1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

A Mạch tòng quân - Tiên Chanh (153c + PN)

Thảo luận trong 'Cổ Đại'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. mouse

      mouse Active Member

      Bài viết:
      560
      Được thích:
      240
      Chương 101

      SÁT KHÍ





      Người nọ khẽ giật mình, A Mạch đưa tay ra trước mặt ta : “Lấy ra đây.”



      Thường Ngọc Thanh yên lặng nhìn A Mạch rồi xoay người bước . Trong lòng A Mạch thấy lạ, liền bước nhanh hai bước chặn Thường Ngọc Thanh lại, : “Ta giữ lời thả ngươi rồi, ngươi phải đem chủy thủ trả lại cho ta.”



      Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng thân quân phục Nam Hạ cao gầy, mày cao mắt sáng, khí hiển , hai má so với lần gặp trước đầy lên ít, hiển nhiên hai tháng vừa rồi đầy đặn lên nhiều. biết vì sao trong lòng ta đột nhiên lại dâng lên cảm giác buồn bã, nhưng mặt lại nở nụ cười, hỏi: “Chủy thủ nào? Ngươi giữ lời hứa gì với ta?”



      Lời này vừa ra, A Mạch khỏi giật mình, lập tức nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Ngươi có ý gì?”



      Thường Ngọc Thanh thoải mái cười, hỏi lại: “Mạch tướng quân, ngươi cũng có ý gì?”



      A Mạch chưa từng nghĩ rằng Thường Ngọc Thanh vô lại như thế, nhất thời cũng biết phải phản ứng như thế nào, chỉ gay gắt nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, môi mím chặt, im lặng .



      Thường Ngọc Thanh cũng nhìn nàng lúc lâu, khẽ mỉm cười rồi bước qua A Mạch. A Mạch đâu thể để ta cứ thế mà rời như vậy, song lại sợ giữa phố xá sầm uất, nếu để người khác nhận ra thân phận của hai người tất rước lấy phiền toái lớn, vì vậy khi thấy Thường Ngọc Thanh bỏ cũng dám tiếp tục ngăn cản, chỉ len lén theo phía sau, đến khi Thường Ngọc Thanh vào ngõ vắng lặng, lúc này A Mạch mới dám lên tiếng gọi ta, nhưng cũng dám kêu tên mà chỉ gọi: “Ngươi đứng lại!”



      Thường Ngọc Thanh tất nhiên biết A Mạch luôn luôn theo sau mình, nghe nàng quát lớn như vậy cũng chịu dừng lại, mà lại càng bước nhanh hơn. A Mạch thấy ta như thế, cũng chạy theo, vội vàng nắm lấy bả vai của Thường Ngọc Thanh.



      Thường Ngọc Thanh dừng lại, nghiêng đầu liếc mắt nhìn bàn tay nàng đặt vai mình, nhếch miệng mỉm cười, quay đầu hỏi A Mạch: “Ngươi muốn động thủ với ta?”



      Tất nhiên A Mạch biết nàng phải là đối thủ của Thường Ngọc Thanh, nhưng giờ phút này lại nghĩ nhiều như vậy, chỉ tức giận : “Đó là di vật của cha ta, ngươi phải trả lại cho ta!”



      Thường Ngọc Thanh quay người lại, cười hỏi: “À, là vật mà ngươi từng sử dụng khi ở Thúy Sơn phải ?”



      A Mạch biết Thường Ngọc Thanh vì sao lại diễn trò như thế, liền buông tay ra, nhíu mày nhìn ta.



      Thường Ngọc Thanh nheo mắt, cười với A Mạch: “Ta nhớ khi ấy ngươi từng rằng thanh chủy thủ đó đối với ngươi rất quan trọng, trừ phi ngươi chết mới để cho người khác lấy nó từ người của ngươi. tại ta thấy Mạch tướng quân rất khỏe mạnh, thanh chủy thủ kia sao lại để cho người khác cầm vậy? biết lời Mạch tướng quân câu nào mới là , câu nào là giả đây?”



      Trong lòng A Mạch kỳ tức giận đến cực điểm, nhưng vẫn cố gắng kiềm chế lửa giận hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ngươi rốt cuộc muốn thế nào?”



      Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch, chỉ cười lắc lắc đầu, đáp: “ muốn thế nào cả, chỉ muốn Mạch tướng quân tìm ta đòi chủy thủ chính là tìm sai người rồi, ta chẳng có chủy thủ hay di vật gì của lệnh tôn hết.”



      Trong mắt A Mạch dường như có thể phun ra lửa, ngữ khí lại càng thêm lạnh lẽo, chỉ : “Ta muốn những lời vô nghĩa với ngươi, ngươi trả chủy thủ cho ta, ta thả ngươi rời .”



      Thường Ngọc Thanh cũng lạnh lùng cười nhạo tiếng hỏi: “Mạch Tuệ, ngươi dựa vào cái gì mà như vậy? Ngươi cho là chỉ bằng bản lĩnh của ngươi, là có thể giữ được ta lại hay sao? Hay là…” Thường Ngọc Thanh ngừng lại, cố ý ái muội ghé sát vào tai A Mạch thấp giọng chế giễu: “Ngươi cho là chỉ cần ta có ý với ngươi, lao thẳng đến ôm ngươi vào lòng, dám làm tổn thương ngươi?”



      Lời còn chưa dứt, A Mạch nghiến răng rút đao chém Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh nghiêng người tránh khỏi, còn chưa kịp rút loan đao bên hông ra lưỡi đao của A Mạch lại lao tới, Thường Ngọc Thanh hừ lạnh tiếng, buồn rút đao, chỉ nghiêng phải nghiêng trái tránh né đao của A Mạch.



      Bộ đao pháp này của A Mạch là do Trương Sinh truyền thụ, thân thể và đao hòa quyện làm , đao chuyển động theo người, biến hóa đa dạng, chính là bộ đao pháp tấn công liên hoàn. A Mạch lại luyện đến mức thành thục, thanh đao trong tay càng đánh càng nhanh hơn, chiêu trước chiêu sau đều nhằm vào những chỗ yếu hại người Thường Ngọc Thanh.



      Thường Ngọc Thanh ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, ta vốn mất tiên cơ, sau lại ỷ mạnh chịu rút đao, chỉ lùi về phía sau tránh né nên khỏi rơi vào tình thế thập phần nguy hiểm. Lúc này ta thể rút loan đao ra, nhưng A Mạch đâu để cho ta có cơ hội, đao bức ta đến sát tường, ngay sau đó kề đao sát vào cổ ta.



      A Mạch lạnh giọng quát: “Đưa chủy thủ cho ta!”



      Thường Ngọc Thanh cúi đầu yên lặng nhìn thanh trường đao lúc lâu, chợt nở nụ cười, ngẩng đầu với A Mạch: “Chủy thủ người ta.”



      A Mạch ép hỏi: “Ở đâu?”



      Thường Ngọc Thanh cười : “Hình dáng thanh chủy thủ kia của ngươi rất khác lạ, Thôi Diễn thấy thích, là muốn đem phỏng chế chiếc khác, ta liền cho ta mượn rồi.”



      A Mạch ngẩn ra, lại hỏi: “Thôi Diễn giờ ở đâu?”



      Thường Ngọc Thanh sảng khoái đáp: “Vẫn ở chỗ thợ rèn, ta hẹn ta đến đó lấy chủy thủ, chưa thấy ta đến chắc chắn chưa rời .”



      A Mạch nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, trầm mặc , trong lòng thầm nghĩ biết lời ta hay giả.



      Thường Ngọc Thanh nhìn vào mắt A Mạch, thấy ánh mắt nàng hắc bạch phân minh, thuần khiết linh động, trong lòng đột nhiên mềm nhũn, nhịn được : “Ngươi có tin ta ? Nếu như ngươi tin ta, ngươi liền về trước , ta cho người đem chủy thủ đến trả cho ngươi.”



      A Mạch cười lạnh tiếng, vặn lại: “ ngờ những lời lừa gạt trẻ con như thế mà Thường tướng quân cũng ra được.”



      Thường Ngọc Thanh khẽ cười, nhắm mắt dựa vào bức tường sau lưng, thản nhiên : “Ngươi chịu tin, vậy ngươi phải làm sao bây giờ.”



      Trong lòng A Mạch nhất thời cũng thấy khó xử, nếu đợi Thường Ngọc Thanh tự mình đem chủy thủ đến trả nàng tất nhiên thể yên tâm, mà nếu cứ như vậy theo Thường Ngọc Thanh tìm Thôi Diễn, để người khác nhìn thấy lại gây nên chuyện đa đoan. A Mạch trầm ngâm lát, : “Giờ ngươi kêu Thôi Diễn đem chủy thủ đến đây trả cho ta.”



      Thường Ngọc Thanh mở mắt ra, sảng khoái đáp: “Được!”



      A Mạch nghe ta trả lời sảng khoái như thế, trong lòng ngược lại có chút sinh nghi, ngưng thần nhìn Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh thận trọng đưa mắt liếc nhìn thanh đao vẫn đặt cổ mình, lại giương mắt nhìn A Mạch, : “Ngươi thu đao lại ta mới thuận tiện đến đó được.”



      A Mạch , ngược lại, bàn tay lại nắm càng chặt đao hơn.



      Thường Ngọc Thanh cười nhạo : “Mạch Tuệ, nếu ta muốn , ngươi chỉ trông vào thanh đao ngăn được ta đâu.”



      A Mạch biết ta , ta thành danh lâu, chút công phu ấy của nàng trong mắt ta chẳng qua cũng chỉ nhìn cho đẹp mắt, vừa rồi nếu phải ta sơ ý, có lẽ cũng khống chế được ta. Nghĩ vậy, A Mạch liền thu đao lại, hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ta gọi người truyền tin cho Thôi Diễn, ta giờ chờ ngươi ở xưởng rèn nào?”



      Thường Ngọc Thanh đáp: “Là xưởng rèn tốt nhất ở đây, hình như gọi là Nghiêm Ký phải.”



      A Mạch vẫn nhìn vào mắt ta, thấy ta có vẻ như dối, liền có lỗi”, rồi thanh trường đao trong tay lật lên, cắt góc áo bào của ta, sau đó để Thường Ngọc Thanh mình đứng trong ngõ , rồi tự mình ra ngoài tìm đứa bé chơi bên đường, cho nó vài món đồ chơi(1), rồi kêu đứa mang theo góc áo đến xưởng rèn tìm nam tử cổ có thắt chiếc khăn đen, với ta chủ nhân của góc áo này chờ ta ở đây. Đứa trẻ kia thấy chỉ cần cầm góc áo chạy lát liền có đồ chơi, liền vui vẻ nhận lời chạy .



      A Mạch xoay người trở lại con hẻm , Thường Ngọc Thanh vẫn yên lặng đứng dựa lưng vào góc tường, nghe thấy tiếng bước chân của nàng liền quay đầu nhìn lại, hỏi: “A Mạch, vì sao ngươi phải bán mạng cho Nam Hạ như thế?”



      A Mạch đứng bên cạnh ta, khẽ mím môi, trầm mặc lát rồi mới đáp: “Vì ta bắt buộc phải làm thế!”



      Thường Ngọc Thanh chỉ cười, cũng hỏi A Mạch vì sao lại bắt buộc phải làm thế, chỉ dựa lại vào tường .



      Xưởng rèn kia ở cách đây xa, lúc sau liền nghe thấy có tiếng bước chân dồn dập chạy đến, A Mạch lập tức cảnh tỉnh, cũng gì, chỉ nhàng đưa đao đặt lại vai Thường Ngọc Thanh, giương mắt nhìn về phía người chạy tới.



      Người mới tới đúng là Thôi Diễn, tuy mặc thân thường phục, nhưng cổ vẫn buộc chiếc khăn đen, che vết sẹo đó lại. Lúc này ta nhìn thấy A Mạch vô cùng sửng sốt, đảo mắt lại nhìn thấy A Mạch kề đao lên cổ Thường Ngọc Thanh, trong mắt liền hoảng hốt, nhìn Thường Ngọc Thanh kêu lên: “Đại ca!”



      A Mạch ép đao xuống, nhìn Thôi Diễn hỏii: “Chủy thủ đâu?”



      mặt Thôi Diễn ra tia khó hiểu, há miệng định hỏi chủy thủ nào Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên lên tiếng: “Chính là thanh chủy thù mà ngày ấy ở Nhạn Sơn ngươi từng nhìn thấy đấy, ngươi còn đem trả lại cho Mạch tướng quân .”



      Ngày ấy Nhạn Sơn, đúng là Thôi Diễn từng thấy Thường Ngọc Thanh cầm thanh chủy thủ trong tay, chẳng qua là ta cũng tận mắt thấy Thường Ngọc Thanh ném thanh chủy thủ kia vào trong núi, giờ sao lại hướng về phía mình để đòi? Thôi Diễn mặc dù là kẻ lỗ mãng nhưng cũng phải là đồ ngốc, giờ nghe Thường Ngọc Thanh như vậy liền thuận miệng đáp: “Để ta trả lại cho nàng ta.” xong đưa tay vào ngực lấy ra vật gì đó nhanh chóng ném về phía A Mạch, trong miệng kêu lên: “Nhận lấy này!”



      Vật nọ bay vèo đến trước mặt A Mạch, A Mạch theo bản năng đưa tay tiếp lấy, đúng lúc phân tâm đó Thôi Diễn lao nhanh về phía trước, loan đao trong tay đồng thời cũng chém tới. A Mạch rùng mình, vội vàng vung đao lên đỡ, hai lưỡi đao chạm vào nhau phát ra tiếng “keng” chát chúa, tia lửa theo đó bắn ra, A Mạch phải lui lại phía sau mấy bước mới đứng vững được, chỉ cảm thấy cổ tay chấn động đến nỗi run lên, suýt nữa đánh rơi cả trường đao.



      Chỉ chiêu đó, Thôi Diễn cứu được Thường Ngọc Thanh từ dưới lưỡi đao của A Mạch thoát ra. A Mạch cũng phản kích, chỉ liếc nhanh vật mà Thôi Diễn vừa ném cho mình, thấy đó phải là thanh chủy thủ của mình, lập tức lạnh giọng hỏi Thường Ngọc Thanh: “Chủy thủ của ta đâu?”



      Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống đáp, Thôi Diễn lại khàn khàn : “Ngươi làm như vật đó của ngươi đó bảo bối bằng nên người khác lúc nào cũng phải mang theo bên người chắc, ta cho ngươi biết, đại ca ném nó lâu rồi!”



      A Mạch để ý tới lời lẽ kích bác của Thôi Diễn, chỉ trừng trừng nhìn thẳng vào Thường Ngọc Thanh, truy vấn tiếp: “Chủy thủ của ta đâu?”



      Thường Ngọc Thanh cuối cùng cũng ngước mắt lên nhìn A Mạch, nhanh chậm đáp: “Ném rồi.”



      khuôn mặt của A Mạch vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhưng chuôi đao trong tay bị nắm chặt đến phát run, lạnh giọng hỏi: “Ném chỗ nào?”



      Thường Ngọc Thanh khóe môi khẽ nhếch lên, ra nét cười khinh mạn: “ núi Nhạn Sơn.”



      A Mạch yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh lát, ánh mắt lạnh lẽo như băng, mặt cũng chậm rãi mỉm cười.



      Thôi Diễn ở bên thấy hai người bọn họ bỗng dưng nhìn nhau mỉm cười, khỏi ngẩn ra, trong lòng càng sợ Thường Ngọc Thanh lại bị A Mạch mê hoặc, vội vàng hướng về phía A Mạch kêu lên: “Ít nhảm thôi, để lại mạng cho ta!” xong loan đao trong tay liền vung lên, lao thẳng về phía A Mạch.



      Thôi Diễn trời sinh thần lực, nên A Mạch dám cùng ta trực tiếp đối kháng, trường đao trong tay hoặc đâm hoặc gạt, chứ dám đón đỡ trực diện, chỉ trông vào linh hoạt của bản thân để tránh, chân cũng lộ dấu vết lẳng lặng lùi về phía sau. Con hẻm vắng vẻ này chính là phía sau của cửa tiệm, ít người qua lại, nhưng hai đường vào ngõ đều hướng ra đầu phố, chỉ cần lui ra đến chỗ đông người qua lại đường Thôi Diễn thể tiếp tục giao chiến với nàng được nữa.



      Thôi Diễn thấy A Mạch chỉ thủ chứ công, cũng đoán được vài phần tính toán trong lòng nàng, làm sao có thể thả cho nàng như vậy, vậy nên lại càng ra chiêu nhanh hơn, đao trước đao sau nối tiếp nhau bổ tới, tất cả đều hướng vào những chỗ yếu hại ngườu A Mạch, lộ ý định nhất quyết muốn lấy bằng được tính mạng của nàng.



      A Mạch vài lần rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, trong lòng thầm xong rồi, mình đúng là nhất thời ngu xuẩn nên mới phải chết như thế này, khóe mắt lại thoáng thấy Thường Ngọc Thanh chỉ mực yên lặng đứng dựa lưng vào tường, trong lòng đột nhiên vừa động, bên tiếp tục duy trì chống đỡ với Thôi Diễn, bên hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô lớn: “Thường Ngọc Thanh, nếu ngươi muốn giết ta tự mình ra tay , sao phải mượn tay người khác!”



      Thường Ngọc Thanh vẫn như trước hề phản ứng, A Mạch ngửa người né đao của Thôi Diễn, lưỡi đao đưa ngược ra sau lưng, nhân đó xoay ngược người lại, lao thẳng về phía Thường Ngọc Thanh. Nếu như nhất định phải chết, vậy liều mạng đánh bạc phen mà dắt nhau cùng xuống tuyền đài !



      Thôi Diễn vốn định giải quyết A Mạch chỉ trong vài chiêu, ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, hơn nữa thân hình nàng lại vô cùng linh hoạt, trong chốc lát đúng là thể khống chế được nàng, lại thấy A Mạch tránh về phía Thường Ngọc Thanh, trong lòng càng gấp, vội vàng vung đao nhằm thẳng vào yết hầu của A Mạch, nhưng đao mới tới nửa đường, A Mạch đưa tay nắm được cánh tay của Thường Ngọc Thanh, kéo ta lên trước thành vật cản. Loan đao của Thôi Diễn vừa xuất ra, vội vàng thu lại, trong lúc cấp bách thiếu chút nữa tự làm mình bị thương, phồng mồm định mắng A Mạch là đồ vô sỉ, chợt thấy A Mạch biến sắc, nhoáng cái, cả người lẫn đao ngờ lại lao về phía ta.



      Thôi Diễn nhất thời sợ A Mạch dùng kế, theo bản năng lắc mình tránh , thân hình A Mạch lao thẳng đến vách tường mới ngừng lại được, khi quay lại, tay cầm đao che ở trước người, tay khác giữ chặt bên xườn, mím chặt môi yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh.



      biết thanh loan đao trong tay Thường Ngọc Thanh xuất từ khi nào, lưỡi dao dính máu, cùng với máu vết thương của A Mạch tí tách xuống đỏ tươi.



      Máu từ trong vết thương của A Mạch chảy ra, rơi mặt đất, rất nhanh đọng thành vũng .



      ———————-



      Chú thích:



      1- Nguyên văn là “đẩu tử”, mẹ Cún tra từ điển nhưng vẫn hiểu từ này nghĩa là gì, đoán là loại bánh kẹo hoặc đồ chơi gì đó mà A Mạch hứa cho đứa trẻ nếu nó mang giúp mảnh áo bào của Thường Ngọc Thanh tìm và đưa cho Thôi Diễn. Nếu bạn nào biết từ này nghĩa là gì comment góp ý cho mẹ Cún nhé.

    2. mouse

      mouse Active Member

      Bài viết:
      560
      Được thích:
      240
      Chương 102

      NAM NHÂN





      Thôi Diễn nhìn A Mạch, lại nhìn Thường Ngọc Thanh, nhất thời ngây người.



      Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống, tầm mắt vẫn dừng lại ở vết máu dính thanh đao, : “Ta tự mình ra tay ngươi có thể làm thế nào?”



      Tay A Mạch vẫn giữ chặt miệng vết thương, khóe môi cũng chậm rãi nhếch lên, mang theo chút run run, gằn từng tiếng đáp: “Nếu vậy hai chúng ta ai còn thiếu nợ ai.”



      Thường Ngọc Thanh khẽ chấn động, đưa mắt nhìn A Mạch, ánh mắt lộ ra thần sắc kinh ngạc.



      A Mạch nhìn thẳng vào mắt Thường Ngọc Thanh, nâng trường đao lên ngang người, trầm giọng : “Ra tay .”



      Thường Ngọc Thanh như thể bị chôn chân tại chỗ, thể nhúc nhích nhìn A Mạch. Thôi Diễn thấy vậy, sợ Thường Ngọc Thanh chịu thiệt, vội vàng : “ cần đại ca ta phải ra tay, ta…”



      A Mạch lạnh giọng ngắt lời : “Tốt!”



      Lời còn chưa dứt, thân hình A Mạch lao đến, cả người và đao cuốn về phía Thôi Diễn, chiêu nào cũng như muốn bán mạng. Thôi Diễn ngờ nàng lại xuất thủ nhanh như vậy, nhất thời trở tay kịp, chỉ có thể lui về phía sau tránh né. Nhưng A Mạch lại bất chấp sống chết, kể cả khi loan đao của Thôi Diễn chém tới cũng đón đỡ, chỉ liều mạng tấn công, dù chết cũng muốn đổi lại cánh tay của ta, khiến cho đao của Thôi Diễn vài lần được nửa đường lại phải vội vã thu về phòng thủ. Từ lúc đó, chiêu thức của Thôi Diễn liền mất ưu thế, vì thế liên tục bị A Mạch đẩy lui về phía sau.



      Trong lòng Thôi Diễn vừa tức lại vừa vội, đao thức phút chốc liền thay đổi, để ý đến lưỡi đao của A Mạch lướt tới, liền vung loan đao chém thẳng xuống đỉnh đầu A Mạch… ánh chớp lóe lên, loan đao của Thường Ngọc Thanh đột nhiên len vào giữa hai người, thay A Mạch đỡ đao nhằm xuống đầu nàng, ngay sau đó vội vàng dùng sống đao gạt cái, đẩy A Mạch ra khỏi ngoài phạm vi cương tỏa của trường đao.



      Thôi Diễn bị thế đao của Thường Ngọc Thanh đẩy liên tục lui về phía sau vài bước mới đứng vững được, tức giận gấp giọng hét lớn: “Đại ca!”



      A Mạch lại dựa vào vách tường cắn răng gì, chỉ nắm chặt trường đao trong tay nhìn Thường Ngọc Thanh.



      trong lúc giằng co, chợt nghe đầu ngõ có người kêu lên: “Mạch tướng quân ở trong này, giao chiến với người khác!”



      Ba người trong ngõ đều sửng sốt, đều quay đầu nhìn lại, thấy Lâm Mẫn Thận vung tay chỉ vào trong ngõ lớn tiếng kêu lên: “Trời ơi, hai đánh , mất mặt quá!”



      Đường Thiệu Nghĩa từ bên cạnh Lâm Mẫn Thận vội vàng chạy tới, đứng bên cạnh A Mạch, hỏi A Mạch bị thương thế nào, chỉ bất động thanh sắc đẩy A Mạch ra sau lưng mình, bình tĩnh nhìn Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn. Lâm Mẫn Thận từ sau đuổi tới, cúi đầu nhìn vết máu, lại ngẩng lên nhìn A Mạch, thất thanh kêu lên: “Mạch tướng quân, ngươi bị thương phải ?”



      A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận làm ra vẻ khoa trương, trong lòng bực bội, khỏi nhíu mày, thấp giọng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Giết được ?”



      Đường Thiệu Nghĩa , chỉ dùng khóe mắt nhìn lướt qua Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh, A Mạch lập tức hiểu ý của Đường Thiệu Nghĩa, tại nếu có Lâm Mẫn Thận, bọn họ là hai đối hai, nhưng A Mạch vốn yếu nhất, lại có thương tích trong người, nếu thực giao tranh tất nhiên phải chịu thiệt. Có thể giết được hay , mấu chốt còn phải xem thái độ của Lâm Mẫn Thận.



      Lâm Mẫn Thận chưa phát ra, vẫn đầy căm phẫn chỉ trích Thôi Diễn: “Các ngươi khinh người quá đáng, lúc hai nước nghị hòa, thế mà quý quốc lại ám sát tướng lãnh của nước ta, thế này nhất định phải phân định cho phải trái? ! Chúng ta đến dịch quán các ngươi tìm sứ thần nghị hòa chuyện!”



      A Mạch thu lại ánh mắt người Lâm Mẫn Thận, thản nhiên : “Để cho bọn họ !”



      Thường Ngọc Thanh ở bên cạnh vẫn lạnh lùng nhìn, nghe thấy vậy chỉ khẽ nhếch bên khóe miệng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch rồi quay đầu lại với Thôi Diễn: “A Diễn, thôi!” xong, liền lập tức quay đầu rời . Thôi Diễn cam tâm, nhưng trong lòng biết hôm nay thể giết được A Mạch, hung hăng trừng mắt nhìn nàng cái rồi đuổi theo Thường Ngọc Thanh.



      Chờ đến khi bóng dáng của Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn khuất hẳn, A Mạch mới dựa cả người vào vách tường, tinh thần vừa buông lỏng chút, đau đớn dưới sườn lại dội lên, đau đến nỗi khiến A Mạch phải hít hà hơi sâu.



      Đường Thiệu Nghĩa vội vàng quay người lại, thấy mặc dù A Mạch dùng tay bịt chặt miệng vết thương, nhưng máu vẫn ngừng chảy ra, sắc mặt lập tức ngưng trọng, hỏi: “Bị thương như thế nào?” Đường Thiệu Nghĩa xong định tiến lên kiểm tra thương thế của A Mạch, A Mạch dấu dấu diếm diếm tránh , tay vẫn giữ chặt vết thương, đáp: “Chỉ là vết thương da thịt, sao đâu.”



      Đường Thiệu Nghĩa nghi ngờ gì, vội cởi áo bào người xuống xé thành những băng vải , để ý đến từ chối của A Mạch, liền vội vàng băng chặt miệng vết thương người nàng lại, lúc này mới xoay người ngồi xổm trước mặt A Mạch, trầm giọng : “Lên , ta cõng ngươi tới y quán!”



      Tiết trời vốn nóng bức, bên trong áo bào, Đường Thiệu Nghĩa chỉ mặc chiếc áo lót mỏng nhưng cũng thấm ướt mồ hôi, dính sát vào tấm lưng rộng lớn mà rắn chắc, hằn đường nét cơ thể bên trong lớp áo. A Mạch chẳng những nằm lên, mà ngược lại, lại lùi về phía sau hai bước, Đường Thiệu Nghĩa kinh ngạc quay đầu nhìn A Mạch. A Mạch lắc lắc đầu, : “Đại ca cần cõng ta, ta vẫn tự được.”



      Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa lên tia khó hiểu, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân nếu vẫn có thể chịu đựng được cũng nên tự , hơn nữa các ngươi cũng thể cứ như vậy mà ra ngoài được, nếu để người khác biết Mạch tướng quân xô sát cùng thát tử, nguyên soái nhìn cũng vừa mắt đâu.”



      Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ nhíu mày, ràng là A Mạch bị Thường Ngọc Thanh cùng Thôi Diễn cố ý gây thương tích, qua miệng ta thế nào lại thành A Mạch xô sát với người khác nên bị thương, tên Lâm Mẫn Thận này đúng là cố ý lẫn lộn việc này rồi. Đường Thiệu Nghĩa còn nghi hoặc, lại nghe A Mạch : “Việc này nếu để cho nguyên soái biết đúng là rất phiền toái, chúng ta vẫn nên tránh hơn.”



      Lâm Mẫn Thận cao thấp đánh giá Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, lại tiếp: “Ta có cách, các ngươi chờ lát, ta rồi trở lại.” xong liền vội vàng ra khỏi ngõ , để lại hai người đứng trong đó. Đường Thiệu Nghĩa nhìn thương thế của A Mạch, hai hàng lông mày lại càng nhíu chặt hơn nữa. A Mạch sợ ta hỏi vì sao mình lại cùng Thường Ngọc Thanh đánh nhau nên lập tức hỏi nhanh: “Đại ca sao lại cùng Lâm Mẫn Thận?”



      Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa có chút bực mình đáp: “Gặp đường. ta cứ quấn lấy ta hỏi han linh tinh, nếu phải tại ta, ta sớm tìm được ngươi rồi, ngươi cũng phải chịu đao này.”



      A Mạch thản nhiên cười cười, gì. Đường Thiệu Nghĩa thấy sắc mặt nàng càng lúc càng tái nhợt, máu vết thương lại dần dần thấm qua lớp vải băng bó mà lộ ra ngoài, trong lòng càng sốt ruột, cả giận : “Cái tên Lâm Mẫn Thận này làm gì thế biết, sao vẫn còn chưa chịu quay về?”



      A Mạch cố gắng chịu đựng đau đớn từ dưới sườn dội lên, đáp: “Sợ là chạy mua quần áo cho ta và huynh.”



      Quả nhiên, lát sau, Lâm Mẫn Thận mang theo hai chiếc trường bào trở về, chiếc đưa cho Đường Thiệu Nghĩa, chiếc đưa cho A Mạch: “Mặc thêm cái này vào, nhất định phải che vết máu người của ngươi lại.”



      A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa cùng khoác trường bào lên người, Đường Thiệu Nghĩa mặc rất vừa vặn nhưng khi khoác lên người A Mạch lại vừa dài vừa rộng, bao kín cả người nàng. Lâm Mẫn Thận thập phần vừa lòng, khẽ gật đầu : “Tốt lắm, mặc như vậy rất thích hợp.”



      A Mạch cũng phản bác, mặt cũng lên vẻ đồng lòng. Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch và Lâm Mẫn Thận ngôn ngữ cử chỉ khác thường, trong lòng lập tức có chút nghi hoặc, song lại để lộ ra ngoài, chỉ để tâm chú ý hai người. Ba người ra ngoài ngõ, vừa đến đầu ngõ, đột nhiên A Mạch nghĩ đến điều gì đó liền dừng cước bộ, với Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, những thứ huynh mua về vẫn còn để ở tửu lâu!”



      Đường Thiệu Nghĩa còn chưa tiếp lời, Lâm Mẫn Thận : “Ai chà, khéo mà lại có người trộm mất khổ, Đường tướng quân mau trở về xem thế nào, ta và Mạch tướng quân đến y quán là tốt rồi.”



      Đường Thiệu Nghĩa để ý đến Lâm Mẫn Thận, chỉ nhìn A Mạch. mặt A Mạch lên tia xấu hổ, nhưng vẫn : “Đại ca, vết thương của ta việc gì, huynh đến tửu lâu lấy đồ về trước, nếu nguyên soái tìm ta, huynh che dấu cho ta chút, ta đến y quán lấy thuốc rồi về.”



      Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc lát, gật đầu : “Được, ta về trước, các ngươi cẩn thận.”



      Lâm Mẫn Thận đợi thân ảnh của Đường Thiệu Nghĩa biến mất trong đám đông, lúc này mới quay đầu nhìn A Mạch : “Ngươi lấy cớ thực vụng về! Ta đến đỏ mặt thay cho ngươi, nhưng ta đúng là rất biết phối hợp với ngươi.” ta ngừng lại, nhịn được lại hỏi: “ ta biết ngươi là nữ sao?”



      A Mạch cụp mắt , Lâm Mẫn Thận khỏi bật cười : “Người vốn lắm mưu nhiều kế, sao giờ lại trì độn như thế!”



      A Mạch để ý tới Lâm Mẫn Thận trêu chọc, chỉ hỏi: “ đâu?”



      Lâm Mẫn Thận cười : “Tùy ngươi, nếu muốn đến y quán, ta giúp ngươi diệt khẩu. Nếu muốn cửa sau của Thương phủ, ta nghĩ cách khiến người biết, quỷ hay giúp người trà trộn vào.”



      Trong lòng A Mạch nhất thời rất mâu thuẫn, Thương Dịch Chi như Đường Thiệu Nghĩa, nếu biết việc này chắc chắn truy cứu, nhưng nàng và Thường Ngọc Thanh lại có khúc mắc muốn để người khác biết, đến lúc đó phải làm thế nào để che dấu đây? Còn y quán, nếu như giết những người trong y quán diệt khẩu, lưu lại hậu họa về sau. A Mạch cân nhắc lát, cuối cùng : “ Thương phủ.”



      Thương Dịch Chi chủ trì việc nghị hòa với Bắc Mạc nên có mặt trong phủ, đến khi trở về là ban đêm, vết thương của A Mạch lúc này khâu xong. đao của Thường Ngọc Thanh quá sâu, chưa đả thương đến nội tạng, nhưng cũng chạm đến xương sườn, chỉ khẽ cử động chút liền cảm thấy đau đến tận xương tủy, A Mạch lại muốn dùng ma phí tán(2), cho nên phải cố gắng chịu đựng, cả người mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, khác gì mới từ trong nước vớt lên, hơn nữa nàng mất máu quá nhiều, sắc mặt lại càng thêm trắng bệch khiến cho người khác nhìn mà phát sợ.



      Từ miệng của Lâm Mẫn Thận, Thương Dịch Chi biết đại khái, nhưng khi chính mắt nhìn thấy dáng vẻ của A Mạch vẫn khỏi giật mình kinh hãi. ta trầm ngồi xuống bên cạnh, lạnh giọng hỏi: “Vì sao chịu dùng ma phí tán?”



      A Mạch ngờ câu đầu tiên ta hỏi là câu này, liền cúi đầu trầm mặc rồi mới giọng đáp: “Sợ về sau ảnh hưởng đến trí óc.”



      Thương Dịch Chi vô cùng tức giận mà bật cười: “Chẳng phải giờ trí óc của ngươi lú lẫn hết rồi sao, thế sau này vẫn còn sử dụng được à?”



      Vết thương của A Mạch vẫn rất đau đớn, vô cùng khó chịu, vậy nên giọng có phần run rẩy, đáp: “Càng đau càng nhớ kỹ, về sau tiếp tục phạm sai lầm.”



      Nghe nàng trả lời như vậy, Thương Dịch Chi lại trở nên trầm mặc, lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên : “Triều đình rất nhanh ký kết hiệp ước nghị hòa với thát tử, ngươi nên sớm chuẩn bị .”



      A Mạch ngẩn ra, khỏi hỏi: “Sao lại nhanh như vậy?”



      Thương Dịch Chi : “Tình hình chiến ở Vân Tây căng thẳng, thát tử vừa ý với những thứ đạt được, triều đình lại muốn nhanh chóng giải quyết việc ở Giang Bắc để tránh thế hai mặt thụ địch.”



      A Mạch nghĩ nghĩ, : “Đường Thiệu Nghĩa rời quân ngũ, cần phải cố kỵ, những người khác trong quân đều đáng lo ngại, nhưng còn Vệ Hưng phải xử trí như thế nào?”



      Khẩu khí Thương Dịch Chi mặc dù nhàng, nhưng từ ngữ thốt ra lại kinh người: “Giết.”



      A Mạch lơ đễnh, lại hỏi: “Còn Lâm Mẫn Thận?”



      Thương Dịch Chi thản nhiên liếc mắt nhìn nàng, đáp: “Ta để ta lưu lại cùng ngươi, để ngươi đỡ phải biết khi nào bị người khác cho mình đao.”



      A Mạch nghe ý tứ ám chỉ trong lời của ta, nhất thời dám tiếp, đành phải cụp mắt xuống.



      Thương Dịch Chi nhàng cười khẩy, : “A Mạch, ngươi cuối cùng cũng phải là nam nhân, nên mãi mãi thể đoán ra được tâm tư của nam nhân, Thường Ngọc Thanh là người như thế nào, cho dù tư tình có sâu nặng đến đâu cũng thể vượt qua được hai chữ quốc gia!”



      Trong lòng A Mạch vô cùng kinh hãi, nhất thời chấn động đến nỗi biết phải ứng đối thế nào. Vẻ mặt đó rơi vào trong mắt Thương Dịch Chi khuấy động nỗi tức giận khôn cùng trong lòng ta, nhưng ta lại muốn dây dưa vụn vặn nên chỉ : “A Mạch, ta dùng ngươi nên tin ngươi, chỉ có điều về sau được tiếp tục làm chuyện ngu xuẩn như thế này nữa! A Mạch có thể có nước, nhà, nhưng Mạch Tuệ của quân Giang Bắc cả quốc và gia đều phải lưỡng toàn!”



      A Mạch khống chế cảm xúc trong lòng, chậm rãi đáp: “A Mạch hiểu rồi.”



      Thương Dịch Chi định tiếp điều gì đó nhưng lại thôi, lập tức chuyển sang chuyện khác: “Giờ ngươi muốn lĩnh quân thế nào? Có trở lại Ô Lan ?”



      Nghe ta hỏi việc quân tình, tinh thần của A Mạch mới ổn định trở lại, trầm giọng đáp: “Trần Khởi mai phục trọng binh ở phía tây Thái Hưng, lúc này tây tiến ắt gặp phục kích, hơn nữa nguồn chiêu mộ binh lính trong núi Ô Lan có hạn, nếu trở về cũng rất khó để phát triển.”



      Trong mắt Thương Dịch Chi lộ ra ánh sáng, hỏi: “Vậy đâu?”



      ———————



      Chú thích:

      1- Thương hậu: từ này có nghĩa là sau khi bị thương. Tuy nhiên, mẹ Cún nghĩ trong văn cảnh này là để chỉ nơi chữa bệnh phải, nhưng tìm được từ tương ứng trong tiếng Việt nên vẫn để nguyên văn. Nàng nào biết hỗ trợ cho mẹ Cún nhé.

      2- Ma phí tán: loại thuốc gây tê do Hoa Đà phát minh ra, dùng trong điều trị ngoại khoa.

    3. mouse

      mouse Active Member

      Bài viết:
      560
      Được thích:
      240
      Chương 103

      MƯU KẾ(1)



      “Thanh Châu!” A Mạch đáp.



      Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp bờ sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, dễ thủ khó công, chính là nơi Thương Dịch Chi trấn thủ trước đây. A Mạch lại tiếp: “Chiếm giữ Thanh Châu rồi tiến vào Thái Hành, Ký Châu tạo thành địa thế hình túi, phía bắc có núi Yến Thứ có thể chống cự địch vùng quan ngoại, phía đông tiếp giáp biển lớn thành bức bình phong ngăn cản, phía nam hướng về vùng Sơn Đông, qua đó là sông Uyển địa thế hung hiểm. Bốn bề hiểm trở, bế quan(2) có thể tự thủ, xuất quan(3) có thể tiến thủ. Bên trong Ký Châu lại nhiều bình nguyên, sản vật phong phú, đủ để cung cấp nuôi dưỡng quân ta. Nhờ đó, quân ta có thể ổn định, củng cố hậu phương, tự cung tự cấp, cũng có thể vượt qua vùng núi non hiểm trở mà tiến công, hoặc lui về phía sau để phòng thủ, chỉ cần thúc đẩy lưu thông buôn bán, tích lũy lực lượng, sau này giành lại vùng Giang Bắc cũng thành vấn đề.”



      Tuy Thương Dịch Chi trầm ngâm , nhưng ánh mắt dần dần sáng rực lên. A Mạch thấy vậy, biết ta bị lời của mình làm cho động tâm. Thương Dịch Chi cúi đầu cân nhắc lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thực thấy vậy sao?”



      A Mạch vốn định gật đầu xác nhận, nhưng trước đôi mắt sâu thấy đáy của Thương Dịch Chi, lời trong miệng lại chuyển thành: “Là Từ tiên sinh từng đề cập qua như vậy.”



      Thương Dịch Chi yên lặng đánh giá A Mạch, ánh mắt sâu xa, biết suy tính điều gì.



      A Mạch dùng tay phủ lên vết thương bên sườn, cảm giác đau đớn kích thích tinh thần của nàng rung lên, thong dong tiếp: “Khi còn ở trong núi Ô Lan, ta từng chuyện phiếm với tiên sinh, tiên sinh giảng giải rằng thế cục giống như bàn cờ, trong đó Ung châu, Ký Châu, Vân Tây cùng Đông Nam hình thành nên tứ giác, Dự Châu, Sơn Đông, Hán Trung, Kinh Châu là vệ tinh của tứ giác đó, Trung Nguyên chính là vùng trung tâm. Mặc dù mục tiêu tranh giành là Trung Nguyên, nhưng nơi thực diễn ra tranh giành của quần hùng, phần lớn lại bắt đầu từ Trung Nguyên, mà là ở vùng tứ giác. Hay như ở vùng Giang Bắc, Ung Châu và Ký Châu là hai nơi dễ dàng cát cứ, mà phía tây Dự Châu tiếp giáp Ô Lan, phía đông hướng về Thái Hành, nếu tiến được vào cửa ngõ Ung châu và Ký Châu, bề mặt hướng về lưu vực sông Bình Nguyên, chính là giành lấy yếu hầu của vùng Giang Bắc. Trước, quân ta có thể chiếm Ký Châu làm căn cơ, sau, có thể tiếp tục chiếm Dự Châu, rồi từ từ giang rộng đôi cánh, bao bọc lấy Trung Nguyên, như vậy nhất định đoạt được Giang Bắc.”



      Nàng phen xong khiến Thương Dịch Chi khó nén được kích động, kiềm chế được, tay liền nắm chặt thành quyền : “ sai! Hoàn đàm [ tân luận ] viết: Thượng giả viễn kì khai trương, trí dĩ hội vi. Nhân nhi thành đắc đạo chi thắng. Trung giả tắc vụ tương tuyệt già, yếu dĩ tranh tiện cầu lợi, cố thắng phụ hồ nghi, tu kế sổ dĩ định. Hạ giả tắc thủ biên ngung, xu tác quải, dĩ tự sinh vu tiểu địa. (Thượng, xa xôi lúc bắt đầu, tỉ mỉ sử dụng thành. Người đắc đạo thắng. Trung, nguyên tắc công việc tự mình xem xét qua lại, nhất định phải tranh thủ thuận tiện mà thu lợi, cho dù thắng bại chắc chắn, tính kế định. Hạ, nguyên tắc giữ vùng đất liền kề, tạo nên trở ngại, có thể tự tồn tại được ở vùng đất )(4) Chính là để đạo lý này!”



      A Mạch cười yếu ớt , Thương Dịch Chi tuy rằng kích động, nhưng rất nhanh khống chế được cảm xúc của mình, mặt hồi phục lại thần sắc bình tĩnh, bỗng hỏi: “Ngươi và Từ Tĩnh vẫn thường chơi cờ?”



      Sắc mặt A Mạch bất động, nhưng ý niệm trong đầu xoay chuyển rất nhanh, thần thái tự nhiên đáp: “Những lúc rảnh rỗi ra cũng cùng Từ tiên sinh chơi vài ván.”



      Nhó lại chuyện năm trước, khi A Mạch cùng ta đường trở về Thịnh Đô, tình cảnh khi hai người ở thuyền đánh cờ, tinh thần Thương Dịch Chi khỏi hoảng hốt, giọng hỏi: “Ông ta có cho ngươi lại ?”



      A Mạch lắc đầu : “Từ tiên sinh vừa mắng ta là cờ thối, vừa tính toán chi li, có chết cũng nhường.”



      Thương Dịch Chi khỏi bật cười, khóe môi khẽ cong lên, thần sắc trong mắt cũng trở nên dịu dàng, khẽ cười : “Đúng là rất thối!”



      A Mạch nhìn mà khẽ giật mình, Thương Dịch Chi nhận thấy vậy, mặt thoáng lên vẻ xấu hổ, cúi đầu xuống uống trà tránh tầm mắt của A Mạch, đến khi ngẩng lên trong mắt mảnh an tĩnh, trầm giọng hỏi A Mạch: “Nếu muốn dẫn binh vào Thanh Châu, trong lòng có kế sách cụ thể gì chưa?”



      A Mạch mím môi trầm ngâm lát, đáp: “Có rồi, chỉ có điều là quá mạo hiểm.”



      Thương Dịch Chi đổi chén trà, đứng dậy đặt vào trong tay A Mạch, : “ ta nghe thử chút.”



      A Mạch sớm khát khô, thấy vậy cũng chối từ, nhận lấy chén trà uống hơi, lúc này mới : “Từ Thái Hưng đông tiến đến Thanh Châu, nếu theo đường phía bắc, chắc chắn qua trấn Tân Dã, mà Tân Dã sớm bị Chu Chí Nhẫn chiếm giữ, khi đó tránh khỏi trận ác chiến. Nếu theo đường phía nam, dọc theo sông Uyển, đường mặc dù có trọng binh của thát tử, nhưng đường gập ghềnh xa xôi, lại là mùa mưa, được tới nơi cũng vô cùng vất vả. Từ năm trước, Trần Khởi lệnh cho Thường gia lĩnh quân đông tiến đến Thanh Châu, ngoại trừ ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, còn có hơn hai vạn quân ở phía tây Thanh Châu, mặc dù thể đánh hạ Thanh Châu, nhưng lại có thể tràn tới chặn đánh quân ta vừa từ xa đến, trận thắng bại khó liệu.”



      Thương Dịch Chi cau mày: “Sợ là thắng ít bại nhiều.”



      “Đúng vậy, chẳng qua…”



      “Chẳng qua thế nào?” Thương Dịch Chi hỏi.



      A Mạch đáp: “Nếu quân Thanh Châu ra khỏi thành đánh lén thát tử từ phía sau, trận này là thắng nhiều bại ít!”



      Thương Dịch Chi khẽ nhướn mày, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, : “Thanh Châu là nơi ta phát binh, mặc dù nay những quân nhân cũ trong quân chết trận quá nửa, nhưng vẫn còn ít người xuất thân từ Thanh Châu, ngươi còn sợ có cách nào điều động được quân Thanh Châu sao?”



      A Mạch thấy Thương Dịch Chi trúng tâm tư của mình, cười gượng hai tiếng, : “Nếu nguyên soái có thể ra mặt, quân Thanh Châu tất nhiên là có thể điều động rồi.”



      Thương Dịch Chi cười nhạt : “ hay lắm, còn gì khác nữa ?”



      A Mạch thu lại nét tươi cười mặt, nghiêm sắc mặt : “Sau khi vào được Thanh Châu, tạm thời thát tử đủ sức uy hiếp ta nữa, khó ở chỗ là làm thế nào vượt qua Thái Hành mà chiếm giữ Ký Châu, ta phản lại triều đình, Ký Châu tất nhiên dễ dàng để ta tiến vào, vì thế có thể dẫn đến việc quân ta chưa đánh nhau với thát tử phải nồi da nấu thịt trước với đồng bào của mình, như vậy chắc chắn ảnh hưởng đến thanh danh.”



      Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, thản nhiên : “A Mạch, ngươi muốn thế nào cứ thẳng ra.”



      A Mạch cẩn thận liếc mắt nhìn Thương Dịch Chi, thử : “Nghe thủ thành Ký Châu là tướng Tiếu Dực, từng là cấp dưới của Thương lão tướng quân…”



      “Đúng!” Thương Dịch Chi tiếp lời, sảng khoái ,“Ký Châu ta cũng thay ngươi nghĩ cách!”



      A Mạch xoay người quỳ rạp xuống trước mặt Thương Dịch Chi, ôm quyền : “A Mạch đa tạ nguyên soái!”



      Thương Dịch Chi cũng đưa tay đỡ dậy, đợi A Mạch quỳ mặt đất lúc lâu, bấy giờ mới chậm rãi : “A Mạch, trước ta vẫn dung túng ngươi, sau này còn có thể trợ giúp ngươi, ngươi…… đừng để cho ta cảm thấy thất vọng.”



      A Mạch rùng mình, ngẩng đầu đón lấy ánh mắt sắc bén của Thương Dịch Chi, hề né tránh, kiên định đáp: “A Mạch biết.”



      Thương Dịch Chi vẫn bất động thanh sắc, thản nhiên : “Đứng lên .”



      A Mạch đứng dậy, dám ngồi, chỉ khoanh tay đứng bên. Thấy nàng như thế, Thương Dịch Chi đứng dậy, : “ người ngươi có thương tích, hôm nay nghỉ sớm , ngày mai Lâm Mẫn Thận đưa ngươi về.”



      Thương Dịch Chi xong liền để ý tới A Mạch nữa, xoay người rời . A Mạch đợi tiếng bước chân ta càng lúc càng xa, lúc này mới để nguyên quần áo nằm xuống giường, tinh thần buông lỏng, vết thương dưới sườn lại bắt đầu đau dội lên, là phải ngủ sớm chút, nhưng làm sao mà ngủ được.



      Cứ mở to mắt như thế chịu đựng đến nửa đêm, vết thương mới hơi dịu chút, A Mạch lúc này kiệt sức mà rơi vào mê man, đến khi mở mắt ra mặt trời lên cao quá đỉnh đầu.



      Bên ngoài, Lâm Mẫn Thận gõ cửa gọi: “A Mạch, nhanh lên, cho dù là qua đêm ở kỹ viện cũng phải nhanh lên chút.”



      A Mạch nghe ta bực chịu nổi, nhíu mày, đứng dậy mở ra cửa phòng. Lâm Mẫn Thận lấy từ trong người ra bình kim sang dược đưa cho A Mạch, : “Cầm lấy, về tự bôi , lang trung phải bôi mấy ngày.” ta thấy A Mạch chần chờ chịu nhận, liền ấn bình sứ kia vào lòng A Mạch, : “Yên tâm , độc chết ngươi đâu. ta nếu để ta lưu lại, chính muốn đem cái mạng của ta và ngươi buộc chung vào chỗ. Ngươi mà chết, ta cũng chẳng cách nào giải thích được.”



      A Mạch để ý tới châm chọc của Lâm Mẫn Thận, thu chiếc bình vào trong lòng, thản nhiên : “Chúng ta thôi.”



      Lâm Mẫn Thận thấy nàng lạnh nhạt như thế, ngược lại cảm thấy lạ, khỏi đuổi theo hai bước, nhìn kỹ vẻ mặt A Mạch, hỏi: “Ngươi muốn gì sao”



      A Mạch liếc nhìn ta, hỏi ngược lại: “ gì?”



      Lâm Mẫn Thận nhất thời nghẹn giọng, tức giận : “Dù sao về sau ngươi cũng ít gây chuyện thôi, ta phải nhìn thấy những chuyện như thế nhất định giữ được cái mạng của ngươi.”



      A Mạch dừng chân lại, xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, yên lặng đánh giá Lâm Mẫn Thận, nhìn đến khi Lâm Mẫn Thận cảm thấy có chút sợ hãi, lúc này mới : “Ngươi muốn lưu lại, ta kỳ lại càng muốn ngươi lưu lại, ngươi cũng cần phải bảo vệ cái mạng của ta, chỉ cần đừng ở sau lưng đâm cho ta dao là được rồi.”



      Lâm Mẫn Thận ngẩn ra: “Ngươi……”



      “Ngươi cái gì?” A Mạch ngắt lời ta, cười lạnh : “Hơn nữa ta vì sao phải để ngươi ở lại bên ta, trong lòng ngươi và ta đều hiểu , ngoại trừ đề phòng ngươi còn muốn đề phòng ta, ngươi sao phải bày ra cái bộ dạng buồn cười này!”



      A Mạch xong phẩy tay áo bỏ , chỉ còn lại Lâm Mẫn Thận ngây ngốc đứng ở phía xa xa, hơn nữa ngày mới hồi phục lại, thầm lẩm bẩm: “Đây… là nữ nhân sao?”



      Lâm Mẫn Thận và A Mạch trở lại thành phủ vào buổi trưa, hai người trắng đêm về kinh động đến Vệ Hưng, Vệ Hưng nghe người họ vẫn còn vương lại mùi rượu, sắc mặt liền trở nên trầm, ràng là rất tức giận. A Mạch muốn thỉnh tội, lại bị Lâm Mẫn Thận vụng trộm kéo lại, đành phải đem những lời lên đến đầu lưỡi nuốt xuống, chỉ cúi đầu đứng đợi Vệ Hưng trách mắng.



      Trong lòng Vệ Hưng vô cùng bực bội, hai người bọn họ, là con trai độc nhất của Lâm tể tướng, thể mắng, là đối tượng mà ta phải mượn sức, cũng thể trách. Vệ Hưng đành nén cơn tức giận trong lòng lại, lúc này mới giáo huấn: “ giờ là lúc nào rồi! Hai ngươi còn dám uống say về! Tại sao lại biết phân nặng như thế!”



      A Mạch cúi đầu : “Mạt tướng biết sai rồi, về sau cũng dám nữa.”



      Vệ Hưng thấy sắc mặt A Mạch tái nhợt, chỉ nghĩ là nàng say rượu khó chịu, lại thấy nàng rất thành khẩn nhận lỗi, nỗi tức giận trong lòng cũng giảm bớt, lại giáo huấn vài câu rồi cho nàng trở về phòng nghỉ ngơi. Đợi A Mạch rồi, Vệ Hưng mới xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, còn chưa kịp mở miệng, Lâm Mẫn Thận cười hì hì : “Ta sao biết ta lại như thế, mới được vài chén rượu dính lấy nương ở kỹ viện rồi, ta còn phải kéo ta ra, nếu túi bạc của ta nguy mất.”



      Vệ Hưng chỉ sợ Lâm Mẫn Thận vẫn còn đặt tâm tư lên người A Mạch, liền cố gắng khuyên nhủ: “Mẫn Thận, mặc dù bộ dạng ta có vẻ mềm yếu, nhưng ra là viên mãnh tướng, sau này biết đâu lại trở thành trợ thủ đắc lực cho Lâm tể tướng, ngươi ngàn vạn lần nên đùa giỡn, khinh khi ta.”



      Lâm Mẫn Thận trưng ra vẻ mặt đau khổ, rất tình nguyện : “Ta nếu coi ta là huynh đệ sao có thể đưa ta tới kỹ viện a!”



      Vệ Hưng nghe vậy gì, yên lặng nhìn Lâm Mẫn Thận lúc lâu, thấy mặt ta đầy vẻ ủy khuất cùng cam lòng, đành phải bất đắc dĩ khoát tay áo, ý bảo Lâm Mẫn Thận rời . Lâm Mẫn Thận vội vàng ra ngoài, cho đến khi ra khỏi viện, khóe miệng mới cong lên cái, rồi ngẩng đầu tìm A Mạch, thấy thân ảnh của nàng đâu, trong lòng thầm mắng A Mạch người này quả chẳng thú vị chút nào, thế mà lại tò mò xem Vệ Hưng lưu mình lại có việc gì.



      Lúc này A Mạch về đến viện của mình, hai ngày nay nàng phải hao tổn tâm tư rất nhiều, lại thêm thương tích trong người, thể lực cùng tinh thần đến cực hạn, chỉ sợ thêm lát nữa thể chịu đựng nổi. Trương Sĩ Cường lo lắng đợi nàng suốt đêm, thấy nàng bình an trở về vừa mừng vừa sợ, vội vàng tiến đến hỏi: “Sao giờ mới về? Đường tướng quân chỉ ngươi cùng Lâm tham quân…”



      A Mạch ngồi xuống giường, khoát tay áo cắt ngang lời Trương Sĩ Cường, hữu khí vô lực : “Đừng nữa, ta nghỉ lát, ngươi xem có gì dễ tiêu đem đến cho ta ăn.”



      Trương Sĩ Cường cũng phát sắc mặt A Mạch tốt, nghe nàng phân phó như thế cũng dám hỏi lại, vội vàng xoay người ra ngoài chuẩn bị cơm canh. A Mạch để nguyên quần áo ngã xuống giường, lúc mơ màng liền cảm thấy có người vào nhà, ban đầu chỉ cho đó là Trương Sĩ Cường nên cũng để ý, nhưng đợi lát nghe thấy Trương Sĩ Cường gọi nàng, trong lòng kinh nghi, cố gắng mở mắt ra nhìn, thấy Đường Thiệu Nghĩa im lặng đứng ở đầu giường.



      A Mạch lập tức lại nằm trở lại giường, nhàng thở dài, : “Đại ca, ngươi làm ta sợ muốn chết.”



      Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống giường, : “Thấy ngươi ngủ, sợ làm ngươi tỉnh giấc nên dám lên tiếng.”



      A Mạch cười cười, gì. Đường Thiệu Nghĩa cũng im lặng, hai người nằm, ngồi nhìn nhau gì, im lặng hơn nữa ngày, A Mạch đột nhiên lên tiếng: “Đại ca, ta cảm thấy rất mệt mỏi.”



      Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc lát, giọng : “Sống ở đời, có ai là phiền lụy?”



      Ánh mắt A Mạch dừng lại đỉnh màn, cười tự giễu, : “Đại ca, huynh biết đấy thôi, ta là người dối rất nhiều, nhiều đến nỗi về sau chính ta cũng biết rốt cuộc lời nào là , lời nào là giả dối.”



      ———————-

      1- Mưu kế: nguyên văn là “mưu hoa”, nghĩa là kế hay, nhưng mẹ Cún thấy để mưu kế hay hơn.

      2- Bế quan: nghĩa là đóng cửa giao lưu với bên ngoài.

      3- Xuất quan: ngược lại với bế quan.

      4- Đoạn này tốn nơ-ron thần kinh quá, hơi lủng củng, các nàng thông cảm nhé. Mấy cái đoạn trích dẫn binh thư này sao mà oải thế biết

    4. mouse

      mouse Active Member

      Bài viết:
      560
      Được thích:
      240
      Chương 104

      CÕI LÒNG





      Lời tuy thoải mái, nhưng lại dấu được đau khổ bên trong, Đường Thiệu Nghĩa nghe mà mặt mày rung động, nhàng đặt tay lên tay A Mạch, muốn khuyên giải an ủi nàng vài câu, nhưng lại biết nên gì, cuối cùng chỉ nắm chặt tay A Mạch, thấp giọng : “Đừng nghĩ nhiều nữa, người ngươi có thương tích, trước hãy nghỉ ngơi cho khỏe .”



      A Mạch quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Đại ca, nếu ta cũng từng dối huynh, huynh có oán ta hay ?”



      Đường Thiệu Nghĩa hơi cân nhắc chút, thành đáp: “A Mạch, ngươi và ta cùng nhau ra khỏi thành Hán Bảo đến Dự Châu, rồi xông pha núi Ô Lan, chiến đấu ở Thái Hưng, cùng trải qua sinh tử, là huynh đệ cùng chung hoạn nạn, miệng gì cũng quan trọng, chỉ cần ngươi vẫn còn gọi ta tiếng đại ca, ta vẫn là huynh đệ của ngươi.”



      Trong lòng A Mạch bất chợt dâng lên cả trăm vị, trong mắt có ngấn lệ, vội vàng quay đầu vào phía trong dấu diếm. Đường Thiệu Nghĩa thấy khóe mắt nàng lấp lánh lệ quang, theo bản năng đưa tay định lau, nhưng chưa kịp chạm vào hai má của A Mạch bỗng chợt giật mình, vội vàng thu tay lại, mặt nóng bừng.



      A Mạch chợt tỉnh táo, lo lắng quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi hạ quyết tâm rời khỏi quân Giang Bắc?”



      Mi mắt Đường Thiệu Nghĩa cụp xuống, che khuất thần sắc phức tạp vừa lóe lên trong mắt, gật đầu đáp: “Ta suy nghĩ rất lâu rồi, chi bằng cứ dứt khoát rời có khi lại hơn.”



      A Mạch nghĩ ngợi lát, nghiêm sắc mặt : “Nếu đại ca quyết định rời , vậy nên cho sớm.” Nàng thấy thần sắc biến ảo trong mắt Đường Thiệu Nghĩa liền giải thích: “Ta nhận được tin tức rất chính xác, tình hình chiến tại Vân Tây hết sức căng thẳng, trong triều vì tránh lâm vào thế hai mặt thụ địch, cho nên muốn đẩy nhanh việc ký kết hòa ước với thát tử, trừ phía đông Ký Châu và Sơn Đông, toàn bộ vùng Giang Bắc đều phải nhượng lại cho thát tử, ít ngày nữa quân ta nhất định phải di chuyển về Giang Nam.”



      Đối với kết quả nghị hòa, Đường Thiệu Nghĩa mặc dù sớm có chuẩn bị, nhưng khi thực nghe thấy kết quả này, vẫn tức giận đến lông mày dựng đứng lên, quyền đấm mạnh xuống giường, căm hận : “Trong triều làm như vậy ràng chính là uống rượu độc để giải khát đây mà!”



      Tâm tư A Mạch xoay chuyển, : “ khi hòa ước được ký kết, triều đình vì đề phòng quân ta có thể bất ngờ làm phản, tất tìm cách áp chế các tướng lãnh trong quân, đến lúc đó nếu đại ca muốn , sợ là dễ, chi bằng thừa dịp giờ đàm phán chưa xong mà sớm rời là tốt nhất.”



      Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt trầm mặc lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi sao? Chẳng lẽ muốn theo quân về phía nam?”



      A Mạch khẽ cười khổ, ánh mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa chăm chú, thành khẩn : “Ta vốn còn chưa xong việc, cho nên phải ở lại trong quân, về sừ tình cụ thể trong đó ta tạm thể , đại ca, ta muốn phải dối huynh.”



      Đường Thiệu Nghĩa ánh mắt ngưng đọng, : “Ta hiểu, ta hỏi nữa.”



      A Mạch cố gắng ngồi dậy, lại yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa lát, lúc này mới : “Đại ca, từ biệt lần này biết khi nào mới gặp lại, ta vẫn chỉ có câu trước kia, chỉ mong đại ca và ta đều còn sống!”



      mặt Đường Thiệu Nghĩa cuối cùng cũng lộ ra chút ý cười, đáp rành mạch từng từ : “Được! Chúng ta, chúng ta nhất định đều phải còn sống!”



      Hai người nhìn nhau lát, cùng mỉm cười. Sau đó Đường Thiệu Nghĩa lại nghiêm sắc mặt : “A Mạch, nếu ngươi vẫn gọi ta là đại ca, đại ca có mấy lời này muốn với ngươi, ngươi thông minh thiên bẩm, chỉ cần gặp cơ duyên thích hợp, chuyện nổi danh chỉ là sớm muộn. Đại trượng phu lập thân vốn cần kiến công lập nghiệp, nhưng cũng thể vì chuyện công danh mà cố tình phụ lại ân nghĩa, bỏ mặc dân chúng.”



      A Mạch cúi đầu trầm mặc , Đường Thiệu Nghĩa chỉ sợ A Mạch lơ đễnh, lại thấm thía: “ nay, phần lớn non sông vùng Giang Bắc của ta bị thát tử xâm chiếm, phản quân Vân Tây lại từng bước tới gần, dân chúng đừng đến của cải, mà ngay cả tánh mạng cũng khó bảo toàn. A Mạch, ngươi và ta đều là người Nam Hạ, cha mẹ huynh muội chúng ta cũng là người Nam Hạ, bảo vệ bách tính Nam Hạ cũng chính là bảo vệ phụ mẫu, huynh muội của chúng ta… A Mạch! Ngươi có nghe ?”



      Đường Thiệu Nghĩa càng , ngữ khí càng thêm phần nghiêm khắc. A Mạch ngẩng đầu, nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười, đáp: “Ta nghe.”



      Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng trả lời hời hợt, sắc mặt lại càng trầm xuống, ngữ khí càng nặng nề hơn: “A Mạch, mệnh lệnh sai lầm của người cầm quân đánh đổi bằng tính mạng của binh lính! Thủ hạ của ngươi có hàng trăm, hàng ngàn tướng sĩ, chỉ sơ xuất của ngươi đẩy họ vào chỗ chết! Những người này đều là nam nhi tốt của Nam Hạ ta, là cha, là , là con của bá tánh, bọn họ theo ngươi phải vì công danh lợi lộc cá nhân, mà vì bảo vệ quốc gia, bảo vệ già trẻ lớn bé trong nhà! Bọn họ giao tính mạng của mình vào tay ngươi, ngươi nhất định phải trân trọng chuyện sinh tử của bọn họ, nếu như điểm ấy mà cũng làm được! Ngươi cũng đừng đứng ở vị trí cầm quân nữa!”



      A Mạch chưa từng nghĩ Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên những lời cay độc như thế, kinh ngạc nhìn ta, sửng sốt kêu lên: “Đại ca…”



      Thấy A Mạch phản ứng như thế, Đường Thiệu Nghĩa phát mình nặng lời, bất giác có chút xấu hổ, ánh mắt được tự nhiên nhìn nơi khác, trầm mặc lát rồi mới khẽ thở dài, thấp giọng : “A Mạch, đại ca phải đồ ngốc, tâm tư của ngươi, đại ca cũng có thể đoán được vài phần, đại ca ngăn cản ngươi, chỉ cần ngươi trung quân ái quốc, bảo vệ bách tính, đại ca cam tâm tình nguyện…” được nửa chừng, Đường Thiệu Nghĩa lại nữa, lúc lâu sau mới lại tiếp tục: “Nhưng đại ca tuyệt thể để cho ngươi đem cả trăm ngàn tính mạng của người khác ra làm bước đệm cho dục vọng của mình.”



      Đường Thiệu Nghĩa ra những lời như vậy, khiến cho A Mạch khỏi trợn tròn mắt, hơn nửa ngày mới hồi phục lại tinh thần, mím chặt môi, nhìn Đường Thiệu Nghĩa : “Đại ca, ngươi nhìn ta .” A Mạch vẻ mặt rất nghiêm túc, thong thả ràng: “Đại ca, ta tòng quân thực phải vì cứu dân cứu nước, nhưng cũng phải vì ham công danh lợi lộc. Ta chỉ muốn bảo vệ niềm vinh quang của phụ thân ta, người cũng từng là quân nhân Nam Hạ, ba mươi năm trước từng chống lại thát tử, bình định tứ phương, chiến công hiển hách, ngờ cuối cùng lại chết trong tay nghĩa tử của mình.”



      Vết thương dưới sườn A Mạch lại đau nhói, mỗi lần hít thở đều đau dội lên, nàng đành phải ngừng lại, nhắm mắt lát, lúc này mới tiếp tục : “Nghĩa tử đó là đứa trẻ mồ côi được phụ thân ta thu dưỡng từ trong chiến tranh loạn lạc, lý do ta giết người có công ơn giáo dưỡng với mình là vì quốc thù gia hận.”



      Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch có thân thế như vậy, nghe xong, khuôn mặt chợt đầy nét thương cảm, hai tay nắm chặt bả vai A Mạch, nhịn được mà kêu lên: “A Mạch.”



      Khóe môi A Mạch nhếch lên nụ cười châm chọc, giọng : “Cái gì mà quốc thù gia hận, chẳng qua là e ngại uy danh của phụ thân ta mà thôi! Nên ta càng muốn để cho người nọ biết, Nam Hạ mặc dù có phụ thân ta, cũng để cho người khác biến thành thịt cá thớt, phụ thân có ta, Nam Hạ có ta!”



      A Mạch chưa bao giờ về thân thế của mình với người khác, cho dù có người hỏi, nàng cũng chỉ hàm hồ mấy câu cho qua chuyện, giờ lại dùng khẩu khí bình thản, chậm rãi với Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa nghe mà vừa kinh ngạc vừa mắc cỡ, kinh ngạc vì A Mạch lại có thân thế thế như vậy, mắc cỡ vì ta lại hiểu lầm A Mạch, sợ nàng dùng tính mạng của tướng sĩ để đổi lấy quyền thế danh vọng. Đường Thiệu Nghĩa vốn phải người có khẩu khiếu lanh lợi, giờ phút này biết mình nghĩ oan cho A Mạch, liền thầm tự trách bản thân, vì thế nhất thời lại biết nên cái gì mới tốt, vài lần há miệng, nhưng rồi lại thể ra lời nào.



      A Mạch cũng chỉ thản nhiên cười, : “Đại ca, là ta tốt, nên gạt huynh như vậy.” Nàng để Đường Thiệu Nghĩa kịp trả lời, lại thêm: “Đại ca, huynh đừng hỏi cha ta là ai, cũng đừng hỏi danh tính người kia là ai, được ?”



      Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, hai tay tự giác nắm chặt lấy bả vai A Mạch, trầm giọng đáp: “Được, ta hỏi.”



      Giờ phút này, cõi lòng A Mạch vững vàng trở lại, trái lại, cảm xúc trong lòng Đường Thiệu Nghĩa lại khuấy động ngừng, A Mạch sợ ta trong lúc nhất thời xúc động kéo mình ôm vào lòng, vội hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nhếch miệng cười, cố ý trêu chọc : “Đại ca, tay huynh mà dùng thêm chút lực nữa là có thể gỡ được hai cánh tay của ta xuống đấy.”



      Đường Thiệu Nghĩa nhất thời quẫn bách, vội vàng buông lỏng tay ra, đúng lúc đó lại nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, Trương Sĩ Cường bưng cơm canh từ ngoài cửa nhàng bước vào, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa ở trong phòng khỏi sửng sốt, kinh ngạc : “Đường tướng quân? Ngài đến khi nào vậy?”



      Đường Thiệu Nghĩa đỏ mặt gật gật đầu, cũng trả lời câu hỏi của Trương Sĩ Cường, chỉ quay đầu với A Mạch: “Ngươi nhanh ăn cơm , ta về trước đây.” xong, đợi A Mạch trả lời liền vội vã đứng dậy ra ngoài.



      Trương Sĩ Cường nhìn thấy kỳ quái, nhịn được quay đầu hỏi A Mạch: “Đại nhân, Đường tướng quân làm sao vậy?” Lời còn chưa dứt, Đường Thiệu Nghĩa vừa ra khỏi cửa quay lại, đến trước đầu giường của A Mạch, muốn gì đó rồi lại thôi.



      A Mạch ngửa đầu nhìn ta, ngạc nhiên : “Đại ca, làm sao vậy?”



      mặt Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn chút ửng hồng, vài lần muốn lại thôi, cuối cùng khi mở miệng chỉ là câu: “Ngươi nhanh ăn cơm !”



      xong lại xoay thẳng người bước . Trương Sĩ Cường bưng cơm canh đứng trước giường A Mạch, nhìn mà chẳng hiểu gì. Thần sắc A Mạch cũng đầy phức tạp nhìn theo bóng dáng kích động của Đường Thiệu Nghĩa, nhất thời có chút thất thần.



      Bên ngoài phòng, mặt trời dù ngả về tây nhưng sức nóng lại vẫn vô cùng gay gắt. Đường Thiệu Nghĩa bước nhanh ra khỏi tiểu viện của A Mạch rồi mới dừng lại, chậm rãi mở lòng bàn tay vẫn nắm chặt ra. Trong lòng bàn tay, khuyên tai bạc phản chiếu ánh nắng mặt trời tỏa ra ánh sáng chói mắt, chính là vật mà hôm qua ở cửa hàng trang sức A Mạch nhìn đến ngây người. Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu yên lặng nhìn lát, đem khuyên tai cẩn thận để vào trong hà bao tùy thân, lại quay đầu đưa mắt nhìn tiểu viện của A Mạch, lúc này mới nhanh chóng rời .



      Cũng ở trong thành Thái Hưng, Thường Ngọc Thanh mình ngồi dựa vào gốc cây hòe sau hậu viện, ước chừng ngồi đó cả nửa ngày. Thôi Diễn vài lần mượn cớ qua, cũng khiến Thường Ngọc Thanh chú ý, lần cuối cùng, khi Thôi Diễn còn kiên nhẫn nữa, lập tức đến trước mặt Thường Ngọc Thanh, kêu lên: “Đại ca!”



      Thường Ngọc Thanh cụp mi mắt xuống biết cân nhắc cái gì, thần trí chẳng biết lạc ở đâu, khẽ “Hử” tiếng.



      Thôi Diễn nhìn mà thở nổi, lại lớn tiếng kêu tiếng: “Đại ca”, Thường Ngọc Thanh lúc này mới đưa mắt nhìn Thôi Diễn, thản nhiên hỏi: “Chuyện gì?”



      Thôi Diễn đặt mông ngồi đối diện với Thường Ngọc Thanh, phẫn nộ : “Chẳng qua cũng chỉ là nữ nhân, huynh nếu thực thích nàng như vậy, cứ đoạt nàng về, trước đưa vào động phòng rồi sau hãy tính! Khi gạo nấu thành cơm, nàng chẳng lẽ còn ngoan ngoãn theo huynh sao!”



      [Cuốn thứ 4 hoàn ]

    5. mouse

      mouse Active Member

      Bài viết:
      560
      Được thích:
      240
      CUỐN THỨ NĂM


      [​IMG]


      CAO TRIỂN SÍ BẰNG TRÌNH THIÊN VẠN LÝ

      (Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)





      CHƯƠNG 105

      MẠCH TUỆ – Sửa chữa sai lầm









      Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở cười, A Mạch là tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc, bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại thành “chẳng qua chỉ là nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta là loại người nào?”



      Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt : “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là nữ nhân thôi sao, chúng ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta tin đám mọi rợ Nam Hạ có thể chấp nhận tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”



      “Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, lạnh giọng : “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, chiến trường lại thất bại trong tay nữ nhân nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người ta ủy thân cho mình!”



      Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám giọng thầm: “Ta cũng chỉ thế thôi, đại ca đừng giận a.”



      Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh lùng như trước, : “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, cũng là ở chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt ngấm ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi đấy!”



      Thôi Diễn nghe xong vội vàng : “Đại ca, ta có ý đó.”



      “Tốt nhất là có,” sắc mặt Thường Ngọc Thanh thoáng dịu , ngừng lại chút rồi thêm: “Về sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”



      Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ, nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ lát lại hỏi: “Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng còn đánh trận nữa, thế làm sao ở chiến trường mà cướp người được?”



      Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn lúc lâu, thấy mặt Thôi Diễn hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thắc mắc về vấn đề này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ : “Chẳng qua chỉ là cách khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở chiến trường, trước mặt thiên binh vạn mã mà cướp người được! Lại lần này chúng ta nghị hòa cũng biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ bao giờ còn đánh trận nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta ngày chưa bình định thiên hạ, trận chiến này chỉ là đánh trước hay đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhàng nhếch môi cười, lại tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, tay nàng cũng dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy còn có thể như thế nào được nữa?”



      Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”



      Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”



      “Đại ca phải thích nàng sao?”



      Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười : “Bây giờ nên làm thế nào cứ làm thế ấy , ngươi phải cũng rồi sao? Chẳng qua cũng chỉ là nữ nhân!” Vừa , vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám người, rồi mình xoay người rời .



      ——————-



      Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn tập trung hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa thất bại liền tấn công Nam Hạ.



      Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng đành, nhưng hai châu Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất trong thực tế hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa thành lại tiếp tục đánh, trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi thấy có kết quả, chưa đến quốc khố thể duy trì chi phí quân khổng lồ này, mà chỉ cần vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, Nam Hạ lập tức rơi vào hiểm cảnh mất nước.



      Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những biện thủ(1) bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia mang chỉ thị mới nhất của triều đình đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!



      Nếu nhất định phải cắt nhường hai châu đó uất ức! Nếu cắt nhường lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?



      Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy ta vẫn cúi thấp đầu, nhanh chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm lắng lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết chịu đồng ý, vậy phải tiếp tục đàm phán rồi!



      Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu gì. Bộ dạng của vị Phật gia này bàn đàm phán nếu phải híp mắt ngủ gà ngủ gật là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần cũng bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.



      Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp tục thương lượng thôi: Nếu làm như thế này , chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các ngươi nhiều lên chút, được ?



      Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: được, tiền cống hàng năm các ngươi thể ít hơn, mà hai châu Thanh, Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.



      Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?



      Biện thủ Bắc Mạc khinh thường : Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!



      Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi ngươi có có thừa sức? suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của ngươi , cần phải “Phân tích” nhiều! bàn đàm phán tất cả những thứ phân tích đều thể thừa nhận được.



      Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông : Tốt lắm, vậy chúng ta đánh tiếp.



      Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp? Binh lực triều đình chủ yếu tập trung bình định Vân Tây, sao còn có tinh lực cho phương bắc nữa!



      Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống , có gì chúng ta cứ tiếp tục thương lượng, thương lượng…



      Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên bắt đầu, hàng năm vào mùa xuân đưa tới Thái Hưng giao nộp.



      Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn thấu.



      Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao lấy nốt cả Ký Châu?”



      Trần Khởi thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại cũng tốt.”



      Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”



      Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra ý cười thản nhiên, : “Lời của Nam Hạ làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta cũng là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng công phu, biết cũng nhiều!”



      Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, : “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh Đô, Thường gia tấn công lâu mà hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu. Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ được phong hầu.”



      Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn Ký Châu bé như vậy!



      Khương Thành Dực do dự lát, lại hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với Nam Hạ, giờ tình thế của chúng ta rất tốt, sao tiếp tục truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế giáp công Thịnh Đô, chắc chắn diệt được Nam Hạ!”



      Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, : “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”



      “Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.



      Trần Khởi cân nhắc chút rồi chậm rãi : “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa vào ưu thế của kỵ binh, thực tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở, phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”



      Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong lòng được khai sáng, khỏi tiếp: “Mà quân ta nếu mình xâm nhập quá sâu, rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”



      Trần Khởi cười, : “ sai, cho nên giờ phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối đầu với Nam Hạ, bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo về sau(2), trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của Nam Hạ.”



      Khương Thành Dực nghe được kêu lớn tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia lại thống nhất ý kiến, để ý đến phản đối trong triều mà nghị hòa, ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”



      Trần Khởi cười mà , lại cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn được lại hỏi: “Nhưng trước hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là hay cho lắm.”



      Trần Khởi cười liếc nhìn ta, vui đùa : “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng biết đấy chứ?”



      Khương Thành Dực đỏ mặt, muốn biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, khỏi nhìn về phía Trần Khởi, thấy mặt Trần Khởi cũng lên tia ngạc nhiên, hiển nhiên cũng biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương Thành Dực lúc cảm thấy lạ Trần Khởi lên tiếng: “Mời Tạ đại nhân vào.”



      Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến tin tức ngoài dự liệu cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân Giang Bắc cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, qua cửa nam thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang Nam.



      Trong hòa ước Thái Hưng viết rất ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải về Giang Nam, nhưng lại quy định quân Giang Bắc là thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới độ nam(3), vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra cầu này. Đừng Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy cũng nhất thời hiểu.



      Vệ Hưng định làm gì?



      Tạ Thừa Ân : “Vệ Hưng quân Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại quân thiệt hại mất quá nửa, nay nhất định phải độ nam, cái gì mà muốn cho tướng sĩ được lần tiến vào thành Thái Hưng.”



      Trần Khởi trầm mặc gì, giống như cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc nhiên : “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành độ nam hơn phân nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc tại đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng có thể làm được gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu sao?”



      Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”



      mặt Tạ Thừa Ân lên vẻ ngượng nghịu, do dự chút rồi : “ tại hòa ước mặc dù ký kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc ngày chưa di chuyển về phía nam, hòa ước có khả năng xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là, chi bằng…”



      “Chi bằng trước hết làm theo ý bọn họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.” Trần Khởi cười, ta biết tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần nghị hòa, đương nhiên mọi đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.



      Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi thẳng tâm tư của mình ra, khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng thêm: “Hạ quan hiểu việc quân, cũng đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”

      Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ Thừa Ân thế, liền cười : “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng biến.”



      Trần Khởi tuy như vậy, nhưng Tạ Thừa Ân cũng dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy, thấy Trần Khởi cũng cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ, rằng chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc qua thành Thái Hưng thành nam độ.



      Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại, cười : “Đàm phán thành công, ta ở lại trong thành cũng có tác dụng nữa, hai ngày sau rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, sau này cùng đại quân vào thành.”



      Lời này vừa ra, lập tức khiến Tạ Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc, có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ lát sau liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức : “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn đốt pháo nghênh đón Trần soái vào thành!”



      Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài. lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta sao?”



      Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục : “Mặc dù đại quân chỉ cách Thái Hưng khoảng trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… thể đề phòng.”



      Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là Tạ Thừa Ân đồng ý cho quân Giang Bắc của Nam Hạ qua thành Thái Hưng mà nam độ.



      Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh giọng hỏi: “Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”



      Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn được lên tiếng : “Nguyên soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng mở cổng doanh trại ra là được.” xong liền lên định tìm tên quan giữ cổng, vừa nhấc được bước chân bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh nhếch khóe miệng cười, tuy điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.



      lát sau, cổng doanh trại mở ra, phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, mặt thấp giọng với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”



      Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”



      Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời nhịn được.” Thôi Diễn lần này ngốc đến nỗi hỏi lại ta hôm qua mình kể chuyện cười gì, nhưng cũng tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể nghe thấy Thường Ngọc Thanh gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên triệu ta vào yết kiến sao?”



      Viên phó tướng gật đầu : “Hoàng Thượng tuyên mình nguyên soái vào yết kiến.”



      Bên ngoài đại trướng, binh khí như rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đến, liền vội vàng cho người triệu Trần Khởi vào trướng.



      Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can gián mà rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn trăm dặm, Hoàng Thượng nên mạo hiểm đến đây.”



      Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy, mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của thiếu niên ít tuổi, cười : “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể gặp nguy hiểm được!”



      Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo : “Ngươi chớ có học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự Châu ước chừng hơn năm nay, rất nhàm chán, Thái Hậu lại còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”



      Hoàng đế kể chuyện cười ai dám cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng cười, mượn cơ hội này lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định đòi vào thành Thái Hưng ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ Hưng có đủ hai vạn quân, chẳng buồn để ý, thậm chí còn đùa câu: “Nghe Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam Hạ, thân nội gia công phu rất cao, cứ để ta chạy như vậy cũng đáng tiếc.”



      Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại gì.



      Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình, Khương Thành Dực là chờ ở đó, hai người chưa kịp chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ bên cạnh hoàng đế tiến vào, mặt lộ nụ cười lấy lòng, đem phong thư đặt vào tay Trần Khởi, : “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, là vừa rồi quên mất.”



      Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi : “Làm phiền tiểu công công rồi.”



      Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng chịu , vừa cười vừa : “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn Trần soái đọc thư xong rồi mới được .”



      Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo lời mở phong thư ra, rút ra bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công cũng che miệng cười, : “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới Trần soái, nếu muốn hồi cứ viết phong thư để Hoàng Thượng mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định đọc đâu.”



      Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công : “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”



      Tiểu công công lúc này mới . Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là Ninh Quốc trưởng công chúa?”



      Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ nghĩ, cảm thấy thế cũng hay, lại cầm lá thư lên.



      Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi chuyện cũng câu thúc, lại biết Ninh Quốc Trưởng công chúa từ vốn ái mộ Trần Khởi, khỏi cười : “Nguyên soái vốn sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”



      mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên lên bóng dáng của A Mạch, khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình hỏi khi nào lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười, chẳng gì.



      Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần Khởi tốt, liền thôi tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi bình ổn lại, thản nhiên cười : “Trước cứ chờ xem .”



      Ngày mùng tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.



      Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng ra theo cửa phía nam như mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng động chạm gì đến phái đoàn nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa hàng của các phú hộ trong thành.



      Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ mọi người nhất thời sáng tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp nguyên tắc, lúc sắp muốn cướp phá sạch rồi mới tiến về phía nam.



      Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!



      Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc nhiên. Lặng im lát, tiểu hoàng đế mới than tiếng: “Vệ Hưng từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa đầy năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân Giang Bắc chẳng lẽ chính là nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”



      Chư tướng trong trướng phần nhiều cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng lợi hại của quân Giang Bắc sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa thông qua đầu óc, lập tức : “Cũng phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo đám kỵ binh đánh cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”



      Thôi Diễn đến đây mới đột nhiên tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.



      Tiểu hoàng đế vốn nghe, thấy Thôi Diễn đột nhiên nữa, khỏi có chút kỳ quái, hỏi: “Mạch Tuệ có phải là kẻ mai phục Thường Ngọc Tông ? Lại thế nào, sao tiếp?”



      Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu xoay chuyển vài vòng, mặt liền ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng : “Thần là bại tướng dưới tay ta, có mặt mũi nào để .”



      Tiểu hoàng đế cũng lúc vui vẻ, nên chẳng những có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng cần phải như vậy.”



      Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu tử Thôi Diễn này đúng là tên ngốc thành thực, vận khí cũng tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế rất tốt. Vệ Hưng dung túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười : “Cứ để mặc cho Vệ Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa dân.”



      Tuy như thế, song tiểu hoàng đế vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái Hưng về hướng đông!



      Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc sắc mặt trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng vào, dâng tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc .”



      Trong trướng lập tức vang lên thanh the thé của tiểu công công:



      “Mạch Tuệ, quê quán , sinh năm Đinh Hợi.



      Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.



      ……



      Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.



      Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan truy binh của Thôi Diễn…”



      ———————-

      Chú thích:

      1- Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.

      2- Mối lo về sau: nguyên văn: Hậu cố chi ưu

      3- Nam độ: tiến quân về phía nam

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :