BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      51.

      – Các em …

      Đây là cuộc họp đầu tiên của Hội Thánh Pie V kể từ khi kết nạp đạo hữu mới. Antonio khiêm tốn ngồi vào vị trí của tông đồ thứ mười hai ở đầu bàn.

      – Các em, tôi có thể tiết lộ với các vị trong các bằng chứng về bí mật mà chúng ta có sứ mệnh bảo vệ: bằng chứng này mới được phát và gần đây thuộc sở hữu của chúng ta. Tôi muốn đến bản khắc do hoàng đế Charlemagne đặt ở nhà thờ Germigny, và chỉ vài học giả hiếm hoi mới có thể hiểu ý nghĩa được che giấu của nó. Hôm nay, tôi vui mừng được giới thiệu nó với các vị. Tôi xin mời tông đồ thứ hai và tông đồ thứ ba …

      Hai đạo hữu đứng dậy đến trước thánh giá, ở bên phải và bên trái hội trường. Người này nắm tay vào chiếc đinh đóng xuyên qua chân Thầy. Hai người hầu lễ cũng làm vậy đối với chiếc đinh đóng bàn tay phải và trái của Người. Sau cái gật đầu, mỗi người xoay chiếc đinh của mình theo con số.

      tiếng cạch vang lên: tấm bảng bằng gỗ gụ trượt sang bên.

      Để lộ ra khoảng lõm, trong đó có đặt ba tầng giá. tầng giá dưới cùng nằm sát đất có phiến đá dựng nghiêng.

      – Các em, các vị có thể lại gần đây để tỏ lòng sùng kính.

      Các tông đồ đứng dậy, rồi từng người lần lượt đến quỳ trước phiến đá. Lớp vữa được lau sạch: văn bản bằng tiếng Latin của Tín điều Nicée ra vô cùng ràng, được chia làm hai mươi hai dòng có chiều dài bằng nhau và được đóng khung trong hai ký tự Hy Lạp. Từng đạo hữu cúi gập người, nhấc khăn che mặt và áp môi lên ký tự alpha và omega. Rồi đứng dậy và hôn chiếc nhẫn Giám mục mà hội trưởng, người vẫn đứng dưới chân thánh giá, chìa ra trước họ.

      Antonio rất xúc động khi đến lượt mình. Đây là lần đầu tiên nhìn thấy chiếc tủ đó mở ra: ở bên trong còn có hai bằng chứng hữu hình của điều bí mật, việc bảo vệ chúng là lý do duy nhất cho tồn tại của Hội Mười hai. Bên phiến đá, ở giá giữa, chiếc hộp bằng gỗ quý ánh phớt lên. Kho báu của các Hiệp sĩ dòng Đền! Nó được mở ra để các đạo hữu tỏ lòng sùng kính vào thứ Sáu ngày 13 sắp tới.

      Giá cùng vẫn còn trống.

      Khi đứng dậy, cũng áp môi lên chiếc nhẫn của hội trưởng. Điểm xuyết những vết màu đỏ sậm, viên ngọc thạch màu xanh đậm được chuốt thành hình thoi thuôn dài và lồng trong khung bằng bạc chạm khắc khiến nó có hình dạng của chiếc quan tài xíu. Nhẫn của Giáo hoàng Ghislieri! Tim đập thình thịch về lại chỗ của mình ở chiếc ghế thứ mười hai trong khi hội trưởng đẩy tấm bảng bằng gỗ gụ, nó tự động đóng lại với tiếng cạch.

      – Các em, ngày nào đó, giá cùng của chiếc tủ này phải che chở kho báu quý giá nhất trong tất cả các kho báu, so với nó những thứ chúng ta có ở đây chỉ là cái bóng hoặc hình phản chiếu. Kho báu này chúng ta nghi ngờ tồn tại của nó nhưng chưa biết nó ở đâu: sứ mệnh nay có thể cho phép chúng ta lấy lại nó, để rồi đặt nó an toàn dưới canh gác của chúng ta. Khi đó, chúng ta thực có được những phương tiện để hoàn thành điều mà vì nó chúng ta dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa: bảo vệ nhân thân của Chúa phục sinh.

      – Amen!

      Niềm vui ánh lên trong mắt Mười tông đồ, trong khi hội trưởng của họ ngồi vào chỗ của mình ở bên phải chiếc ngai trung tâm có phủ nhung đỏ.

      – Tôi giảm bớt cho tông đồ thứ mười hai nghĩa vụ nghe những cuộc chuyện của hai tu sĩ: việc giám sát ấy đòi hỏi ở đạo hữu này những khoảng thời gian bất động vô ích. Điệp viên người Palestine của tôi phụ trách việc đó và tôi sắp có thể thông báo cho các vị nội dung của những cuốn băng đầu tiên, tôi phân tích chúng. Tông đồ thứ mười hai kín đáo giám sát kho sách Vatican. Cha Breczinsky còn chưa biết , điều này thuận lợi cho công việc. Lúc này, tôi toàn quyền kiểm soát các thông tin chuyển đến cho Hồng y. Còn về Đức Thánh Cha, chúng ta tiếp tục tránh cho ngài khỏi toàn bộ mối lo lắng đối với ngài là quá nặng nề này.

      Mười đạo hữu gật đầu đồng thuận. Nhiệm vụ này phải được tiến hành hết sức chuẩn xác: hội trưởng biết thể hiệu quả của mình.

      52.

      Sa mạc Idumea, năm 70

      – Cha ngủ chưa, abbou?

      – Từ khi đến sa mạc này, ta vừa chờ con quay lại vừa canh chừng sống run rẩy trong ta. Giờ đây gặp lại con rồi, ta có thể đến giấc ngủ khác… Còn con?

      Cánh tay trái của Iokhanân thõng xuống bất động và những vết sẹo sâu rạch khắp phần thân để trần của . lo lắng nhìn ông già, gương mặt ông hõm sâu vì bệnh tật. trả lời mà ngồi xuống bên cạnh ông cách khó khăn.

      – Sau khi kết liễu Adôn, bọn lính bắt được con ở ốc đảo Ein Feshka và bỏ mặc con ở đó cho chết. Những người Esseni chạy thoát được vụ tàn sát và vòng vây ở Qumran sau đó vác con lên vai: con bị bất tỉnh nhưng vẫn còn sống. Suốt nhiều tháng trời, họ chăm sóc con trong cộng đồng của họ ở sa mạc Judee nơi họ nấp. Ngay khi có thể lại được, con xin họ cùng con đến đây để tìm cha: cha thể tưởng tượng được quãng đường mà con trải qua sa mạc này đâu.

      Tông đồ thứ mười ba nằm dài manh chiếu đơn sơ, trước cửa cái hang. Ông đưa mắt nhìn hẻm vực sâu mở ra phía trước họ, do nước xói vào vách đá màu đỏ và đất son tạo thành. Rất xa, thấp thoáng dãy núi chạy dài đến tận Hobreb, nơi trước đây Chúa trao Luật của mình cho Moise.

      Những người Esseni… có họ, hẳn là Jesus sống được bốn mươi ngày độc trong sa mạc, những ngày biến đổi Người. có họ, hẳn là cha gặp Người cùng Jean – Baptiste, và Người hẳn quen biết Nicodème, Lazare, các bạn bè của ta ở Jerusalem. Con để lá thư của chúng ta ở ngay trong cái vại ở hang của họ, tại Qumran…chúng ta chịu ơn họ nhiều biết bao!

      Còn hơn là cha nghĩ. Trong sa mạc Judee, họ tiếp tục chép lại các bản thảo khác nhau. Trước khi chia tay, họ trao lại cho con cái này – đặt xuống mép chiếu xấp giấy da. Đây là kinh Phúc của cha, cha ạ, theo đúng bản lưu truyền khắp Đế chế La Mã. Và con mang về để cha đọc.

      Ông già đưa bàn tay lên: dường như ông kiệm đến từng động tác.

      – Bây giờ đọc cũng khiến ta mệt. Con hãy đọc cho ta nghe!

      – Văn tự của họ dài hơn nhiều so với bản viết của cha. Họ chỉnh sửa nữa mà sáng tác thêm. Theo như cha kể với con, Jesus bằng tiếng Do Thái, cho người Do Thái nghe…

      Má tông đồ thứ mười ba ửng lên chút sắc màu. Ông nhắm mắt như sống lại những cảnh tượng khắc sâu trong tâm trí.

      – Nghe Jesus , chính là nghe tiếng gió thổi các ngọn đồi ở Galilee, là nhìn thấy những bông lúa trĩu hạt trước mùa gặt, những đám mây bay qua bầu trời phía Israel của chúng ta… Khi Jesus , Iokhanân ạ, đó chính là người thổi sáo trong phiên chợ, người tá điền thuê mướn nhân công, những khách mời bước vào tiệc cưới, dâu trang điểm để đón chú rể…Cả đất nước Israel ở trong da thịt Người, là niềm vui và nỗi đau của Người, màu vàng êm dịu của các buổi chiều tối bên bờ hồ. Đó là bản nhạc cất lên từ đất đai quê hương chúng ta, nâng chúng ta lên với Chúa của Người và Chúa của chúng ta. Nghe Jesus là tiếp nhận tình cảm trìu mến của các nhà tiên tri được bao bọc trong giai điệu thần kỳ của những bài Thánh vịnh, giống như làn nước tinh khiết. Ồ đúng! Đúng là người Do Thái với những người Do Thái!

      – Jesus mà cha biết giờ đây bị họ gán cho những bài diễn văn dài dòng theo kiểu của các nhà triết học theo thuyết ngộ đạo. Và họ biến Người thành Đạo, thành Đức chúa con vĩnh hằng. Họ rằng “tất cả mọi thứ là do Người, và có Người là có gì.”

      – Đừng nữa!

      Từ đôi mắt nhắm nghiền của ông lăn ra hai giọt nước mắt, chầm chậm bò dọc đôi má hõm sâu lởm chởm râu.

      – Đạo! Vị thánh vô danh của các nhà triết học chợ búa, những kẻ khoe khoang là đọc Platon và diễn thuyết hô hào trước đám đông nhàn rỗi để khiến họ rơi vào túi mình cùng với vài đồng bạc! Người Hy Lạp từng biến người thợ rèn Vulcain thành thần, biến kỹ nữ Venus thành nữ thần, cũng biến cả người chồng ghen tuông và người lái thuyền thành thần. Ồ, điều đó mới dễ dàng làm sao, vị thần có khuôn mặt của con người, và điều đó mới khiến dân chúng vui thích làm sao! Khi thánh hóa Jesus, chúng vứt chúng ta vào trong bóng tối của tà giáo, nơi Moise từng đưa chúng ta thoát ra.

      Bây giờ ông khóc, rất lặng lẽ. Sau lát im lặng, Iokhanân :

      vài môn đồ của cha tham gia Giáo hội mới, nhưng những người khác vẫn trung thành với Jesus xứ Nazareth. Người ta xua đuổi họ ra khỏi các cộng đồng người Cơ Đốc, hành hạ họ, thậm chí số người còn bị giết.

      – Jesus báo trước cho chúng ta: Người ta xua đuổi các người ra khỏi cộng đồng, người ta tra tấn các người và người ta giết các người…Con có tin tức gì về những người Nazareth mà ta phải bỏ lại để náu ở đây ?

      – Con có thông tin do những người theo đoàn ngựa thồ cung cấp. Sau khi rời Pella cùng cha, họ tiếp tục di cư đến tận ốc đảo thuộc bán đảo Ả Rập, có tên là Bakka, hình như thế, đó là chặng tuyến đường thông thương của Yémen. Những người Ả Rập du cư sống ở đó rất tôn thờ những viên đá thiêng, nhưng họ cũng tự coi mình là con trai của Abraham như chúng ta. Vậy là bây giờ hạt mầm của người Nazareth được gieo đất Ả Rập!

      – Tốt rồi, họ được an toàn ở đó. Thế còn Jerusalem?

      bị Titus, con trai của hoàng đế Vespasien bao vây. Thành phố vẫn chống cự, nhưng trong thời gian bao lâu

      – Chỗ của con là ở đó, con trai ạ: con đường của ta chấm dứt ở đây. Hãy quay về Jerusalem, bảo vệ căn nhà của chúng ta trong khu phía Tây. Con có bản sao lá thư của ta, hãy truyền bá nó. Biết đâu họ lại nghe con? Dù thế nào, họ cũng thể biến đổi nó như từng làm với kinh Phúc của ta được.

      Hai ngày sau ông già chết. Lần cuối cùng, ông chờ đợi bình minh. Khi được những ánh mặt trời bao bọc, ông gọi tên Jesus rồi ngừng thở.

      Tận sâu trong thung lũng ở sa mạc Idumea, cái quách xếp bằng đá đặt sơ sài cát từ nay trở là nấm mồ của người từng tự xưng là môn đồ cưng của Jesus xứ Nazareth, tông đồ thứ mười ba thân thiết và cũng là nhân chứng tốt nhất của Người. Cùng với ông, vĩnh viễn biến mất ký ức về nấm mộ tương tự, đặt đâu đó trong sa mạc này. Nấm mộ cho đến ngày nay vẫn còn chứa đựng di hài của Người chân chính nhưng bị đóng đinh câu rút cách vô căn cứ bởi bởi tham vọng của con người.

      Iokhanân ngồi cả đêm ở lối vào thung lũng. Khi nền trời trong mờ chỉ còn ngôi sao gác đêm tỏa sáng, đứng dậy và về phía bắc cùng với hai người Esseni.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      53.
      – Đây là lần đầu tiên tớ xác định được đến thế ảnh hưởng trực tiếp của giai điệu Do Thái đến bài hát thời Trung cổ!
      Cúi mình từ nhiều giờ chiếc bàn kính trong kho sách, họ vừa so sánh từng từ trong bản thảo thánh ca Gréroige với bản thảo nhạc Do Thái, cả hai bản thảo đều có trước thế kỷ XI và được soạn ra từ cùng văn tự Thánh kinh. Leeland quay sang cha Nil.
      – Liệu có phải giai điệu của đạo Do Thái thực là nguồn gốc của nhạc Giáo hội hay ? Tớ tìm văn tự tiếp theo trong phòng bản thảo Do Thái. Trong khi chờ đợi, cậu nghỉ ngơi .
      Sáng nay Breczinsky đón họ với vẻ kín đáo quen thuộc. Nhưng viên thủ thư tận dụng lúc vắng mặt của Leeland rỉ tai cha Nil :
      – Nếu có thể… tôi muốn chuyện với cha lát hôm nay.
      Cánh cửa phòng ông ấy cách có vài mét. Còn lại mình trước bàn, cha Nil ngần ngừ lát. Rồi tháo găng tay rồi bước về phía văn phòng của người Ba Lan.
      – Mời cha ngồi.
      Căn phòng mang hình ảnh người chủ của nó, khắc khổ và buồn rầu. Những cái giá chất đầy sách xếp thẳng hàng, và bàn làm việc là màn hình máy tính.
      – Tất cả các bản thảo quý giá của chúng tôi đều được xếp vào danh mục được các nhà bác học toàn thế giới tra cứu. Tôi xây dựng thư viện truyền hình cho phép tra cứu sách qua Internet: cha có thể thấy là giờ đây cũng có rất ít người đến đây. Di chuyển để nghiên cứu văn bản càng ngày càng trở nên vô ích.
      “Và ông ngày càng đơn,” cha Nil nghĩ. khoảng lặng bao trùm lên họ và dường như Breczinsky thể phá tan. Cuối cùng, ông cũng bằng giọng ngập ngừng:
      – Liệu tôi có thể hỏi mối quan hệ giữa cha và cha Andrei là như thế nào ?
      – Tôi với cha rồi, chúng tôi là những đạo hữu trong thời gian rất dài.
      – Vâng, nhưng… cha có biết về công việc của cha ấy ?
      – Chỉ phần thôi. Tuy nhiên chúng tôi rất thân thiết, hơn nhiều so với mức độ thông thường giữa các thành viên trong cộng đồng tôn giáo.
      – À, cha …thân thiết với cha ấy?
      Cha Nil hiểu ông muốn đến đâu.
      – Đối với tôi, cha Andrei là người bạn rất thân thiết, chúng tôi chỉ là đạo hữu trong tôn giáo mà còn là đôi bạn thân. Trong đời, tôi chưa từng chia sẻ nhiều như thế với bất kỳ ai.
      – Vâng, Breczinsky thầm , dường như với tôi cũng vậy. Ấy thế mà khi cha đến đây, tôi nghĩ rằng…rằng cha là trong những người cộng tác với Hồng y Catzinger! Điều đó làm thay đổi tất cả.
      – Điều đó làm thay đổi cái gì, thưa cha?
      Người Ba Lan nhắm mắt như tìm kiếm tận đáy sâu của con người mình nguồn sức mạnh bên trong.
      – Khi cha Andrei đến Roma, ông ấy muốn gặp tôi: chúng tôi trao đổi thư từ với nhau lâu mà chưa bao giờ gặp mặt. Khi nghe giọng tôi, ông ấy liền chuyển sang tiếng Ba Lan, thứ tiếng ông ấy rất thạo.
      – Cha Andrei là người Xlavơ và được mười thứ tiếng.
      – Tôi ngạc nhiên khi biết rằng gia đình Nga của ông ấy quê gốc ở Brest – Litovsk, trong tỉnh thuộc Ba Lan bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết năm 1920 và nằm giáp ranh với các vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Đức vào năm 1939. Vẫn luôn thuộc Ba Lan, mảnh đất tội nghiệp này ngừng gợi lên lòng thèm muốn của người Nga và người Đức. Khi cha mẹ tôi cưới nhau, nó vẫn còn nằm dưới gót giày của người Xô Viết, họ bắt các kiều dân Nga đến sống ở đó.
      – Cha sinh ra ở đâu?
      – Trong làng gần Brest – Litovsk. Dân Ba Lan bản địa bị chính quyền Xô Viết đối xử rất hà khắc, họ khinh bỉ chúng tôi, dân tộc bị chinh phục, hơn nữa lại còn theo Công giáo. Rồi bọn phát xít kéo đến, sau khi Hitler xâm chiếm Liên bang Xô Viết. Gia đình cha Andrei sống cạnh gia đình tôi, hai nhà chỉ cách nhau hàng rào sơ sài. Họ bảo vệ cha mẹ tội nghiệp của tôi khỏi nỗi kinh hoàng hoành hành trong vùng biên giới này thời kỳ trước chiến tranh. Tóm lại, dưới chế độ phát xít, lúc đầu họ nuôi chúng tôi, sau đó che giấu chúng tôi. có họ, có lòng hào hiệp được thể hàng ngày và giúp đỡ quả cảm của họ, cha mẹ tôi hẳn sống sót được và tôi có lẽ ra đời. Trước khi mất, mẹ tôi bắt tôi thề bao giờ được quên họ, con cháu họ và người thân của họ. Cha là bạn thân, là em của cha Andrei à? Những người em của cha ấy cũng là em của tôi, máu của tôi thuộc về họ. Tôi có thể giúp gì cho cha ?
      Cha Nil sững sờ và nhận ra rằng người Ba Lan dốc hết những tâm ông ấy có thể hôm nay. Trong hầm ngầm này ở thành phố Roma, những trận gió lớn của Lịch sử và của chiến tranh ngẫu nhiên đưa họ lại với nhau.
      – Trước khi chết, cha Andrei viết lại mảnh giấy những điều ông ấy nuốn với tôi khi trở về. Tôi cố hiểu thông điệp của ông ấy và tiếp tục con đường của ông ấy mở ra trước tôi. Tôi khó có thể tự thuyết phục mình rằng cái chết của ông ấy phải là ngẫu nhiên. Tôi chưa thể biết có phải người ta giết ông ấy , nhưng tôi có cảm giác sau khi chết, ông ấy ủy nhiệm lại cho tôi cuộc tìm kiếm của mình, giống như mệnh lệnh về nhiệm vụ mà người khuất để lại. Cha có hiểu điều đó ?
      – Tôi càng hiểu hơn vì ông ấy từng tâm với tôi những điều mà ông ấy có lẽ với ai khác, kể cả cha. Chúng tôi phát ra có chung quá khứ, tình cảm gần gũi phát sinh trong những hoàn cảnh đặc biệt đau buồn. Trong văn phòng này, bóng ma những con người vô cùng thân thiết của chúng tôi thức dậy, khắp người đầy máu và bùn. cú sốc đối với ông ấy cũng như với tôi. Chính điều này thúc đẩy tôi, hai ngày sau đó, làm giúp cha Andrei điều mà… mà lẽ ra tôi bao giờ nên làm. bao giờ.
      “Nil, cậu bé của tôi, nhàng thôi, nhàng với ông ấy. Hãy xua đuổi những bóng ma”.
      – Ngay lúc này, tôi có vấn đề cần giải quyết: tìm lại hai tài liệu tham khảo mà cha Andrei để lại, hai mã số Dewey ít nhiều đầy đủ về Giáo phụ. Nếu tìm được Internet, tôi nhờ cha giúp đỡ. Cho đến giờ, tôi chưa dám nhờ đến ai: càng tiến xa thêm điều tôi phát ra càng có vẻ nguy hiểm.
      – Còn hơn là cha nghĩ nữa kia – Breczinsky đứng dậy, có ý kết thúc cuộc chuyện. Tôi nhắc lại với cha: bạn thân, em của cha Andrei là em của tôi. Nhưng cha phải hết sức cẩn thận: những điều ra giữa những bức tường này phải tuyệt đối chỉ riêng chúng ta biết với nhau thôi.
      Cha Nil gật đầu và quay lại phòng làm việc. Leeland trở lại bàn, và bắt đầu trải bản thảo dưới ngọn đèn. Ông liếc mắt nhìn bạn mình rồi cúi xuống, lời, tiếp tục chỉnh bản thảo, mặt tối sầm.

      54.

      Jerusalem, ngày 10 tháng Chín năm 70

      Iokhanân bước qua cánh cửa phía Nam vẫn còn nguyên vẹn, rồi dừng lại, nghẹn thở: Jerusalem chỉ còn là vùng đổ nát

      Quân của Titus đổ bộ vào thành phố từ đầu tháng Tám, và trong tháng, ở đây diễn ra cuộc chiến tàn khốc, giành giật nhau từng đường phố, từng ngôi nhà. Trở nên điên khùng, quân lính thuộc quân đoàn X Fretensis phá hủy triệt để từng mảng tường còn sót lại. Thành phố phải bị san bằng, Titus ra lệnh, nhưng Đền thờ được chừa ra. muốn biết hình ảnh của đức Chúa có thể gây ra chừng ấy cuồng tín, và có thể dẫn cả dân tộc đến bước hy sinh, giống với cái gì.

      Cuối cùng, ngày 28 tháng Tám cũng vào được sân trước nhà thờ dẫn đến nơi thờ đức Thánh của các vị Thánh. Người ta rằng ở đó có thân của Yahweh, Chúa của người Do Thái. diện của ngài, tức là tượng của ngài, hay thứ gì đó tương đương.

      Bằng nhát kiếm, chém rách bức màn che treo ở chính điện. Bước lên trước vài bước và dừng lại, sững sờ.

      có gì hết.

      Hay đúng hơn là chiếc bàn bằng vàng nguyên chất, hai con vật có cánh, các kéroubim giống như từng nhìn thấy ở rất nhiều ở miền Lưỡng Hà. Nhưng giữa những đôi cánh rộng mở của chúng, có gì. Trống .

      Vậy là Chúa của Moise, Chúa của tất cả những kẻ cuồng nhiệt kia, tồn tại. Bởi vì trong Đền có dấu ấn nào thể diện của Người. Titus cất lên tràng cười, rồi vẫn với vẻ hớn hở ra khỏi Đền. “Trò lừa đảo lớn nhất thế giới! Làm gì có thánh thần ở Israel! Tất cả máu đổ đều vô ích.” Nhìn thấy tướng của mình cười cợt, tên lính vứt luôn bó đuốc cháy vào bên trong đền Thánh của các vị Thánh.

      Hai ngày sau, đền Jerusalem dần cháy hết. công trình huy hoàng mà Hérode sắp hoàn thành gần như còn sót lại gì.

      Ngày 8 tháng Chín năm 70, Titus rời khỏi Jerusalem hoang tàn để quay về Caesarea.

      Iokhanân chờ tên lính cuối cùng rời khỏi thành phố mới mạo hiểm quay về: khu phía Tây còn nữa. Khó nhọc bước giữa những đám đổ nát, nhận ra cung điện nguy nga của Caiphe nhờ bức tường bao quanh. Căn nhà của môn đồ cưng, nơi tuổi thơ hạnh phúc, cách đó hai trăm mét. định hướng và tiếp.

      Thậm chí còn nhìn thấy bồn phun nước bên dưới mái che. Tất cả bị đốt cháy, và mái nhà bị đổ sập. Chính ở đó, dưới đống ngói cháy đen, còn sót lại những tàn tích của căn phòng lớn. Căn phòng nơi Jesus ăn bữa cuối cùng cách đây bốn mươi năm, xung quanh Người lúc đầu có mười ba người, sau đó là mười hai.

      đứng rất lâu trước đống đổ nát. Cuối cùng, trong hai người Esseni cùng chạm vào tay .

      khỏi chỗ này thôi, Iokhanân. Ký ức nằm trong đống đá này. Ký ức ở trong . Chúng ta đâu bây giờ ?

      “Ký ức về Jesus xứ Nazareth. Kho báu mong manh mà tất cả mọi người đều thèm muốn.”

      đúng. Chúng ta về phía Bắc, về Galilee: tiếng vọng những lời của Jesus vẫn còn vang giữa những ngọn đồi ở đó. Tôi mang kho báu cần phải truyền lại.

      rút từ túi đeo ra mảnh giấy da, và đưa lên môi. “Bản sao bức thư của abbou tôi, tông đồ thứ mười ba.”

      Ba thế kỷ sau, phụ nữ Tây Ban Nha giàu có tên là Éthérie, người trả tiền tham gia chuyến hành hương đầu tiên được tổ chức để đến dự Tuần lễ Thánh ở Jerusalem, khi dọc bờ sông Jordan nhìn thấy tấm bia khắc bị đổ nghiêng cách thảm hại. Tò mò, bà liền dừng kiệu: phải chăng lại là ký ức về thời kỳ của Christ ?

      Bản khắc dễ đọc. Nó kể rằng vào thời Đền thờ bị phá, người Nazareth có tên là Iokhanân bị giết chết ngay tại đây khi ông muốn trốn khỏi Jerusalem đổ nát. Hẳn là lính của Titus đuổi kịp ông, Éthérie nghĩ, cắt cổ rồi vứt ông xuống dòng sông ngay gần đó. Bà thốt lên:

      người Nazareth! lâu lắm rồi còn người nào trong số họ. Con người tội nghiệp này hẳn là người cuối cùng, và chắc là chính vì thế mà người ta dựng tấm bia này ở chỗ ông ta bị giết chết.

      Điều mà người phụ nữ Cơ Đốc sùng đạo này biết, là Iokhanân phải là người Nazareth cuối cùng.

      Từ ngày đó, chỉ còn lại hai bản bức thư của tông đồ thứ mười ba của Jesus. bản được giấu tận đáy chiếc vại nằm cách biệt trong cái hang cheo leo giữa vách đá dựng đứng đống đổ nát của Qumran về hướng biển Chết.

      Và bản còn lại nằm trong tay những người Nazareth chạy thoát khỏi Pella. Những người tìm được chỗ trú thân trong ốc đảo thuộc sa mạc Ả Rập, có tên là Bakka.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      55.

      Đức ông Calfo khoác lên người chiếc áo dài có viền tím. Để tiếp Antonio, ông cần mang đủ những thứ thể phẩm tước giáo sĩ cấp cao của mình. Những thành viên mới gia nhập bao giờ được quên mình làm việc với ai.

      khi những cuộc trò chuyện ban đầu kết thúc, ông hiếm khi tiếp đón các thành viên của Hội ở nhà mình. Tất cả họ đều biết địa chỉ nhà ông,nhưng các đòi hỏi về bảo mật được tuân thủ tuyệt đối tại trong những hội kín ở Roma. Và đôi khi mùi nước hoa của Sonia vẫn còn phảng phất trong phòng rất lâu sau khi .

      Ông hài lòng mở cửa phòng cho tông đồ thứ mười hai.

      – Bây giờ, sứ mệnh của là theo dõi chặt chẽ cha Breczinsky. Đó là looser, kẻ thua cuộc. Nhưng loại người này luôn thể dự báo được, ông ta có thể có những hành động bột phát.

      – Tôi phải đạt được điều gì từ ông ta ?

      – Trước hết, ông ta phải cho ông biết những điều mà hai tu sĩ kia có thể với nhau những khi họ làm việc trong kho sách của Vatican. Sau đó nhắc nhở ông ta nhớ mình từ đâu đến, mình là ai và ai là Hồng y. Chỉ cần nhắc như vậy là có thể giữ ông ta trung thành với nhiệm vụ của mình. Bây giờ, trong số ít những người biết ông ta giữ gìn những tài liệu tuyệt mật nào. Đừng quên rằng trong ký ức của ông ta có vết thương khủng khiếp: chỉ cần ấn lên đó để đạt được từ ông ta điều chúng ta muốn. Đừng ngại ngần gì hết: chỉ có kết quả của sứ mệnh được tiến hành là quan trọng.

      Sau khi tiếp thu các chỉ dẫn, Antonio rời tòa nhà và công khai rẽ sang bên phải, hướng sông Tiber, ra vẻ như sắp quay về thành phố. ngẩng đầu lên, có thể cảm thấy cái nhìn của hội trưởng từ cửa sổ căn hộ của ông ta chiếu vào gáy mình. Nhưng khi đến góc Lâu đài San Angelo, lại rẽ phải lần nữa, và sau chỗ ngoặt, về hướng ngược với thành phố, hướng quảng trường Saint Peter.

      Roma giữ lại tia sáng ánh lên từ những bức tường đỏ son dưới ánh mặt trời nhợt nhạt tháng Mười hai. Từ nhiều thế kỷ nay, thành phố chứng kiến vũ điệu ngừng của những mánh khóe và mưu của các giáo sĩ Công giáo cao cấp. Lim dim, hiền từ và lắng dịu với vẻ huy hoàng của mình trong suốt mùa đông dài. Nó còn quan tâm đến các trò chơi quyền lực và danh vọng diễn ra quanh nấm mồ của Tông đồ.

      – Vào , bạn thân mến, Catzinger thốt lên và mỉm cười, ta đợi con.

      Chàng trai trẻ cúi mình để hôn chiếc nhẫn của Hồng y. “ kẻ trốn thoát sau hai cuộc thanh trừng liên tục, đầu tiên là của Gestapo, rồi đến quân Giải phóng. Vinh dự và tôn trọng dành cho những người đấu tranh vì phương Tây.”

      ngồi vào trước bàn và chăm chú nhìn vào Đức Hồng y bằng ánh mắt đen kỳ lạ của mình.
      56.

      Cha Nil cầu Leeland đến kho sách Vatican mình.

      – Tớ muốn tìm hiểu câu phát ra trong cuốn sổ ghi chép mà cha Andrei để lại ở San Girolamo. Tớ phải dùng Internet, có thể là trong nhiều giờ. Nếu cha Breczinsky hỏi cậu tìm cớ gì đó cho việc tớ vắng mặt nhé.

      Ngồi lại mình trước máy vi tính, ông cảm thấy nản lòng, mất phương hướng giữa mạng lưới lối tỏa ra các ngả. Những văn bản do Thư viện Huntington sao chụp lại chỉ khẳng định thêm điều ông cảm thấy từ khi nghiên cứu các bản thảo vùng biển Chết. Còn bản thảo tiếng Ai Cập cổ? Câu đầu tiên trong bản thảo cho phép ông hiểu được mật mã dùng trong Tín điều Nicée. Vẫn còn câu thứ hai và bức thư bí của tông đồ. Ông quyết định tiếp tục tấn công vào chỉ dẫn cuối cùng này, chỉ dẫn mà ông vừa tìm lại được dấu vết trong cuốn sổ ghi chép của cha Andrei. Tất cả hướng này phải giao nhau tại đâu đó. Đó là thông điệp cuối cùng của bạn ông: liên hệ chúng lại với nhau.

      Rembert Leenland…chàng sinh viên thân thiện và cả tin, chàng thanh niên tươi cười sung sướng coi cuộc sống như nhạc giờ đây trở thành người như thế nào rồi? Tại sao lại có thời khắc tuyệt vọng đó? Cha Nil nhận thấy trong ông ấy vết rạn rất sâu, mà ông ấy thể tâm với người bạn cũ.

      Còn về Breczinsky, ông ấy có vẻ hoàn toàn độc trong hầm ngầm lạnh giá và hoang vắng của Thư viện Vatican. Tại sao ông ấy lại tâm với ông những điều đó, có chuyện gì xảy ra giữa ông ấy và cha Andrei ?

      Ông quyết định tập trung vào bức thư của tông đồ. Ông phải tìm lại cuốn sách ở đâu đó thế giới, bắt đầu từ mã số Dewey của nó.

      Ông kết nối Internet, mở giao diện Google và đánh cụm từ các thư viện thế giới/ thuộc giáo hội.

      trang có mười địa chỉ Web ra. Phía dưới màn hình, Google cho ông biết còn mười hai trang tương tự được lựa chọn. Khoảng trăm ba mươi trang Web để tra cứu.

      Ông thở dài và nhấp chuột vào địa chỉ web đầu tiên.

      Trở về sau mười hai giờ trưa chút, Leeland phật ý khi chỉ thấy mảnh giấy ngắn ngủi đặt trước màn hình: cha Nil phải quay về San Girolamo gấp. Ông ấy quay lại đường Aurelia vào buổi tối.

      Ông ấy tìm được gì chăng? Tu sĩ người Mỹ chưa bao giờ là học giả nghiên cứu Kinh Thánh. Nhưng công việc của cha Nil bắt đầu khiến ông hết sức quan tâm. Bằng cách tìm tòi để phát điều gây nên cái chết của cha Andrei, bạn ông muốn trả thù cho ký ức về ông ấy; còn ông, giờ đây ông mong ước trả thù cho chính cuộc đời bị phá hủy của mình.

      Vì ông cảm thấy những người phá hủy cuộc sống của ông cũng chính là những người gây ra tai nạn giết chết thủ thư của tu viện Saint – Martin.

      Mặt trời buổi hoàng hôn nhuộm màu đỏ đậm lên những đám mây ô nhiễm phủ thành Roma. Leeland quay lại Vatican . Trong căn phòng bên dưới, người Palestine đột nhiên nghe thấy có ai đó trong phòng, rồi ngồi xuống trước máy vi tính: chắc là cha Nil. Các cuộn băng từ chỉ ghi lại được thanh của bàn phím.

      Đột nhiên, thanh sôi nổi hẳn lên: đến lượt Leeland quay về.

      Họ sắp chuyện với nhau.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      57.

      Ai Cập, từ thế kỷ II đến thế kỷ VII

      Bị chiến tranh bức bách phải rời bỏ Pella, những người Nazareth được người Ả Rập trong ốc đảo Bakka, nơi họ gây dựng lại cuộc sống, tiếp đón nhiệt tình. Nhưng thế hệ thứ hai chịu đựng được khắc nghiệt trong sa mạc Ả Rập: số người tiếp tục đến Ai Cập. Họ định cư ở phía Bắc Louxor, trong làng thuộc vùng núi El-Tarif có tên gọi là Nag Hamadi. Ở đó, họ tạo thành cộng đồng gắn kết với nhau bằng kỷ niệm về tông đồ thứ mười ba và những lời giảng dạy của ông. Và bằng bức thư của ông, mà mỗi gia đình sở hữu bản sao.

      Họ nhanh chóng va chạm với các giáo sĩ Cơ Đốc đến từ Alexandria, nơi Giáo hội bành trướng mạnh mẽ. Đạo Cơ Đốc lan truyền trong Đế chế dữ dội như lửa lan trong rừng: người Nazareth, những người thừa nhận thiên chất của chúa Jesus, phải phục tùng – hoặc biến mất.

      Biến Jesus thành Chúa Christ ? Phản bội lại bức thư? bao giờ. Họ bị người Cơ Đốc truy hại. Từ Alexandria, những mệnh lệnh viết bằng tiếng Ai Cập cổ được ban ra: phải hủy bức thư này, tại Ai Cập cũng như ở khắp nơi trong Đế chế. Mỗi khi có gia đình người Nazareth bị xua đuổi vào sa mạc, nơi cái chết chờ đợi họ, nhà của họ liền bị lục soát, và bức thư của tông đồ thứ mười ba bị đốt. Bức thư về nấm mộ có chứa hài cốt của Jesus, ở đâu đó trong sa mạc Idumea: nấm mồ của Jesus phải trống rỗng, để Christ sống mãi.

      Tuy nhiên có bản sao bức thư thoát khỏi tay những kẻ săn đuổi và đến tận thư viện ở Alexandria, nơi nó bị lẫn vào năm trăm nghìn tác phẩm có trong kỳ quan thứ tám này của thế giới.

      thời gian sau năm 200, thanh niên vùng Alexandria có tên là Origène bắt đầu thường xuyên lui tới thư viện. Là người nghiên cứu mệt mỏi, đam mê với con người Jesus. Ký ức về Người kỳ diệu.

      Trở thành nhà giáo, Origène bị Gám mục của mình tên là Demetrius lên án. Đó là kết quả của lòng ghen ghét, vì sức hấp dẫn của thu hút toàn bộ giới ưu tú ở Alexandria. Nhưng cũng là do đề phòng, vì Origène ngần ngại sử dụng những văn tự bị Giáo hội cấm trong bài giảng của mình. Cuối cùng, Demetrius đuổi khỏi Ai Cập và Origène trốn sang Caesarea thuộc Palestine, nhưng mang theo kí ức của mình. Còn về bức thư của tông đồ thứ mười ba, nó vẫn nằm lẫn trong thư viện rộng lớn, được ai biết đến: hiếm nhà nghiên cứu nào có được tài năng của Origène.

      Vào năm 691, khi Alexandria rơi vào tay người Hồi giáo, tướng Al-As Amrou ra lệnh đốt tất cả các cuốn sách: “Nếu chúng giống với kinh Koran, ông ta tuyên bố, chúng vô ích. Còn nếu chúng giống chúng nguy hiểm.” Trong vòng sáu tháng, toàn bộ ký ức về thời kỳ Cổ đại làm mồi cho các nhà tắm nóng công cộng.

      Khi đốt thư viện Alexandria, người Hồi giáo hoàn thành công việc mà người Cơ Đốc thể làm được: từ đó trở , còn bản sao nào của bức thư ở bất kỳ đâu.

      Trừ bản gốc, vẫn giấu trong chiếc vại được cát che phủ, ở bên trái lối vào trong những hang đá phía đống đổ nát của Qumran.

      58.

      – Thế nào, cậu có tìm thấy gì ?

      Nét mặt căng thẳng, Leeland vừa về đến phòng. Bên cạnh máy vi tính, giấy tờ vương vãi. Cha Nil có vẻ mệt mỏi: ông trả lời mà đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Rồi trở lại chỗ ngồi, ông quyết định quan tâm đến lời nhắc nhở của Breczinsky và hết với bạn mình.

      – Sau khi cậu , tớ bắt đầu tra cứu các thư viện lớn nhất thế giới. Khoảng cuối buổi sáng, tớ gặp thủ thư ở Heidelberg, người từng sống ở Roma. Chúng tớ trao đổi với nhau, và ông ấy với tớ rằng mã số Dewey hẳn là đến từ…đoán xem?

      – Thư viện San Girolamo, và chính vì thế mà cậu gấp gáp quay lại đó!

      – Lẽ ra tớ phải nghĩ đến điều đó, vì đó là thư viện cuối cùng cha Andrei lui tới trước khi chết: ông ấy bắt gặp cuốn sách và nhanh chóng ghi lại chỉ dẫn về nó vào cái mà ông có trong tay là cuốn sổ ghi chép của mình – chắc là với ý định tra cứu cuốn sách này lần nữa. Và rồi ông ấy vội vã rời khỏi Roma, bỏ lại cuốn sách khi đó trở lên vô ích.

      Leeland ngồi xuống bên cạnh cha Nil, mắt sáng lên.

      – Và cậu tìm lại được cuốn sách chứ ?

      – Thư viện San Girolamo được tạo lập cách chắp vá, các đời thủ thư kế tiếp nhau nhanh chóng, và ở đó có thể tìm thấy mọi thứ. Nhưng hầu hết sách ở đó đều được sắp xếp, và thực tế là tớ tìm ra cuốn sách khiến cha Andrei chú ý, cantena của Eusèbe de Caesarea: bản in hiếm có vào thế kỷ XVII, tớ chưa từng nghe đến.

      Leeland hỏi với vẻ ngượng nghịu:

      – Xin lỗi cậu, Nil ạ, nhưng tớ quên hết những thứ phải là nhạc rồi. Catena là gì?

      – Vào thế kỷ III xảy ra cuộc chiến khốc liệt xung quanh thiên chất của Jesus, điều mà Giáo hội tìm cách áp đặt: khắp nơi người ta hủy các văn tự phù hợp với giáo lý khai sinh. Sau khi kết tội Origène, Giáo hội cho đốt tất cả các bản viết của ông. Eusèbe de Caesarea rất ngưỡng mộ người dân thành Alexandria này, người chết trong thành phố của mình. Ông muốn cứu vớt những tác phẩm có thể cứu được của Origène, nhưng để bản thân bị kết tội, ông truyền bá những đoạn trích được lựa chọn, đoạn nọ gắn với đoạn kia như những mắt xích trong xâu chuỗi: catena. Sau đó, người ta lặp lại ý tưởng của ông ấy, và ngày nay chúng ta chỉ có thể tiếp cận được nhiều tác phẩm cổ biến mất qua các trích đoạn này. Cha Andrei đoán rằng trong catena mà ông ấy chưa bao giờ nhìn thấy có thể chứa đựng những đoạn văn của Origène rất ít được biết đến. Ông ấy lục tìm và thấy.

      – Thấy cái gì?

      câu của Eusèbe, cho đến nay vẫn ai chú ý đến. Ở trong số các tác phẩm của mình ngày nay bị mất, Origène có rằng từng thấy trong Thư viện Alexandria epistola abscondita apostoli tredicesimi bí : bức thư bí mật – hoặc được che giấu – của tông đồ thứ mười ba, trong đó có thể có bằng chứng rằng Jesus có bản chất thánh thần. Hẳn là cha Andrei nghi ngờ tồn tại của bức thư này, ông ấy từng bóng gió với tớ về nó: tớ thấy ông ấy trong quá trình tìm kiếm, vì cẩn thận ghi lại tài liệu tham khảo bất ngờ này.

      – Liệu có thể tin được vào câu văn lẻ loi trong văn tự bị rơi vào quên lãng ?

      Cha Nil xoa cằm.

      – Cậu đúng, chỉ mình nó mắt xích đơn giản này trong catena là đủ. Nhưng nhớ lại : trong mảnh giấy để lại trước khi chết, cha Andrei gợi ý là phải liên hệ bốn hướng nghiên cứu mà ông ấy ghi lại với nhau. nhiều tuần nay tớ lật lật lại trong đầu câu thứ hai trong bản thảo tiếng Ai Cập cổ mà tớ tìm thấy ở thư viện: “Bức thư phải bị hủy bỏ ở khắp nơi, để nơi ở còn ở lại.” Nhờ vào Origène, tớ tin rằng cuối cùng tớ cũng hiểu ra.

      mật mã mới à ?

      – Hoàn toàn . Vào đầu thế kỷ III, Giáo hội xây dựng giáo lý Chúa sinh được tuyên bố trong hội nghị Giám mục Nicée, đồng thời tìm cách loại bỏ tất cả những gì chống lại giáo lý đó. Mảnh bản thảo tiếng Ai Cập cổ này – chính là thứ khiến cha Andrei chú ý – hẳn là phần còn sót lại trong chỉ thị của Alexandria, ra lệnh hủy bỏ bức thư này ở khắp nơi. Tiếp theo, người ta chơi chữ khi dùng từ Ai Cập cổ mà tớ dịch sai thành “nơi ở”, nhưng thực ra còn có nghĩa là “hội”. Trong tiếng Hy Lạp, là ngôn ngữ chính thức của Alexandria, “hội” được gọi là ekklesia – Giáo hội. Vậy là ý nghĩa của câu này trở nên ràng: phải hủy bỏ bức thư này ở khắp nơi, để Giáo hội còn mãi – để nó bị biến mất vào hư vô! Chỉ được lựa chọn trong hai thứ: bức thư của tông đồ thứ mười ba hay sống còn của Giáo hội.

      Leeland khẽ huýt sáo :

      – I see [[33]]….

      – Cuối cùng, các hướng nghiên cứu cũng bắt đầu gặp nhau: bản khắc ở Germigny khẳng định rằng vào thế kỷ VIII, tông đồ thứ mười ba bị coi là rất nguy hiểm, đến nỗi người ta phải gạt bỏ ông ta vĩnh viễn, alpha và omega – và chúng ta biết rằng ông ta phải là ai khác mà chính là môn đồ cưng trong kinh Phúc thứ tư. Origène cho chúng ta biết rằng ông ấy nhìn thấy ở Alexandria bức thư do người này viết, và bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ khẳng định rằng có hoặc nhiều bản sao của bức thư này ở Nag Hamadi, bởi vì nó ra lệnh hủy bỏ các bản sao đó.

      – Nhưng làm sao mà bức thư này lại có thể đến tận Nag Hamadi được?

      – Chúng ta biết rằng người Nazareth trốn chạy đến Pella, vùng nay thuộc Jordan, có thể họ cùng với tông đồ thứ mười ba. Sau đó, người ta mất dấu họ. Nhưng cha Andrei cầu tớ đọc kỹ kinh Coran, bộ kinh mà ông ấy hiểu . Và tớ làm thế, bằng cách so sánh nhiều bản dịch khoa học có được ở tu viện. Tớ ngạc nhiên khi thấy tác giả rất hay nhắc đến những naçâra – từ Ả Rập để chỉ “người Nazareth” – họ chính là nguồn thông tin chủ yếu về Jesus. Sau Pella, các học trò của tông đồ thứ mười ba phải trốn chạy đến Ả Rập, nơi có lẽ Muhammad quen biết họ. Thế có lý gì mà họ tiếp tục đến tận Hy Lạp? Đến tận Nag Hamadi, và mang theo các bản sao của bức thư nổi tiếng này?

      – Kinh Coran… Cậu thực tin rằng những người Nazareth chạy trốn có ảnh hưởng đến tác giả của kinh này à?

      – Đương nhiên, có rất nhiều điều trong văn tự này thể điều đó. Tớ muốn thêm về chuyện này với cậu bây giờ: tớ còn phải khám phá thêm hướng cuối cùng, hoặc loạt tác phẩm liên quan đến các Hiệp sĩ dòng Đền, với mã số đầy đủ. Lần khác chúng ta về kinh Coran, muộn rồi, tớ phải về San Girolamo.

      Cha Nil đứng dậy, và lại nhìn ra thành phố chìm trong bóng tối. Ông thêm như tự nhủ:

      – Vậy là tông đồ thứ mười ba viết bức thư, nó bị hủy bỏ ở khắp nơi, và bị lòng căm thù của Giáo hội truy đuổi. Liệu có thể có điều gì nguy hiểm đến thế trong bức thư này nhỉ?

      Ở tầng dưới, Moktar nghe rất chăm chú. Khi cha Nil nhắc đến kinh Coran, Muhammad và những người Nazareth, buộc miệng chửi rủa:

      – Đồ con chó!

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      59.

      Sa mạc Ả Rập, tháng Chín năm 622

      Người đàn ông cho lạc đà phi nước đại trong đêm đen. chạy trốn về phía Medina, lạc đà chạy hết sức đến sùi bọt mép, và đêm nay được gọi là Hégire [[34]], đánh dấu thời điểm bắt đầu lịch của người Hồi giáo.

      trốn khỏi ốc đảo Bakka, nơi sinh ra trong bộ tộc danh giá của người Quraysh. trốn chạy vì người Quraysh tự xưng là con của Abraham, nhưng lại tôn thờ những viên đá thiêng.

      Tại nơi dừng chân ở giữa sa mạc này, từ thời xa xưa cộng đồng người Do Thái sinh sống. Đứng đầu cộng đồng đó là giáo trưởng uyên bác, nhiệt thành, mơ ước dẫn dắt toàn bộ Ả Rập đến với đạo Do Thái thông qua truyền thống giáo trưởng của mình. Chàng thanh niên Ả Rập bị con người cuồng nhiệt này quyến rũ: trở thành học trò của ông và lặng lẽ cải đạo.

      Nhưng giáo trưởng của đòi hỏi nhiều hơn thế. Những người Quraysh kiêu ngạo bác bỏ lời thuyết giáo của người Do Thái: biết đâu họ nghe theo , người Ả Rập cùng bộ tộc với họ? Chẳng phải là vẫn mang dòng máu Do Thái đó sao? Điều ông dạy mỗi ngày, ông muốn nhắc lại ở các nơi trong ốc đảo. “Hãy với họ,” ông ngừng nhắc lại với … Để bỏ sót bất kì điều gì nghe được, Muhammad ghi chép lại, và các ghi chép ngày càng nhiều lên. Bằng tiếng Ả Rập, vì giáo trưởng hiểu rằng phải chuyện với những người này bằng ngôn ngữ của họ, chứ phải bằng tiếng Hê brơ.

      Đối với những người Quraysh, thế là quá lắm: người của họ, Muhammad, lại tìm cách phá bỏ nghi lễ thờ đá thiêng, nguồn gốc giàu có của họ! Cùng lắm họ chỉ có thể dung thứ nếu trở thành người Nazareth: những người ly khai khỏi đạo Cơ Đốc này đến đây từ nhiều thế kỷ nay, và nhà truyền giáo Jesus của họ nguy hiểm. Cùng với những lời giảng dạy của giáo trưởng, chàng trai Ả Rập sẵn lòng nghe lời giảng dậy của họ: bị Jesus lôi cuốn, có lẽ Muhammad muốn sáp lại gần họ. Nhưng những người Quraysh để có thời gian, và họ xua đuổi .

      Giờ đây, trốn chạy về phía Medina: toàn bộ hành lý của chỉ bao gồm những ghi chép quý báu. Những điều mà ghi lại ngày này qua ngày khác, theo lời giáo trưởng của : hãy với họ…

      Ở Medina, trở thành dũng tướng. Thành công tích tụ, mở rộng quyền lực của mình ra cả vùng và trở thành thủ lĩnh chính trị được tôn trọng. Phải có những điều luật để tổ chức những người theo : ban bố luật, sau đó viết chúng ra, và những văn tự này dần cộng thêm vào các ghi chép trước kia của . Đôi khi cũng ghi lại những việc linh tinh, vài câu chuyện kể về các trận đánh của mình. Những ghi chép của tạo thành cuốn sổ đường lớn.

      Khi muốn tập hợp những người Do Thái dưới trướng của mình, họ từ chối thẳng thừng: tức giận xua đuổi họ ra khỏi thành phố và quay về với những người Cơ Đốc ở phương Bắc. Được, những người này sẵn sàng giúp trong các cuộc chinh phục, tuy nhiên với điều kiện: phải trở thành người Cơ Đốc, và thừa nhận thiên chất của Jesus. Muhammad nguyền rủa họ, và căm thù họ khôn nguôi như đối với những người Do Thái.

      Chỉ có những người Nazareth là được ưu ái trong mắt . Và trong sổ của mình, viết những lời ca ngợi họ và nhà truyền giáo Jesus của họ.

      Khi trở về Bakka với tư cách người chiến thắng, Muhammad dùng kiếm quét sạch những viên đá thiêng của những người tôn sùng chúng. Nhưng ông dừng lại trước hình Jesus và mẹ Người, vốn được người Nazareth sùng kính từ lâu. Ông tra kiếm vào vỏ và cúi người thấp.

      Sau đó, cái tên Bakka có thay đổi chút ít, như diễn ra, và ốc đảo này được biết đến ở mọi nơi dưới tên gọi Mekka.

      Mecca.

      Hai thế hệ sau, vua Thổ Nhĩ Kỳ là Othman sưu tập lại cuốn sổ đường của Muhammad, và gọi nó là Coran, tuyên bố rằng nó được Muhammad viết ra theo lời đọc trực tiếp của Chúa. Từ đó trở , ai được nghi ngờ về bản chất thần thánh của kinh Coran, nếu còn muốn sống.

      Đạo Hồi chưa bao giờ có tông đồ thứ mười ba.

      60.

      Quảng trường Saint Peter huyên náo đông chật người đổ về chờ đón những ngày quan trọng. tấm chân dung to tướng của vị tuyên thánh mới được treo ở mặt tiền giáo đường. Trời bớt lạnh và có nắng nên có thể tổ chức lễ tuyên phúc trọng thể ở ngoài trời, hai cánh của hàng cột Bernin ôm trọn đám đông ô hợp vui sướng được nhìn thấy Đức Thánh Cha và tham gia vào lễ hội của đạo Cơ Đốc.

      Với tư cách người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Hồng y Catzinger đứng chủ lễ ở bên phải Giáo hoàng. Ông là người chủ trì lễ tuyên phúc này: lễ tuyên phúc sắp tới có thể dành cho người sáng lập ra hội Opus Dei. Danh sách liệt kê các phẩm chất siêu nhiên của ông ta được lập ra khó khăn gì, nhưng người ta rất vất vả để tìm được ba phép màu cần thiết cho việc phong thánh theo đúng quy định. Catzinger máy móc nhấc lên vạt áo choàng của Giáo hoàng bị tuột bởi ông già run rẩy. Trong khi Giáo hoàng tuyên bố những lời thiêng liêng, Hồng y mỉm cười. “Phép màu ư, rồi thấy. Phép màu đầu tiên là tồn tại liên tục trong suốt nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo tông truyền La Mã.”

      Catzinger có cái đặc huệ là quen biết riêng người chuẩn bị được phong thánh. Trước khi thành lập Opus Dei, Escriva de Balaguer từng là chiến sĩ tích cực trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bên cạnh Franco, sau đó có mối liên hệ bạn bè với sĩ quan trẻ trong quân đội Chi Lê, chàng Augusto Pinochet nào đó. Cha ông ta có lẽ tán thành việc phong thánh này; ông này cũng chọn hướng đúng khi chiến đấu mặt trận phía Đông chống Cộng Sản. Sớm đưa Escriva de Balaguer lên bàn thờ chính là trả lại công bằng cho người cha chết vì phương Tây.

      Lẫn trong đám đông các giáo sĩ cấp cao ngồi thành hàng những chiếc ghế dài đặt trước bục của Giáo hoàng, ở vị trí kiêm tốn dành cho thư lại, Đức ông Calfo hưởng thụ ve vuốt của ánh mặt trời và quang cảnh đẹp đẽ. “Chỉ có Giáo hội Công giáo mới có khả năng tổ chức cuộc hội ngộ giữa thần thánh và con người ở giữa quang cảnh đẹp đến thế, cho đông đảo người đến thế.” Cuối buổi lễ, trong khi các giáo sĩ xếp thành đoàn rước phía sau Giáo hoàng, ông bắt gặp ánh mắt của Hồng y, ông này gật đầu ra dấu khẩn cấp.

      giờ sau, hai người ngồi đối diện nhau trong văn phòng của Catzinger, ông này phô ra vẻ mặt của những ngày tồi tệ.

      – Thế nào, Đức ông, mọi việc thế nảo rồi?

      Ngược lại với người đứng đầu Cơ quan, Calfo có vẻ rất thư thái. Sonia phải là được việc gì: ông tìm thấy ở nữ tu sĩ thành thạo trong nghi lễ thờ thần Eros, đồng thời cũng là thính giả tốt.

      – Thưa Đức Hồng y, chúng ta tiến triển nhanh chóng, Cha Nil tỏ ra có năng lực, rất có năng lực trong việc nghiên cứu.

      Gương mặt Hồng y nhăn lại. Những báo cáo của Leeland chẳng có gì thú vị, cách quãng, và vẫn còn quá sớm để gây áp lực đối với cha Breczinsky: ảnh hưởng của ông đối với người Ba Lan này dựa những khúc quanh tối tăm trong tâm hồn con người, ông chỉ có thể sử dụng đòn bẩy này lần, và phải chắc chắn. Lúc này, Đức ông Calfo là người duy nhất điều khiển trò chơi.

      – Ông muốn gì?

      – À …- Calfo uốn đôi môi dày – ông ta tìm thấy dấu vết của văn bản tông đồ bị mất, có thể khẳng định những phân tích của ông ta về kinh Phúc theo thánh Jean.

      Hồng y đứng dậy, ra hiệu cho Calfo theo mình đến gần cửa sổ và chỉ cho ông này thấy quảng trường Saint Peter. Bục của Giáo hoàng vẫn còn ở đó, hàng nghìn người hành hương vây quanh trung tâm nhạy cảm này giống như nước trong xoáy nước xoay quanh xoáy hút. Đám đông có vẻ hạnh phúc, gia đình lớn phát ra những mối dây liên kết các thành viên lại với nhau ngay khi hình thành.

      – Hãy nhìn họ , Đức ông. Ông và tôi phải chịu trách nhiệm về hàng triệu tín đồ giống như những người này, những người sống bằng niềm hy vọng về phục sinh mà hóa thân của Chúa hy sinh bản thân để mang đến cho họ. Chỉ người đe dọa tất cả những thứ này ư? Chúng ta chưa bao giờ dung thứ cho điều đó. Hãy nhớ đến Giordano Bruno, tu sĩ cũng rất có năng lực trong việc nghiên cứu: ông ta bị thiêu cách đây kilomet, tại khu Campo de Fiori, mặc dù ông ta nổi tiếng khắp châu u. Thứ đến ở đây là trật tự của thế giới: lại lần nữa, dường như tu sĩ có khả năng làm đảo lộn nó. Giờ đây chúng ta thể chữa lành thân thể của Giáo hội bằng lửa giống như trong quá khứ. Mà chúng ta phải nhanh chóng chấm dứt các nghiên cứu của cha Nil.

      Calfo trả lời ngay. Mười thành viên của Hội ủng hộ đường lối hành động của ông: chỉ đưa thông tin đủ để làm cho Hồng y sợ, nhưng để lộ mục đích cuối cùng của Hội.

      – Tôi nghĩ vậy, thưa Đức Hồng y, đó chỉ là nhân vật trí thức biết việc mình làm thôi. Ý kiến của tôi là cứ để ông ta tiếp tục, chúng ta vẫn kiểm soát được tình hình.

      – Nhưng nếu ông ta quay về tu viện, làm sao tránh được việc ông ta công bố các kết luận của mình?

      – Pazienza [[35]], thưa Đức Hồng y. Có những cách thức khác, ít gây ấn tượng hơn tai nạn tàu hỏa, để khiến những người lạc khỏi giáo lý của Giáo hội phải câm miệng.

      Ngày hôm trước, ông phải xoa dịu Moktar nổi điên lên khi nghe cha Nil bác bỏ bản chất thiêng liêng của kinh Coran và thân nhân của người sáng lập ra đạo Hồi: người Palestine này muốn hành động ngay lập tức.

      Chỉ trong vài ngày, cha Nil tự khoác vào người chiếc thắt lưng bằng chất nổ. Calfo muốn cha Nil làm mình nổ tung trước khi tỏ ra thực có ích cho Giáo hội Công giáo. Bằng cử chỉ máy móc, ông xoay chiếc nhẫn Giám mục quanh ngón áp út và kết luận với nụ cười bảo đảm:

      – Ở Roma, cha Nil hành xử giống như chưa từng rời khỏi tu viện: chỉ ra khỏi San Girolamo để đến kho sách của Vatican, giao tiếp với bất kỳ ai ngoài bạn ông ta là Leeland, tiếp xúc với báo chí hay các lực lượng chống Giáo hội, dường như ông ta biết gì về họ.

      Calfo hất cằm về phía quảng trường Saint Peter.

      – Ông ta phải là mối nguy đối với những đám người này, họ bao giờ nghe đến ông ta và ông ta cũng tự nguyện lựa chọn biết đến họ bằng cách giam mình trong tu viện. Hãy để ông ta được tiếp tục công việc nghiên cứu cách yên ả: tôi có niềm tin vào quá trình đào tạo mà ông ta nhận được ngay từ khi còn tập ở tu viện Saint-Martin, đó là cái khuôn đúc để lại dấu ấn suốt đời con người. Ông ta trở lại hàng ngũ của mình: còn nếu ông ta muốn tìm lại tự do bên trong của mình, khi đó chúng ta can thiệp. Nhưng chắc là việc đó cần thiết.

      Khi chia tay nhau, hai giáo sĩ cấp cao cùng thỏa mãn: người thứ nhất nghĩ rằng khiến Đức Hồng y phải lo lắng đủ độ mà vẫn giữ được quyền tự do hành động. Người thứ hai nghĩ rằng tối nay được gặp Antonio và được cung cấp thông tin gần như bằng với hội trưởng của Hội Thánh Pie V.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :