BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      44.

      Đồi Vatican, năm 67

      – Peter… Nếu Người ăn gì, ít nhất cũng uống chút !

      Ông già gạt hũ nước mà người đồng hành của ông, người mặc chiếc áo cánh ngắn của nô lệ, đưa cho. Ông nghiêng người, vơ ít rơm, nhét vào khoảng giữa lưng và bức tường xây theo kiểu opus reticulatum [[31]]. Ông rùng mình: vài giờ nữa, có thể ông bị đóng đinh câu rút, sau đó thân thể ông bị phủ nhựa. Đêm xuống, đao phủ châm lửa vào những ngọn đuốc sống là người bị đóng đinh câu rút, để chiếu sáng cảnh tượng mà hoàng đế muốn tặng cho nhân dân thành Roma.

      Từ nhiều ngày nay, người bị kết án tử hình bị nhốt vào những đường hầm dài hình vòm dẫn trực tiếp ra đường đua trong đấu trường. Qua tấm lưới ngăn lối vào, người ta thấy thấp thoáng hai cột mốc– các meta– đánh dấu hai đầu mút của đường đua. Chính tại đó, xung quanh đài tháp lớn ở trung tâm trường đấu, là nơi mỗi tối người ta đóng đinh câu rút những “người Do Thái” được cho là phải chịu trách nhiệm về vụ hỏa hoạn lớn phá hủy thành phố vài năm trước, phân biệt đàn ông, đàn bà hay trẻ em.

      – Ăn hay uống cũng để làm gì, hả Lin? Con biết là tối nay mà: chúng luôn bắt đầu từ những người già nhất. Con còn sống thêm vài ngày nữa, rồi Anaclet chứng kiến con ra , trước khi đến lượt nó đến gặp chúng ta cùng với những người cuối cùng.

      Ông xoa đầu đứa trẻ ngồi cạnh ông đống rơm. Nó nhìn ông với vẻ sùng kính, đôi mắt to lại càng to hơn bởi những quầng thâm.

      Ngay từ khi đến Roma, Peter thâu tóm cộng đồng người Cơ Đốc. Đa số những người cải đạo là nô lệ, giống như Lin và cậu bé Anaclet. Tất cả họ đều từng theo các tôn giáo bí đến từ phương Đông, vốn có sức hấp dẫn thể cưỡng lại đối với người dân. Những tôn giáo này mang lại cho họ viễn cảnh về cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, và những nghi lễ cúng bái ly kỳ vấy máu. Tôn giáo khắc khổ và đúng đắn của những người Do Thái cải đạo theo Đấng Christ, vừa là Chúa trời lại vừa là con người, đạt được thành công vang dội.

      Peter cuối cùng chấp nhận rằng việc thánh hóa hoàn toàn Jesus là điều kiện thể thiếu cho công việc truyền bá tôn giáo mới. Ông quên những ngại ngùng ràng buộc ông vào thời gian đầu khi còn ở giữa những người cải đạo tại Jerusalem: “Jesus chết. Christ – Chúa trời vẫn sống. Chỉ người còn sống mới có thể giúp những cộng đồng này đến được với cuộc sống mới.”

      Người ngư phủ thành Galilee trở thành người đứng đầu thể tranh cãi của cộng đồng ở Roma: ai còn nghe đến tông đồ thứ mười ba nữa.

      Ông nhắm mắt lại. Khi đến đây, ông kể cho những người bị giam giữ nghe việc bọn lính bắt ông đường Appia, trong lúc ông trốn chạy cùng làn sóng người muốn thoát khỏi truy bắt của Néron. Đầy hận thù đối với điều mà họ coi là hèn nhát, nhiều người Cơ Đốc bị bắt vì lòng dũng cảm trong nhà tù này lánh xa ông.

      sống rời bỏ ông: liệu ông có trụ được đến tối ? Ông phải trụ được. Ông muốn được chịu đựng cái chết gớm ghiếc này, sau khi bị chính những người của ông xa lánh, để chuộc tội và xứng đáng với tha thứ của Chúa.

      Ông ra hiệu cho Lin, ta ngồi cạnh Anaclet, nền đá lát mốc meo. Từ trưa đến giờ, người ta còn nghe thấy tiếng gầm của những con mãnh thú nữa: sáng nay, tất cả bọn chúng bị các đấu sĩ tàn sát trong trận đánh lớn. Mùi của bầy thú trộn lẫn với thứ mùi phát lộn mửa của máu và phân. Ông phải cố gắng mới được.

      – Có thể các con sống, con và đứa trẻ này. Cách đây ba năm, sau vụ cháy, những người trẻ nhất bị kết án được thả, khi dân chúng mệt mỏi vì chừng ấy kinh hoàng gieo rắc nền cát của đấu trường. Con sống, Lin ạ, phải như thế.

      Người nô lệ đăm đăm nhìn ông, mắt nhòa lệ.

      – Nhưng nếu cha còn, Peter, ai dẫn dắt cộng đồng chúng con? Ai dạy dỗ chúng con?

      – Con. Cha biết con từ khi con bị bán ở chợ gần Quảng trường, cũng như cha nhìn đứa trẻ này lớn lên. Con và nó, hai con sống. Các con là tương lai của Giáo hội. Cha chỉ còn là cái cây già, mục rỗng tàn lụi ở bên trong…

      – Sao cha lại có thể thế được? Cha là người biết Chúa Cứu thế của chúng ta, cha là người theo Người và phục vụ Người chút lầm lỗi!

      Peter cúi đầu. Việc phản bội Jesus, những vụ ám sát liên miên, cuộc chiến khốc liệt chống lại các đối thủ của ông ở Jerusalem, biết bao đau khổ do ông gây ra…

      – Hãy nghe cha đây, Lin: mặt trời xuống thấp rồi, chỉ còn ít thời gian nữa thôi. Con phải biết điều này, cha lầm lỗi. chỉ do ngẫu nhiên, như vẫn thường xảy đến với mỗi người chúng ta, mà trong thời gian dài, và lặp lặp lại. Hãy điều đó với Giáo hội, khi tất cả những chuyện này kết thúc. Nhưng con cũng hãy với Giáo hội rằng cha chết trong yên bình vì cha nhận ra những lỗi lầm của mình, vô số lỗi lầm. Vì cha xin chính Jesus, và chúa của Người, tha thứ cho ta. Và vì bao giờ – bao giờ – người Cơ Đốc lại được nghi ngờ lòng khoan dung của Chúa. Đó chính là phần cốt yếu trong lời dạy của Jesus.

      Lin đặt tay mình lên tay Peter: chúng lạnh băng. Phải chăng sống rời khỏi ông? Nhiều người chết trong đường hầm này, thậm chí trước khi đến nơi chịu nhục hình.

      Ông già ngẩng đầu lên.

      – Lin, hãy nhớ- và con, chú bé, hãy nghe: vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng mà chúng ta ăn cùng với Thầy, ngay trước khi Người bị bắt, chúng ta có mười hai người ngồi xung quanh Người. Chỉ có mười hai tông đồ ngồi xung quanh Jesus. Cha ở đó, cha làm chứng cho điều này trước Chúa trước khi chết. Có thể ngày nào đó các con nghe về tông đồ thứ mười ba: cả con, cả Anaclet, cả những người tiếp nối các con, đều được dung thứ dù chỉ là lời chú đơn giản, lời nhắc đến tông đồ khác ngoài Mười hai người. Điều đó liên quan đến tồn tại của chính Giáo hội. Các con có thể trang trọng thề trước cha và Chúa ?

      Chàng trai trẻ và chú bé gật mạnh đầu.

      – Nếu thoát được ra khỏi vùng bóng tối, tông đồ thứ mười ba này có thể phá hủy hết tất cả những gì chúng ta tin tưởng. Tất cả những gì cho phép – ông chỉ vào những cái bóng mờ nhạt lả nền đất – những người đàn ông, đàn bà này đều chết trong yên bình tối nay, thậm chí có thể họ còn mỉm cười. Bây giờ, hãy để mặc cha. Cha có nhiều điều cần với Chúa Cứu thế của cha.

      Peter bị đóng đinh câu rút vào lúc hoàng hôn, giữa hai meta của đấu trường Vatican. Khi chúng châm lửa vào xác ông, ngọn lửa chiếu sáng lát cho đài tháp cách giá chữ thập của ông vài mét.

      Hai ngày sau, Néron tuyên bố trò chơi kết thúc: tất cả những người bị kết án tử hình đều được thả tự do, sau khi phải chịu phạt ba mươi chín roi.

      Lin kế tục nghiệp của Tông đồ, chôn xác ông đỉnh đồi Vatican, cách lối vào đấu trường quãng.

      Anaclet kế tục Lin, trở thành người thứ ba trong danh sách các Giáo hoàng được tôn xưng vào mỗi lễ mixa ở các nhà thờ Công giáo toàn thế giới. Chính ông là người cho xây nhà thờ đầu tiên mộ Peter. Nhà thờ này sau đó được thay bằng nhà thờ lớn mà hoàng đế Constantin muốn phải uy nghiêm.

      Lời thề trang trọng của hai Giáo hoàng kế vị Peter được truyền lại từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

      Và đài tháp nơi sáng đó cha Nil dừng bước lát- khi gió sirocco ngừng thổi, Roma lại rực rỡ trong ánh hào quang- chính là đài tháp nơi mà dưới chân nó mười chín thế kỷ trước, môn đồ của Jesus, được giải hòa với Chúa của mình nhờ ăn năn và tha thứ, tự nguyện đối mặt với nhục hình khủng khiếp.

      Vì Peter che giấu trước các tín đồ Cơ Đốc: chỉ mình ông biết rằng ông xứng đáng với lòng sùng kính của họ, ông muốn được chết trong sỉ nhục và khinh bỉ. Nhưng ông trốn chạy khi bị truy bắt.

      Ngược lại, ông tự đến nộp mình cho quân của Néron, để chuộc lại tội lỗi của mình. Và để có thể khiến Lin phải thề rằng truyền lại điều bí mật.

      Từ đó, điều bí mật chưa bao giờ rời khỏi đồi Vatican.

      Tông đồ thứ mười ba .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      45.

      Cha Nil thích lang thang và mơ mộng quảng trường Saint Peter vào sáng sớm, khi khách du lịch còn chưa có mặt. Ông ra khỏi bóng của đài tháp để tận hưởng ánh mặt trời trở nên ấm áp. “Người ta chính đài tháp này tô điểm cho trung tâm đấu trường của Néron. Ở Roma, thời gian tồn tại.”

      Bàn tay trái của ông rời khỏi chiếc túi đeo, khi rời khỏi San Girolamo, trong đó ông bỏ vào những ghi chép quý giá nhất tách từ những giấy tờ xếp giá. Ở đây người ta có thể lục lọi phòng ông cũng dễ dàng như ở tu viện, hơn nữa giờ đây ông biết rằng phải đề phòng tất cả mọi người. “Nhưng phải là Remby, bao giờ!” Khi , ông nhét xuống tận đáy túi cuộn phim bản chụp ở Germigny. trong bốn hướng nghiên cứu cha Andrei để lại mà ông vẫn chưa biết phải khai thác thế nào.

      Trong khi cha Nil vẫn mơ màng dưới chân đài tháp dựng những đế chế ngày càng được củng cố thêm bởi thời gian, vừa đến văn phòng, Leeland thấy có lời nhắn ông ngay lập tức đến gặp thư lại của Cơ quan truyền bá đức tin. Đức ông Calfo nào đó mà đôi lúc ông có giáp mặt trong lối biết vị trí của ông ta trong cơ cấu tổ chức của Vatican.

      xuống hai tầng nhà và vô số những hành lang quanh co, ông ngạc nhiên thấy vị giáo sĩ cấp cao an tọa trong văn phòng gần như xa hoa, chỉ có cửa sổ duy nhất nhìn thẳng ra quảng trường Saint Peter. người đàn ông bé, đẫy đà, có dáng vẻ vừa tự tin vừa giả dối. “ cư dân trong thiên hà Vatican,” tu sĩ người Mỹ nghĩ.

      Calfo mời ông ngồi.

      – Đức ông, Hồng y cầu tôi báo cáo với ngài các cuộc chuyện trò giữa ông và cha Nil, người vừa đến giúp việc cho ông. Đức Hồng y quan tâm sát sao- mà nếu thế mới đáng ngạc nhiên- đến công việc nghiên cứu của các chuyên gia.

      bàn của ông ta, đập ngay vào mắt là tờ ghi chép mà hôm qua Leeland gửi cho Catzinger, trong đó có tóm tắt cuộc chuyện đầu tiên của ông với cha Nil, nhưng hoàn toàn đả động gì đến tâm thầm kín của bạn ông liên quan đến những nghiên cứu về kinh Phúc theo Thánh Jean.

      – Đức Hồng y gửi cho tôi báo cáo đầu tiên của ông, nó chứng tỏ rằng giữa ông và người Pháp này có mối quan hệ bạn bè tâm giao. Nhưng thế là đầy đủ, Đức ông ạ, hoàn toàn đầy đủ! Tôi thể tin được rằng ông ấy gì thêm với ông về bản chất công việc mà ông ấy tiến hành cách tài năng, và từ lâu rồi!

      – Tôi nghĩ những chi tiết của cuộc chuyện ra đầu ra đũa lại có thể khiến Hồng y quan tâm đến thế.

      – Tất cả các chi tiết, thưa Đức ông. Ông phải cụ thể hơn, và bớt e dè hơn trong các báo cáo của mình. Điều này đỡ cho Hồng y khoảng thời gian quý báu, vì ngài muốn theo sát từng bước tiến khoa học- đó chính là nghĩa vụ của ông ấy với tư cách là người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin. Chúng tôi chờ đợi hợp tác của ông, Đức ông ạ, và ông biết tại sao… đúng ?

      cảm giác mà Leeland thể chế ngự, cơn căm thù ngấm ngầm xâm chiếm ông. Ông mím môi, trả lời.

      – Ông có thấy chiếc nhẫn Giám mục này ? – Calfo chìa tay ra. – tuyệt tác, được chế tác vào thời kỳ người ta còn hiểu được ngôn ngữ của đá. Thạch tím, thứ đá được đa số các giáo sĩ Công giáo cao cấp lựa chọn, là tấm gương cho nhún mình và nhắc nhở chúng ta về chất phác của Thánh Matthieu. Nhưng đây là viên ngọc thạch , là phản chiếu của đức tin, được gắn với Thánh Peter. Nó luôn đặt tôi đối diện với cuộc chiến của đời mình: đức tin Công giáo. Chính đức tin này, Đức ông ạ, bị liên lụy bởi các nghiên cứu của cha Nil. Ông nên che giấu bất kỳ điều gì trong những điều ông ấy với ông, như ông làm.

      Calfo im lặng đuổi ông ra, rồi ngồi lại vào bàn. Mở ngăn kéo, lấy ra xấp giấy xé ra từ cuốn sổ: bản tốc ký ghi lại cuộc chuyện hôm trước. “ Ta vẫn là người duy nhất biết rằng Leeland tham gia cuộc chơi. Antonio làm tốt công việc.”

      Về đến văn phòng của mình sau khi qua các hành lang, Leeland cố nén cơn giận dữ. Viên thư lại này biết ông giấu cả phần cuộc chuyện giữa ông và cha Nil. Làm sao ông lại biết?

      “Chúng ta bị nghe trộm! Mình bị đặt máy nghe trộm, ở đây, ở Vatican này.”

      lần nữa, lòng căm thù lại trỗi dậy trong ông. Họ khiến ông phải chịu đựng quá nhiều, họ phá hủy cuộc đời ông.

      Vừa bước vào căn phòng bé xíu của Leeland, cha Nil vừa xin lỗi vì đến muộn:

      – Xin lỗi cậu, tớ vừa lang thang quảng trường…

      Ông ngồi xuống, đặt chiếc túi cạnh chân ghế và mỉm cười.

      – Tớ tập hợp trong này tất cả những ghi chép quý giá nhất. Tớ phải cho cậu nghe những kết luận của tớ – mới là tạm thời thôi, nhưng cậu bắt đầu hiểu…

      Phác cử chỉ cắt lời ông, Leeland viết nguệch ngoạc mấy chữ lên mẩu giấy, rồi đưa cho cha Nil, đồng thời đặt ngón trỏ lên môi. Ngạc nhiên, tu sĩ người Pháp đón lấy mẩu giấy và đưa mắt đọc: “Chúng ta bị nghe trộm. Đừng gì cả, tớ giải thích sau. phải ở đây.”

      Ông ngước đôi mắt ngạc nhiên nhìn Leeland. Bằng giọng liến thắng, ông này tiếp luôn:

      – Thế nào, cậu ở San Girolamo tốt chứ? Hôm qua trận gió sirocco, cậu bị ảnh hưởng nhiều chứ?

      – Ờ… có, tớ đau đầu suốt cả tối. Có chuyện gì…

      – Hôm nay chúng ta có quay lại kho sách của Vatican cũng vô ích thôi, tớ muốn cho cậu xem tớ có gì trong máy tính, cậu thấy phần việc hoàn thành. Mọi thứ đó đều ở nhà tớ. Cậu có muốn cùng tớ bây giờ ? Cách đây khoảng mười phút, đường Aurelia.

      Ông gật đầu khẩn thiết ra hiệu với cha Nil sửng sốt, và đứng dậy chờ ông này trả lời.

      Khi họ rời khỏi hành lang để đến cầu thang, Leeland để cha Nil trước và quay lại. Ông nhìn thấy thư lại mà ông quen ra từ văn phòng bên cạnh phòng ông, bình thản khóa cửa và tiến về phía họ. ta mặc chiếc áo tu sĩ thanh lịch, và trong bóng tối của hành lang, Leeland chỉ thoáng thấy ánh mắt đen của ta, vừa buồn rầu vừa lo lắng.

      Ông nhanh nhẹn đến bên cha Nil đợi mình những bậc thang đầu tiên, vẫn với vẻ ngạc nhiên lúc trước.

      – Xuống thôi. Nhanh lên.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      46.

      Họ qua hàng cột Bernin. Leeland đưa mắt nhìn quanh, rồi thân mật nắm lấy cánh tay cha Nil.

      – Ông bạn ơi, sáng nay tớ có bằng chứng rằng cuộc trò chuyện của chúng ta hôm qua bị nghe trộm.

      – Giống như trong đại sứ quán, ở thời kỳ Liên bang Xô Viết à!

      – Đế chế Xô Viết còn tồn tại, nhưng tại đây, cậu ở trung tâm thần kinh của đế chế khác. Tớ chắc chắn về điều tớ ra, đừng hỏi thêm nữa. My poor friend [[32]], cậu bị tống vào tổ ong vò vẽ nào thế?

      Họ im lặng bước . Đường Aurelia vô cùng đông đúc, nên thể chuyện được. Leeland dừng lại trước tòa nhà đại nằm ở góc giao với con phố bên cạnh.

      – Đây, đến nơi rồi, tớ có phòng ở tầng bốn. Vatican trả tiền thuê nhà, lương thư lại của tớ chắc là đủ.

      Vừa bước qua của phòng Leeland, cha Nil khẽ huýt sáo:

      – Monsignore, là tuyệt!

      phòng khách rộng được ngăn làm hai. Ở nửa thứ nhất có kê cây đàn piano cánh, xung quanh rải rác các thiết bị điện thanh. giá sách có chấn song thưa chất đầy sách phân định ranh giới cho nửa thứ hai của căn phòng: hai máy tính nối với các thiết bị phụ trợ đại nhất- máy in, máy scan và những chiếc hộp mà cha Nil thể xác định nổi là gì. Leeland mời cha Nil tự nhiên và khẽ cười ngượng ngùng.

      – Tu viện của tớ ở Mỹ tặng tớ tất cả những thứ này, cả gia tài! Họ phát điên lên vì cách người ta hạ bệ tớ khỏi chức vụ tu viện trưởng mà tớ chính thức được bầu lên, vì những lý do chính trị của giáo hội. Vatican cầu tớ phải đến cho có mặt ở văn phòng thư lại của tớ buổi sáng và buổi tối. Sau đó tớ đến kho sách làm việc hoặc quay trở lại đây. Breczinsky cho phép tớ chụp số bản thảo, tớ scan lại trong máy tính.

      – Tại sao cậu lại bảo tớ là phải đề phòng ông ấy?

      Leeland có vẻ ngần ngại khi trả lời:

      – Trong những năm chúng ta học cùng nhau, cậu nhìn Vatican từ đồi Aventin, cách đây kilomet: như thế là xa, Nil ạ, rất xa. Cậu bị vở ba lê của các giáo sĩ cấp cao xung quanh Giáo hoàng quyến rũ, cậu đánh giá với tư cách là khán giả, và tự hào mình thuộc vào bộ máy sở hữu bề ngoài tuyệt vời đến thế. Giờ đây cậu còn là khán giả nữa; cậu là con côn trùng bị mắc vào lưới nhện, bị phết nhựa lên người như con ruồi thể tự vệ.

      Cha Nil im lặng nghe ông . Từ khi cha Andrei chết, ông cảm thấy cuộc sống của mình bị đảo lộn, ông bước vào thế giới mà ông biết gì về nó. Leeland tiếp tục:

      – Josef Breczinsky là người Ba Lan, trong những người được gọi là “người của Giáo hoàng”. Toàn tâm tận tụy với Đức Thánh Cha, và do đó, bị giằng co giữa các trào lưu tại ở Vatican, và chính vì chúng là những trào lưu ngầm lên lại càng mạnh mẽ. Từ bốn năm nay tớ làm việc chỉ cách văn phòng ông ta mười mét, nhưng vẫn biết gì về ông ta: trừ việc ông ta phải chịu gánh nặng của nỗi đau khổ vô bờ bến, nó lộ ra mặt ông ta. Ông ta có vẻ thích cậu đấy: phải rất chú ý đến những gì cậu với ông ta.

      Cha Nil kìm lại mong muốn được nắm cánh tay Leeland.

      – Thế còn cậu, Remby? Có phải cậu cũng là … con côn trùng bị dính mạng nhện ?

      Đôi mắt tu sĩ người Mỹ nhòa lệ.

      – Tớ… cuộc đời tớ chấm hết rồi, Nil ạ. Họ phá hủy tớ, vì tớ tin vào tình . Cũng giống như họ có thể phá hủy cậu, vì cậu tin vào .

      Cha Nil hiểu rằng ông nên nài thêm. “ phải hôm nay. Ánh mắt cậu ấy trông tuyệt vọng quá!”

      Tu sĩ người Mỹ tiếp tục.

      – Tớ đủ khả năng hợp tác với cậu trong việc nghiên cứu học thuật này, nhưng tớ làm tất cả những gì có thể để giúp cậu; người Công giáo luôn muốn lờ việc Jesus là người Do Thái! Hãy tận dụng khoảng thời gian cậu bất ngờ được ở Roma này, các bản thảo Grégoire để lại sau nếu cần.

      – Hàng ngày chúng ta vẫn đến làm việc ở kho sách, để bị nghi ngờ. Nhưng tớ quyết định tiếp tục công việc nghiên cứu của cha Andrei. Mảnh giấy của ông ấy đến bốn hướng nghiên cứu cần khám phá. trong các hướng đó liên quan đến phiến đá mới được phát ở nhà thờ Germigny, đó là bản khắc có niên đại từ thời vua Charlemagne. Chúng tớ nhanh chóng chụp được bức ảnh bề mặt, bản khắc khiến cha Andrei rất ngạc nhiên. Tớ có phim ở đây: với thiết bị tin học của cậu, cậu có nghĩ rằng tìm ra điều gì ?

      Leeland có vẻ được an ủi, về kỹ thuật cho phép ông thoát khỏi những bóng ma mà ông vừa gợi lên.

      – Cậu tưởng tượng được chiếc máy tính có thể làm những gì đâu! Nếu đó là những ký tự của ngôn ngữ mà nó có trong bộ nhớ, nó biết tái tạo lại những từ hoặc những chữ trong văn bản bị thời gian hủy hoại. Đưa phim của cậu cho tớ.

      Cha Nil lấy chiếc túi đeo và đưa cuộn phim cho bạn. Họ cùng sang phía bên kia căn phòng, Leeland bật những chiếc hộp và chúng bắt đầu nhấp nháy. Ông mở trong số các hộp ra.

      – Máy scan laze, thế hệ mới nhất.

      Mười lăm giây sau, phiến đá ra màn hình. Leeland điều khiển chuột, gõ lên bàn phím, và bề mặt của hình ảnh bắt đầu được quét rất đều đặn bằng chiếc cọ ánh sáng.

      – Phải mất hai mươi phút. Trong khi nó làm việc, sang bên có đàn piano , tớ chơi cho cậu nghe bản Children’s Corner.

      Trong khi Leeland, hai mắt nhắm lại, tái dưới ngón tay mình giai điệu du dương của Debussy, chiếc cọ của máy tính vẫn quét ngừng nghỉ ảnh chụp bản khắc bí dưới triều đại Carolingien.

      Và được tu sĩ chụp lại vào cuối thế kỷ XX, người ấy phải chết cũng chính vì bức ảnh này.

      Cùng lúc đó, Đức ông Calfo cầm lấy điện thoại di động:

      – Họ rời văn phòng ở Cơ quan và ngay đến căn hộ của tay người Mỹ à? Được, hãy ở gần họ và kín đáo giám sát các động tĩnh của họ, rồi tối nay gửi báo cáo của cho tôi.

      Theo thói quen ông ta đưa tay sờ nắn hình thoi thuôn dài của viên ngọc màu xanh.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      47.

      Giờ đây, màn hình máy tính, bản khắc phiến đá Germigny ra với độ nét cao.

      – Nhìn này, Nil: hoàn toàn có thể đọc được. Đây là những ký tự Latin, máy tính khôi phục lại chúng. Mà này, ở đầu và cuối văn bản, lại có hai ký tự hy Lạp- alpha và omega- máy tính xác định thể lầm được.

      – Cậu có thể in cho tớ bản được ?

      Cha Nil ngắm nghía bản khắc in ra giấy. Leeland chờ ông cất lời.

      – Đây đúng là văn bản của Tín điều Nicée, Tín điều Credo. Nhưng nó được bố trí theo cách hoàn toàn thể hiểu được…

      Họ kéo ghế lại gần nhau. “Như ngày xưa, khi mình đến phòng cậu ấy để học chung, hai người ngồi bên nhau dưới cùng ngọn đèn.”

      – Tại sao người ta lại thêm ký tự alpha vào trước từ đầu tiên của văn bản, và ký tự omega vào sau từ cuối cùng? Tại sao hai ký tự này, ký tự đầu tiên và ký tự cuối cùng trong bản chữ cái Hy Lạp được cố tình ghép vào văn bản viết bằng tiếng Latin và vốn được coi là thể xâm phạm đến? Tại sao người ta lại cắt các từ mà quan tâm đến ý nghĩa của chúng? Tớ thấy chỉ có thể giải thích bằng cách: cần phải quan tâm đến ý nghĩa, vì ở đây có ý nghĩa, mà phải quan tâm đến cách thức văn bản này được trình bày. Cha Andrei với tớ rằng ông ấy chưa bao giờ thấy điều này: hẳn là ông ấy ngờ việc chia cắt này có ý nghĩa đặc biệt, và phải tới khi ông ấy đến Roma mới nhận thấy rằng Tín điều Credo bị sửa đổi như vậy có điều gì đó liên quan tới ba chỉ dẫn khác ghi mảnh giấy. Lúc này, tớ chỉ đọc được thứ, đó là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ.

      – Cậu còn chưa với tớ…

      – Vì tớ chỉ phát ra điều các từ ngữ muốn , chứ phải ý nghĩa của cả thông điệp. Và có lẽ ý nghĩa này nằm trong cách thức thể hiểu nổi mà theo đó văn bản này được khắc lên đá vào thế kỷ VIII.

      Cha Nil ngẫm nghĩ, rồi tiếp:

      – Cậu biết rằng đối với người Hy Lạp, alpha và omega chỉ bắt đầu và kết thúc của thời gian…

      – Giống như trong kinh Khải Huyền của Thánh Jean à?

      – Chính xác. Khi tác giả kinh Khải Huyền viết “Ta nhìn thấy bầu trời mới và mặt đất mới”, ông để Christ, người ra trong hào quang, :

      Ta là alpha và omega

      là Đầu tiên và Cuối cùng

      bắt đầu và kết thúc.

      Ký tự alpha có nghĩa là thế giới bắt đầu, còn ký tự omega có nghĩa là thế giới đó tồn tại vĩnh viễn. Như vậy, đóng khung trong hai ký tự này, việc chia cắt văn bản cách kỳ lạ khiến người ta hình dung đến trật tự thế giới mới, trật tự này thể bị thay đổi trong bất kỳ hoàn cảnh nào: “ bầu trời mới và mặt đất mới”, thứ gì đó phải tồn tại đến tận cùng của thời gian.

      – Apha và omega có phải là những biểu tượng hay gặp trong Kinh Thánh ?

      – Hoàn toàn . Chỉ bắt gặp chúng duy nhất trong kinh Khải Huyền, mà truyền thuyết vẫn khẳng định tác giả là Jean. Như vậy, có thể cho rằng nếu văn bản này được đóng khung giữa alpha và omega, việc xếp đặt nó có điều gì đó liên quan đến kinh Phúc theo Thánh Jean.

      Cha Nil đứng dậy và đến đứng trước cửa sổ đóng kín.

      cách sắp xếp văn bản độc lập với ý nghĩa của các từ, có quan hệ với kinh Phúc được cho là của Thánh Jean. Tớ chẳng thể gì thêm, chừng nào tớ chưa ngồi vào bàn để xoay bản khắc này theo đủ các hướng, giống như cha Andrei hẳn làm. Dù sao, mọi chuyện đều xoay quanh kinh Phúc thứ tư, và chính vì vậy, các nghiên cứu của tớ mới khiến ông bạn tớ quan tâm đến thế.

      Cha Nil ra hiệu cho Leeland đến gần ông bên cửa sổ.

      – Ngày mai cậu gặp tớ. Tớ giam mình trong phòng ở San Girolamo, và chỉ ra khỏi phòng khi nào tìm ra ý nghĩa của bản khắc này. Ngày kia chúng ta gặp nhau, tớ hy vọng nhìn mọi việc được ràng hơn. Sau đó cậu phải để tớ dùng Internet, tớ cần tiến hành tìm kiếm trong các thư viện lớn toàn thế giới.

      Ông hất cằm về phía đỉnh mái vòm nhà thờ Saint Peter nhô lên bên các mái nhà.

      – Có lẽ cha Andrei mất mạng vì liên quan đến thứ gì đấy đe dọa cái đó …

      Nếu thay vì nhìn mái vòm của Vatican, họ liếc mắt xuống đường phố hẳn có thể thấy thanh niên lơ đãng hút thuốc, đứng lùi vào trong cổng xe để tránh cái lạnh tháng Mười hai. Giống như bất cứ kẻ thích lang thang nào, ta mặc cái quần sáng màu cùng áo vest dày.

      Đôi mắt đen của ta hề rời khỏi tầng bốn tòa nhà nằm đường Aurelia.

      48.

      Tối muộn hôm đó, văn phòng Catzinger là nơi duy nhất còn sáng đèn trong tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. Ông gọi Calfo vào và với ông ta bằng giọng chỉ huy.

      – Đức ông – Hồng y cầm trong tay tờ giấy đơn – cuối chiều nay tôi nhận được báo cáo thứ hai của Leeland. Ông ta chế giễu chúng ta. Theo ông ta, ngày hôm nay họ chỉ về Thánh ca Grégoire. Thế mà ông rằng họ giam mình trong căn hộ ở đường Aurelia suốt cả buổi sáng phải ?

      – Đến tận hai giờ chiều, thưa Đức Hồng y, khi đó tu sĩ người Pháp mới rời khỏi tòa nhà để quay về San Girolamo và giam mình trong phòng. Thông tin của tôi tuyệt đối chắc chắn.

      – Tôi muốn biết nguồn gốc thông tin. Ông hãy xoay sở để biết họ gì với nhau trong căn hộ của Leeland, chúng ta phải được thông tin về điều ở trong đầu người Pháp đó. Tôi ràng chưa?

      Đầu giờ sáng hôm sau, khách du lịch có vẻ rất quan tâm đến những chóp cột của nhà hát Marcello, là công trình ấn định ranh giới nơi đặt chợ bò của thành phố Roma cổ, chợ Fobo Boario. Cách đó xa, đền thờ Sức mạnh đàn ông với những cây cột cứng cáp, đầu có quả tua kiểu Corinthe, nhắc người khách sành sỏi nhớ đến lễ cung hiến của mình. Ngay bên cạnh, ngôi đền hình tròn dành cho phụ nữ trinh tiết, những người dâng hiến đức hạnh trọn đời của mình cho các vị thần trong thành phố và giữ gìn ngọn lửa thiêng cho đền thờ. Khi qua hai công trình nằm cạnh nhau này, du khách mỉm cười hài lòng: “Sức mạnh đàn ông và đức hạnh trọn đời. Thần Eros thánh hóa bên cạnh thuần khiết thánh thần; từ thời La Mã, người ta hiểu điều đó. Thuật thần bí của chúng ta chỉ phát triển thêm lên thôi.”

      Chiếc quần dạo phố che dấu được phần mông đồ sộ của ông ta, và nếu ông ta luôn thọc sâu bàn tay phải vào túi áo vest bằng da đanh chính là để che viên ngọc thạch rất đẹp đính chiếc nhẫn – bao giờ, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông ta lại rời xa viên ngọc giá trị này.

      người đàn ông lăm lăm tay quyển hướng dẫn du lịch Roma to tướng đến bên ông ta.

      – Salam aleikoum, thưa Đức ông!

      – We aleikoun salam, Moktar. thực đúng thỏa thuận trong việc vận chuyển phiến đá Germigny. Làm tốt lắm.

      chiếc phong bì thò ra ngoài túi áo ông ta và được trao tay. Moktar Al-Quraysh nhanh chóng sờ nắn phong bì mà mở ra, rồi đổi lại nụ cười cho người đối thoại với mình.

      – Tôi đến xem xét tòa nhà đường Aurelia: còn căn hộ cho thuê nào. Tuy nhiên, họ bán phòng ở tầng ba, ngay dưới phòng của tên người Mỹ.

      – Bao nhiêu?

      Khi con số được xướng lên, Calfo nhăn mặt: có lẽ sắp đến lúc Hội Thánh Pie V còn phải tính toán nữa. Ông mở áo vest rồi lấy từ túi trong ra phong bì khác, to và dày hơn.

      đến xem phòng đó ngay, lập tức ký hợp đồng và lấy chìa khóa. Leeland bị giữ lại ở Cơ quan chiều nay, có ba giờ đồng hồ để làm mọi việc cần thiết.

      – Đức ông! Trong vòng giờ, các micro được gắn xong.

      – Kẻ thù ưa thích của trở về Israel chưa?

      – Ngay sau chuyến ngắn của chúng tôi. ta chuẩn bị chuyến lưu diễn quốc tế và bắt đầu bằng loạt buổi hòa nhạc ở Roma này vào dịp Noel.

      – Hoàn hảo, vỏ bọc tuyệt vời, có thể có việc phải gọi đến ta.

      Moktar ném sang ông cái nhìn chớt nhả.

      – Còn Sonia, ông có hài lòng về ta ?

      Calfo kìm chế cơn giận. Ông trả lời khô khan :

      – Tôi rất hài lòng, cảm ơn. Đừng mất thời gian nữa, mah salam.

      Hai người chia tay bằng cái gật đầu. Moktar qua cầu Isola bắc ngang sông Tiber, còn Calfo cắt ngang quảng trường Navona.

      “Đạo Cơ Đốc chỉ có thể ra đời ở Roma, ông nghĩ khi vừa vừa chiêm ngưỡng những công trình điêu khắc của Bernin và Brunelleschi, đối lập nhau trong thế đối mặt đầy kịch tính. Sa mạc dẫn đến điều thể biểu đạt được nhưng để hóa thân trong hình người, Chúa cần đến những run rẩy của xác thịt.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      49.

      Qumran, năm 68

      Những đám mây lớn đen sẫm dồn tụ phía biển Chết. Trong vùng đất trũng này, mây bao giờ mang mưa đến, mà chỉ báo trước thảm họa.

      Iokhanân ra hiệu cho người đồng hành tiếp tục tiến lên. Họ lặng lẽ áp sát bức tường bao. giọng gầm gừ khiến họ chôn chân tại chỗ

      – Ai đó?

      – Béné Israel! Người Do Thái.

      Người vừa quát dừng lại nhìn họ với vẻ nghi ngờ.

      – Các làm thế nào mà đến được tận đây?

      – Chúng tôi vượt qua núi, rồi luồn lách qua các đồn điền ở Ein Feshka. Đó là con đường duy nhất có thể được, lính La Mã bao vậy Qumran.

      Người đàn ông nhổ xuống đất.

      – Những đứa con của bóng tối! Các đến đây làm gì, tìm cái chết à?

      – Tôi từ Jerusalem đến, chúng tôi phải gặp Shimon Ben-Yair. Ông ấy biết tôi, hãy dẫn đường cho chúng tôi.

      Họ trèo lên bức tường bao rồi dừng lại, sững sờ. Nơi trước đây là địa điểm cầu nguyện và nghiên cứu yên bình bây giờ chỉ còn là vùng tứ chiếng rộng lớn. Những người đàn ông đánh bóng mấy thứ vũ khí vớ vẩn, đám trẻ con vừa chạy vừa la hét, những người bị thương nằm rên rỉ ngay mặt đất. Ngày xưa Iokhanân từng đến đây, cùng với cha nuôi của , ông thích gặp lại bạn bè người Esseni của mình. Trong cảnh tranh tối tranh sáng dần bao trùm mọi thứ, dừng lại, do dự trước nhóm người già ngồi tựa vào bức tường phòng viết trong thư viện, nơi xưa kia thường ở hàng giờ để nhìn lại các thư viết những ký tự Hê brơ lên giấy da.

      Người lính gác lại gần và rỉ thầm vào tai trong những ông già. Ông này nhanh nhẹn đứng dậy dang rộng cánh tay.

      – Iokhanân! Cháu nhận ra ta sao? Đúng rồi, ta già cả thế kỉ chỉ trong vòng tháng. Ai cùng cháu thế? Mắt ta bị nhiễm trùng, ta mù dở rồi.

      – Có chứ, cháu có nhận ra ông, ông Shimon! Đây là Adôn, con trai Eliézer Ben-Akkai.

      – Adôn! Lại đây, để ta hôn cháu nào … Thế Osias đâu?

      Người đồng hành của Iokhanân cúi đầu.

      cháu chết ở bình nguyên Ashkelon vì bị trúng tên của người La Mã. Chính cháu cũng thoát khỏi tay quân đoàn số V của La Mã cách kỳ lạ: quân lính của họ là vô địch.

      – Chúng bị đánh bại, Adôn ạ, đó là những đứa con của bóng tối. Nhưng chúng ta chết trước chúng, Qumran chín, đến lúc hái rồi. Vespasien nắm lại quyền chỉ huy quân đoàn số X Fretensis bao vây chúng ta, muốn tấn công Jerusalem từ phía Nam. Cả ngày nay, chúng ta theo dõi công việc chuẩn bị của chúng. Chúng ta có cung thủ, nên chúng cứ tiến lên trước mắt chúng ta. Chỉ đêm nay thôi.

      Iokhanân lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng đau lòng, những người này bị Lịch sử tóm bắt mà thể thoát được. :

      – Ông Shimon, ông có gặp abbou của cháu ? Cháu mất hơn ba tháng để khắp đất nước. có tin tức gì về ông ấy, cũng chẳng có tin gì về các môn đồ của ông, cháu thấy Pella hoàn toàn bị bỏ trống.

      Shimon quan sát bầu trời bằng đôi mắt mưng mủ: mặt trời hoàng hôn chiếu sáng mặt dưới những đám mây: “Cảnh tượng đẹp nhất thế giới, giống như buổi sáng khai sinh! Nhưng tối nay là kết thúc thế giới của chúng ta.”

      đường chạy trốn, ông ấy có qua đây. cùng ông ấy có khoảng năm trăm người Nazareth, cả đàn ông, đàn bà và trẻ em. Ông ấy muốn bảo họ đến Ả Rập, tới tận bờ biển Nội địa. Ông ấy đúng: nếu có thoát khỏi tay người La Mã, họ cũng bị người Cơ Đốc vốn sẵn căm thù họ truy hại. Người của chúng ta cùng họ đến tận giáp sa mạc Édom.

      – Cha cháu có theo họ ?

      , ông ấy chia tay họ ở Beersheba và để họ tiếp tục về phía Nam. Chúng ta có cộng đồng người Esseni trong sa mạc Idumea: ông ấy chờ cháu ở đó. Nhưng liệu cháu có đến được đó ? Cháu vừa sa vào tấm lưới, các mắt lưới thít chặt những đứa con của ánh sáng. Cháu có muốn trải qua Ngày cuối cùng đó với chúng ta, và bước vào vầng sáng ngay đêm nay ?

      Iokhanân tách ra và trao đổi vài câu với Adôn.

      – Ông Shimon, cháu phải đến gặp cha cháu, chúng cháu cố gắng để thoát thân. Trước tiên, cháu có thứ thiêng liêng cần cất vào nơi an toàn. Xin ông hãy giúp cháu.

      đến gần ông già và vào tai ông. Shimon chăm chú lắng nghe, rồi gật đầu.

      – Tất cả những cuộn giấy thiêng liêng của chúng ta đều được đặt trong những hang đá mà người nào biết ngọn núi thể vào được. trong những người của ta dẫn cháu đến đó, nhưng ta thể trèo lên cùng cháu: nghe này …

      Từ phía doanh trại quân La Mã vang lên những hồi kèn xung trận. “Chúng phát hiệu lệnh tấn công!”

      Shimon ra lệnh ngắn gọn cho lính gác. lời, ta ra hiệu cho Iokhanân và Adôn theo mình, trong khi làn mưa tên đầu tiên bay về phía những người Esseni, trong tiếng kêu kinh hoàng của trẻ con và phụ nữ. Họ chạy ngược dòng người xanh xao hốc hác lao về phía bức tường phía Đông và vượt qua cánh cửa quay về phía núi.

      Thời điểm kết thúc của Qumran vừa bắt đầu.

      Theo phản xạ, Iokhanân thọc tay vào thắt lưng: ống sậy mà cha đưa cho tại Pella vẫn còn ở đó.

      Khirbet Qumran dựa lưng vào vách đá cao, những công trình ở đây được xây dựng mỏm núi nhô ra bên biển Chết. hệ thống ống dẫn lộ thiên phức tạp dẫn nước đến tận bể trung tâm, nơi người Esseni thực thi các nghi lễ đặt tên của họ.

      Theo sát người dẫn đường, lúc đầu Iokhanân và Adôn men theo các đường ống dẫn. Người gập làm đôi, họ chạy luồn từ cây này sang cây khác. m thanh náo động từ trận chiến dữ dội vang đến tai họ ngay từ phía sau.

      Mệt đứt hơi, Iokhanân ra hiệu dừng lại nghỉ. còn trẻ nữa … ngước mắt lên. Phía trước họ, vách đá dựng lên có vẻ trần trụi, dốc thẳng xuống đầy ấn tượng. Nhưng khi nhìn kỹ, thấy nó được tạo nên từ những mảng đá lớn, vẽ thành mạng lưới phức tạp những lối mòn và khe nước treo phía khoảng .

      Đây đó thấp thoáng những đốm đen: các hang đá. Đó chính là nơi người Esseni cất trữ toàn bộ thư viện của họ. Họ làm thế nào nhỉ? Có vẻ như thể đến được đó.

      đỉnh vách núi, họ nhận ra những cánh tay cử động của máy bắn đá của người La Mã. Chúng bắt đầu cử động chết chóc của chúng hướng về phía chiến trường. hàng cung thủ kéo dài khoảng trăm mét, phóng ra những mũi tên với nhịp điệu kinh hoàng. Tim thắt lại, quay đầu nhìn ra phía sau.

      Người dẫn đường chỉ cho họ con đường dẫn đến trong các hang.

      – Những cuộn giấy da quan trọng của chúng tôi để ở đó. Chính tôi để Sách của Tông đồ của cộng đồng chúng tôi vào đó. Dọc theo tường bên trái, cái vò thứ ba kể từ cửa vào. Nó rất to: có thể bỏ cuộn giấy da của vào đấy. Cầu Chúa phù hộ cho các ! Chỗ của tôi là ở bên dưới. Shalom!

      Người vẫn gập làm đôi, ta chạy ngược về phía sau. ta muốn sống Ngày cuối cùng bên em mình.

      Họ tiếp tục . Hết khoảng tám trăm mét nữa, họ ở trước khoảng trống: vẫn bám theo hàng cây chạy dọc các đường ống dẫn, họ nhảy từ gốc cây này sang gốc cây khác. Túi đeo đường đập vào hông khiến họ vướng víu khi chuyển động.

      Đột nhiên, loạt mũi tên bay đến cắm quanh họ.

      – Adôn, ở đó chúng nhìn thấy chúng ta. Chạy đến chân vách đá !

      Nhưng hai bóng người vũ khí và chạy theo hướng ngược lại hướng chiến trường nhanh chóng khiến các cung thủ La Mã hết hứng thú. Cuối cùng, hết hơi, họ cũng đến được nơi tương đối an toàn dưới chân vách đá. Giờ phải trèo lên.

      Giữa các đống đá, họ phát ra những lối mòn in đầy dấu chân dê. Khi họ đến được hang bóng tối buông xuống.

      – Nhanh lên, Adôn: trời chỉ còn sáng vài phút nữa thôi.

      Lối vào hang hẹp đến nỗi họ buộc phải luồn chân vào trước. Kỳ lạ là bên trong có vẻ sáng hơn bên ngoài. lời, hai người sờ soạng vách hang phía bên trái: có nhiều khối hình nón nhô lên mặt cát. Những cái vại bằng đất nung, nửa chôn ngập dưới đất, được đậy bằng kiểu nắp như hình cái bát.

      Được Adôn giúp đỡ, Iokhanân cẩn thận mở nắp chiếc vại thứ ba từ cửa vào. Bên trong, cuộn giấy da bọc giẻ phủ hắc ín chiếm nửa khoảng trống. kính cẩn mở ống sậy vừa rút từ thắt lưng ra và lấy tờ giấy da giản dị được buộc bằng sợi dây lanh. bỏ tờ giấy vào vại, cẩn thận để nó dính vào lớp hắc ín cuộn giấy. Rồi đậy nắp lại và phủ cát lên đến tận cổ vại.

      “Xong rồi, Abbou ơi, chúng con có thể chết, nhưng ở đây, bức thư của cha an toàn hơn ở bất cứ nơi nào khác. Nếu người Cơ Đốc có thể làm biến mất tất cả những bản sao con gửi bản gốc vẫn còn ở đây.”

      Từ cửa hang, họ thấp thoáng nhìn thấy Qumran, nơi lửa từ những tòa nhà bị cháy khiến họ có thể đoán được cảnh tượng kinh hoàng diễn ra. Các trận thế hình vuông của quân La Mã tiến cách có phương pháp về phía bức tường bao, vượt qua nó và càn quét bên trong. Chỉ để lại phía sau chúng xác đàn ông, đàn bà và trẻ em bị cắt cổ. Người Esseni tự vệ nữa. Quanh bể nước trung tâm, hai người nhìn thấy đám người hỗn độn quỳ. Ở giữa, người mặc đồ trắng giơ tay lên trời. “Shimon! Ông ấy xin Thượng đế đón nhận những đứa con của ánh sáng đúng vào lúc này!”

      quay sang Adôn.

      trai cậu và cậu chuyển thi thể Jesus đến tận nơi yên nghỉ của Người. Osias chết: từ nay trở , cùng với abbou của tôi, cậu là người duy nhất biết nấm mộ nằm ở đâu. Bức thư của ông được an toàn ở đây: nếu Chúa cầu mạng sống của chúng ta, chúng ta cũng làm xong điều phải làm.

      Bóng tối bao trùm thung lũng biển Chết. Cả vùng quanh Qumran đều bị canh gác. Chỉ còn lối thoát duy nhất: ốc đảo gần Ein Feshka, nơi họ qua để đến đây. Khi đến nơi, họ nhận thấy nhóm người cầm đuốc tiến về phía mình. Những người này hét lên với họ bằng thứ tiếng Hê brơ tồi :

      – Dừng lại! Các ngươi là ai?

      Họ bắt đầu chạy và loạt tên đuổi theo. gắng hết sức chạy để núp mình sau những cây ô liu đầu tiên, chiếc túi đeo đập vào bên sườn, Iokhanân nghe thấy tiếng kêu trầm đục ngay phía sau.

      – Adôn! Cậu bị thương à?

      quay lại, cúi xuống người đồng hành: mũi tên của quân La Mã cắm giữa hai xương bả vai bạn . Adôn chỉ còn đủ sức thều thào:

      , người em! , và cầu cho Jesus ở cùng !

      Núp trong lùm cây ô liu, từ xa, Iokhanân nhìn thấy bọn lính La Mã kết liễu người con trai thứ hai của Eliézer Ben-Akkai bằng những nhát kiếm.

      Từ nay trở , chỉ còn duy nhất người biết nấm mộ của Jesus nằm ở đâu.
      50.

      Cha Nil bước nhàng: mặt trời rực rỡ luồn vào giữa những bức tường cao chạy dọc hai bên đường Salaria. Cả ngày hôm qua ông giam mình trong phòng và ăn cơm cùng các tu sĩ khác nhưng tham dự những giờ lễ nhật tụng hiếm hoi mà họ tiến hành cách chóng vánh. Ông chỉ phải chịu đựng những câu chuyện tào lao ngừng nghỉ của cha Jean trong lúc uống cà phê ở hành lang.

      – Tất cả chúng tôi ở đây đều chứng kiến những giờ phút huy hoàng của San Girolamo, khi chúng tôi hy vọng mang đến cho thế giới phiên bản Kinh Thánh mới bằng tiếng Latin. Từ khi bị thế giới đại phê phán, chúng tôi làm việc cách vô ích, và thư viện bị bỏ rơi.

      chỉ đại, mà có lẽ cả cũng phê phán các vị”, cha Nil vừa nghĩ vừa uống thứ chất lỏng phải được coi là nỗi sỉ nhục đối với Roma, thành phố nơi người ta thưởng thức thứ cà phê ngon nhất thế giới.

      Nhưng sáng nay ông cảm thấy nhõm và hầu như quên mất bầu khí ngột ngạt bao quanh mình từ khi đến đây, mối nghi ngờ của mọi người đối với tất cả mọi người, và tâm của Leeland: “Cuộc đời tớ chấm hết rồi, họ phá hủy cuộc đời tớ.” chàng sinh viên cao lớn vừa nghiêm nghị vừa trẻ con, người luôn nhìn mỗi vật, mỗi sinh vật bằng cái nhìn lạc quan bất di bất dịch và bền vững như đức tin của mình vào châu Mỹ, giờ đây trở thành người thế nào?

      Ông đánh vật với bản khắc phiến đá, xoay nó theo đủ mọi hướng. Đúng lúc sắp từ bỏ, ông bỗng nảy ra ý nghĩ so sánh văn bản bí đó với bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ: ý tưởng đó lóe lên như tia sáng. trong hai câu cho phép ông đến thành công vào lúc đầu đêm.

      Cha Andrei nhận định đúng: phải liên hệ mọi thứ với nhau. Tập hợp lại các yếu tố tản mát, được viết ở các giai đoạn khác nhau – kinh Phúc ở thế kỷ I, bản thảo tiếng Ai Cập cổ ở thế kỷ III, bản khắc Germigny ở thế kỷ VIII. Ông bắt đầu thấy thấp thoáng sợi dây dẫn đường.

      được để tuột mất sợi dây này. “ , cha Nil ạ: chính vì mà cha vào tu viện này.” báo thù cho cha Andrei.

      Khi ông bước vào căn phòng đường Aurelia, tất cả các ngọn đèn đều bật sáng, Leeland chơi bài Étude của Chopin và đón ông với nụ cười. Cha Nil bỗng thấy nghi ngờ rằng cũng chính người đàn ông này, hai ngày trước, khiến ông thoáng thấy vực thẳm tuyệt vọng.

      – Trong những năm ở Jerusalem, tớ có rất nhiều thời gian ở cùng với Arthur Rubinstein, ông ấy trải qua những ngày cuối cùng ở đó. Chúng tớ có khoảng chục sinh viên, cả người Israel lẫn người nước ngoài, thường tụ tập ở nhà ông ấy. Tớ có cái đặc ân được thấy ông ấy hướng dẫn chơi bài Étude này. Thế nào, cậu có giải được câu đố ấy ?

      Cha Nil ra hiệu cho Leeland đến ngồi bên ông.

      – Tất cả sáng tỏ khi tớ nảy ra ý tưởng đánh số thứ tự từng dòng bản khắc. Kết quả là thế này:

      1 αcredo in deum patrem om

      2 nipotentem creatorem cel

      3 i et terrae et in iesum c

      4 ristum filium ejus unicu

      5 m dominum nostrum qui co

      6 nceptus est de spiritu s

      7 ancto natus ex maria vir

      8 gine passus sub pontio p

      9 ilato crucifixus mortuus

      10 et sepultus descendit a

      11 d inferos tertia die res

      12 urrexit a mortuis ascend

      13 it in coelos sedet ad dex

      14 teram dei patris omnipot

      15 entis inde venturus est

      16 iudicare vivos et mortuo

      17 s credo in spiritum sanc

      18 tum sanctam ecclesiam ca

      19 tholicam sanctorum commu

      20 nionem remissionem pecca

      21 torum carnis resurrectio

      22 nem vitam eternam amen.w

      – Hai mươi hai dòng … Leeland thầm .

      – Chính xác là hai mươi hai dòng. Thế là tớ đặt lại câu hỏi đầu tiên: tại sao người ta lại thêm ký tự alpha và lý tự omega vào đầu và cuối văn bản?

      – Cậu điều đó với tớ rồi: khắc lên đá trật tự thế giới mới, bất biến, vĩnh viễn.

      – Đúng, nhưng tớ được xa hơn. Mỗi dòng đều có nghĩa gì, nhưng khi đếm số ký tự – nghĩa là các chữ cái và các khoảng trống – tớ nhận thấy rằng các dòng đều có độ dài bằng nhau, chính xác là hai mươi bốn ký tự. Kết luận đầu tiên: đây là mật mã số hóa, nghĩa là được dựa hệ thống biểu tượng của các con số – phương pháp rất phổ biến ở thời Cổ đại và đầu thời Trung cổ.

      – Mật mã số hóa? Đó là cái gì?

      – Cậu có biết là 12 cộng 12 bằng 24 ?

      Leeland huýt sáo:

      – Tớ xin nghiêng mình trước tài năng của cậu: cả ngày để đến kết quả này!

      – Đừng có chế giễu tớ, chú ý . Cơ sở số hóa của mật mã này là con số 12, trong Kinh Thánh con số này tượng trưng cho hoàn hảo của dân tộc được lựa chọn: mười hai con trai của Abraham, mười hai bộ lạc của Israel, mười hai tông đồ. Nếu con số mười hai thể hoàn hảo, hai lần mười hai chỉ mức độ tuyệt đối của hoàn hảo. Ví dụ, trong kinh Khải Huyền, Chúa trời ra được hai mươi bốn ông già vây quanh, nghĩa là hai lần mười hai. Mỗi dòng chữ trong bản khắc có hai lần mười hai ký tự: như vậy mỗi dòng là hoàn hảo tuyệt đối. Nhưng còn thiếu hai chữ cái nữa để đạt được các dòng có đều đặn hai mươi bốn ký tự: để đạt được kết quả này, người ta thêm vào đầu văn bản ký tự alpha và cuối văn bản ký tự omega. Như vậy là mũi tên trúng hai đích, vì qua đó, cũng có ám chỉ ràng đến kinh Khải Huyền của Thánh Jean: “Ta là alpha và omega, là bắt đầu và kết thúc.” Bằng mật mã này, văn bản tạo nên thế giới mới thể thay đổi. Cậu có theo kịp ?

      – Cho đến giờ có.

      – Nếu hai lần mười hai thể hoàn hảo tuyệt đối, bình phương của hoàn hảo này, nghĩa là 24 lần 24 là hoàn hảo vĩnh cửu: trong kinh Khải Huyền, tường thành của Jerusalem thần thánh – thành phố vĩnh cửu – dài trăm bốn mươi tư khuỷu tay, nghĩa là bình phương của mười hai. Để thể được hoàn hảo vĩnh cửu theo mật mã đặc biệt này, lẽ ra tín điều Credo phải bao gồm hai mươi bốn dòng, mỗi dòng có hai mươi bốn ký tự: hình vuông hoàn hảo. Đồng ý ?

      – Nhưng chỉ có hai mươi hai dòng!

      – Đúng thế, còn thiếu hai dòng nữa mới tạo thành hình vuông hoàn hảo. Vậy mà văn bản được thông qua tại hội nghị Giám mục ở Nicée lại bao gồm mười hai tín điều. truyền thuyết rất cổ xưa kể lại rằng vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng trong căn phòng lớn, hình như mỗi người trong số mười hai tông đồ tự tay ghi ra tín điều. Điều này là để đảm bảo nguồn gốc tông truyền của Tín điều Credo theo cách ngây thơ. Mười hai tông đồ, mười hai tín điều, mười hai câu, mỗi câu được chia thành hai dòng hai mươi bốn ký tự: trong ngôn ngữ chặt chẽ của mật mã số hóa, lẽ ra phải đạt được hình vuông hoàn hảo, hai mươi bốn dòng mỗi dòng hai mươi bốn ký tự. Và như cậu thấy đấy, chỉ có hai mươi hai dòng: hình vuông hoàn hảo, còn thiếu tông đồ.

      – Cậu muốn suy ra điều gì?

      – Khi đến căn phòng lớn vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng, họ có mười hai người cộng thêm Jesus – cộng thêm người chủ nhà bí , môn đồ cưng của Jesus: có mười ba người có thể làm chứng. Giữa bữa ăn, Judas rời bàn chuẩn bị việc bắt giữ Thầy: còn mười hai người ngồi lại. Nhưng trong số mười hai người này sau đó bị loại bỏ cách kịch liệt ra khỏi tất cả các văn tự cũng như ký ức. Người này thể được tính đến trong số các tông đồ, những người sau này đặt nền móng cho Giáo hội từ những gì họ chứng kiến. Cần gạt bỏ người đó bằng mọi giá, sao cho ông ta bao giờ được coi là trong số Mười hai tông đồ. Phân bổ văn bản này hai mươi bốn dòng là chấp nhận rằng tối đó nhân vật này cũng viết ra trong mười hai câu trong Tín điều Credo. Như thế có nghĩa là chính thức hóa lời chứng của ông ta, coi nó ngang bằng với lời chứng của các tông đồ khác. Hai dòng còn thiếu, Rembert ạ, chính là chỗ khuyết thiếu của người nằm bên Thầy vào tối thứ Năm ngày mồng 6 tháng Tư năm 30, nhưng bị loại bỏ khỏi nhóm Mười hai tông đồ khi họ đặt nền móng cho Giáo hội. Đó là lời thú nhận ngầm rằng đúng là bên cạnh Jesus tông đồ thứ mười ba!

      Cha Nil mở tài liệu, lấy ra bản sao của bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ và đưa cho Leeland.

      – Đây là câu đầu tiên tớ dịch ra, Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ chứa đựng mầm mống phá hủy nó. Nghĩa là nếu người môn đồ cưng góp thêm lời chứng của mình vào lời chứng của mười tông đồ – nếu có hai mươi bốn dòng thay vì hai mươi hai – Tín điều Credo có lẽ bị phá hủy, và Giáo hội được dựng lên nó cũng bị tiêu diệt. Vào thế kỷ VIII, văn bản này được khắc lên đá để về việc loại bỏ người: tông đồ thứ mười ba. Trong nhiều thế kỷ, rất nhiều người khác chống lại việc thánh hóa Jesus, nhưng ai bị căm thù lâu như vậy. Nghĩa là ở ông ta có điều gì đó đặc biệt nguy hiểm, và tớ tự hỏi phải chăng cha Andrei chết vì ông ấy phát ra điều này.

      Leeland đứng dậy và nhấn vài hợp đàn piano.

      – Cậu có nghĩ văn bản Tín điều Credo bị mã hóa ngay từ đầu ?

      – Đương nhiên là . Hội nghị Giám mục ở Nicée diễn ra năm 325, dưới giám sát của hoàng đế Constantin, người đòi hỏi rằng thiên chất của Jesus phải được thực áp đặt cho toàn bộ Giáo hội. Phải chiến thắng thuyết chống tam vị nhất thể, thuyết thừa nhận việc thánh hóa này và đặt thống nhất của Đế chế vào vòng nguy hiểm. Chúng ta có nhiều báo cáo về các tranh luận này: có điều gì chỉ ra rằng việc soạn thảo Tín điều Nicée, vốn là lặp lại văn tự cổ hơn, phải cân nhắc đến nhiều khía cạnh khác ngoài chính trị đơn thuần. , muộn hơn rất nhiều, vào đầu thời Trung cổ khi say đắm với chủ nghĩa bí truyền, người ta mới có nhu cầu mã hóa văn tự này, rồi khắc nó lên phiến đá đặt công khai trong nhà thờ hoàng gia. Vì dù rất lâu nhưng người ta muốn khẳng định lại lần nữa việc loại bỏ lời chứng được cho là vô cùng nguy hiểm.

      – Và cậu thực tin rằng những nông dân vô học ở vùng Val-de-Loire, khi bước vào nhà thờ Germigny, có thể hiểu được ý nghĩa của bản khắc mà họ nhìn thấy?

      – Chắc chắn là , mật mã số hóa luôn rất phức tạp và chỉ số rất hiếm hoi những người am tường nó – cũng phải là những người nắm được nội dung của mật mã – mới có thể hiểu được. Cũng giống như chóp cột trong các nhà thờ ở Roma, chúng được làm ra phải để giảng dạy dân chúng, mà dành cho số ít người thích tìm hiểu. , phiến đá này được triều đình cho khắc để nhắc nhở bộ phận ưu tú có tham gia phần nào vào việc nắm quyền lực – đặc biệt là các Giám mục – nhớ đến sứ mệnh của họ: duy trì mãi mãi, alpha và omega, niềm tin vào thiên chất của Jesus được khẳng định trong Tín điều Credo, tín điều ấy là nền móng của Giáo hội, là bức tường thành chính của quyền lực hoàng gia.

      kinh ngạc!

      – Điều kinh ngạc là bắt đầu từ cuối thế kỷ I, dường như mưu lớn được hình thành nhằm che giấu bí mật gắn với tông đồ thứ mười ba. m mưu này xuất lại cách định kỳ. Chúng ta có bằng chứng về điều đó vào thế kỷ III trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, bằng chứng thứ hai vào thế kỷ VIII trong bản khắc ở Germigny và còn có thể có các bằng chứng khác nữa: tớ vẫn chưa kết thúc công việc. bí mật được các tầng lớp tôn giáo cầm quyền che giấu, suốt chiều dài lịch sử phương Tây, và tiếp theo cha Andrei tớ đặt tay lên nó. Tớ chỉ biết điều, đó là bí mật này có thể gây nguy hiểm cho nền tảng của đức tin mà toàn bộ cơ cấu của Giáo hội bảo vệ.

      Leeland đột nhiên im bặt, như con vật vừa chui vào hang. Cuộc sống của chính ông bị cơ cấu này phá hủy. Ông đứng dậy và xỏ tay vào áo măng tô.

      – Đến Vatican nào, chúng ta muộn rồi … Cậu định làm gì?

      – Ngay từ ngày mai, tớ ngồi trước máy tính của cậu và lang thang mạng Internet. Tớ tìm hai tác phẩm liên quan đến các Giáo phụ, chỉ được xác định bằng mã số Dewey và nằm tận đáy thư viện ở đâu đó thế giới.

      Ở tầng ba, Moktar nghe được toàn bộ cuộc trò chuyện. Tấm biển “Cần bán” được dỡ bỏ khỏi cánh cửa phòng, và hôm qua, có thời gian để dọn đến. chiếc bàn gỗ màu trắng, thiết bị điện tử được lắp đặt, dây nhợ giăng mắc hầu như khắp nơi. trong số những sợi dây này xuyên qua trần phòng và gắn đúng vào bên dưới chân của cây đàn piano. chiếc micro to bằng hạt đậu giấu trong bản lề. Để nhìn thấy nó chắc phải tháo tung đàn ra.

      Những chiếc máy ghi nối với sợi dây này quay từ khi cha Nil đến căn phòng ở tầng .

      Đeo tai nghe, bỏ sót từ nào trong câu chuyện, nhưng hiểu nhiều lắm. Dù sao cũng chẳng có gì liên quan đến nhiệm vụ thực của . lấy cuốn băng ra khỏi chiếc máy ghi thứ hai: cuốn này đến Vatican và bắt Calfo trả tiền. Còn cuốn đầu tiên là dành cho trường đại học Al-Azhar ở Cairo.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :