BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      25.

      Đột ngột bị dứt ra khỏi những nghiên cứu và việc nhẫn nại tái lập quá khứ, thế giới ổn định và bình yên của cha Nil sụp đổ: người ta vừa lục lọi phòng ông lần thứ hai. Và lại có số giấy tờ biến mất khỏi bàn ông.

      Những ghi chép bị lấy cắp sáng nay cho biết tình hình nghiên cứu của ông về thuở ban đầu của Giáo hội. Ông ý thức được rằng mình mạo hiểm hướng luôn bị cấm đối với tất cả các tín đồ Công giáo. Và giờ đây có ai đó trong tu viện biết điều ông tìm kiếm, điều ông thấy. Ai đó rình rập ông, đột nhập vào phòng khi ông vắng, và ngần ngại cả việc lấy cắp. Mối nguy hiểm mà ông cảm thấy toả lan từ khắp mọi phía quanh mình ngày càng trở nên hữu – và ông biết nó từ đâu đến, cũng chẳng biết tại sao.

      Liệu công việc nghiên cứu có thể trở nên nguy hiểm ?

      Tâm trí để đâu đâu, ông máy móc lật các trang của tác phẩm cuối cùng mà bạn ông xuất bản. Càng lúc ông càng đo đếm được nỗi trống trải nảy sinh sau khi ông ấy biến mất: chẳng còn ai ở đây để nghe ông , để hướng dẫn ông… Bị bỏ mặc mình trong cảnh hiu quạnh ở tu viện, cảm giác chưa từng biết đến xâm chiếm ông: nỗi sợ.

      Ý nghĩ cuối cùng của cha Andrei là hướng về ông, ông ấy để lại cho ông thông điệp: phải vượt qua nỗi sợ này và tiếp tục điều tra bắt đầu chỉ từ mảnh giấy. Dòng đầu tiên mảnh giấy đó về bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ: hẳn nó phải nằm trong tất cả những thứ mà bạn ông cất giữ trong tủ tại phòng ông ấy. Nhưng người khách bí viếng thăm thư viện cánh Bắc, người suýt bắt gặp ông sáng nay, chắc chắn nhận ra lỗ hổng toang hoác giá sách vì tập bản thảo M M M bị mượn. Tập bản thảo này chỉ có thể bị tu sĩ được quyền vào thư viện này lấy : nếu , ông ta để vào chỗ đó bóng ma có chữ ký của mình theo quy định.

      Hẳn là sau đó người ta phát ra chùm chìa khoá bị bỏ quên trong túi quần cha Andrei, và thu hồi lại: văn phòng của ông ấy lập tức được trang bị ổ khoá, và cha Nil hẳn là còn hy vọng có thể vào đó để tìm lại bản thảo bí kia.

      Chán nản, ông gấp cuốn sách lại, luồn ngón trỏ vào giữa bìa sách và trang gác theo thói quen. Và ông giật mình.

      Ông vừa cảm thấy có chỗ gờ lên mặt trong bìa sách.

      lỗi của nhà sản xuất chăng?

      Ông đưa cuốn sách lại gần đèn, và mở ra dưới luồng ánh sáng: phải là cố trong khâu đóng bìa. Mép bìa sách bị bóc ra rồi dán lại. Bên trong, có thể cảm thấy diện của vật mảnh hình chữ nhật.

      Vô cùng thận trọng, ông cắt ngang trang gác bồi cho phần bìa, tách ra, và nghiêng cuốn sách để ánh sáng chói gắt có thể xuyên vào: bên trong, có văn bản được gấp làm tư.

      Ngay trước khi , cha Andrei luồn vào trong công trình cuối cùng của mình tờ giấy mà ông cẩn thận cất giấu kỹ càng.

      Lấy cái nhíp nhổ, cha Nil bắt đầu kéo mảnh giấy ra khỏi chỗ cất giấu cách hết sức cẩn trọng.


      26.

      Tối đó, ngồi trong văn phòng mình, đức cha tu viện trưởng sắp bị cơn nóng giận cuốn .

      Ông cầu được chuyện với Hồng ý giáo chủ Catzinger, ở Roma, nhưng đường dây số 390 dường như bị tắc nghẽn. Cuối cùng, giọng êm dịu của viên giáo sĩ cấp cao cũng vang đến tai ông.

      – Tôi hy vọng quấy rầy ngài, thưa Đức Hồng y… Tôi quyết định xin ngài cho tôi lời khuyên, và có thể là giúp đỡ tôi, về chuyện vị tu sĩ mà chúng ta từng đến… Cha Nil, giảng viên chú giải Kinh thánh ở học viện. Ngài hẳn còn nhớ tôi báo cho ngài… Vâng, đúng thế. Thời gian gần đây tôi nhận thấy có thay đổi đáng kể trong thái độ ông ấy. Trước đây ông ấy luôn là thầy tu rất chuyên cần, vô cùng chú ý trong các giờ lễ. Từ sau cái chết của cha Andrei đáng thương, ông ấy còn như thế nữa. Và việc chưa từng có vừa xảy ra: trong khi chức vụ thủ thư còn bỏ ngỏ, tôi tự mình giám sát các cuốn sách được mượn trong thư viện của chúng tôi. Thế là, sáng sớm nay, tôi quan sát được cha Nil lấy cắp tác phẩm nhạy cảm trong thư viện cánh Bắc. Xin lỗi ngài? À vâng, đó là bản thảo M M M nổi tiếng của người Mỹ…

      Ông phải đưa ống nghe ra xa tai. Đường dây riêng của Vatican, vốn quen với những lời êm dịu, truyền trung thực cơn tức giận của Hồng y:

      – Tôi chia sẻ nỗi lo lắng của ngài, thưa Đức hồng y. Ngài nhận được ngay ít các ghi chép mà chính cha Nil thảo ra coi như để làm mẫu… Vâng, tôi lấy được số tờ. Như vậy ngài có thể xem xét có cần áp dụng số biện pháp , hay chúng ta có thể để cha Nil thân mến được yên tĩnh tiếp tục các công trình khoa học của mình. Ngài đích thân phụ trách công việc này? Cảm ơn Đức Hồng y… Arrivederci, thưa Đức Hồng y.

      Với tiếng thở dài nhõm, đức Cha tu viện trưởng gác máy. Ông hào hứng lắm khi chấp nhận mua tác phẩm nguy hiểm như tập bản thảo M M M nhưng làm sao có thể chiến đấu chống lại những trận tấn công của đối thủ nếu biết vũ khí của chúng?

      Ông tự biết mình phải có trách nhiệm trước Chúa về các tu sĩ của mình, cả về cuộc sống tâm linh lẫn cuộc sống trí tuệ của họ và xâm phạm đến hai lần chốn riêng tư thiêng liêng trong phòng của trong những con chiên của mình là điều ông hề muốn.

      Trong văn phòng của mình ở Vatican, Emil Catzinger đưa ngón tay giận dữ ấn lên nút điện thoại.

      – Chuyển máy cho tôi chuyện với Đức ông Calfo. Đúng, ngay lập tức. Tôi quá biết chứ, giờ là tối thứ Bảy! Chắc chắn ông ấy ở căn hộ của mình trong khu lâu đài San Angelo. Tìm ông ấy .

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      27.

      Bàn tay cha Nil run run. Ông vừa kéo ra khỏi bìa cuốn sách của cha Andrei mảnh giấy phô tô. Ông đưa nó sát vào đèn, và ngay lập tức nhận ra lối viết thanh lịch của tiếng Ai Cập cổ.

      bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ.

      Hoàn toàn có thể đọc được, đó là bản sao chụp mảnh giấy da trong tình trạng tốt. Cha Nil rất hay được xem xét những kho báu mà cha Andrei lấy ra từ tủ của mình để đưa cho ông chiêm ngưỡng. Ông quen với lối viết của những bản thảo quan trọng ở Nag Hamadi, do nhà Ai Cập học Jean Doresse đối chiếu lần đầu tiên sau khi được phát vào năm 1945 bờ trái sông Nil đoạn trung lưu. Vốn quen với các bản thảo bằng tiếng Hebrew hoặc Hy Lạp, ông biết rằng thuật viết chữ vận động theo thời gian, và luôn có xu hướng đơn giản hoá.

      Chữ viết mảnh giấy da này cùng kiểu với chữ viết của các ngụy tác nổi tiếng như kinh Phúc theo Thánh Thomas vào cuối thế kỷ II, tác phẩm thu hút quan tâm của toàn thế giới. Tuy nhiên, ràng là kiểu chữ này xuất muộn hơn.

      Vì có kích thước rất nên mảnh giấy da này hẳn bị Doresse đánh giá là mấy hấp dẫn hoặc khó hiểu và từ bỏ nó. Và cuối cùng, giống như biết bao bản thảo khác, nó hạ cánh xuống Roma. Để rồi ngày được nhân viên của Thư viện Vatican khai quật, và gửi đến tu viện. Là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực này, cha Andrei thường nhận được những văn bản kiểu như vậy để phân tích.

      Cha Nil biết rằng các ngụy tác ở Nag Hamadi xuất vào các thế kỷ II và III, và từ thế kỷ IV, có gì được viết ra từ ngôi làng Ai Cập cổ này nữa. Như vậy, mảnh giấy da muộn màng này có vào cuối thế kỷ III.

      bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ vào thế kỷ III.

      Đây có phải là bản thảo khiến cha Andrei bối rối đến mức dám gửi báo cáo cuối cùng của mình về Roma? Nhưng tại sao ông ấy lại cẩn thận cất giấu bản phô tô này như vậy thay vì xếp vào tủ của mình cùng những bản thảo khác?

      Cha Andrei còn ở đây để trả lời những câu hỏi của ông. Cha Nil gục đầu vào lòng bàn tay và nhắm mắt lại.

      Ông như lại nhìn thấy dòng đầu tiên mảnh giấy mà ông phát trong bàn tay của người bạn: Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc). Ngay lúc đó, ông dịch Apoc thành “apocalypse” – Khải Huyền: đó là cách viết tắt truyền thống trong các ấn bản Kinh Thánh. Cha Nil muốn xác minh lại, và mở bản dịch gần đây nhất của Kinh Thánh Công giáo mà cha Andrei sử dụng ra. Trong bản dịch mới và được dùng như tài liệu tham khảo này, tên viết tắt của Apocalypse còn là Apoc nữa, mà là Ap.

      Là người luôn tường tận mọi chuyện, lại tỉ mỉ, nếu có ý định ám chỉ đến cuốn sách về kinh Khải Huyền, có lẽ cha Andrei viết Ap, chứ phải Apoc. Thế ông ấy nghĩ đến cái gì?

      Đột nhiên, cha Nil hiểu ra: (Apoc) phải để chỉ “apocalypse”, kinh Khải Huyền, mà là “apocryphe”: ngụy tác!

      Điều cha Andrei muốn là: “Mình phải với cha Nil về bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà mình cất giấu trong cuốn sách in các ngụy tác của mình ngay trước khi ”. Đó chính là cuốn sách ông lấy trong văn phòng ông ấy sáng nay và bây giờ ông cầm trong tay. bản thảo có nội dung quan trọng đến mức ông ấy muốn với ông ngay lập tức, sau khi từ Vatican trở về.

      “Đây là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ từ Roma gửi đến!”

      Giữa các ngón tay mình, cha Nil giữ văn bản dẫn đến việc triệu tập viên thủ thư của tu viện Saint-Martin.

      Ông lại cầm mảnh giấy lên và quan sát nó gần. Mảnh giấy da rất : cha Nil phải là chuyên gia về tiếng Ai Cập cổ nhưng có thể đọc nó chút khó khăn, và chữ viết ràng đến nỗi ông gặp vấn đề gì trong việc nhận mặt chữ.

      Liệu ông có dịch được ? bản dịch thanh thoát chắc chắn là thể. Nhưng bản dịch chuyển chữ, theo kiểu mổ cò cách phỏng chừng có thể. Tra từng từ trong từ điển, rồi ghép chúng với nhau: ý nghĩa của văn bản ra.

      Ông đứng dậy. Sau lát ngập ngừng, ông đặt mảnh giấy quý giá lên phía tấm ván mà các tu sĩ dùng làm tủ quần áo rồi bước ra hành lang. Hẳn là người ta viếng thăm phòng của ông trong vài phút vắng mặt mà ông cần.

      Ông nhanh chóng về phía thư viện duy nhất ông có quyền vào: Khoa học Kinh Thánh.

      kệ sách đầu tiên, nơi xếp những tác phẩm thường được sử dụng nhất, ông tìm thấy cuốn từ điển từ nguyên Ai Cập cổ – tiếng của Cerny. Ông lấy cuốn sách, đặt vào chỗ của nó bóng ma có tên mình, rồi trở về phòng, tim đập thình thịch. Mảnh giấy quý giá vẫn nằm ở nơi ông đặt nó.

      Tiếng chuông đầu tiên của giờ kinh chiều tối vang lên: ông đặt cuốn từ điển lên bàn, nhét mảnh giấy vào túi áo trong và xuống nhà thờ.

      đêm ngủ nữa chờ đón ông.

      28.

      Thư của các Tông đồ, thư gửi tín hữu xứ Galatia, năm 48

      – Abbou, cha thể để mặc họ làm mà gì!

      Mười tám năm trôi qua kể từ khi Jesus chết. Đứng bên người môn đồ cưng, Iokhanân sôi lên vì sốt ruột. Đại diện của những người “Cơ Đốc” – như người ta gọi họ từ thời gian trở lại đây – vừa hội họp lần đầu tiên tại Jerusalem, nhằm khơi sạch ung nhọt: cuộc chiến giữa các tín đồ “Do Thái”, những người chịu từ bỏ các quy định của Pháp luật – đặc biệt là phép cắt bì với người “Hy Lạp”, những người muốn duy trì thủ thuật này mà mong muốn vị chúa mới cho tôn giáo mói. vị chúa có thể là Jesus, được đặt lại tên là “Chirst”: ý tưởng này bắt đầu được lan truyền rộng rãi, mọi người thào với nhau về nó ngày càng nhiều.

      Cuộc chiến tư tưởng này che giấu cuộc chiến khốc liệt để giành vị trí cao nhất: cuộc chiến giữa những người Do Thái sùng đạo theo Jacques, em út của Jesus, cũng là ngôi sao lên, với các học trò của Peter – phe chiếm đa số mà thủ lĩnh già này duy trì bằng bàn tay sắt. Và chống lại họ là tất cả những người Hy Lạp theo Paul, nhân vật mới xuất mơ ước biến ngôi nhà do các tông đồ xây dựng thành công trình mang tầm vóc thế giới. Họ lăng nhục nhau, văng vào mặt nhau những lời thoá mạ khủng khiếp – em trai giả mạo, kẻ tiếm vị, gián điệp, thậm chí suýt đến chỗ đánh nhau.

      Giáo hội Cơ Đốc hình thành tổ chức hội nghị Giám mục đầu tiên ở Jerusalem, thành phố giết hại các nhà truyền giáo.

      – Hãy nhìn họ xem, Iokhanân! Họ đánh nhau quanh xác chết, và chỉ nghĩ đến việc chia cắt danh tiếng của Người!

      Chàng trai trẻ có mái tóc quăn nắm lấy cánh tay ông.

      – Chính cha là người đầu tiên gặp Jesus, trước tất cả bọn họ. Cha phải , abbou!

      Ông thở dài, đứng lên. Mặc dù tách mình khỏi nhóm Mười hai, nhưng uy tín của người đàn ông này vẫn còn rất lớn. Tất cả mọi người im lặng và quay về phía ông.

      – Từ hôm qua, tôi nghe các vị diễn thuyết dông dài, và tôi có cảm giác mọi người về Jesus khác chứ phải người tôi biết. Mỗi người tái tạo Người theo cách của mình: những người này muốn Người chỉ là người Do Thái sùng đạo, những người khác muốn biến người thành vị thánh. Tôi tiếp Người ở bàn ăn nhà tôi, và chúng tôi có mười ba người ngồi quanh Người tối đó, trong căn phòng lớn ở nhà tôi. Nhưng ngày hôm sau, tôi là người duy nhất nghe tiếng đóng đinh, nhìn thấy mũi giáo, chứng kiến cái chết của Người. Tất cả vị đều trốn hết. Tôi làm chứng người đàn ông này phải là môt vị chúa: Chúa chết, Chúa phải chịu đựng cảnh hấp hối mà Người phải trải qua trước mắt tôi. Tôi cũng là người đầu tiên đến mộ Người vào cái ngày người ta thấy nó trống rỗng. Và tôi biết điều gì xảy đến với thi thể bị hành hình của Người, nhưng tôi gì nhiều hơn ngoài chuyện từ giờ trở , sa mạc là nơi che chở Người.

      loạt những lời nguyền rủa ngăn cản ông tiếp. số người vẫn ngần ngại chấp nhận thiên chất của Jesus, nhưng tất cả đều thống nhất rằng Người phục sinh từ cõi chết. Ý tưởng về phục sinh thu hút đám đông, họ tìm thấy ở đó phương tiện giúp họ chịu đựng cuộc sống vốn chút hy vọng. Phải chăng ông ta, người chỉ có ít học trò, muốn xua đuổi hàng nghìn người cải đạo, buộc họ phải tay trở về nhà mình?

      Trước mặt ông, những nắm tay giương lên.

      “Họ muốn sử dụng Jesus để phục vụ cho tham vọng của họ ư? Cứ để họ làm thế mà có ta”. Ông tựa vào vai Iokhanân và ra.

      Iokhanân mới chỉ là cậu bé khi quân lính La Mã phá huỷ Séphoris, thủ phủ của vùng Galilee. Cậu nhin thấy hàng nghìn giá chữ thập được dựng lên đường phố, và những người bị đóng đinh câu rút dần hấp hối dưới ánh mặt trời. hôm, chúng đến tìm cha cậu: cậu kinh hoàng thấy cha bị quất roi vào người, rồi bị đặt nằm lên cái xà gỗ. Những nhát búa nện lên đinh dội vào tận ngực cậu, cậu thấy máu bắn ra từ cổ tay, nghe tiếng thét đau đớn của cha. Khi chúng dựng giá chữ thập dưới bầu trời vùng Galilee, cậu bất tỉnh; mẹ cậu bọc cậu trong chiếc khăn san, và trốn về nông thôn náu.

      Từ đó trở , đứa trẻ chịu . Nhưng đêm đến, trong giấc ngủ chập chờn, cậu liên tục nhắc nhắc lại: “Abba! Cha!”

      Khi cậu tỉnh lại, hai mẹ con đến sống ở Jerusalem. Theo lời nguyện của người Nazareth, mẹ cậu dâng cậu cho Chúa: cậu cắt tóc nữa. Từ đó trở , cậu là người Do Thái sùng đạo, nhưng cậu vẫn .

      Sau đó, giống như mọi người trong thành phố, cậu biết về chuyện Jesus bị đóng đinh câu rút. Nỗi kinh hoàng của cậu trước cảnh hành hình giá chữ thập lớn đến nỗi cậu xua đuổi Người ra khỏi trí nhớ của mình. Cậu mong chờ Đấng Cứu thế, người sớm xuất , và thể là Jesus: Đấng Cứu thế bao giờ để mình bị đóng câu rút. Đấng Cứu thế mạnh mẽ, để đánh đuổi người La Mã và khôi phục lại vương quốc của vua David.

      Rồi sau đó, cậu gặp người đàn ông vùng Judee này, người cũng dè dặt như cậu, người nhìn nhận câm lặng của cậu cách thân thiện, tỏ ra ngạc nhiên. Người về Jesus như từng sống rất gần Người, dường như ông biết Người từ bên trong tâm hồn. Khi mẹ cậu chết, người đàn ông mến Thầy nhường ấy, người tự nhận mình là môn đồ cưng của Người, đón cậu về nhà. Ông trở thành abbou, người cha của tâm hồn cậu.

      hôm, để ông biết rằng cậu hiểu về thế giới mới mà Jesus khám phá ra, Iokhanân lấy kéo cắt ngắn những bím tóc dài của mình. Vừa làm, cậu vừa nhìn chăm chăm vào abbou, vì cậu vẫn mà chỉ thể bằng hành động.

      Thế là người môn đồ cưng lấy ngón tay cái đánh dấu lên trán, lên môi và lên trái tim cậu chữ thập vô hình. Iokhanân cũng hiểu điều này, lặng lẽ thè ra chiếc lưỡi nơi dấu vết kinh hoàng vẫn còn in .

      Đêm tiếp theo, lần đầu tiên cậu ngủ mà hất tấm chăn bằng len thô ra. Và ngày hôm sau, lưỡi cậu lại bắt đầu để diễn đạt dào dạt trong tâm hồn được Jesus chữa lành của cậu.

      Đến gần nhà mình, người môn đồ cưng đặt bàn tay lên vai cậu.

      – Iokhanân, tối nay con đến gặp Jacques, em trai của Jesus. với ông ấy là ta muốn gặp. Bảo ông ấy đến nhà ta.

      Chàng trai trẻ gật đầu, và nắm lấy bàn tay của abbou trong tay mình.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      29.

      Khi cha Nil đặt cuốn từ điển xuống mặt bàn chất đầy sách vở, đêm về khuya. Ông cảm thấy giờ đây mình cách xa biết bao với hội nghị Giám mục bi thảm ở Jerusalem, mặc dù chỉ mấy ngày trước ông còn tìm hiểu các diễn biến của nó! Thế nhưng chính là ngày đó, mười tám năm sau khi Jesus chết, hẳn là người môn đồ cưng thực bị loại khỏi Giáo hội hình thành.

      Ông có thể dịch được mảnh giấy da tìm thấy trong cuốn sách do bạn ông biên tập. Chỉ có hai câu ngắn, dường như có mối liên hệ nào với nhau:

      Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ

      chứa đựng mầm mống phá huỷ nó

      Bức thư phải bị huỷ bỏ khắp nơi

      Để nơi ở còn ở lại.

      Cha Nil đưa tay xoa trán: điều này có ý nghĩa gì?

      “Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ”: ở thời Cổ đại, đây là cách người ta gọi Tín điều Nicée, Tín điều của các Giáo hội Cơ Đốc. Điều mà họ thấy khắc ở Germigny, điều khiến cha Andrei phải suy nghĩ nhiều đến thế. Còn cụm từ “mầm mống phá hủy” mà Tín điều này chứa đựng là gì? Điều này chẳng có ý nghĩa gì cả.

      “Bức thư phải bị huỷ bỏ ở khắp nơi”: từ Ai Cập cổ mà ông vừa dịch thành “bức thư” cũng là từ chỉ những bức thư của Thánh Paul trong kinh Tân ước. Liệu có phải là trong những bức thư này ? Giáo hội chưa bao giờ cấm bất cứ bức thư nào của Thánh Paul. Phải chăng bản thảo này do nhóm người Cơ Đốc ly khai soạn ra?

      Dòng cuối cùng đặt ra cho cha Nil vấn đề khác: “để nơi ở còn ở lại”. Từ điển đưa ra nhiều nghĩa, “nơi ở” hoặc “nhà” thậm chí là “hội”. Điều chắc chắn ở đây là cùng gốc ký tự Ai Cập cổ được dùng hai lần liên tiếp. Như vậy là có cố tình chơi chữ ở đây: nhưng đó là gì?

      Ông vừa dịch nghĩa các từ, nhưng phải ý nghĩa của cả thông điệp này. Cha Andrei có hiểu được ý nghĩa đó ? Và ông ấy tìm ra được mối liên hệ nào giữa thông điệp này với các chỉ dẫn khác trong mảnh giấy ông ấy để lại trước khi chết?

      Viên thủ thư chết sau khi được triệu tập về Roma để báo cáo về bản dịch của mình. Bốn dòng chữ này có liên quan gì tới việc ông đột ngột mất hay ?

      Cha Nil phải đối mặt với ván cờ mà các quân cờ nằm rải rác theo trật tự nào. Cha Andrei kiên nhẫn tập hợp những quân cờ này lại trước ông. Và khi từ Roma trở về, tàu, ông viết: ngay lập tức. Như vậy, khi ở bên ngôi mộ của tông đồ, ông ấy phát mang tính quyết định – nhưng đó là gì?

      Đối với ông, còn gì giống như trước đây nữa. Ông phải xem xét lại cả cuộc đời mình chăng? Có thể tự coi mình là người Cơ Đốc nữa nếu nghi ngờ về thiên chất của Jesus?

      Đêm còn lại vài giờ nữa. Cha Nil tắt đèn và nằm trong bóng tối.

      “Chúa trời, chưa ai từng nhìn thấy Người. Còn Jesus, dù Người phải là Chúa trời, vẫn là con người hấp dẫn nhất mình từng gặp. , mình nhầm khi dâng hiến cả cuộc đời cho Người”.

      Vài phút sau, cha Nil, tu sĩ dòng Benedict, người nắm giữ những bí mật quá nặng nề, chìm vào giấc ngủ đầy tin tưởng.

      30.

      – Mời Đức ông ngồi.

      Khuôn mặt như búp bê của Hồng y Giáo chủ, được bao quanh bởi mái tóc bạc trắng, có vẻ lo lắng. Ông đưa mắt nhìn Calfo, người vừa thở dài vừa ngồi xuống chiếc ghế rộng.

      Emil Catzinger ra đời cùng thời điểm với chủ nghĩa phát xít. Giống như tất cả trẻ em cùng độ tuổi khác, dù muốn, ông vẫn phải gia nhập Đội thiếu niên của Hitler. Sau đó, ông dũng cảm tách xa Quốc trưởng, thoát khỏi những vụ thanh trừng của Gestapo. Nhưng con người ông vẫn in đậm dấu ấn của những điều nhận được thời thơ ấu.

      – Cảm ơn ông vì ngừng các hoạt động tối thứ Bảy của mình lại.

      Hội trưởng, người vừa bỏ rơi Rumani ngay giữa hành trình đặc biệt hứa hẹn, gật mạnh đầu.

      – Phụng Giáo hội, thưa Đức Hồng y, là công việc có thời hạn cũng có giờ giấc!

      – Đúng thế. Tốt, xem nào … Chiều nay tôi vừa có cuộc trao đổi qua điện thoại với Cha tu viện trưởng của tu viện Saint-Martin.

      giáo sĩ cấp cao tuyệt vời, xứng đáng về mọi mặt với niềm tin mà ngài trao cho ông ấy.

      – Ông ấy cho tôi biết rằng cha Nil đó, người chúng ta từng đến, lấy cắp trong thư viện mà ông ta được phép tiếp cận, tập tài liệu do bọn ly khai xuất bản.

      Calfo chỉ nhướng bên lông mày lên.

      – Và ông ấy vừa fax cho tôi mẫu trong số các ghi chép cá nhân của ông ta, chúng khiến tôi hết sức bận lòng. Rất có khả năng ông ta đến được gần bí mật mà Giáo hội rất thánh của chúng ta và Hội Thánh Pie V của các ông phải kiên cường gìn giữ.

      – Ngài có nghĩ rằng ông ta tiến xa con đường nguy hiểm này ?

      – Tôi còn chưa biết gì cả. Nhưng ông ta rất gần gũi với cha Andrei, ông này lại tiến rất xa con đường cấm kỵ này. Ông biết điều gì đe doạ ở đây: chính là tồn tại của Giáo hội Công giáo. Chúng ta phải biết điều mà cha Nil biết. Ông có đề xuất gì ?

      Calfo nở nụ cười thoả mãn, hơi ngả người ra sau, rút từ trong áo dòng ra chiếc phong bì và đưa cho Hồng y Giáo chủ.

      – Nếu Đức Hồng y muốn xem qua cái này… Ngay khi ngài với tôi về cha Nil này, tôi cầu các em trong Hội tiến hành cuộc điều tra kép. Đây là kết quả thu được, và có lẽ có thể trả lời cho câu hỏi của ngài.

      Catzinger lấy từ phong bì ra hai tập hồ sơ có in chữ confidenziale.[[13]]

      – Hãy xem hồ sơ đầu tiên này… Ngài thấy rằng cha Nil có thời gian học tập rất xuất sắc tại trường đại học dòng Benedict ở Roma. Rằng đó là thế nào nhỉ, người lý tưởng chủ nghĩa, hay cách khác ông ta có chút tham vọng cá nhân nào. thầy tu luôn tuân thủ kỷ luật, chỉ tìm kiếm niềm vui trong việc nghiên cứu và cầu nguyện.

      Catzinger chăm chú nhìn vào mặt ông ta qua phía cặp kính.

      – Calfo thân mến của tôi, với ông, tôi cần phải rằng những kẻ nguy hiểm nhất chính là những kẻ lý tưởng chủ nghĩa. Arius là người lý tưởng chủ nghĩa, Savonarole và Luther cũng vậy… con chiên tốt của Giáo hội tin vào các giáo lý mà đặt ra việc xem xét lại chúng. Bất kỳ lý tưởng nào khác đều có thể vô cùng gây hại.

      – Certo, Eminenza [[14]]. Khi học ở Roma, ông ta có quan hệ bạn bè với tu sĩ dòng Benedict người Mỹ: Rembert Leeland.

      – Này, này! chàng Leeland của chúng ta phải ? Chuyện này thú vị đấy!

      – Đúng là Đức ông Leeland. Tôi lấy hồ sơ của ông ta – tập hồ sơ thứ hai. Trước hết và tất cả là nhạc sĩ, tu sĩ ở hạt Kentucky tại tu viện St.Mary, nơi có học viện nhạc. được bầu làm tu viện trưởng. Sau đó, vì thể số quan điểm gây nhiều tranh luận…

      – Đúng, tôi biết đoạn sau, giai đoạn tôi là chủ tịch Cơ quan truyền bá đức tin rồi. Ông ta được bầu làm Giám mục in partibus [[15]] sau đó được phái đến Roma theo nguyên tắc tuyệt vời promoveatur ut amoveatur [[16]]. Ồ, ông ta thực nguy hiểm đâu: chỉ là nhạc sĩ thôi mà! Nhưng khi đó phải dập vụ tai tiếng do những tuyên bố công khai của ông ta về chuyện linh mục kết hôn gây ra. ông ta là thư lại ở đâu đó, đúng ?

      – Ở Văn phòng Quan hệ với người Do Thái, sau khi ở Roma, ông ta ở Israel hai năm, ở đó ông ta nghiên cứu về nhạc nhiều hơn về tiếng Hê brơ. Hình như Leeland là nhạc công piano tuyệt vời.

      – Thế sao?

      Calfo nhìn vào mặt người đối thoại với vẻ thương hại.

      – Sao cơ ạ, Eminenza, ngài thấy gì sao?

      Ông cố kìm nén mong muốn điên rồ là được châm điếu xì gà làm biến dạng chiếc túi trong của ông. Hồng y Giáo chủ hút thuốc, cũng uống rượu. Nhưng Hội Thánh Pie V sở hữu hồ sơ đầy những chữ thập ngoặc về quá khứ của ông, là thứ bảo đảm cho an toàn của hội trưởng.

      – Chừng nào cha Nil còn ở Saint-Martin, chúng ta thể biết được những điều ông ta nghĩ trong đầu. Ông ta phải đến đây, đến Roma này. Nhưng ông ta thổ lộ điều gì trong văn phòng của tôi lẫn văn phòng của Ngài, thưa Đức Hồng y. Ngược lại, dưới cái cớ nào đó, hãy để ông ấy gặp gỡ ông bạn Leeland của mình, hãy để họ có thời gian chuyện cởi mở với nhau. Giữa nghệ sĩ và người sùng tín, họ tâm với nhau những điều bí mật.

      – Cái cớ đó có thể là gì?

      – Leeland quan tâm đến các loại nhạc cổ còn hơn là các vụ việc của người Do Thái. Chúng ta phát ra rằng đột nhiên ông ta cần đến trợ giúp của chuyên gia về các văn bản cổ.

      – Và ông tin rằng ông ta … hợp tác?

      – Đó là việc của tôi. Ngài biết rằng chúng ta nắm giữ ông ta: ông ta hợp tác.

      lát im lặng. Catzinger cân nhắc cái được và cái mất. “Calfo là người Napoli. Quen với những thủ đoạn ngoắt nghoéo. ngốc”.

      – Đức ông ạ, tôi giao toàn quyền cho ông. Hãy thu xếp để triệu tập chàng James Bond chuyên chú giải Kinh Thánh đến đây. Và hãy làm thế nào để ông ta trở nên ba hoa.

      Khi ra khỏi Cơ quan truyền bá đức tin, Calfo thoáng thấy tấm thảm dày những tờ tiền xanh đổ vào lâu đài San Angelo. Catzinger tưởng mình biết tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại biết điều mấu chốt. Chỉ có ông, Alessandro Calfo, thằng bé khốn khổ trở thành hội trưởng của Hội Thánh Pie V, là có được cái nhìn toàn diện.

      Chỉ có mình ông biết cách trở nên hiệu quả. Dù có phải sử dụng cùng những phương tiện khiến các Hiệp sĩ dòng Đền bị thiêu sống ở châu u vào thế kỷ XIV.

      Có thể họ biết điều này, nhưng Philippe le Bel và Nogaret cứu cả phương Tây. Ngày nay, đến lượt ông và Hội thánh Pie V đảm nhiệm sứ mệnh đáng sợ này.




      Xem cả bộ:

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      31.

      Jerusalem, năm 48

      – Cảm ơn đến nhanh chóng như vậy, Iakôv.

      Người môn đồ cưng gọi Jacques bằng họ của ông theo tiếng Hê brơ. Mặt trời buổi hoàng hôn chiếu sáng mái che của ngôi nhà bằng thứ ánh sáng màu vàng hung, họ chỉ có hai người với nhau. Em trai của Jesus bỏ bùa chữ [[17]] ra, nhưng vẫn còn quấn khăn choàng dùng khi cầu nguyện. Ông có vẻ khiếp sợ.

      – Hôm qua, Paul quay về Antioche, suýt nữa hội nghị Giám mục đầu tiên của Giáo hội kết thúc cách tồi tệ. Tôi phải áp đặt thoả hiệp, Peter ra với tinh thần rất sa sút. Ông ta căm thù , cũng như căm thù tôi.

      – Peter phải là người độc ác. Cuộc gặp gỡ với Jesus khiến ông ta phải đột ngột đối mặt với số phận nghèo khổ của mình. Ông ta từ chối quay lại phía sau, và ghét tất cả những ai có thể cướp vị trí cao nhất của ông ta.

      – Tôi là em của Jesus. Nếu trong hai chúng tôi phải biến mất, người đó là ông ta. Ông ta phải nơi khác để xác lập vị trí đứng đầu của ông ta!

      – Ông ta , Jacques ạ, ông ta . Sau khi Paul xây dựng xong tôn giáo mới mà ông ta mơ ước, nguồn sáng chuyển từ Jerusalem đến Roma. Cuộc đua quyền lực mới chỉ bắt đầu.

      Jacques cúi đầu.

      – Từ khi công khai giết chết Ananie và Saphire, Peter mang vũ khí nữa, nhưng số người trung thành với ông ta vẫn mang. Hôm qua, tôi nghe họ chuyện, họ cho rằng là người của quá khứ, rằng chống đối những người mang lại tương lai. thể có tông đồ thứ mười ba, biết điều đó mà. Cuộc sống của gặp nguy hiểm. thể ở lại Jerusalem.

      – Vụ giết hại Ananie và vợ ông ấy xảy ra lâu rồi, và đó là vấn đề tiền bạc. Từ đó trở , từ tất cả các nhà thờ ở châu Á, tiền dồn hết về Jerusalem.

      – Đó phải là vấn đề tiền bạc. đòi xem xét lại tất cả những điều mà họ tranh đấu. Cùng với Judas, là môn đồ mà Jesus của tôi mến nhất. Chúng ta biết Peter loại bỏ Judas thế nào, cũng như ông ta loại trừ những chướng ngại vật con đường ông ta thế nào. Nếu cũng biến mất như Iscariote, cả mảng ký ức biến mất cùng . phải trốn , nhanh lên, và có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, vậy , tôi xin , hãy cho tôi biết người Esseni chôn xác Jesus ở chỗ nào. Hãy cho tôi biết mộ của ấy ở đâu!

      Người đàn ông này có tham vọng của Peter, cũng có thiên tài của Paul: ta chỉ là người Do Thái bình thường, hỏi thăm tin tức của trai mình. Ông nhiệt tình trả lời:

      – Thời gian tôi sống với Jesus ít hơn rất nhiều so với , Iakôv ạ. Nhưng điều tôi hiểu về Người ai trong số các có thể hiểu được. Về phần là vì gắn bó sâu sắc với đạo Do Thái. Còn Paul là vì lúc nào cũng gần gũi với các vị thần trong đạo đa thần của Đế chế La Mã, và luôn mơ ước thay thế họ bằng tôn giáo mới, dựa Christ được xây dựng lại theo cách của ông ta. Jesus thuộc về bất cứ ai, bạn ạ, thuộc về những người ủng hộ cũng chẳng thuộc về những người ủng hộ Paul. Giờ đây Người yên nghỉ trong sa mạc. Chỉ sa mạc mới có thể bảo vệ thi thể Người khỏi những người Do Thái hoặc Hy Lạp tham lam trong Giáo hội mới. Đó là con người tự do nhất tôi từng biết. Người muốn thay thế luật pháp của Moise bằng luật pháp mới, phải viết những tấm bảng mà viết trong trái tim con người. luật pháp có giáo lý nào khác ngoài giáo lý của tình .

      Jacques sầm mặt lại. được đụng đến luật pháp của Moise, nó chính là bản chất của Israel. Ông muốn thay đổi chủ đề.

      phải . Và hãy dẫn mẹ Marie của tôi xa khỏi đây, bà có vẻ rất hạnh phúc khi ở bên

      – Chúng tôi rất quý mến nhau, và tôi kính trọng mẹ của Jesus. Mỗi lúc bà ở bên đều là niềm vui của tôi. đúng, tôi còn chỗ cả ở Jerusalem lẫn ở Antioche. Tôi . Ngay sau khi biết có thể dựng chiếc lều du mục của mình ở đâu, tôi cho đưa bà Marie đến ở với tôi. Trong khi chờ đợi, Iokhanân làm người liên lạc giữa tôi và bà. Đối với cậu ấy, bà gần như là người mẹ thứ hai.

      định đâu?

      Người môn đồ cưng nhìn quanh. Giờ đây bóng tối bao trùm mái che, nhưng cửa sổ căn phòng lớn vẫn còn được ánh hoàng hôn chiếu sáng. Căn phòng đó là nơi ông ăn bữa ăn cuối cùng với Jesus cách đây mười tám năm. Ông phải rời bỏ nơi này, nơi giờ đây chỉ còn là ảo ảnh. Tìm kiếm ở nơi chính Jesus tìm thấy.

      – Tôi về phía Đông, về phía sa mạc. Chính trong khi ở sa mạc, Jesus hoàn thiện phép biến đổi, chính ở đó Người hiểu ra sứ mệnh của mình. Tôi thường nghe Người vừa mỉm cười vừa rằng Người ở giữa những con vật hoang dã và chúng tôn trọng nỗi độc của Người.

      Ông nhìn thẳng vào mặt em trai Jesus.

      – Sa mạc, Jacques ạ… Có thể từ nay trở đó là tổ quốc duy nhất cho các môn đồ của Jesus xứ Nazareth. Nơi duy nhất họ được ở nhà mình.

      32.
      Trong lúc cởi bỏ trang phục sau lễ kinh mừng, Cha tu viện trưởng nhận thấy nét mặt căng thẳng và vẻ nhợt nhạt của cha Nil.
      Khi ông quay lại văn phòng, chuông điện thoại reo vang.
      Hai mươi phút sau, khi gác máy, ông cảm thấy vừa phân vân vừa nhõm. Ông ngạc nhiên khi nghe đích thân Hồng y Giáo chủ thông báo vinh dự lớn cho tu viện của ông: Vatican cần gấp đến năng lực của trong số các tu sĩ của tu viện. chuyên gia về nhạc cổ làm việc tại Triều chính Toà Thánh cần được hỗ trợ để tiến hành các công trình nghiên cứu về nguồn gốc của nhạc Grégorie. Những nghiên cứu quan trọng, được Đức Thánh Cha đặt rất nhiều hy vọng nhằm cải thiện mối quan hệ giữa Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Tóm lại, Roma chờ đợi cha Nil đến ngay, để mang khả năng của ông ra phục vụ Giáo hội toàn năng. Ông chỉ vắng mặt trong vài tuần, và ông chuyến tàu đầu tiên đến Roma, ông ở San Girolamo, tu viện dòng thánh Benedict tại Roma.
      Giống hệt như cha Andrei đáng thương.
      được tranh luận về những mệnh lệnh của Hồng y Catzinger, Cha tu viện trưởng nghĩ. Và cách hành xử gần đây của cha Nil khiến ông lo lắng. Đối với các vấn đề càng cách xa càng tốt.
      Đức ông Calfo phải tạm ngưng lát trong ngày Chủ nhật thú vị của mình để lướt qua văn phòng của ông ở ngay gần đó, nhưng vẫn tiếp cận được người cộng tác của mình tại Cairo. Ông leo lên cầu thang trong căn hộ của mình bằng những bước chân hoạt bát. Điều chờ ông đó khiến ông quên những bất lợi của người Napoli đẫy đà, và chắp cánh cho ông.
      Em dấu khỏa thân, và hiểu trái tim tôi,
      Nên chỉ giữ lại người những trang sức kêu vang.
      Thực ra, trang sức duy nhất cơ thể Sonia thiếp ngủ chính là những ánh phản chiếu mái tóc . Calfo thích thú: “ nhà thơ đại tài, cái ông Baudelaire này! Nhưng ta bao giờ cho họ đồ trang sức; duy chỉ có tiền mặt thôi.”
      Moktar đúng: Sonia chỉ tỏ ra hết sức có khiếu trong nghệ thuật tình ái, mà còn hoàn toàn kín đáo. Nhân lúc ngủ, ông nhấc điện thoại và gọi lần nữa đến Cairo:
      – Làm ơn cho gặp Moktar Al-Quraysh … Tôi chờ máy, cảm ơn.
      Lần này, người ta tìm được : vừa xong buổi cầu kinh ở đền Al-Azhar.
      – Moktar? Salam aleikoum [[18]]. Hãy cho tôi biết các học trò của có cho chút thời gian rảnh lúc này ? Tuyệt vời. hãy bay đến Roma, và chúng ta gặp nhau. Tiếp tục nhiệm vụ mà tôi giao phó cho vì chính nghĩa … Vẫn hợp tác với kẻ thù thích của à? , còn quá sớm, nếu cần liên hệ với ta ở Jerusalem. Ồ, cùng lắm là vài tuần thôi! Đúng thế, ở Teatro Marcellus như thường lệ: discrezione, mi racommando! [[19]]
      Ông vừa gác máy vừa mỉm cười. Người cộng tác của ông phụ trách việc giảng dạy giáo lý kinh Coran tại đại học Al-Azhar nổi tiếng: kẻ cuồng tín, người bảo vệ dữ tợn của giáo lý Hồi giáo. Khiến người Ả rập và người Do Thái, hai điệp viên ngầm thuộc các cơ quan đặc biệt vào loại đáng gờm nhất ở Trung Đông làm việc cùng nhau, để bảo vệ bí mật quý giá nhất của Giáo hội Công giáo: phải rằng đó chính là chủ trương giáo hội thế giới.
      Chính trong khi làm công sứ của Tòa Thánh ở Cairo, ông gặp Moktar Al-Quraysh. Cả nhà ngoại giao và giảng viên giáo lý đều phát ra rằng người kia cũng bị thiêu đốt bởi cùng ngọn lửa được che dấu bên trong, điều đó tạo ra giữa họ mối liên kết ngờ đến. Nhưng giống ông, người đàn ông Palestine này tìm cách đạt đến mức độ siêu nhiên thông qua các lễ nghi tình ái. chỉ là kẻ bị ám ảnh tình dục.
      Sonia rên rỉ và mở mắt.
      Ông đặt điện thoại lên sàn và nghiêng về phía .

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      33.

      – Quay lại Roma, Moktar. Hội đồng các em Hồi giáo thuyết phục được Fatah về tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Những vụ mưu sát của họ đủ để bảo vệ đạo Hồi nếu bản chất thần khải của kinh Coran bị đưa ra xem xét lại, hoặc nếu nhân thân thiêng liêng của Đấng Tiên tri – cầu cho tên Người được ban phúc – có nguy cơ bị vấy bẩn vì nghi ngờ bóng gió nào, dù là nhất. Nhưng có điều …

      Moktar Al-Quraysh mỉm cười: chờ đợi điều đó. Nước da nâu, cơ thể săn chắc và vóc người bé của lại càng làm nổi bật thêm dáng vóc cao lớn của Mustapha Machlour, thứ được tất cả các sinh viên của đại học Al-Azhar ở Cairo kính trọng.

      – Đó là mối quan hệ của với người Do Thái kia. Việc làm bạn với

      ta cứu mạng tôi trong cuộc chiến Sáu Ngày, vào năm 67. Tôi chỉ có mình và hề có vũ khí trước xe tăng của ta trong sa mạc, quân đội của chúng ta thua chạy tán loạn: ta có thể chèn lên người tôi, đó là luật của chiến tranh. Nhưng ta dừng lại, cho tôi uống nước và để tôi được sống. Đó phải là người Do Thái như những người khác.

      – Nhưng đó là người Do Thái! Và phải là bất cứ người nào, biết mà.

      Họ dừng lại dưới bóng tháp của giáo đường Al-Ghari. Mặc dù là cuối tháng Mười , nhưng làn da mỏng manh của ông già vẫn khó chịu đựng nổi ánh mặt trời thiêu rọi.

      – Đừng quên lời Đáng Tiên tri: “Hãy là kẻ thù của người Do Thái và người Cơ Đốc, chúng là bạn bè của nhau! Kẻ nào coi chúng là bạn là tự liệt mình vào với chúng, và Đấng Allah dẫn dắt dân tộc tự lừa dối mình [[20]].”

      – Ông thuộc kinh Coran hơn bất kỳ ai, Mourchid ạ – dùng danh hiệu “Người dẫn đường tối cao” của ông để thể lòng kính trọng của mình. Chính Đấng Tiên tri cũng ngần ngại liên minh với kẻ thù của mình vì nghiệp chung, và thái độ của Người chính là tiền lệ, kể cả trong trường hợp của Djihad. Cả người Do Thái lẫn người Ả Rập đều được lợi gì nếu nền tảng lâu đời của Cơ Đốc giáo bị đảo lộn cách sâu sắc.

      Người dẫn đường tối cao mỉm cười nhìn .

      – Chúng ta đến kết luận này trước rất lâu, và chính vì thế chúng ta để mặc hành động. Nhưng đừng quên rằng xuất thân từ bộ lạc chứng kiến Đấng Tiên tri ra đời – cầu cho tên Người được ban phúc. Vì vậy, hãy cư xử như người Quraysh, mang cái họ vinh quang đó. Hãy làm sao để tình bạn đối với người Do Thái này bao giờ khiến quên là ai, cùng như làm việc cho ai. Dầu và dấm có thể tạm thời ở cạnh nhau, nhưng chúng bao giờ trộn lẫn vào nhau.

      – Ông hãy yên tâm, Mourchid ạ, dấm của người Do Thái bao giờ ngấm được vào người Quraysh, tôi có làn da bền lắm. Tôi biết người này, nếu tất cả kẻ thù của chúng ta đều giống ta, có lẽ hòa bình ngự trị ở Trung Đông rồi.

      – Hòa bình … bao giờ có hòa bình cho người Hồi giáo, chừng nào toàn thể trái đất này chưa cúi mình năm lần ngày trước Qibla chỉ hướng đến Mecca.

      Họ rời khỏi cái bóng che chở của tháp giáo đường và lặng lẽ tiến về phía cửa vào giảng đường, mái vòm của tòa nhà sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Trước khi bước vào bên trong, ông già đặt bàn tay lên cánh tay Moktar.

      – Còn , có tin tưởng ta ?

      ta ở Roma tốt hơn nhiều so với cái nhà chứa ở Ả Rập Xê út nơi tôi lôi ta ra! tại, ta cư xử tốt. Nhất là ta hề muốn bị gửi trả về gia đình mình ở Rumani. Nhiệm vụ này đơn giản, và chúng ta sử dụng bất kỳ phương tiện tinh vi nào: chỉ là những phương pháp thủ công cũ kỹ và hiệu quả.

      – Bismillah Al-Rach’im. Sắp đến giờ lễ rồi, hãy để ta làm sạch mình.

      Bởi vì Người dẫn đường tối cao của Hội đồng các em Hồi giáo, người kế vị của người sáng lập Hội đồng là Hassan Al-Banna, trước đáng Allah cũng chỉ là muslim – kẻ phục tùng – giống như mọi người.

      Moktar tựa người vào cây cột và nhắm mắt lại. Có phải là cái vuốt ve của mặt trời ? sống lại cảnh tượng đó: người đàn ông nhảy ra khỏi xe tăng và tiến về phía , tay phải giơ lên để người phụ trách súng máy bắn. Xung quanh họ, sa mạc Sinai im ắng trở lại, những người Ai Cập thua trận trốn chạy. Tại sao vẫn còn sống? Và tại sao người Do Thái này giết ngay lập tức?

      Viên sĩ quan người Israel có vẻ lưỡng lự, khuôn mặt hoàn toàn bất động. Đột nhiên, ta mỉm cười, và đưa cho túi đựng nước. Trong khi uống nước, Moktar nhận thấy vết sẹo chạy dài bên dưới mái tóc vàng hoe cắt rất ngắn của ta.

      Nhiều năm sau, phong trào Intifada nổ ra ở Palestine. Trong con phố ở Gaza, Moktar vơ vét khu nhà nát mà những người Israel rút chạy bỏ lại trong cơn khốn khó. bước vào cái sân bị lựu đạn phá toang: người Do Thái ngồi bệt dưới chân bức tường thấp vừa ôm chân vừa rên khe khẽ. ta mặc đồng phục của Tsahal – chắc đây là điệp viên của Mossad. Moktar chĩa khẩu Kalachnikov về phía ta và sắp sửa bóp cò. Khi nhìn thấy nòng súng chĩa vào ngực mình, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn của người Do Thái đó động đậy, và phác ra nụ cười. Từ tai ta, vết sẹo chạy khuất vào dưới mũ.

      Người đàn ông trong sa mạc! Người đàn ông Ả Rập chậm rãi nâng nòng súng lên. Khạc đờm và nhổ xuống trước mặt. Thò tay trái vào trong áo sơ mi, và vứt cho người Do Thái túi bông băng cứu thương.

      Rồi quay lưng và ra lệnh ngắn gọn cho quân của mình: tiến lên, chẳng có gì cũng có người nào trong căn nhà tồi tàn này.

      Moktar mỉm cười: Roma là thành phố đẹp, đầy . Chắc chắn là nhiều hơn ở sa mạc.

      quay lại Roma. Rất sẵn lòng.

      34.

      Ba ngày sau, cha Nil cố lựa tư thế cho thích hợp với những chiếc ghế ngồi thiếu tiện nghi đoàn tàu Roma Express.

      Ông sửng sốt khi biết mình bị triệu tập đến Roma mà có lời giải thích nào. Những bản thảo nhạc cổ! Cha tu viện trưởng đưa cho ông tấm vé tàu chuyến ngày hôm sau, thể quay lại Germigny để chụp ảnh phiến đá lần nữa. Trong khi sắp xếp các tài liệu – vì thể để lại bất cứ thứ gì có hại trong phòng mình – ông nhét xuống đáy va li cuộn phim lấy được trong văn phòng của cha Andrei. Liệu ông có thể rút ra được điều gì từ đó ?

      Ông ngạc nhiên nhận thấy khoang tàu ông ngồi gần như trống ; tuy nhiên tất cả các chỗ ngồi còn trống đều được đặt trước. Chỉ có hành khách duy nhất, người đàn ông mảnh khảnh trung tuổi hình như ngủ, ngồi thụt vào trong góc sát hành lang. Khi khởi hành từ Paris, họ chỉ trao đổi với nhau cái gật đầu. Mái đầu được bao bọc bởi mái tóc vàng hoe như vầng hào quang bị vết sẹo dài cắt ngang.

      Cha Nil cởi áo vest tu sĩ, gấp lại cho khỏi nhàu và đặt lên ghế bên phải.

      Ông nhắm mắt lại.

      Mục đích của cuộc sống tu sĩ là kìm nén mọi dục vọng, và loại bỏ chúng đến tận gốc rễ. Ngay từ khi tập tu, cha Nil ở trong ngôi trường tốt: tu viện Saint-Martin tỏ ra là nơi tuyệt vời cho việc từ bỏ cái tôi. Toàn tâm hướng đến việc tìm kiếm , ông mấy đau khổ về điều này. Ngược lại, ông thích thú được giải thoát khỏi những dục vọng chế ngự loài người, khiến loài người phải chịu đau khổ nhiều nhất.

      Từ lâu, ông còn nhớ cảm giác giận dữ, đó là dục vọng thấp hèn. Cho nên ông ngần ngại muốn xác định điều mình cảm thấy từ vài ngày nay. Cha Andrei chết, việc điều tra được tiến hành qua quýt, rồi vụ việc bị xếp lại: kết luận là tự sát, điều sỉ nhục đối với ông ấy. Ở tu viện, người ta rình rập, lục lọi, ăn cắp. Người ta gửi ông đến Roma như gói hàng.

      Giận dữ ư? Dù sao cũng có cảm giác tức giận dâng lên, khiến ông lúng túng, giống như trận dịch bỗng xảy ra do căn bệnh biến mất từ lâu nhờ tiêm vắc xin.

      Ông quyết định tạm gác lại việc xem xét căn bệnh đột phát này: “Đợi đến Roma. Thành phố này sống sót sau mọi chuyện.”

      Ông kiên nhẫn dựng lại các kiện xung quanh cái chết của Jesus, để từ đó có thể dựng lại cuộc sống của người môn đồ cưng. Sau hội nghị Giám mục ở Jerusalem, người này vẫn tiếp tục sống. Cha Nil thấy giả thiết cho rằng ông trốn vào sa mạc là có vẻ đúng hơn cả: đó chính là nơi bản thân Jesus cũng nhiều lần nấp. Cũng chính tại sa mạc, người Esseni, sau đó là những người Do Thái nước cuồng nhiệt, trú ngụ cho đến cuộc nổi dậy của Bar Kochba.

      Vết chân của người này tan lẫn trong cát sa mạc. Để tìm lại, cha Nil phải nghe được giọng vang lên từ dưới mồ, giọng người bạn mất của ông.

      Tiếp tục cuộc kiếm tìm này có tác dụng như phương tiện chuyển giải cho nỗi tức giận mà ông cảm thấy dâng lên trong người.

      Ông cố gắng lựa tư thế thoải mái để ngủ chút.

      Tiếng động của đoàn tàu khiến ông dần cảm thấy đờ đẫn. Những ngọn đèn đoạn Lamotte-Beuvron vun vút chạy qua.

      Khi ấy mọi việc diễn ra rất nhanh. Người hành khách trong góc hành lang rời chỗ ngồi và tiến lại gần, như để lấy thứ gì đó trong lưới đầu ông. Cha Nil đưa mắt nhìn lên theo phản xạ: lưới rỗng .

      Ông có thời gian để suy nghĩ: mái tóc hoe vàng nghiêng xuống phía ông, và ông nhìn thấy bàn tay người đó đưa về phía chiếc áo vest tu sĩ.

      Cha Nil định phản đối cử chỉ sỗ sàng đó của người đồng hành: “Cứ như người máy vậy!”

      Nhưng cánh cửa khoang tàu mở ra với tiếng động ầm ĩ.

      Người đàn ông nhanh chóng đứng thẳng người lên: bàn tay ta buông thõng xuống dọc thân người, nét mặt linh hoạt hẳn lên, và ta mỉm cười với cha Nil.

      – Xin lỗi vì quấy rầy, thưa các ông – hóa ra là người soát vé. Những hành khách đặt chỗ trong khoang của các ông có mặt. Ở đây tôi có hai nữ tu tìm được chỗ ngồi cạnh nhau tàu. Nào, các xơ của tôi, hãy ngồi chỗ nào các bà muốn, vẫn còn đủ chỗ trong khoang này đấy. Chúc chuyến tốt đẹp.

      Trong khi hai nữ tu bước vào và trịnh trọng chào cha Nil, người khách cùng lùi về chỗ của mình lời. lúc sau, ta nhắm mắt ngủ gà gật.

      gã kỳ quặc! ta làm sao thế nhỉ?”

      Nhưng việc thu xếp chỗ ngồi của hai người mới đến thu hút toàn bộ chú ý của ông. Phải đưa cái va li lên lưới, nhét hai cái hộp to tướng xuống dưới ghế ngồi, và sau đó là chịu đựng câu chuyện ba hoa dứt của họ.

      Đêm buông xuống, cố ru giấc ngủ, cha Nil nhận thấy người khách bí đối diện ông ngồi im, chìm sâu trong góc của ta.

      Bị ánh bình minh đánh thức, khi ông mở mắt ra, chỗ ngồi trong góc hành lạnh trống . Để ăn sáng, ông phải dọc toàn bộ đoàn tàu: có dấu vết gì của người đàn ông cùng khoang.

      Khi trở về khoang của mình, nơi bà xơ tốt bụng bắt ông phải nếm thứ cà phê kinh khủng mà bà rót từ phích ra, ông phải thừa nhận ràng: người hành khách khó hiểu biến mất.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :