BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      16.

      Kinh Phúc theo Matthieu

      – Họ làm gì đó?

      Họ ngồi trong những chiếc ghế dài bằng đá trong hành lang có mái che. Bình minh ngày Chủ nhật Lễ Vượt qua vừa hé lộ, căn nhà vẫn im lìm. Giống như chủ nhà, Peter cũng mệt nhoài. “Hai đêm ngủ, bữa ăn thực cuối cùng là vào tối thứ Năm, trong căn phòng lớn cùng với Jesus. Sau đó Thầy bị bắt và chết. Rồi Judas bị thủ tiêu.”

      Hai quầng mắt trũng sâu gương mặt ông. Ông nhắc lại câu hỏi:

      – Thế họ làm gì đó?

      phải biết chứ: chẳng phải hôm qua chính cũng trốn tịt đó cả ngày, trong khi tôi mặc cả với người Esseni hay sao?

      Người đàn ông vùng Judee nhắc đến lần ra ngoài ngắn ngủi của Peter vào sáng hôm trước. Khi thấy ông này lẻn ra phố, bàn tay áp sát đùi trái, ông đoán ra. Rồi trong ngày hôm đó, ông nghe thấy những lời đồn đại ở Jerusalem: người vùng Galilee bị người Do Thái nước cuồng nhiệt nào đó sát hại chính là kẻ viện Chúa trời làm nhân chứng giữa mình và Caiphe ngày hôm qua. ta chết là đúng thôi: Chúa trời phán xử, và chọn Iscariote.

      – Tôi tin rằng, Peter mỉm cười cay đắng, đa số họ ngủ. xem, người Esseni có sẵn sàng giúp chúng ta ?

      – Có, tôi có tin tốt đây. Họ cho rằng Jesus là Người Israel chân chính, và sẵn sàng dành cho Người phần mộ tại trong số các nghĩa địa của họ. Việc chuyển thi thể thể tiến hành trước khi có tiếng tù và báo hiệu kết thúc Lễ Vượt qua. biết rằng người Esseni rất nghiêm túc trong những vấn đề sạch trong nghi thức, họ bao giờ đụng vào xác chết chừng nào lễ hội chưa chính thức kết thúc. Trong giờ nữa.

      Peter ném sang ông cái nhìn thận trọng.

      – Họ chôn Người ở đâu? Ở Qumran ư?

      Người đàn ông vùng Judee vội trả lời. Ông nhìn thẳng vào mặt Peter.

      – Tôi biết gì cả, họ gì với tôi.

      “Họ với ta, nhưng ngươi biết đâu.

      phải ngươi, bao giờ.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      17.

      Cha Nil nhàng khép cánh cửa thư viện lại. Ông từng tự do vào đây trong thời gian dài. Nhưng từ khi thành lập học viện, người ta thay ổ khóa, ông đặt chân vào cánh phía Bắc này từ bốn năm nay.

      Ông nhận ra mùi hương quen thuộc, và khi nhìn lướt qua, ông thấy dường như có gì thay đổi. Biết bao lần ông đến đây, bị cuốn sách mới lôi cuốn! Nghĩa là làm quen với người bạn mới, bắt đầu cuộc trò chuyện mới. Sách là những người bạn đồng hành tin cậy: chúng hiến dâng hoàn toàn, giữ gìn, cho những người biết tìm hiểu chúng cách tế nhị nhưng bền bỉ. Và cha Nil là người vô cùng bền bỉ.

      Chìm trong môi trường vật chất chủ nghĩa ngay từ thời thơ ấu, nơi thành công trong xã hội là vị thần duy nhất được sùng bái, ngày ông nhìn thấy luồng ánh sáng. Như thế nào? Trí nhớ của ông để mất dấu vết này. Nhưng ngày đó ông biết rằng thế giới này hạn chế ở cái mà chúng ta nhận thấy, đơn thuần ở cái vỏ bên ngoài. Thế là trong ông nảy sinh điều hiển nhiên: biết được cái vượt lên những vỏ bề ngoài mới là việc phi thường nhất, mới minh chứng được việc người dốc hết sức lực của mình trong suốt cuộc đời.

      Kể từ đó, đối với ông, chuyến phiêu lưu nội tâm dường như trở thành điều duy nhất mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của con người tự do. Và việc kiếm tìm điều vượt những cái bề ngoài trở thành điều duy nhất bị gắn với bất kỳ sức ép nào từ bên ngoài.

      Điều ông hề biết khi bước vào thư viện phía Bắc, đó là ông nhầm. Bởi vì ông phải bước qua cánh cửa này bằng cách lấy trộm chìa khóa, và người bạn duy nhất của ông ở tu viện chết, có thể là vì bước qua cánh cửa này quá thường xuyên.

      Trước mặt ông, hàng tá kệ sách xếp thẳng hàng, chứa trong mình kiến thức lịch sử của toàn thế giới.

      – Sách mang lại hiểu biết, cha Andrei từng với ông. Chúng là loại thực phẩm thô. Việc của cha là phải tiêu hóa nó, nghĩa là phá dỡ nó ra trong khi đọc, sau đó xây dựng lại trong chính bản thân cha. Tôi nghiên cứu nhiều, cha Nil ạ, nhưng tôi học được ít. Đừng quên điều mà cha tìm kiếm: đó chính là bí của Chúa, điều nằm bên ngôn từ. Ngôn từ và ý tưởng chứa đựng trong sách dẫn dắt cha theo những hướng rất khác nhau, tùy theo cách cha sắp xếp chúng. Tất cả đều nằm ở đó, có sẵn trong những cuốn sách này: nhưng đa số mọi người chỉ thấy giá sách này những tảng đá đặt lộn xộn. Việc của cha là dùng chúng để xây dựng công trình có cấu trúc chặt chẽ. Chỉ có điều, cha hãy cẩn thận: phải mọi kiểu kiến trúc đều có thể được chấp nhận, và phải tất cả các kiểu kiến trúc đều được chấp nhận . Chừng nào cha còn ở trong cái được coi là chuẩn mực về mặt tư tưởng, cha gặp vấn đề gì. Hãy nhắc lại điều người ta trước cha, hãy dựng lại công trình được quá khứ công nhận, và cha được tôn vinh. Nhưng nếu cũng với những tảng đá này, cha dựng nên công trình mới, cha hãy cẩn thận…

      Cha Nil nhận ra những kệ sách đầu tiên: thế kỷ XX. Viên thủ thư thời kỳ sau chiến tranh – giờ đây ông ấy yên nghỉ ở nghĩa trang – tuân thủ chặt chẽ Hệ thống phân loại phổ thông của Dewey, mà theo cách thức tiện lợi hơn cho các tu sĩ là sắp xếp theo thứ tự niên đại. Như vậy, những kệ sách mà cha Nil quan tâm nằm ở đầu kia. Ông tiếp.

      Và bỗng mở tròn mắt.

      Cách đây bốn năm, chỉ hai kệ là đủ để chứa các tài liệu về thế kỷ I, được sắp xếp theo nguồn gốc địa lý: Palestine, phần còn lại của Trung Đông, phương Tây dùng ngôn ngữ Latin, phương Tây dùng ngôn ngữ Hy Lạp… Thế mà trước mắt ông bây giờ là cả nửa tá kệ sách. Ông bước đến khu vực tài liệu về Palestine: gần hai kệ! Những văn bản mà ông uổng công tìm kiếm trong thư viện duy nhất ông có quyền tiếp cận, những tài liệu về cách chú giải Kinh Thánh Midrash trong thời kỳ của người Do Thái sùng nghi thức đạo, những Thánh vịnh và văn tự thông thái có cả trong kinh Cựu ước lẫn kinh Tân ước…

      Bước thêm vài bước nữa, ông đến trước kệ sách chỉ có nhãn duy nhất: “Qumran”. Vừa đưa tay lướt qua các cuốn sách, đột nhiên ông dừng lại. Ở đó, xếp giữa những bản in các bản thảo có nguồn gốc từ vùng biển Chết, ngón tay ông vừa chạm vào tập dày. gáy tập bản in hề có tên tác giả hay tên nhà xuất bản, mà chỉ có ba chữ cái do tay cha Andrei viết: M M M.

      Tim đập mạnh, cha Nil kéo tập sách về phía mình. M M M, chính là ba chữ cái mà cha Andrei viết ngay trước khi chết!

      Dưới ánh sáng mờ nhạt hắt xuống từ đèn trần nhà, ông mở tập sách ra. Đây phải là cuốn sách, mà chỉ là tập bản sao: cha Nil nhận ra ngay thuật viết đặc thù của các bản thảo vùng biển Chết. Như vậy, M M M chỉ đơn giản là “Manuscrits de la mer Morte” [[9]]… Những bản thảo này từ đâu đến?

      Phía cuối trang đầu tiên, ông luận ra được con dấu in bằng mực xanh phai màu: “Thư viện Huntington, San Marino, California”.

      Những bản thảo của người Mỹ!

      hôm, cha Andrei với ông bằng giọng thầm, mặc dù cửa văn phòng của ông đóng:

      – Các bản thảo vùng biển Chết được phát ngay trước khi Nhà nước Israel ra đời, vào năm 1947-1948. Trong bối cảnh lộn xộn khi đó, nơi này là cái chợ hỗn độn, nơi kẻ nào cũng cố gắng mua – hoặc ăn cắp – những cuộn giấy này càng nhiều càng tốt, vì người ta cho rằng chúng làm cuộc cách mạng đối với đạo Cơ Đốc. Người Mỹ cuỗm được số lượng lớn. Từ đó, nhóm nghiên cứu quốc tế phụ trách việc công bố các bản thảo này cố gắng hết sức để trì hoãn việc xuất bản. Thấy thế, thư viện Huntington quyết định công bố tất cả những gì họ có, bằng cách sao lại và phân phối trong phạm vi bí mật. Tôi hy vọng ngày nào đó – ông nở nụ cười ranh mãnh – chúng ta có thể sở hữu tập ở đây. Đây là bản in lậu những tác phẩm bị kiểm duyệt, cứ như là trong thời kỳ Xô Viết ấy, người ta phải lén lút truyền nhau những bản thảo này!

      – Tại sao thế, cha Andrei? Ai ngăn chặn việc xuất bản các bản thảo này? Và tại sao người ta lại lo sợ rằng cuối cùng chúng bị khám phá?

      Như thỉnh thoảng lại xảy ra trong những lần trò chuyện của họ, cha Andrei chìm trong im lặng ngại ngần. Và ông ấy sang chuyện khác.

      Cha Nil ngần ngại lúc: đúng ra, ông thể mượn tập bản thảo này. Mỗi khi tu sĩ mượn cuốn sách giá, người đó phải đặt vào vị trí cuốn sách “bóng ma”, tức là lá phiếu có chữ ký của mình và ngày mượn. Hệ thống này nhằm tránh mất sách, nhưng cũng cho phép giám sát công việc trí óc của các tu sĩ. Cha Nil biết rằng, từ thời gian trở lại đây, việc giám sát này rất chặt chẽ.

      Ông nhanh chóng quyết định: “Người thay thế cho cha Andrei còn chưa được chỉ định. Với đôi chút may mắn, ai nhận thấy có cuốn sách biến mất mà có bóng ma, chỉ trong đêm duy nhất.”

      Như tên trộm, ghì chặt thứ vừa ăn cắp được vào ngực, ông tiến về phía cửa và lẻn ra ngoài thư viện: hành lang cánh Bắc trống trơn.

      Ông có đêm: đêm dài làm việc bí mật.

      kệ “Qumran” của thư viện khoa học lịch sử, khoảng trống há hốc có bóng ma cho thấy hôm nay tu sĩ vi phạm trong những quy định chặt chẽ nhất của tu viện Saint-Martin.

      18.

      Cách đó vài kilomet, trong đêm khuya, khi cha Nil lật từng trang bản thảo M M M dưới ánh đèn chụp trong phòng mình (ông bịt ô kính cửa sổ phòng bằng cái khăn mặt, hành động chống đối thứ hai trong ngày), hai người đàn ông lặng lẽ bước xuống từ chiếc xe phủ đầy bụi. Vừa thổi vào những ngón tay bị tê cóng vì cái lạnh tháng Mười , tên lái xe vừa quan sát nhà thờ nơi những ô kính màu bằng alêbát ánh lên trong đêm. Cảm thấy trong lòng dâng lên làn sóng phấn khích mạnh mẽ, rùng mình, gương mặt chợt đông cứng lại.

      Hành khách còn lại tiến lên trước bước và xem xét xung quanh: ngôi làng ngủ. Đằng trước chúng, hàng rào lỏng lẻo của công trường chắc là có thể kéo ra rất dễ dàng, và chúng mang phiến đá ra cách thoải mái. Trò trẻ con thôi!

      quay lại.

      – Bismillah, yallah! [[10]]

      Người đồng hành của cầm cái túi bằng da.

      – Ken, baruch Adônai! [[11]]

      Vài phút sau, chúng quay ra, khệ nệ khiêng theo phiến đá nặng. Trong khi chúng luồn lách giữa những tấm ván hàng rào, tên lái xe cố chế ngự nhịp tim: “Mình phải trấn tĩnh lại…”

      Quảng trường của ngôi làng vẫn vắng vẻ và yên ắng. Chúng dựng phiến đá trong cốp xe, rồi tên lái xe ngồi vào trước tay lái, thở dài: chặng đường đến tận Roma dài lắm đây… Trước khi đóng cửa, ánh đèn trần xe soi sáng mái tóc vàng hoe của , nơi vết sẹo chạy từ tai trái mất hút vào trong.

      Viên ngọc thạch có điểm những đốm đỏ và được viền khung bạc của Đức ông Calfo hắt ra tia sáng, trong khi bàn tay mũm mĩm của ông lướt mái tóc rực rỡ của . Ông những muốn tái tạo lại, vào cuối thế kỷ XX này, những điều tinh tế của thời Cổ đại: tầng hầm của Roma chứng tỏ nhà thổ và đền thờ các vị thần luôn tạo thành thể thống nhất hữu cơ. Cùng cánh cửa dẫn đến những ngọn nguồn của cùng cảm giác ngây ngất.

      Trong khí tĩnh mịch tại căn hộ của ông ở gần lâu đài San Angelo, nơi chỉ nghiêng người là có thể thấy mái vòm uy nghi che phần mộ Thánh Peter, ông hài lòng vì tối nay toàn bộ trang phục người chỉ bao gồm chiếc nhẫn Giám mục.

      hợp nhất giữa thánh thần và thể xác… Nếu Chúa hiển linh trong hình hài Jesus-Christ đó là để thực hợp nhất này. Nào, người đẹp của ta, hãy khiến ta lên trời !”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      19.

      Kinh Phúc theo Marc và Luc

      Từ Đền thờ, tiếng tù và vang vọng chào đón ánh mặt trời, đánh dấu chấm hết Lễ Vượt qua vào sáng Chủ nhật ngày mồng 9 tháng Tư. Bốn thanh niên cả quyết bước vào nghĩa trang nằm phía trước cửa Tây thành Jerusalem. trong số họ mang cái đòn bẩy: cần phải đẩy tảng đá đặt mộ sang bên, chúng nặng vô cùng. Họ quen với việc này.

      Khi bước vào trong hầm mộ, họ thấy thi thể người bị tử hình được đặt sơ sài tảng đá trung tâm, mình vẫn còn hằn những vết roi và vết đóng đinh. Bên sườn, vết thương hở vẫn để rỉ ra chút máu. Họ buột miệng rên lên:

      – Thượng đế ơi! Hãy xem chúng làm gì con trai Người, những nhà tiên tri Israel! Hãy để trừng phạt của Người vì những giọt máu này giội lên đầu chúng! Người đàn ông chân chính này phải chịu biết bao đau đớn!

      Sau khi đọc xong kinh Qaddish, họ choàng lên người những chiếc áo dài màu trắng: đối với họ, chuyển thi hài đến miền đất trong sạch là hành động tôn giáo, trang phục màu trắng là điều bắt buộc. Hơn nữa trang phục này khiến những người Do Thái hành hương nhận ra họ – những người này quen nhìn thấy người Esseni vận chuyển các thi thể để mai táng lại trong các nghĩa địa của mình.

      Hai trong số họ sẵn sàng khiêng thi thể. Nhưng vì vào tối thứ Sáu, mọi việc diễn ra rất nhanh, nên hôm nay thân quyến của người quá cố hẳn đến để hoàn tất nghi lễ xức dầu. Nếu họ phát hầm mộ rỗng hoảng lên mất: cần phải báo cho họ.

      Hai người còn lại, vẫn mặc trang phục trắng, đứng luôn ở đầu và cuối tảng đá liệm, trong khi hai người đồng hành của họ bắt đầu chuyến dài mang thi thể đến trong những nghĩa trang của người Essseni trong sa mạc.

      Họ phải chờ đợi lâu: mặt trời vẫn còn thấp ở phía chân trời, họ nghe thấy tiếng bước chân lén lút. Những người phụ nữ thân thích với Jesus.

      Khi nhìn thấy tảng đá nặng nề đặt mộ bị dịch chuyển sang bên, những người phụ nữ giật nẩy mình. trong số họ tiến lên bước, và kêu lên tiếng kinh hoàng: hai sinh vật mặc đồ trắng đứng trong hầm tối của ngôi mộ, có vẻ như chờ đợi họ. Khiếp sợ, bà lắp bắp hỏi, và được hai người đó trả lời cách ung dung. Khi hai người này tỏ vẻ sắp bước ra để trả lời họ chi tiết hơn, những người phụ nữ quay gót chạy trốn, kêu rối rít như bầy chim.

      Hai người Esseni nhún vai. Tại sao các tông đồ của Jesus lại cử phụ nữ đến đây, trong khi lẽ ra chính họ phải đến? Dù sao, nhiệm vụ của họ kết thúc. Chỉ còn việc dọn dẹp lại chỗ này trước khi .

      Họ cởi áo choàng trắng và định dịch chuyển tảng đá mộ: vô ích, vì họ chỉ còn có hai người, mà tảng đá quá nặng. Để mặc hầm mộ mở toang, họ ra khỏi khu vườn và ngồi sưởi nắng. Người đàn ông vùng Judee, người thu xếp mọi chuyện đến gặp họ: phải chờ ông ta.

      20.

      Calfo xoay tròn cái roi lần nữa, nó đập xuống xương bả vai ông. Chiếc roi tự phạt bằng kim loại, theo quy định chỉ được Hội sử dụng trong những dịp hiếm hoi, được tết bằng dây mảnh có dính những hình cầu bằng nhôm. Thông thường, máu chảy ra vào khoảng tiết thứ mười bảy của bài Thánh vịnh Miserere – ở đây cũng được coi như loại đồng hồ cát cho hình phạt này. Đến tiết thứ hai mươi mốt và cũng là tiết cuối cùng, phải có vài giọt máu đỏ bắn lên bức tường phía sau tu sĩ tự phạt bằng roi.

      Nghi lễ hành xác này nhắc đến ba mươi chín roi Jesus phải chịu trước khi bị đóng đinh câu rút. Được tên lính tráng kiện điều khiển, với những hòn bi bằng chì có kích thước bằng quả ô liu, ngọn roi La Mã xưa rạch nát thịt, thấu đến tận xương, và thường đánh chết người.

      Alessandro Calfo hề có ý định chết vì hình phạt đánh roi mà ông bắt mình phải chịu: kẻ khác sắp phải chết, và nỗi đau đớn này bằng chứng kỳ diệu thể tình đoàn kết em. Ông thậm chí còn có ý định làm xước làn da mịn màng vùng lưng mũm mĩm của mình: chắc là quay lại vào tối thứ bảy.

      “Ba ngày trước khi ‘kết thúc sứ mệnh’ của người em trở nên già lão của chúng ta”

      Khi đưa đến cho ông, điệp viên người Palestine trước:

      – Sonia là người Rumani, thưa Đức ông, đó là đáng tin cậy. Với ta, ngài cần phải lo ngại về những vấn đề lần trước gây ra… Đúng thế, tuyệt đối an toàn, bismillah, lạy Chúa!

      Những năm làm công sứ Toà Thánh ở Hy Lạp dạy ông cần thiết phải có điều đình với những việc khẩn cấp mâu thuẫn với nhau. Ông nhăn mặt và chuẩn bị vung tiếp roi lên phía bả vai: bởi vì điều đình có nghĩa là nhượng bộ. Mặc dù sắp có cuối tuần yên ả cùng Sonia, ông vẫn huỷ bỏ việc thực nghi lễ tự phạt bằng roi, bằng chứng xác thực thể tình đoàn kết đối với trong các thành viên của Hội. Ông dàn xếp được giữa tình em và cầu phải đảm bảo cho làn da nhung mịn của mình được vẹn toàn: hình phạt roi chỉ diễn ra trong khoảng thời gian bài kinh De Profundis.

      Đó cũng là bài kinh sám hối giống như Miserere, và hẳn là mang lại giá trị rất thoả đáng cho nỗi đau đớn mà ông bắt mình phải chịu vì đức hạnh Cơ Đốc.

      Nhưng kinh De Profundis chỉ gồm có tám tiết, nên chỉ dài bằng phần ba bài kinh Miserere dài vô tận kia.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      21.

      Cha Nil tháo kính ra, matxa đôi mắt cay sè và lùa bàn tay vào mái tóc xám cắt ngắn. Cả đêm xem xét tỉ mỉ bản sao của các bản thảo M M M! Ông đẩy ghế đẩu, đứng dậy và đến tháo chiếc khăn mặt che kín cửa sổ ra. Những bài kinh mừng của lễ nhật tụng đầu tiên trong buối sáng sắp sửa vang lên: chẳng còn ai ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh sáng trong phòng ông.

      Qua ô cửa sổ, ông ngắm nghía lát nền trời đen của vùng Val–de–Loire vào mùa đông. Mọi thứ đều tối tăm, ở bên ngoài cũng như trong lòng ông.

      Ông quay lại bên bàn và nặng nề ngồi xuống. Ông có vóc người mảnh dẻ, nhắn: vậy mà ông cảm thấy quá đỗi nặng nề. Trước mặt ông rải rác những chồng giấy ghi chép viết tay, những ghi chép ông thực trong suốt đêm dài vừa qua, được sắp xếp cẩn thận thành từng chồng riêng biệt. Ông thở dài.

      Những nghiên cứu về kinh Phúc theo Thánh Jean dẫn ông đến chỗ phát ra nhân vật bí hiểm, người đàn ông vùng Judee chỉ xuất thoáng qua trong văn bản và đóng vai trò chủ chốt trong những ngày cuối cùng của Jesus. Người ta biết gì về ông ta, kể cả tên gọi, nhưng ông ta tự gọi mình là “môn đồ cưng”, và mình là người đầu tiên gặp Jesus bên bờ sông Jordan, trước cả Peter. Và cũng là trong số những thực khách tham dự bữa tiệc cuối cùng, trong căn phòng lớn – căn phòng này hẳn là nằm trong chính ngôi nhà của ông ta. Ông ta kể rằng nằm cạnh Thầy, vị trí danh dự. Miêu tả việc đóng đinh câu rút, tả nấm mồ trống rỗng, với cách thức và giọng điệu chân thực của người tận mắt chứng kiến việc.

      người chủ chốt biết Jesus và những ngày đầu của nền Cơ Đốc Giáo, người thân cận mà lời chứng có tầm quan trọng cao nhất. Kỳ lạ là tồn tại của nhân chứng quan trọng này bị cẩn thận tẩy xoá khỏi tất cả các văn tự của kinh Tân ước. Kể cả kinh Phúc khác, những lá thư của Paul, thư của các Tông đồ đều đến tồn tại của ông ta.

      Tại sao người ta lại quyết liệt mong muốn xoá bỏ nhân chứng có tầm quan trọng nhường ấy? Phải có lý do vô cùng nghiêm trọng mới có thể thúc đẩy việc xoá bỏ hoàn toàn dấu vết của người này trong ký ức của đạo Cơ đốc. Và tại sao những người Esseni bao giờ được nhắc đến trong thời kỳ đầu của Giáo hội? Tất cả những chuyện này hẳn phải liên quan đến nhau: cha Nil chắc chắn về điều đó, và cha Andrei khuyến khích ông lần theo sợi dây bí nối kết những kiện vĩnh viễn in dấu trong Lịch sử phương Tây.

      – Người mà cha phát ra khi nghiên cứu kinh Phúc , tôi nghĩ rằng bản thân tôi cũng bắt gặp trong lĩnh vực của tôi, những bản thảo từ thế kỷ III đến thế kỷ VII.

      ngồi đối diện ông trong văn phòng, cha Nil nảy người lên.

      – Cha muốn rằng cha thấy lại dấu vết của người “môn đồ cưng” trong những văn tự ra đời sau kinh Phúc à?

      Cha Andrei nheo đôi mắt khuôn mặt tròn.

      – Ồ, những dấu hiệu này hẳn khiến tôi chú ý nếu chính cha kể với tôi về những điều cha phát ra! Những dấu vết vô cùng , cho đến khi Vatican gửi cho tôi bản thảo tiếng Ai cập cổ tìm thấy được ở Nag Hamadi – ông phác cử chỉ về phía chiếc cặp xếp giấy tờ của mình.

      Ông nhìn người bạn đồng hành của mình với vẻ ngẫm ngợi

      – Chúng ta tiếp tục nghiên cứu theo hướng của mỗi người. Hàng chục chuyên gia chú giải và sử học cũng làm như vậy mà hề bị quấy rối chút nào. Tuy nhiên, với điều kiện: các công trình của họ phải tách biệt nhau, ai được có ý định kết nối các thông tin này lại. Cha có biết vì sao việc tiếp cận các thư viện của chúng ta lại bị hạn chế ? Chừng nào mỗi người chỉ dừng lại trong chuyên môn của riêng mình, ta có nguy cơ bị kiểm soát hay trừng phạt và tất cả các Giáo hội có thể tự hào khẳng định rằng trong lãnh địa của mình, quyền tự do suy nghĩ là trọn vẹn.

      – Tất cả các Giáo hội?

      – Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có đông đảo những người theo đạo Tin Lành – và trong số họ là những người theo trào lưu chính thống rất mạnh, nhất là ở Mỹ. Rồi còn người Do Thái, và Hồi Giáo…

      – Người Do Thái có lẽ là chính xác – mặc dù tôi hiểu vì sao việc chú giải văn tự trong kinh Tân ước lại liên quan tới họ, vì họ chỉ thừa nhận kinh Cựu ước. Nhưng còn người Hồi giáo sao?

      – Cha Nil, cha Nil… cha sống ở thế kỷ I tại Palestine, nhưng tôi lần đến thế kỷ VII kia! Muhammad viết trong kinh Coran vào năm 632. Cha nhất thiết phải nghiên cứu văn bản này, chậm trễ. Và cha phát ra rằng nó có liên quan chặt chẽ đến những biến động và số phận của người đàn ông mà cha tìm kiếm dấu vết, nếu ông ta thực từng tồn tại!

      lúc im lặng, cha Nil ngẫm nghĩ, biết tiếp tục câu chuyện từ đâu.

      – Nếu ông ta từng tồn tại… vậy cha nghi ngờ tồn tại của người này bên cạnh Jesus?

      – Chắc là tôi nghi ngờ nếu theo sát nghiên cứu của cha. Cha vô tình thúc đẩy tôi xem xét những đoạn cho đến nay vẫn được để ý đến trong văn học Cổ đại. Cha vô tình giúp tôi hiểu được ý nghĩa của bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ tối nghĩa mà tôi phải nghiên cứu và báo cáo kết quả về Roma – tôi nhận được bản sao của bản thảo này sáu tháng nay, thế mà vẫn chưa biết phải xoay xở thế nào với bản báo cáo, tôi bối rối quá. Roma nhắc nhở tôi lần về việc này, tôi e bị triệu tập nếu vẫn chậm trễ.

      Cha Andrei bị triệu về Roma.

      bao giờ quay về căn phòng yên tĩnh này nữa.

      Chuông điểm từng tiếng trong đêm tháng Mười , cha Nil xuống và bước vào vị trí quen thuộc của mình trong gian thờ của tu viện. Cách ông vài mét về phía bên phải, chiếc ghế vẫn trống khuyết cách ngoan cố: cha Andrei…Nhưng tâm trí ông thể nào tập trung được vào những cung bậc chậm rãi của giai điệu Grégoire mà vẫn chìm trong những bản tháo ông vừa giải mã suốt đêm qua. thời gian trở lại đây, điều từng là niềm tin của ông trong suốt cuộc đời bị cắt xén dần, từng mảnh từng mảnh .

      Tuy nhiên, thoạt nhìn, các bản thảo M M M cho thấy bất kỳ điều gì nhạy cảm. Phần lớn các bản thảo này có nguồn gốc từ thư viện bị phân tán của người Esseni vùng Qumran: những luận bàn về Kinh Thánh theo cách của các pháp sư Do Thái, những đoạn giải thích về cuộc chiến giữa cái Tốt và cái Xấu, giữa những người con của ánh sáng và những người con của bóng tối, vai trò trung gian của người Thầy Công Lý…Bây giờ người ta biết rằng Jesus thể là người Thầy Công Lý này. có lúc say sưa với những phát tại biển Chết, công chúng liền nhanh chóng thất vọng. Chẳng có gì ly kỳ hết… và những văn tự mà ông cặm cụi đọc suốt đêm qua cũng phải ngoại lệ.

      Nhưng đối với trí óc tinh nhanh như của ông, điều ông vừa đọc khẳng định toàn bộ những nhận xét mà ông cẩn thận ghi chép lại. Những ghi chép này chưa hề ra khỏi phòng ông, ai biết đến – trừ cha Andrei, người mà ông che giấu bất cứ bí mật nào.

      Các ghi chép này đặt ra việc xem xét lại toàn bộ những điều cho đến nay vẫn được về nguồn gốc của đạo Cơ Đốc, nghĩa là nền văn hoá và văn minh của toàn bộ phương Tây.

      “Từ San Francisco đến Vladivostok, mọi thứ đều dựa định thể duy nhất: Christ có lẽ là người sáng lập ra tôn giáo mới. Thiên chất của Người có lẽ được tiết lộ với các tông đồ bởi những lưỡi lửa trùm lên họ vào ngày lễ Hạ Trần. Có thể có thứ trước ngày đó, kinh Cựu ước, và thứ sau ngày đó, kinh Tân ước. Thế mà điều này lại chính xác, thậm chí còn sai!”

      Cha Nil bất giác thấy mình đứng trong gian thờ, trong khi các đạo hữu của ông vừa rạp người xuống để hát kinh Gloria Patri. Ông nhanh chóng theo tư thế rạp người trong hàng của mình. Từ hàng phía trước, Cha tu viện trưởng ngẩng đầu lên và quan sát ông.

      Ông định theo sát hơn diễn biến của buổi lễ, nhưng đầu óc ông lại phi nước đại như con ngựa điên cuồng: “Ta phát ra trong các bản thảo vùng biển Chết những khái niệm là cơ sở để thiên chất của Jesus được thực . Nhưng vì có học nên các tông đồ đủ khả năng để làm điều đó: họ vay mượn những gì người ta quanh họ, điều mà tất cả chúng ta đều biết – cho đến khi phát ra những văn tự ở Qumran.”

      Lần này, ông là người duy nhất quay mặt vào hàng đối diện, trong khi tất cả mọi người đều xoay người xếp thành khối duy nhất quay mặt về phía điện thờ, để hát kinh Lạy Cha.

      Cha tu viện trưởng cũng nhìn lên điện thờ, ông quay đầu sang phải và nhìn cha Nil vẻ nghĩ ngợi.

      Hết lễ kinh mừng, ông bị sinh viên tóm cổ, ta nhất thiết muốn ông cho lời khuyên về khoá luận làm. Cuối cùng, vừa được giải phóng khỏi kẻ quấy rầy, ông vội lao như cơn gió về phòng mình, nhặt tập bản thảo M M M mặt bàn đầy ngộn giấy tờ, và chần chừ luồn xuống dưới khăn choàng vai. Rồi với vẻ tự nhiên nhất, ông tiến về phía thư viện cánh giữa.

      Hành lang vắng ngắt. Tim đập mạnh, ông di qua cánh cửa thư viện Khoa học Kinh Thánh, rồi cánh cửa văn phòng cha Andrei, và tiếp tục đến tận góc giữa hai cánh của tu viện: dọc hành lang cánh phía Bắc cũng ai.

      Cha Nil tiến lại gần cánh cửa mà ông được phép bước qua – cánh cửa thư viện Khoa học lịch sử – rút từ túi ra chùm chìa khoá của cha Andrei, tra trong hai chiếc chìa khoá vào ổ. Liếc nhìn hành lang lần cuối: vẫn vắng ngắt.

      Ông bước vào.

      ai đến thư viện vào lúc sáng sớm như thế này. Tuy nhiên, ông muốn mạo hiểm bật hệ thống chiếu sáng chung, làm thế có thể để lộ ông có mặt tại đây. Vài ngọn đèn vẫn được thắp thường xuyên và toả ra thứ ánh sáng yếu ớt vàng vọt. Ông tiến về phía cuối thư viện, rẽ phải đến kệ sách thế kỷ I, và nhanh chóng để lại tập tài liệu M M M vào đúng chỗ mà ông lấy tối qua. Sau đó biến , để ai nhìn thấy.

      Vừa đến vị trí dành cho các bản thảo ở thế kỷ III, tay phải quờ quạng để định hướng, ông nghe thấy tiếng mở cửa trầm đục ở đầu kia phòng. Gần như ngay lập tức, ánh sáng chói lọi tràn ngập toàn bộ thư viện.

      Ông đứng ngay giữa lối trung tâm, tay phải đưa ra phía trước, cuốn sách bị cấm dưới cánh tay trái, trong nơi lẽ ra ông bao giờ được vào, nơi mà ông thể có chìa khoá. Dường như các kệ sách ở hai bên giãn ra, khiến ông càng trở nên độc và phơi mình ra trước những ánh nhìn. Những chiếc đèn chiếu như nhảy ra khỏi tường và trút lên ông những lời trách móc thương xót: “Cha Nil, cha làm gì ở đây? Làm thế nào mà cha lại có được chiếc chìa khoá này? Cuốn sách này là cái gì? Và tại sao, đúng, tại sao cha lại mượn nó tối qua? Cha tìm kiếm gì thế, cha Nil? Đêm qua cha có ngủ ? Tại sao buổi lễ sáng nay cha lại đãng trí như vậy?”

      Ông sắp bị phát , và đột nhiên ông nghĩ đến những lời căn dặn thường xuyên của cha Andrei.

      Rồi đến thi thể đông cứng bởi cái chết của ông ấy, nền đường đá chạy dọc tuyến Roma Express, nắm tay tức giận chỉ lên trời.

      Như thể để buộc tội kẻ sát hại ông.





      22.

      Kinh Phúc theo Jean.

      Sáng sớm chủ nhật ấy, những người phụ nữ từ hầm mộ quay về, vẫn kinh hoàng vì thấy nó rỗng . Họ kể với các tông đồ hoài nghi câu chuyện về những người đàn ông mặc đồ trắng, chỉ có thể là các thiên thần mới bí đến thế. Peter buộc họ im lặng: “Các thiên thần! Đúng là những chuyện lẩn thẩn của đàn bà.” Người đàn ông vùng Judee ra hiệu cho ông. Hai người kín đáo ra khỏi nhà.

      Lúc đầu, họ lặng lẽ , rồi sau đó bắt đầu chạy. Nhanh chóng bị rớt lại sau, Peter mệt đứt hơi mới đến được khu vườn: hai người Esseni bỏ đợi ông, nhưng người cùng với ông, người đến trước, với vị tông đồ rằng ông ta kịp chuyện với họ. Lại lần nữa ông ta thắng thế, lại lần nữa ông ta là nhân chứng may mắn.

      Giận điên người, Peter mình quay về căn phòng lớn: lời giải thích, người đàn ông vùng Judee rẽ sang đường khác, và về phía ngôi nhà sang trọng trong khu phố Tây.

      Giáo phái của người Esseni ra đời từ hai thế kỷ trước. Giáo phái này bao gồm những cộng đồng tu sĩ sống tách biệt khỏi thế giới như cộng đồng ở Qumran, và những cộng đồng vô thần sống lẫn trong xã hội của người Do Thái. Cộng đồng người Esseni ở Jerusalem là đông đảo nhất, thậm chí còn được lấy tên để đặt cho khu phố Tây của thành phố. Eliézer Ben –Akkai là người đứng đầu cộng đồng này.

      Ông nồng nhiệt đón chào vị khách viếng thăm.

      – Từ lâu ông là người của chúng tôi, nếu trở thành học trò của Jesus, chắc ông kế vị tôi. Ông biết đấy, người Do Thái dòng Đền ghét chúng tôi và chấp nhận để chúng tôi chôn người của mình trong các nghĩa trang tách biệt hẳn với nghĩa trang của họ. số nghĩa trang của chúng tôi phải giấu ở giữa sa mạc. Những bàn tay dơ bẩn bao giờ làm uế tạp được các nấm mồ của chúng tôi.

      – Tôi biết tất cả những điều đó, thưa thầy, và tôi chia sẻ nỗi lo lắng của thầy trong việc giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng cho những Người con chân chính của Israel.

      – Jesus xứ Nazareth là trong số những Người con chân chính đó. Vị trí cuối cùng đặt mộ phần của Người phải được giữ bí mật.

      – Eliézer… giờ đây thầy già rồi. Thầy thể là người duy nhất biết mộ phần của Jesus đặt ở đâu.

      – Hai con trai tôi, Adôn và Oasis chính là người mang thi thể Người đến đó. Cũng như tôi, chúng biết vị trí nấm mộ và chúng truyền lại bí mật đó.

      – Thế nếu có chuyện gì xảy ra với họ? Thầy phải tiết lộ bí mật đó cho cả tôi nữa.

      Eliézer Ben –Akkai vuốt chum râu mảnh của mình lúc lâu. Vị khách của ông đúng, nền hoà bình của Roma vô cùng mỏng manh , tất cả đều có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Ông đặt hai bàn tay lên vai người khách.

      – Người em, xứng đáng với lòng tin của chúng tôi. Nhưng nên biết rằng nếu ông giao di hài những người khuất của chúng tôi vào bàn tay căm hận của kẻ thù chúng tôi, chính thượng đế là người phán xử giữa chúng tôi và ông!

      Ông đưa mắt nhìn quanh căn phòng, nơi những người Esseni lại . tách về phía cửa sổ, ông ra hiệu cho người đối thoại theo mình.

      Ghé miệng vào tay người đó, ông thầm vài câu.

      Khi chia tay trong im lặng, hai người đàn ông nhìn nhau rất lâu. Gương mặt vô cùng nghiêm trang.

      đường trở về nhà mình, người đàn ông vùng Judee mỉm cười. Mộ phần của Jesus trở thành khoản đặt cược cho quyền lực.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      23.

      Vẫn còn bị loá mắt vì ánh sáng chói loà vừa ngập tràn thư viện, cha Nil liếc nhìn vào dãy giá sách gần nhất: phần giữa của dãy này trống trơn, và trơn nhẵn như lòng bàn tay. Ông bước bước, tận cuối dãy chứa sách của thế kỷ II, người ta đặt hai hộp các tông lớn, những cuốn sách chờ được sắp xếp. Ông nhanh nhẹn luồn ra phía sau hai chiếc hộp, trong lúc đó ông nghe thấy tiếng sột soạt đặc trưng của chiếc áo tu sĩ mỗi lúc gần. chiếc áo thầy tu bằng vải len bua, hay áo dòng của trong các sinh viên theo chủ nghĩa nguyên vẹn? Nếu người đó đến tìm cuốn sách kệ thế kỷ II ông thua cuộc. Nhưng có thể người tiến đến gần ông lúc này đến để tìm cuốn sách? Có thể người đó nhìn thấy ông vào đây và nuôi dưỡng những ý định khác?

      Cha Nil rụt cổ sâu vào giữa hai vai.

      Người đó qua kệ sách thế kỷ II mà dừng lại. Núp trong vùng bóng tối ở cuối thư viện, phía sau những chiếc hộp các tông, cha Nil nín thở. Ông nghe thấy người đó bước đến bên kệ sách thế kỷ I, nơi ông đánh cắp tập bản thảo M M M hôm qua, và chợt tiếc nghĩ đến việc xê dịch những cuốn sách bên cạnh để lỗ hổng đỡ phô ra.

      khoảng thời gian chết, rồi ông nhận ra bước chân người đó lướt qua phía trước kệ sách mà ông núp và xa dần về phía cửa thư viện. Ông bị phát . Vị khách mời mà đến này là ai? Có thể nhận ra bước chân của tu sĩ trong số hàng ngàn bước chân: họ bao giờ tiếp đất bằng gót, mà lướt bàn chân về phía trước, và bước như chiếc đệm khí.

      phải là trong số các sinh viên.

      Hệ thống chiếu sáng trung tâm đột ngột tắt, và cha Nil nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại, ổ khoá cũng tự động khớp lại. Trán xâm xấp ướt, ông chờ lát rồi đứng dậy. Mọi thứ đều tối và im ắng.

      Lúc ông ra sau khi đặt tập bản thảo M M M vào vị trí của nó, hành lang phía Bắc vắng hoe, bây giờ phải để lại chùm chìa khoá vào nơi ông lấy chúng. Cánh cửa văn phòng thủ thư vẫn khoá. Cha Nil bước vào, bật đèn trần: quần áo cha Andrei vẫn vắt lên lưng ghế phô tơi. Tim đập mạnh, ông cầm chiếc quần lên và bỏ chùm chìa khoá vào trong túi. Ông biết mình bao giờ quay lại văn phòng này nữa – bao giờ như trước đây nữa. Lần cuối cùng, ông đưa mắt nhìn giá sách nơi cha Andrei xếp những cuốn sách ông nhận, trước khi đưa chúng vào thư viện.

      đỉnh chồng sách, ông thấy cuốn dán nhãn ghi mã phân loại. Nhan đề của nó khiến ông chú ý:

      NHỮNG NGỤY TÁC CUỐI CÙNG BẰNG

      TIẾNG AI CẬP CỔ TỪ NAG HAMADI

      Bản in có kèm lời bình

      Của R.P. Andrei Sokolwski, O.S.B.

      Nhà xuất bản Gabalda, Paris.

      “Bản in những ngụy tác mà ông ấy làm từ mười năm nay, cuối cùng nó cũng được phát hành!”

      Cha Nil mở cuốn sách: công trình học thức uyên bác lỗi lạc, được xuất bản dưới hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp CNRS. Các trang bên trái là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà cha Andrei kiên nhẫn chép lại, và các trang bên phải là bản dịch của ông ấy. Công trình cuối cùng của bạn ông, bản di chúc.

      Ông nấn ná quá lâu trong căn phòng này, và bỗng có quyết định đột ngột. Người ta ăn cắp trong phòng ông mảnh giấy cuối cùng của cha Andrei, mảnh giấy chỉ gửi cho mình ông như lời trăng trối. Vậy , cuốn sách mà bạn ông nhận được ngay trước khi , trong đó ông ấy dồn tụ tất cả học thức và tình của mình, phải thuộc về ông, cha Nil. Cuốn sách còn chưa dán nhãn, vậy là chưa được tiếp nhận trong danh mục sách của tu viện, ai thế giới này có thể biết nếu ông chiếm lấy nó hôm nay. Ông muốn cuốn sách này cho riêng mình. Vượt cả cái chết, cuốn sách này dường như là bàn tay đưa về phía ông từ người bao giờ còn công bố điều gì – bao giờ còn ngồi trong chiếc ghế phô tơi này để nghe ông , đầu nghiêng nghiêng, tia ranh mãnh ánh lên trong khe mắt hẹp.

      Ông cả quyết luồn bản in Các ngụy tác từ Nag Hamadi xuống dưới khăn choàng vai và bước ra hành lang.

      Trong khi bước vào cầu thang, đầu óc tràn ngập nỗi đơn từ nay là của riêng ông, ông nhận thấy cái bóng áp sát tường, lùi vào trong cánh cửa lớn của Khoa học Kinh thánh. Đó là bóng chiếc áo len bua của tu sĩ.

      mặt vải trơn nhẵn nổi lên chiếc thánh giá dài ngang ngực, bàn tay phải bồn chồn vặn vẹo nó. ngón đeo nhẫn của bàn tay là chiếc nhẫn rất đơn giản bằng kim loại, hề lấp lánh tia sáng nào.

      Cha Nil vào phòng mình, khép cánh cửa sau lưng và dừng phắt lại. Lúc trước, khi xuống dự lễ kinh mừng, ông cẩn thận xếp những ghi chép trong đêm thành từng chồng riêng biệt . Giờ đây, những tờ giấy nằm rải rác như sau cơn gió.

      Vào ngày tháng Mười này, cửa sổ phòng ông đóng kín. Đóng kín từ hôm qua.

      Người ta lại đến thăm phòng ông lần nữa. Thăm viếng và lục lọi. Lục lọi và có thể đánh cắp số tờ ghi chép của ông.

      24.

      Thư của các Tông đồ.

      – Peter, điều gì xảy ra với thi thể của Jesus?

      Peter đưa mắt nhìn quanh. ba tuần kể từ khi Jesus chết, trong suốt thời gian đó ông rời khỏi căn phòng lớn. Sáng nay, khoảng gần trăm người ủng hộ ở đây, và cùng câu hỏi được đặt ra từ khắp các phía.

      Ở đầu kia của căn phòng, người chủ nhà đứng mình, dựa lưng vào tường. Khoảng hai chục người ngồi quanh ông, đưa mắt hết nhìn ông lại nhìn về phía cửa sổ, dưới đó Mười người kết thành khối. Có lẽ là những người ủng hộ ông ta chăng? “Bây giờ, Peter nghĩ, là – hoặc ta.”

      Vị tông đồ nhìn mười người đồng hành của mình, André em ông, người cắn môi dưới, Jean và Jacques de Zébédée, Matthieu từng là người thu thuế… ai trong số họ có dáng dấp của vị thủ lĩnh.

      Phải có ai đứng dậy giữa đám đông mất phương hướng này. Đứng dậy và lên tiếng, đúng vào lúc này, chính là nắm lấy quyền lực.

      Peter hít hơi sâu, và đứng dậy. Ánh sáng từ cửa sổ chiếu sáng lưng ông, và mặt ông vẫn ở trong vùng bóng tối.

      – Các em…

      Mặc dù cố gắng, ông vẫn thể biết được những người Esseni chôn thi thể của Jesus ở đâu, sau khi mang Người ra khỏi hầm mộ. “Và ta, nhân chứng duy nhất cùng với ta, có biết ? Đánh lạc hướng chú ý của những người này, và dứt khoát khẳng định quyền lực của ta.” Ông quyết định đếm xỉa đến câu hỏi của đám đông, và nhìn họ với vẻ khinh bỉ. Ngay bây giờ, họ biết rằng ông chính là người thực lời phán quyết của Chúa. Chúa sử dụng ông, và Chúa còn sử dụng ông.

      – Các em, số phận của Judas phải được định đoạt. từng nằm trong số Mười hai người, và phản bội: bị ngã về phía trước, bụng phanh ra, ruột gan xổ tung cát.

      bầu khí im lặng chết chóc bỗng bao trùm căn phòng. Những chi tiết này chỉ có kẻ giết Judas mới có thể biết được. Người đó vừa thú nhận, cách công khai, rằng bàn tay cầm thanh kiếm đó phải của bất kỳ người Do Thái nước cuồng nhiệt nào: chính là bàn tay của người đó.

      Ông nhìn chăm chú vào mặt từng người to tiếng cầu ông giải thích về số phận thi thể Jesus: dưới cái nhìn của ông, từng người cụp mắt xuống.

      đứng ở đầu kia căn phòng, môn đồ cưng vẫn gì. Peter giơ tay.

      – Chúng ta phải thay thế Judas, phải có người khác đảm nhận công việc của . Người đó phải được lựa chọn trong số những người cùng Thầy, từ khi gặp Thầy bên bờ sông Jordan cho đến phút cuối cùng.

      tiếng thầm ủng hộ lan trong đám đông, và tất cả các con mắt đều hướng về phía người môn đồ cưng. Vì chỉ có ông mới có thể bổ sung cho đội ngũ mười hai tông đồ: ông là người đầu tiên gặp Thầy bên bờ sông Jordan, và cũng là người thân cận nhất của Thầy cho đến phút cuối cùng. Chính ông là người thích hợp nhất để thế chỗ Judas.

      Peter nhận thấy điều mà đám đông cảm thấy.

      – Chúng ta phải là người lựa chọn! Phải để Chúa chỉ định tông đồ thứ mười hai thông qua việc rút thăm. Matthieu, hãy cầm lấy bút sậy của , và viết hai cái tên lên mảnh cỏ cây này.

      Trước khi Matthieu thực công việc, Peter nghiêng người về phía thầm gì đó vào tai. Cựu nhân viên thu thuế nhìn ông với vẻ ngạc nhiên. Rồi gật đầu, ngồi xuống và nhanh chóng viết. Hai mảnh vỏ cây được đặt vào chiếc khăn rồi Peter túm bốn góc khăn lại.

      – Cậu lại đây, và nhặt trong hai cái tên này lên. Và hãy để Chúa trời lên tiếng với chúng ta!

      chàng trai trẻ đứng dậy đưa tay ra thọc vào trong cái khăn rồi lấy ra trong hai mảnh vỏ cây.

      Peter cầm lấy đưa lại cho Matthieu.

      – Ta biết đọc, hãy với chúng ta điều được viết đó.

      Matthieu hắng giọng, nhìn vào mảnh vỏ cây và tuyên bố

      – Tên của Matthias được viết ra!

      Từ trong đám đông những tiếng phản đối bật lên.

      – Các em. Peter phải hét lên để mọi người nghe thấy – chính Chúa trời vừa chỉ định Matthias đảm nhận vị trí của Judas! Chúng ta lại có mười hai người giống như trong bữa ăn cuối cùng mà Jesus ăn trước khi chết, ngay tại đây!

      Gần như khắp cả phòng mọi người đều đứng dậy, trong khi Peter kéo Matthias về phía mình, hôn và để ngồi xuống giữa Mười người. Rồi ông chăm chăm nhìn người môn đồ cưng, đứng cách ông đám người ngồi. Lúc đó, nhóm đông dặc những người ủng hộ vây quanh người đó còn người đó vẫn đứng, mặt tối sầm. Át cả tiếng ồn, Peter hét lên:

      – Mười hai bộ lạc thay cho Chúa: mười hai tông đồ thay Jesus, ở vị trí của Người hoặc nhân danh Người. Mười hai, và thêm người nào, bao giờ có tông đồ thứ mười ba!

      Người môn đồ cưng chịu đựng cái nhìn của ông lúc lâu, rồi nghiêng đầu, thầm vài lời vào tai cậu bé có mái tóc quăn. Đột nhiên cảm thấy lo lắng, Peter luồn tay vào trong đường xẻ áo trong và nắm lấy chuôi thanh sica. Nhưng đối thủ của ông ra hiệu cho những người vây quanh mình, rồi lặng lẽ tiến ra phía cửa. Khoảng ba chục người theo gót ông, khuôn mặt để lộ cảm xúc.

      Vừa ra đến phố, ông quay lại: cậu bé lách đến bên ông, đưa cho ông mảnh vỏ cây còn lại, bị rơi khỏi chiếc khăn mà Peter bỏ sau khi cuộc lựa chọn của Chúa được công bố. Ông hỏi cậu bé:

      – Iokhanan, ai có thể nhìn thấy mảnh vỏ cây này chứ?

      ai cả, abbou [[12]], ai khác ngoài Matthieu, người viết tên, Peter người đọc cho ta viết, và bây giờ là cha.

      – Vậy , con của ta, hãy đưa nó cho ta và vĩnh viễn quên nó .

      Ông đưa mắt nhìn mảnh phiếu bầu thứ hai được dành để Chúa lựa chọn, rồi mỉm cười với Iokhanan: cái tên được viết đó phải của ông.

      “Như vậy, Peter, ngươi quyết định vĩnh viễn tách ta ra khỏi Israel Mới! Từ nay trở , cuộc chiến nổ ra giữa chúng ta: nó có thể đè nát đứa trẻ này, cũng như những người đến sau nó”.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :