổi thành khách sạn, vừa ấm cúng, sang trọng lại vừa thích hợp cho các buổi tiệc tùng

      có thể báo cho ông Barjona rằng tôi muốn gặp ông ấy ?

      Nhân viên tiếp tân, mặc bộ đồ đen tao nhã, chăm chú nhìn mặt người khách đến vào sáng sớm. người đàn ông có tuổi, tóc muối tiêu, ăn mặc xoàng xĩnh: người hâm mộ, phóng viên nước ngoài chăng? ta cắn môi

      – Đêm qua maestro [[41]] trở về rất muộn, chúng tôi bao giờ làm phiền ông ấy trước ….

      Với vẻ tự nhiên, người khách rút từ trong túi ra tờ bạc hai mươi đô la và đưa cho nhân viên lễ tân.

      – Ông ấy vui khi gặp tôi, và nếu phải vậy tôi bồi thường cho bằng này nữa. Hãy với ông ấy rằng bạn cũ trong câu lạc bộ chờ: ông ấy hiểu

      – Ari, điều gì khiến lôi tôi ra khỏi giường vào giờ này, ngay trước buổi biểu diễn? Mà trước hết, làm gì ở Roma thế? Lẽ ra phải yên bình sống cảnh hưu trí của mình ở Jaffa, và để tôi yên. Tôi còn dưới quyền nữa!

      – Chắc chắn rồi, nhưng chúng ta bao giờ rời bỏ Mossad, Lev ạ, và cậu luôn ở dưới quyền của tổ chức. Thôi nào, thư giãn ! Tôi ngang qua châu u, và nhân dịp này đến thăm cậu, vậy thôi. Đợt biểu diễn của cậu ở Roma thế nào?

      – Tốt, nhưng tối nay tôi bắt đầu với bản thứ ba của Rachmaninov, đây là tác phẩm kinh khủng và tôi cần phải tập trung. Như vậy là vẫn còn có người nhà ở châu u à?

      người Do Thái luôn có người nhà ở đâu đó. Gia đình của cậu cũng có thể là tổ chức nơi tôi huấn luyện cậu khi cậu vẫn còn là đứa trẻ. Và ở Jerusalem, mọi người lo lắng cho cậu. Điều gì khiến cậu theo tu sĩ người Pháp đó lên chuyến tàu Roma Express, sau khi đặt chỗ hết cả khoang ông ta ngồi? Ai ra lệnh cho cậu? Cậu muốn lặp lại chuyện trước đó, và lần này là mình hành động à? Có phải tôi dạy cậu hành động đơn thương độc mã thế ?

      Lev bĩu môi và cúi đầu.

      – Tôi có thời gian để báo trước cho Jerusalem, mọi chuyện xảy ra quá nhanh…

      Ari nắm tay lại và cắt lời:

      – Đừng dối, nhất là với tôi. Cậu biết rằng, từ sau tai nạn của cậu, cậu còn là mình nữa, và rằng trong nhiều năm cậu quá gần gũi với cái chết. Có những lúc cậu để mình chìm đắm trong nhu cầu về nguy hiểm, mùi vị của nó khiến cậu phấn khích giống như thứ ma túy. Thế là cậu suy nghĩ gì nữa: cậu có tưởng tượng chuyện gì xảy ra, nếu đến lượt cha Nil lại cũng bị tai nạn ?

      – Chuyện đó có thể đặt ra vấn đề lớn cho người của Vatican. Tôi căm thù họ bằng cả tâm hồn, Ari ạ: chính họ cho phép bọn phát xít buộc gia đình tôi trốn sang Argentina

      Ari dịu dàng nhìn .

      – Bây giờ phải là lúc để căm thù, mà để thực lẽ công bằng. Và việc cậu tự mình đưa ra các quyết định chính trị ở cấp độ như vậy mà đệ trình lên để cấp xem xét là tưởng tượng được, chấp nhận được. Cậu cho thấy là cậu còn đủ khả năng tự kiểm soát: chúng tôi phải bảo vệ cậu trước chính cậu. Từ nay trở , tuyệt đối cấm cậu thực bất kỳ công việc nào thực địa. Chú bé Lev, người đùa giỡn với cuộc sống của mình giống như đó là bản nhạc, lớn rồi. Giờ đây cậu nổi tiếng: hãy tiếp tục nhiệm vụ mà chúng tôi giao phó cho cậu, theo dõi Moktar AlQuarayh, và tập trung vào tu sĩ người Pháp. Hành động trực tiếp còn là việc của cậu nữa.
      68.

      Cha Nil vô cùng phấn khởi khi bước vào Nhạc viện Saint Cecilia. Lần cuối cùng ông nghe buổi hòa nhạc là ở Paris, hôm trước ngày ông vào tư viện. Cách đây lâu lắm rồi

      Khán phòng có kích thước , gần như gia đình. Tiếng trò chuyện rì rào, và lẫn trong các trang phục dạ hội thấp thoáng những chiếc áo choàng tím của vài Hồng y. Leeland chìa hai tấm giấy mời cho người mở cửa, ta dẫn họ đến hàng ghế thứ hai mươi, hơi chếch về bên trái

      – Ở đây các ông bị vướng nắp đàn piano, thưa Đức ông, ông có thể theo dõi lối diễn xuất của nghệ sĩ độc tấu.

      Họ ngồi xuống và im lặng. Từ khi đến Roma, cha Nil cảm thấy có cái gì đó bị đứt gãy giữa ông và Leeland: niềm tin tưởng hoàn toàn tuyệt đối, điều cho phép họ gần gũi nhau đến thế mặc dù xa cách về địa lý, sau ngần ấy năm trời. Dường như ông mất người bạn cuối cùng và cũng là duy nhất.

      Dàn nhạc ổn định chỗ ngồi. Đột nhiên ánh đèn trong phòng tối lại, và nhạc trưởng bước vào, sau ông là nghệ sĩ dương cầm. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm, và tu sĩ người Mỹ ghé sang cha Nil.

      – Lev Barjona nhiều lần độc tấu ở đây, khán giả biết và mến ta

      Nhạc trưởng cúi chào, còn Lev Barjone ngồi ngay vào trước đàn piano, quay đầu về phía khán phòng. Từ chỗ mình, cha Nil chỉ nhìn thấy phía bên phải gương mặt , được mớ tóc dày màu vàng hoe bao phủ. Khi nhạc trưởng trèo lên bục, nghệ sĩ dương cầm ngước mắt lên mỉm cười với ông. Rồi cúi đầu, và mọi người nghe thấy thanh run rẩy của đàn violon, khúc dạo đầu sâu lắng báo hiệu nhập cuộc của đàn piano.Vừa nghe thấy nhịp điệu lặp lặp lại như nỗi ám ảnh đó, gương mặt của nghệ sĩ dương cầm đanh lại như mặt người máy.

      Đột nhiên ý nghĩa lóe lên trong đầu cha Nil: ông nhìn thấy vẻ mặt này ở đâu rồi. Nhưng đôi tay Lev đặt lên đàn piano và chủ điểm của chương đầu tiên vang lên, lan tỏa như nỗi nhớ nhung về thế giới bị lãng quên, thế giới của niềm hạnh phúc mất kể từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Cha Nil nhắm mắt lại. m nhạc của Rachmaninov như chiếc xe trượt đưa ông lướt mặt tuyết đóng băng, rồi những nẻo đường lưu vong, đến bên cánh cửa của cái chết và bỏ rơi.

      Cuối chương thứ hai, khán phòng bị chinh phục. Leeland lại nghiêng sang phía của Nil.

      – Chương thứ ba là trong những phần khó nhất trong toàn bộ danh mục tác phẩm biểu diễn.

      Lev Barjona nét mặt rạng rỡ, nhưng chỉ chào chiếu lệ trước khán phòng đứng cả dậy, rồi biến mất vào hậu trường. Mặt hồng lên vì sung sướng, Leeland vỗ tay nhiệt liệt. Đột nhiên ông ngừng lại.

      – Tớ biết Lev, ta quay lại sân khấu, ta bao giò chơi bis. Nào, chúng ta cố gặp ta.

      Họ luồn lách giữa những khán giả sốt ruột hò hét: “Hoan hô! Hoan hô! Bis!”

      Trong lô phía trước sân khấu dành cho Vatican, Hồng y Catzinger dửng dưng vỗ tay. Ông vừa nhận được chỉ thị molto confidenziale [[42]] của Bộ Ngoại giao Vatican, cảnh báo ông về nghệ sĩ dương cầm người Isarel. “ nhân vật mờ ám, có thể thế, nhưng cũng là nhạc công điêu luyện biết bao!”

      Đột nhiên, ông sững lại: ông vừa thoáng thấy ở bên dưới dáng dấp thanh lịch của Leeland, sau là mái đầu muối tiêu của cha Nil. Họ tiến về phía bên trái sân khấu, về phía hậu trường – nơi dành cho các nghệ sĩ.

      – Rembert! Shalom, vui vì được gặp lại ông!

      bị những phụ nữ xinh đẹp vây kín, Lev Barjona ôm hôn Leeland, rồi quay sang cha Nil.

      – Và hẳn đây là bạn ông… Rất vui được làm quen với ông, ông cũng thích Rachmaninov?

      Sững sờ, cha Nil đáp lại lời chào của . Lúc này, nhạc công người Isarel ở nơi tràn ngập ánh sáng, và lần đầu tiên ông nhìn trực diện ta: vết sẹo xuất phát từ tai trái và chạy vào bên trong tóc.

      Người đàn ông tàu!

      Rất thoải mái, Lev vờ như nhận thấy vẻ sững sờ của ông. nghiêng người sang Leeland và mỉm cười thầm:

      – Các ông đến đúng lúc, tôi cố thoát khỏi các quý hâm mộ này. Sau mỗi buổi diễn, tôi phải mất vài giờ để trở lại mặt đất, tôi cần căn phòng thanh bình và yên tĩnh.

      quay sang cha Nil.

      – Tôi có vinh dự được mời ông cùng ăn tối ? Chúng ta có thể đến quán kín đáo, và bên cạnh hai tu sĩ, hẳn là yên tĩnh được đảm bảo: các ông là những khách mời lý tưởng để giúp tôi rời khỏi thế giới của Rachmaninov. Hãy chờ tôi trước lối ra dành cho nghệ sĩ, tôi thoát khỏi các quý quấy rầy này, thay quần áo rồi đến đó.

      Nụ cười và vẻ duyên dáng của Lev Barjona có hiệu quả thể cưỡng nổi, và ràng là biết điều đó: chờ được trả lời, tiến về phía cuối hậu trường, để mặc cha Nil như bị đóng đinh tại chỗ vì sững sờ.

      Người đàn ông tàu! ta làm gì mình với ông chuyến tàu Roma Express đầy khách, và ta chuẩn bị làm gì khi người soát vé đột nhiên xuất trong khoang của họ?

      Ông ăn tối với ta, mặt đối mặt…

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      PH̀ẦN BA

      69.

      Tối muộn hôm đó, chuông điện thoại reo trong căn hộ thuộc Lâu đài San Angelo: Alessandro Calfo giật mình. Ông vừa thuyết phục được Sonia – càng ngày càng khó khăn hơn trong việc tiếp nhận các đòi hỏi của ông – và thực nốt dàn cảnh phức tạp, nó phải tuyệt đối hoàn hảo.

      Vào giờ này, chỉ có thể là Hồng y Giáo chủ.

      Đúng là ông ấy, vừa từ Nhạc viện Saint Cecilia ngay gần đó quay về Vatican. Nghe giọng , Calfo lập tức hiểu ngay là có chuyện gì đó ổn.

      – Đức ông, ông có biết chuyện này ?

      – Nhưng chuyện gì kia, thưa Đức Hồng y?

      – Tôi vừa trở về từ buổi hòa nhạc của người Isarel tên là Lev Barjona. Cách đây vài hôm, Cơ quan cảnh báo tôi về người này, và tôi ngạc nhiên khi biết rằng có thể Hội Thánh Pie V thế nào nhỉ, sử dụng những tài năng giấu của ta. Ai cho phép ông ra lệnh cho điệp viên nước ngoài hành động nhân danh Vatican?

      – Thưa Đức Hồng y, Lev Barjona chưa bao giờ là điệp viên của Vatican! ta trước hết là nhạc công piano lỗi lạc, và tôi chấp nhận hợp tác của ta do ta là con trai của Abraham giống như chúng ta, và ta hiểu mọi việc. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp ta.

      – Thế à, còn tôi, tôi vừa nhìn thấy ta xong, ở Saint Cecilia. Và hãy đoán xem trong khán phòng còn có ai nữa?

      Calfo thở dài.

      – Hai tu sĩ của ông, Catzinger tiếp tục, người Mỹ và người Pháp.

      – Đức Hồng y …có gì là xấu nếu nghe buổi nhạc hay?

      – Trước hết, chỗ của tu sĩ phải là ở nơi biểu diễn. Nhất là vào cuối buổi diễn tôi lại thấy họ về phía hậu trường. Hẳn là họ gặp Lev Barjona.

      “Còn tôi, Calfo nghĩ, tôi lại rất hy vọng họ gặp ta”

      – Thưa Đức Hồng y, trước đây, ở Jerusalem, Leeland làm quen với Barjona, khi ta là học trò của Arthur Rubinstein. Ông ta cũng có cùng niềm đam mê nhạc với ta. Tôi thấy có vẻ bình thường…

      Catzinger cắt lời ông:

      – Tôi có thể nhắc ông rằng Leeland làm việc tại Vatican, và chính tôi cho phép ông sử dụng ông ta làm mồi nhử cha Nil ? Rất nguy hiểm nếu để họ gặp nhân vật bốc đồng như Lev Barjona, hẳn ông cũng biết như tôi rằng ta chỉ là nhạc công tài năng. Lòng kiên nhẫn của tôi đến mức giới hạn: trong tuần lễ trước Noel, sáng nào tôi cũng làm lễ mixa tại titulum [[43]] của tôi ở Saint Mary in Cosmedin, mai là ngày đầu tiên. Hãy làm thế nào để tôi có thể gặp Leeland vào đầu giờ chiều mai. Tôi cho gọi ông ta đến văn phòng tôi, và khiến ông ta phải đối diện với trách nhiệm của mình. Về phần ông, đừng quên ông phục vụ Giáo hội, chức trách đó cấm ông đưa ra số… sáng kiến.

      Vừa gác máy, Calfo vừa mỉm cười. Ông muốn mình ở địa vị của tu sĩ người Mỹ: con mồi này sắp bị Đức Hồng y nuốt chửng. Chẳng có gì quan trọng: ông đảm nhận vai trò của mình cách hoàn hảo, đầu tiên là khiến cha Nil phải chuyện và bây giờ là khiến ông gặp gỡ người Isarel. Con mồi là để dành cho Hồng y. Còn ông chỉ tìm cách điều khiển con cá.

      Ông quay về phòng, và kiềm chế cử chỉ bực tức: Sonia cởi bộ quần áo vui mắt của trần truồng ngồi mép giường. Gương mặt lộ vẻ bướng bỉnh, và những giọt nước mắt lăn dài má.

      – Thôi nào, người đẹp của ta, đến nỗi kinh thế đâu!

      Ông đỡ đứng dậy và buộc phải khoác lên người chiếc khăn trùm, che mái tóc rực rỡ, rồi đội lên chiếc mũ bà xơ hồ bột có chỏm buông xuống đôi vai tròn của . Sau khi phục sức theo kiểu nữ tu thời cổ đại như vậy – “chỉ bên thôi, phần còn lại là dành cho ta” – ông để quỳ gối ghế cầu kinh bằng nhung đỏ đặt trước hình thánh theo phong cách Byzance. Vốn là người ân cần, ông nghĩ rằng hình thánh có thể giúp người Rumani này đảm nhận tốt hơn vai trò mà ông mong đợi.

      Ông lùi lại: bức tranh hoàn hảo. Trần truồng nhưng khuôn mặt trái xoan được tôn lên dưới chiếc mũ bà xơ, mắt ngước nhìn lên hình thánh, Sonia chắp đôi tay mảnh dẻ và có vẻ như cầu nguyện. “ tư thế trinh trắng, trước hình Đức mẹ Đồng Trinh. Rất gợi cảm.”

      Roma chìm trong bầu khí tĩnh mịch ban đêm. Đức ông Calfo quỳ phía sau Sonia và áp sát mình vào đường cong nơi thắt lưng , bắt đầu nghi lễ tôn thờ thần thánh. Cẳng chân ông tì lên chiếc ghế cầu kinh êm ái ông ưa thích. Đôi tay bám chặt vào ngực , có lát ông cảm thấy ngượng nghịu trước ánh mắt của Đức Mẹ Đồng Trinh hình thánh ông nhìn thẳng vào như lời trách móc câm lặng. Ông nhắm mắt lại: trong công cuộc kiếm tìm hợp nhất bí , có gì trong ông xen vào giữa con người và thần thánh, xác thịt và tâm linh.

      Trong khi ông bắt đầu thầm những lời rời rạc đối với , Sonia gắn mắt vào hình thánh, buông hai bàn tay chắp ra để lau những giọt lệ làm mắt nhòe .
      70.
      Cùng lúc đó, Lev nâng cốc lên trước mặt những người cùng .
      – Vì cuộc gặp gỡ của chúng ta!
      dẫn hai tu sĩ vào nhà hàng ở Trastevere, khu phố đông dân của Roma. Khách hàng chỉ toàn là người Ý, ngấu nghiến những suất pasta khổng lồ.
      – Tôi khuyên các ông dùng món penne arrabiate của họ. Món ăn được nấu theo kiểu gia đình, tôi thường đến đây sau mỗi buổi hòa nhạc: họ đóng cửa rất muộn, chúng ta có thời gian để làm quen với nhau.
      Từ khi họ đến nhà hàng, cha Nil vẫn im lặng: người Isarel này thể nhận ra ông. Nhưng Lev, vui vẻ hồn nhiên và rất thoải mái, có vẻ như nhận thấy im lặng của người đối diện. trao đổi với Leeland về những kỉ niệm thời xa xưa, cuộc gặp gỡ của họ ở Isarel, những phát của họ trong nhạc.
      – Thời kì đó, ở Jerusalem, cuối cùng chúng tôi cũng có thể sống lại sau cuộc chiến Sáu Ngày. Tư lệnh Ygaël Yadin hẳn rất muốn tôi ở lại Tsahal cùng ông ấy…
      Lần đầu tiên, cha Nil tham gia vào câu chuyện:
      – Nhà khảo cổ học nổi tiếng đó, biết ông ấy à?
      Lev chờ cho đến khi ba đĩa pasta bốc khói được đặt trước mặt họ rồi mới quay sang cha Nil. bĩu môi rồi mỉm cười.
      – Tôi chỉ biết ông ấy, mà nhờ có ông ấy tôi trải qua cuộc phiêu lưu hề ngớ ngẩn. Ông là chuyên gia về các văn tự cổ, người nghiên cứu, hẳn điều này khiến ông quan tâm…
      Cha Nil có cảm giác khó chịu vì bị rơi vào cái bẫy. “Làm sao ta lại biết mình là chuyên gia và nhà nghiên cứu nhỉ? Tại sao ta lại dẫn bọn mình đến đây?” thể trả lời, ông quyết định cứ để Lev tự bộc lộ, và im lặng đồng ý.
      – Năm 1947 tôi lên tám, chúng tôi sống ở Jerusalem. Cha tôi là bạn của nhà khảo cổ trẻ thuộc trường Đại học Do thái, Ygaël Yadin: tôi lớn lên bên ông ấy. Khi đó ông ấy hai mươi tuổi, và cũng giống như tất cả những người Do Thái khác sống ở Palestin, ông ấy có cuộc sống kép: là sinh viên, nhưng chủ yếu là chiến sĩ thuộc Hagana[[44]] và nhanh chóng trở thành tư lệnh. Tôi biết điều đó, tôi vô cùng ngưỡng mộ ông ấy và chỉ mơ ước có điều: cũng được chiến đấu cho đất nước tôi.
      – Ở tuổi lên tám?
      – Rembert, những chiến sĩ đáng gờm của Palmakh[[45]] và Hagana đều là thiếu niên, ngây ngất phấn khích trước hiểm nguy! Họ ngần ngại kêu gọi trẻ em chuyển tải các thông điệp của họ, chúng tôi có bất kỳ phương tiện thông tin nào. Sáng ngày 30 tháng Mười , Liên hợp quốc chấp thuận việc thành lập Nhà nước Do Thái. Chúng tôi biết rằng chiến tranh nổ ra: Jerusalem bị bao phủ bởi dây thép gai, từ đó trở , chỉ đứa trẻ mới có thể lại trong thành phố mà cần có giấy thông hành.
      – Đó là điều làm?
      – Tất nhiên: Yadin bắt đầu dùng đến tôi hàng ngày, tôi được nghe mọi chuyện xoay quanh ông. buổi tối, ông ấy về phát kỳ lạ: khi đuổi theo con dê trong vùng vách đá nhô ra ở biển Chết, người Ả Rập di cư bắt gặp cái hang. Bên trong, ta thấy có những cái vại chứa những cái gói phủ dầu mà ta bán với giá năm pound cho người thợ giày theo đạo Cơ đốc ở Bethlehem. Người này giao lại cho Giáo chủ Samuel, cấp của tu viện Saint-Marc, nằm trong phần đất của Jerusalem vừa mới thuộc về người Ả Rập.
      Cha Nil dỏng tai lên: ông từng nghe đến câu chuyện phiêu lưu huyền hoặc của các bản thảo vùng biển Chết. nghi ngại trong ông biến mất tức : ông đối diện với nhân chứng trực tiếp, cơ hội hoàn toàn bất ngờ đối với ông.
      Vừa thưởng thức món penne, Lev vừa liếc mắt nhìn cha Nil, vẻ quan tâm đột nhiên của ông có vẻ khiến vui thích. tiếp tục:
      – Giáo chủ Samuel cầu Yadin nhận dạng các bản thảo này. Phải qua thành phố, đến Saint-Marc, mỗi con phố là điểm phục kích. Yadin đeo vào cổ tôi chiếc tạp dề và chiếc cặp học sinh, và chỉ cho tôi hướng đến tu viện. Tôi luồn lách giữa những chướng ngại vật của người , những xe tăng của người Ả rập, những trung đội thuộc Hagana: tất cả đều ngừng bắn lát để cho đứa trẻ là tôi đến trường! Trong cặp, tôi mang từ tu viện về hai cuộc giấy, và Yadin ngay lập tức hiểu ra đó là cái gì: những bản thảo cổ nhất chưa từng được phát đất Isarel, kho báu theo luật phải thuộc về Nhà nước Do Thái mới.
      – Ông ấy làm gì với chúng?
      – Ông ấy thể giữ chúng, vì như thế là ăn cắp. Ông trả chúng lại cho Giáo chủ, và cho họ biết ông sẵn sàng mua lại tất cả các bản thảo mà những người Ả Rập di cư phát được trong các hang đá ở Qumran. Mặc dù có chiến tranh, nhưng tin tức lan : người Mỹ ở Trường học Mỹ phương Đông và các thầy tu Pháp dòng Dominique thuộc Trường thánh ở Jerusalem tổ chức bán đấu giá. cần bước quá độ, Yadin chuyển ngay từ việc chỉ huy các chiến dịch quân sang những vụ mặc cả bí mật với các thương gia đồ cổ ở Bethlehem và Jerusalem. Người Mỹ vơ hết…
      – Tôi biết, cha Nil cắt ngang, ở tu viện tôi xem được các bản sao của Thư viện Huntington.
      – A, các ông nhận được bản à? Rất ít người có may mắn đó, tôi hy vọng rằng ngày nào đó chúng được xuất bản. Và thế là tôi vô tình trở thành người gây ra vụ rắc rối, hẳn ông quan tâm…
      đẩy chiếc đĩa của mình ra, tự rót cho mình cốc vang. Cha Nil nhận thấy gương mặt đột nhiên đanh lại – giống như tàu, giống như khi chơi nhạc của Rachmaninov!
      Sau lát im lặng, Lev cố gắng tiếp tục:
      hôm, Giáo chủ Samuel cho Yadin biết ông ta sở hữu hai tài liệu được bảo quản đặc biệt tốt. Người Ả Rập di cư kia tìm thấy chúng khi đến hang lần thứ hai, trong chiếc vại thứ ba ở bên trái từ cửa vào, bên cạnh bộ xương của người hẳn từng là Hiệp sĩ vì vẫn còn được bọc trong chiếc áo choàng trắng có dấu thập đỏ. Tôi lại lần nữa qua thành phố và mang về cho Yadin thứ được tìm thấy trong chiếc vại: cuộn to bọc ngoài bằng vải dầu, và tấm giấy da – chỉ có duy nhất mảnh, buộc sơ sài bằng sợi lanh. Trong căn phòng mà ông ấy dùng làm đại bản doanh, dưới làn bom, Yadin mở cuộn giấy có bề mặt phủ đầy những kí tự Do thái: đó là Sổ tay môn đồ của người Esseni. Rồi ông mở tấm giấy da, nó được viết bằng tiếng Hy Lạp, và dịch to dòng đầu tiên trước mặt tôi. Khi đó tôi là đứa trẻ, nhưng tôi vẫn nhớ: “Ta, môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…”
      Cha Nil tái mặt, và nắm chặt bộ đồ ăn để kiềm chế:
      chắc chứ? Có đúng là nghe thấy “môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba” ?
      – Tuyệt đối đúng. Yadin có vẻ bị đảo lộn. Ông ấy với tôi rằng ông ấy chỉ quan tâm đến các bản thảo bằng tiếng Do Thái, vì chúng là di sản của Isarel: bức thư được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp giống như trong các Kinh Thánh này có liên quan đến người Cơ đốc, phải trả lại nó cho Giáo chủ. Ông ấy giữ lại Sổ tay môn đồ, và nhét vào cặp sách của tôi tập đô la, kèm theo đó là tấm giấy da viết chữ Hy Lạp. Rồi ông ấy cho tôi quay lại Saint-Marc, giữa màn bom.
      Cha Nil sững sờ. “ ta cầm trong tay bức thư của tông đồ thứ mười ba, bản duy nhất thoát khỏi Giáo hội – có thể còn là bản chính!”
      Gương mặt vẫn đanh lại, Lev tiếp tục:
      – Đến cách tu viện khoảng trăm mét, viên đạn cối rơi phố: tôi bị hất tung lên, và bất tỉnh. Khi tôi mở mắt ra, tu sĩ cúi xuống tôi. Tôi ở trong tu viện, da đầu bị rách từ dưới lên nhăn mặt chạm vào vết sẹo – và chiếc cặp học sinh của tôi biến mất.
      – Biến mất?
      – Vâng. Tôi bất tỉnh hai mươi bốn giờ, ở giữa sống và cái chết. Khi Giáo chủ đến thăm tôi vào hôm sau, ông rằng trong số các tu sĩ của ông nhặt được tôi trong phố và đưa lại cho ông chiếc cặp. Khi mở ra, ông ấy hiểu: Yadin trả tiền mặt cho bản thảo Qumran, nhưng muốn mua bức thư bằng tiếng Hy Lạp. Bức thư này, ông ấy vừa bán cho thầy tu dòng Dominique, cùng với lô lẻ các bản thảo tiếng Do Thái mà những người Ả Rập di cư mang đến. Ông ấy còn vừa cười vừa thêm rằng ông ấy nhét tất cả, bức thư và các bản thảo, trong thùng rượu cognac Napoleon rỗng, thứ mà ông ấy rất ham thích. Và rằng hình như thầy tu dòng Dominique đó hoàn toàn biết gì về giá trị của những thứ mà ông ta vừa có được.
      Những câu hỏi chất chồng trong đầu cha Nil.
      có cho rằng Giáo hội đọc bức thư trước khi bán lại nó cho thầy tu này ?
      – Tôi chả biết, nhưng nếu thế tôi rất ngạc nhiên. Giáo chủ Samuel có thể là bất kỳ người nào, nhưng bao giờ là học giả. Đừng quên chúng tôi trong thời chiến, ông ấy cần tiền để nuôi sống các tu sĩ của mình, và chăm sóc những người bị thương mà người ta chuyển đến tu viện mỗi lần hàng chục người. Đó phải là lúc để tiến hành nghiên cứu các văn tự! Chắc chắn ông ấy đọc bức thư.
      – Thế còn… thầy tu dòng Dominique kia?
      Lev quay sang ông: biết rằng câu chuyện này khiến tu sĩ bé người Pháp kia quan tâm tột độ. “Thế theo ông, cha thân mến, tại sao tôi lại mời ông bữa tối nay? Chỉ để thưởng thức món bánh phủ xốt cay thôi sao?”
      – Tôi với ông rồi, những kỉ niệm này khắc sâu trong trí nhớ của tôi. Rất lâu sau, trước khi chết, Yadin lại với tôi về bức thư, và cầu tôi tìm lại dấu vết của nó. Tôi làm điều tra , dựa vào Mossad, tổ chức mà tôi trở thành… cứ cho là cộng tác viên thời vụ. Có vẻ như đây là cơ quan tình báo tốt nhất thế giới, sau cơ quan tình báo của Vatican!
      Lev rất vui vẻ và lại thể thái độ phấn khởi của mình: mọi căng thẳng mặt biến mất.
      – Thầy tu dòng Dominique đó ra là thầy dòng cần vụ [[46]], người trung hậu và hơi đần. Ngay trước khi Isarel tuyên bố độc lập, tình hình ở Jerusalem trở nên căng thẳng đến nỗi nhiều thầy tu bị bắt hồi hương về châu u. Hình như thầy tu đó nhồi vào hành lý của mình thùng rượu cognac Napoleon kia – ông ta hoàn toàn biết về giá trị của nó, và mang nó theo tới tận Roma, nơi ông ta chấm dứt cuộc đời tại Tòa chung dòng Dominique, ở Aventin. Chúng tôi biết rằng thùng rượu còn ở đó nữa, khi ông ta chết người ta tìm thấy gì khác ngoài tràng hạt bằng gỗ ô liu.
      – Thế … nó có thể ở đâu được?
      – Mỗi Tòa chung là cơ quan hành chính, nó lưu trữ những tài liệu vô ích. Hẳn là họ giao lại những thứ tài sản lẻ bộ đến từ Jerusalem cho Vatican, ở đó chắc chắn nó gia nhập đống đồ cũ mà người ta biết dùng làm gì- hoặc người ta muốn khai thác. Có lẽ nó ngủ quên đâu đó, trong góc của trong những thư viện hoặc căn phòng khuất nẻo nào đó của Thành phố Thánh: nếu người ta mở ra, rốt cuộc nó cũng được biết đến.
      – Tại sao lại thế, Lev?
      Bị lây thoải mái của người Israel, cha Nil gọi bằng tên riêng. Lev nhận thấy điều đó, và rót cho ông cốc vang khác.
      – Vì Ygaël Yadin đọc bức thư trước khi trả lại cho Giáo chủ. Và những điều ông ấy với tôi giường bệnh khiến tôi nghĩ rằng nó chứa đựng bí mật kinh khủng, mà Giáo chủ nào, Nhà nước nào- dù kín như bưng và quân chủ như Vatican- có thể ngăn cản nó rò rỉ ra ngoài trong thời gian dài. Nếu có ai đó nhìn thấy bức thư này, cha Nil ạ, hoặc giờ này người ấy chết, hoặc có lẽ Vatican và Giáo hội Cơ Đốc sụp đổ, và điều này hẳn gây tiếng vang lớn hơn cả cuộc chiến Israel-Ả Rập năm 1947, hơn cả các cuộc Thập Tự Chinh, hơn bất kỳ kiện nào khác trong lịch sử phương Tây.
      Cha Nil căng thẳng xoa mặt.
      Hoặc giờ này người ấy chết…
      Cha Andrei!
      Xem cả bộ:

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :