1. QUY ĐỊNH BOX TRUYỆN SƯU TẦM :

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]
    ----•Nội dung cần:
    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)
    - Nguồn
    - Tác giả
    - Tên editor +beta
    - Thể loại
    - Số chương
    Đặc biệt chọn canh giữa cho đoạn giới thiệu
    ---- Quy định :
    1. Chỉ đăng những truyện đã có ebook và đã được public trên các trang web khác
    2 . Chỉ nên post truyện đã hoàn đã có eBook.
    3. Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn
    4 . Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

A Knight In Shining Armor - Jude Deveraux ( 34c )

Thảo luận trong 'Truyện Phương Tây (Sưu Tầm)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      Chương 34





      Dougless phải dậy rất sớm để đón chuyến tàu tới London; sau đó đón chuyến taxi dài, đắt đỏ tới sân bay. Cảm giác về những thành quả đạt được giúp trụ vững từ khi rời thế kỷ mười sáu đến giờ rời bỏ . Tất cả những gì cảm thấy bây giờ là mệt mỏi và đơn. đem lòng Nicholas hai lần. Mỗi giây trôi dường như đem những ký ức về lại với . nhớ quãng thời gian ở thế kỷ hai mươi và kinh ngạc khuôn mặt khi chạm vào những cuôn sách đầy những bức ảnh màu. nhớ cái cách thích thú với việc theo dõi người tài xế gạt cần số. Cả cuốn tạp chí Playboy trong ngăn kéo của Arabella!

      Khi tới thế kỷ mười sáu và hề nhớ , thậm chí còn có vẻ ghét nữa, nghĩ là thay đổi. Nhưng . vẫn là người đàn ông luôn đặt gia đình lên trước bản thân mình, và khi bắt đầu tính cả Dougless vào trong gia đình , trọn vẹn như họ.

      Khi chuyến bay được gọi qua loa, Dougless đợi cho tới phút cuối rồi mới lên máy bay. Có lẽ nên rời quốc. Nếu tiếp tục ở lại nước , được ở gần Nicholas hơn. Có lẽ nên mua ngôi nhà ở Ashburton và tới thăm ngôi mộ của hàng ngày. Có lẽ nếu cầu nguyện đủ lâu, có thể được quay trở lại với , hoặc lại đến với .

      cố kiểm soát bản thân mình, nhưng những giọt nước mắt cứ trào ra. Nicholas hoàn toàn rời bỏ rồi. bao giờ còn gặp lại , hay chạm vào nữa.

      Những giọt nước làm mờ mắt khi lên máy bay đến nỗi đâm thẳng vào người đàn ông phía trước và chiếc túi du lịch của tuột khỏi vai rơi thẳng vào trong lòng của người khách khoang hạng nhất.

      “Tôi rất xin lỗi,” , sau đó nhìn vào đôi mắt xanh của người đàn ông rất đẹp trai. Trong khoảnh khắc tim đập mạnh, nhưng bắt bản thân mình quay . ta phải là Nicholas; mắt của ta phải là mắt của Nicholas.

      nhận lấy chiếc túi du lịch của mình từ người đàn ông trong khi ta nhìn chăm chăm lên đầy thích thú. Nhưng Dougless . Người đàn ông duy nhất khiến thích thú bị bịt kín bên trong ngôi mộ bằng cẩm thạch.

      tiến tới chỗ ghế ngồi của mình, nhét chiếc túi du lịch xuống dưới nghế ngồi phía trước , sau đó nhìn ra ngoài cửa sổ. Khi chiếc máy bay bắt đầu chuyển động dọc theo đường băng và nhận ra rời khỏi nước , bắt đầu khóc cách tha thiết. Người đàn ông ngồi trong chiếc ghế sát lối bên cạnh , người , vùi mặt vào tờ báo của ông ta.

      Dougless cố ngăn những giọt nước mắt của lại. tự tặng cho bản thân mình bài động viên về việc có thể hoàn thành được biết bao điều, và nhắc nhở bản thân rằng việc đánh mất Nicholas chỉ là cái giá cho tất cả những việc tốt đẹp làm. Nhưng mỗi ý nghĩ lại khiến khóc dữ dội hơn.

      Khi máy bay cao và đèn THẮT DÂY AN TOÀN được tắt , khóc dữ dội đến nỗi nhìn thấy chuyện gì xảy ra ở bên cạnh mình. Người đàn ông từ khoang hạng nhất, với chai sâm panh và hai chiếc ly ở trong tay ta, hỏi người đàn ông ngồi cạnh Dougless đổi chỗ.

      “Đây,” ta .

      có thể nhìn xuyên qua màn nước mắt của mình và thấy ly sâm panh được chìa ra cho .

      “Thôi nào, cầm lấy nó . Nó làm cảm thấy tốt hơn.”

      là ng-người Mỹ,” qua làn nước mắt.

      “Phải. Tôi đến từ Colorado. Còn ?”

      “M-Maine.” nhận lấy ly sâm panh, uống quá nhanh và bị sặc. “T-tôi có vài người họ ở Colorado.”

      “Ồ? Ở đâu thế?”

      “Chandler.” Những giọt nước mắt của còn chảy xuống nhanh nữa.

      phải nhà Taggert chứ?”

      nhìn lên ta. Tóc đen, mắt xanh. Giống y như Nicholas. Những giọt nước mắt lại tăng tốc. gật đầu.

      “Tôi từng tới Chandler với cha tôi vài lần, và tôi gặp vài người ở nhà Taggert. Nhân tiện tôi là Reed Stanford.” ta chìa tay ra để bắt tay , nhưng khi hề dịch chuyển, ta nâng bàn tay ở trong lòng lên và siết lấy nó trong bàn tay của ta. “Rất vui khi được gặp .” ta thả tay ra, nhưng nhìn vào nó, gì hết, cho tới khi Dougless giật tay ra.

      “Xin lỗi,” ta .

      …?”

      “Stanford.”

      Stanford,” , khụt khịt, “Tôi biết tôi làm gì để khiến có cái ấn tượng là tôi dễ dãi hẹn hò, nhưng tôi có thể đảm bảo với rằng tôi phải. Tôi nghĩ tốt nhất nên đem sâm panh và trở lại ghế ngồi của mình.” cố gắng cư xử cách vương giả, nhưng nỗ lực của bị thiếu mất vài thứ, vì mũi đỏ lự, mắt sưng phồng, và nước mắt chảy xuống má .

      ta cầm lấy những chiếc ly và rời .

      ta bắt đầu khiến Dougless cáu giận. Liệu ta có phải là mấy tên bệnh hoạn, kẻ thích phụ nữ khóc lóc ? Chuyện quái gì xảy ra vào thời thơ ấu của ta khiến ta bị khuấy động bởi nước mắt? “Nếu rời tôi gọi tiếp viên hàng đấy.”

      quay sang nhìn . “Xin đừng,” , và có cái gì đó trong mắt ta khiến Dougless khự lại khi với tới nút gọi. “ phải tin tôi; tôi chưa bao giờ làm việc gì như thế này trong cuộc đời mình. Ý tôi là, trước đây tôi chưa bao giờ sáp đến bắt chuyện với phụ nữ máy bay. Hay thậm chí là ở quán bar. Chỉ là gợi cho tôi nhớ đến ai đó.”

      Dougless còn khóc nữa vì có cái gì đó thân thuộc cách kỳ lạ trong cái cách ta quay đầu. “Ai?” hỏi.

      ta cười toe toét tới tận mang tai, và tim Dougless lỡ mất nhịp. Nicholas đôi khi cũng cười như thế. “ tin nếu tôi kể cho đâu. Nó còn hơn cả điều tưởng nữa.”

      “Thử xem. Tôi có trí tưởng tượng rất phong phú.”

      “Được rồi,” ta . “ nhắc tôi nhớ đến quý trong bức chân dung.”

      Dougless giờ lắng nghe.

      “Khi tôi còn là cậu bé, khoảng mười tuổi, tôi nghĩ thế, cha mẹ, trai, và tôi tới quốc sống năm. Cha tôi có công việc ở đây. Mẹ từng lôi tôi và trai mình tới cửa hàng đồ cổ, và tôi sợ rằng tôi thích thú trong chuyện bị lôi lắm. Như thế, cho đến chiều thứ bảy, khi tôi nhìn thấy bức chân dung.”

      Ngừng lại, ta đổ đầy lại chiếc ly rỗng của Dougless. “Bức chân dung là bức tiểu hoạ bằng sơn dầu, được vẽ đâu đó khoảng thế kỷ mười sáu, và nó là bức tranh về quý .” ta nhìn , và mặc dù khuôn mặt sưng lên, ánh mắt ta gần như là vuốt ve.

      “Tôi muốn bức chân dung đó. Tôi thể giải thích được. Nó phải chỉ như là tôi muốn có. Tôi phải có nó.” ta mỉm cười. “Tôi e là tôi chính xác được dễ thương gì trong việc lên ước muốn của mình. Bức chân dung khá là đắt tiền và mẹ tôi từ chối nghe theo đòi hỏi của tôi, nhưng tôi chưa bao giờ chấp nhận câu trả lời là . Thứ bảy tiếp theo tôi bắt tàu điện ngầm, trở lại cửa hàng đồ cổ, và đề nghị tất cả những gì tôi có như khoản ứng trước cho bức chân dung. Tôi nghĩ nó cỡ năm bảng.”

      ta mỉm cười với ký ức đó. “Nhìn lại chuyện đó, tôi nghĩ ông lão chủ cửa hiệu cho là tôi muốn trở thành nhà sưu tập. Nhưng tôi muốn sưu tập. Tôi chỉ muốn bức chân dung đó thôi.”

      có được nó ?” Dougless thầm.

      “Ồ, có chứ. Cha mẹ tôi nghĩ tôi phát điên rồi và rằng bức tiểu hoạ thời Elizabeth đệ nhất phải là thứ đứa bé có thể sở hữu được, nhưng khi họ thấy tôi, hết tuần này đến tuần khác, dành tất cả tiền tiêu vặt của mình vào việc mua bức tiểu hoạ, họ bắt đầu giúp tôi. Sau đó, chỉ trước khi chúng tôi rời khỏi quốc, khi tôi bắt đầu cảm thấy rằng mình chẳng bao giờ dành đủ tiền để mua nó, cha tôi lái xe đưa tôi đến cửa hàng đồ cổ và mua tặng tôi bức chân dung.”

      Người đàn ông dựa lưng vào ghế của ta, như thể đó là cái kết của câu chuyện.

      có mang theo bức chân dung ?” Dougless thầm.

      “Luôn luôn. Tôi luôn có nó bên mình. có muốn ngắm nó ?”

      Dougless chỉ có thể gật đầu.

      ta rút chiếc hộp da từ trong túi áo khoác của mình và chìa nó cho . Chậm rãi, Dougless mở chiếc hộp. Ở đó, nền nhung đen, là bức chân dung Nicholas cho vẽ . Nó được bao bọc trong chiếc khung bằng bạc, xung quanh rìa là những hạt ngọc trai .

      hề hỏi xin phép, Dougless nhấc bức tiểu hoạ ra khỏi chiếc hộp, lật mặt sau của nó, sau đó giơ lên chỗ chiếc đèn.

      “Linh hồn ta tìm thấy em,”Reed . “Đó là những gì được ghi ở phía sau, và nó được ký với chữ C. Tôi luôn tự hỏi những từ đó có nghĩa là sao và chữ C viết tắt cho từ gì.”

      “Colin,” Dougless trước khi nghĩ.

      “Làm sao biết?”

      “Biết cái gì?”

      “Colin là tên đệm của tôi. Reed Colin Stanford.”

      Khi đó nhìn ta, nhìn ta. liếc xuống bức chân dung, sau đó nhìn lên , và khi làm thế, nhìn qua hàng lông mi của , như Nicholas vẫn thường làm. “ làm nghề gì?” thầm.

      “Tôi là kiến trúc sư.”

      hít vào hơi. “ bao giờ kết hôn chưa?”

      luôn thẳng vào vấn đề, đúng ? , tôi chưa bao giờ kết hôn, nhưng tôi với : tôi lần gần như bỏ rơi người phụ nữ ở nhà thờ. Đó là điều tệ nhất tôi từng làm trong cuộc đời mình.”

      “Tên ta là gì?” Giọng Dougless còn thấp hơn cả tiếng thầm.

      “Leticia.”

      Ngay lúc đó tiếp viên dừng lại cạnh ghế của họ. “Chúng tôi có thịt bò nướng hoặc là gà Kiev cho bữa tối nay? chị chọn món gì?”

      Reed quay sang Dougless. “ ăn tối cùng tôi nhé?”

      Linh hồn ta tìm thấy em, Nicholas viết. linh hồn, phải thể xác, mà là linh hồn. “Được, em ăn tối với .”

      mỉm cười với và đó là nụ cười của Nicholas.

      Cảm ơn Người, thưa Chúa, nghĩ. Cảm ơn Người.

      **THE END**

    2. lavendervs

      lavendervs Well-Known Member

      Bài viết:
      2,143
      Được thích:
      392
      Quá trình viết A Knight in Shining Armor

      JUDE DEVERAUX


      Trong mười bốn năm kể từ khi tôi viết A Knight in Shining Armor, tôi nhận được rất nhiều những thắc mắc về cuốn sách, đặc biệt về việc tôi bắt đầu viết nó như thế nào. Rất nhiều lần tôi được bảo rằng đó là “câu chuyện tình hoàn hảo”, nhưng tôi nghĩ rằng sức quyến rũ của cuốn sách đối với tôi—và, vâng, nó là cuốn sách thích của tôi trong số những tác phẩm của mình—và đối với bạn đọc là đề tài nằm phía dưới.

      Điều mà mọi người biết là A Knight in Shining Armor viết về tật nghiện rượu (alcoholism).

      Trước khi tôi bắt đầu cuốn sách, tôi nghĩ, tôi muốn viết về… tôi lấp đầy chỗ trống với điều gì đó khiến tôi hứng thú, sau đó xây dựng cốt truyện đề tài đó. Khoảng những năm 1980, khi tôi nghiên cứu cho cuốn sách khác tôi lướt qua vài thông tin khiến tôi giật mình. Tôi đọc được rằng, trong nhiều trường hợp, chứng nghiện rượu là tình trạng về tâm lý cũng nhiều như nó là vấn đề về thể chất. Tôi luôn coi là đúng rằng người khi thôi uống rượu, còn là người nghiện rượu nữa.

      Nhưng những gì mà tôi đọc—và thứ lỗi cho những chú giải dài dòng của tôi, cứ như thể tôi phải là chuyên gia trong lĩnh vực này— rằng có những thứ được coi như là “nhân cách rượu” (alcoholic personality). Thực tế, người cần phải uống rượu mới có cái nhân cách này, và trong trường hợp đó, ta được gọi là “say khan” (dry drunk).

      Điều khiến tôi hứng thú về nhân cách này là người mắc chứng đó cần cách đến tuyệt vọng phá vỡ tinh thần của người khác. người bị “say khan” chọn người mạnh mẽ nhất, đạo đức nhất và hào phóng nhất mà ta hay ta có thể tìm thấy, sau đó liều lĩnh cả cuộc đời của ta để cố kiểm soát, và từ đó thay đổi người này. Mục tiêu sau rốt là có thể , “Tôi phải là quá tệ. Chắc chắn, tôi là những điều tệ hại, nhưng nhìn người này xem. Mọi người đều nghĩ ta (hay ta) là tốt đẹp, nhưng tôi chỉ vừa mới chứng minh rằng, ta ( ta) cũng có thể xấu xa.”

      ví dụ về kiểu suy nghĩ này được miêu tả trong bộ phim Dangerous Liaisons. Những nhân vật được đóng bởi Glenn Close và John Malkovich, tìm kiếm người có đạo đức cao nhất, mạnh mẽ nhất họ có thể tìm thấy được, được miêu tả sinh động bởi Michele Pfeiffer, sau đó bắt đầu hủy hoại .

      Sau khi tôi dành thời gian đọc về nhân cách rượu, tôi biết tôi muốn viết về nó. Tôi cũng muốn nhân vật nữ chính, người mạnh mẽ nhưng tin rằng ấy yếu đuối, người hào phóng, mẫu người giúp đỡ người khác ngay cả khi điều đó là nguyên nhân khiến ấy gặp những thử thách cam go, dẫu cho tinh thần hào phóng của ấy cũng chính là điểm yếu.

      Tôi viết xuống những mục tiêu của mình, sau đó bắt đầu sáng tạo nên câu chuyện thể điều tôi muốn. Tuy nhiên, tôi biết nữ hùng của mình phải ở trong mối quan hệ kiêng khem rượu, bởi vì tôi chắc chắn rằng nếu ấy có liên quan với kẻ nghiện rượu, tôi mất đồng cảm của độc giả. may rằng, có rất nhiều người—bao gồm rất nhiều nhà tâm lý học— rằng, “Tất cả những gì bạn phải làm là bỏ ,” và họ tin rằng từ bỏ mối quan hệ tệ hại dễ dàng như thế. Tôi cũng muốn nêu ra vấn đề trong chỉ câu. Tất cả những gì tôi phải làm là cho gã bạn trai của nữ chính uống cốc uýt-ky thứ tư của ta và tất cả mọi người biết họ đọc về mối quan hệ rượu chè. , tôi muốn khéo léo hơn thế. Thực tế là, vào thời điểm đó, tôi với người chủ bút của mình rằng tôi muốn viết cuốn sách về chứng nghiện rượu nhưng tôi bao giờ đề cập tới từ đó trong cuốn sách.

      Như bạn biết đấy, tôi thường viết về gia đình có tên là Montgomery. Tất cả người nhà Montgomery đều lỗi lạc, giàu có và sợ hãi bất cứ điều gì. Họ là những hùng . Tôi nghĩ, điều gì xảy ra nếu ai đó sinh ra trong gia đình như thế nhưng lại cảm thấy ấy hề phù hợp? Chuyện gì xảy ra nếu ấy bị đe doạ bởi những người họ hàng sáng chói của mình và cảm thấy rằng ấy chẳng bao giờ xứng đáng với những tiêu chuẩn của họ?

      Từ những câu hỏi này, tôi sáng tạo ra Dougless Montgomery, phụ nữ trẻ có ba người chị hoàn hảo cách khủng khiếp và cả cuộc đời cảm thấy thua kém với họ.

      dễ để hình dung Dougless bị cuốn bởi người đàn ông bị mắc chứng nhân cách rượu. Robert Whitley là người đàn ông thành đạt, và bề mặt, ta dường như giống người nào đó mà Dougless có thể trình diện cho gia đình cách đầy kiêu hãnh. Nếu bản thân Dougless thể vượt lên những thành tích của các chị , vậy ấy làm điều tốt nhất tiếp theo là mang người như thế vào trong gia đình .

      khi tôi có ý tưởng về hậu cảnh của Dougless, tôi cần câu truyện có thể thay đổi được ấy. Đầu tiên, tôi cần đưa ấy ra khỏi gia đình khiến cảm thấy bị thua kém. Nhưng làm thế bằng cách nào? phần tín ngưỡng của dòng họ Montgomery là họ luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau. Làm cách nào tôi có thể đặt nữ chính của mình vào tình huống khốc liệt đủ để về cơ bản thay đổi tính cách của ấy nhưng lại ngăn chặn những người họ hàng của cứu ra khỏi cảnh túng quẫn?

      Chính ý tưởng đưa nữ chính của tôi “ xa” khiến tôi nghĩ tới việc viết cuốn tiểu thuyết về du hành thời gian. Tôi luôn thích đọc những câu chuyện về du hành thời gian, thế nên tôi nghĩ thú vị khi viết cuốn. Ngay sau đó, tôi nhận thấy rằng tôi cần hai điều từ cốt truyện của mình. Đầu tiên, nữ hùng của tôi cần khám phá ra rằng hào phóng và tốt bụng của lại những đức tính đáng được coi trọng. Và, thứ hai là Dougless cần hoàn thành điều gì đó khiến tự hào bởi bản thân mình, và thành tựu này phải vĩ đại để có thể bỏ qua những thất bại trong quá khứ của , gã bạn trai tồi tệ của , và tất cả những tình huống bẽ bàng vướng phải.

      Từ hai cầu , tôi tạo dựng nên cốt truyện du hành thời gian cơ bản, nơi mà người đàn ông thời trung cổ tới tương lai và Dougless giúp ta. Lúc đầu miễn cưỡng, nhưng bản tính tốt bụng của cho phép mình bỏ rơi ta. Để Dougless có thể nhận thấy rằng người phụ nữ rất mạnh mẽ, người có thể tự lập, tôi quyết định đưa ấy trở lại thời đại Elizabeth đệ nhất, nơi ấy phải sử dụng tất cả trí thông minh để sống sót. Và vì tôi muốn ấy lặn mất tăm dưới cánh tay đầy bảo vệ của người đàn ông, tôi phải đưa ấy về thời điểm mà người đàn ông thời Elizabeth đệ nhất nhớ ấy.

      Sau khi tôi có cốt truyện của mình, tôi dành hàng tháng trời để nghiên cứu. Khi tôi đọc những tiểu thuyết du hành thời gian trong quá khứ, tôi luôn cảm thấy chán bởi những lời giải thích dài dòng về lịch sử chính trị. Điều tôi muốn đọc, và chắc chắn muốn viết về là người thời đó mặc gì, họ ăn gì. Tôi muốn biết họ nghĩ gì. Tôi muốn biết tất cả mọi chi tiết về cuộc đời của người thời Elizabeth đệ nhất— phải là vấn đề chính trị tẻ ngắt!

      Tôi thích thú việc nghiên cứu này rất nhiều, và khi tôi khám phá ra những điều khiến tôi hứng thú, tôi thêm vào cốt truyện của mình để tôi có thể bao gồm những gì tôi vừa tìm hiểu được. Ví dụ, tôi chưa bao giờ nghĩ về những gì mọi người thời đó làm với lũ trẻ của mình trước khi có vườn trẻ. Trong khi người hầu ra ngoài làm việc cả ngày, ai là người trông những đứa trẻ mới chập chững biết , quá để có thể làm việc nhưng lại đủ lớn để dính vào những rắc rối? Tôi có thể với bạn rằng tôi bị sốc khi đọc thấy rằng trẻ em bị quấn chặt đến mức có thể bị choáng, sau đó treo lên những cái đinh ở tường!

      Khi tôi hoàn thành rất nhiều trang cốt truyện và hàng trăm tấm thẻ tra cứu đầy những gì nghiên cứu được, tôi tới cabin của mình ở Pecos Wilderness, New Mexico và tách biệt bản thân mình trong ba tháng rưỡi trong khi tôi viết cuốn sách. Tôi dậy lúc tảng sáng, ăn bát ngũ cốc, sau đó viết bằng tay đến tận trưa. Sau bữa trưa tôi dạo và dàn dựng cảnh của ngày tiếp theo trong đầu mình. Vì cabin của tôi nằm ở độ cao hơn ba nghìn mét so với mực nước biển, điều này có nghĩa là nếu leo qua đường giới hạn của cây cối, thường vào khoảng độ ba nghìn ba trăm tới ba nghìn sáu trăm mét. Mùa hè đó tôi leo nhiều đến nỗi khi tôi lên giường vào buổi tối, cơ bắp ở chân tôi co cứng đến nỗi gót chân tôi chạm được vào ga trải giường.

      Khi cuốn sách hoàn thành, tôi trút tâm huyết của mình vào đó quá nhiều đến nỗi thay vì gửi nó qua thư, tôi bay đến New York để trao tận tay bản thảo cho Pocket Books.

      Tôi hài lòng với cuốn sách vì vài lý do. Vì điều là tôi cảm thấy tôi hoàn thành những gì tôi đặt ra: tôi viết về chứng nghiện rượu mà hề đề cập đến từ đó. Và tôi khiến nữ nhân vật chính của mình nhận ra rằng ấy mạnh mẽ đủ để đứng lên đối mặt với gã bạn trai ưa kiểm soát của —và người chị thể chịu đựng nổi của . ngày tôi viết cảnh khi Dougless với chị đừng có với bằng cái kiểu thiếu tôn trọng như vậy, tôi nhảy lên vì thắng lợi.

      Những năm kể từ khi A Knight in Shining Armor lần đầu được xuất bản, tôi hạnh phúc được rằng, độc giả dường như thích cuốn sách nhiều như tôi thích viết nó. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, tôi nghĩ rằng tôi thích duyệt lại cuốn sách và thêm vào vài điều tôi học được trong thời gian qua về cách viết. Thế nên, tháng năm 2001, tôi làm thế. Tôi thay đổi cốt truyện, thêm vào bất cứ thông tin mới nào, nhưng bằng cách nào đó tôi xoay xở thêm vào năm mươi trang của cuốn sách. Cuối cùng, tôi nghĩ giờ nó đọc mượt mà hơn, và có lẽ dễ hiểu hơn chút về việc tại sao Dougless lại muốn cưới gã khốn như Robert.

      Tôi cảm ơn tất cả các bạn vì những lời lẽ tốt đẹp về cuốn sách, những lời luôn trong trái tim tôi trong nhiều năm nay, và tôi hi vọng các bạn tiếp tục thích cuốn sách trong thời gian lâu nữa.

      (H1): “Corn on the cob”

      (H2): “Easy chair”

      (H3): “A corbel”

      (H4): “Deviled eggs”

      [1]Ghi chú: tất cả đơn vị đo lường trong truyện bao gồm yard, foot, inch, pound,… được chuyển sang đơn vị đo lường thông dụng ở Việt Nam cho bạn đọc dễ theo dõi.


      [2]Chủ nghĩa Sôvanh: chủ nghĩa dân tộc được cường điệu đến cuồng nhiệt, mù quáng, bênh vực danh dự tổ quốc và thể diện quốc gia đến mức cực đoan. Thuật ngữ CNS bắt nguồn từ tên của Sôvanh [N. Chauvin; người lính cuồng tín của đế chế Napôlêông I (Napoléon Bonaparte) cuối thế kỉ mười tám đầu thế kỉ mười chín].


      [3]Si-linh: đơn vị tiền tệ cũ ở (trước 1971), nếu tính theo nay 1 si-linh tương đương 5 xu (penny), hoặc 1/20 bảng .


      [4]Hamlet: hoàng tử Đan Mạch, nhân vật chính trong vở bi kịch cùng tên của Shakespeare.


      [5]Bette Davis: (1908-1989) nữ diễn viên điện ảnh, truyền hình và sân khấu người Mỹ, từng hai lần đoạt giải Oscar.


      [6]Bedlam: tên của tu viện thành lập tại Luân Đôn vào năm 1247, sau đó được tu sửa lại thành bệnh viện tâm thần đầu tiên ở năm 1329. Đến thế kỷ mười sáu trở nên nổi tiếng. Vì vậy thuật ngữ “bedlam” cũng mang ý nghĩa chỉ “nhà thương điên”. Tên chính thức nay của Bedlam là Bệnh viện Hoàng gia Bethlem.


      [7]Horatio Nelson: (1758 - 1804) tử tước Nelson I, công tước Bronté I, là phó Đô đốc người , nổi tiếng trong chiến tranh Napoleon, đặc biệt là trận chiến Trafalgar, trận chiến quyết định cho chiến thắng của vương quốc , đồng thời cũng là nơi ông hy sinh. Nelson được biết đến là người có khả năng truyền cảm hứng và khích lệ tinh thần binh sĩ, chính nhờ điều đó mà ông được gắn với cái tên :"The Nelson Touch".


      [8]Miss Marple: già chồng sống ở trong ngôi làng ở St. Mary Mead, nước , có tài phán đoán suy luận đặc biệt, là nhân vật hư cấu xuất trong 1 /2 cuốn tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie.


      [9]Punk rock: loại nhạc rock dữ dội, mạnh (phổ biến từ giữa thập niên 70 thế kỷ trước ở , Mỹ và Úc).


      [10]Thác Niagara: ngọn thác lớn thứ hai và là trong những ngọn thác hùng vĩ nhất thế giới, với chiều cao tổng cộng 52m, nằm ở biên giới Mỹ và Canada.


      [11]Bed and breakfast: (hay B & 8-) kiểu nhà trọ cung cấp chỗ nghỉ qua đêm và bữa sáng cho khách. Thông thường Bed and breakfast là ngôi nhà tư nhân có khoảng mười phòng ngủ sẵn sàng phục vụ.


      [12]Trà ở quốc: mãi đến tận những năm 1660 – 1670, trà mới được du nhập vào bởi hoàng hậu người Bồ Đào Nha Catherine, vợ của hoàng đế quốc Charles đệ nhị. Vì vậy Nicholas mới biết gì đến trà vào thời của .


      [13]Khóa Velcro:loại khoá dán, khoá Velcro (cái khoá của áo quần, giày dép,... gồm có hai dải, nhám trơn, khi ép lại dính chặt nhau).


      [14] Đây là bức Concert Champêtre (Pastoral Concert) của Titian, được vẽ vào năn 1510.


      [15]Nhạc Ragtime: là loại nhạc của những người Mỹ da đen.


      [16]National Trust: quỹ từ thiện, hoàn toàn độc lập với chính phủ, bảo tồn và mở cửa những ngôi nhà, khu vườn lịch sử và những tượng đài kỷ niệm cho công chúng tới tham quan.


      [17]Grafitô: (graffiti) loại hình vẽ, chữ viết tường cổ. Nghệ thuật Grafitô là nghệ thuật trang trí bằng cách cạo thạch cao cho lộ mặt dưới có màu khác.


      [18]Club sandwich: là loại xăng-uých với hai lớp được trám giữa ba lớp bánh mì, với nhân bánh thường là gà tây ở lớp dưới cùng, thịt lợn xông khói, dau diếp, cà chua ở . Nó thướng được cắt thành hình tam giác và được giữ lại với nhau bởi cái que trang trí cocktail.


      [19]National Enquirer: tờ báo lá cải của Mỹ, chuyên đăng tin tức của những người nổi tiếng, tin đồn nhảm và tội ác.


      [20]VCR: viết tắt của từ Videocassette Recorder, nghĩa là đầu máy thu phát băng hình.


      [21]Venice Beach: tên bãi biển tuyệt đẹp rất nổi tiếng về du lịch nằm tại quận Venice, thành phố Los Angeles, bang Californa, Hoa Kỳ.


      [22]Công giáo: còn gọi là Thiên Chúa giáo La Mã, hoặc Công giáo Rôma, là tôn giáo lâu đời nhất bắt nguồn từ Kiô giáo và có giáo dân đông đảo nhất nay, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã (Rôma).

      Giải thích cho chi tiết đến khả năng lật đổ Elizabeth I trả nước lại cho Công giáo:thời Trung cổ, Giáo hoàng có quyền lực tuyệt đối ở khắp châu Âu. Trải nhiều cuộc tranh cãi tôn giáo quyết liệt, đến thời Edward VI (em của Elizabeth I) lên ngôi ( 1547-1553) và sau đó là Elizabeth I (1558-1603), Giáo hội quốc ( giáo) chính thức được thừa nhận là chính giáo ở , với việc năm 1559 Nữ hoàng thông qua đạo luật Quyền Tối thượng (được soạn thảo từ thời vua Henry VIII vào năm 1534, tuyên bố nhà vua là “Thủ Trưởng Tối Cao duy nhất trái đất” của Giáo Hội Quốc), khẳng định quyền uy của mình thống lĩnh giáo hội trong nước, khước từ quyền lực của Giáo hoàng, qua đó công nhận nước tách ly hoàn toàn ra khỏi Công giáo La Mã.

      Dành cho độc giả có hứng thú biết thêm: (theo lời giải thích của bạn Armelia) Edward VI là em trai của Elizabeth, là đứa con trai quý báu của ông Henry VIII với người vợ thứ 3 là Jane Saymour, để cưới bà này ông vua làm vụ xử chém người vợ thứ 2, tức là mẹ của Elizabeth (đây là 1 trong những bí của lịch sử nè, bà Anne Boleyn bị buộc tội thông gian và loạn luân, còn chuyện có hay ai biết).

      Nhà thờ quốc thành lập từ thời Henry VIII, vì người vợ đầu chỉ sinh được con Mary, vua muốn con trai, nên xin với giáo hoàng li dị vợ (lúc đầu là xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu gì đó, vì hình như người vợ đầu là vợ góa, hay hôn thê chưa cưới gì đó của người trai qua đời sớm của Henry --> đáng ra đám cưới này là được phép, có lẽ tại lúc đầu Henry phụng đắc lực cho giáo hoàng lắm nên được đặc cách cưới bà này), nhưng được chấp thuận. Thế là ông này trở mặt với bên giáo hội luôn, tự lập ra trường phái (hay dòng tu gì đó, tớ cũng k rành) riêng cho quốc, đó là nhánh Protestant ( ra hình như nhánh này có từ lâu rồi phải, lúc đầu nó cũng bị giáo hội và Henry đàn áp), vì những luật lệ của nhánh này có lợi cho nhà vua, và vua cũng trở thành người đứng đầu của giáo hội --> ông ta có thể li dị dễ dàng mà bị ai cản trở. Sau khi vua bỏ người vợ thứ nhất cưới Anne Boleyn, bà này sinh ra Elizabeth. chung cả thế giới đều rằng Anne dụ dỗ nhà vua để ông này bỏ vợ mình và cưới bà ấy, gọi bà ấy là mụ phù thủy: Anne tóc đen mắt đen, da sậm màu, nghe đồn có cái bớt màu tối và tay sáu ngón gì đó nữa (trong truyện này cái lúc D vừa về quá khứ mấy người dân làng có mụ phù thủy Boleyn đó). Và việc kết hôn này của vua được giáo hội Vatican đồng ý, cũng rất nhiều nước phản đối --> theo Giáo hội, nhánh Christian (người theo công giáo): Elizabeth chỉ là con hoang của nhà vua và được phép kế vị. Thêm là, do Anne sinh được con trai mà vua mong muốn, lúc bà bị buộc tội, ông vua lúc đó rằng cưới bà là do bị mê hoặc gì đó, Anne chết Elizabeth cũng được thừa nhận luôn, bị giáng xuống là Lady (đáng ra là Royal Princess). Người vợ thứ 3 sinh được con trai, sau này thành Edward VI, tuy nhiên thể chất tốt nên mất sớm. Tiếp theo Edward Mary I nối ngôi (Mary là con của Henry với người vợ đầu). Mary là người theo Christian nên được chấp nhận của tất cả. Sau này Mary mất, bà ấy truyền ngôi cho Elizabeth. Nhưng bên Giáo Hội cho rằng bà ấy bệnh quá nên lú lẫn, cho rằng hợp lệ, đem cái vụ con hoang này nọ ra tiếp để chống đối Elizabeth... Theo như Giáo hội, người thừa kế hợp pháp sau Mary I phải là Mary xứ Scotland (cháu họ gọi Mary I và Elizabeth I bằng ) và họ kích động để chống đối và mưu đưa Mary xứ Scotland lên ngôi (Mary xứ Scotland cũng là 1 Christian ấy mà).


      [23]Garam Masala: loại hỗn hợp gia vị của Ấn độ.


      [24]Lettuce: rau diếp, là từ đồng với Lettice, tên vợ của Nicholas.


      [25]Attila the Hun: (Attila Man rợ) là hoàng đế của người Hung, được biết đến như kẻ cai trị tàn bạo, tiến hành nhiều cuộc chiến tranh, là nỗi khiếp sợ của phương Tây và Đông đế chế La Mã. Jack the Ripper: (Jack Máy cưa) là kẻ giết người hàng loạt, nạn nhân thường là các mại dâm, bị giết hại hết sức dã man. Genghis Khan: (Thành Cát Tư Hãn) là hoàng đế của Đế quốc Mông cổ, tiến hành nhiều cuộc xâm lược các quốc gia. Trong suốt cuộc đời ông, Đế quốc Mông Cổ thôn tính phần lớn Trung Á và châu Âu.


      [26]unkiss: chỗ này tác giả chơi chữ, từ này vừa có nghĩa là huỷ hoặc xoá bỏ việc gì đấy được thực hoặc được đánh dấu bằng nụ hôn; vừa có nghĩa là xoá bỏ (quên ) nụ hôn.


      [27]French Riviera: vùng Riviera (nằm dọc bờ Địa Trung Hải của miền đông nam nước Pháp, Mônacô và đông bắc Italia), nổi tiếng về vì khí hậu và vẻ đẹp, là vùng có nhiều nơi nghỉ mát.


      [28]Bảy trọng tội: (deadly sins, capital sins) được Giáo hoàng Grerogy đệ nhất đề ra vào thế kỷ thứ sáu, bao gồm háo sắc, tham ăn, hám lợi, lười biếng, nóng nảy, đố kỵ, kiêu căng, đối lập với bảy thánh đức (holy virtues) tương ứng là thanh khiết, tiết độ, nhân đức, cần cù, nhẫn nại, tốt bụng, khiêm tốn; sau đó trở thành lời răn dạy giáo chúng của nhà thờ Kitô giáo về việc tránh phạm phải những tội lỗi có thể làm hủy hoại cuộc sống được Chúa ban ơn của con người.


      [29]Màng mềm: (pia mater) lớp mạch máu mỏng bao phủ bên ngoài dây thần kinh cột sống và não bộ, là lớp màng trong cùng trong bộ ba lớp màng bảo vệ dây thần kinh cột sống và não bộ.


      [30]William Kẻ Chinh Phạt: công tước William II xứ Normandy . Năm 1066, ông dẫn quân xâm lược nước , sau thắng lợi trước đội quân của vuaHarold Godwinson (hoàng đế lúc bấy giờ) ông chính thức lên ngôi, trở thành hoàng đế William đệ nhất, trị vì cho đến khi qua đời vào năm 1087. Từ đó về sau hoàng đế quốc cũng đồng thời mang cả tước hiệu Công tước Normandy.


      [31]Doctor: vừa có nghĩa là bác sĩ, vừa có nghĩa là tiến sĩ. Nicholas lúc chuyện với Arabella hiểu lầm đó là thầy thuốc (bác sĩ).


      [32]Heathcliff: nhân vật nam chính trong Đồi gió hú của Emily Bronte.


      [33]Tupperware: tên hãng công ty Mỹ sản xuất các loại hộp nhựa đựng thức ăn. Sản phẩm làm ra cũng mang cùng tên của hãng.


      [34]Strange Case of Dr Jekyll and Mr Hyde: (Vụ án kỳ lạ của Tiến sĩ Jekyll và Ông Hyde) là cuốn tiểu thuyết của Robert Louis Stevenson. Cuốn sách kể về luật sư ở London tên là Gabriel John Utterson, người điều tra những cố kỳ lạ giữa Tiến sĩ Henry Jekyll, người bạn cũ của , và ông Edward Hyde, kẻ có xu hướng ghét bỏ con người. Thực ra, cả Jekyll và Hyde là hai mặt tốt-xấu của con người, trong con người luôn có cả mặt tốt và mặt xấu, cùng đấu tranh, cùng tồn tại.


      [35]Pillicock: từ cổ, được dùng vào khoảng thế kỷ mười sáu, để chỉ “cái đó”của đàn ông, trong văn chương còn có nghĩa là tên lãng tử (theo kiểu được ưa chuộng).


      [36]Jane Austen: (1775 - 1817) nữ tác giả người rất nổi tiếng với những tác phẩm như Kiêu hãnh và định kiến, Lý trí và tình cảm...


      [37]Body Heat: là bộ phim về Matty Walker, người đàn bà dùng sắc đẹp của mình để cám dỗ người đàn ông khác nhằm thuyết phục ta giúp giết người chồng giàu có của mình để chiếm gia sản của người chồng. Thế nên phim có rất nhiều cảnh nóng bỏng. Doughless muốn dùng bộ phim này để lung lạc tinh thần Nicholas nhưng ngờ ấy vẫn trơ ra như đá.


      [38]Ivy League: liên đoàn Ivy, chính thức là tên liên đoàn thể thao giữa tám cơ sở giáo dục bậc đại học, ngoài ra còn được hiểu theo kiểu thông dụng là nhóm tám trường đại học danh giá nhất miền Đông Bắc nước Mỹ, bao gồm: Harvard, Yale, Princeton, Brown, Columbia, Cornel, Dartmouth và Pennsylvania.


      [39]Colley-westonward talk: ở đây tác giả dùng từ Colley-westonward, là kiểu mốt thời trang ở quốc vào cuối thế kỷ mười sáu, trong đó áo choàng chui đầu của nam giới được mở xuống ở hai bên sườn, xoay 90 độ, khiến vạt trước và vạt sau của áo quấn quanh cánh tay và tay áo rủ xuống phía trước và phía sau. Vậy nên wind tạm dịch nó là đổi trắng thay đen, chỉ việc Nicholas ngụ ý bảo Dougless dối, vặn xoắn .


      [40]Ermine: còn được gọi là giống chồn đuôi ngắn, phân bố ở Bắc bán cầu. Thời trung cổ, trang phục lông chồn ermine (chủ yếu là áo khoác mùa đông và khăn choàng) là biểu trưng cho giới quý tộc châu Âu, rất quý báu và đắt tiền.


      [41]Cái trăn: dụng cụ dùng để tra tấn bằng gỗ hình chữ nhật có bốn con lăn ở bốn góc, người bị tra tấn bị buộc cổ tay, cổ chân vào mỗi con lăn này và bị kéo căng người ra, có thể dẫn đến giãn cơ, trật khớp hoặc rách rời luôn chân tay ra…


      [42]Cái khuôn sắt: (the Iron Maiden) là dụng cụ tra tấn có hình như cái tủ sắt được đúc theo khổ người với bản lề phía trước. Khi đóng cánh cửa vào, nạn nhân bị những gai sắt nhọn xuyên qua người trong khi vẫn phải tiếp tục duy trì tình trạng đứng.


      [43]Scheherazade: nhân vật hoàng hậu, người kể chuyện trong “Nghìn lẻ đêm”.


      [44]Poker: bài xì phé, hay còn gọi là xì tố, là kiểu bài phổ biến nhất ở các sòng bạc nay, phân định thắng thua bằng cách bốc được các quân tạo thành những liên kết bài tốt nhất từ năm quân bài. Liên kết bài “Thùng phá sảnh lớn” (Royal Flush) bao gồm sảnh đồng chất [A♠, K♠, Q♠, J♠, 10♠] là liên kết tốt nhất, ai có được thắng toàn ván ngay lập tức.


      [45]The Wizard of Oz, My Fair Lady: hai vở nhạc kịch rất nổi tiếng, đều được chuyển thể thành phim. My Fair Lady (1956) kể về bán hoa được giáo sư ngôn ngữ học đào tạo trở thành quý ; còn The Wizard of Oz (1939) là câu chuyện về nàng hay mơ mộng bị lốc xoáy cuốn lạc vào vùng đất Oz kỳ bí.


      [46]Hair, Paint Your Wagon: hai vở nhạc kịch nổi tiếng khác, cũng được chuyển thể thành phim. Hair (1967) kể về nhóm híp-pi thích nhạc rock, tham gia vào chiến dịch hòa bình phản đối chiến tranh Việt Nam; còn Paint Your Wagon (1953) là vở hài kịch xoay quanh làn sóng đổ xô tìm vàng của những người thợ mỏ, kết cuộc là ai tìm thấy vàng cả.


      [47]Gilligan’s Island: bộ phim truyền hình sitcom của Mỹ, phát sóng từ năm 1964 tới năm 1967gồm 98 tập chia thành ba phần, kể về nhóm người bị đắm tàu phải tìm cách sống sót hoang đảo gần nơi gặp nạn.


      [48]Venetia: còn gọi là nền cộng hòa Venice (697-1797), là miền đất thời trung cổ, ngày nay thuộc thành Venice, Ý, nổi tiếng là trung tâm chế tạo thủy tinh của thế giới từ thế kỷ mười ba.


      [49]Yên ngồi nghiêng: kiểu yên dành cho phụ nữ, khi ngồi để cả hai chân về cùng bên mình ngựa.


      [50]Beverley Hills: trong ba thành phố tráng lệ nhất của vùng phía Tây hạt Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ, nằm sát bên trung tâm điện ảnh Hollywood.


      [51]Calcutta: cố đô của Ấn Độ (1833-1912), là bến cảng ở vùng Đông Ấn nay.


      [52]Scarlett và Rhett: hai nhân vật chính trong phim “Cuốn theo chiều gió”.


      [53]Nathan Hale: (1755 – 1776) quân nhân thuộc Lục quân trong cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Ông được coi là điệp viên đầu tiên của Mỹ, được nhớ đến nhiều nhất bởi câu trước khi ông bị treo cổ sau trận Long Island: “Tôi chỉ hối tiếc có điều là tôi chỉ có cuộc đời để cống hiến cho đất nước tôi.”


      [54]Manchet: loại bánh mì trắng được làm từ bột lúa mì, phục vụ cho tầng lớp quý tộc. Các tầng lớp thấp hơn dùng loại bánh mì nâu hoặc đen làm từ bột lúa mạch.


      [55]Trứng lộc: (deviled eggs—trứng quỷ?!) món trứng luộc được cắt làm đôi rồi lấy lòng đỏ trứng trộn với các thành phần khác như sốt mù tạt, mayonnaise…(H4)


      [56]Măng sơ: vùng eo biển ngăn cách giữa hai nước và Pháp.

    3. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :