BÍ ẨN TÔNG ĐỒ THỨ MƯỜI BA - Michel Benoît (Giả tưởng, Huyền bí) (94c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      7.

      Cả sáng nay, từ khi viên cảnh sát đưa ông trở về tu viện, cha Nil ngồi lả ghế đẩu, tập tài liệu mà ông nghiên cứu về các tình tiết quanh cái chết của Jesus hề được mở ra lần nào. Phòng ở của tu sĩ có ghế tựa, nên ông có chỗ nào để ngả người ra mà suy ngẫm. Tuy nhiên, bất kể tư thế ngồi gò bó ấy, tâm trí ông vẫn bay về với quá khứ. Cả tu viện tĩnh mịch như được bọc trong lớp bông: tất cả các giờ học của tu viện bị hoãn lại cho đến khi lễ tang cha Andrei kết thúc. Còn giờ nữa mới đến lễ mixa.

      Andrei… Người duy nhất có thể chia sẻ với ông những tìm tòi, khám phá. Người duy nhất có thể hiểu, thậm chí đôi khi còn đoán trước được các kết luận của ông.

      – Nil ạ, đừng bao giờ sợ hãi . Chính là để tìm kiếm , để biết mà cha vào tu viện này. biến cha thành kẻ đơn, thậm chí còn có thể khiến cha chuốc lấy thất bại. Đừng bao giờ quên rằng chính dẫn Jesus và rất nhiều người sau Người đến chỗ chết. Tôi tiếp cận được với qua những bản viết tay mà tôi giải mã từ bốn mươi năm nay. Nhưng vì rất ít người có thể theo được tôi trong chuyên môn này, và cũng vì tôi bao giờ ra những kết luận của mình, nên người ta tin tưởng ở tôi. Còn cha, cha phát ra… số điều ngay trong kinh Phúc . Hãy cẩn thận, vì nếu như Giáo hội vùi lấp những điều này vào quên lãng từ rất lâu rồi, có nghĩa là công khai ra việc nguy hiểm.

      – Kinh Phúc theo lời Thánh Jean có trong chương trình học tập của tu viện năm nay. Tôi thể nào lẩn tránh câu hỏi: ai là tác giả của kinh này? Vai trò của môn đồ cưng bí trong mưu thời đó, cũng như trong suốt thời kỳ quan trọng tiếp theo cái chết của Jesus là gì?

      Là con trai của những người Nga di cư cải đạo sang Công giáo, khả năng thiên phú về ngôn ngữ khiến Andrei trở thành người phụ trách ba thư viện của tu viện, chức vụ rất nhạy cảm mà chỉ những người có uy tín mới được giao phó. Khi mỉm cười, trông ông giống như nhà truyền giáo già.

      – Bạn của tôi… Từ khởi nguồn, câu hỏi này được né tránh. Và hẳn là cha cũng bắt đầu hiểu tại sao, đúng ? Vậy hãy cứ làm như những người trước: đừng hết tất cả những gì cha biết. Học trò của cha trong tu viện này dung thứ cho điều đó đâu… và trong trường hợp này, tôi cho cho cha đấy!

      Cha Andrei đúng. Từ ba mươi năm nay, Giáo hội Công giáo phải đương đầu với tình trạng khủng hoảng chưa từng có. Những người vô thần thường chạy theo các giáo phái mới hoặc chuyển sang theo đạo Phật, khiến cộng đồng Cơ Đốc giáo hết sức khó chịu. còn tìm đâu ra những giáo sư vững vàng để giảng dạy giáo lý thuần khiết trong những buổi thuyết giáo ngày càng vắng người tham dự.

      Vì thế, Roma quyết định tập hợp những học viên ưu tú nhất còn lại vào trường học, kiểu trường dòng như thời Trung cổ. Khoảng hai chục học viên được giao phó cho tu viện này, và các tu sĩ uyên bác của tu viện chịu trách nhiệm giảng dạy. Các tu sĩ lựa chọn con đường tránh xa thế giới thối nát này trang bị cho các học viên trẻ tuổi của trường dòng chiếc áo giáp cần thiết để họ có thể tồn tại.

      Cha Nil đảm nhận việc chú giải kinh Phúc . Ông phải là chuyên gia thực về các ngôn ngữ cổ, nên phối hợp làm việc cùng cha Andrei, người có thể đọc thông thạo tiếng Ai Cập cổ, tiếng Xiriat và rất nhiều tử ngữ khác.

      Từ chỗ chỉ đơn thuần là làm việc cùng nhau, hai con người đơn trở thành bạn bè: tình đối với các bản viết cổ xưa biến điều hết sức khó khăn trong cuộc sống tu hành trở thành thực.

      Cha Nil vừa mất người bạn duy nhất này trong bối cảnh thảm khốc. Cái chết đó khiến ông cảm thấy vô cùng đau buồn.

      Cùng lúc đó, bàn tay đầy căng thẳng bấm số điện thoại quốc tế bắt đầu bằng mã 390, đường dây riêng (và vô cùng bảo mật) của Nhà nước Vatican. ngón áp út bàn tay đó có đeo chiếc nhẫn trang trí bằng viên ngọc mắt mèo đơn giản: tổng Giám mục Paris cảm thấy có trách nhiệm phải làm gương về tính khiêm tốn.

      – Pronto?

      Dưới mái vòm do Michel-Ange thiết kế, bàn tay có những chiếc móng được cắt sửa kỹ lưỡng nhấc máy. Chiếc nhẫn giám mục được trang trí bằng viên ngọc thạch màu xanh kỳ lạ: hình thoi đối xứng gắn xương nhẫn bằng bạc chạm trổ, tạo thành cái nắp quan tài. thứ đồ trang sức rất có giá trị.

      – Chào ngài, tôi là tổng Giám mục Paris… Thế sao, ngài định gọi cho tôi?… Vâng, chuyện rất đáng tiếc, thực … nhưng… ngài biết rồi ạ?

      “Sao lại thế được nhỉ? Tai nạn vừa xảy ra trong đêm qua mà.”

      – Giữ kín tuyệt đối à? Chắc là khó đấy ạ, vì việc điều tra được giao cho Ga Orfèvres, có vẻ là vụ giết người… Hồng y Giáo chủ à? Đúng vậy, tôi hiểu… Tự tử, phải ạ? Vâng… đúng là tôi thấy chuyện này tồi tệ, tự tử là tội lỗi mà lòng nhân từ của Chúa vẫn thể chấm dứt được. Ngài … hãy để Chúa quyết định việc này?

      Tổng Giám mục đưa tai nghe ra xa, mỉm cười. Tại Vatican, người ta ra lệnh cho Chúa dễ dàng.

      – Alô? Vâng, tôi nghe đây… Cần sử dụng các mối quan hệ của tôi à? Tất nhiên, chúng tôi có quan hệ rất tốt với bộ Nội vụ. Được… tôi chịu trách nhiệm về việc này. Ngài hãy để Hồng y Giáo chủ yên tâm, đó vụ tự tử, và mọi chuyện kết thúc. Arrivederci, monsignore.[[3]]

      Ông luôn thận trọng để phung phí uy tín của mình đối với chính phủ. Tại sao lại phải chấm dứt việc điều tra về cái chết của thầy tu, học giả vô hại nhỉ? Tổng Giám mục Paris thở dài. nên tranh luận về mệnh lệnh do Đức ông Calfo đưa ra, nhất là khi ngài chỉ truyền đạt lại cầu ràng của Hồng y Giáo chủ.

      Ông bấm máy gọi tổng đài:

      – Làm ơn nối máy cho tôi chuyện với bộ Nội vụ. Cảm ơn, tôi chờ…


      8.

      Kinh Phúc theo Matthieu và Jean

      Đêm thứ Năm sắp hết để nhường chỗ cho ngày thứ Sáu, bình minh rạng dần. Người đàn ông vùng Judee tiến lại gần đống lửa và đưa tay ra để hưởng chút hơi ấm dễ chịu. Trời quá lạnh nên lính gác đốt đống lửa trong sân lâu đài của Caiphe, và họ kính cẩn lùi ra để nhường chỗ cho ông: ông chủ giàu có trong vùng, có quan hệ thân thiết với Giáo chủ… Ông quay lại nhìn: Peter cố náu mình trong góc, hẳn là rất khiếp đảm khi phải ở trong trung tâm quyền lực mà ta mong muốn lật đổ bằng cuộc tấn công xảy ra trong vài giờ tới. Với cái cung cách của kẻ phạm tội bị bắt quả tang kia, thế nào ta cũng khiến bọn lính nghi ngờ.

      Ông ra hiệu cho Peter đến gần đống lửa. Người ngư phủ ngần ngại, rồi rón rén nhập vào vòng tròn những kẻ hầu người hạ đứng sưởi.

      Mọi việc diễn ra hết sức tốt đẹp. Hôm kia, ông dẫn dụ được chàng Judas khi đó còn sửng sốt vì lần đầu tiên đặt chân vào khu vực dành riêng cho các chức sắc Do Thái. Buổi gặp mặt Caiphe dường như bắt đầu thuận lợi – Giáo chủ có vẻ rất phấn khởi vì có được cơ hội để bỏ tù Jesus cách êm thấm, gây ra náo động gì. Nhưng sau đó Judas bỗng phản ứng. Phải chăng ta đột nhiên hiểu ra mình đối mặt với ai, và rằng ta giao người Thầy của mình cho chính quyền Do Thái?

      – Thế lấy gì để đảm bảo rằng khi Jesus ở trong tay ông, ông giết Người?

      Giáo chủ trang trọng giơ tay phải lên.

      – Hỡi người đàn ông Galilee, ta thề trước Đấng Tối cao: Jesus xứ Nazareth được xét xử công bằng theo đúng pháp luật, và chưa bao giờ nhà thuyết giáo lang thang bị xử tội chết cả. Mạng sống của ta bị đe dọa. Để ngươi yên tâm, ta trao cho ngươi khoản tiền cược để đảm bảo lời của ta: từ nay trở , Đấng Tối cao: từ nay trở , Đấng Tối cao là nhân chứng giữa ta và ngươi.

      Ông ta mỉm cười và đưa cho Judas ba mươi đồng tiền vàng.

      Judas lẳng lặng bỏ tiền vào túi. Giáo chủ vừa đưa ra cam kết trang trọng: Jesus bị bắt, nhưng được xét xử trong phiên tòa. Việc này cần có thời gian, mà chỉ trong vòng ba ngày nữa Caiphe còn là lãnh đạo tối cao của đất nước. chẳng còn là gì hết.

      Nhưng chúng làm gì đó thế nhỉ? Tại sao Jesus chưa bị giam vào nhà ngục nào đó dưới hầm ngầm? Bị giam cầm, cũng có nghĩa là được an toàn?

      Người đàn ông vùng Judee thấy vài thành viên của Tòa án Do Thái vừa cáu nhặng xị vừa leo lên những bậc cầu thang dẫn đến tầng của lâu đài, nơi Jesus bị giải đến từ khi bị bắt.

      Từ lúc đó trở , có động tĩnh gì lọt ra ngoài sân lâu đài nữa. Ông cảm thấy khó chịu trước diễn biến của việc; để bớt căng thẳng, ông tiến về phía cửa thành, lại lại trong phố.

      Ông va vào bóng người nép sát tường.

      – Judas… làm gì ở đây thế?

      Người này run lẩy bẩy như chiếc lá sung trước gió biển Galilee.

      – Tôi… tôi đến để xem, tôi lo cho Thầy quá! Liệu có thể tin tưởng vào lời hứa của Caiphe ?

      – Thôi nào, bình tĩnh bạn: mọi việc diễn ra rất bình thường. Đừng đứng ở đây, lính tuần tra tóm cổ đấy. Đến nhà tôi , được an toàn ở phòng lầu.

      Ông tiến về phía cửa lâu đài. Ngoái lại đằng sau, ông vẫn thấy Judas đứng bất động, hẳn ta tời khỏi đó.

      Tiếng gà gáy bắt đầu vang lên khắp nơi. Đột nhiên cánh cửa phòng lớn mở toang, và ánh đuốc chiếu sáng rực trước hiên nhà. Caiphe bước ra đưa mắt nhìn khắp sân: người đàn ông vùng Judee vội tránh khỏi vùng ánh sáng, nên để bị nhìn thấy lúc này. Sau này, khi vụ nổi dậy thất bại, ông đến gặp Giáo chủ và đòi phải trả tự do cho Thầy.

      Rồi Jesus xuất , xuống cầu thang. Người bị trói chặt, hai tên lính gác kẹp hai bên khuỷu tay.

      Sao thế nhỉ? Cần gì phải trói chặt thế kia nếu bọn chúng chỉ giải Người xuống hầm giam?

      Đám người qua đống lửa, và ông nghe thấy giọng sắc lạnh của Caiphe:

      – Giải đến nhà Pilate, ngay lập tức!

      Mồ hôi lạnh vã ra trán ông.

      Đến nhà Pilate! khi chúng giải Người đến nhà tổng đốc La Mã chỉ có cách giải thích duy nhất: Caiphe phản bội lời thề của .

      Judas vẫn đứng chôn chân ở vị trí quan sát. Lúc đầu, chỉ nhìn thấy bó đuốc, ánh lửa tỏa ra khiến lóa mắt: cố gắng thụt sâu vào trong hốc cửa, và nín thở. Lính tuần tra chăng?

      Nhưng đó phải là nhóm lính tuần tra. Giữa nhóm lính gác Đền thờ, nhận ra dáng dấp của người bước chệnh choạng, tay bị trói chặt ra sau lưng. Viên quan đầu đưa ra mệnh lệnh ngắn gọn đúng lúc cả nhóm qua chỗ Judas nấp trong bóng tối:

      – Đừng lề mề nữa, đến lâu đài của Pilate ngay!

      kinh hoàng nhìn gương mặt của người bị bọn lính thúc cùi chỏ vào lưng để giải : chính là Jesus.

      Mặt Người xanh tái, các đường nét căng ra. Người qua cửa mà hề nhìn vào bất cứ thứ gì – dường như Người nhìn sâu vào chính tâm hồn mình. Judas kinh sợ nhìn chằm chặp vào cổ tay Người: hai cổ tay bị trói rất chặt, chút máu còn vương sợi dây thừng, hai bàn tay co quắp xanh tái.

      Cơn ác mộng qua: nhóm người đằng đằng sát khi vừa rẽ phải, về hướng pháo đài Antonia nơi Pilate ở mỗi khi ông ta đến Jerusalem.

      Bất cứ ai là người Do Thái đều biết Luật này: ở Israel, kẻ báng bổ bị xử tội chết, và việc hành hình bằng cách ném đá vào người phạm tội được tiến hành ngay lập tức. Chúng ném đá Người trong sân, thế có nghĩa là Người nhận tội tự coi mình ngang bằng với Chúa trời, tội báng bổ cao nhất. Vậy là các nhà lãnh đạo nhà nước Do Thái tìm cách buộc Người vào tội danh chính trị nào đó, điều chúng dễ dàng đạt được nhờ tâm trạng dễ bị kích động của người dân La Mã trong Lễ Vượt qua.

      Judas loạng choạng rời khỏi thành phố. Jesus được xét xử, Caiphe phản bội lời thề của mình và quyết định giết Người. Và để làm được điều đó, chúng giao Người vào tay người La Mã, vì thể ép Người nhận tội báng bổ.

      Người ở rất gần giá chữ thập.

      tiến đến đối mặt với khối Đền thờ sừng sững. Ba mươi đồng tiền vàng vẫn kêu leng keng trong túi – khoản tiền đáng kể gì để đảm bảo cho cam kết giữa và Giáo chủ, cam kết vừa bị phản bội bất chấp lời hứa. Caiphe chơi vố đau đớn.

      đối mặt với ngay trong Đền thờ để nhắc cho nhớ lời hứa. Và nếu vẫn khăng khăng bảo vệ cho tội lỗi của , Judas cầu xin Đấng Tối cao, nhân chứng giữa và Caiphe, đứng ra xét xử.

      “Hỡi các giáo sĩ của Đền thờ, đến giờ Chúa đưa ra phán xét!”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      9.

      Cha Nil giật mình: tiếng chuông đầu tiên nhắc giờ lễ mixa điểm, sắp phải xuống kho đồ thờ để chuẩn bị rồi. Ông đọc lại lần nữa mảnh giấy mà ông lấy ra khỏi bàn tay lạnh ngắt của Andrei trước đó mấy tiếng:

      chuyện với Nil: bản thảo tiếng Ai cập cổ (Apoc).

      Bức thư của Tông đồ.

      M M M.

      Phiến đá G.

      Tìm ra mối liên hệ. Ngay lập tức.

      Cố gạt bỏ việc tìm hiểu vai trò của Judas trong cái chết của Jesus ra khỏi đầu, ông lại phải đối mặt với thực tế phũ phàng. Điều này có nghĩa là gì? Đương nhiên đây là mảnh giấy nhắc việc rồi. Cha Andrei muốn với ông về bản thảo tiếng Ai Cập cổ – bản thảo nào Roma gửi đến cho ông ấy, hay bản thảo khác? Có đến vài trăm bản sao được lưu trữ trong văn phòng của cha Andrei: bản thảo mà ông ấy đến là bản nào trong số đó? Ông ấy lại còn chú thích trong ngoặc đơn (Apoc): bản thảo tiếng Ai Cập cổ lấy từ kinh Khải Huyền? Manh mối này quá mỏng manh, có hàng chục cuốn Khải Huyền [[4]] khác nhau, của cả Do Thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo. Và cho dù cha Nil biết đọc tiếng Ai Cập cổ, ông cũng thấy mình đủ khả năng để dịch chính xác văn bản khó như vậy.

      Dòng tiếp theo gợi ông nhớ đến trong những lần ông chuyện với viên thủ thư. Liệu có phải cha Andrei muốn đến bức thư của tông đồ mà có lần ông ấy đề cập đến cách e dè, bóng gió như thể chỉ đưa ra phỏng đoán, giả thiết mà có bất kỳ bằng chứng nào? Ông ấy thêm điều gì với cha Nil về bức thư này.

      Ba chữ M liên tục ở phía dưới có nghĩa là gì?

      Chỉ có dòng chữ sát dòng cuối cùng là ràng đối với Nil. Đúng là ông cần phải quay lại chụp ảnh phiến đá Germigny, như ông hứa với bạn mình trước khi ông này Roma.

      Còn dòng chữ cuối cùng, tìm ra mối liên hệ, họ với nhau thường xuyên rồi: đối với cha Andrei, đó chính là công việc chủ yếu của ông ấy với tư cách là nhà sử học. Nhưng tại sao lại ngay lập tức, và tại sao ông ấy lại gạch chân mấy chữ này?

      Ông cố gắng tập trung suy nghĩ. Đầu tiên là những điều ông tìm thấy trong kinh Phúc mà cha Andrei thương xuyên hỏi đến. Sau đó là chuyện cha Andrei bị triệu tới Roma để trả lời về bản thảo tiếng Ai Cập cổ kia, cuối cùng là điều phát ra tại Germigny, điều khiến bạn ông tỏ rất bối rối: dường như tất cả những chuyện này đột nhiên mang ý nghĩa nào đó với ông ấy đến mức ông ấy vô cùng mong muốn được với cha Nil ngay khi về đến tu viện.

      Hay là cha Andrei phát ra điều gì đó ở Roma? Điều gì đó mà hai người từng đề cập đến trong nhiều lần trò chuyện cùng nhau? Hay ở đó, ông ấy trót ra điều lẽ ra nên giữ kín?

      Viên cảnh sát đến cụm từ “giết người”. Nhưng động cơ là gì mới được chứ? Cha Andrei chẳng có tài sản gì, ông ấy sống tách biệt trong thư viện, hầu như được ai biết đến. mấy ai biết đến, trừ Vatican. Tuy nhiên, cha Nil thể chấp nhận ý nghĩ Roma lại đặt hàng vụ giết người. Lần cuối cùng Giáo hoàng cho phép ám sát các linh mục của mình sau khi suy nghĩ cân nhắc là ở Paraguay, vào năm 1760. Bối cảnh chính trị thời đó cho thấy việc giết chết hàng loạt người vô tội là cần thiết, nhưng bối cảnh nay khác rồi. Vào cuối thế kỷ XX này, hẳn Giáo hoàng thể ra lệnh thủ tiêu học giả tu hành vô hại được!

      “Roma còn gây đổ máu nữa rồi. Tòa Thánh Vatican mà lại giết người ư? thể thế được!”

      Cha Nil nhớ rằng cha Andrei thường xuyên nhắc ông phải cẩn thận. Nỗi lo sợ xâm chiếm con người ông từ vài tiếng nay bỗng khiến bụng ông quặn thắt.

      Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay: còn bốn phút nữa là đến lễ mixa, nếu xuống kho đồ thờ ngay muộn mất. Ông liền mở ngăn kéo bàn làm việc, cẩn thận nhét mảnh giấy xuống tận đáy, bên dưới mớ thư từ. Tay ông chạm vào cuộn phim chụp ở nhà thờ Germigny cách đây tháng. Mong muốn cuối cùng của cha Andrei…

      Ông đứng dậy và ra khỏi phòng.

      Hành lang tầng hai – “hành lang của các cha” – tối tăm và lạnh lẽo mở ra trước mắt ông, nhắc ông nhớ lại mình ở đâu: ông ở tu viện, và từ nay trở chỉ còn mình ông thôi. bao giờ ông còn nhìn thấy nụ cười chia sẻ của ông bạn thủ thư nữa, nụ cười khiến ông thấy hành lang này sáng lên.


      10.

      – Mời Đức ông ngồi.

      Đức cha Calfo kiềm chế nhăn mặt và để thân hình mũm mĩm của mình được ôm khít trong ghế phô tơi mềm mại đặt trước chiếc bàn làm việc đồ sộ. Ông thích bị Emil Catzinger, vị Hồng y Giáo chủ đầy quyền lực đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, triệu tập cách chính thức như vậy. Ai cũng biết rằng công việc thực được xử lý tại bàn viết mà được giải quyết khi cùng ăn bánh pizza hoặc tản bộ trong khu vườn râm mát sau khi ăn đĩa spaghetti, điếu xì gà ngon kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa.

      Alessandro Calfo sinh ra ở khu Tây Ban Nha, trung tâm bình dân của thành phố Napoli, là thành viên của gia đình sống chật vật, nghèo khổ trong căn hộ phòng hỗn tạp quay ra phố. Đắm chìm trong cộng đồng mà dục vọng mạnh mẽ được nuôi dưỡng bởi ánh nắng dồi dào, từ rất sớm ông cảm thấy thể cưỡng lại nhu cầu khoái lạc. Da thịt ở đó, êm ái, run rẩy, nhưng là cái thể với tới đối với cậu trai khốn khổ, người học được cách mơ mộng về tình dục và thèm muốn những giấc mơ của mình.

      Alessandro lẽ ra trở thành người xứ Napoli thực , bị ám ảnh bởi tín ngưỡng thờ thần Eros – cách duy nhất để lãng quên cảnh nghèo khổ ở khu phố nơi ông sinh ra. Nhưng trong xã hội phụ hệ, từ ham muốn chuyển thành hành động còn bấp bênh hơn việc được chứng kiến những phép màu mà năm nào Thánh Gennaro [[5]] cũng hứa hẹn.

      Chính khi ấy cha ông gửi ông đến miền Bắc mến khách. Trong căn hộ phòng duy nhất đó có quá nhiều trẻ con phải nuôi: cậu trai này trở thành người của Giáo hội, nhưng phải ở bất kỳ đâu. Vốn là người hâm mộ Mussolini đến đờ đẫn, cha ông nghe rằng ở đó những người nước thực thiết lập lại các trường dòng theo tinh thần của chủ nghĩa phát xít. Chúa trời vốn cũng là người Ý tốt bụng, nên cần phải nơi khác để học tập nhằm phục vụ Người. Ngay từ khi mười tuổi, ở miền bình nguyên sông Po, Alessandro khoác lên người chiếc áo thầy tu mà ông bao giờ rời ra nữa.

      Nhưng chiếc áo đó cũng bao bọc, tuy thể kìm giữ, những đớn đau thường xuyên trong cậu con trai của ngọn núi lửa Vesuvius khốn khổ với những đợt phun trào của mình.

      Ở trường dòng, ông có phát thứ hai: tiện nghi, thoải mái. Tiền bí đổ về từ vô số mạng lưới thuộc phái cực hữu của Châu u. Cậu trai nghèo khổ trong khu phố ngày nào hiểu được tầm quan trọng của đồng tiên, và rằng tiền có thể làm tất cả.

      Mười bảy tuổi, ông được gửi đến dưới bóng Vatican, để học về đức tin bằng ngôn ngữ của Chúa, tiếng Latin. Ở đó, ông có phát thứ ba: quyền lực. Và rằng hơn cả nỗi ám ảnh về khoái cảm xác thịt, việc thực thi quyền lực có thể chiếm trọn cuộc đời và mang lại ý nghĩa cho nó. Tất nhiên, tín ngưỡng thờ thần Eros là trong những cách để tiếp cận bí của Chúa: nhưng quyền lực còn khiến người nắm giữ nó trở thành ngang hàng với chính Chúa trời.

      Rồi ngày, khuynh hướng phát xít tự nhiên trong con người ông hội ngộ Hội thánh Pie V. Ông hiểu rằng ba phát liên tục của mình có đất để thực ngay trong chính Hội này. Ham muốn quyền lực của ông càng phát triển trong chế độ tư tưởng cực quyền của Hội. Chiếc áo thầy tu viền tím nhắc nhở ông về những khát vọng tinh thần muộn màng, và cũng là cái vỏ thanh lịch để ông thỏa mãn những ham muốn xác thịt của mình. Cuối cùng, tiền đổ vào tay ông, nhờ vào hàng trăm hồ sơ được Hội cập nhật cách cẩn thận và loại trừ bất cứ người nào.

      Tiền bạc, quyền lực và tình dục: Alessandro Calfo sẵn sàng. Ở tuổi bốn mươi, ông được phong Đức ông, và trở thành người đứng đầu của Hội hết sức bí và rất có ảnh hưởng này, là giáo sĩ cấp cao trực tiếp làm việc dưới quyền của Giáo hoàng, và chỉ phải tuân thủ chỉ đạo của duy nhất Giáo hoàng. Thế là điều ngờ tới xảy ra: ông cảm thấy niềm say mê thực đối với sứ mệnh được giao gánh vác, và trở thành người bảo vệ nhiệt thành cho những giáo lý nền tảng của Giáo hội, nơi mang lại cho ông tất cả.

      Ông thôi kìm nén ham muốn xác thịt của mình nữa. Nhưng đồng thời với việc để mặc ham muốn này bộc lộ, ông còn gán cho nó tầm vóc tương hợp với thiên chức của mình: thông qua hóa thân xác thịt, ông tìm thấy cách thức nhanh chóng nhất để đạt đến hợp nhất thần bí.

      Hai người – và chỉ hai thôi – biết rằng nhân vật đứng đầu đầy quyền lực cùa Hội chính là người đàn ông bé có giọng êm dịu: Giáo hoàng và Hồng y Giáo chú Emil Catzinger. Đối với tất cả những người khác, trong và ngoài Roma, ông chỉ là trong những viên thư lại khiêm tốn của Cơ quan truyền bá đức tin.

      Về nguyên tắc là thế.

      – Mời ông ngồi. Hai vấn đề, bên ngoài, bên trong.

      phân biệt này trở nên quen thuộc trong các bộ của Vatican: ở đây, người ta gọi là “các vấn đề bên trong”, những việc xảy ra trong Giáo hội, thế giới thân tình, bình thường và có thể kiểm soát được. Và “các vấn đề bên ngoài” là những gì xảy ra trong phần còn lại của hành tinh, thế giới thù địch, bất bình thường và cần phải được kiểm soát dù muốn dù .

      – Tôi với ông về vấn đề đáng lo ngại liên quan đến tu viện dòng Benedict ở Pháp…

      – Vâng, ngài cầu tôi làm mọi việc cần thiết. Nhưng chúng ta cần phải can thiệp nữa, vì cha Andrei tội nghiệp tự sát, tôi chắc vậy, và vụ việc được xếp lại.

      Đức Hồng y rất ghét bị cắt ngang: mặc dù Calfo cố gắng khiến ông quên điều này, nhưng ở đây, ông mới là chỉ huy. Lát nữa ông phải đặt về đúng chỗ của mình.

      Là người Áo, Catzinger được Giáo hoàng lựa chọn nhờ có tiếng là nhà thần học sáng suốt. Nhưng ông nhanh chóng thể nhân vật bảo thủ đáng gờm, và vì đó cũng chính là bản chất sâu kín ở người kế tục mới của Thánh Peter, giai đoạn trăng mật giữa hai người biến thành mối liên minh bền vững.

      – Tự sát là tội lỗi tồi tệ, cầu Chúa cứu vớt linh hồn ông ấy! Nhưng hình như còn có con chiên ghẻ khác trong tu viện đó, nơi đàn chiên phải hoàn hảo. Hãy xem cái này – ông đưa cho Calfo tập hồ sơ, tố cáo của Cha tu viện trưởng, v.v… Có thể có gì quan trọng: ông hãy xem xét, rồi chúng ta lại chuyện này. có gì khẩn cấp, ít ra là cũng chưa khẩn cấp.

      Các mối liên hệ của Hồng y Giáo chủ với quá khứ của chính ông rất mâu thuẫn. Cha ông là sĩ quan trong đội quân Wehrmacht đóng đất Áo, sư đoàn Anschluss. Mặc dù luôn duy trì khoảng cách với chủ nghĩa phát xít, ông vẫn có đặc điểm của chủ nghĩa này: niềm tin rằng mình là người duy nhất nắm giữ , chỉ mình này có thể thống nhất thế giới quanh đức tin công giáo thể phản bác.

      – Vấn đề bên trong liên quan trực tiếp đến ông, Đức ông ạ…

      Calfo bắt tréo chân và chờ nghe tiếp.

      – Ông hẳn biết câu ngạn ngữ của người Roma: una piccola avventura non fà male, cuộc phiêu lưu có gì xấu, chừng nào giáo sĩ cấp cao đó còn giữ được phẩm cấp của mình, trước hết là kín đáo lịch . Vậy mà tôi lại được biết rằng đe dọa để các paparazzi làm việc cho giới truyền thông chống giáo quyền tiếp cận, vì họ hứa cho ta nhiều của cái để đổi lấy những tiết lộ liên quan đến số… thế nào nhỉ? số cuộc chuyện riêng tư giữa ông và ta.

      – Tinh thần, thưa Đức Hồng y. Chúng ta cùng tiến bước con đường thử nghiệm thần bí.

      – Tôi nghi ngờ điều đó. Nhưng tóm lại, số tiền đưa ra rất đáng kể. Ông định làm gì?

      – Im lặng là đức tính đầu tiên của người Cơ đốc. Chính Thầy của chúng ta cũng từ chối trả lời Giáo chủ Caiphe khi lăng nhục Người. Như vậy là nó vô giá: tôi nghĩ rằng vài trăm đô…

      – Ông đùa! Lần này, cần phải thêm vào con số nữa. Tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ ông, nhưng đây phải là lần cuối cùng. Đức Thánh Cha hẳn bỏ qua mục tin vắn tờ La Stampa mà người ta dùng để cảnh báo chúng ta. Tất cả những chuyện này là tệ hại!

      Emil Catzinger luồn tay vào dưới áo choàng màu tím và lấy từ túi trong ra chìa khóa bằng bạc mạ vàng. Ông cúi xuống, tra chìa khóa vào ngăn tủ dưới cùng của bàn làm việc rồi mở ra.

      Trong ngăn có khoảng hai chục chiếc phong bì căng phồng. Từ những xứ đạo bé nhất của Đế chế Công giáo, khoản thuế được thu để nộp về trụ sở giáo hội. Catzinger là người đứng đầu trong ba cơ quan phụ trách việc thu nhận thứ thức ăn trời ban này, đều đặn – và mùi – như mưa phùn ở xứ Bretagne.

      Ông khẽ khàng nhặt chiếc phong bì đầu tiên, mở ra và đếm nhanh số tiền bằng đầu ngón tay. Sau đó, ông đưa cho Calfo, ông này chỉ mở hé và cần đưa tay vào phong bì cũng biết chính xác số tiền bên trong: người xứ Napoli thực thụ chỉ cần cái liếc mắt để xác định giá trị của tập tiền.

      – Thưa Đức Hồng y, cử chỉ của ngài khiến tôi vô cùng xúc động, tôi dành hết lòng biết ơn và tận tụy của tôi cho ngài!

      – Tôi nghi ngờ điều đó. Giáo hoàng và tôi đánh giá cao lòng nhiệt tình của ông đối với nghiệp cao cả nhất của chúng ta, vì nó động chạm đến chính con người Đức Thiên Chúa Jesus Christ. Va bene, monsignore [[6]] hãy làm dịu những khát khao truyền thông của đó, và hãy dẫn dắt ta những lối tinh thần… theo cách ít tốn kém hơn.

      Vài giờ sau, Catzinger ở trong văn phòng nhô ra bên hàng cột Bernin, phía bên phải, có cửa sổ nhìn thẳng ra quảng trường Saint Peter. Từ khi được bầu, Giáo hoàng chọn cách du lịch, giao lại việc quản lý các công việc hàng ngày cho những người ở dưới bóng Vatican, những người được ai đến. Nhưng chính họ là người chèo lái con thuyền của Thánh Peter theo đúng hướng, con đường khôi phục trật tự cũ.

      Đức Hồng y Emil Catzinger lãnh đạo cách bí mật – và bằng bàn tay sắt – Giáo hội Công giáo.

      bàn tay run rẩy chìa tờ La Stampa về phía Hồng y, người đứng kính cẩn trước ghế của ông già. Ông già này diễn đạt cách khó khăn:

      – Câu chuyện này, nơi xuất cái tên Calfo… hừm… có phải là Đức ông Calfo của chúng ta ?

      – Đúng, thưa Cha rất thánh, đúng là ông ta. Tôi gặp ông ta hôm nay. Ông ta làm mọi việc cần thiết để ngăn những điều vu khống bỉ ổi này làm vấy bẩn Tòa thánh.

      – Vậy… làm thế nào để tránh…?

      – Ông ta đích thân giám sát việc này. Và Ngài cũng biết rằng, thông qua trung gian là Ngân hàng Vatican, chúng ta kiểm soát được tập đoàn báo chí mà La Stampa trực thuộc.

      , tôi biết chi tiết này. Tốt lắm, hãy làm sao để bình yên trở lại, đức cha ạ. Bình yên là điều khiến tôi lúc nào cũng lo lắng

      Hồng y Giáo chủ vừa nghiêng mình vừa mỉm cười. Ông học được cách để quý vị Giáo hoàng già, người mà quá khứ của ông ngăn cách ông với ngài đến từng thớ thịt thân thể. Mỗi ngày, ông lại xúc động trước cuộc đấu tranh chống lại bệnh tật của Giáo hoàng, trước chịu đựng dũng cảm của ngài.

      Và ông ngưỡng mộ sức mạnh của đức tin nơi ngài.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      11.

      Đức Cha tu viện trưởng là người cuối cùng bước vào phòng ăn rộng, trong khi các thầy tu kính cẩn chờ đợi trước những chiếc ghế xếp hàng thẳng tắp. Ông bắt đầu nghi lễ bằng giọng thánh thót. Sau bài Edent pauperes, bốn mươi bàn tay nắm lấy những chiếc ghế đồng loạt kéo vào dưới những vạt áo choàng bằng vải len bua. Những ngón tay đan vào nhau mép bàn bằng gỗ màu trắng, bốn mươi mái đầu cúi xuống để lặng nghe đoạn đầu bài kinh.

      Bữa ăn trưa vừa bắt đầu.

      Đối diện với vị giáo sĩ cấp cao, ở đầu kia phòng ăn, các sinh viên của học viện chiếm cả bàn. Những mục sư hoàn hảo, số người ủng hộ chủ nghĩa nguyên vẹn nhiệt thành nhất mặc áo dòng, những gương mặt căng thẳng, những cặp mắt có quầng: tinh hoa của giới tăng lữ Pháp tương lai chuẩn bị đón nhận những liễn xúp bằng kim loại, đựng đầy món xa lát mà đạo hữu Antoine mới hái sáng nay. Năm học vừa bắt đầu, phải cầm cự đến tận tháng Sáu.

      Cha Nil thích tiết đầu thu này, khi trái cây trong vườn nhắc ông nhớ rằng ông sống trong khu vườn của nước Pháp. Nhưng từ nhiều ngày nay, ông cảm thấy thích thú nữa. Giờ giảng của ông ở học viện diễn ra trong bầu khí khiến ông khó chịu.

      – Như vậy, đương nhiên là kinh phúc theo thánh Jean, với nội dung phức hợp, là kết quả của quá trình soạn thảo văn học lâu dài.Tác giả của nó là ai? Hay đúng hơn, tác giả của nó là những ai? Những so sánh mà chúng ta vừa đưa ra giữa các đoạn của văn bản đáng kính này cho thấy từ ngữ và thậm chí cả nội dung vô cùng khác nhau. Chỉ người thể viết lại cùng lúc các cảnh tượng sống động, phác họa chính thực tế mà người đó được tận mắt chứng kiến, đồng thời với những bài diễn văn dài bằng thứ tiếng Hy Lạp sang trọng thể ràng hệ tư tưởng của những người theo thuyết ngộ đạo, các nhà triết học phương Đông.

      Ông cho phép sinh viên của mình được phát biểu khi ông giảng, miễn là các câu hỏi của họ phải ngắn gọn. Nhưng từ khi đề cập đến nội dung quan trọng của chủ đề này, trước mặt ông chỉ còn là hai mươi hình khối bất động.

      “Tôi biết rằng chúng ta ra khỏi lối mòn, và đó phải là điều mà giáo lý Cơ đốc dạy các bạn. Nhưng văn bản đặt ra… Các bạn còn chưa hết ngạc nhiên!”

      Bài giảng của ông là kết quả của nhiều năm nghiên cứu độc và suy ngẫm. Ông nhiều lần tìm kiếm trong thư viện của tu viện, nơi ông được quyền vào, số tác phẩm mới xuất bản ông được biết tới qua tạp chí chuyên ngành cha Andrei nhận được, nhưng vô ích.

      – Cha Nil, xem này. Cuối cùng người ta cũng lôi ra khỏi quên lãng lô mới các bản thảo vùng biển Chết! Tôi còn tin chuyện đó… Cách đây năm mươi năm, những cái vại được phát trong những hang đá Qumran, vậy mà có gì được công bố từ sau khi Ygaël Yadin chết: hơn nữa số bản thảo này vẫn chưa hề được công chúng biết đến. vụ rắc rối thể tin được!

      Cha Nil mỉm cười. Trong khí thân mật của văn phòng này, ông phát ra cha Andrei say mê, tỏ tường mọi chuyện. Ông những cuộc trò chuyện dài của họ, sau cánh cửa đóng kín. Cha Andrei nghe ông kể về những nghiên cứu của mình, đầu hơi cúi xuống. Rồi, bằng từ, đôi khi là im lặng, hưởng ứng hoặc định hướng cho học trò của mình giữa những giả thiết táo bạo nhất.

      Con người mà ông nhìn thấy lúc đó mới khác biệt làm sao so với viên thủ thư hay đắn đo, người canh giữ nghiêm khắc ba chiếc chìa khóa mà mọi người trong tu viện bên bờ sông Loire từng biết!

      Tòa nhà được xây dựng lại sau chiến tranh, mái vòm vẫn chưa hoàn thiện. Cả tòa nhà tạo thành hình chữ U, quay ra phía bình nguyên. Các thư viện chiếm trọn tầng cùng của ba cánh nhà: cánh giữa, cánh Bắc và cánh Nam, ngay bên dưới mái nhà.

      Bốn năm trước, cha Andrei được giao những khoản tiền đáng kể kèm theo lệnh mua chính xác số sách trong các lĩnh vực giáo lý và lịch sử. Ông vui sướng được sử dụng năng lực của mình để phục vụ cho khoản đầu tư kỳ diệu này. Các kệ sách chất đầy những cuốn sách hiếm, những xuất bản phẩm khó tìm được hoặc bán hết, viết bằng tất cả các ngôn ngữ cổ và đại. Đương nhiên, việc mở học viện đặc biệt, vốn được Vatican theo dõi sát sao, chính là nguyên nhân của việc thành lập phương tiện nghiên cứu tuyệt vời này.

      Tuy nhiên, có điều hạn chế bất thường. Mỗi người trong số tám tu sĩ giảng dạy ở học viện chỉ có chìa khóa duy nhất, chìa khóa của thư viện tương ứng với bộ môn người đó phụ trách. Chịu trách nhiệm về kinh Tân ước, cha Nil nhận được chìa khóa thư viện cánh giữa, trước cửa có gắn tấm biển gỗ khắc chữ: Khoa học về Kinh Thánh. Các thư viện cánh Bắc, Khoa học lịch sử, và ở cánh Nam, Khoa học Thần học, vẫn khăng khăng đóng kín đối với ông.

      Chỉ có cha Andrei và cha Tu viện trưởng có chìa khóa của cả ba thư viện, treo thành chùm đặc biệt mà họ bao giờ rời xa.

      Ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, cha Nil đề nghị bạn mình cho phép được vào thư viện lịch sử.

      – Ở cánh giữa, tôi tìm thấy số tác phẩm mà tôi cần để tiến xa hơn. Cha có lần với tôi rằng chúng được xếp ở cánh Bắc. Tại sao tôi thể vào đó được? là buồn cười!

      Lần đầu tiên, cha Nil thấy khuôn mặt của bạn mình trở nên kín bưng. Cuối cùng, với vẻ vô cùng ngại ngần, nước mắt lưng tròng, cha Andrei cũng với ông:

      – Cha Nil… Nếu tôi có với cha điều đó, tôi sai, cha hãy quên . Tôi xin cha, đừng bao giờ hỏi tôi chìa khóa của trong hai thư viện mà cha được phép tiếp cận. Bạn của tôi, hãy hiểu cho tôi, tôi làm điều tôi muốn được. Đó là mệnh lệnh chính thức của đức Cha tu viện trưởng, và những mệnh lệnh này được đưa ra… từ cấp cao hơn. ai có thể cùng lúc vào cả ba thư viện. Chuyện này khiến tôi thể ngủ được, phải chuyện buồn cười, mà là bi kịch. Tôi có thể vào cả ba thư viện, và tôi thường dùng thời gian rảnh rỗi để lục lọi rồi đọc. Vì yên bình của tâm hồn cha, nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi xin cha hãy bằng lòng với những gì cha tìm thấy trong thư viện cánh giữa.

      Rồi ông chìm vào im lặng nặng nề, điều thường thấy ở ông mỗi khi ông còn mình với cha Nil.

      Mất phương hướng, giảng viên phụ trách việc chú giải Kinh Thánh đành thỏa mãn với những kho báu mà chiếc chìa khóa duy nhất của ông mở ra.

      – Lời kể cho thấy tác giả chính của kinh Phúc theo Thánh Jean biết Jerusalem, và có nhiều mối quan hệ tại đây. Đó là người vùng Judee khá giả, có học thức, trong khi đó tông đồ Jean sống ở Galilee, là người nghèo và mù chữ… làm sao mà ông có thể là tác giả của văn bản mang tên ông?

      Trước mặt ông, những gương mặt dần sa sầm lại theo những điều ông . số người lắc đầu với vẻ phản đối – nhưng ai phát biểu. im lặng này của cử tọa khiến cha Nil lo lắng hơn bất kỳ điều gì. Các sinh viên của ông xuất thân từ những gia đình có truyền thống nhất nước. Được lựa chọn kỹ lưỡng để trở thành mũi giáo của Giáo hội bảo thủ trong tương lai. Tại sao người ta lại chọn ông vào chức vụ này? Ông sung sướng biết bao khi được lặng lẽ làm việc, cho riêng mình!

      Cha Nil biết rằng ông thể truyền đạt cho họ tất cả các kết luận của ông. Ông chưa bao giờ mường tượng rằng việc chú giải Kinh thánh lại có ngày trở thành nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm. Khi còn là sinh viên ở Roma, bên cạnh chàng Rembert Leeland nồng nhiệt và thân ái, mọi chuyện dễ dàng biết bao…

      Tiếng chuông đầu tiên của lễ mixa chậm rãi vang lên.

      – Cám ơn các bạn. Hẹn gặp lại tuần sau.

      Các sinh viên đứng dậy và thu xếp sách vở. Ở cuối phòng, sinh viên mặc áo thầy dòng, đầu cạo nhẵn, nán lại lát để viết mấy dòng lên mảnh giấy vuông – thứ được các thầy tu dùng để trao đổi với nhau mà phá vỡ im lặng.

      Trong khi ta vừa gập vuông giấy làm đôi vừa mím môi, cha Nil kín đáo nhận thấy móng tay ta bị gặm nham nhở. Cuối cùng ta cũng đứng lên, và qua thầy giáo của mình mà hề đưa mắt nhìn ông.

      Trong khi cha Nil mặc áo lễ trong kho đồ thờ thơm mùi sáp mới, bóng áo thầy tu lẻn vào căn phòng chung và tiến lại gần những ngăn tủ dành cho các cha. Sau khi liếc nhìn quanh, chắc chắn rằng có ai trong phòng, bàn tay có những chiếc móng bị gặm nham nhở luồn vuông giấy gấp đôi vào ngăn tủ của đức Cha tu viện trưởng.

      12.

      Nếu có những chiếc đèn vách theo kiểu Venise tỏa ra thứ ánh sáng ấm dịu, hẳn là căn phòng có vẻ bi thảm. Suốt dọc phòng có cửa sổ nào, chỉ có cái bàn gỗ đánh xi, phía sau bàn là mười ba chiếc ghế xếp thẳng hàng, dựa lưng vào tường. Ở chính giữa là chiếc ngai theo phong cách Napoli – Anjou phủ nhung màu tía. Mỗi bên chiếc ngai là sáu chiếc ghế phô tơi đơn giản, có tay vịn mang hình đầu sư tử.

      Cửa ra vào được làm bằng sắt dày, bên ngoài bọc gỗ quý.

      Đối diện chiếc bàn, cách khoảng năm mét, là mảng tường hoàn toàn trống trơn. Hoàn toàn? . mảng gỗ tối màu được gắn vào tường. Nổi bật lên nền gỗ gụ là sắc nhợt của cây thánh giá màu đỏ máu, theo phong cách Jansen, tạo nên mảng gần như thô kệch dưới luồng ánh sáng rọi xuống từ hai chiếc đèn chiếu ngay phía ngai trung tâm.

      Chiếc ngai này chưa bao giờ có người ngồi, và cũng bao giờ có người ngồi. Nó nhắc nhở các thành viên của Hội rằng diện của người Thầy Hội Thánh Pie V là hoàn toàn mang ý nghĩa tinh thần, nhưng vĩnh cửu. Từ bốn thế kỷ nay, Jesus – Christ, Chúa tái sinh, ngự ở đây trong tâm trí và trong thực, bao bọc xung quanh là mười hai tông đồ trung thành, sáu người bên phải và sáu người bên trái. Giống hệt như trong bữa ăn cuối cùng mà Người dùng cùng với các học trò của mình hai nghìn năm trước, trong căn phòng lớn ở khu phía Tây Jerusalem.

      mỗi ghế phô tơi là người đàn ông mặc áo lễ màu trắng rộng thùng thình có mũ trùm phủ lên đầu. Trước mặt mỗi người là mảnh vải trắng đơn giản được gắn vào mũ bằng hai khuy bấm ở ngang gò má. Phần dưới khuôn mặt được che kín, chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt và phần trước trán.

      Ngồi xếp hàng như thế đối diện với bức tường, mỗi người đều phải cúi về đằng trước và xoay đầu góc bốn mươi lăm độ để nhận thấy dáng vẻ của những người ngồi cùng bàn. Đương nhiên việc quay ngang dọc hay nhăn nhó nét mặt bị cấm chỉ, cũng giống như việc mọi người phải hạn chế để lộ bàn tay của mình đến mức tối thiểu. Cẳng tay khoanh lại đặt bàn, những ống tay áo được thiết kế với độ mở rộng để có thể lồng khít vào nhau cách tự nhiên, che phần cổ tay và bàn tay của những người tham dự.

      Khi chuyện, các thành viên của Hội trao đổi trực tiếp với nhau, mà với hình ảnh đẫm máu gắn phía trước họ. Nếu như tất cả mọi người đều có thể nghe thấy điều người khác cần phải quay đầu theo quy định có nghĩa là Thầy, người im lặng thánh giá, đồng ý với điều đó.

      Trong căn phòng mà loài người chung biết rằng nó tồn tại này, Hội Thánh Pie V tổ chức cuộc họp thứ ba nghìn sáu trăm linh ba của mình, kể từ khi Hội này được thành lập.

      Ngồi bên phải của chiếc ngai bỏ trống, người duy nhất để duỗi chiếc bàn hoàn toàn trống trơn đôi bàn tay mủm mĩm của mình: ngón tay đeo nhẫn bên phải, viên ngọc thạch màu xanh đậm ánh lên khi người đó đứng dậy và máy móc vuốt thẳng nếp áo lễ chiếc bụng hơi nhô ra.

      – Các em, hôm nay chúng ta phải quan tâm đến ba vấn đề bên ngoài mà chúng ta từng bàn đến ở đây, và vấn đề thứ tư, vấn đề bên trong và… đau buồn đối với mỗi người trong chúng ta.

      Tiếp nhận thông báo này là im lặng hoàn toàn: mọi người đều chờ đợi phần tiếp theo.

      – Theo cầu của Hồng y Giáo chủ đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, các vị được thông tin về vấn đề mới phát sinh ở Pháp, trong tu viện dòng Benedict được giám sát rất chặt chẽ. Các vị trao cho tôi toàn quyền hành động để giải quyết vấn đề này. Và tôi vui mừng được thông báo với các vị rằng vấn đề được giải quyết cách thỏa đáng: từ nay trở , tu sĩ mà những câu chuyện gần đây khiến chúng ta lo lắng còn khả năng làm phương hại đến Giáo hội Công giáo rất thánh nữa.

      người tham dự khẽ nhấc hai cẳng tay khoanh vào nhau dưới tay áo lên, để tỏ dấu là mình sắp :

      – Ngài muốn rằng ông ta bị… thủ tiêu?

      – Tôi dùng từ đó, offensivum auribus nostris [[7]]. Các vị chỉ cần biết rằng ông ấy bị ngã cách đúng lúc ra khỏi đoàn tàu Roma Express đưa ông ấy trở lại tu viện, và rằng ông ấy chết ngay tại chỗ. Chính quyền Pháp kết luận đó là vụ tự sát. Thế nên tôi cầu các vị hãy cầu nguyện cho ông ấy. Các vị đều biết rằng tự sát là tội lỗi khủng khiếp chống lại đấng tạo ra mọi sống.

      – Nhưng… người em hội trưởng, liệu có nguy hiểm khi nhờ đến người lạ để khiến cho vụ… tự sát có thể xảy ra? Chúng ta có thực được bào đảm về kín đáo của ta ?

      Tôi gặp người Palestine đó trong thời gian tôi ở Cairo, cách đây nhiều năm. Kể từ đó, ta luôn tỏ ra rất tin cậy. Trong vụ này, lợi ích của ta lại trùng khớp với lợi ích của chúng ta, ta hiểu rất điều đó. ta nhờ đến trợ giúp của người quen biết cũ, người Israel: người của Fatah và người của Mossad chống đối nhau kịch liệt, nhưng đôi khi họ cũng biết sát vai nhau để cùng đương đầu với vấn đề chung – và chính là trường hợp này, nó phục vụ cho các kế hoạch của chúng ta. Chỉ có kết quả là quan trọng, các công cụ được sử dụng phải hiệu quả, nhanh chóng và dứt khoát. Và tôi xin đứng ra bảo đảm cho kín đáo tuyệt đối của hai người này. Họ được trả công rất hậu hĩnh.

      – Chính xác mấy nghìn đô la mà ngài với chúng tôi là khoản đáng kể. Khoản chi này có được hợp lý hóa ?

      Hội trưởng quay mặt về phía người vừa , điều hiếm khi xảy ra.

      – Người em, khoản đầu tư này là điều nực cười nếu đem so sánh với những lợi ích mà nó có thể mang lại. Và theo ước tính của tôi, phải là hàng nghìn, mà hàng triệu đô la. Nếu chúng ta đạt đến đích, chúng ta có được những phương tiện để hoàn thành sứ mệnh của mình. Các vị hãy nhớ đến tài sản đột ngột xuất và kếch xù của các Hiệp sĩ dòng Đền. Đúng vậy, chúng ta khai thác cùng nguồn với họ. Nhưng thành công ở chính nơi mà họ thất bại.

      – Thế còn phiến đá Germigny?

      – Tôi định đến chuyện đó. Phát này hẳn vẫn được ai biết đến nếu cha Andrei nắm được thông tin về nó, do tu viện của ông ta có vị trí địa lý gần đó. Ông ta có ý nghĩ đúng lúc là nhanh chóng đến tận nơi, và là người đầu tiên đọc bản khắc đó. Chúng ta biết đến tồn tại của phiến đá này qua hồ sơ của các Hiệp sĩ dòng Đền.

      – Điều này ngài với chúng tôi rồi.

      – Trong chuyến đến Roma mới đây, ông ta để lộ vài nhận xét dường như chứng tỏ rằng ông ta kết nối các thông tin mà ông ta có được với nhau. Điều này vô cùng nguy hiểm, chúng ta bao giờ biết được nó dừng ở đâu, và Hội của chúng ta được Đức Thánh Cha Pie V lập ra – ông cúi người, đầu tiên là về phía bên trái, trước chiếc ngai bỏ trống, và sau đó về phía trước, nơi có cây thánh giá – nhằm tránh để kỷ niệm và hình ảnh về Thầy bị vấy bẩn hoặc lu mờ. Trong suốt lịch sử lâu dài của Giáo hội, tất cả những kẻ có ý định hành động theo chiều hướng đó đều bị loại trừ. Thường là kịp thời, đôi khi quá muộn – và đó là những vụ lộn xộn tồi tệ, gây ra rất nhiều đau khổ: hãy nghĩ đến Origène, Arius, rồi còn Nestorius và nhiều kẻ khác nữa… Nhóm hành động chuyến tàu Roma Express tiến hành những việc cần thiết, theo cầu của tôi: phiến đá Germigny sớm được yên ổn ngay tại đây, tránh khỏi những con mắt tọc mạch.

      tiếng thở dài nhõm lan khắp cử tọa.

      – Nhưng bây giờ chúng ta lại có vấn đề khác, liền với vấn đề thứ nhất, hội trưởng dẫn dắt.

      Vài cái đầu quay sang ông cách máy móc.

      thời gian trở lại đây, có vẻ như cha Andrei quá cố khơi dậy lòng tò mò của môn đồ nào đó: trong các tu sĩ, làm giảng viên trong học viện đặc biệt của tu viện có liên quan. Ồ, có thể đây chỉ là báo động nhầm, bắt nguồn từ tin nhắn mà đức Cha tu viện trưởng gởi cho chúng ta. sinh viên tham dự giờ chú giải Kinh Thánh của giảng viên này – cha Nil nào đó – cho biết ta nghe thấy cha này phát ngôn những quan điểm ảnh hưởng đến luận thuyết đúng đắn về kinh Phúc theo Thánh Jean. Xét bối cảnh mới đây, Cha tu viện trưởng cho rằng cần cảnh báo chúng ta ngay lập tức.

      Nhiều người ngẩng đầu lên: kinh Phúc theo Thánh Jean chính là trung tâm sứ mệnh của họ, bất kỳ điều gì đụng chạm đến nó đều phải được phân tích sát sao.

      – Thông thường, tính chính thống của người chú giải Kinh Thánh công giáo liên quan đến Cơ quan truyền bá đức tin, và tu sĩ này phải là người đầu tiên Cơ quan này cần đặt lại vào đúng vị trí…

      Có thể đoán biết vài nụ cười dưới tấm mạng phủ các khuôn mặt.

      – … nhưng đây là hoàn cảnh đặc biệt. Cha Andrei quá cố từng là học giả ở hàng ngoại lệ, được trời phú cho trí tuệ sắc bén và sáng tạo.Từ giờ trở ông ta thể gây hại được nữa, nhưng ông ta để cho học trò của mình là cha Nil nghe được những gì? Bởi vì, Cha tu viện trưởng nhấn mạnh với chúng ta rằng tình bạn khăng khít – điều luôn luôn đáng tiếc trong tu viện – gắn kết hai nhà trí thức này lại với nhau. cách khác, liệu thứ chất độc ngấm vào đầu óc cha Andrei có lây sang cha Nil ? Chúng ta có cách nào để biết được điều đó.

      trong những thầy tu nhấc hai cánh tay bắt vào nhau lên.

      – Người em hội trưởng, hãy cho tôi biết… Cha Nil này, liệu có khi nào, ngẫu nhiên thôi, cũng chuyến Roma Express?

      – Ông ta có thể, hẳn là thế. Nhưng vụ tự sát thứ hai trong số các tu sĩ của tu viện là điều nên dự kiến. Cả Chính phủ Pháp lẫn dư luận dễ bị thuyết phục, khi khoảng cách giữa hai vụ quá ngắn. Mà đây lại là việc tương đối gấp, vì thầy tu này thường xuyên lên lớp, và có vẻ quyết tâm để sinh viên của mình biết được những… tóm lại, vài kết luận về những nghiên cứu của ông ta. Những kết luận nào? Chúng ta biết, nhưng chúng ta thể để bất cứ nguy cơ nào đe dọa. Hồng y Giáo chủ đặt rất nhiều hy vọng vào học viện của tu viện Saint-Martin, ngài muốn nó phải tuyệt đối hoàn hảo.

      – Ngài có đề xuất gì ?

      Hội trưởng ngồi xuống, thu bàn tay và chiếc nhẫn vào trong ống tay áo lễ.

      – Tôi còn chưa biết, tất cả những chuyện này quá mới mẻ. Trước mắt, phải tìm hiểu xem tu sĩ này biết gì, hoặc – nếu ông ta chưa biết điều gì quá trầm trọng – ông ta còn có thể đến đâu. Tôi thông tin cho các vị.

      Ông ngừng lời, đưa mắt chăm chăm nhìn lên cây thánh giá mà chất liệu ngà bị vấy bẩn vì thứ máu dường như đông cứng lại sau nhiều thế kỷ. Vấn đề tiếp theo khó khăn hơn, phải dẫn dắt cách ổn thỏa. cho cùng, mỗi đạo hữu đều mong chờ Hội áp dụng các quy chế của mình.

      Ngay cả khi những quy chế này dẫn đến cái chết của người trong số họ.

      – Mỗi chúng ta đều biết tất cả, hoặc hầu như tất cả mọi điều về người em ngồi bên cạnh mình lúc này. Nên chính tôi là người phải đảm nhận nhiệm vụ khủng khiếp là bảo vệ bản chất của Hội chúng ta, khi điều đó trở nên cần thiết.

      Hội trưởng Hội Thánh Pie V là chức vụ trọn đời. Khi cảm thấy mình cận kề cái chết, hội trưởng chỉ định trong số các hội viên người kế vị mình – và đến lượt mình, người này (và chỉ mình người đó) phải biết nhân thân của mười bạn đồng hành, cũng như được tất cả những người này nhận biết. Phần lớn các hội trưởng từ năm 1570 đều có thiện chí là chết trước khi trở nên vô hiệu. Đôi khi cũng phải hỗ trợ chút đối với những người gắn bó với cuộc sống nhiều hơn là với Thầy. Mười thành viên của Hội thực việc kiểm tra chặt chẽ đối với mức độ hiệu quả của hội trưởng. Có hẳn quy định cho trường hợp này – và chính quy định này được áp dụng nhưng lần này là để chống lại hội viên.

      trong số chúng ta, buồn vì tôi phải điều này ở đây, mới đây vừa thể bất lực của mình trong việc tuân thủ quy định chính của chúng ta, đó là bảo mật hoàn toàn. Hẳn là tuổi cao khiến người đó giảm năng lực tư duy.

      trong những người tham dự bắt đầu run, làm ống tay áo bị trượt , để lộ đôi bàn tay gầy guộc nổi đầy gân.

      – Làm ơn che mình , đạo hữu! – Tốt, các vị biết quy trình áp dụng đối với kẻ mắc lỗi. Tôi báo cho các vị hay, để các vị có thể bắt đầu ngay từ tối nay giai đoạn nhịn ăn, cầu nguyện và hình phạt nghiêm khắc, là những điều luôn gắn liền với việc chấm dứt vĩnh viễn sứ mệnh của đạo hữu. Chúng ta phải giúp đạo hữu này chuẩn bị, cùng người đó con đường từ nay trở là của người đó. Nhịn ăn hoàn toàn trong ngày trước ngày diễn ra cuộc họp sắp tới, tự phạt bằng roi kim loại sáng và tối, mỗi ngày trong khoảng thời gian bài kinh Miserere – hoặc nhiều hơn nếu các vị mong muốn. Chúng ta kể hết nổi tình cảm trìu mến dành cho người em cùng chia sẻ trách nhiệm với chúng ta từ bao lâu nay mà chúng ta sắp phải chia tay.

      Calfo thích phải áp dụng quy định này với trong số Mười hai thành viên của Hội. Ông nhìn chăm chăm vào cây thánh giá: từ khi làm chủ tọa các cuộc họp của Hội, Thầy thấy và nghe biết bao vụ khác.

      – Cảm ơn các vị. Chúng ta có thời gian đến tận cuộc họp tiếp theo để bí mật chứng tỏ với người em chúng ta sức mạnh tình chúng ta dành cho người đó.

      Các hội viên đứng dậy và tiến về phía cánh cửa ra vào bọc sắt ở phía cuối phòng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      13.

      Kinh Phúc theo Matthieu và Jean

      Ánh mặt trời mới mọc của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua ve vuốt mái che hứng nước mưa [[8]]. Ngồi gờ bồn phun nước trung tâm, kiệt quệ sau hai ngày chứng kiến biết bao hy vọng tiêu tan, người đàn ông vùng Judee thở dài: ông phải lên thôi. Mười tông đồ nấp phòng lớn, như bầy cừu sợ sệt. Jesus bị giao cho Pilate và bị đóng đinh câu rút vào trưa hôm qua… chỉ là thua cuộc , mà là thất bại thảm hại.

      Cuối cùng ông cũng quyết định, chậm chạp leo lên những bậc cầu thang dẫn lên tầng và đẩy cánh cửa mà Judas bước qua trước mắt ông vào tối thứ Năm. Chỉ có mẩu nến cháy trong căn phòng rộng. Ông nhận ra những bóng người ngồi rải rác nền đất. ai gì. Những người Galilee khiếp sợ và lẩn trốn: đây là tất cả những gì còn lại của đất nước Israel thời kỳ mới.

      bóng người tách ra khỏi bức tường và tiến về phía ông.

      – Thế nào?

      Peter ngạo ngễ nhìn ông.

      bao giờ chấp nhận thất bại, bao giờ chấp nhận là kẻ chịu ơn mình khi phải nấp trong nhà mình như thế này, cũng như chưa bao giờ chấp nhận mối quan hệ ưu ái mà mình có với Jesus.”

      Pilate cho phép hạ thi thể Jesus khỏi giá chữ thập tối qua. Vì quá muộn để làm các nghi lễ cho Người, nên người ta đặt tạm Người trong ngôi mộ gần đó, thuộc sở hữu của Joseph vùng Arimathie, người có cảm tình với Người.

      – Ai mang thi thể Người ?

      – Nicodème đỡ phía đầu, Joseph đỡ chân. Và vài phụ nữ đóng vai người than khóc, là nhữn người quen việc mà chúng tôi biết , Marie de Magdala và các bạn của ta.

      Peter cắn môi dưới và đấm nắm tay vào lòng bàn tay trái.

      là xấu hổ, là… là sa sút! Việc bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng đối với người chết bao giờ cũng phải do các thành viên trong gia đình người đó thực ! Thế mà cả Marie, cả em trai Người là Jacques đều có ở đó… chỉ có những người có cảm tình với Người! Thầy thực chết như con chó.

      Người đàn ông vùng Judee nhìn ông với vẻ mỉa mai.

      – Có phải là lỗi của bà Marie mẹ Người, của Jacques và ba người em khác của Người, và của các chị em Người , khi mà những việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của các diễn ra trong vòng bí mật nhất? Có phải là lỗi của họ khi mọi thứ đều bị đổ vỡ trong vòng vài giờ, cách bi thảm và bất ngờ? Có phải là lỗi của họ khi Caiphe dối, khi Jesus bị dẫn đến nhà Pilate sáng hôm qua? Khi Người bị đóng đinh câu rút ngay tức khắc, qua xử án? Đó là lỗi của ai?

      Peter cúi đầu. Chính ông giao du với đám bạn cũ là những người Do Thái nước cuồng nhiệt, chính ông thuyết phục Judas chấp nhận vai trò bẩn thỉu của mình, tóm lại chính ông là người phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện. Ông biết vậy, nhưng thể thừa nhận như thế được. thể thừa nhận trước mặt gã này, kẻ tiếm quyền, kẻ tiếp tục cách hùng hồn:

      ở đâu khi bọn chúng đặt Jesus nằm lên xà gỗ, khi chúng đóng đinh vào cổ tay Người? Trưa hôm qua tôi ở đó, náu mình trong đám đông. Tôi nghe những tiếng nện búa khủng khiếp, tôi nhìn thấy máu và nước chảy ra từ thân thể Người khi tên lính kết liễu Người bằng nhát giáo. Tôi là người duy nhất ở đây có thể làm chứng rằng Jesus xứ Nazareth chết như người đàn ông, lời than thở, lời trách móc đối với chúng ta, những kẻ khiến Người rơi vào cái bẫy đó. Khi đó, tất cả các ở đâu?

      Peter gì. Caiphe phản bội, Jesus bị giao cho người La Mã, những kiện bất ngờ này khiến mọi việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy biến thành con số . Cũng như những người khác, vào lúc Thầy hấp hối, ông trốn đâu đó trong khu phố thấp. Càng xa đám lính La Mã, càng xa cửa phía Tây của thành Jerusalem và các giá chữ thập của nó càng tốt. Đúng vậy, ông ta là người duy nhất có mặt, là người duy nhất nhìn thấy, từ nay trở chỉ có mình ông ta là có thể làm chứng cho cái chết của Jesus, về lòng dũng cảm và phẩm cách của Người. Từ giờ trở , ông ta tỏ ra là kẻ thắng thế, lên mặt sừng sộ, đồ bịp bợm!

      Ông phải lấy lại thế chủ động của mình. Người chỉ huy ở đây chính là ông. Ông kéo người đối thoại với mình đến bên cửa sổ.

      – Lại đây, chúng ta cần chuyện.

      Peter quan sát bóng đêm lát. Mọi thứ ở Jerusalem đều đen tối, cả bầu trời cũng vậy. Ông quay lại, cắt ngang bầu khí im lặng nặng nề:

      – Có hai vấn đề khẩn cấp. Đầu tiên là thi thể của Jesus: ai trong chúng ta có thể chấp nhận việc Người bị vứt vào hố chôn chung, như tất cả những kẻ bị kết án tử hình khác. Làm như vậy là xúc phạm đến danh tiếng của Người.

      Người đàn ông vùng Judee đưa mắt nhìn những bóng người rệt, lả dọc những bức tường của căn phòng lớn. Đương nhiên, người nào trong số họ có thể mang lại cho người bị tử hình mộ phần tử tế. Joseph vùng Arimathie hẳn chấp nhận để thi thể Jesus được an táng lâu dài trong hầm mộ của gia đình mình. Phải tìm chỗ khác.

      – Có thể có cách giải quyết… Người Esseni vẫn luôn coi Jesus là người trong số họ – mặc dù Người chưa bao giờ chấp nhận là thành viên trong giáo phái của họ. Tôi tham gia cộng đồng phi tôn giáo của họ trong thời gian dài: tôi hiểu họ rất . Chắc chắn họ chấp nhận để thi thể Người yên nghỉ tại nghĩa địa của họ trong sa mạc.

      có thể liên hệ ngay với họ ?

      – Eliézer ở rất gần đây, tôi thu xếp việc này. Thế còn vấn đề thứ hai?

      Peter nhìn sâu vào mắt người đối thoại: lúc này mặt trăng ra khỏi đám mây, và càng làm nổi bật những đường nét thô ráp mặt người ấy. Trở lại là người Do Thái nước cuồng nhiệt, ông trả lời bằng giọng nghiệt ngã:

      – Vấn đề khác là Judas. Và tôi chịu trách nhiệm về ta.

      – Judas?

      có biết rằng sáng nay ta đến Đền thờ và gây ra vụ ầm ĩ ? có biết rằng ta tố cáo Giáo chủ là kẻ phản bội, và lấy Chúa trời ra làm nhân chứng giữa Caiphe và ta, trước mặt đám đông ? Theo mê tín của người Do Thái, giờ đây trong hai người chết trong tay Chúa. Caiphe biết điều đó, và cho bắt giữ ta: thế ta ra. và tôi, nhất là tôi, bị vạch mặt. Đối với các Giáo chủ điều đó quan trọng. Nhưng hãy nghĩ đến những người ủng hộ chúng ta, nếu họ biết được rằng vì chúng ta mà Jesus bị bắt – mặc dù chúng ta có ý định nào khác ngoài việc bảo đảm an toàn cho Người – tương lai chấm hết. hiểu chứ?

      Kinh ngạc, người đàn ông vùng Judee nhìn chòng chọc vào mặt người đàn ông vùng Galilee: “Tương lai nào, hỡi kẻ thoát nạn khốn khổ, sau cuộc phiêu lưu thất bại? Còn có tương lai nào khác ngoài việc quay về với những tấm lưới đánh cá của ngươi, thứ mà lẽ ra ngươi bao giờ nên rời bỏ?”

      Ông gì. Peter cúi đầu, gương mặt lại chìm vào bóng tối.

      ta rối trí, trở thành kẻ nguy hiểm. Cần phải làm gì đó để tránh mối nguy hiểm này. Đừng bận tâm đến điều đó nữa. Tôi chịu trách nhiệm về Judas.

      Và theo bản năng, bàn tay trái ông lướt qua đùi trái nơi có đeo thanh kiếm ngắn sica.


      14.

      Văn tự của các Tông đồ

      Để mặc người đàn ông vùng Judee còn sững sờ, Peter rời khỏi phòng, qua hành lang có mái che và lẻn ra ngoài. Trong buổi bình minh lờ mờ của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua này, chắc là đường phố vắng vẻ: ông biết tìm Judas ở đâu.

      Ông luồn lách trong khu phố thấp. loạt những con phố quanh co rắc rối, càng ngày càng hẹp, phố nào lát đá: cát lạo xạo dưới dép ông.

      Ông gõ vào cánh cửa.

      Gương mặt khiếp sợ của phụ nữ che mạng ra ở ngưỡng cửa.

      – Peter! Nhưng… vào giờ này ư?

      – Ta đến phải để tìm , . Ta tìm Iscariote. ta có ở đây ?

      để ông đứng ngoài, và hạ giọng:

      – Có, ấy đến đây lúc đêm, hốt hoảng. Thực tình, ấy dường như còn là mình nữa… ấy cầu xin tôi che giấu ấy đến hết dịp lễ này. ấy công khai tố cáo Giáo chủ Caiphe là kẻ phản bội, và xin Chúa làm nhân chứng: bây giờ trong hai người phải chết.

      tin tất cả những điều đó, đúng ?

      – Tôi cũng là học trò của Jesus như ông. Người giải phóng chúng ta khỏi tất cả những chuyện hoang đường nhằm chế ngự nhân dân đó.

      Peter mỉm cười với :

      – Vậy có gì phải sợ cả, tôi đến đây là để trấn an Judas. Chúa rất công bằng, Người hiểu ngay thẳng trong tâm hồn ta. Judas sai lầm khi lấy Người làm nhân chứng giữa mình và Giáo chủ. Hãy bảo ta ra đây, tôi có chuyện muốn với ta.

      Người đàn bà ngập ngừng, nhìn Peter và đóng cửa lại trước mặt ông.

      Vị tông đồ bước vài bước: ba căn nhà thấp tạo thành cái ngõ cụt, tất cả các cửa chớp bên ngoài đều đóng kín. Jerusalem vẫn còn ngủ, sau đêm thức giấc cầu kinh Seder cho lễ Thiên Di.

      tiếng động làm ông rùng mình quay lại. Judas đứng trước mặt ông.

      – Peter! Shalom!

      Trông rất nhợt nhạt, đôi mắt thâm quầng và mái tóc rối bù khiến có vẻ nhớn nhác. lo lắng nhìn chòng chọc vào mặt Peter, người trả lời câu chào của mà chỉ gật đầu. Judas liền trước.

      – Giá mà biết được… Chúng ta bị phản bội, Peter ạ, bị chính Giáo chủ phản bội. thề rằng sinh mạng của Jesus được bảo vệ. Thế mà mờ sáng hôm qua tôi nhìn thấy Thầy bị dẫn đến nhà Pilate, bị trói. Thế là…

      – Thế là mày trở nên điên rồ! Giọng Peter sắc lạnh.

      – Thế là tôi muốn nhắc cho Caiphe nhớ thỏa thuận giữa chúng tôi. Và tôi nhờ Chúa trời làm nhân chứng giữa tôi với .

      – Mày có biết điều đó nghĩa là gì, theo niềm tin vô lý của chúng mày ?

      Judas cúi đầu, căng thẳng vặn hai tay vào nhau.

      – Mọi lời thề đều gắn với Thượng đế. Caiphe thề trước mặt tôi, trao cho tôi khoản coi như tiền cược cho lời hứa của , thế mà Jesus vẫn chết như kẻ xấu xa! Ồ, đúng, chỉ có Thượng đế mới có thể phán xét điều bỉ ổi như vậy.

      – Chẳng phải Jesus vẫn nhắc nhắc lại với chúng ta là nên thề trước bàn thờ Chúa, vì làm thế là sỉ nhục Người đó sao?

      Judas lắc đầu.

      – Chúa phán xét, người em ạ, Chúa phải phán xét bỉ ổi của những kẻ…

      “Các Giáo chủ biến chúng ta thành thế này đây, Peter nghĩ, nô lệ của những đức tin vô lý. Trước hết phải giải phóng Israel khỏi điều đó và nếu phải với Jesus, có Người. Nhưng Judas hoàn toàn hỏng mất rồi. Quá muộn cho ta.”

      – Và thế nào nữa, Judas?

      – Thế là mọi chuyện kết thúc. Chúng ta chỉ còn cách quay về Galilee, để chuộc lại cái chết của Thầy chừng nào chúng ta còn sống. Tất cả kết thúc rồi, Peter ạ!

      Vị tông đồ bước bước về phía Judas, người nhìn ông tiến lên với vẻ ngờ vực. Để trấn an, Peter mỉm cười với – người này là nạn nhân của chính quyền Do Thái, hãy để ta được chết yên ổn! Rồi ông rút thanh sica ra, và bằng động tác mau lẹ, như trước đây ông từng học từ những người Do Thái nước cuồng nhiệt, đâm vào bụng dưới Judas. Mặt nhăn lại vì khó chịu, ông kéo lưỡi kiếm lên cho đến khi cảm thấy va phải xương ức.

      – Chúa phán xét, Judas ạ, ông thào vào mặt . Chúa luôn luôn phán xét. Caiphe tiếp tục sống, vì bất hạnh của Israel.

      Mắt mở to hoảng sợ, Judas đổ gục về phía trước tiếng kêu, bụng mở phanh, ruột xổ tung cát.

      Peter chậm rãi lùi lại và xem xét ngõ cụt: có gì động đậy, hẳn là có nhân chứng nào. Ông chậm rãi lau thanh kiếm ngắn vào mặt trong áo lót. Rồi ngước mắt lên. Vầng mặt trời vui vẻ của Lễ Vượt qua vừa chiếu sáng vùng đất Israel, nhắc ông nhớ đến khi thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, và lần lượt vượt qua sóng nước biển Đỏ cách thần kỳ.

      Ngày hôm đó, dân tộc ra đời, Dân tộc của Chúa. Sau đó, mười hai bộ lạc sống du cư trong sa mạc trước khi đến định cư ở Canaan: đất nước Israel cổ xưa, đất nước ở vào thời kỳ tàn lụi. nước Israel Mới phải được khai sinh, và lần này do mười hai tông đồ dẫn dắt. Họ chỉ còn lại có mười người? Chính Chúa trời chỉ ra người thay thế Judas.

      Nhưng bao giờ gã người vùng Judee kia, kẻ tự xưng là môn đồ cưng, có thể trở thành trong số Mười hai tông đồ.

      bao giờ.

      Peter bước qua xác Judas. Khi phát ra , tất cả mọi người nghĩ đến vụ thanh toán nợ nần giữa những người Do Thái nước cuồng nhiệt với nhau: mổ bụng kẻ thù là cách ký tên quen thuộc của họ. Ông đưa mắt nhìn cái xác lần cuối:

      “Từ nay trở , ta là tảng đá đó Giáo hội được dựng lên, và cái chết còn khả năng chống lại chúng ta. Tất cả chưa phải là kết thúc, Judas ạ.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      15.

      Hai ngày trôi qua từ sau cái chết của cha Andrei. Cha Nil ngắm nghía bàn làm việc chất đầy giấy tờ, kết quả của nhiều năm nghiên cứu. Ông nghĩ làm sáng tỏ những tình tiết thực về cái chết của Judas: tất cả đều liên kết với nhau trong vòng vài ngày trước ngày Jesus bị đóng đinh câu rút. Sau đó Judas bị giết, ông ta treo cổ tự tử. Các kiện diễn ra tiếp theo chỉ có thể được giải thích bằng cách lục lọi trong các văn tự để nắm bắt chỉ điều được ra trong đó, mà là những điều phải ngầm hiểu ra từ đó. Lịch sử phải là môn khoa học chính xác: của nó bắt nguồn từ việc đối chiếu các dấu hiệu tích lũy được.

      Giờ đây, ông phải áp dụng đúng phương pháp này với vuông giấy bí phát được trong bàn tay người bạn khuất. Để làm được điều đó, ông phải tiếp cận được thư viện lịch sử. Thủ thư mới của tu viện chỉ được bầu ra sau lễ tang, dự kiến diễn ra vào ngày mai.

      Ông nhắm mắt lại, để mình chìm vào quá khứ.

      – Cha Nil, tôi vừa được biết rằng trong khi trùng tu lại nhà thờ Germigny, công nhân phát ra bản khắc cổ. Tôi muốn được nhìn thấy bản khắc đó, cha có cùng tôi được ? Tôi phải chụp ảnh các bản thảo viết tay ở Orléans, đường đến đó có qua vùng Germigny-des-Prés…

      Họ đậu xe tại quảng trường của ngôi làng . Cha Nil thích thú được đến lại nhà thờ này: kiến trúc sư của vua Charlemagne muốn dựng mô hình thu của thánh đường Aix-la-Chapelle, được xây dựng vào khoảng năm 800. Những cửa kính ghép màu quý giá bằng alêbát mang lại cho bên trong nhà thờ bầu khí thân mật và tĩnh tâm.

      Họ bước vào cửa chính điện.

      – Cha xem, dường như bí vẫn bao trùm nơi đây!

      Tiếng thầm của cha Andrei lẫn trong tiếng búa đập vào bức tường phía cuối chính điện: để hạ những tấm kính ghép màu xuống, công nhân phải phá bỏ những phần vữa bao quanh. Giữa hai chỗ mở, ngay trong phần kéo dài của gian giữa, có thể thấy cái hố há hốc miệng trong vùng tranh tối tranh sáng. Chan Andrei tiến lại gần.

      – Xin lỗi các ông, tôi muốn xem qua phiến đá mà hình như các ông tìm thấy trong khi tiến hành công việc.

      – À, phiến đá à? Đúng vậy, chúng tôi thấy cái đó dưới lớp vữa. Chúng tôi lấy nó ra khỏi bức tường và đặt trong gian cánh trái.

      – Chúng tôi có thể xem được ?

      vấn đề gì, các cha là những người đầu tiên quan tâm đến phiến đá ấy đấy.

      Hai thầy tu vài bước và nhận ra nền đất phiến đá vuông, rìa vẫn còn dấu vết của lớp vữa gắn. Cha Andrei cúi người, rồi quỳ chân xuống đất.

      – A… ràng là ngay từ đầu người ta gắn nó lên tường bằng vữa. Được gắn lên tường ở vị trí như vậy, phiến đá này nằm ngay trong tầm mắt của các tín đồ. Thế nghĩa là nó có tầm quan trọng đặc biệt… Sau đó, cha nhìn xem, người ta che phủ nó bằng lớp vữa có vẻ mới hơn.

      Cha Nil cũng chia sẻ tâm trạng hưng phấn của bạn mình. Những người như hai ông bao giờ đề cập đến Lịch sử như thời đại trôi qua: quá khứ chính là tại của họ. Đúng lúc này, họ nghe thấy giọng vượt qua nhiều thế kỷ: giọng của vị hoàng đế ra lệnh khắc chữ lên phiến đá này, và muốn rằng nó được gắn lên vị trí dễ nhận thấy như vậy.

      Cha Andrei rút khăn mùi soa và nhàng lau mặt phiến đá.

      – Lớp vữa này cùng loại với vữa ở các nhà thờ La Mã. Như vậy, phiến đá này bị che phủ khoảng hai đến ba thế kỷ sau khi được gắn ở đây. ngày nào đó, người ta nhận thấy cần che giấu bản khắc này khỏi con mắt của công chúng. Nhưng ai có lợi trong việc che giấu này?

      Những ký tự ra dưới lớp vữa bị phủi .

      – Chữ viết dưới thời Carolingien. Nhưng… chính là văn tự về Tín điều Nicée!

      – Văn tự Tín điều Credo?

      – Chính thế. Tôi tự hỏi tại sao người ta lại muốn nó được đặt cách công khai, trong tầm mắt tất cả mọi người, trong nhà thờ hoàng tộc này. Nhất là, tôi tự hỏi…

      Cha Andrei quỳ lúc lâu trước bản khắc, sau đó đứng lên, phủi bụi và đặt tay lên vai cha Nil.

      – Bạn của tôi, trong bản sao lại Tín điều Nicée này có điều gì đó mà tôi hiểu: tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.

      Họ nhanh chóng chụp bức ảnh bề mặt phiến đá, và ra khi công nhân đóng cửa công trường để nghỉ trưa.

      Cha Andrei lặng im cho đến tận Orléans. Khi cha Nil chuẩn bị máy ảnh cho buổi làm việc, ông ngăn lại:

      , đừng dùng cuộn phim này, đây là cuộn phim chụp phiến đá. Cha hãy để riêng nó ra, và dùng cuộn phim khác để chụp các bản thảo này.

      Chặng đường về buồn tẻ. Trước khi ra khỏi xe, cha Andrei quay sang cha Nil. Ông có vẻ đặc biệt nghiêm trang.

      – Chúng ta in phim chụp ở Germingny ra thành hai bản. Tôi lấy bản, và fax ngay cho người làm việc ở Thư viện Vatican mà tôi có liên hệ: tôi muốn biết ý kiến của ông ấy, rất ít người có thể hiểu được những nét đặc thù của các bản khắc vào đầu thời kỳ Trung cổ. Bản thứ hai… cha hãy giữ gìn nó cẩn thận trong phòng của cha. Chẳng ai biết chuyện gì xảy ra.

      Mười lăm ngày sau, cha Andrei gọi cha Nil vào văn phòng mình. Ông có vẻ lo lắng:

      – Tôi vừa nhận được lá thư từ Vatican: họ triệu tập tôi đến đó để báo cáo về việc dịch bản thảo tiếng Ai Cập cổ mà tôi với cha. Tại sao họ lại cầu tôi chuyến này? Cùng với lá thư, còn có lời nhắn của người làm ở Vatican, với tôi rằng ông ấy nhận được bức ảnh chụp phiến đá Germigny. bình luận gì thêm.

      Cha Nil cũng ngạc nhiên kém gì bạn mình:

      – Khi nào cha ?

      – Sáng nay, Cha tu viện trưởng đến đưa cho tôi chuyến tàu Roma Express ngày mai. Cha Nil… xin cha, trong khi tôi vắng, cha hãy quay lại Germigny. Bức ảnh mà chúng ta chụp được , cha hãy chụp bức khác ở góc ánh sáng chiếu là là.

      – Cha Andrei, có thể cho tôi biết cha nghĩ đến điều gì ?

      – Hôm nay, tôi với cha nhiều hơn được. Hãy tìm cớ nào đó để ra ngoài, và nhanh chóng chụp bức ảnh ấy. Chúng ta cùng xem xét khi tôi trở về.

      Ngày hôm sau, cha Andrei lên đường Roma.

      bao giờ trở về tu viện nữa.

      Cha Nil mở mắt ra. Ngay khi có thể, ông thực ước nguyện cuối cùng của bạn mình. Nhưng có ông ấy phim mới chụp bản khắc dùng làm gì?

      Tiếng chuông sầu thảm bắt đầu vang lên liên hồi, thông báo cho toàn thể thung lũng biết rằng ngày mai, tu sĩ được trang trọng đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cha Nil hé mở ngăn kéo bàn và lùa tay xuống dưới chồng thư.

      Tim ông bắt đầu đập mạnh. Ông kéo hẳn ngăn bàn ra: bức ảnh chụp ở Germigny biến mất, cả mảnh giấy của cha Andrei cũng vậy.

      thể! thể thế được!”

      Ông rải hết những thứ đựng trong ngăn kéo lên bàn: tác dụng gì, cả bức ảnh và mảnh giấy đều thấy.

      Các tu sĩ đều nguyện sống trong cảnh nghèo khổ: vậy nên họ tuyệt đối sở hữu thứ gì, được khóa kín bất cứ thứ gì, và phòng nào trong tu viện có ổ khóa. Trừ các văn phòng của thủ quỹ, văn phòng của Cha tu viện trưởng – và ba thư viện, nơi mà chìa khóa được phân phát với dè sẻn ta biết.

      Nhưng phòng của tu sĩ là nơi độc của người đó bị xâm phạm: ai được vào phòng khi chủ nhân vắng mặt, hoặc được chủ nhân chính thức cho phép. Trừ Cha tu viện trưởng, người ngay khi được bầu lên thề danh dự là tôn trọng quy định thể xâm phạm này, là điều bảo đảm cho lựa chọn của các tu sĩ: sống trong cộng đồng nhưng độc trước Chúa.

      chỉ xâm phạm nơi riêng tư của cha Nil, mà người ta còn lục lọi và lấy cắp. Ông liếc nhìn những tập hồ sơ nằm rải rác, lộn xộn bàn. Đúng, người ta bằng lòng với việc chỉ lục lọi trong ngăn bàn: tập dày nhất trong số các hồ sơ của ông, kinh Phúc theo Thánh Jean, còn ở vị trí quen thuộc. Nó bị xê dịch đôi chút, và mở ra. Cha Nil, người dùng nó hằng ngày từ khi bắt đầu khóa học, nhận ra ngay rằng số ghi chép của ông còn ở đúng vị trí mà ông sắp xếp theo logic của riêng mình. Thậm chí hình như số tờ biến mất.

      nguyên tắc trong cuộc sống của tu viện dòng Benedict vừa bị xâm phạm, ông có bằng chứng hiển nhiên. Điều này hẳn phải do nguyên cớ vô cùng nghiêm trọng. Ông lờ mờ cảm thấy có mối liên hệ giữa những kiến bất thường xảy ra thời gian vừa qua, nhưng đó là gì?

      Ông chống lại mong muốn của gia đình theo đạo của ông để trở thành tu sĩ, ông nhớ lại hình ảnh mình khi còn là chàng thanh niên tập tu. … ông mang cả cuộc đời mình để tìm nó. Có hai người hiểu ông: Rembert Leeland, bạn đồng môn của ông trong bốn năm học ở Roma, và cha Andrei. Leeland làm việc ở đâu đó tại Vatican, cha Nil thấy mình đơn độc với những vấn đề mà ông đủ khả năng giải quyết, và nỗi lo sợ thầm vẫn rời bỏ ông từ cuối mùa hè.

      Ông đưa tay vuốt lên tập hồ sơ dày về kinh Phúc theo Thánh Jean: tất cả là ở đây. ra, cha Andrei ngừng khiến ông hiểu ra điều đó, mặc dù vẫn từ chối hết mọi chuyện với ông hoặc cho phép ông tiếp cận thư viện cánh Bắc. Ông ấy thể làm khác được: phải phục tùng. Nhưng cha Andrei chết, có thể là do phục tùng của ông ấy. Và căn phòng của chính ông bị lục lọi, xâm phạm đến những quy định bất di bất dịch của tu viện.

      Phải làm điều gì đó.

      Vẫn còn giờ trước kinh chiều tối. Ông đứng dậy, ra hành lang, và cả quyết bước về phía cầu thang dẫn đến các thư viện.

      Nhờ có trí nhớ hình ảnh tốt, ông ghi nhận những chi tiết nhất mảnh giấy của cha Andrei. Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc) chắc chắn là bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ. Bức thư của Tông đồ, sau đó là ba ký tự bí M M M, và phiến đá Germigny. Sợi dây liên kết tất cả các yếu tố bí này còn nằm im đâu đó, trong những cuốn sách của thư viện.

      Ông đến trước văn phòng của cha Andrei, nằm ngay bên thư viện Khoa học về Kinh Thánh. Cách đó mười mét là góc cánh Bắc và lối vào thư viện Khoa học lịch sử.

      Cánh cửa văn phòng thủ thư cũng có ổ khóa giống như bất cứ phòng nào khác trong tu viện. Ông bước vào, bật đèn, thả mình xuống chiếc ghế mà ông ngồi trong biết bao giờ phút hạnh phúc để trò chuyện với bạn mình. có gì thay đổi. tường, những bộ ván giá chất đầy sách dán nhãn mới tinh: những cuốn mới được mang đến, chờ được sắp xếp vĩnh viễn vào trong ba thư viện. Bên dưới là cái tủ bằng kim loại nơi cha Andrei xếp bản sao của các bản thảo viết tay ông nghiên cứu. Bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ hẳn nằm đâu đó trong tủ. Liệu có nên bắt đầu từ đó ?

      Bỗng ông giật mình. giá sách, nhiều cuộn phim để lộn xộn: bản của những bản thảo viết tay… Trong số đó, ở hàng đầu tiên, ông nhận ra ngay cuộn phim ông dùng để chụp phiến đá Germigny. Cha Andrei để nó ở đó, nghĩ đến nữa, trước khi Roma.

      Người ta vừa đánh cắp bức ảnh của ông, nhưng nghĩ đến phim bản, hoặc chưa có thời gian để khám xét văn phòng của viên thủ thư. ngần ngại, cha Nil đứng dậy, lấy cuốn phim giá và bỏ vào túi. Những ước nguyện cuối cùng của người quá cố là thiêng liêng…

      Ngay trước mặt ông, lưng ghế phô tơi, ông nhận ra áo vest và chiếc quần tu sĩ mà cha Andrei mặc lúc chết. Ngày mai, ông ấy được chôn cất trong lễ phục thầy tu: bao giờ có ai mặc đến bộ quần áo này nữa, chúng trở nên vô ích cho việc điều tra. Mắt cha Nil bị làn nước làm nhòa , rồi ý nghĩ điên rồ bỗng lướt qua đầu ông. Ông cầm lấy chiếc quần, thọc tay vào túi bên trái: ngón tay ông nắm vào vật bằng da. Ông vội rút nó ra khỏi túi: túi đựng chìa khóa! ngần ngại, ông mở khuy bấm.

      Ba chiếc chìa khóa. Chiếc dài nhất hoàn toàn giống với cái của ông, là chìa khóa thư viện cánh giữa: hai cái còn lại hẳn là chìa khóa cánh phía Bắc và cánh phía Nam. Chùm chìa khóa đặc biệt, chùm chìa khóa mà chỉ thủ thư và Cha tu viện trưởng mới có. Rối trí vì những kiện bi thảm xảy đến với tu viện của mình, Cha tu viện trưởng chưa kịp nghĩ đến việc lấy lại chùm chìa khóa này – chùm chìa khóa mà ông ấy trao lại cho người kế vị cha Andrei sau khi lựa chọn được ứng cử viên để bầu vào chức vụ tế nhị này.

      Cha Nil lưỡng lự lát. Rồi ông thấy lại khuôn mặt của bạn mình, ngồi đối diện với ông chiếc ghế phô tơi. “ , cha Nil ạ, chính là để biết được mà cha vào tu viện này!” Ông bỏ chùm chìa khóa vào túi, vượt qua mấy mét hành lang ngăn cách ông với cánh phía Bắc và thư viện của ông.

      Khoa học lịch sử: nếu bước qua cánh cửa này, ông trở thành kẻ phản nghịch.

      Ông quay lại nhìn phía sau lưng: hành lang của cánh giữa và cánh phía Bắc vắng hoe.

      Ông cả quyết tra trong hai chiế chìa khóa vào ổ khóa: ổ khóa xoay tròn tiếng động.

      Cha Nil, giảng viên hiền hậu phụ trách môn chú giải Kinh Thánh, tu sĩ mẫu mực chưa bao giờ vi phạm quy định nào của tu viện, dù là nhất, mở cửa và bước lên trước bước: vào trong thư viện phía Bắc này là ông bước vào thế chống đối.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :