39 Manh Mối - tập 6: Trong Vùng Nước Thẳm - Jude Watson [Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 14

      “THỨC DẬY VÀ TỎA SÁNG THÔI, các bạn của tôi,” Shep gọi cách vui vẻ. “Chú pha bình cà phê và làm ít đồ ăn sáng, rồi sau đó chúng ta lên đường ra sân bay. Mọi người ngủ có ngon ?”

      Trời bên ngoài vẫn còn tối. Shep bật đèn lên.

      “Ừm...mmm,” Nellie lầm bầm, vùi đầu vào trong gối.

      “Tuyệt,” Dan vừa vừa ngồi dậy giữa đống chăn mền nhàu nhĩ.

      Trong khi Nellie lấy gối trùm lên đầu còn Shep bắt đầu pha cà phê Amy vụng về đứng dậy và vào phòng tắm. Nó vã nước lạnh lên mặt và nhìn chính mình trong gương.

      Tất cả bọn họ cuối cùng tìm ra nơi mà cha mẹ nó đến. Đó là điều cốt lõi. Việc tìm ra thông tin đó cho bọn họ biết điều gì đấy. Điều gì đấy khiến cho người trong số bọn họ châm lửa đốt nhà.

      Lỗi của nó.

      Nó vẫn còn nhớ khuôn mặt ửng hồng vì niềm vui chiến thắng của Isabel lúc ta giữ nó. Cái cách mà ta giữ chặt nó ngay cả khi nó vùng vẫy... đó là đe dọa.

      Lúc đó Isabel “Tôi có thể tác động tới các con đấy.”

      Amy nhắm mắt, nó nhớ lại ánh nhìn sợ hãi và giận dữ gương mặt mẹ nó. Nó bấu chặt vào mép bồn rửa mặt và cúi người về phía trước, trong lúc những từ ngữ nện thình thình bên trong người nó..

      Là lỗi của mình, lỗi của mình, lỗi của mình...

      Dan đập cửa. “Chị ngủ luôn trong đó rồi hay sao thế?”

      Amy mở cửa và bước ra chỗ -văng. Như cái máy, nó bắt đầu gói gém đồ đạc.

      Nellie ném về phía nó những cái nhìn đầy lo lắng, nhưng Amy luôn quay mặt . Nó thể gì về chuyện đó. Nếu về chuyện đó, nó gãy vụn ra. Nó khóc và khóc, và bao giờ nín được nữa.

      Vì lỗi của mình mà cha mẹ phải chết.

      Nghiên cứu. Điều đó luôn giúp được nó. Nếu con bé có thể trói tâm trí mình vào vấn đề nào đó, nó có thể quên được điều nó muốn nhớ.

      Trong lúc Shep làm bánh kếp, Amy mở máy tính xách tay của Dan ra và tìm kiếm mọi thứ có liên quan tới Amelia Earhart và Darwin, Úc. Amy nhấp chuột vào phần hình ảnh và tìm thấy bức ảnh chụp bà tại sân bay Darwin. Bà bước lên bậc tam cấp của tòa nhà, trong tay cầm chiếc áo khoác và cuốn tập. Đó có thể chính là cuốn tập mà mà bà dùng để viết bức thư! Amy săm soi gần hơn. Có thể thấy ngón tay út của Amelia đeo chiếc nhẫn mặt đá trắng. Nó nhấp chuột vào lại bức ảnh của Amelia tại Bandung. đeo nhẫn. Đây hẳn là cái nhẫn mà bà mô tả, chính cái nhẫn mà người đàn ông lạ mặt bán cho bà.

      Con bé cố phóng to bức ảnh lên, nhưng chỉ làm cho nó trở nên mờ hơn. Dan đến gần và gí mũi sát vào màn hình.

      “Chị làm gì thế?”

      “Chị cũng nữa,” Amy thú nhận. “Em có nhìn thấy cái nhẫn ngón tay Amelia ? Nó chắc hẳn chính là cái nhẫn mà bà ấy mua ở Darwin. Chị cố gắng nhìn nó kỹ hơn. Chị tự hỏi tại sao người đàn ông đó lại cố bán cái nhẫn cho bà ấy làm gì.”

      “Chà, nó chắc chắn phải là cái bùa may mắn linh nghiệm,” Dan . Thằng nhóc giả làm tiếng máy bay rơi xuống theo đường xoắn ốc rồi vỡ tan ra. Amy nhăn mặt khó chịu.

      “Trông như có viên đá trắng,” con bé .

      “Chắc là viên ngọc mắt mèo,” Nellie sau khi nhìn lướt qua màn hình. vào phòng tắm.

      “Chắc là thế,” Shep đồng ý. “Úc chiếm hơn 90% trữ lượng ngọc mắt mèo của thế giới mà. Ngay từ thời ấy, việc mua bán khoáng sản khá nhộn nhịp rồi. Chú có thể hình dung ra điều đó.”

      “Ông ta họ ở trong cái lỗ, nhưng đừng có lo lắng,” Amy trích dẫn.

      Shep nhe răng ra cười. “Trong cái lỗ hả? Nghe có vẻ như là Coober Pedy ấy. Từ này trong tiếng Aboriginal[1] có nghĩa là ‘ người da trắng trong cái lỗ’.”

      [1] Tên bộ lạc thổ dân ở Úc.

      “Coober là ai?”

      “Nó là thị trấn, cháu ạ,” Shep đáp. “Hầu hết nhà cửa ở đó nằm dưới mặt đất bởi vì trời nóng đến mức quái đản, thậm chí là so với nhiệt độ của Úc. Nó là thị trấn số thế giới trong ngành khai thác mỏ ngọc mắt mèo.”

      “Nó nằm ở đâu ạ?” Dan hỏi.

      “Ồ, cách Adelaide chút về hướng Bắc. Khoảng 9 giờ đồng hồ lái xe.”

      Như thế nghe chả giống từ “ chút” tí tẹo nào, nhưng có lẽ dân Úc nghĩ thế. Amy cảm giác hào hứng của nó tăng dần lên. Họ tiến đến gần thứ gì đó, nó cảm thấy được điều ấy. Và nó biết Dan cũng có thể cảm thấy chuyện này.

      “Cha mẹ cháu ở Adelaide trong âu ạ?” Dan hỏi.

      “Để coi nào... chú đón vài khách du lịch ở Perth và chở họ tới suối Alice và Uluru... hay là vịnh Cá Mập và Ningaloo gì đó... cũng chẳng nhớ nữa, nhưng chú nghĩ chú 3 hoặc 4 ngày. Rồi chú vòng trở xuống Adelaide để đón Arthur và Hope Darwin.”

      Amy và Dan liếc nhìn nhau. Tụi nó cần phải ra. Tụi nó hiểu. Cha mẹ chúng tới Coober Pedy. Họ lái xe từ Adelaide lên đó. Họ chỉ muốn làm Shep bị liên lụy nhiều hơn mức mà họ buộc phải làm. Điều đó có thể gây nguy hiểm cho chú ấy. Amy và Dan gật đầu với nhau.

      Shep trỏ cái xẻng lật bánh vào Amy rồi vào Dan.

      “Hai đứa vừa làm thế nghĩa là thế nào? Hai đứa vừa có cuộc chuyện lời đấy!”

      Tụi nó lại nhìn nhau lần nữa. phải là tụi mình tin chú ấy. Mà là cha mẹ đúng - chú ấy càng biết ít, càng tốt cho chú ấy.

      “Hai đứa lại làm thế nữa rồi! Hai đứa chuyện gì thế hả?” Shep đứng chống nạnh. “Chờ phút. Chờ yên đấy. Hai đứa muốn chú chở tới Coober Pedy, đúng hả?”

      Dan nở nụ cười ngây thơ vô tội. “Món bánh kếp của chú cháy rồi kìa,” nó .

      ***

      Sau bữa sáng với món bánh kếp hơi cháy, tụi nó chất đồ đạc lên chiếc xe Jeep của Shep và lên đường tới sân bay. Mặt trời lên cao dần trong lúc họ rời khu ngoại ô Sydney và tiến vào con đường hơn, chạy ngoằn ngoèo bò lên những ngọn đồi. Cuối cùng, Shep dừng xe lại trước cái cổng có chấn song sắt và nhập mã số. Cánh cổng mở ra và họ tiến vào.

      “Chúc mừng,” Shep . “Mọi người vừa qua được an ninh sân bay đấy.”

      Ông đỗ hẳn xe lại và chỉ cho tụi nó chiếc máy bay

      “Ừm, nó có vẻ là loại... , phải chú?” Amy ướm hỏi.

      hả? Chú có thể xếp vừa 14 người trong em bé này đó,” Shep đáp.

      “Chú là phi công giỏi,” Nellie . “Có phải ạ?”

      Shep nhún vai. “Ngoại trừ mấy vụ va chạm lúc hạ cánh ra.” Rồi vừa huýt sáo, ông vừa về phía văn phòng.

      “Mấy đứa có ông chú vui tính ghê,” Nellie vừa vừa ngáp.

      thôi, coi thử cái máy bay này chút nào,” Dan .

      Cả đám đứng xung quanh chiếc máy bay, rồi Nellie trèo vào buồng lái. Dan trèo lên theo. Amy vẫn đứng ở ngoài, cố gắng tưởng tượng cảnh lơ lửng tít trời cao. Nó từng bay chiếc trực thăng với tốc độ cao vào ban đêm, và chuyện đó đáng sợ; nó cũng từng bay bằng dù lượn, nhưng hiểu sao cái máy bay này lại làm nó cảm thấy hồi hộp hơn. Có thể bởi vì nó có đủ thời gian để nghĩ về vẻ bé của chiếc máy bay và bao la của bầu trời nước Úc.

      Khi Shep bước ra khỏi văn phòng và thong thả về phía tụi nó, điều đó chỉ càng làm nó hồi hộp hơn. Sao phải là phi công mặc bộ đồng phục tề chỉnh chứ? Ở đây chỉ có Shep, vẫn mặc chiếc quần lửng khaki và chiếc áo thun dính vệt nước xi-rô đó.

      “Tụi mình, ừm, tụi m-mình có chắc về chuyện này vậy?” con bé vừa hỏi vừa leo lên máy bay.

      “Chị giỡn hả?” Dan vừa đáp vừa nhún nhảy ghế của nó.

      Nellie chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ buồng lái. trả lời.

      “Gì thế Nellie?”

      Amy theo ánh mắt của nàng. Nó nhìn thấy đám bụi bốc lên ở chỗ khu rừng cây bụi ngoài xa.

      Shep trèo lên máy bay, ngay lập tức làm nó có cảm giác càng trở nên hơn.

      “Đó là willy willy!” Dan vừa gọi vừa chỉ về phía cột bụi.

      “Ai cơ?” Amy hỏi lại.

      loại lốc xoáy vô hại,” Shep vừa đáp vừa nhàng ngồi vào ghế phi công. “Nhưng cái này phải. Quanh vùng này có willy willy. Chú nghĩ rằng đó chỉ là chiếc xe tải chạy nhanh con đường nhiều bụi. Mọi người thắt dây an toàn vào. Chúng ta được phép cất cánh.” Chú đeo tai nghe vào.

      Dan trông có vẻ đầy bất mãn khi bị buộc chặt vào ghế. Nellie vừa cài khóa vừa tiếp tục chăm chú nhìn ra chỗ đám bụi. “ phải xe tải,” . “Nó là chiếc Hummer. Chúng ta được chưa?” hỏi bằng giọng sốt ruột cách bất ngờ.

      “Phải xong phần kiểm tra trước khi cất cánh ,” Shep ôn tồn đáp lại. Ngay sau đó, chiếc Hummer tông xuyên qua cánh cổng sắt. Shep nghe thấy tiếng chiếc xe do bị át bởi tiếng động cơ máy bay khởi động kêu vù vù.

      “Chú nhanh lên chút được ?” Amy hỏi. Shep nghe được nó gì, nhưng từ buồng lái ông giơ ngón tay cái lên ra hiệu với nó.

      Isabel Kabra chính là người ngồi sau tay lái chiếc Hummer. ta rít lên the thé bắt dừng máy bay lại. Amy nhìn thấy ta quay qua quay lại, cố gắng nhìn xuyên qua ánh nắng chói chang vào buồng lái của những chiếc máy bay ở đó.

      Cánh quạt chiếc máy bay của Shep bắt đầu quay cách chậm chạp.

      “Xong rồi, chúng ta tới luôn thôi,” Shep . Chiếc máy bay bắt đầu đánh vòng cung hướng vào đường băng.

      Isabel ngoái đầu lại phía sau. ta mang đôi kính mát màu đen bự chảng, nhưng Amy hầu như nghĩ rằng nó có thể nhìn mắt của ta.

      Chiếc máy bay chầm chậm chạy về phía đường băng.

      Amy, Dan và Nellie chứng kiến cảnh Isabel cho chiếc Hummer đột ngột rẽ ngoặt, làm những bánh xe rít lên ken két. Trong ngạc nhiên của tụi nó, Isabel cho chiếc xe tăng tốc phóng xa ra theo hướng đối diện. Nhưng khi Shep đưa máy bay lên đường băng, tụi nó lại thấy Isabel cho xe ngoặt vào dải đất trống cạnh đường băng.

      “Chiếc xe chết tiệt đó làm gì ở đó thế?” Shep hỏi.

      “Phải là đám khách du lịch ?” Nellie đoán.

      Shep cho máy bay chầm chậm chạy đà về phía trước. Họ lấy được tốc độ. Amy nhõm ngả người vào ghế. Isabel bị hỏng ăn rồi. Chắc hẳn ta rất tức tối.

      “Nyah, nyah[2],” Dan khoái trá chọc.

      [2] “Lêu, lêu” - tiếng Nga

      Ngay khi họ tăng tốc, Isabel đột nhiên bẻ tay lái và đâm ngang vào đường băng.

      “Cái quái gì...,” Shep la toáng lên.

      ta cho chiếc Hummer chạy hết tốc lực. Amy có thể nhìn thấy khuôn mặt khiếp đảm của Natalie và Ian ở ghế sau. Mồm của Natalie há hốc ra trong tiếng thét.

      “Chú thể ngừng lại được. Chú phải cho máy bay cất cánh!” Shep la lớn.

      “Bay !” Nellie thét lên.

      Chiếc máy bay nhấc bổng lên, suýt soát tránh được chiếc Hummer trong gang tấc.

      Điều cuối cùng Amy nhìn thấy là gương mặt của Isabel. Nó hoàn àn lạnh lùng. Natalie vẫn còn kêu thét, Isabel sẵn sàng mạo hiểm tính mạng các con ta để chặn tụi nó lại.

      Ngay khi họ ổn định được tốc độ, Shep liền tháo tai nghe ra khỏi đầu. “Chuyện gì ở đó thế hả?” ông gào lên. “Chiếc Hummer điên đó suýt giết hết chúng ta rồi! Mấy đứa có thấy người lái xe ?”

      “Chị có thấy Amy?” Dan hỏi.

      “Chị bị chói nắng,” Amy đáp. “Chị thấy , Nellie?”

      “Lúc đó chỉ thấy sợ quá thôi,” Nellie đáp.

      “Chú báo về sân bay để họ bắt nhốt cái đồ ngu đó lại,” Shep . Ông lại đeo tai nghe vào và như súng bắn vào micro.

      Dan và Amy đưa mắt nhìn nhau. chẳng ai bắt được Isabel Kabra đâu. Và ta theo đuôi tụi nó.





      CHƯƠNG 15

      HỌ BAY DỌC THEO ĐƯỜNG BỜ BIỂN, dưới cánh máy bay là làn nước màu xanh ngọc và những bãi cát vàng óng trải dài. Đầu Amy bắt đầu gục gặc, rồi nó ngủ thiếp . Khng có gì ngạc nhiên, Dan nghĩ thầm. Chị nó bị dính vào mớ lộn xộn với nào là cá mập và kim tẩm độc, mà tất cả lại diễn ra trong cùng ngày. Điều đó có thể khiến người đàn ông cũng phải kiệt sức.

      Sau khi bay được giờ ngay cả cảnh đẹp như tranh cũng thể giữ được chú ý của thằng nhóc nữa. Dan phát mệt vì dõi mắt tìm chuột túi qua cửa sổ máy bay. Nó chưa bao giờ chán thế này kể từ lúc nó 5 tuổi, khi Amy bắt nó trông mấy con búp bê Barbie của con bé. Nó bắt đầu tự hỏi về Miền Đất Ngầm. Chính xác cái gì ngầm ở đó? Suýt chút nữa nó đánh thức Amy dậy để hỏi, nhưng nó quyết định rằng đó phải là ý tưởng hay.

      Tiếng chú Shep phát ra trong loa. “Có snack trong tủ đựng thức ăn dưới bồn rửa mặt đấy.”

      “Mèn ơi! Giờ chú mới đúng ý cháu đấy!” Nhưng Shep nghe được thằng nhóc . Dan đứng lên lục lọi.

      Vào lúc Amy tỉnh dậy, họ bay vùng đất đỏ quạch, rộng lớn và trơ trụi. Còn Dan thiết lập được tình bạn thân ái với mấy món snack kiểu Úc.

      “Cảnh tượng này còn kéo dài bao lâu nữa?” Amy vừa hỏi vừa ngáp.

      Dan nhai miếng khoai tây chiên. “Mãi mãi. Nhưng thử cái này .” Nó chìa ra bịch khoai tây. “Cái này có vị thịt gà đấy! Đúng là thiên tài quá phải ? Chị có đói ? Em có hiệu Tim Tams, Cheezels, Toobs và Burger Rings. Người Úc đúng là bạn tốt của chúng ta. Đây nữa nè, Violet Crumbles - thanh chocolate ngon nhất thế giới!”

      “Đừng có đầu độc vị giác của em, bạn ạ,” Nellie nhắc nhở bằng cái giọng kiểu Úc của . Lúc này, đội chiếc mũ rừng mà Dan mua ở sân bay. “Chúng ta có thể ngừng ngốn chút để nôn ra.”

      “Ngốn và nôn,” Dan cười và phun ra miếng khoai tây. “Thích trò này thế!”

      “Thử phần ngốn thôi,” Amy . “Bỏ phần nôn .”

      Shep duỗi người ra, ngáp dài.

      “Muốn giải lao chút ?” Nellie hỏi. “Cháu có thể lái dùm chú lúc.” Đáp lại cái nhìn tò mò của Shep, : “Cháu từng lái máy bay từ hồi thiếu niên rồi.”

      “Tức là mới biết lái đây thôi. Chú yên tâm lắm.”

      Nellie nhe răng cười. “Tin cháu . Cháu có bằng phi công rồi. 500 giờ bay đấy. Bay khảo sát. Bay đêm nữa.”

      và Shep bắt đầu chuyện về thay đổi của gió, áp suất khí và sức chứa hành khách. Dan chồm lên chỗ

      “Chị có biết là Nellie biết lái máy bay ?”

      Amy lắc đầu. “Chị cứ nghĩ rằng chuyện này bao giờ xảy ra.”

      “Với Nellie nhiều thứ xảy ra lắm. Cho tới khi nào chúng xảy ra.”

      Trong thoáng, hai đứa trao đổi cho nhau ánh nhìn hoài nghi, nhưng tụi nó cho chuyện đó qua bên.

      Nellie tiếp quản buồng lái. Shep quan sát nàng lúc rồi bước trở lại khoang hành khách. Ông nghiêng người dựa vào vách ngăn buồng lái và dang hai tay ra.

      “Được rồi, chuyện này có mùi ổn,” ông . “Mấy đứa có biết người ngồi chiếc Hummer ? Vì cái màn trình diễn đó có vẻ phải là tình cờ.”

      Dan làm ra vẻ mặt vô tội. “ phải à?”

      “Mấy đứa có chuyện gì muốn cho chú biết ? Chẳng hạn như thực mấy đứa làm gì ở Úc?”

      “Được rồi,” Dan đáp. “Cháu nghĩ tới lúc tụi cháu cho chú biết .”

      Amy nhìn thằng em theo kiểu “ đời nào”.

      “Hồi ở Massachusetts, đêm nọ cháu và Amy đột nhập vào trường cháu. Chuyện đâu có gì to tát, phải chú? Ngoại trừ việc ông hiệu phó của tụi cháu, Mortimer C. Murchinson, lại là quái vật ngoài hành tinh. Cứ ban đêm là ông ta lột bỏ bộ mặt người và trở thành thứ cao hơn 3 thước và có 8 cánh tay...”

      “...là cái người chơi cho đội Boston Celtics chứ gì,” Shep vừa vừa thở dài. “Chú hiểu rồi.” Ánh mắt của chú dừng lại tụi nó, chằm chằm dò hỏi. Đoạn chú quay và trở lại buồng lái. “Nếu mấy đứa có thấy cái máy bay ném bom nào bay chắn đường mình chỉ cần hét lên tiếng, được

      “Cứ yên tâm , Cơ trưởng,” Dan trả lời.

      Nellie lái thêm giờ nữa, rồi Shep tiếp quản lại buồng lái khi họ gần tới Coober Pedy.

      “Nó nằm chỗ nào thế?” Dan vừa hỏi vừa vươn cổ ra nhìn. Tất cả những gì nó trông thấy chỉ là hàng dặm nối tiếp hàng dặm bụi đất đỏ. Đường chân trời bị uốn cong lại, tựa hồ nó có thể nhìn thấy được cả rìa trái đất.

      “Thấy mấy cái kim tự tháp đó ?” tiếng chú Shep vang lên loa.

      “Nhìn chúng giống mấy quả đồi muối,” Dan lại với Amy.

      “Đó là những đống xỉ sau khi khai thác ngọc mắt mèo đấy,” Shep giải thích. “Chúng ta bay ngay những cánh đồng ngọc mắt mèo. Sáng nay, chú liên lạc được với bạn Jeff của chú. ấy đón chúng ta.”

      Chiếc máy bay nhàng hạ cánh xuống đường băng và lăn bánh tới điểm dừng. Sân bay này thậm chí còn hơn cả cái bên ngoài Sydney. Chỉ có vài căn nhà dã chiến và hai chiếc máy bay loại dùng bay trong vùng núi. Cả đám nhảy ra ngoài và bị cả bức tường hơi nóng ập vào người. Dan cảm giác cổ họng nó khô khốc như những quả đồi trọc. Shep nhảy xuống, trông vẫn tươi tỉnh y như lúc khởi hành.

      “Trời luôn nóng thế này hả chú?” Dan hỏi Shep.

      “Ồ, bữa nay là mát trời rồi đấy. Chỉ chừng 100 độ[1] hoặc cỡ đó. Để chú giải quyết chút công việc giấy tờ, rồi sau đó chắc là Jeff đến.”

      [1] 100 độ F (Fahrenheit), tức khoảng bằng 37,7 độ C.

      Shep thong thả tới chỗ văn phòng, ngay lúc đó chiếc xe tải hai cầu bám đầy bụi bẩn ra và phóng nhanh xuống chỗ sân bay. người đàn ông vừa cao vừa gầy, mặc chiếc quần lửng bằng vải khaki nhảy ra khỏi

      “Họ chịu để cho hạ cánh bằng cái sọt đựng cam lừa đảo đó hả?” ông ta la toáng lên bằng giọng rặt Úc.

      “Lần tới, tôi hạ cánh đầu ,” Shep trả lời. “Nó cũng đủ to đấy.”

      Hai người vỗ vai nhau. Shep quay lại chỗ cả bọn.

      “Để chú giới thiệu mấy cháu với người em họ thất lạc lâu của chú,” ông . “Amy, Dan và Nellie Gomez, au pair của hai đứa. Còn đây là Jeff Bandler, hướng dẫn viên du lịch giỏi nhất ở vùng Red Center.”

      “Bạn của Shep cũng là bạn của tôi,” Jeff . “Điều gì đưa mấy cháu tới Coober Pedy này vậy? ít mì sợi hả?”

      “Tụi cháu mới vừa ăn trưa,” Amy lịch trả lời. Nó phẩy tay đuổi con ruồi đen to khổng lồ. “Nhưng cũng cảm ơn chú.”

      Ông ta cười. “ phải, làm mì sợi là cách chúng tôi gọi việc tìm mót ngọc mắt mèo trong những đống xỉ. Nhiều khách du lịch thích trò này lắm. có nhiều cơ hội để cháu kiếm được viên đá có giá trị, nhưng vẫn là luôn có cơ hội, phải nào?”

      ra, mấy đứa cháu của tôi tới đây để kiếm vài thông tin,” Shep . “Về người nào đó có thể từng sống quanh đây trong những năm 30. ta có khuôn mặt đầy sẹo, và hồi còn ở Sydney ta được biết như tên tội phạm có tên Bob “Troppo”. khoái chuyện trò, và có thể bị điên nữa.”

      “Để nghĩ coi. Mặt sẹo, tội phạm, kín tiếng, điên như con rắn cụt đuôi,” Jeff . “Có vẻ khớp với nửa dân số vùng này rồi.” Ông ta cười khi thấy vẻ mặt tiu nghỉu của Dan và Amy. “Đừng lo. Tôi biết chính xác cần kiếm ai để xin lời khuyên. Trèo lên thùng xe .”

      Cả đám chen chúc trong thùng xe, ông đánh vòng cua lên con đường đầy bụi và đạp hết ga. Ông chỉ về những cánh đồng mỏ ngọc mắt mèo. “Nếu mấy cháu ra ngoài đó, mấy cháu phải luôn cảnh giác. Mỗi năm, chúng tôi lại mất hai người khách du lịch những hầm mỏ mở toang hoác. Họ lùi để chụp kiểu ảnh, thế là “soạt” cái, họ tụt xuống, cú ngã chết người. Phải cho mấy cháu biết, chúng tôi thấy rất khó chịu vì chuyện đó.”

      “Cháu cá là mấy người khách du lịch đó còn thấy khó chịu hơn nhiều,” Dan đáp.

      kịch tính thế đâu, bọn họ đều chết cả.” Jeff lái xe vào trung tâm thị trấn, nơi lớn lắm. Cảnh vật nhìn giống như thị trấn của Miền Tây Hoang Dã lấy ra từ trong phim. Mặt đất khô cằn hệt như mặt trăng. vài người đội mũ rộng vành đường phố, nhiều người đàn ông để tóc dài và ria mép. Tại mỗi góc đường đều có những tấm biển hiệu chỉ NGỌC MẮT MÈO và NHÀ TRỌ DƯỚI LÒNG ĐẤT. Thậm chí còn có biển hiệu của nhà thờ dưới lòng đất.

      “Người ta đâu hết rồi?” Nellie hỏi.

      “Khoảng giờ này hoặc ở trong mỏ hoặc ở nhà,” Jeff đáp. “Nghĩa là ở dưới lòng đất ấy. Ở đây hầu hết chúng tôi đều sống trong hầm ngầm. Chúng giữ cho chúng tôi mát mẻ vào ban ngày và ấm áp vào ban đêm.”

      “Chà,” Dan trầm trồ. “Chỗ này đích thị là Miền Đất Ngầm rồi.”

      “Cháu hiểu ra rồi đấy, bạn! Dân chúng cứ đến rồi - giờ có khoảng 2.000 người. Và chúng tôi có ở đây tới 45 quốc tịch khác nhau, mọi người đều tìm cách khai thác giàu có của nơi này. Thường chúng tôi sống với nhau khá êm thắm cho đến khi có ai đó quyết định thổi bay cái gì đó. Có khi chúng ta nên thôi bán thuốc nổ trong siêu thị nữa, nhỉ?”

      “Chú ấy đùa phải ?” Nellie hỏi Shep.

      “E là .”

      Jeff chạy chậm lại phố chính, nhưng ông lại tăng tốc lúc tới khu ngoại vi thị trấn. Ông cho xe phóng dọc theo con phố bẩn thỉu và với tất cả các cánh cửa sổ xe mở toang ra. Ít nhất họ cũng bỏ lại được đám ruồi nhặng ở đằng sau mình.

      “Tới nơi rồi!” ông đột ngpht la lên.

      Họ vùng đất bị bỏ hoang. Bao bọc xung quanh là những ngọn đồi, và họ có thể thấy những hình dáng có dạng kim tự tháp của những đống xỉ có từ việc khai thác mỏ ngọc mắt mèo, mà giờ đây trở nên quen mắt.

      “Đây là... cái gì?” Nellie ngập ngừng.

      “Địa bàn của Ken Chuột túi,” Jeff vừa cười vừa đáp lại. “Đừng có tin bất cứ lời nào ông ta , nhưng ông ta thực biết hết tất cả mọi thứ về Coober Pedy này.”

      Với lời giới thiệu chả biết đường nào mà lần đó, ông nhảy xuống xe và tới trong những ngọn đồi. Giờ cả đám có thể nhìn thấy được cánh cửa đủ màu sắc trổ thẳng vào sườn đồi. Khi kéo nhau lại gần hơn, họ thấy cánh cửa được trang trí bằng vô số vỏ lon bia đập bẹp gắn mặt cửa.

      “Trang trí hay quá,” Nellie trầm trồ.

      “Cháu vẫn chưa thấy hết đâu,” Shep .

      “Chú có thể thương lượng giá hữu nghị cho các cháu, trong trường hợp các cháu quan tâm tới chuyện qua đêm ở đây. Ken cũng cho thuê phòng nữa đấy.” Jeff mở cửa mà cần gõ và thò đầu vào trong ngó nghiêng. “Cúc cuuu!” ông la toáng lên. “Có nhà ? Jeff đây, ông bạn ơi! Tôi có vài người quen muốn gặp ông này!”

      cần phải gào lên, cứ vào trước khi để cho gió nó thổi lộng hết chỗ này lên, càng lúc càng lắm chuyện quá,” giọng gầm lên từ phía sau nhà.

      Jeff nháy mắt với tụi nó. “Đừng để ông ta làm các cháu bối rối. Ông ta có cách hành xử theo kiểu Úc với khách du lịch. Ông ta hơi điếc, nên hãy to lên nhé.”

      Họ kéo nhau vào trong nhà và Nellie nhanh chóng khép cửa lại. Họ ở trong hành lang . Ánh sáng mờ mờ rọi vào từ hai cửa sổ trổ gần cửa chính. tường treo hàng trăm thứ hầm bà lằng - bảng số xe, đề-can dán xe hơi với đủ các thứ tiếng đó, áo thun, vỏ kẹo, bưu thiếp. Số lượng đồ vật nhiều khủng khiếp tới phải treo chồng chúng lên nhau, tạo thành kiểu giấy dán tường điên rồ. Ở những chỗ tường còn trống, người ta lại nguệch ngoạc ký tên và viết đầy lên đó.

      “Ngôi nhà này được xây ăn vào trong lòng quả đồi, nên giờ chúng ta ở dưới mặt đất đấy,” Jeff giải thích trong lúc họ qua khu vực nhà bếp và phòng ăn. Bức tường xù xì uốn lượn xung quanh họ. Ở chỗ này giống như như ở trong hang động, ngoại trừ việc nó có cái bếp lò, cái tủ lạnh, bàn ăn và tấm thảm trải sàn nhà.

      Cả đám theo chân Jeff sâu hơn vào trong nhà, tới phòng khách được soi sáng bằng những bóng đèn điện. Tụi nó chờ đợi được thấy thứ gì đó kiểu như hầm trú , nhưng thay vào đó họ ở trong căn phòng bình thường với chiếc ghế bành dài màu nâu, bàn uống cà phê, giá sách và cái ti-vi. Phải mất phút mới nhận ra chỗ kỳ quái của căn phòng - hề có cửa sổ. Nhưng sau khi phải nếm trải cái nóng nung người ở bên ngoài, cảm giác trong này mát mẻ và dễ chịu.

      ông già ngồi chiếc ghế dài đọc báo. Da ông ta rám nắng ngả sang màu như gỗ cây óc chó, còn đầu hói nhẵn. Ông ta cũng mặc chiếc quần lửng bằng vải khaki và chiếc áo thun, đó có thể đọc được chữ “ĐỪNG HỎI GÌ”. Ông ta ngước nhìn lên bọn họ qua cặp kính lão của mình.

      “Chúc ngày tốt lành thưa quý vị. Tôi có thể thấy là cả đám quý vị can đảm lắm mới hạ cố tới tệ xá của tôi. Vậy nên kiếm chỗ ngồi , để tôi nhóm lửa làm món thịt nướng.”

      dễ hiểu chút , Kenny,” Jeff . “Họ đến đây vì muốn biết ít lịch sử của Coober Pedy, phải để biết cái phong cách Úc của ông đâu.”

      nhóm người của là đây đó hả?” ông già vừa hỏi vừa cười như nắc nẻ. “Quen biết hóa ra chẳng phải là việc tốt chút nào.” Ông ta vỗ vỗ đầu gối.

      “Lại lôi cách cư xử kiểu Úc ra rồi,” Jeff la lên. “Thôi, đừng bận tâm. Mấy người bạn này muốn biết số thông tin.” Jeff cao giọng hơn. “Ông từng nghe về thằng cha nào được gọi l Bob “Troppo” chưa hả?”

      “Tụi cháu nghĩ có thể ông ta từng sống ở đây hồi những năm 30,” Amy lớn. “Có thể ông ta làm thợ mỏ. Nhưng tụi cháu chắc về điều này. Tụi cháu cũng chắc về tên của ông ta, nhưng có thể là Bob. Mặt ông ta có sẹo ở bên má, và rất ít .”

      “Tiếp tục .”

      “Tụi cháu nghĩ rằng ông ta biết người ở đây... người nào đó bán chiếc nhẫn cho Amelia Earhart.”

      “Ồ thế hả,” Ken . “Ta nghĩ rằng chính lão Ron già gặp người phụ nữ Ai-len đó. ”

      “Ông nghe kể lại à?”

      “Chính ba ta thế! Ngay trước lúc xảy ra chiến tranh, ông có làm chuyến tới Darwin, mang theo ít ngọc mắt mèo kém chất lượng và ít đá quý khác. Ông kể cho ta nghe chuyện Earhart mua chiếc nhẫn của lão ta ra sao. Tánh tình của ba ta là thế - ông kể cho các cháu nghe những chuyện ly kỳ, còn các cháu lại thể nào chứng minh được chuyện đó có xảy ra hay .”

      “À, chuyện đó có đấy ạ,” Dan . “Tụi cháu biết chắc về điều đó.”

      tệ là ông ấy còn ở đây để kể lại chuyện đó nữa.” Ông già cười lớn.

      “Còn người đàn ông mặt sẹo sao?” Amy hỏi.

      “Nghe giống như Fossie[2],” Ken . “Bà ta gọi như thế bởi vì rất may mắn trong việc mót.”

      [2] Fossie - người làm công việc mót ngọc trong các đống xỉ.

      >Amy và Dan nhìn nhau chẳng hiểu gì cả.

      mót cũng có nghĩa giống như như làm mì sợi ấy,” Jeff giải thích. “Là việc tìm kiếm ngọc mắt mèo trong những đống cát thải ra từ mỏ ngọc. Chuyện này đòi hỏi phải kiên nhẫn ghê lắm, mấy cháu nên biết điều đó.”

      “Fossie kiếm được nhiều tiền từ việc mót hơn là đào mỏ. ta là người kỳ lạ. Chẳng chẳng rằng gì cả, chỉ chằm chằm nhìn xuyên qua người ta. Như mấy con chuột túi lạc trong bãi thả gia súc ấy, đúng vậy đó.”

      “Ngoài tụi cháu ra còn có ai từng hỏi thăm về ông ta ạ?” Dan hỏi thăm. Nó hy vọng có được ít tin tức về cha mẹ mình.

      “Gì hả?”

      Dan lặp lại câu hỏi, lần này nó to hơn. “Chẳng có ma nào hết,” Ken đáp. “Chẳng có mấy người ở Coober Pedy còn nhớ đến ta, với lại chúng tôi thích bép xép. Hơn nữa, Mót phải là người quảng giao. ta chết trước khi Coober Pedy thực thịnh vượng lên.”

      Gương mặt của Nellie biến đổi, và Amy biết rằng nàng cố nhịn cười trước ý niệm rằng cái thị trấn bụi bặm Coober Pedy này từng thịnh vượng. Nhìn mặt nàng cứ như thể vừa hít phải hạt tiêu và cố để hắt xì hơi.

      “Ông từng gặp chưa ạ?” Dan hỏi.

      “Đúng lần. ta thích khách khứa, để cháu biết. Nhưng khi hấp hối, gọi ba ta đến, và ta cùng với ông ấy. Khi đó ta chỉ là thằng nhóc. để lại cho ba ta khu mỏ của . Chẳng có gì nhiều trong đó, chúng ta bao giờ kiếm được viên đá nào từ cái mỏ đó. Sau khi xong chuyện đó, bắt đầu chuyến hành trình vĩnh hằng và bao giờ quay trở lại nữa. chết ngoài đó, đơn độc, đúng như muốn.”

      “Ông có biết sống ở đâu

      “Biết nữa là đằng khác! Sống ngay trong mỏ. Đào căn phòng bên cạnh hầm mỏ. Ngày đó nhiều người cũng làm thế. là người đầu tiên tìm ra cách làm hệ thống thông gió và giữ cho cả hệ thống đó hoạt động.”

      Amy và Dan đưa mắt nhìn nhau. Nhà Ekat.

      “Tụi cháu có thể xem qua chỗ ở được ạ?”

      “Tất nhiên rồi, nó chỉ nằm ngay dưới căn phòng này thôi.”

      “Chờ chút,” Amy . “Ông với tụi cháu là Bob - ý cháu là Fossie - từng sống tại đây?”

      “Cũng phải ngay chóc ở đây,” Ken vừa vừa chỉ quanh căn phòng. “Ba ta đào phần lớn quả đồi để làm ra căn nhà này. Còn Fossie chỉ khoét đường hầm chạy thẳng ra phía sau ngọn đồi. đào riêng cho mình căn phòng ở đấy.”

      “Căn phòng vẫn còn chứ ạ?” Amy hỏi.

      Ông già gật đầu. “Tất nhiên. Chúng ta chỉ dựng thêm bức tường để bịt lối vào mỏ lại. Nhưng căn phòng của Fossie vẫn còn ở đó. Shazzer sửa sang nó lại thành trong những phòng dành cho khách. Bà ấy là vợ thứ ba của ta”

      “Tôi nghĩ là vợ thứ tư chứ,” Jeff . “Còn mẹ tôi nữa, nếu ông còn nhớ. Ông từng là ba dượng của tôi trong khoảng 2 năm đấy.”

      “Đúng rồi!” Ken cười lớn. “Khỏe , con trai? Chắc chắn rồi, xem qua chút nào,” ông già bảo Amy và Dan. “Căn phòng ít nhất cũng được 50 năm rồi, nên ta nghĩ mấy đứa tìm thấy thứ gì đâu. Nhưng cố gắng của các cháu vẫn được hoan nghênh.”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 16



      SAU CHỐC LÁT NGẮN NGỦI, Amy ngồi xuống trong tư thế quỳ. “Ken đúng. Chả có gì ở đây. Mọi thứ quá lâu rồi.” Tụi nó kiểm tra kỹ lưỡng căn phòng bày biện tuềnh toàng, kiểm tra cả cái tủ . có chút gì của căn phòng gợi nhớ lên rằng Bob “Troppo” tạo ra nó.


      “Em ghét những ngõ cụt,” Dan thầm. “Thế mà em nghĩ chắc cú tụi mình gặp may cơ đấy.”


      Tụi nó đứng lên với bộ dạng mệt mỏi và bước trở lại cái hành lang có kiểu dạng điên rồ. Amy quay lại nhìn lần chót và đột nhiên đứng khựng lại. Nó chỉ lên phần tường nằm phía cửa ra vào. “Dan, nhìn kìa.”


      Ở giữa những tấm bưu ảnh cũ đến từ khắp nơi thế giới, giữa những bức vẽ điên rồ và những thông điệp kỳ quái được viết vẽ nguệch ngoạc là bức vẽ trông ngớ ngẩn.






      “Mẹ vẽ cái này,” Amy khẽ như gió thoảng, chỉ vào hình trái tim. “Chị biết cái hình này. Nó được vẽ bằng bút tím! Và nhìn xem, đôi mắt màu đỏ còn cái miệng cười màu xanh. Mẹ thường làm bánh quế hình trái tim cho tụi mình, dùng quả dâu tây đỏ làm mắt và quả việt quất xanh làm miệng.”


      “Bà mẹ nào chả làm thế,” Dan đáp.


      “Nhưng những bà mẹ đó có dùng ruột bí xanh tỉa xoăn để làm tóc ? Nhìn ! Màu xanh này!”


      Dan ném cho chị mình cái nhìn đau khổ.


      “Chị thích nhúng bí xanh vào xi-rô.”


      “HA,” Dan .


      biết thế là tế nhị, nhưng...”


      , chữ HA kìa. Nó có thể viết tắt cho Hope và Arthur. Cha mẹ từng ở đây!” cơn ớn lạnh bất ngờ làm Dan rùng mình, như thể hồn ma của cha mẹ nó ở ngay dưới lòng đất cùng tụi nó.


      “Em có nghĩ rằng cha mẹ biết tụi mình tới đây ?” Amy thào.


      Dan lắc đầu. “Họ còn bao giờ nghĩ là tụi mình tham gia vào cuộc săn tìm mấy cái manh mối. Bà Grace có biết gì về mấy thứ như bánh quế với bí xanh ?”


      Amy gật đầu. “Chắc chắn là biết. Bà cũng làm bánh đó cho chị mà.”


      “Thế cái này nhất định là thông báo dành cho bà Grace, vào thời điểm đó,” Dan . “Cha mẹ cho bà biết họ đâu.”


      đâu?”


      Dan chỉ vào từ cuối cùng. “Khu mỏ cũ.”


      ***


      Chiều muộn lắm rồi, nhưng trời vẫn còn nóng tàn bạo. Hơi nóng bốc lên và nhảy múa. Dan phải nheo mắt lại để nhìn tấm bản đồ mà Ken vẽ cho tụi nó. Họ đứng quả đồi phía dưới nhà Ken. Hoặc, Dan thầm sửa lại trong óc, đứng nóc nhà Ken.


      “Có bãi mìn cũ ở chỗ đó, thấy ,” Ken chỉ tụi nó, “nên hãy cẩn thận với mấy hầm mỏ - phải tất cả chúng đều được đánh dấu hết đâu. Lỗ thông gió cho căn phòng của Fossie vẫn còn ở đó - mấy đứa thấy nó nằm gần vòng cung được tạo nên từ những lá cờ màu cam. Hãy tới hầm mỏ đầu tiên nằm sau những lá cờ màu cam và xuống đó. Sau đó, trở lại theo đúng đường mấy đứa vào. Dễ như ăn bánh, chỉ có điều cái bánh này dễ làm, hén!”


      Tụi nó để lại đồ đạc và con Saladin ở chỗ Ken, người có phòng cho thuê để ngủ đêm. Jeff phải quay lại làm việc, tới đón xe bus lèn chặt khách du lịch. Còn lại Shep, Amy, Dan và Nellie cẩn thận tìm đường qua đồng mỏ. Họ nhìn thấy những lá cờ báo nguy hiểm màu cam, nổi bật lên nền trời màu xanh lục. “Ngay chỗ đó có cái hầm thông gió kìa,” Shep chỉ. “Nên chúng ta vào cái hầm mỏ tiếp theo.”


      “Chuyện này chính xác là những gì chú hình dung trong đầu lúc chú đồng ý đưa mấy đứa tới đây,” Shep vừa thêm, vừa bước tránh miệng hầm. “Ngắm cảnh chút, thư giãn chút, cái đó chắc rồi. Nhưng còn chuyện leo xuống cái hầm mỏ cũ phải là kiểu giải trí mà chú nghĩ.”


      “Chú đâu cần phải vào đó,” Dan . “Chú có thể vào quán rượu chờ tụi cháu.”


      “Chú để mấy đứa vào đó mình đâu,” Shep . “Hồi đó, chú ở bên cạnh mấy đứa được, nhưng giờ chú có thể làm thế được.” Ông nhăn răng cười. “Chú ở đây để bảo vệ mấy đứa khỏi hồn ma của Amelia Earhart. Hoặc khỏi ông hiệu trưởng có khuôn mặt.”


      “Hiệu phó thôi,” Dan đính chính.


      “Tới nơi rồi,” Nellie . dừng lại ở miệng hầm. cái thang sắt dẫn thẳng xuống tận đáy, nơi mà họ thể nhìn thấy gì.


      “Được rồi, làm cho xong ,” Shep . “Nếu chúng ta trèo lên sau tiếng nữa, Jeff tới tìm chúng ta. Trừ phi ta quên mất.”


      Shep cẩn thận giữ thăng bằng và bắt đầu trèo xuống. Dan tiếp theo sau ông. Mấy ngón tay nó trượt bề mặt thép, nó bấu chặt hơn vào cái thang, tim đập thình thịch. Hà cớ gì mà tụi nó cứ luôn phải kết thúc vấn đề dưới lòng đất? Nào là hang động, đường tàu điện ngầm, hầm mộ... Bộ nhà Cahill là ma cà rồng hay sao chứ? Họ ghét ánh nắng mặt trời à?


      Nellie nhàng leo xuống, Amy đoạn hậu. Đường tới đáy mỏ dường như rất dài. Bóng tối trườn lên phủ lấy người họ, nhưng vẫn còn ít ánh sáng từ miệng hầm rọi xuống để vừa đủ nhận ra những bậc thang. Cuối cùng, Dan nghe thấy tiếng Shep vọng lên. “Chú tới đáy rồi. Chỗ này sâu khoảng 15 mét đấy, chú đoán thế.” tia sáng được bật lên.


      Dan run run thở ra hơi dài nhõm kh cuối cùng chân nó cũng chạm được mặt đất. có chuyện nó kể cho bất kỳ ai biết cảm giác của mình. Nhưng nó bị sởn cả gai ốc vì việc phải ở quá sâu trong lòng đất, dưới đáy cái lỗ .


      Cả đám mua sẵn đèn pin trong thị trấn, Dan bật đèn của nó lên. Ánh sáng rực rỡ soi căn hầm. cây đèn lồng xách tay đóng đầy bụi nằm trong lãng quên ở góc hầm. Bản thân những bức vách hầm trông như thể được đục đẽo bằng tay .


      “Được rồi. Nếu chúng ta theo đường hầm chính rồi rẽ trái, chúng ta tìm được hầm mỏ của Bob,” Shep .


      Dan cảm giác hai lá phổi của nó bắt đầu bị thắt lại. Lớp bụi bị khuấy lên càng lúc càng nhiều hơn sau mỗi bước chân của họ, và thằng nhóc cảm thấy cảm giác thắt nghẹt quen thuộc trong lồng ngực. “Em có sao ?” Amy thầm hỏi.


      “Chả sao,” nó trả lời. Nó bao giờ chịu thừa nhận mỗi khi có rắc rối với đường thở của mình.


      Nellie nhét ống hít vào tay thằng nhóc, và nó hít cái nhanh. Nó tặng lại cho cái nhìn đầy biết ơn. Đường hầm ngày càng trở nên hẹp lại. Họ lần từng bước đến nơi chốn khác được tạo lập nên bởi người thợ mỏ. Dan thầm mong rằng những bức tường lấp lánh với đủ màu sắc như của ngọc mắt mèo, nhưng thực tế chúng chỉ có màu xám xịt hoặc trắng nhờ nhờ.


      Đường hầm càng lúc càng hẹp hơn và rồi đột ngột rẽ ngoặt về bên phải. đống đá cuội nằm ngổn ngang trước lỗ hổng.


      “Chú nghĩ là chỗ này đây,” Shep lên tiếng. Ông ngồi xổm xuống và chăm chú xem xét đống đá cuội. Dan liếc nhìn qua vai ông. Bên trong lỗ hổng là căn phòng có dạng như cái hang. Mặt sàn nhẵn và bằng phẳng. tấm đệm cũ bạc màu đặt cái giường sắt được kê ở góc phòng. “Chắc chắn ông ta sống ngay trong hầm mỏ, nó cũng giống như căn phòng ở nhà Ken,” Shep nhận xét.


      Amy và Dan trèo vào phòng đầu tiên. Trong này sáng hơn chút, nhờ có hệ thống thông gió đưa thứ ánh sáng nhàn nhạt vào từ góc phòng.


      Amy cúi xuống nhặt tờ báo. Nó chiếu đèn pin vào đó. “Tờ báo này đến từ Adelaide. Năm 1951. Đúng chỗ này rồi,” nó . “Ken rằng Mót rời khỏi chỗ này từ đầu những năm 50. Nếu lúc tấn công Mark Twain ông ta mới là thanh niên, lúc ở đây chắc hẳn ông ta phải gần 90 tuổi rồi.”


      Shep bước vào phòng. “Có phải cháu vừa là tấn công Mark Twain hả?” Ông giơ hai tay lên. “Thôi bỏ . cần phải gì với chú.”


      Dan quét ánh đèn pin của nó lên bức tường. “Chị Amy, coi cái này nè,” thằng nhóc kêu. “Ông ta viết lên khắp tường.” Đầu tiên thằng nhóc nghĩ đó là kiểu trang trí, nhưng rồi nó nhận ra đó là từ “chiếc nhẫn lửa” được viết tay bằng nét chữ và tháu.


      Cụm từ đó được viết ra vô số lần. Ở số nơi, chữ viết xíu, mực phai màu. Ở số chỗ khác, bụi phủ đầy lên nét chữ. Những chữ đó bao quanh căn phòng, liên tu bất tận, tựa như kiểu mẫu giấy treo tường điên loạn bao phủ lấy từng centimet của cái hang. Dan và Amy chiếu đèn ra xung quanh.


      “Em nghĩ phải mất bao lâu để làm chuyện này?” Amy hỏi bằng giọng nén lại.


      “Phải hàng năm trời,” Shep vừa đáp lại vừa nhìn quanh. “Phải khá là điên mới làm được trò này,” ông tiếp với tiếng huýt sáo nho .


      “Chiếc nhẫn lửa,” Dan đọc. “Từ đó có nghĩa gì nhỉ?”


      “Hay là chiếc nhẫn ngọc mắt mèo?” Amy hỏi. “Chúng thường phát ra những tia sáng màu đỏ và vàng.”


      Shep tới bức tường phía xa và gõ gõ vào đó. “Bức tường này chắc lắm. Chắc hẳn là nó giống với loại tường ở nhà Ken.” Ông bước lại gần hơn và bất ngờ đá phải thùng đồ nghề cũ đóng đầy bụi. Ông gõ gõ đốt ngón tay vào bức tường. “Đúng rồi, bức tường này chỉ là đá xếp lại với nhau. Buồn cười là...”


      “Chị Amy!” Dan la toáng lên. “Em tìm thấy thứ gì này. ngày! Được khắc vào trong đá.”






      “Và có chữ M nằm kế bên kìa!” Amy kêu lên.


      “Có lẽ nó chỉ ra rằng Amelia Earhart là người nhà Madrigal,” Dan tuyên bố. “Ông ta biết bà ấy tìm mình. Đó chính là năm nhà Madrigal xuất .”


      “Tụi mình đâu biết chắc được bà ấy có phải là người nhà Madrigal hay ,” Amy phản đối. Nó thể chấp nhận được việc người hùng thời thơ ấu của nó lại như thế. “Có thể bà ấy ở đây để cố gắng bảo vệ ông ta khỏi nhà Madrigal cũng nên.”


      “Cha mẹ chắc chắn tìm thấy chỗ này,” Dan . “Nhưng họ vào bằng cách nào nhỉ? Rồi ra bằng cách nào?”


      “Có lẽ cha và mẹ thuê căn phòng đó, rồi trong đêm họ đập bức tường ra,” Amy . “Sau đó họ sửa nó lại.”


      “Họ có thể chỉ để lại ít đinh và cái búa ở ngoài, rồi đút thùng đồ nghề qua lỗ hổng. Cái thùng đồ nghề này nhìn tới nỗi quá cũ đâu,” Shep phát biểu.


      “Có vẻ như ông ta thể nghe được tiếng họ làm gì,” Dan . “Ken lãng tai cũng lâu rồi mà.”


      “Cha là thợ mộc khá ngon lành. Mẹ cũng thế,” Amy . “Họ sửa chữa tân trang hàng đống thứ trong căn nhà cũ của tụi mình.”


      “Nè, có khi tụi mình thuộc về nhà Ekat biết chừng!” Dan thào.


      Thằng nhóc tiến tới chỗ lỗ thông gió và chăm chú quan sát bức tường. “Ở đây có bức vẽ và thứ gì đó kiểu như lời trích dẫn nữa nè.”


      Nằm lẫn giữa những dòng chữ lặp lặp lại, tụi nó thấy được:




      “Nghe buồn quá,” Amy .


      “Em thấy giống như triết lý sống của nhà Cahill,” Dan thào. “Cứ thoải mái láo suốt cũng chả sao.”


      “Nhìn hình vẽ mà xem. Nó giống như cái ốc quế đựng kem bị lật úp xuống. Và có những mũi tên.”


      “Em thích nghĩ đó là những hạt mưa hơn,” Dan .


      “Chị nghĩ đây là bức vẽ về chính căn phòng này,” Amy . “Chị đoán rằng cái nón ở đây chính là vị trí của cái cửa ra vào.”


      “Em hy vọng ông ta bỏ công việc chính ban ngày của mình,” Dan . “Vì ông ta phải là họa sĩ tài hoa cho lắm.”


      “Thẳng thắn và trung thực an toàn,” Amy đọc lên. “Chị tự hỏi sao ông ta lại viết câu đó.”


      “Ông ta viết ra câu đó,” Nellie lên tiếng. “Mà Shakespeare[1] viết câu đó. Trong vở Othello. Chị đóng vai Desdemona trong năm cuối ở đại học. Tụi chị sắp đặt bối cảnh của vở kịch trong tương lai và tất cả đều mặc quần áo tráng nhôm. Vui muốn chết luôn.”


      [1] William Shakespear (1564-1616), kịch tác gia nổi tiếng người , tác giả các vở Hamlet, Romeo và Juliet...


      “Chờ chút,” Dan bảo. Nó ngồi xổm xuống và bắt đầu lần tìm dọc theo bức tường.


      “Em tìm gì thế?” Amy hỏi nó.


      “Em thấy lạ là ông ta viết chữ “an toàn” ngay ở chỗ đó. Có thể ông ta về an toàn. Mà là về cái két an toàn.”


      Amy ngồi ngay xuống sàn nhà cùng với Dan. Tụi nó lần tay dọc theo góc tường.


      cái gờ,” Amy hào hứng . “Chúng ta cần có cái gì đó để nạy nó lên.”


      Nellie lục lọi trong thùng đồ nghề và đem lại cái đục. Amy chậm rãi nạy cái gờ. Nó cảm thấy lớp đá bắt đầu vỡ ra. Thình lình, nó bật ra trong tay con bé.


      Dan săm soi nhìn vào trong. “Có cái hốc được khoét ở trong này.”


      Thằng nhóc thọc tay vào trong. “Em chạm được thứ gì đó!” Mấy ngón tay của nó tóm vào thứ gì đó trơn nhẵn và mát lạnh. Nó lôi ra hộp sắt . Nó mở cái hộp ra. Bên trong là chiếc phong bì da được cột lại bằng sợi dây da.


      Dan tháo sợi dây buộc cách từ tốn. Nó mở chiếc phong bì ra. Phong bì trống rỗng. “BẤT CÔNG QUÁ!” nó hét lên.


      Amy ngồi bật ra đằng sau trong nỗi thất vọng. “Ai đó tới chỗ này trước rồi!”


      “Như cha mẹ mình!” Dan quăng cái phong bì qua bên trong cơn tức giận.


      “Khoan .” Amy nhặt cái phong bì lên lại. Nó vừa nhìn thấy được đó có mấy chữ cái mạ vàng mờ. “Đây là kiểu viết chữ lồng! R C H!”


      Nó ngước nhìn Dan. “Amelia kiếm H, nhớ ? Đây chắc chắn phải là tên của Bob “Troppo”!”


      “Nhưng tụi mình làm cách nào biết được ông ta là ai chứ?” Dan hỏi. “Tụi mình đâu có biết ông ta sinh ra ở đâu, cũng đâu biết ông ta từ đâu tới...”


      “Dù sao đây cũng là điểm để bắt đầu.” Amy bò dậy. “Chúng ta cần cái máy tính xách tay.”


      Nellie bất thần đặt ngón tay lên môi mình. “Chị nghe thấy gì đó,” thào. “Có thứ gì đó kia...”


      Dan lại gần lỗ thông hơi hơn. Nó đứng ở dưới ngước nhìn lên. Nó có thể nghe thấy những giọng , nhưng chẳng thể nhìn thấy ai, chỉ thấy mảng trời tròn màu xanh nhạt. “Đúng chỗ này rồi,” ai đó lên tiếng. Thằng nhóc nhìn thấy cái bóng và nó nhanh chóng nhảy lùi lại.


      “Ê nè,” ai đó bằng giọng the thé lên vì sợ hãi. “Đừng có mà để chúng gần chỗ tôi.”


      “Tiếng đó nghe giống như Natalie Kabra,” thằng nhóc thào.


      “Sao quanh tôi toàn lũ vô dụng thế này,” giọng phụ nữ cất lên vẻ sốt ruột. “Đưa cho ta cái hũ.”


      “Isabel đấy,” Amy thào.


      Đột nhiên, có thứ gì đó rơi xuống qua đường lỗ thông hơi. Nó có màu đen và có kích thước bằng cái đĩa đựng salad. Dan cảm giác vật đó khẽ chạm vào cánh tay nó. Nó nhìn xuống và phát ra con nhện to nhất và lông lá nhất mà nó từng thấy. Con vật bắt đầu bò theo cánh tay lên mặt nó. Thằng nhóc hét lên và lùi lại chỗ bức tường. Nó sợ đến mụ cả người, nên thể nào dám chạm vào con nhện.


      Shep phóng tới. “ sao đâu cháu,” ông vỗ về. Ông gỡ con nhện ra, và nó bò lổm ngổm ra xa sàn. “Nó có độc đâu.”


      “Cháu... cháu nghĩ chúng ta nên khỏi chỗ này,” Amy lắp bắp.


      Cả đám nhìn chằm chằm vào con bé giây. Rồi họ vội vàng nhảy lùi lại khi cả cơn mưa nhện bắt đầu trút xuống sàn nhà. Chẳng mấy chốc ở đó có cả tấm thảm nhện đầy lông lá, bò lúc nhúc, nghều ngào vung vẩy những chiếc chân. Amy thét lên.


      “Lùi lại,” Shep ra lệnh. Ông nuốt khan cái rồi chỉ vào con nhện lông lá sàn nhà. “Đó là con nhện funnel. Ở kia có con nữa...”


      Dan nuốt nước bọt. Nó vẫn còn run từ sau cuộc chạm trán với con nhện to như cái đĩa kia. “Giống nhện độc nhất thế giới hả chú?”


      sao đâu... nó hiếu chiến đâu,” Shep . “Chỉ là... đừng có... làm kinh động nó.”


      “Chú làm thế nào để kinh động con nhện chứ?” Amy kêu lên.


      “Chúng ta có nên lý lẽ với nó nhỉ?” Nellie vừa hỏi vừa


      “Được rồi, tin tốt là chú nghĩ rằng chú chỉ thấy có hai con,” Shep cẩn thận quan sát sàn nhà.


      “Chỉ là chú nghĩ rằng thôi hả?” Nellie vừa hỏi vừa quăng người sang bên để né con nhện đầy lông lá.


      Con nhện funnel bò lổm ngổm ngay trước cửa ra. Nó dừng lại đó lúc, giơ những cái chân đầy lông lá lên và thăm dò địa bàn mới cách ngập ngừng. Con nhện funnel còn lại bò dọc theo chân tường, khiến cả đám người phải lùi lại để tránh xa nó ra.


      “Được rồi,” Shep vừa vừa nhìn lướt qua lũ nhện trong khi vẫn tập trung chú ý vào những con nhện funnel. “Hình như chỉ có hai con nhện funnel mà thôi, nhưng lại có thêm vài con nhện đít đỏ. chết người, nhưng tụi nó cắn cũng gớm lắm. Chúng ta phải ra khỏi chỗ này ngay. Nhưng đừng có quá lo. Chúng ta chỉ...”


      Sau tiếng rơi khẽ, sinh vật khác đáp xuống lớp bụi. con rắn cuộn mình lại và ngóc cái đầu lên cao.


      Cả đám có thể nghe thấy tiếng cười của Isabel vọng xuống qua lỗ thông hơi. “Khoái quá ,” ta . “Vì nghĩ rằng các người có thể hơi đơn ở dưới đó, nên chúng ta gửi cho các người ít thú cưng!”


      Dan nuốt khan. “Làm ơn đừng có với cháu rằng cái thứ cháu nghĩ là...”


      “Rắn taipan,” Shep thở hắt ra. “Loại rắn...”


      “...độc nhất thế giới,” Dan kết thúc câu .






      CHƯƠNG 17


      CON RẮN TRƯỜN NGANG CĂN PHÒNG . Dan cho rằng con rắn có vẻi cái vụ bị rớt xuống sàn nhà từ khoảng cách 15 mét.


      “Đừng hoảng sợ. Cứ để nó làm việc của nó,” Shep như thầm.


      “Trong mơ cháu cũng nghĩ tới chuyện ngăn cản nó đâu,” Nellie vừa vừa lùi lại tránh đường.


      “Trong nọc độc của nó có chất neutrotoxin có thể gây tê liệt,” Dan . “Ngoài ra còn có chất myotoxin. Cái tên đó có nghĩa là nó thể phá hủy các mô tế bào của bạn...”


      “Tụi chị cần biết nhiều chi tiết thế đâu,” Nellie . “Liệu chúng ta có thể rút gọn lại thành “đừng có để nó cắn” hả?”


      Con rắn có màu cam pha nâu chậm rãi trườn ra phía cửa dẫn tới đường hầm chính. Cái lưỡi của nó cứ thè ra thụt vào. Nó phải dài đến gần 3 mét. Cả đám cố nín thở mỗi khi nó ngóc đầu lên. Nhưng nó chỉ cuộn người lại và nằm thư giãn nền đất. Họ phải bước qua người nó nếu muốn thoát ra.


      Shep vươn tay ra và nhặt được cái búa. “Trước sau gì nó cũng bỏ thôi. Chúng ta có thể chờ.”


      Dan cảm thấy được sức ép quen thuộc trong lồng ngực nó. Hơi thở của nó biến thành tiếng khò khè. Nó cất tiếng ho, và Amy nhìn nó đầy lo lắng. “Em khỏe ?”


      “Em ổn mà.” Nó chỉ còn đủ sức để thốt ra câu đó.


      “Dan! Ống hít của em trong túi áo em đấy,” giọng Nellie nghe đầy khẩn cấp.


      Nó mò mẫm trong túi áo. Nhồi nhét trong đó là đủ thứ hầm bà lằng, thanh kẹo, viên đá ngộ nghĩnh nó tìm thấy trong vườn nhà Shep và cả miếng bánh bột ngũ cốc mà nó để dành ăn sau. Nó lôi mạnh ra, và cái ống hít bay vọt ra, bắn lên trung rồi đáp xuống nền hầm mỏ. Cái ống hít lăn thẳng về chỗ con rắn.


      Tim mọi người như ngừng đập. thanh duy nhất là hơi thở nặng nhọc của


      Ống hít dừng lại cách con rắn taipan chỉ vài phân.


      Tiếng khò khè của Dan càng lúc càng tệ hơn, nó đưa cả hai tay ôm lấy ngực.


      “Chị lấy nó,” Nellie tuyên bố.


      .” Tiếng Shep khẽ khàng nhưng rành rọt đầy uy quyền, và ông cũng di chuyển rồi. Ông giữ cái búa trong tư thế sẵn sàng, phòng khi con rắn tấn công. Shep tiến lại gần hơn. Cái lưỡi con rắn thụt thò. Bằng động tác nhanh, Shep đá lọ thuốc xịt lại chỗ Nellie. Rồi ông nhảy ngược trở lại ngay khi con rắn chuyển động. Nó trườn tới hai phân rồi dừng lại. Amy run rẩy thở hắt ra.


      Nellie dùng chiếc giày của gõ cho con nhện rơi ra khỏi cái ống hít. Rồi nhanh chóng đưa nó cho Dan.


      Thằng nhóc cảm thấy phổi nó nở ra. Nó cảm thấy dễ thở hơn. Nhưng ngực nó vẫn còn cảm giác bị thắt chặt. Nó vẫn vật vã. Điều kiện chỗ này quá tệ. Có quá nhiều bụi trong khí, còn việc ở trong cái hang nhung nhúc những sinh vật có nọc độc chết người chẳng phải là điều có thể giúp nó trấn tĩnh được hơn chút nào. Nó cúi người về phía trước lúc những đốm đen bắt đầu nhảy múa trong mắt nó. Hoảng sợ chỉ làm mọi chuyện tệ thêm mà thôi, nó tự nhủ thầm.


      “Cứ thở tiếp , thở sâu và chầm chậm thôi, Dan-o,” Nellie bảo. Đoạn, quay sang Shep.


      “Chúng ta phải đưa Dan ra khỏi đây. Nó cần được chăm sóc y tế.”


      Dan hoảng sợ khi thấy rằng nó còn đủ hơi sức chỉ để “Em ổn mà”.


      con nhện trèo lên giày của Amy, làm con bé la thất thanh và nhảy lùi lại.


      sao đâu, con này độc,” Shep bảo con bé. Ông gọi Nellie. “Lấy thùng đồ nghề. Cẩn thận đấy, phải đảm bảo có con gì đu theo đó.”


      Nellie thận trọng cầm thùng đồ nghề lên. đưa nó cho Shep.


      “Hãy cho Ken chuyến thăm viếng bất ngờ nào,” Shep . “Chúng ta chỉ phải tạo ra cái cửa mới. Đứng yên đó nhé, Dan.” Ông vung búa nện vào bức tường. mảng tường vỡ rơi xuống sàn.


      “Đưa cháu cây búa,” Nellie . “Cháu giúp tay.”


      “Còn hai đứa cháu, coi chừng con rắn taipan với tụi nhện nhé,” Shep . “Nếu tụi nó về hướng này kêu chú.”


      Ông đập mạnh vào bức tường, làm nó vỡ ra thành từng mảng. Nellie cũng nện những nhát búa đầy uy lực. Chỉ sau vài phút, họ mở ra được lỗ hổng bức tường, đủ to để bước qua đó. Dan đầu tiên, và sau đó người nọ tiếp người kia, họ trèo vào căn phòng của Ken.


      Dan ngồi bệt sàn nhà, cố hết sức để thở.


      “Thằng bé cần bác sĩ,” Nellie lo lắng .


      “Gọi cho Jeff và bảo ta rằng đây là tình huống cấp cứu,” Shep . “Và sau đó bảo ta gọi cảnh sát.”


      ***


      Vào lúc họ gặp được bác sĩ Dan cảm thấy đỡ hơn nhiều rồi. Nó được kiểm tra và được cho lời cảnh báo rằng đừng bén mảng đến những mỏ ngọc mắt mèo nữa. Dan đồng ý ngay tắp lự.


      “Đó là lần đầu tiên chị nghe thấy em , thưa ngài” với nhân viên nhà nước và có ý định thực điều đó.” Nellie vừa vừa nhăn răng cười trong lúc tụi nó quay trở lại xe của Ken. quàng cánh tay lên vai thằng nhóc và thậm chí còn hôn lên đỉnh đầu nó nữa, nhưng Dan lấy đó làm phật ý. “Này nhóc, đừng làm chị sợ theo kiểu đó nữa nhé,” . “Kiểu khác cũng .”


      “Đúng thế,” Amy thêm. “Có lẽ tụi mình nên tạm thời bỏ mấy cái hầm mỏ ra khỏi lộ trình.” Con bé mấy câu đó cách nhàng, nhưng nó vẫn cảm thấy run rẩy mỗi khi nhìn thấy vẻ tái nhợt và bệnh hoạn của em trai mình.


      Ken vui chút xíu nào khi ông liếc sơ qua căn phòng phụ của mình và nhận ra nó bị mất bức tường. Đó là chưa kể tới chuyện có số sinh vật độc hại nằm ngổn ngang ở phía đối diện. Với giúp đỡ của vài chuyên gia ở Coober Pedy, con rắn và lũ nhện bị tóm gọn và mang . Cảnh sát tra hỏi, nhưng Dan và Amy chẳng đưa ra được câu trả lời nào. Còn Shep dường như thể nào trút được vẻ mặt lo lắng. Cuối cùng, Shep và Jeff tình nguyện đưa Ken xuống quán rượu để xoa dịu ông già.


      Ngày hôm đó quá dài rồi. Nhưng Amy vẫn nóng lòng muốn xem xét những chữ viết tắt mà tụi nó tìm thấy chiếc phong bì bằng da. Sau khi ăn qua loa bữa tối, nó khởi động máy tính xách tay của Dan lên.


      “Được rồi,” con bé , mấy ngón tay nằm ở tư thế sẵn sàng bàn phím. “Chúng ta tìm cái gì bây giờ? Việc đào xới mấy chữ RCH chắc chắn dẫn chúng ta vào ngõ cụt mà thôi.”


      “Em nghĩ chúng ta nên giả định rằng chữ C có thể là chữ viết tắt của từ Cahill, có được ?” Dan gợi ý.


      Amy gật đầu. “Chị cũng nghĩ giống em. Và nếu chúng ta cho rằng ông ta ở Sydney vào năm 1896, cứ coi như lúc đó ông ta khoảng tầm hơn 20 tuổi, đúng nào? Vậy điều đó có nghĩa rằng ông ta sinh vào khoảng...”


      “Những năm 1870,” Dan tiếp.


      Amy kích hoạt công cụ tìm kiếm. “Được rồi. Hãy bắt đầu với tên Robert Cahill gì đó... phòng trường hợp Bob chính là tên của ông ta. Chị thử tìm... Robert Cahill với Sydney và 1890.” Amy rên lên ngán ngẩm khi danh sách kết quả dài đằng đẵng ra.


      “Tra từ “Darwin” thử coi,” Dan gợi ý. “Đó là thành phố


      “Đặc biệt là vào thời đó,” Amy đồng ý.


      Amy nhập vào từ “Robert Cahill”, “những năm 1980” và “Darwin”. biển thông tin khác xuất . Con bé đọc dần xuống theo danh sách. “Cách này hiệu quả rồi. Tất cả những thứ chị có chỉ toàn liên quan tới Charles Darwin... chờ giây ...” Amy đột ngột ngồi thẳng người lên. “Chắc chắn phải là cái này! Chị có được tên của ông ta rồi! Đó là...”






      CHƯƠNG 18


      “ROBERT CAHILL HENDERSON,” Isabel lặp lại vào điện thoại di động. “Hiểu rồi.”


      C ta quay người lại để chuyện với những người ngồi ở ghế sau. Bọn họ rời khỏi Coober Pedy cách vội vã, nhưng ta vẫn đỗ xe lại cạnh đường để nghe cuộc điện thoại mà ta trông chờ.


      “Giờ tới lúc cũng có người làm được việc rồi. Căn cứ của nhà Lucian dùng máy chủ của họ để phân tích tất cả những thành viên của chi họ Ekaterina mà người ta biết được trong khoảng thời gian từ năm 1840 đến năm 1900. Máy tính tìm được kết quả khớp giữa Coober Pedy và Cahill. Có vẻ như ngay cả những tên ngốc điên khùng câm như hến cũng phải dùng tên của mình trong giấy tờ chứng nhận quyền khai thác mỏ. Robert Cahill Henderson là người chúng ta tìm.”


      “Thế chúng ta đâu tiếp theo ạ?” Natalie vừa hỏi vừa nghịch mái tóc dài mượt như tơ xõa xuống hai vai nó. “Con hy vọng là chỗ nào đó thuận tiện cho việc mua sắm. Dubai[1] phải ạ?” nó hỏi giọng tràn trề hy vọng.


      [1] nước thuộc Các tiểu vương quốc A-rập.


      “Jakarta,” mẹ nó đáp.


      “Chỗ đó là chỗ nào?” Natalie vừa hỏi vừa vật người ra ghế. “Nghe chẳng hấp dẫn gì cả.”


      “Ta trả tiền cho con ăn học làm gì nhỉ?” Isabel hỏi lại. “Jakarta nằm ở Java. Năm 1883, Henderson từ nơi đó đến Sydney con tàu có tên là Lady Anne.” Isabel nhìn kháy Irina. “Đồng chí có điều gì bận tâm à? lo lắng cho Dan và Amy bé bỏng à? Chúng nó hình như có tới chín cái mạng. Chúng nó vẫn còn sống. chút sợ hãi giúp chúng nó biết điều hơn.”


      Irina chẳng chẳng rằng. Dưới chân ả là cái bình và cái hộp mà “Người Thu Xếp” chuyển tới cho Isabel, giờ đây trống rỗng. Isabel huýt sáo trong lúc tự tay ả mang nó lên chiếc máy bay riêng mà ta thuê để đưa bọn họ tới Coober Pedy. ta cũng thu xếp để đem chiếc Hummer từ Adelaide xuống.


      Irina hề biết trong hộp có gì, cho tới khi Isabel mở nó ra. Isabel mỉm cười trong lúc ta trút cái bình đầy nhện độc ra. ta dự định thả chúng vào phòng khách sạn của mấy đứa nhà Cahill, nhưng làm thế này còn tốt hơn. Đổ thẳng qua đường ống xuống đầu chúng! Isabel cũng xử lý con rắn cách dễ dàng. Chẳng có lấy giọt mồ hôi rịn ra trán ta lúc ta bật cái chốt và tóm lấy con rắn từ đằng sau đuôi, bằng đôi găng tay dày. ta thích thú với nó. Thích thú với việc được ở gần sinh vật chết người đáng sợ đó.


      “Tôi muốn bám theo mấy đứa nhóc hỗn láo nhà Cahill trong lúc tôi đưa Ian và Natalie với tôi. Nhất cử nhất động của chúng nó đều phải báo cáo lại. Nếu nhờ cơ may mỏng manh nào đó mà chúng nó biết đường tìm tới Java hãy cản chúng nó lại. Tôi mệt mỏi vì bị chúng quấy rầy lắm rồi.”


      “Sau đó sao?” Irina hỏi.


      “Cái gì sau đó?” Isabel gắt gỏng hỏi lại. ta kiểm tra lớp son môi của mình trong gương chiếu hậu, và ta xoay nghiêng cái gương để nhìn thấy Irina.


      “Chúng nó bị tụt lại lâu đâu,” Irina . “Chúng ta đều thấy kiên trì của chúng. Thế kế hoạch tối hậu của dành cho chúng là gì?”


      Isabel nhún vai. “Tôi chưa nghĩ sâu xa đến mức đó. Tôi bận tập trung vào manh mối này. Chúng ta thậm chí có thể tìm thấy tất cả ba mươi chín manh mối - các con có tưởng tượng được điều đó ? - bởi vì chúng ta hầu như chắc chắn trăm phần trăm rằng Robert Cahill Henderson nắm giữ hầu hết, nếu là tất cả, các manh mối. Amy và Dan còn giá trị nữa. Tụi nó chỉ còn là cát bụi. Chẳng đáng để đối phó nữa.” Isabel nghịch cái bùa bằng vàng vòng tay của ta, rồi lại hướng chú ý vào mấy cái móng tay.


      Irina quan sát bất cẩn bình thường của Isabel. ta làm như thể chuyện tỉa tót móng tay móng chân là việc quan trọng nhất thế giới bằng. Irina biết Isabel quá lâu và quá . Chuyện ta quan tâm sâu sắc đến việc đánh bóng móng tay là điều có . Nhưng ta cũng quan tâm sâu sắc tới việc rũ sạch phiền toái.


      Isabel sử dụng số mưu kế độc nhất của ta để dọa cho tụi sợ mà bỏ . ta sớm nổi cơn thịnh nộ. Irina có thể cảm thấy cơn giận của ta dâng lên.


      Đây là quãng đường dài, Irina nghĩ thầm. Giờ cuối cùng mình cũng có thể nhìn thấy điểm kết thúc.






      CHƯƠNG 19

      “ROBERT CAHILL HENDERSON là nhà hóa học lỗi lạc,” Amy vừa vừa đọc liến thoắng. “Ông cũng đính hôn với người họ hàng của Nữ Hoàng Victoria. Ông từng là kiện tướng về các lý thuyết của Darwin. Đó là lý do vì sao công cụ tìm kiếm lại cho ra quá nhiều kết quả. Chuyện này thú vị...”


      “Đúng thế. Kêu dùm em dậy khi nào chuyện kết thúc nhé,” Dan . Nó nằm duỗi dài người ra trong hai cái giường đôi trong căn phòng dành cho khách của Ken. Nó nhìn lướt qua trần nhà. “Mọi người có chắc là họ bắt con rắn chưa thế?”


      “Chắc mà. Dù sao ngày nọ, ông ta bỗng nhiên hủy lời đính ước - chuyện này là kiện rất đình đám hồi đó - và lên đường tới vùng Biển Nam. Ông ta tuyên bố rằng mình tiến hành nghiên cứu sâu hơn về các lý thuyết của Darwin. Nhưng ông ta đâu phải là nhà tự nhiên học, ông ta là nhà hóa học kia mà,” Amy thêm với vẻ trầm ngâm. “Nên chuyện đó lạ lùng.”


      “Sao cũng được,” Dan vừa vừa ngáp. “Thế khi nào mới tới phần hấp dẫn của câu chuyện?”


      “Ông ta lòng vòng quanh các hòn đảo của Indonesia cho tới khi định cư đảo để tiến hành các thí nghiệm. Người ta cho rằng ông bị thiệt mạng trong vụ phun trào ở Krakatau vào năm 1883.”


      “Krak-a-wa hả?”


      “Krakatau,” Amy lặp lại. “Đó là vụ phun trào núi lửa khổng lồ. Thực chất đó là loạt các vụ phun trào liên tiếp nhau. Về cơ bản ngọn núi lửa bùng nổ trong lòng nó, thế rồi xuất những đợt sóng thần khổng lồ, giết chết khoảng ba mươi sáu nghìn người. Tận mọi ngóc ngách của châu Úc người ta cũng nghe thấy được thanh của vụ nổ cuối cùng. Đám mây bụi xuất sau đó tạo ra cảnh hoàng hôn kỳ lạ, kéo dài tới tận nước Mỹ.”


      “Còn bây giờ, chúng ta đến phần hấp dẫn của câu chuyện.”


      “Nó đó! Cái ốc quế đựng kem bị lật úp xuống!” Amy giọng đầy hào hứng. “Nó là ngọn núi lửa. Ông ta vẽ Krakatau. Nhưng tại sao ông ta lại đột nhiên từ bỏ hôn thê và tới Indonesia nhỉ? Chắc hẳn phải có lý do nào đó.”


      “Chắc rồi,” Dan . “Ông ta là chàng thông minh mà. Lập gia đình hay nằm ườn bãi biển. cần phải nghĩ cũng biết. Thậm chí là có núi lửa nữa, chàng đó vẫn ra .”


      “Thế chắc là ông ta ở vùng lân cận núi lửa Krakatau lúc nó nổ. Vừa đủ để ông ta giữ được tính mạng,” Amy . “Bằng cách nào đó ông ta tới được Sydney. Và từ đó nhà Cahill và nhà Madrigal bắt đầu truy tìm ông ta. Tại sao thế?”


      Nếu các người tìm thấy thứ gì, thứ đó thuộc về ất cả chúng ta. Nếu các người giữ nó cho mình, các người là những tên trộm. Đơn giản thế đấy.


      Đó là điều kỳ lạ nhất. Gương mặt của Dan ở trước mặt nó, nhưng hồn vía con bé bay đâu mất, chỉ trong khoảnh khắc. Nó lại đứng đó trong bộ áo ngủ, lắng nghe những người lớn chuyện với nhau.


      “Xuống lại mặt đất Amy,” Dan .


      thấy buồn ngủ cho đến khi đám người kéo hết. Nó nghe thấy tiếng cửa chính đóng lại. Nó nhìn ra ngoài để đảm bảo rằng họ hết. Nhưng họ vẫn còn đứng trong khóm cây ngay bên dưới cửa sổ phòng nó. Nó hơi nâng cửa sổ lên để có thể nhìn họ lần nữa. Tất cả những gì nó thấy được chỉ là đỉnh đầu của họ.


      “Bình tĩnh ,” người phụ nữ xinh đẹp . “Chúng ta có được đáp án. Họ lần theo ông ta đến Úc. Chuyện này được giải quyết nội trong đêm nay.”


      Là lỗi của nó.


      Là lỗi của nó.


      “Sao thế Amy? Chị buồn bã quá vậy,” Dan nhìn chị nó chằm chằm. “Hỏi nghiêm túc nè, chị có sao đó?”


      Con bé nhìn em trai nó. Nhìn gương mặt nhợt nhạt, nhìn cái cách mà thằng nhóc lo lắng cho nó nhưng cố tỏ ra phải thế. Cơn hen lấy quá nhiều sức lực của thằng bé, nhưng thằng nhóc vẫn giả vờ như có gì xảy ra. Nó có thể thấy được kiệt sức lên đôi mắt thâm quầng của thằng em.


      “Chị sao,” nó .


      “Thế chuyện gì tiếp theo nữa đây, bay vào gian à?” Dan hỏi. “Hay về lại Sydney?”


      Con bé xoa cổ. Nó nghe thấy giọng mình nghèn nghẹn. “Darwin. Chúng ta phải tiếp tục theo chân bọn họ.


      chuyến bay vào sáng hôm sau, Amy ngồi dính cứng ghế đọc cuốn tiểu sử của Amelia Earhart mà nó mượn của Shep. Nó biết bà ấy tìm kiếm thứ gì, nên nó lướt qua cuốn sách từ đầu tới cuối, đọc về những chuyến khác nhau của bà, trong lúc Nellie thiu thiu ngủ với cái headphone gắn vào tai, còn Dan bận chinh phục bịch khoai tây chiên vị thịt gà. giấc ngủ ngon lành giúp thằng nhóc phục hồi cái bản tính háu đói thường thấy của nó.


      “Dan ơi, nghe cái này nè,” con bé gọi. “Năm 1935, khi Amelia ở Hawaii, bà đến hỏi ý kiến nhà nghiên cứu núi lửa!”


      “Hay quá hén!” Dan vừa vừa xé bịch Violet Crumble ra.


      “Em thấy gì à? Có thể bà ấy thu thập thông tin về Krakatau, ngay từ hồi đó,” Amy .


      Dan nhắm nghiền mắt lại và giả vờ ngáy to khủng khiếp. Amy thở dài rồi mở những trang tài liệu mà nó tải mạng xuống và in ra bằng cái máy in của Ken. Nó đọc lướt qua những bản tường trình về vụ phun trào đầu tiên. Thỉnh thoảng, nó lại đọc to kiện đáng chú ý lên cho Dan nghe, dù thằng này lôi hết đống chăn mền ra, cuộn tròn lại và giả vờ chơi trò ném bóng rổ. Rồi con bé đọc được mẩu chuyện khiến nó phải đứng phắt dậy. Nó đọc lại cách chậm rãi. “Dan ơi!”


      “Suỵt! cú 3 điểm nữa nè!”


      Amy liệng cái gối vào thằng em. “DAN! Nghe chuyện này nè. Trong ngày diễn ra vụ phun trào, có chiếc tàu hướng đến Batavia - đó là tên của Jakarta hồi đó - bị gặp rắc rối. Họ chạy thẳng vào đám mây bụi khổng lồ, và rồi cơn mưa đá bọt - đá sinh ra từ hoạt động núi lửa - bắt đầu rơi xuống boong tàu. Do đó thuyền trưởng đưa tàu về cảng khác cách đó nhiều dặm. Nhưng họ bao giờ cập cảng, họ buộc phải quay trở lại. Nhưng chuyện này mới hay nè - hàng hóa tàu là quặng wolfram.”


      Dan đứng bật dậy. “Quặng wolfram hả? Đó là chất tungsten, trong những manh mối.”


      chỉ có thế, thuyền trưởng còn thông báo rằng boong tàu chất tnhựa thơm myrrh. Và khi cơn mưa đá bọt cùng tro bụi rơi xuống, ông ta phải ra lệnh cho các thủy thủ chuyển tất cả xuống hầm tàu. Liệu rằng thường có con tàu cùng lúc vừa chở tungsten vừa chở myrrh chứ?”


      “Bọn họ chở những manh mối. Chắc là chở tới cho Henderson, đúng ?”


      “Chắc chắn là thế! Ông ta kết hợp các manh mối lại với nhau!” Amy la toáng lên. “Đúng thế! Ông ta là nhà khoa học, nên ông ta phát triển loại công thức nào đó. Có lẽ đó chính là lý do vì sao việc cố gắng tìm ra ông ta lại là điều then chốt - và vì sao tất cả các chi họ đều tìm ông ta. Ông ta tạo ra phòng thí nghiệm...” Amy đập tay vào ghế. “ đảo Krakatau! Chính là ở đó! Ông ta phải đặt người ta chở nguyên liệu đến. Và rồi khi Krakatau nổ tung... phòng thí nghiệm cũng bị phá hủy theo. Hẳn là ông ta bị kẹt trong cơn sóng thần... nhưng ông ta sống sót.”


      “Vậy điều duy nhất còn lại... nằm trong đầu ông ta,” Dan . “Mà ông ta lại tửng tửng.”


      Amy gật đầu, nó nhớ lại những dòng chữ điên rồ đầy ám ảnh được viết trong mỏ. “Chị cá là tụi mình đúng ở chuyện ông ta là người nhà Ekat. Ông ta tấn công Mark Twain, nên thể là người nhà Janus. Còn Isabel có vẻ biết gì nhiều về ông ta, nên ông ta thể là người nhà Lucian. Và chắc chắn là ông ta giống người nhà Tomas.”


      Dan có vẻ trầm ngâm. “Tụi mình biết rằng người nhà Lucian - Sa hoàng Constantine - tìm thấy hầu hết các manh mối hồi đầu thế kỷ 19. Có vẻ như hồi đó có tới hai chi họ tiến rất gần đến đích.”


      Amy đập đập lên trang giấy. “Em biết trong này có gì nữa ? Đảo Java là phần của toàn bộ khu vực có núi lửa hoạt động ở Thái Bình Dương, được gọi là Vành Đai Lửa. Tay RCH gì đó về ngọc mắt mèo. Ông ta về đảo Java. Đó là nơi tiếp theo tụi mình phải tới! ”


      ***


      Nellie tiếp quản buồng lái và Shep quay trở ra để nằm duỗi dài người trong những chiếc ghế. Ông hấp háy mắt lúc Amy và Dan về Jakarta


      “Chú chú làm mọi thứ cho các cháu, và chú làm, nhưng máy bay của chú bay được xa như thế,” ông . “Chú đoán từ đây tới đó vào khoảng 1.600 hoặc 1.700 dặm. Tốt hơn là mấy đứa bay bằng máy bay thương mại. Ở Darwin có đầy. Chú có điện thoại vệ tinh - chú có thể đặt chỗ trước cho mấy đứa ngay từ đây.” Shep ngập ngừng. “Chú tin Nellie biết cách lo cho mấy đứa. Nhưng mấy đứa có thể bỏ qua vụ Java được ? Có vẻ như nguy hiểm bám theo mấy đứa - hoặc là vài chuyện xui xẻo lạ lùng. Các cháu có thể ở lại chỗ chú thời gian. Chú phải là kiểu người để làm cha hay gì cả... chỉ là tay lướt sóng vô công rỗi nghề. Liệu mấy đứa có thể đừng làm... bất cứ chuyện gì mấy đứa làm mà chịu kể với chú ấy?”


      Amy chớp chớp mắt để ngăn những giọt nước mắt bất ngờ trào ra. “Tụi cháu rất vinh dự được ở cùng với tay lướt sóng vô công rỗi nghề như chú.” Nó cố nén xúc động cách khó khăn. “Nhưng tụi cháu phải làm chuyện này.”


      Shep nhìn vào mắt con bé trong khoảng phút. Rồi ông gật đầu. “Chú cũng chưa bao giờ cố thuyết phục Artie từ bỏ bất cứ điều gì.”


      Trong lúc Shep gọi điện đặt chỗ, Amy nhìn xuống mặt đất. Họ bay vùng đất đỏ quạch với những vách núi cao và con sông nước xanh biếc chảy ngoằn ngoèo xuyên qua hẻm núi. Cảnh vật đẹp đến ngỡ ngàng.


      “Khu Katherine Gorge,” Shep vừa cúp máy vừa bảo nó. “Ở vùng Top End này có vài thắng cảnh đẹp lạ thường lắm.”


      “Cháu ước gì...” Amy bỏ lửng câu . Nó hết ý nghĩ của mình: “Nếu cháu có vòng quanh thế giới lần nữa, rất tuyệt vời nếu được ngắm nhìn những cảnh vật này cách .”


      “Chú đặt chỗ cho mấy đứa chuyến bay cất cánh khoảng 1 tiếng sau khi chúng ta tới sân bay,” Shep thông báo. “ hơi chật chút, nhưng chú là chỗ quen biết với bên sân bay. Chúng ta có thể dàn xếp chuyện này.” Ông nhìn Dan và Amy. “Khi chúng ta tới sân bay, mọi thứ cập rập lắm, nên lúc này có vẻ là thời điểm thích hợp để với mấy đứa rằng nếu mấy đứa cần bất cứ điều gì từ chú, coi như mấy đứa có điều đó. Chú làm mấy đứa thất vọng lần nữa đâu.”


      “Cảm ơn chú.” Amy đáp. “Và chú chưa từng làm tụi cháu thất vọng bao giờ.”


      “Chú giúp tụi cháu trong hoàn cảnh mà như người khác la toáng lên rồi bỏ chạy,” Dan . “Chú là người thân đích thực.”


      “Và còn chuyện nữa,” Shep . “Suốt từ đầu tới giờ chú bị săn đuổi ngay bãi biển thích của mình, sém chút nữa bị tông đường băng, sém bị giết trong hầm mỏ và phải bỏ ra 2 tiếng đồng hồ trong quán rượu để mua vui cho thằng cha trái tính trái nết nhất ở Coober Pedy. Đó là chưa kể đến việc chú ngày càng mến ba đứa cháu. Nên hãy những gì các cháu biết . nhé. Chú nghĩ rằng chú xứng đáng được biết. Chuyện gì diễn ra? Và bỏ mấy con quái vật ngoài hành tinh qua bên nhé.”


      Dan và Amy nhìn nhau.


      “Chuyện là thế này ạ,” Amy vừa đáp vừa thở ra hơi. “Bà Grace của tụi cháu để lại di chúc cho tụi cháu chọn giữa triệu đôla và cuộc săn tìm 39 manh mối. Những manh mối này khi kết hợp lại biến tụi cháu thành người có quyền lực nhất thế gian. Do đó, tụi cháu chọn cuộc săn lùng. Cùng với tụi cháu còn có rất nhiều chi họ kinh khủng khác của nhà Cahill. Tất cả bọn họ đều cố tìm cách giết tụi cháu hết lần này tới lần khác.”


      Shep thở dài. “Nếu mấy đứa muốn cho chú biết, tùy mấy đứa thôi.”


      ***


      Sau khoảng giờ bay, thành phố Darwin ra phía trước, nằm uốn quanh cái vịnh tuyệt đẹp. Ngoài xa là cả đại dương xanh thẳm mênh mông. Họ hạ cánh rồi chạy bộ xuyên qua phi trường để đến chỗ của hãng hàng Qantas.


      thể thế này được,” cả đám nghe thấy giọng cất lên. “Chắc chắn phải còn ghế ở khoang hạng nhất chứ.”


      Người nhân viên trực quầy nghiêng người tới trước thầm gì đó. Còn Amy, Dan và Nellie lùi lại sau cây cột. Shep làm theo nhưng gi được vẻ tò mò. “Chuyện gì vậy mấy đứa? Lại thêm bầy quái vật ngoài hành tinh khát máu nữa hả?”


      “Chú hiểu vấn đề rồi đấy ạ,” Dan đáp.


      “Chúng ta thể lên chuyến bay đó được,” Amy thào.


      Shep thò đầu ra khỏi cây cột để nhìn Isabel, Natalie và Ian. “Chú thấy mấy người này cũng đâu tới nỗi nào.”


      “Họ mới vừa cố giết chú bằng con rắn độc nhất thế giới đấy,” Dan đáp lại.


      “Tụi mình nhất định phải tới Java,” Amy tuyên bố.


      Shep lắc đầu. “Thế này quá nguy hiểm. Chú thể để mấy đứa được. ”


      Amy nhìn thẳng vào ông. Trong mắt nó hề có bóng dáng nài xin, mà chỉ thấy tràn đầy niềm quyết tâm.


      “Chú rằng chú luôn ủng hộ tụi cháu, bất kể có chuyện gì mà.”


      Shep gật đầu miễn cưỡng. “Chú thích chuyện này, nhưng cũng được thôi. Tới lúc thực kế hoạch B rồi. Hãy kiểm tra phòng chờ dành cho phi công thôi nào.”


      ***


      Shep đưa tụi nó đến khu vực đậu máy bay cho thuê của sân bay. Ông bước vào gian phòng chờ sang trọng và đưa mắt nhìn quanh cứ như thể ông là chủ nhân của nơi đó.


      “Chúng ta gặp may rồi,” ông thào với Amy, Dan và Nellie. “Chú nhìn thấy thằng cha còn nợ chú ân huệ.”


      Tụi nó líu ríu theo sát ông trong lúc ông vồn vã tiến về phía người đàn ông cao kều mặc đồng phục phi công ngồi nhấm nháp tách cà phê bên cửa sổ.


      “Greg,” Shep gọi lớn. “ mừng khi gặp ở đây, bạn ạ!”


      “Shep đấy à, lâu quá rồi thấy . Khi nào đứng đắn ra và kiếm lấy công ăn việc làm đàng hoàng hả?”


      “Tôi đoán là bao giờ.” Shep nhanh chóng giới thiệu tụi nhóc. “Chuyện là thế này, bạn của tôi ơi, chúng tôi hơi kẹt chút. Chúng tôi cần tới Jakarta. Và tôi đột nhiên nhớ ra là còn nợ tôi ân huệ đấy.”


      phải, ông bạn ạ. Chính nợ tôi ân huệ có. ”


      “Gì hả? có nhớ cái lần tôi làm cho ân huệ hồi năm ngoái ở Brissie ? ”


      “Cái đó để trả cho vụ ở Pert hồi tháng 12 năm trước.”


      Shep gãi đầu. “Chịu rồi. Thế này vậy, ngay lúc này có việc gì ?”


      “Tôi mới bay chuyến về. nghỉ ngơi vài tuần.”


      “Hoàn hảo! Thế này chắc tôi nợ thêm lần ân huệ nữa,” Shep nhăn răng cười với bạn. “Cho tôi mượn máy bay của nhé.”


      ***


      Tụi nó biết chú Shep dàn xếp bằng cách nào, nhưng ông dàn xếp được. Như phần ưu đãi trong dịch vụ cho thuê máy bay, cả bọn qua khâu kiểm tra an ninh nhanh cái . Tụi nó đứng đợi trong căn phòng chờ sang trọng, trong lúc Shep làm nốt các thủ tục trước khi cất cánh.


      “Ổn rồi,” Shep xoa tay . “Tụi chú thỏa thuận xong xuôi rồi. Nhà chứa máy bay số 8. Chú sốt ruột muốn sờ vào chiếc máy bay này lắm rồi. Nó là máy bay cánh quạt loại thượng hạng. cả tuyệt vời.”


      “Chú thực làm chuyện này tụi cháu,” Amy . “Cảm ơn chú.”


      “Chú làm chuyện này vì Artie và Hope,” Shep đáp. “Và vì cả hai cháu nữa. Chúng ta là gia đình mà. Chú nghĩ rằng sau chừng ấy năm, cuối cùng giờ chú hiểu từ đó nghĩa là gì. Thế nên chú nợ các cháu lời cảm ơn còn lớn hơn nữa cơ.”


      “Gia đình mà chú.” Dan giơ cao nắm đấm của nó và Shep cũng làm tương tự. Họ cụng nắm tay vào nhau.


      “Gia đình,” Amy lặp lại. Nó cũng cụng nắm tay với Shep.


      Shep hắng giọng. “Được rồi. Giờ lên máy bay , trước khi chú đổi ý.”


      cơn gió ẩm ướt thốc vào họ khi cả đám rời khỏi khu phòng chờ và cuốc bộ tới máy bay. Dan leo lên cầu thang và liếc nhìn vào trong khoang. Chiếc máy bay quả là thượng hạng, có ghế bọc nhung, khu vực ăn uống và sau mỗi ghế đều có gắn màn hình. “Ái chà chà,” Dan trầm trồ. “Cuối cùng cũng được du lịch đúng kiểu.”


      “Chúng ta có khoảng tám giờ bay,” Shep thông báo. “Có rất nhiều thức ăn trữ sẵn trong khoang, và còn có phim, trò chơi điện tử, bất cứ thứ gì mấy đứa muốn.” Ông quay sang Nellie. “Chú cá là trước kia cháu chưa từng nhìn thấy em bé nào thuộc loại này.”


      “Thực ra cháu từng lái chiếc bay từ Akron đến Reykjavik,” Nellie đáp.


      “Ái chà chà, thưa Quý bà Bí ,” Shep . “Cháu là kiểu au pair gì thế?”


      “Chỉ là cháu thích bay thôi mà,” Nellie đáp.


      “Chú có thể thấy là các cháu của mình ở trong đôi tay vững chắc,” Shep với nàng. “Vẫn giữ được bình tĩnh khi đối mặt với con rắn taipan và có khả năng lái máy bay vượt đại dương. kết hợp tuyệt vời.”


      Amy và Dan nhìn nhau trầm ngâm. Chính xác Nellie còn gây ra bao nhiêu bất ngờ lớn hơn nữa cho tụi nó nữa nh


      Ngay đúng lúc đó, vài nhân viên mặc đồng phục tiến về phía tụi nó. “Xin lỗi ngài,” người nhân viên có dáng người cao nhất đám lịch hỏi chuyện Shep. “Tôi có thể xem hộ chiếu của ngài được ạ?” Người nhân viên chìa tay ra.


      “Chúng tôi qua kiểm tra an ninh rồi cơ mà,” Shep .


      “Hộ chiếu của ngài, làm ơn,” người nhân viên giọng cứng rắn.


      Shep lục lọi mấy cái túi cái quần lửng của chú. “Tôi nghĩ là mình để nó ở đây mà. Chờ chút.”


      “Tất cả mọi người có thể làm ơn theo chúng tôi được ?”


      “Chính là chúng! Chính là bọn trẻ của tôi!” giọng vang lên vọng qua gian nhà chứa máy bay.


      người phụ nữ mặc váy đen vừa rảo bước vào gian nhà chứa máy bay, vừa chắp hai tay lại với nhau. Mất lúc tụi nó mới nhận ra được Irina. Ả buộc cái khăn quàng cổ dưới cằm và mang cặp kính vành .


      “Tìm thấy chúng nó đây rồi, mấy cái bánh bao của tôi,” ả bật khóc. “Các con có sao hả? ta có làm các con bị đau ?”


      “Ai làm tụi tôi bị đau mới được chứ?” Dan hỏi lại.


      “Người phụ nữ này báo rằng bà ấy là họ hàng của các cháu,” người nhân viên .


      “Về mặt ngữ nghĩa đúng là thế,” Amy thừa nhận. “Nhưng...”


      Người nhân viên quay sang phía Shep. “Trong trường hợp đó, ông bị bắt vì phạm tội bắt cóc.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      “CHUYỆN NÀY LỐ BỊCH!” Shep trong lúc họ trở vào trong nhà chứa máy bay. “Tôi đây cũng là họ hàng của mấy đứa nó!”



      “Các ông xem ta láo biết ngượng miệng kìa,” Irina vừa vừa lấy khăn tay chấm lên mắt. Chất giọng Nga của ả trầm xuống. “Maya morkovka[1]!” ả bật khóc với Amy. “Củ cà-rốt của ta ơi! Đôi mắt ta mong mỏi được nhìn thấy khuôn mặt của con biết chừng nào!”


      [1] “Củ cà-rốt của tôi” - tiếng Nga.


      Amy níu chặt cánh tay Shep. “Chú ấy mới là họ hàng của tụi cháu!”


      “Tôi có thể xem hộ chiếu của ngài được ?” người nhân viên nghiêm nghị hỏi.


      phút trước tôi vẫn còn thấy nó đây mà...”


      “Đến đây nào, kho báu ,” Irina vừa vừa cố ôm lấy Dan. “Với những đứa trẻ này tôi cũng giống như người bà ấy. Chúng chạy trốn khỏi giám hộ ở Boston. Mấy ông xem, tôi có đầy đủ giấy tờ này. Nhìn xem này! Sở Dịch vụ Xã hội, thành phố Massachusetts, chứng nhận. Tôi được gửi đến đây để đưa chúng về nhà.”


      “Mọi thứ đều có vẻ hợp lệ,” người nhân viên vừa vừa xem xét mớ giấy tờ. Hình như là Sở Dịch vụ Xã hội tìm kiếm hai đứa bé này từ hồi chúng còn ở Mỹ.”


      “Người phụ nữ đó là tên gián điệp chuyên dối trá và giết người đấy!” Dan vừa la vừa chỉ vào Irina.


      ta cố giết chúng cháu!” Amy cũng la lên.


      Irina lại chấm vào đôi mắt hoàn toàn ráo hoảnh của ả. “Bọn trẻ luôn gặp rắc rối với chính quyền,” ả ta với mấy người nhân viên. “Các ông biết trẻ con Mỹ rồi đấy, vô kỷ luật lắm. Nhưng chúng vẫn là những cái bánh bao bé bỏng của tôi, và tôi chúng. Bọn trẻ là người thân trong nhà mà!”


      “Bà bà vừa là bảo mẫ vừa là họ hàng của mấy đứa bé à?” người nhân viên hỏi.


      “Ờ..ờ..ooo,” Irina vừa khóc nức lên vừa lấy khăn tay phủ mặt lại. “Tim tôi vỡ ra từng mảnh cứ như là chiếc tách trà ấy, chỉ vì lại được nhìn thấy những gương mặt thiên thần dấu!”


      “Còn tim tôi vọt ra khỏi miệng nè,” Nellie vừa vừa trợn mắt.


      Ngay cả người nhân viên an ninh cũng phải nhướng mày. Amy nghĩ rằng Irina diễn hơi quá lố. Dĩ nhiên, ả ta được luyện tập nhiều để đóng vai ủy mị như thế.


      “Nếu để tôi quay lại máy bay, tôi có thể lấy giấy tờ cho xem,” Shep . “ ràng là tôi để lạc đâu mất rồi, nhưng nó chỉ ở đâu đó quanh đây thôi.”


      “Xin đứng yên đó.” Người nhân viên an ninh quay sang Amy và Dan. “Người phụ nữ này là Irina Cahill, và bà ấy báo rằng...”


      ta phải là người nhà Cahill,” Amy la lên. “Ý cháu là, ta ở trong dòng họ, nhưng đó phải là tên ta!”


      Người nhân viên an ninh lau mồ hôi trán. “Tất cả mọi người có ngừng la hét được ? Chúng tôi cố gắng để làm vấn đề này đây.”


      nhân viên an ninh khác vội vàng từ văn phòng đến. ta thầm gì đó với người trưởng nhóm an ninh. Amy loáng thoáng nghe được từ Interpol.


      Người trưởng nhóm an ninh quay sang Irina. “Bà có tình cờ quen biết ai tên Irina Spasky ?”


      “Chưa bao giờ nghe về người đó.” Vẻ mặt của Irina hề biểu lộ chút cảm xúc nào. “Spasky là cái tên phổ biến ở Nga.”


      ta chính là Irina Spasky đấy!” Amy hét lên.


      “Người này bị Interpol truy nã vì... xem nào, hàng loạt vụ phạm tội quốc tế,” người nhân viên an ninh kiểm tra danh sách. “Ở Dubrovnik, năm 2002, dùng hộ chiếu giả. Ở Sofia, năm 1999, dùng chất độc gây tê liệt đầu độc người đàn ông vô danh. Ở Sri Lanka...” Người nhân viên trở nên tái nhợt. “Lạy trời đất.”


      “Chính là ta đấy!” Dan la toáng lên. “Đem nhốt ta lại rồi quăng cái chìa khóa Nga đó .”


      Irina mỉm cười. “Bọn trẻ ngốc nghếch. Hãy cho tôi biết, các ông an ninh, tại sao các ông chịu truy lùng những tên tội phạm như mụ Spasky này, mà lại đứng đó kết tội bảo mẫu người Nga tội nghiệp cố cứu mấy đứa trẻ khỏi tay kẻ bắt cóc.”


      Người nhân viên an ninh thở dài. “Bà sao cũng được, thưa bà!”


      Shep bắt đầu chuyện với người nhân viên an ninh để giải thích rằng ông là em họ của Arthur Trent, rằng ông là công dân đáng kính chuyến bay và chiếc máy bay cần phải được cất cánh. Ông kéo cả Nellie vào cuộc thảo luận.


      Irina quay sang Amy và Dan. Ả hạ giọng xuống thành tiếng thầm.


      “Ta ở đây để giúp mấy đứa. Tụi bây bay thẳng vào cái bẫy.”


      “Xem ai vậy kìa? Có vẻ như tụi tôi nằm trong cái bẫy rồi mà,” Dan .


      thể bỏ qua bất cứ cơ hội nào để châm chọc ta hả?” Irina . “Ta hiểu rồi.”


      “Bà mới là người hay châm chích có,” Dan huỵch toẹt.


      “Chúng tôi mắc bẫy của bà đâu,” Amy gay gắt. “Chắc bà nghĩ là giết được tụi tôi ở trong cái mỏ đó rồi chứ gì...”


      “Ta liên quan đến chuyện xảy ra ở đó,” Irina . “Ta hề biết Isabel dự định làm gì cho đến khi mụ ta làm việc đó. Nếu có thể ta ngăn mụ ta lại rồi.”


      láo!”


      “Mấy đứa vẫn chưa nhận ra ai mới là kẻ thù thực à?”


      Dan chỉ thẳng vào Irina. “Đây nè!”


      “Đừng Jakarta. Nếu Isabel biết tụi bây ở đó, mụ ta giết hai đứa bây, hiểu hả?”


      “Còn bà đột nhiên lại biến thành kiểu bà ngoại tốt bụng hả?” Dan hỏi bằng giọng cay độc. “Cho tôi xin . Nếu có cơ hội bà cũng giết tụi tôi thôi.”


      “Amy này,” Irina gọi tên con bé cách nhàng. Amy chưa bao giờ nghe sắc này trong giọng của Irina. Đầu tiên nó nhận ra điều đó, nhưng rồi nó cảm nhận được. cay độc biến mất.


      “Isabel với cháu rằng ta chính là người giết cha mẹ cháu. Đúng ?”


      Amy chỉ yên lặng nhìn Irina chằm chằm.


      Đầu của Dan xoay như chong chóng hết từ Amy lại sang Irina. “Bà ta vừa cái gì thế?”


      “Mụ ta dối đấy. Mụ ta dối bất cứ chuyện gì để đạt được điều mụ muốn. Cháu có nhớ gì nhiều hơn về cái đêm đó ?”


      “Cha mẹ mình bị mưu sát à?” Dan hỏi khẽ như gió thoảng. Nó hướng ánh mắt thất thần vào Amy. Nhìn nó giống như cậu bé lạc. Đó chính xác là vẻ mặt mà con bé sợ phải trông thấy.


      “Đúng thế,” Amy đáp. “Tôi nhớ bà.” Con bé lạnh lùng đưa ra lời buộc tội, hy vọng Irina mắc câu. Chắc chắn Irina có mặt ở đó, ngay cả khi nó thể nhớ được gì về có mặt của ả.


      “Nhưng phải chỉ có mình ta, đúng ?”


      “Chuyện gì xảy ra thế này?” Dan hỏi giọng run rẩy.


      “Tại sao?” Amy hỏi. Nó cố chống lại cảm giác bị thắt nghẹt trong cổ họng để thốt nên lời. “Sao bà có thể làm chuyện đó hả?”


      phải ta làm,” Irina đáp. “Nhưng đúng là ta ở đó.”


      “Thế gọi là đồng lõa giết người đấy,” Amy .


      Gương mặt Dan dường như méo xệch bởi hoang mang của nó. Trông như thể có ai đó vừa tung cú đá trời giáng thẳng vào bụng nó.


      Giọng Shep cất lên to hơn. “Chỉ cần để tôi quay vào máy bay!”


      “Tôi nghĩ rằng đó phải là máy bay của ông,” người nhân viên an ninh đáp. “Nó được đăng ký bởi ông Gregory Telliver, và chúng tôi cố gắng liên lạc với ông ấy đây. may là ông ấy tắt di động rồi.”


      “Ông ấy là bạn tôi,” Shep . “Ông ấy xác nhận cho tôi.”


      “À, nếu tôi mà liên lạc được với ông ấy, ông ấy khó lòng mà làm được việc xác nhận đó.”


      “Tôi chỉ muốn ...”


      “Đồng lõa à, phải,” Irina liến thoắng với Amy. “Ta khỏi đó. Nhưng ít nhất còn người trong số chúng ta ở lại. Cháu có nhớ ai ?”


      “Sao bà cho tôi biết ?”


      “Bởi vì chắc chắn cháu phải nhớ .”


      “Bà vẫn tiếp tục ám chỉ người đó là Isabel. Tôi biết bà muốn tôi gì. Thế bà và bà ta khác nhau ở chỗ nào chứ? Bà ta buộc tội bà, còn bà lại buộc tội bà ta.”


      Gương mặt của Irina tái mét. “Đâu là khác nhau giữa bọn ta,” ả lặp lại. “Ta cố tìm ra điều đó đây.”


      “Làm ơn cho chúng tôi quay lại phòng chờ được ?” Nellie hỏi nhân viên an ninh. “Chuyện này làm bọn trẻ rất buồn.”


      Irina túm lấy cổ tay Amy. “Cháu phải tin ta...”


      “Ế! Bỏ tay ra khỏi người cháu tôi!” Shep ra lệnh. “Các ông để cho ta làm như thế à?” Shep cật vấn người nhân viên an ninh. Trong thoáng chốc, ông liếc nhìn Amy. Ông giơ nắm đấm lên đấm vào khí. Gia đình, Amy nghĩ thầm. như thể Shep lời tạm biệt.


      Irina thả tay Amy ra, nhưng ả cúi xuống gần hơn. “Ta thể ngăn được cháu,” ả nhanh. “Nhưng hãy nhớ lời cảnh báo của ta. Đó là điều tốt nhất mà ta có thể hy vọng cho cháu.”


      “Đồng ý,” người nhân viên an ninh bảo Nellie. Ông ta bối rối kể từ khi Shep bắt đầu đôi co với Irina. “Nhưng được rời khỏi phòng chờ đấy!”


      “Ông cứ yên tâm! ấy như quả táo ấy![2]” Nellie vừa vui vẻ đáp vừa kéo Dan và Amy . Ngay khi vừa khỏi tầm nghe, thào: “Quay lại chỗ máy bay.”


      [2] Câu này dùng tiếng lóng kiểu Úc, nghĩa là “ ổn thôi”.


      “Sao cơ?” Amy hỏi lại.


      “Chú Shep lén đưa giấy tờ cho chị. Nó nằm ngay trong túi quần chú ấy chứ đâu. Chúng ta có thể được rồi.”


      “Chị có biết lái thứ đó vậy?” Amy hỏi đầy vẻ hồi hộp.


      “Dễ như ăn bánh,” Nellie đáp.


      “Nhưng làm sao với mấy chàng bên an ninh bây giờ?” Dan hỏi.


      “Đó là lý do khiến chúng ta phải làm việc này nhanh,” Nellie đáp. “Và bình thường.”


      “Chị làm thế nào để ăn trộm chiếc máy bay cách bình thường được chứ?” Dan lại hỏi.


      “Như thế này nè.”


      Nellie thong thả tản bộ về phía cái máy bay. liếc nhìn sau lưng nhanh rồi chạy ào lên cầu thang. Amy và Dan làm theo.


      “Cài dây an toàn vào. Chị thông báo cho tháp kiểm t lưu. Shep bảo chị rằng chúng ta có nhiều cơ may là họ vẫn chưa kịp hủy bỏ thông tin đăng ký bay. Nhân tiện...,” Nellie quay lại nhe răng cười với tụi nó, “chú ấy chúc chúng ta may mắn.”


      Amy và Dan vừa cài dây an toàn vừa hồi hộp, trong lúc Nellie chuyện với đài kiểm soát lưu. Chiếc máy bay lăn bánh lên đường băng. Amy tì mũi vào cửa sổ. Shep vừa vẫy tay chào vừa chuyện với các nhân viên an ninh, những người hề nhận ra là chiếc máy bay lăn bánh.


      Irina đứng yên bất động, nhìn chằm chằm vào chiếc máy bay. Mỗi giây trôi qua, Amy đều nơm nớp chờ ả ta báo động cho đám nhân viên an ninh biết. Nhưng ả chỉ đứng đó và nhìn.


      Tại sao mụ ta lại để tụi nó thoát?


      “Cất cánh thôi!” Nellie gọi lớn khi chiếc máy bay tăng tốc. Chẳng mấy chốc, tụi nó lao vùn vụt đường băng. Amy níu chặt lấy tay ghế. Chắc chắn nó hy vọng rằng Nellie đừng có thổi phồng những kỹ năng bay của mình.


      “Em nghĩ máy bay có dù ?” nó hỏi Dan.


      Thằng nhóc trả lời. Nó cũng bấu chặt vào tay vịn ghế.


      Chiếc máy bay cất cánh cách êm ái. Nó bay cao dần lên bầu trời, chao nghiêng thành phố Darwin và hướng ra vùng nước xanh thẳm.


      Giọng Nellie vang lên qua hệ thống loa nội bộ. “Được rồi. Giờ hành khách có thể tháo dây an toàn, ngồi thoải mái và tận hưởng chuyến bay. Điểm dừng tiếp theo, Java.”


      Amy nghiêng người gần hơn về phía Dan. “Chuyện này bình thường, tất cả những điều mà chúng ta phát về Nellie ấy,” con bé . “Giống như chị ấy được huấn luyện để làm việc này vậy.” Dan thèm trả lời. Nó chăm chú ngó ra bên ngoài cửa sổ máy bay, gương mặt cau có và căng thẳng. “Chị bắt đầu tự hỏi là tụi mình có biết gì về chị ấy hay .”


      Dan quay ngoắt lại nhìn nó trừng trừng. “Em biết cảm giác đó.”


      “Cái gì chứ?” Amy hỏi.


      “Isabel bảo chị rằng Irina giết cha mẹ mình, đúng ? Mà chị lại thèm cho em biết, đúng ?”


      Amy có thể nhìn thấy hai tai Dan từ từ đỏ lên, nhìn thấy cái cách mà miệng nó méo . Hai mắt thằng nhóc đầy nước.


      “Chị định với em, chỉ có điều...”


      Chỉ có điều là chị vẫn còn giữ những cảm xúc này. Và đôi khi chị biết chúng có hay . Và chị sợ lắm, Dan à. rất sợ. Nếu đúng là vì lỗi của chị mà cha mẹ phải chết sao?


      “Ồ, thế bao giờ cái việc ‘định’ của chị mới diễn ra?” miệng Dan mím lại thành đường thẳng. “Ngày mai à? Hay tuần tới? Hay là bao giờ?”


      “Có vẻ như cứ tiếp tục chờ đợi tốt hơn.” Ngay cả Amy cũng thấy lời giải thích của nó thỏa đáng.


      “Cha mẹ chúng ta bị ám sát, chị biết ai làm chuyện đó, thế mà chị với em à?”


      “Tụi mình vẫn chưa biết chắc có phải là Irina hay .”


      “Thế chị tin bà ta à?”


      “À, có vẻ như chúng ta chẳng thể nào tin được Isabel. Bà ta cố đem chị cho cá mập xơi, nhớ ? Rồi lại còn cố giết chúng ta trong hầm mỏ nữa. Tỉnh chưa? Bà ta cũng chẳng có vẻ gì là người đáng tin cậy nhất trong lúc này.”


      “Em xứng đáng được biết chuyện. Chị đối xử với em giống như... như thằng con nít!”


      em là em trai bé bỏng của chị mà


      “Em còn bé!” Mặt Dan nhăn nhúm lại trông như quả đấm. “ bao nhiêu lần chính em cứu chị khỏi bị làm trò cười. Chị tính thử xem bao nhiêu lần em cứu chị khi mà chị sợ đến mức nổi. Thế tại sao chị lại nghĩ là chị cần phải bảo vệ em chứ?”


      Bởi vì em là em trai bé bỏng của chị, Amy những muốn trả lời như thế.


      Nhưng nó thể thế. Nó biết nếu nó trả lời như thế, Dan có thể nhảy ra khỏi máy bay ngay lập tức, dẫu có dù hay cũng mặc kệ.


      Nên nó chỉ ngồi nhìn em trai cách bất lực.


      “Bí mật và dối trá,” thằng nhóc . “Xin chúc mừng bà chị. Chị chính thức trở thành người nhà Cahill rồi đấy.”






      CHƯƠNG 21


      NẾU CÓ ĐIỀU mà Dan bao giờ ngờ rằng nó nghe thấy trong cuộc đời mình, đó chính là câu “Điểm dừng tiếp theo, Java” trong lúc au pair của nó bắt đầu băng qua đại dương mênh mông.


      Nếu có điều gì đó mà nó bao giờ nghĩ rằng nó có lúc phải cảm thấy, đó là đơn.


      lần, khi nó lên bảy, nó lao đầu vào cánh cửa kính. Chạy hết tốc lực và tông thẳng vào đó. Nó bị dội ngược trở lại và lăn quay ra đất. Nó vẫn còn nhớ cảm giác về cú va chạm bất ngờ và dữ dội đó. Và điều tiếp theo ngay sau đó, là nỗi đau.


      Giờ đây nó cũng cảm thấy chính xác như thế.


      Cái chết của cha mẹ là điều mà nó cố nghĩ đến, nhưng tất nhiên là nó vẫn nghĩ đến điều đó hầu như mỗi ngày. Nó cố nghĩ đến những thứ ngớ ngẩn chẳng hạn như từ “nếu mà”. Nếu mà có cha bên cạnh để dạy nó đá bóng sao? Nếu mà có mẹ ở đó khi nó lên cơn hen nặng nhất sao? Nó tự với mình rằng những suy nghĩ đó trẻ con. Vụ cháy xảy ra. Đó là số phận. Nó chẳng thể làm gì để thay đổi chuyện đó. có ai để trách cứ cả.


      Ngoại trừ việc có ai đó đáng trách. Người cướp gia đình nó. Người cướp tuổi thơ của nó. Người đó, trong đêm lạnh giá, bình thản bước vào ngôi nhà, nơi có bốn con người thương lẫn nhau, và châm lửa...


      Dan lắc đầu mạnh. Nó cảm thấy chân mình run rẩy. Nó nhìn ra mặt biển mênh mông. Bà dì Beatrice thường “Chẳng phải những rắc rối của chúng ta trở nên bé khi ta nhìn vào những điều to lớn, chẳng hạn như bầu trời?”. Đó là cách bà ấy dùng để an ủi hai đứa bé mồ côi cha mẹ. Bà dì Beatrice đúng là đồ ngốc.


      Cả Ấn Độ Dương cũng chẳng làm nó thấy khá hơn tí tẹo nào. Mọi chuyện dễ dàng hơn nếu nó chuyện với Amy, nhưng nó hạ quyết tâm khá sắt đá rằng bao giờ chuyện lại với chị .


      từng nhiều lần tức giận với Amy. Theo nhiều kiểu. Nhưng lần này chuyện còn tệ hơn cái lần chị nó gắn những con búp bê tí hon lên những chiếc xe hơi Matchbox của nó, ngay trước khi thằng bạn thân Liam của nó tới chơi. Tệ hơn cả cái lần chị nó mách lẻo với bà dì Beatrice rằng nó nhạc Beethoven, để bà ấy đăng ký cho nó học đàn piano. Tệ hơn cả lần ở Ai Cập, khi nó nghĩ rằng chị nó cố giữ tất cả kỷ vật của bà Grace cho riêng mình.


      gì có thể so sánh được với cảm giác lúc này.


      Chị nó phát ra rằng cha mẹ nó bị mưu sát, và giữ bí mật chuyện đó. Trong khi đó chính là chuyện quan trọng nhất trong cuộc đời của tụi nó.


      Vụ cháy phải là tai nạn. Nguyên nhân phải vì cha nó ủ lửa và để cho tàn lửa bắt vào tấm thảm. Có ai đó vào nhà và bình thản châm lửa đốt.


      Và Amy biết chuyện. Đêm đó chị nó thậm chí còn chạy xuống nhà xem! Và chị nó bao giờ thèm cho nó biết.


      Thế mà nó nghĩ rằng tụi nó luôn bên nhau. Trong mọi việc.


      Nó nhìn trân trân ra ngoài làn nước xanh thẳm trải dài đến tận chân trời. Nó biết phải làm thế nào để vượt qua chuyện này. Cha mẹ nó. Bà Grace. Và giờ là Amy.


      còn ai nữa.


      ***


      Trời vẫn còn sáng lúc Nellie cho máy bay hạ cánh cách chuyên nghiệp tại sân bay Quốc tế Halim Perdanakusuma, phía Nam thành phố Jakarta. bỏ tai nghe và thở hắt ra hơi. “Mình quá giỏi,” nàng .


      quàng chiếc ba lô lên cánh tay và xách cái lồng đựng con Saladin lên. “Nếu chúng ta gặp rắc rối ở bộ phận kiểm soát hành khách, cứ để chị chuyện nhé,” bảo.


      thành vấn đề, Amy nghĩ thầm. Dan vẫn chẳng chẳng rằng gì cả.


      Cả đám cùng thở phào nhõm khi qua được khâu kiểm soát hành khách cách chóng vánh. Halim là sân bay dành riêng cho các chuyến bay tư nhân, nên quá đông đúc. Chỉ sau vài phút, Nellie dẫn cả bọn chen lấn trong đám đông các bác tài taxi và gọi chiếc màu xanh để về trung tâm thành phố. nàng mở điện thoại di động và đặt phòng khách sạn.


      “Chị nhắn tin cho chú Shep để báo rằng chúng ta tới nơi an toàn,” . “Chú ấy đáp chuyến bay thương mại tới đây để lấy lại chiếc máy bay.” nhìn hai đứa trẻ cách lo lắng. “Chắc hai đứa phải kiệt sức rồi. Chị chưa bao giờ thấy hai đứa im lặng quá 30 giây cả. Trừ lúc ngủ.”


      Dan chẳng gì, nó chỉ nhìn ra ngoài cửa xe, ngắm con đường thẳng tắp được viền bằng những cây cọ. Trời nhá nhem tối, và những ngọn đèn bắt đầu được bật lên. Người tài xế cho xe lạng lách rất thành thạo giữa dòng giao thông đông đúc.


      Ánh đèn của thành phố Jakarta dần ra. Những cao ốc tỏa sáng giữa bầu trời u ámhững tòa nhà chọc trời cao cách tưởng, hệt như thứ gì đó lấy ra từ bộ phim khoa học viễn tưởng. Tài xế cho xe rẽ khỏi đường cao tốc, và chẳng mấy chốc tụi nó đại lộ rộng lớn. vòng xoáy giao thông hỗn loạn của những chiếc xe buýt chật cứng, taxi và xe máy cuốn bọn họ thẳng tới vòng xoay khổng lồ bao quanh đài phun nước. Tay tài xế phóng nhanh qua khỏi vòng xoay vào con phố hẹp, và những tòa cao ốc dần lùi xa phía sau lưng họ.


      Amy chưa bao giờ nhìn thấy thành phố nào đông đúc và hỗn loạn nhường ấy. Nó từng nghĩ Cairo lộn xộn, nhưng thành phố này thậm chí còn là cả mê cung, kẹt cứng với những loại xe cộ bất chấp mọi loại luật lệ giao thông và những người bộ luồn lách giữa dòng xe để băng ngang qua những con đường hỗn loạn. Bầu khí nặng nề và đặc quánh khói xe.


      Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại ngay trước mái hiên màu cam gắn vào tòa nhà sơn trắng. người giữ cửa nhanh nhảu chạy ra mở cửa xe và xách đồ đạc cho tụi nó. Nellie đếm lại số tiền mà đổi sẵn ở sân bay.


      Cả đám dừng lại ở quầy tiếp tân để Nellie làm thủ tục nhận phòng. “Chúng tôi muốn đặt chuyến tham quan đến Anak Krakatau vào ngày mai,” . “Ông có thể thu xếp giúp chuyện đó được ?”


      “Bình thường được ạ,” người nhân viên đáp. “Nhưng tại chính phủ vừa có lệnh cấm ra đảo. Khi núi lửa có hoạt động quý khách được phép lên đảo.”


      Amy muốn khóc òa lên. Chẳng lẽ tụi nó làm tất cả những chuyện này mà chẳng được tích gì hay sao? hiểu sao nó có cảm giác rằng chỉ cần nó được nhìn sơ qua hòn đảo, tụi nó có thể tìm thấy cái gì đó mà Robert Henderson để lại. Còn như ở Jakarta này nó chẳng biết phải bắt đầu từ đâu để tìm ông ta.


      Nellie ngoái lại nhìn hai đứa. mỉm cười ra vẻ thông cảm, như thể hiểu thấu tụi nó mệt mỏi và thất vọng đến mức nào.


      “Mang cho chúng tôi ít đồ ăn Mỹ được ?” Nellie hỏi. “Bánh mì kẹp phô-mai chẳng hạn?”


      Phải lo lắng cho Nellie mới chịu bỏ qua cơ hội nếm thử đồ ăn địa phương, Amy nghĩ thầm. Rồi ngay sau đó, chính Amy lại cảm thấy lo lắng. Dan chưa bao giờ im lặng lâu như thế này.


      Nhân viên lễ tân mỉm cười. “Ở Jakarta này quý khách muốn gì cũng có. Tôi có thể thu xếp đưa thức ăn lên tận phòng cho quý khách.”


      “Bánh mì phô-mai, thịt rán, khoai tây chiên... đem lên bất cứ thứ gì các ông có nhé,” Nellie dặn.


      Cả đám thang máy lên phòng và vứt phịch đồ đạc xuống. Amy nhấc con Saladin ra khỏi lồng.


      Nellie quay lại nhìn tụi nó. “Được rồi, xả hết ra . Chuyện gì xảy ra thế? Tại sao hai đứa chuyện? Khi chị nhắc tới bánh mì phô-mai, Dan thậm chí còn thèm nhếch mép.”


      “Chẳng có gì đâu,” Dan đáp.


      “Chỉ mệt mỏi thôi mà,” Amy lầm bầm trả lời từ trong đám lông mềm mại của con Saladin.


      “Chắc rồi,” Nellie . “Chuyện Krakatau ổn rồi, nhưng chúng ta hãy để tới sáng mai rồi suy nghĩ xem phải làm gì. Chị đề nghị đêm nay chúng ta chỉ thuê đĩa DVD lên xem và nghỉ ngơi thôi nhé. Chị chưa bao giờ mệt thế này,” ngáp dài. “Có lẽ chúng ta có thể tới gần hòn đảo được đấy, nhưng liệu chỗ đó cho chúng ta biết được điều gì?” Nellie lắc đầu. “Chị sẵn sàng tới đó, nhưng chị vẫn biết chắc là chúng ta tìm thứ gì.”


      “Em cũng biết chắc,” Amy đáp.


      vậy sao?” Dan hỏi kháy. “Em nghĩ rằng chị biết hết mọi chuyện chứ.”


      Nellie hết ngó Dan rồi tới Amy, rồi lại ngó Dan.


      “Thôi nào các nhóc,” . “Chị làm trọng tài cho vụ này nhé. Giờ gì nữa. Ăn thôi.”


      ***


      Amy thức giấc và hiểu nó ở đâu. Trời tối như mực, và tất cả thanh nó nghe được chỉ là tiếng rè rè nho của cái máy lạnh. Khách sạn nào đây, thành phố nào đây, đất nước nào đây? tiếng còi xe ré lên. Căn phòng phảng phất mùi... bánh mì kẹp phô-mai. Món bánh mì kẹp phô-mai dở dễ sợ...


      Jakarta. Java.


      Cái tên nghe “ngoại quốc” trong lúc con bé nhẩm nhẩm lại trong đầu. Nếu là tháng trước chắc là mình có thể tìm đúng những địa danh này bản đồ hay nữa. Từ Darwin, tụi nó bay theo hướng Tây xuyên qua Ấn Độ Dương. Nếu xuất phát từ Boston, Massachusetts có xa hơn ? Nó nghĩ thế.


      thể ngủ tiếp. Giờ mắt nó quen với bóng tối, nó có thể nhận ra đống lùm lùm, chính là Dan, nằm chiếc giường sofa.


      làm Dan tổn thương. Nó biết điều đó. Suốt cả buổi tối nó muốn giải thích. Nhưng giải thích cũng đồng nghĩa với thú tội. Mà nó dám đối diện lại với cái đêm hôm đó. Việc ra chuyện đó làm tất cả trở nên quá . Nó buộc phải sống lại thời điểm đó. Và nếu phải làm thế, nó sụp đổ mất.


      Con bé thở dài và quay chỗ khác. Nellie nằm nghiến răng bên của chiếc giường rộng, nửa chiếc gối phủ lên đầu . Phần mép của tấm rèm cửa dần nhuốm màu cam bởi ánh mặt trời mọc. Tim Amy đập nhanh hơn.


      Lửa.


      “Đưa các con ra ngoài ngay!”


      Con bé tung tấm chăn ra. Nó lấy hai bàn tay áp chặt vào tai. Nó hét lên từ bên trong mình. Mẹ ơi! Đừng !


      Con bé vùng dậy và ngang căn phòng. Nó vén tấm rèm cửa sang bên. Nó thấy ánh mặt trời tỏa hào quang những tòa cao ốc, báo hiệu ngày mới bắt đầu.


      Nó nhón chân tấm thảm và ngồi xuống chiếc giường sofa. “Dan,” nó gọi khẽ.


      Thằng nhóc vẫn tiếp tục ngủ.


      “Dan ơi!”


      Thằng nhóc ngồi dậy, mặt ngơ ngác. “Chúng ta đâu thế? Quần em đâu?”


      Con bé cười lặng lẽ. Nhưng vẻ ngơ ngác nhanh chóng biến khỏi khuôn mặt thằng nhóc, và vẻ cau có quay trở lại.


      “Chị xin lỗi vì cho em biết,” con bé .


      “Sao cũng được.”


      “Chỉ là...”


      “Chả có gì quan trọng đâu,” thằng nhóc lại phủ tấm chăn lên người.


      “Vậy là em tha lỗi cho chị rồi à?”


      “Em thế.” Miệng Dan mím chặt lại thành đường thẳng nghiệt ngã. “Hãy cho em biết những gì chị nhớ được. ràng là Irina biết chị có nhớ.”


      , ta biết đâu! Mà chị cũng nhớ được gì nhiều. Tất cả chỉ là những tia chớp mơ hồ kỳ lạ của ký ức. Chị nhớ mình nghe tiếng người , chị chạy xuống lầu và thấy sợ hãi bởi vì có đám người lạ mặt ở trong nhà. Trong giọng của họ có vẻ thiện chí. Rồi Isabel Kabra bế chị lên...” Amy hít hơi. thể kể với Dan vụ những con gấu túi. Thằng bé hãy còn choáng váng bởi kiện cha mẹ nó bị mưu sát bởi chính những người họ hàng của mình. Chuyện gì xảy ra nữa nếu thằng bé biết rằng đó là lỗi của nó?


      “...và chị có thể rằng mẹ sợ hãi. Chị nhớ rằng sau đó chị nghe tiếng cửa trước đóng lại, và chị rất mừng là bọn họ khỏi. Rồi chị nhìn ra ngoài và thấy bọn họ vẫn còn đứng dưới cửa sổ phòng chị. Isabel bảo rằng họ phải hành động ngay tối hôm đó. Những người khác hoàn toàn im lặng.”


      “Chị có nhớ gì về cha mẹ ?” Dan hỏi dồn.


      Amy lắc đầu. “ nhớ gì nhiều. Chị nhớ mẹ đưa em và chị chạy ra ngoài, còn cha lúc đó ném sách từ giá xuống đất.”


      “Cha tìm thứ gì đó.”


      “Rồi sau đó mẹ đặt chị em mình ngồi bãi cỏ, bảo chị phải chăm sóc em, rồi mẹ chạy trở ngược vào nhà. Chị cứ ngồi mãi như thế để chờ họ trở ra. Nhưng họ ra nữa.” Nước mắt lăn dài xuống hai gò má Amy. Hãy chăm sóc em trai con. Nghe sao mà đơn giản thế. Nhưng làm thế nào để thực điều đó cho tốt nhất bây giờ?


      Dan lúng túng nhìn chị mình khóc. “Đừng mất tinh thần vào lúc này,” nó . “Chúng ta còn có việc phải làm.”


      “Em vẫn chuyện với chị chứ?” Amy hỏi bằng giọng nghẹn ngào.


      “Em nghĩ thế,” Dan đáp. “Chúng ta manh mối phải săn lùng. Nên hãy bắt tay vào việc thôi.”


      Amy xóa nỗi đau trong giọng của Dan. Có lẽ căng thẳng giữa hai đứa dịu xuống. Dan phải là đứa giỏi nuôi dưỡng giận dỗi.


      Con bé lục tìm trong ba lô của mình. Nó tìm thấy mấy bịch đậu phộng rang bơ và quăng cho Dan bịch. “Bữa sáng nè.”


      Dan xé bịch đậu phộng ra. “Được rồi. Tối qua em cố nghĩ ra cách để lần theo dấu của Henderson, nhưng cuối cùng chỉ tổ bị nhức đầu. Thành phố này to dã man. Và chúng ta phải khẩn trương nếu muốn tìm được những manh mối.”


      “Chị vẫn ước gì tụi mình được nhìn thấy đảo Krakatau,” Amy . “Chỉ cần được có mặt ở nơi ông ta từng ở, thế nào tụi mình cũng tìm ra điều gì đó.”


      “Chị nhớ tay lễ tân gì khi Nellie hỏi chuyện bánh mì phô-mai ?” đám mây vụn đậu phộng rang vọt ra khỏi miệng Dan lúc nó chuyện, nhưng Amy gần như để ý tới. “Ở Jakarta này, người ta muốn gì cũng có. Có lẽ nếu tụi mình chỉ cần để ý chút... tụi mình nhận ra thứ gì đó.” Dan quăng hạt đậu phộng cuối cùng vào miệng. “Ở đâu đó quanh đây thôi.”


      Amy nhìn về phía chiếc giường, nơi Nellie nằm dang hết chân tay ra, hơi thở của sâu và đều đặn.


      “Tối qua chị ấy mệt đến nỗi thậm chí còn nghe iPod.” Amy . “Tụi mình đừng làm chị ấy thức giấc. Hãy nghiên cứu thêm chút nào.” Con bé với tay lấy cái laptop của Dan.


      Dan lại lăn đùng ra giường. “Nghiên cứu hả? Chị chỉ nghĩ ra được mỗi chuyện đó thôi hả?”


      “Chị muốn xem có tìm được thêm gì về con tàu đó hay . Nellie mới vừa chở chúng ta vượt đại dương. Tụi mình nợ chị ấy giấc ngủ.”


      “Nợ ấy à?” Dan hỏi lại. “Em biết tụi mình nợ chị ấy bao nhiêu nữa.”


      “Ý em là sao?”


      “Chuyện hài hước ở chỗ là tụi mình vẫn tiếp tục phát ra nhiều điều về chị ấy,” Dan hạ thấp giọng. “Nhớ điều chị


      “Chị tưởng em nghe chứ.”


      “Em chỉ chuyện với chị thôi. Giờ em vẫn chuyện, trừ khi phải . Chị rằng dường như chị ấy được huấn luyện để làm việc này. Chị đúng đấy.”


      “Chị biết. Em có nhớ cái tin nhắn kỳ lạ mà tụi mình nghe được trong điện thoại di động của chị ấy hồi còn ở Nga ? cầu báo cáo về nhân thân... đúng là Quý bà Bí .” Amy cắn môi. “ phải là chị tin chị ấy. Ý chị là, chị ấy vẫn là Nellie. Chị ấy rất, rất tuyệt vời. Chỉ là... chị ấy là ai?”


      “Chị bao giờ biết ai là ai cả đâu,” Dan . “Ngay cả người thân thiết nhất của chị cũng vậy. Em học thuộc lòng điều đó rồi.”


      Amy tự cảm thấy đỏ mặt. Nó biết Dan chỉ về dòng họ Cahill. Thằng nhóc còn về nó nữa.


      Dan liếc nhìn Nellie say ngủ. “Em nghĩ... nếu tụi mình nhìn sơ qua e-mail của chị ấy ...”


      “Làm sao làm được?” Amy hỏi. “Chị biết chị ấy có dùng laptop của em để vào hộp thư, nhưng chị ấy có mật khẩu cơ mà.”


      Dan có vẻ bối rối. “Ừm... em nhớ mật khẩu đó.” Đáp lại cái nhìn ngạc nhiên của Amy, thằng nhóc vội vàng giải thích: “Em định nhớ đâu! Có lần chị ấy kiểm tra e-mail vào buổi sáng, còn em nhìn mấy ngón tay chị ấy gõ bàn phím, và rồi... em cứ thế ghi nhớ nó thôi.”


      Dan lại liếc nhanh về phía Nellie. “Thế nên tất cả việc tụi mình cần làm là mở hộp thư của chị ấy ra và đăng nhập vào đó.”


      “Chuyện này sai trái,” Amy thào.


      khoảng im lặng ngắn ngủi. Rồi Amy thở dài. “Và chị ước gì mình nghĩ tới điều này từ trước.”


      Con bé mở hộp thư ra. Dan ghé sát lại gần và thầm “Whoa Nellie”. Ngay liền sau đó, tụi nó truy cập vào được danh sách thư từ của Nellie. Có thư của cha ấy, nick là agomez, viết rằng DONDE ESTAS YOU NOW[1] và thư mới từ người nào đó được gọi là clashgrrl, gửi từ địa chỉ e-mail của đại học Boston.


      [1] “Giờ con ở đâu” - tiếng Tây Ban Nha và tiếng .


      “Nhìn nè, hôm qua clashgrrl cũng gửi cho Nellie thư,” Amy . “Tiêu đề là ‘kiểm tra nè bé’.”


      “Chắc là bạn học cùng trường đại học với chị ấy.”


      “Có vẻ thế.” Amy nhấp chuột vào bức thư. Mấy chữ XIN NHẬP MẬT KHẨU ra màn hình. “Hài . lẽ tất cả những thư cá nhân của chị ấy đều có mật khẩu bảo vệ?” Amy lại nhấp vào bức thư của cha Nellie. Hola[2] con cứng đầu của bố, chẳng có tin tức gì của con từ lúc con đến Sydney. Làm ơn liên lạc với ông già này để ban đêm ông ta còn yên tâm mà ngủ. Bố thương và kiên nhẫn vô bờ của con. PS. Nếu con có ở gần Thái Lan, hãy gửi cho bố ít nước xốt cay nhé.


      [2] “Chào” - tiếng Tây Ban Nha.


      Amy mỉm cười. “Hai cha con Nellie có vẻ giống hệt nhau.”


      “Kiểm tra hết mấy cái e-mail còn lại .”


      Amy đọc lướt qua số thư còn lại. Nellie có hàng đống thư của các bạn bè khác và số thư của các em , nhưng chỉ có những thư của người tên clashgrrl là tụi nó mở


      “Sao Nellie lại phải đặt mật khẩu cho những thư này nhỉ?” Amy hỏi Dan.


      Cả hai đứa cùng nhìn au pair say ngủ. Tụi nó chỉ nhìn thấy được phần đỉnh đầu của . còn cái nhìn vui vẻ, nhìn chìm trong giấc ngủ trông khác, như thể ai đó mà tụi nó chưa từng quen biết.


      “Đừng tin ai hết,” Amy thào. Chẳng phải ngay từ đầu tụi nó biết điều đó sao chứ? Nhưng có thể là Nellie sao chứ? Cứ nghĩ đến chuyện nàng có thể giấu giếm tụi nó điều gì đó làm Amy cảm thấy run rẩy và mất thăng bằng, như thể mặt đất chuyển động dưới chân tụi nó.


      Còn Dan chỉ có vẻ giận dữ. “Nếu chị ấy hết mọi chuyện với tụi mình, việc gì tụi mình phải mọi chuyện với chị ấy chứ?” Thằng nhóc vo tròn cái bịch đựng đậu phộng rang và quăng vào thùng rác. “Tụi mình tìm cái núi lửa đó thôi.”






      CHƯƠNG 22


      THÀNH PHỐ JAKARTA nhất loạt tỉnh giấc gây nên tiếng gầm vang động. Ra khỏi khách sạn, Amy và Dan bước trong nỗi bàng hoàng, ngắm nhìn những chiếc xe tải, xe hơi, xe máy và taxi quấn vào nhau rồi tách ra đường phố. đầu tụi nó, những cây cọ đu đưa trong làn gió , còn lề đường chật cứng những người hối hả bước .


      “Chúng ta mất hàng giờ mà chẳng được việc gì mất,” Amy .


      Phải chăng đúng là nó luôn luôn bi quan như vậy, hay chỉ do Dan luôn phát ra điều đó mỗi khi thằng nhóc cáu tiết với chị mình? “ đâu, nếu chúng ta kiếm chiếc trong số đó.” Dan chỉ xuống đường. chiếc xe lam màu cam có ba bánh và thùng xe mui hướng thẳng về phía tụi nó. Dan giơ tay vẫy chiếc xe.


      “Em làm gì thế?


      “Nó là taxi đấy,” Dan trả lời. “Với lại thứ này khỏi phải chờ đợi khi kẹt xe.”


      Người tài xế cho xe tấp vào. “Quý khách cần chiếc Bajaj phải ? thoải mái, rất rẻ mà còn nhanh nữa. Tôi được mọi chỗ.”


      “Ông chở tụi cháu ra chỗ có tàu được ?” Dan hỏi. “Ra vịnh được ?”


      “Vịnh hả, hiểu rồi, tất nhiên là được. Đừng lo! Lên .”


      Tụi nó trèo lên đằng sau xe. Người tài xế cho xe khởi hành. Đầu Amy bị giật mạnh về phía sau khi chiếc xe tăng tốc.


      “Tuyệt vời!” Dan la toáng lên. Nó thể kìm mình được.


      Chiếc xe lam luồn lách giữa những chiếc xe tải và xe hơi. Nó tự tạo ra đường ở những chỗ có đường. Nó len lỏi vào những hẻm hóc và phóng ầm ầm qua những con phố tí hin. Chiếc xe gần như cắt xuyên qua dòng khách bộ hành. Đầu Dan bám đầy mùi xăng và mùi khói, còn tiếng ồn ào của thành phố ép chặt lấy người nó. Cảm giác như ở ngay giữa cỗ máy gào rống và rung lên bần bật.


      Jakarta quá mất.


      Những con đường mà người tài xế chui vào cứ ngày càng hẹp dần. Rồi đột nhiên, tụi nó ngửi thấy mùi của biển. Tay tài xế cho xe chạy chậm lại, và tụi nó lướt qua khu chợ có những chiếc dù bãi biển đủ màu sắc sặc sỡ được dựng mặt đất, che nắng cho những người đàn ông mặc quần đùi mang dép lê ngồi bán cá đựng trong những cái sọt. Họ rao hàng bằng giọng lảnh lót, quăng tiền ra xung quanh như bị điên. Và thằng nhóc chỉ ước gì tụi nó có thể ngừng lại để khám phá chỗ này.


      Xa xa phía trước, tụi nó nhìn thấy những cột buồm và những cánh buồm màu sắc sặc sỡ. Người tài xế cho xe dừng lại ở gần vịnh. Dan giơ ra mớ tờ rơi quảng cáo nhăn nhúm, người tài xế cầm lấy vài


      “Quý khách cần chuyến du lịch à?” Ông ta khoát tay chỉ ra vùng vịnh. “Tôi biết chỗ này. Em họ tôi có chiếc thuyền đánh cá. Chiếc thuyền tốt nhất trong vịnh, thủy thủ cũng tốt nhất luôn.”


      “Chúng cháu muốn Krakatau,” Amy .


      Ông ta lắc đầu. “Giờ nó hoạt động... quý khách thể xuống Krakatau được.”


      “Liệu em họ của ông... có chở tụi cháu tới đó được ? Chỉ nhìn qua cái thôi mà,” Dan hỏi nài.


      “Chuyến dài đấy, phải mất cả ngày.”


      “Vậy là đồng ý rồi nhé.”


      Dan chờ đợi câu tiếp theo từ miệng ông ta là “Thế cha mẹ các cháu đâu?”. Nó biết rằng ông ta nghĩ về điều đó. Dan lẳng lặng giơ ra nắm tiền.


      “Chắc chắn rồi,” tay tài xế vừa đáp vừa chộp lấy nắm tiền. “Đừng lo gì cả!”


      ***


      Em họ của người tài xế tên là Darma. Còn chiếc thuyền lúc nằm trong cảng trông có vẻ to lớn và vững chãi, nhưng đến lúc nổ máy ra khơi bỗng nhiên lại trở nên bé và mỏng manh kỳ lạ.


      Amy và Dan ngồi ở đuôi tàu nhìn Darma vừa cười vừa chỉ trỏ những cảnh vật ngoài khơi. Tụi nó nghe được ta gì vì tiếng động cơ át . ta có hai thủy thủ dưới quyền biết tiếng , nhưng luôn mỉm cười với Amy và Dan mỗi khi bắt gặp ánh mắt tụi nó.


      Mũi tàu hướng thẳng ra biển và mùi cá xông lên đặc quánh. Amy bám chặt vào lan can tàu, nó trông có vẻ hơi xanh xao. Dan hướng mặt ra khơi xa, đón gió thốc vào mặt nó. Mặt nước sáng lên màu lam ngọc, ở phía xa xa có thể nhìn thấy chuỗi những hòn đảo. Những chiếc tàu đánh cá có kích cỡ hơn chạy dích dắc mặt vịnh.


      Sau khi được lúc, tụi nó nhìn thấy chấm ở phía trước mặt. Dan đoán rằng tụi nó tới sát đảo Java. Nó biết Krakatau nằm ở phía Tây.


      Darma hét lên gì đó với tụi nó rồi cười lớn. Amy quay sang Dan. “ ta gì thế?”


      “Em nghĩ ta gì đó về ngày Chủ nhật và tàu thuyền. Bữa nay là Chủ nhật đúng ? Có phải tụi mình lại qua đường phân chia múi giờ quốc tế rồi ? Em có phải nhắc lại kiến thức lớp 4 cho chị đó?”


      “Chắc chắn là ta từ Sunda. Ở trong từ eo biển Sunda. Sau khi tới sát Java, tụi mình ở trong eo biển đó. Đó là con đường biển nối giữa Java và Sumatra. Và đó là đường tới đảo Rakata. Đó là hòn đảo có núi Anak Krakatau nằm đó. Em biết đó, tuy đảo Krakatau nổ tung rồi, nhưng hòn đảo khác thế vào chỗ của nó. Tên nó có nghĩa là “Đứa con của Krakatau”, và...”


      “Em biết là chị đâu cần được ai giúp,” Dan . “Nhưng làm ơn ngừng lại .”


      “Kênh vận tải biển!” Darma hét lên. Lần này tụi nó nghe thấy ta rất . ta mỉm cười rồi cười lớn. “Khi chúng ta băng qua đó, hãy bám cho chắc nhé!”


      Mặt nước dậy sóng ngày lớn hơn lúc họ vòng qua mũi đất. Darma đưa tàu sát hơn vào bờ biển, nơi nước lặng hơn. Bãi biển trông rất đẹp, và những ngọn đồi mọc đằng sau đó mờ mờ trong màn sương khói màu xanh lá cây và xám. Phía bên kia mặt biển xanh biếc là quần đảo Sumatra.


      Mình chiếc thuyền giữa Java và Sumatra, Dan nghĩ thầm. Thế có tuyệt cú mèo chứ?


      Thằng nhóc vừa bắt đầu hối hận vì mang theo đồ ăn trưa thủy thủ bày ra mấy tô to đầy cơm trộn dừa. Dan và Amy ních căng cả bụng trong lúc ngắm nhìn những chiếc xà lan lớn chạy ra khỏi eo biển.


      Mặt trời lên cao đỉnh đầu lúc Darma ra hiệu cho tụi nó. “Được rồi, giờ tới lúc vượt qua eo biển rồi.” ta chỉ tay. “Đằng kia là Rakata.”


      Giờ tụi nó có thể thấy nó rồi, hòn đảo có ngọn núi lửa Anak Krakatau dốc đứng, đứa con của Krakatau. Dan cảm thấy cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống.


      Darma hướng thẳng vào eo biển, cho chiếc tàu đánh cá luồn lách cách hết sức khéo léo giữa dòng giao thông đông đúc trong con kênh. Những chiếc xà lan khổng lồ chạy ngang qua, xả hơi nước mù mịt, làm chiếc thuyền của họ bị nhồi lên dập xuống trong làn nước sau đuôi của chúng. Cuối cùng, họ cũng được vào những vùng nước êm ả hơn, vượt qua những hòn đảo ken dày cây cọ và những bãi biển mời gọi. Tụi nó ở ngay chính giữa thiên đường nhiệt đới. Chắc chắn cảnh vật cũng giống hệt thế này khi Robert Cahill Henderson tới đây lần đầu. Chỉ trừ chuyện ở vị trí mà thời ngọn núi Krakatau hùng vĩ từng ngự trị mặt biển, giờ có ngọn núi mới mọc lên. Đỉnh của nó bằng phẳng và đó có những vệt khói trắng xen lẫn khói xám bạc bốc lên. Dan nghe thấy tiếng sấm nổ đùng đùng, nhưng nó chẳng mấy quan tâm tới điều đó. Nó còn quá ngây ngất với cảnh vật trước mặt. Theo cách nào đó, bạn có thể cảm nhận được sức mạnh của ngọn núi, cảm nhận được khối năng lượng sục sôi trong lòng nó to lớn đến chừng nào.


      Mặc dù giả vờ nghe, nhưng đầu nó thể kìm được việc ghi nhớ lại những kiện mà Amy đọc cho nó nghe máy bay của chú Shep: 36.000 người chết, hầu hết trong đợt sóng thần gây ra bởi vụ nổ cuối cùng vào ngày 27 tháng 8; hai phần ba hòn đảo bị thổi bay; người ta có thể nghe thấy vụ nổ khổng lồ cuối cùng từ cách đó hơn 2.000 dặm; sóng chấn động truyền bảy lần vòng quanh trái đất; đám mây tro bụi tung lên cao đến 50 dặm và bao phủ cả trái đất trong 30 ngày, và cuối cùng tạo ra những cảnh hoàng hôn kỳ lạ trong suốt năm sau. Tất cả những con số đó càng làm cho ngọn núi trở nên đáng sợ hơn.


      Darma đưa cho trong số các thủy thủ của mình chiếc mũ bảo hộ rồi quay lại phía tụi nó. “Hôm nay phải ngày tốt,” ta . ta chỉ cho tụi nó. “Hoạt động dữ dội.”


      Dan nhìn thấy thứ gì đó bò xuống chân núi. Những đám mây khói phun ra trong lúc ngọn núi gầm gừ với mặt biển. Những tảng đá bắn ra tung tóe, gần đến mức Dan có thể thấy chúng. Họ nổi bập bềnh những con sóng lặng. “Nó phun trào“. Nhưng nó thấy vui,” Darma đáp. “Toàn là đá bọt. tốt cho chiếc tàu.”


      Chỉ cần nhìn sơ qua hòn đảo, Amy và Dan cũng hiểu được rằng thậm chí nếu tụi nó có thể lục lọi chỗ này cũng chẳng tìm được gì. Krakatau nổ tung thành tro và lửa. phần chìm xuống lòng biển sâu, phần bốc hơi vào khí rồi. Chứng kiến sức mạnh của ngọn núi thứ hai thế cũng đủ rồi.


      “Chắc ông ta chỉ vừa kịp thoát thân,” Amy thầm với Dan. “Ông ta mất mọi thứ. Mọi thứ mà ông ta bỏ công sức vào đó.”


      chụp hình? quay phim?” Darma hỏi. “Hầu hết du khách đều làm thế mà.”


      Hai đứa lắc đầu. Tụi nó cần đến những bức ảnh mới ghi nhớ được cảnh này.


      Chuyến hành trình băng ngược qua lại con kênh hãi hùng, nhưng tụi nó tin tưởng vào khả năng lái tàu của Darma và xoay xở chuyên nghiệp của những thủy thủ. Tụi nó được nhiều giờ trước khi quay lại, nên giờ chẳng có chuyện gì để làm ngoài việc ngồi ngắm cùng dải bờ biển mà chúng nhìn trong nhiều giờ liền đường ra. Câu hỏi là khi về đến Jakarta rồi, tụi nó làm gì tiếp theo? Dan suýt nữa hét to ra câu hỏi đó, nhưng rồi nó nhớ ra nó quyết định hầu như chuyện với chị . Chị nó trông khổ sở tới mức nó hầu như quên mất nó phát điên lên vì chị nó như thế nào.


      Mặt trời xuống dần sau lưng lúc họ vòng qua mũi đất và thẳng hướng về phía Jakarta.


      Darma ra sau đuôi tàu để chuyện với tụi nó. “Xin lỗi? Chúng ta ở rất gần vùng Ngàn Đảo. địa điểm đẹp, điểm đến của khách du lịch...”


      “Chúng tôi thực cần quay về,” Amy đáp.


      “Chỉ chệch khỏi đường về chút xíu thôi,” Darma tiếp với nụ cười rộng mở. “Tôi có chuyến hàng phải chuyển nhanh đến hòn đảo, tốn nhiều thời gian lắm đâu.”


      Dan. “Em thấy cũng được đó.”


      Họ di chuyển xuyên qua những hòn đảo. Tụi nó thấy số đảo có những ngôi nhà xinh xắn, trong khi số khác hề có dấu vết con người.


      “Ổng sống ở hòn đảo xíu, cách xa những đảo khác,” Darma giải thích. “Đặt hàng tạp phẩm, lương thực và những thứ như thế. Già rồi, ít lắm - bạn tôi chở ổng tới Krakatau, như chở các em vậy đó! Ổng cũng hề quay phim!”


      Darma cho máy tàu giảm tốc độ lúc họ từ từ trôi vào hòn đảo nhiệt đới xanh tươi. Đám thủy thủ chất hàng lên chiếc xuồng cao su. “Chỉ mất lúc thôi,” Darma .


      Đám thủy thủ bắt đầu chuyển hàng từ khoang thuyền lên. Amy ngồi bật dậy.


      “Dan,” nó thào. “Chị thấy cây hương thảo! Em còn nhớ manh mối của Irina ?”


      Dan quay lại nhìn Amy. “Được rồi, chuyện này cực kỳ quái lạ, nhưng có phải chị cũng nghĩ điều mà em nghĩ ?”


      “Rằng người hòn đảo này là người nhà Cahill đó hả?”


      “Rằng người hòn đảo này chính là Robert Cahill Henderson!”


      thể nào! Vậy ông ta phải khoảng... 140 tuổi rồi!”


      Dan gật gù. “Chính xác! Có thể bí mật vĩ đại của nhà Cahill chính là bất tử. Hoặc ít nhất cũng là cách kéo dài cuộc sống. Nghĩ mà xem, Amy. phải điều đó khiến chị trở thành người quyền lực nhất thế giới hay sao? Có thể Robert Cahill Henderson phải bỏ để tìm chỗ chết. Có thể ông ta quay lại đây, và trong 50 năm qua, ông ta tiếp tục phát triển công thức của mình.”


      “Nghe điên quá,” Amy chầm chậm.


      “Đó có thể là ,” Dan phản đ


      Cả hai đứa cùng nhảy bật dậy. “Tụi em xuống tàu ở đây!” Amy thông báo. “Tụi em lấy ít hàng hóa!”


      “Nhưng ở đây có khách sạn nào!” Darma phản đối. “Chả có gì phục vụ cho khách du lịch cả!”


      sao! Tụi em thích cắm trại lắm!” Dan lục túi và rút ra mớ tiền nhiều hơn số trước đó. Nó ấn tiền vào tay Darma. “Ngày mai tới đón tụi em được ?” Dan hỏi. Thằng nhóc tuột khỏi tàu xuống làn nước sâu tới đầu gối. Nó chọn lấy trong những hộp hàng hóa rồi đội lên đầu.


      Amy thả người qua lan can tàu. Nó chọn lấy cái hộp khác. “Tạm biệt!”


      Darma lôi chiếc xuồng cao su lên lại boong tàu. ta trông có vẻ bối rối. Nhưng rồi ta nhún vai và vẫy chào tụi nó. Chỉ lúc sau, chiếc tàu vòng qua đầu hòn đảo và biến mất.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 23

      NELLIE VÒ ĐẦU CÁCH BẤT LỰC. nhìn đồng hồ. thể tin được là mình ngủ mạch 12 tiếng đồng hồ.

      Như thường lệ, Amy và Dan biến mất. Nhưng lần này, ngay cả dòng thông báo tụi nó cũng để lại.

      nàng kiểm tra e-mail, và y như rằng có hai bức thư từ clashgrrl. nhập mật khẩu và thở dài.

      THEO SÁT TỤI . BÁO ĐỘNG ĐỎ. THU XẾP ĐỂ LÊN ĐƯỜNG NGAY.

      “Giờ người ta còn chỉ bảo mình làm việc nữa kìa,” Nellie to lên.

      Con Saladin kêu meo meo cách buồn bã. “Cả mày nữa hả?” Nellie hỏi. nàng nhấc con mèo lên và vuốt ve nó cách lơ đãng. nàng thể tin được là mình lạilạc Amy và Dan lần nữa. Nellie ngồi chờ tụi nó khoảng tiếng đồng hồ trước khi bắt đầu vò đầu bứt tai. Con Saladin vùng vẫy trườn khỏi vòng tay . nàng siết nó chặt quá. Bởi vì lo lắng. Cảm giác như có chuyện gì đó ổn ở đây.

      Tụi thường rất biết điều trong việc cho biết mỗi khi tụi nó khỏi. Nhưng thấy cách tụi nó nhìn nhau khi phát ra là biết lái máy bay. Tụi nó bắt đầu nghi ngờ rồi. Mấy đứa tội nghiệp. Tụi nó thể tin tưởng ai.

      thư khác của clashgrrl lên. Dòng tiêu đề viết tranh cãi!

      Điều đó có nghĩa là bức thư này thuộc vào dạng vô cùng khẩn cấp!

      Nellie tắt cái laptop bằng ngón chân cái. kiểm tra e-mail nữa cho đến khi tìm thấy tụi . có linh cảm xấu về chuyện này.

      ***

      Irina ở ngay đằng sau Isabel lúc ta bước vào cửa hàng. Isabel thuê chiếc xe hơi, nhưng Irina đủ khả năng theo kịp bằng xe mô-tô. Irina mặc quần áo cải trang, nhưng Isabel có bất cứ động thái cảnh giác nào như thường lệ, điều đó có nghĩa là ta cảm thấy an toàn ở Jakarta.

      Isabel mang cái túi mua hàng bằng vải bạt lúc đầu rỗng và giờ căng phồng ra vì hàng hóa. Irina giữ khoảng cách đủ gần để có thể xem Isabel mua gì qua ống kính chiếc máy ảnh của ả.

      Món đồ cuối cùng làm Irina rùng mình ớn lạnh. Đúng như ả nghi ngờ. Isabel xảo quyệt, nhưng lại giàu trí tưởng tượng lắm.

      Vậy là chỗ này đây. Trận đấu cuối cùng của ả diễn ra ở đây. Quyền lực của 39 manh mối có thể còn ở yên trong tay nhà Lucian nếu Isabel Kabra là người đứng đầu chi họ.

      Hậu quả thế nào nếu Irina chống lại người chỉ huy của mình? Ả biết lắm chứ. Ả bị vứt bỏ. Mọi người nhà Lucian đều biết ả phản bội chi họ của mình. Isabel và Vikram đảm bảo chuyện đó xảy radựng lên câu chuyện, xuyên tạc mọi chuyện theo cách của họ. Mọi thứ mà ả từng biết mất hết - tiền bạc, các mối quan hệ, mục đích sống. Thế giới còn chỗ cho ả dung thân, và ả biến thành con ma.

      còn lựa chọn nào. Ả phải thử thôi. Các người khác nhau chỗ nào chứ? Amy hỏi thế.

      Đây là khác nhau này, Amy ạ. Có những chuyện ta làm. Và có những chuyện ta cho phép được xảy ra.

      Ả quay lại và chạy đến chỗ Natalie và Ian.

      Natalie mỉm cười. Irina thể thấy được ánh mắt con này dưới cặp kính mát màu đen.

      “Tin tốt đây. Việc giám sát ngược của ta cho thấy có cái đuôi nào bám theo mẹ hai đứa,” Irina . Ả để lộ ra ánh mắt nào khiến cho hai đứa quá khích này biết mình chẳng hào hứng với tụi nó chút nào.

      “Tôi có tin còn vui hơn đây,” Natalie . “Sáng nay mẹ nhận được vài mệnh lệnh mới.”

      “Sao nữa?”

      Irina kín đáo thò từ mỗi ngón tay trỏ ra cái kim. dễ hành động hơn nhiều nếu hai đứa này biến mất thời gian đủ dài.

      Natalie hành động nhanh đến nỗi Irina chỉ đủ thời gian để cảm thấy thoáng bất ngờ. Trước giờ ả vẫn luôn nghĩ về con điệu đàng này như đứa ẻo lả. Natalie vung tay về phía trước, tóm lấy ngón tay Irina và bẻ ngoéo hết cỡ. Irina cảm thấy cơn đau lịm người lúc khớp ngón tay của ả trật ra. Và rồi chiếc kim đâm lút vào.

      ***

      Amy và Dan thả mấy cái hộp bãi biển và chậm rãi hướng về phía con đường mòn.

      “Sao tụi mình lại để Darma chứ?” Amy hỏi. “Nếu tìm thấy ai, tụi mình phải ở đây cả đêm.”

      “Thế lắm,” Dan đáp. “Giống y như Robinson Cruise-o.”

      “Robinson Crusoe,” Amy sửa lại. Tụi nó tới chỗ khu rừng nhiệt đới rậm rạp và bắt đầu tiến vào rừng theo con đường mòn.

      “Em cá là “Troppo” rất vui khi gặp tụi mình đó,” Dan . “Chúng ta ở cùng trong đại gia đình hạnh phúc mà, đúng nào?”

      Trong lòng Amy tràn ngập những dự cảm lành. Mặt trời lặn xuống sau ngọn đồi, bóng tối lan tỏa ra khắp nơi. Đột nhiên, nó thấy e ngại về điều mà có thể chị em nó tìm được.

      Dan bước vào khoảng đất trống. “Chà chà,” thằng nhóc . “Nhìn chỗ này mà xem.”

      khung nhà của tòa nhà lớn được dựng cạnh khu rừng cọ. Vật liệu xây dựng vẫn còn bày bừa mặt đất, những khối gạch bằng bê tông, những cuộn dây to, những viên ngói bằng đất sét. “Coi bộ họ xây khách sạn,” Dan . “Nhìn xem, dưới đó còn có nhiều nhà nữa kìa.”

      “Dan,” Amy gọi. “Nhìn này.”

      Con bé chỉ lên mặt cát. Những vết chân còn in dấu rành rành. Dan ướm thử chân mình vào dấu. Dấu chân đó to hơn chân thằng nhóc rất nhiều, đó là dấu chân của người đàn ông. hoài nghi mà Amy dành cho lý thuyết của Dan đột nhiên bị nhấn chìm trong nỗi sợ hãi của con bé.

      Hai đứa theo những dấu chân qua khỏi cái khách sạn dang dở và băng qua khu đất trống. xuống theo con đường mòn, tụi nó bắt gặp bãi biển hình bán nguyệt, mặt cát nhuốm màu hồng dưới ánh chiều tà. Bao quanh bãi biển là những cây cọ cao ngất. Tới đây những dấu chân biến mất, nhòa lẫn vào những chỗ trũng mặt cát.

      Amy phát ra chuyển động ngoài tầm mắt của nó. cái võng được căng giữa hai cây cọ. Nó nhàng đu đưa. Con bé nhìn thấy được người nằm trong võng, chỉ nhìn thấy được mỗi ngón chân cái đẩy vào mặt đất để là cái võng đung đưa.

      Hai đứa tiến lại gần hơn, hầu như nín thở. Khi đến được chỗ cái võng, tụi nó thấy hai ống quần lửng bằng vải linen màu vàng chanh được ủi cẩn thận. cái áo trắng diêm dúa. Và... mắt ông ta nhắm nghiền, nụ cười nở khuôn mặt... đó chính là ông chú họ Alistair Oh của tụi nó.





      CHƯƠNG 24

      ALISTAIR HE HÉ BÊN MẮT. Nếu có bất ngờ khi thấy tụi nó lão cũng để lộ điều đó ra.

      “Chào mừng tới thiên đường,” lão .

      Lão xoay hai chân xuống đất để đứng dậy. “Mấy đứa có vẻ thất vọng thế.”

      “Tụi cháu ngờ là gặp ông ở đây,” Dan làu bàu .

      “Ta cũng vậy,” Alistair đáp. “Chỉ có điều thế cũng lòng lắm. Ta đạt đến trình độ bao giờ còn thấy bất ngờ khi thấy hai đứa thình lình ra.”

      Dan những muốn đấm vào cái cây nào đó. Nó tin chắc rằng mình theo dấu người đàn ông già nhất trái đất. Nhưng thay vào đó, nó chỉ tìm được thêm người họ hàng nhà Cahill.

      Với lại, nó vẫn chưa xác định được cảm giác của mình về Alistair. Amy từng khóc nức nở khi nghĩ rằng Alistair chết trong cái hang động bị vùi lấp hồi ở Hàn Quốc. Thậm chí khi đó thằng nhóc cũng thấy mủi lòng chút. Thôi được rồi, nó cũng khóc, thế đấy. Khóc chút. Nhưng rồi hóa ra Alistair vẫn còn sống. Điều đó nghĩa là lão hoàn toàn đánh lừa tụi nó. Đó cũng phải là lần đầu tiên. Lão là người nhà Ekaterina kia mà, cũng muốn tìm được 39 manh mối như tụi nó thôi.

      Tuy nhiên hồi ở Ai Cập lão giúp tụi nó. Chuyện cái tàu lặn do lão phát minh ra bị đắm phải là lỗi của lão. Thôi được, đó có thể là lỗi của lão. Tụi nó sém chút nữa thành mồi cho cá sông Nile rồi.

      “Ông làm gì ở đây thế, ô Alistair?” Amy hỏi.

      “Ta cho rằng cũng như mấy đứa thôi,” Alistair đáp. “Ta tìm xem Robert C. Henderson làm cái gì ở chỗ này. người phi thường. Tất nhiên ông ấy là người nhà Ekat.”

      “Tụi cháu đoán ra điều đó,” Dan . “Tụi cháu theo dấu ông ấy ở Úc.”

      “Nên giờ mấy đứa ở đây,” Alistair hấp háy mắt. “Ta ghét thay cho mấy đứa về việc phải tìm mọi cách để tới được Indonesia mà lại có được chút kết quả nào cho tò mò của mấy đứa. Thế nên, mấy đứa có muốn làm vụ trao đổi thông tin nữa ? Mấy đứa cho ta biết điều mấy đứa tìm thấy ở Úc, còn ta cho mấy đứa biết điều ta tìm thấy ở đây. Đồng ý ?”

      Dan và Amy liếc nhìn nhau. Trước đây tụi nó từng chia sẻ thông tin với Alistair rồi. Chuyện này thường đem lại kết quả tốt.

      “Chắc mấy đứa biết ông ấy là nhà khoa học,” Alistair . “Cũng như nhiều người trong chi họ của chúng ta, ông ấy có đầu óc sáng tạo phi thường. Ông ấy gia nhập vào tầng lớp tinh túy của chi họ Ekat cách cực kỳ nhanh chóng và thu hút được chú ý của những người đứng đầu chi họ. Ông ấy bị cuốn hút đến với những điều vĩ đại. Và rồi ông ấy phạm phải sai lầm vĩ đại.” Alistair ngừng lại chút. “Ông ấy phải lòng người nhà Lucian.”

      Dan rên lên. “Ôi, làm ơn . Muốn ói quá! Đừng có chuyện tình sướt mướt nhé.”

      “Đúng thế đấy, thiên diễm tình. Nhưng rất nhiều câu chuyện tình cũng đồng thời là những câu chuyện về... phản bội. Bà ta là lá ngọc cành vàng, họ hàng của Nữ hoàng Victoria. Điều này khiến nhà Ekat nảy ra sáng kiến. Số là tin đồn - ra còn hơn cả tin đồn - rằng vào khoảng 60 năm trước đó, quý tộc nhà Lucian trong Hoàng gia Nga kết hợp được phần lớn - hoặc thậm chí kết hợp được hết 39 manh mối. Nhà Madrigal phá hủy hết tài liệu của ông ta trong cuộc đột kích. Nhưng ông ta vẫn còn lưu giữ được bản sao để phòng trường hợp bất trắc. Nó được chuyển tới đầu não của nhà Lucian ở London vào thời điểm nào đó trong những năm 1880. Chúng ta nghi rằng vào năm 1918, nhà Madrigal giết Sa hoàng Nicholas II và gia đình ông ấy để tìm cái danh sách đó. Nhưng đó lại là câu chuyện khác rồi. Chỉ có người nhà Ekat mới biết rằng danh sách được chuyển tới London.”

      Amy nhìn Dan. Dan cũng chẳng nhìn Amy. Hồi ở Nga, hai đứa tìm thấy bằng chứng về việc kết hợp các manh mối, nhưng tụi nó hề có ý định cho Alistair biết điều đó.

      “Tuy nhiên - và điều này là thói thường của nhà Lucian - là thậm chí nếu bọn họ có đủ khả năng ăn cắp và lừa đảo để lấy được nhiều thứ, bọn họ vẫn có kỹ năng để tìm ra được cáitổng thể. Đó là việc của nhà Ekat. Thế nên người nhà chúng ta cho Robert Henderson cơ hội. Cha vị hôn thê của ông ấy là người đứng đầu chi họ Lucian. Nếu Robert chịu do thám ông ta và cố gắng xác định xem nhà Lucian có giữ 39 manh mối hay , ông ấy bị nhà Ekat ruồng bỏ mãi mãi.”

      Amy há hốc miệng. “Dã man quá!”

      Alistair xoáy cặp mắt đen vào con bé. “Sau tất cả thời gian này, sau tất cả những nỗ lực này mà cháu vẫn chưa hiểu ra tầm quan trọng của chuyện này, đúng hả?”

      “Cháu hiểu. Chỉ là chuyện đó...”

      Lão lắc đầu. “ đâu. Nếu cháu hiểu nguy cơ của toàn bộ chuyện này là gì, cháu biết rằng đôi khi tàn nhẫn là điều cần thiết. Dù thế nào nữa, Robert Henderson cũng bị giằng xé. Nhìn bên ngoài, ông ấy mê đắm vì rồi. Nhưng trong con người ông ấy còn có thứ khác - nhà khoa học. cám dỗ của việc tìm ra được các manh mối và kết hợp chúng lại với nhau - ông thể cưỡng lại thách thức này. Thế là ông ấy thành công trong việc chôm bản sao duy nhất về các manh mối trong tay nhà Lucian. Đương nhiên, bọn họ biết rất ông ấy là người làm việc đó... thế nên cuộc hôn nhân tan vỡ. Nhà Ekat thu xếp đưa ông ấy lên con tàu về vùng Biển Nam và dựng lên câu chuyện về việc ông ấy theo con đường của Darwin. Nhưng ra ông ấy tới Indonesia. Rồi tất nhiên, ông ấy phạm phải sai lầm định mệnh. Ông ấy xây dựng phòng thí nghiệm ngọn núi lửa nổi tiếng. Có lý do để ông ấy làm thế - chỗ đó hoang vắng, và ông ấy có thể khai thác nguồn năng lượng địa nhiệt của núi lửa để cung cấp năng lượng cho phòng thí nghiệm. Dù sao ông ấy cũng là người nhà Ekat mà. Ông ấy đánh cược, và ông ấy biết điều đó. Tất nhiên, ông ấy thua ván bài.”

      “Chuyện gì xảy ra?” Amy hỏi. “Ý cháu là, chúng ta đều biết Krakatau nổ tung, nhưng ông ấy ở đâu?”

      “À, vụ phun trào Krakatau. Có ai biết điều gì gây ra vụ đó ? số người nhà Ekat tin rằng chính nhà Madrigal thổi bay phòng thí nghiệm của Henderson, và việc đó bắt đầu gây nên loạt vụ nổ chết người. Còn Henderson sao à? Ông ấy gặp may. Lúc đó, ông ấy đường lấy số hàng hóa gửi theo tàu mà ông ấy đặt để dùng cho phòng thí nghiệm. Ông biết rằng núi lửa hoạt động. đảo từng có nhiều hoạt động mãnh liệt, như động đất, hơi nước phun lên... nên ông ấy biết rất mối nguy hiểm mà mình đối mặt. Nhưng ông ấy đến gần mục tiêu rồi. Gần cách đau đớn đến nỗi ông ấy chỉ chịu rời vào khoảnh khắc cuối cùng - cái đêm trước khi vụ nổ chính xảy ra. Ông ấy sắp hiểu ra vấn đề, còn phòng thí nghiệm nổ tung bởi trong những vụ nổ đầu tiên. Đó là lúc ông ấy bị phá hoại. Sáng hôm sau, ông ấy vượt eo biển đến làng duyên hải ở Anjer, lúc cơn sóng thần ập đến. Ông ấy chạy lên đồi để thoát thân. Toàn bộ dân chúng cố gắng chạy trốn con sóng khổng lồ, hung hãn cao đến hơn 30 mét đó... mấy đứa có thể hình dung ra cảnh tượng khủng khiếp đó ? Hàng trăm con người bị hút ngược lại vào lòng nước và bị đập vào đá. Ông ấy chứng kiến cảnh tượng ghê rợn và thống khổ đó, và ông ấy có câu trả lời. Chúng ta biết ông ấy tới Jakarta. Chúng ta biết vài tuần sau đó ông ấy đặt vé tàu đến Sydney. Sau đó chúng ta mất dấu ông ấy. Chúng ta nghĩ ông ấy phát điên. Ông ấy cứ thế... biến mất thôi.” Alistair quay sang hai đứa. “Được rồi. Mấy đứa tìm được gì về ông ấy?”

      “Chúng cháu phát ra ông ấy bị tù,” Amy đáp. “Người ta gọi ông ấy là Bob “Troppo”. Tụi cháu theo dấu ông ấy tới chỗ gọi là Coober Pedy, nơi ông ấy làm thợ khai thác mỏ ngọc mắt mèo, được gọi là Fossie. Ông mất khoảng những năm 1950. Nhưng ông ấy hở môi ra lấy lời. Cũng để lại manh mối nào. Chỉ còn lại mớ lời lẽ vô nghĩa viết những bức tường của cái mỏ.”

      “Nhưng ra ông ấy có để lại gợi ý đấy,” Alistair . “Ta biết vì ta có nó đây.”

      “Ông kiếm được nó ở đâu thế?”

      “À,” Alistair . Ông ta quay ánh mắt tránh khỏi tụi nó. “Có lẽ ta tiết lộ điều đó trong dịp khác.”

      “Tụi cháu xem nó được ?”

      Alistair lôi trong túi áo ra mảnh giấy cũ. “Nếu mấy đứa hiểu được nó chúng ta chia sẻ manh mối này. Đồng ý ?” Sau khi tụi nó gật đầu, Alistair mới đưa mảnh giấy cho Amy và Dan.





      “Chà, cái thứ này làm mọi chuyện trở nên sáng tỏ ghê đấy hén,” Dan .

      “Cháu nghĩ cháu có hiểu chút,” Amy . “Ông ấy bỏ lại mọi thứ, đánh liều cả mạng sống để kết hợp 39 manh mối lại với nhau. Và ông ấy gần như có được câu trả lời - ông ấy chỉ thiếu đúng manh mối. Bởi chỉ thứ, số phận nghiệt ngã/ Hãy để mặc ta toan tính.”

      “Ông ấy sai ở chỗ đó,” Alistair . “Chúng ta biết rằng ông ấy thực có được 38 manh mối. Nhưng ông ấy tới gần. Rất gần.”

      “Nhưng cái chỗ muôn con sóng hát bài ca mà ông ấy biết nhưng ông ấy lại biết ấy, nó có nghĩa là gì?”

      “Có nghĩa là ông này bị tửng tửng rồi chứ gì,” Dan . Thằng nhóc rên rỉ. “Em như phải quay lại lớp tiếng của bà giáo Malarkey ấy, chẳng có gì tốt đẹp hết trơn. ‘Nuối tiếc’ là gì?”

      “Nghĩa là buồn,” Alistair giải thích. “Ông ấy cố gắng hết sức trong thời gian rất lâu, và ông ấy đến rất gần, nhưng rồi lại mất tất. Nhưng có chỗ này ta hiểu. Ông ấy tuyệt vọng, rồi ông ấy ném mình bờ cát - từ ngữ đẹp dành cho bãi biển. Thế rồi tự nhiên ông ấy về Newton. Chẳng lẽ ông ấy cần đến khám phá nào đó của Newton à? Ta biết ông khám phá ra trọng lực, nhưng điều đó có liên quan gì tới 39 manh mối chứ?”

      “Cái giá phải trả? vương miện ướt đầm,” Amy lặp lại. “Điều đó có nghĩa gì nhỉ? Rằng suýt chút nữa ông ấy làm vua của cả thế giới, hay là ý gì khác?”

      “Từ ‘vương miện’ cũng có thể có nghĩa là ‘cái đầu’ đấy,” Alistair . “Như trong câu ‘Jack té nhào và vỡ vương miện’ ấy, nhưng dù với nghĩa đó ta vẫn thấy sáng tỏ chút nào. Ta cho rằng nó ám chỉ đến câu chuyện về Newton - rằng ông ấy hĩ đến trọng lực lúc ông nằm dưới gốc cây và quả táo rơi trúng đầu ông. Do đó có thể ông ấy rằng mình phát kiến tình cờ. Nhưng tại sao ông ấy phát kiến đó là cái gì?” Alistair thở dài. “Có thể ông ấy mất trí rồi cũng nên.”

      “Ông nghĩ thế à?” Dan hỏi.

      cơn gió mạnh thổi roàn roạt vào tờ giấy. Bầu trời đột nhiên tối sầm. Những cây cọ oằn mình trong gió.

      “Sắp có bão rồi,” Alistair . “Tốt hơn chúng ta nên vào trong. Đừng lo, những cơn bão nhiệt đới tự tan rất nhanh. Ta có thể gọi cái xuồng du lịch và đưa mấy đứa về nhà đúng giờ ăn tối.”





      CHƯƠNG 25

      VÀI GIỜ SAU, Dan ngồi nhìn chằm chằm ra màn mưa sầm sập. Những cây cọ vặn mình như những vũ công. Từ chỗ này, thằng nhóc chỉ có thể nhận ra vệt trắng của những con sóng. Mặt trời lặn từ lâu. Bóng tối mịt mùng vây quanh chỗ họ.

      giống tan chút nào,” Dan . “Giống mạnh lên đúng hơn.”

      “Ai mà biết đâu chứ?” Alistair ngượng ngùng. “Ta giỏi quan sát thời tiết. Ngay khi ta bắt được tín hiệu, mấy đứa có thể gọi cho Nellie. Chỗ này có hàng đống phòng cho mấy đứa ngủ lại.”

      Alistair ở tại ngôi nhà duy nhất được hoàn thiện đảo, nằm bên rìa khu công trường. Chỗ này được quy hoạch làm khu nghỉ dưỡng, nhưng nhà Ekaterina mua lại khu vực này để dự kiến dùng làm căn cứ. Họ vẫn chưa quyết định xong khi nào hoàn thiện chỗ này. Trong lúc chờ đợi, Alistair cứ về về.

      Ngôi nhà có sảnh rộng dưới tầng trệt, cửa mở thông thống ra bốn bề và có trần cao gấp đôi bình thường. Alistair đóng chặt mấy cánh cửa chớp bằng gỗ lại khi họ từ bãi biển vào. Tầng gian sống hoàn thiện với hai phòng ngủ, phòng khách và gian bếp

      Tiếng mưa vẫn rơi đều đều lúc họ ăn xong bữa với cơm và rau. Alistair cố gắng liên lạc với Nellie bằng điện thoại của lão, và bắt điện thoại. Lão bật loa ngoài lên.

      “Ai đấy?” quát lên.

      “Alistair Oh đây, thưa Gomez. Tôi gọi để báo rằng Dan và Amy ở đây với tôi, và...”

      “Tụi được an toàn ?”

      “Tụi em an toàn, Nellie ơi!” Amy gọi to.

      “Tôi tới đón tụi .”

      cần đâu. Thời tiết...”

      “Tôi cóc cần biết thời tiết thế nào! Mấy người ở đâu?”

      “Chị Nellie, tụi em hòn đảo. Sáng mai tụi em về,” Amy . Nó có thể nghe được vẻ lo lắng trong giọng Nellie. “Tụi em xin lỗi vì để lại lời nhắn.”

      “Lúc khác chúng ta có thể về việc các em làm chị sợ muốn chết suốt cả ngày. Còn ngay bây giờ chị tới đón mấy đứa.”

      Gomez - Nellie à - tôi e rằng phải đợi tới sáng mai,” Alistair ngập ngừng . “Tôi thề tự mình dẫn tụi về cho .”

      “Thôi khỏi cần phiền ông. Sáng mai tôi có mặt ở đó.”

      Alistair chỉ dẫn vị trí cụ thể cho nàng và đảm bảo rằng lão cho tụi nó ăn tối rồi, và Dan chõ vào về việc nó buồn ra sao vì thiếu món tráng miệng. Rồi Nellie miễn cưỡng chào tạm biệt và rằng nàng gặp tụi nó vào sáng hôm sau. Sáng tinh mơ.

      “Bây giờ, ta nghĩ hôm nay ngày dài và tất cả chúng ta đều nên nghỉ,” Alistair trở lại với cách bình thường của mình. “Tối nay, mấy đứa được an toàn ở đây.”

      Vài phút sau, Amy cảm thấy an toàn khi nó rúc vào dưới tấm chăn bông. Alistair cho mỗi đứa tụi nó mượn cái áo thun trắng bằng vải cotton của lão để mặc ngủ, vì quần áo của tụi nó bốc mùi cá và nước biển. Mưa gió tạnh, và cơn gió thoảng lùa qua cửa sổ. Tiếng xào xạc nhè của hàng cọ làm Amy buồn ngủ trĩu mắt. Ngoài xa xa, tiếng động cơ nổ rì rầm xuyên qua mặt biển tối đen. Con bé mệt đến nỗi nó hy vọng rằng mình nằm mơ.

      ***

      Đầu tiên, con bé nghĩ rằng nó vẫn nghe thấy tiếng lá cây thầm bên ngoài. thanh khẽ khàng. Nó trở người và cảm giác nó từ từ chìm lại vào giấc ngủ. Nó vẫn có thể ngửi thấy mùi khói từ bữa ăn tối của tụi nó...

      Nó ngồi bật dậy. Giờ nó có thể ngửi thấy mùi khói. Nó có thể thấy những cuộn khói bốc lên trong ánh trăng.

      Nỗi sợ hãi xuyên qua người nó. Nhưng nó dường như thể cử động. Nó thấy lại đêm khác, lần khác.

      Lửa. Amy bám chặt lấy cánh tay mẹ nó. Nó khóc thét lên trong lúc hai mẹ con chạy theo cầu thang xuống tầng trệt. “Đưa các con ra ngoài!” cha nó thét lên. Ông ở trong phòng làm việc, ném những cuốn sách từ giá xuống đất. tìm thứ gì đó... “Cha ơi!” nó gào lên. Nó chìa tay ra và ông khựng lại giây. “Thiên thần của cha!” ông , “ với mẹ nhé con.”

      !” Nó khóc nức lên lúc mẹ kéo nó . “! Cha ơi!”

      “Arthur!” mẹ nó hét lên. Nhưng bà vẫn ở lại với Amy và Dan.

      Trời đêm lạnh lẽo, cỏ ướt níu lấy đôi chân trần của nó. Mẹ cúi xuống với nó. Bà giữ khuôn mặt Amy trong tay mình. “Nhìn mẹ này,” mẹ nó theo cách bà luôn dùng mỗi khi bà muốn Amy tập trung lắng nghe. “Chăm sóc em con nhé. Mẹ các con.” Amy gào lên, van xin bà quay lại ngay khi bà chạy bổ trở vào căn nhà bùng cháy...

      Con bé chìm đắm vào ký ức đến mức thế giới xung quanh còn hữu, mãi cho đến khi bắt đầu ho lên nó mới hoàn toàn hiểu ra rằng đây phải là giấc mơ. Cả căn nhà chìm trong lửa!

      Alistair ra khung cửa. Amy thấy ánh lửa nhảy nhót mặt lão, và hình ảnh đó làm nó chợt thấy choáng váng cả người.

      Alistair cũng ở đó trong cái đêm ấy.

      tay lão cầm mấy cái khăn choàng sũng nước, giống như mẹ nó làm trong cái đêm rất xa xôi ấy. Lão tiến lại cửa phòng ngủ và nhét cái khăn ướt vào khe nứt. Rồi lão gập đôi người lại ho sù sụ.

      Lão đứng cạnh lò sưởi, gương mặt chìm trong bóng tối. Quần dài ủi nếp thẳng tưng. Áo vét xám, cà vạt màu vàng tươi. Lão đằng hắng cách lịch . “Hãy bình tĩnh lại nào. Chúng ta chỉ đến đây để lấy thứ thuộc về chúng ta mà thôi.”

      Dan ngồi bật dậy giường ho sù sụ. thanh tắc nghẹn của thằng nhóc giúp Amy có thể cử động được.

      Con bé tung chăn ra.

      Alistair vội vàng tới chỗ Dan. Lão trùm cái khăn ướt vào mặt Dan. Lão quàng cánh tay quanh người thằng nhóc và bắt đầu dẫn nó tới cửa sổ. “Nhanh lên!” lão ngoái lại gọi Amy.

      Khi con bé đến được chỗ cửa sổ, nó thấy khói cuộn lên từ bên dưới. Nó nhìn lại phía sau và trông thấy khói ùn vào cách ma quái qua những khe hở xung quanh cánh cửa đóng chặt. thể thoát được qua lối đó.

      “Gờ tường!” Alistair .

      Bên ngoài cửa sổ có cái gờ tường đủ rộng để đứng được. Con bé nghe thấy tiếng kính vỡ vụn khi cánh cửa sổ phòng bên cạnh nổ tung. Alistair bước ra đứng gờ tường và chìa tay cho Dan. “ nào. Gió đẩy khói bay theo hướng khác. Đứng đây mấy đứa có thể thở được.”

      Dan bước ra gờ tường. Nó hớp lấy hớp để làn khí trong lành. Amy bước ra tiếp theo. Bức tường sau lưng nó nóng rẫy lên.

      Con bé nhìn xuống. Xa phía dưới là đống xà bần. Những cuộn dây cong queo, bê tông, đinh, những đống cốt thép han rỉ. có chỗ nào trống để có thể nhảy xuống. Ngay cả nếu tụi nó có thể sống sót sau cú nhảy, tụi nó vẫn có thể bị những vật nhọn đâm phải. Hơi thở của Dan trở nên nặng nề và khò khè. Alistair vẫn giữ tay quanh người thằng bé. Những lưỡi lửa sôi réo. ai đến giúp. tiếng còi báo động.

      “Ta nhảy xuống,” Alistair . “Có thể ta tìm thấy cái thang hay thứ gì đó. Ta tìm cách đưa mấy đứa xuống.”

      “Ông thể nhảy được!” Amy hét lên. “Ông chết mất!”

      Lão vừa mỉm cười vừa đưa tay vuốt má nó. “Đó là cơ hội duy nhất của chúng ta.”

      Alistair tựa người vào bức tường. Lão nhìn xuống, tìm chỗ an toàn để đáp xuống. có chỗ nào.

      “Chờ !” Amy níu tay áo của lão. “Nhìn kìa!”

      “Irina,” Dan .

      Làn khói bốc lên cao và tan , và họ thấy ta chạy ở bên dưới, nhanh nhẹn và mạnh mẽ, hai chân cử động nhịp nhàng. Trong tay ta là cái sào tre. Trong khi cả đám nhìn cách ngạc nhiên ta chống cái sào xuống đất và làm cú nhảy đẹp mắt lên mái nhà. Họ nghe thấy tiếng đập mạnh lúc ta đáp xuống. Amy chồm người ra. Nó chỉ có thể nhận ra Irina ở phía . Irina thả cái sào xuống và tựa nó chắc chắn vào rìa mái nhà.

      “Muốn gì hả?” ta gọi bọn họ. “Tụt xuống được ? Bám vào cái sào mà tụt xuống! Từng người thôi, nó được cứng cáp lắm đâu.”

      “Mình tin ta được ?” Alistair hỏi Dan và Amy

      Amy chính là người lên tiếng. Nó nhìn chằm chằm vào gương mặt kiên quyết của Irina.

      “Được,” nó đáp.

      Dan trước. Nó quặp chân quanh cây sào và nửa tụt, nửa lắc người trườn xuống đất. Ngay khi thằng nhóc chạm đất, Amy thở phào hơi dài nhõm.

      , Amy,” Alistair giục.

      Amy quay lại và cầm lấy cây sào. Nó nhìn lên Irina nằm bẹp xuống mái nhà, giữ chắc cái sào bằng cả hai tay. Irina nhăn mặt, và Amy nhìn thấy ngón tay sưng lên đỏ tấy của ta.

      “Chờ , trước khi cháu , hãy cầm lấy cái này,” Irina .

      ta chìa bàn tay ra. Amy với tay lên. Sợi dây chuyền của bà Grace rơi vào lòng bàn tay nó.

      “Isabel lại làm thế,” Irina . “Lần đầu tiên, ta bỏ . Nhưng lần này . Lần này ta để cho ta thành công đâu. Giờ ... mọi thứ tùy thuộc vào cháu và Dan. !”

      uy quyền trong lời của Irina thúc giục Amy hành động. Nó bám chặt lấy cây sào tre. Cái sào nóng rẫy lên trong bàn tay nó, nhưng nó vẫn tụt xuống.

      Con bé nhìn lên chỗ Alistair. Lão giơ tay lên chào Irina, rồi bám vào cây tre và nhăn mặt lại. Amy nhìn thấy khói bốc lên. Cây sào bắt đầu bốc cháy. Alistair nhanh chóng đu xuống. Khi còn cách đất vài mét cuối cùng, lão nhảy đại xuống.

      Cây sào bốc cháy bừng bừng. Nó từ từ rụi xuống.

      Amy, Dan và Alistair nhảy ra xa để né lúc cây sào đổ xuống chỉ cách họ vài phân.

      “Chúng ta cần phải tìm cây sào khác,” Alistair

      Cả đám rời mắt khỏi tòa nhà bùng cháy. Họ rà soát cả khu vực cách kỹ càng, băng bừa qua đám xà bần. Chỗ nào cũng được, họ phải tìm thấy thứ gì đó để cứu Irina.

      ***

      Từ cao, Irina quan sát họ. Mái nhà trở nên nóng đến mức đứng đó là cả cực hình. Khói cuộn qua người ta rồi tan . ta cảm giác mình ở cách họ xa. Trông họ đầy hy vọng. Họ vẫn chưa hiểu là quá muộn rồi.

      nửa mái nhà sụp xuống trong cơn mưa tàn lửa. Ngọn lửa gào thét, ăn tươi nuốt sống những cây xà nhà bằng gỗ. ta chỉ còn cách đó có vài phân.

      ta chỉ còn lại vài giây. Thế cũng tốt rồi. ta cứu được thằng bé. ta cứu được con trai dấu của mình.

      , phải Nikolai. Là Dan. Dan và Amy.

      ta gắng gượng giữ cho đầu óc được minh mẫn. Khói thiêu đốt mắt , cổ họng . Cần có nỗ lực phi thường để tiếp tục đứng thẳng. tiếp tục đứng thẳng.

      chết như người tốt hơn lúc còn sống. Như thế cũng phải là quá tệ với cựu nhân viên KGB, chưa kể đến việc là người nhà Cahill.

      Nhìn xem, họ vẫn tìm cây sào, hy vọng cứu được mình. vui khi nhìn thấy điều đó. Alistair tội nghiệp, ông ta chưa bao giờ ưa mình. Nhưng có đêm ở Seoul, ông ta trút bỏ đề phòng của ông ta và mình cũng vậy. Và tụi mình cùng chia nhau tô bibimbap. cái tô, hai cái muỗng. Mỗi khi muỗng mình vô tình đụng phải muỗng của ông ta, ông ta lại cáo buộc rằng mình tán tỉnh ông ta. Cuối cùng, ông ta làm mình bật cười...

      Đột nhiên, nỗi sợ hãi bao trùm lấy . Có sẵn sàng rời bỏ cuộc đời này? Có cách để sống khác với cách mà sống - có những lúc thoáng nhìn thấy điều đó. Khi ở cùng với Nikolai và... vài người khác. Để tuột mất điều đó mới đau đớn làm sao! Như tể để tuột mất cơ hội. Tuột mất giấc mơ.

      Mình hy vọng tụi biết chuyện này có ý nghĩa với mình, vừa thầm nghĩ vừa chăm chú dõi theo mấy đứa nhà Cahill. Các con hãy ghi nhớ điều ta . Hãy biết sợ mụ ta. Giờ trong tay các con chỉ toàn là những điều dối trá.

      Cái mái nhà kêu răng rắc và nứt ra vết lớn rồi sụp xuống. Irina thét lên thất thanh lúc cảm thấy mình rơi xuống, và ngước nhìn lên. muốn bầu trời đầy sao là điều cuối cùng mình nhìn thấy.





      CHƯƠNG 26

      SÁNG HÔM SAU, Amy và Dan ra ngồi bãi biển, nhìn ra làn nước nhiệt đới êm ả. Tụi nó trải qua đêm dài nhất trong cuộc đời. thể ngủ được, chỉ ngồi và chờ bình minh lên. Giờ cả hai dõi đôi mắt đỏ ngầu về phía chân trời. Những chiếc áo thun trắng của tụi nó ngả sang màu xám vì ám khói và muội than. Cổ họng tụi nó có cảm giác khô và rát bất kể uống bao nhiêu nước nữa.

      Tụi nó biết Nellie sớm tới đây vào khoảng giờ ăn trưa. Việc tụi nó rời trước khi nhà chức trách đến là rất quan trọng. Alistair ra lệnh cho chúng ở yên ngoài bãi biển. Lão muốn tụi nó nhìn thấy những gì còn li trong ngôi nhà. Tụi nó cũng muốn nghĩ về điều đó.

      Lão bỏ lang thang, tụi nó biết lão muốn ở mình. Irina từng là kẻ thù của lão, nhưng lão cũng quen biết ta lâu. Có lẽ lão muốn tưởng niệm ấy.

      Irina cũng từng là kẻ thù của tụi nó. Đêm qua, cứu mạng tụi nó.

      Amy chạm vào con rồng bằng ngọc bích sợi dây chuyền của nó. Tại sao? Sao người mà nó từng nghĩ là ác quỷ lại có thể có được tấm lòng tốt đến mức chịu hy sinh cuộc sống vì hai chị em nó?

      Tối qua có người lấy trộm bài thơ. Alistair biết chuyện đó. Lão bị đánh thức dậy, ngửi thấy mùi khói và ngay lập tức lục tìm tờ giấy. Tất cả họ đều biết chắc chắn Isabel lấy trộm. Alistair nghe thấy tiếng động cơ chạy mặt biển, nhưng lão thể trông thấy gì c

      Sáng nay họ tìm thấy chiếc tàu mà chắc chắn Irina dùng. Đó là chiếc tàu đánh cá mà chắc là ấy trả tiền cho ai đó ở cảng để mượn nó.

      Tụi nó có được các kiện, hoặc là hầu hết các kiện. Điều mà tụi nó thể rũ bỏ được là cảm xúc của mình.

      Điều duy nhất mà Amy biết chắc rằng đây chính là lúc để kể hết với Dan. Nó phải cho thằng bé biết hết ngay lúc này, trước khi Nellie xuất . Nó thể chịu đựng nổi thêm ngày như ngày hôm qua. Nó có thể đối mặt với mọi chuyện, nhưng nó thể làm điều đó nếu thiếu Dan.

      sai, và thằng bé đúng. Tối qua thằng bé rất sợ hãi, nhưng nó lúc nào mất tỉnh táo. Lúc nào thằng bé cũng như thế. Những lúc nó cứng đờ ra vì sợ hãi em trai nó vẫn tiếp tục hành động. rất nhiều phương diện, em trai nó dũng cảm hơn nó nhiều.

      Em trai nó có thể đối mặt với mọi chuyện.

      “Có nguyên nhân khiến chị kể cho em chuyện cha mẹ bị mưu sát,” nó cách ngắc ngứ. “Và lý do phải là chị tin em. Mà bởi vì chị nhớ lại số chuyện chị làm. Chị muốn em biết chuyện đó. Chị... chị muốn em trách chị.”

      Thằng nhóc ném cho nó cái nhìn dò hỏi.

      “Đêm hôm đó... cái đêm khói lửa đó... chị vẫn còn thức lúc đám người lạ mặt tới nhà mình. Chị nghe tiếng họ ở dưới nhà. Chị nấp sau cửa lắng nghe. Họ hỏi cha mẹ xem cha mẹ đâu. Họ cứ hỏi hỏi lại mãi.” Amy ngừng lại chút, và rồi lời lẽ của nó trào ra. “Chị sợ lắm. Nên... nên chị chạy vào phòng. người phụ nữ bồng chị lên. Là Isabel. ta về những con gấu bông áo ngủ của chị và chị sửa lời ta. Chị đó là gấu túi. Bọn họ biết tất cả theo cách như vậy đó.”

      Dan lắc lắc đầu. “Biết cái gì cơ?”

      “Biết rằng cha và mẹ tới Úc tìm Robert Cahill Henderson. Và họ suy ra được là cha mẹ mang về thứ gì đó. Bởi vì sau đó, khi bọn họ ra ngoài, Isabel ,“Bọn họ lần theo dấu ông ta tới Úc, đúng nào? Chuyện này phải được lo liệu xong xuôi trong đêm nay.”

      “Chị có nghĩ là cha mẹ mang về thứ gì đó ? Có phải đó là thứ mà cha tìm ?”

      “Em làm gì khi nhà mình bị cháy?” Amy hỏi.

      “Người ta cứu những gì có giá trị nhất. Nên mẹ cứu tụi mình, còn cha cứu thứ bất-kể-là-gì đó.”

      “Có thể có ai đó sắp đặt vụ hỏa hoạn để quan sát chuyện xảy ra. Có thể mọi chuyện sai kế hoạch. Nhưng vụ cháy xảy ra nếu chị cho họ biết cha mẹ tới Úc! Giá mà chị đừng là đứa kiểu như... cái gì tôi cũng biết.” Amy vùi mặt vào lòng bàn tay. Hai vai nó run lên trong tiếng khóc nức nở. Nó cảm giác như mình có thể khóc thế này mãi mãi. Nó có thể gào to lên cho hả nỗi buồn và nỗi xấu hổ của mình, nhưng điều đó khiến nó trào nước mắt và bao giờ ngừng lại được.

      Dan lúng túng. “Amy. Chị ngốc quá. Hoàn toàn ngốc.”

      Con bé ngẩng đầu lên, lấy tay lau mắt. “Sao cơ?”

      “Để em làm chuyện này nhé. Chỉ vì áo ngủ chị có hình mấy con gấu túi mà cha mẹ chết, hả?”

      ...”

      “Đúng là ngớ ngẩn hết chỗ . Cha mẹ chết vì nhà mình bị cháy. Chị đâu phải là người châm lửa. trong những người bà con thân thiết, quý của chúng ta làm điều đó. Chị ngốc. Chị nghĩ rằng chỉ vì chị ra cái từ thần kỳ nào đó, chị thay đổi được thế giới hả? Ở đây, chúng ta chuyện về nhà Cahill đấy. Bọn họ làm điều đó bất kể có chuyện gì nữa.”

      quyết liệt trong giọng của Dan xua tan nỗi sợ hãi của Amy. Nếu Dan dịu dàng, nếu thằng nhóc cố gắng an ủi nó, nó lại quỵ ngã mất. Muội than vẫn nhem nhuốc khuôn mặt tái nhợt của em trai nó. Thằng nhóc trông mệt mỏi, kiệt sức, buồn bã. Và thành thực.

      “Chị đúng là bà chị kỳ quái cách tuyệt vời, bà chị ạ,” Dan .

      Amy những muốn ôm ghì lấy thằng em, nhưng nó biết nếu làm thế khiến thằng nhóc thấy kỳ quái lắm. Nên thay vào đó, nó ôm lấy đầu gối mình. Nó thấy hơi xấu hổ. Dan nhìn mọi thứ sáng suốt. Nếu thằng nhóc nghĩ rằng nó đáng bị trách cứ... có lẽ đúng thế . Nó ra mọi chuyện, nó cởi bỏ được mọi ký ức, và nó vẫn chưa bị sụp đổ.

      Thay vào đó, Amy nhận thấy điều ngược lại xảy ra. Nó mạnh mẽ hơn.

      “Irina còn điều khác lúc ở trong đường hầm,” con bé . “ ấy hỏi chị tại sao mẹ lại chạy ngược vào trong nhà. Có phải chỉ vì cha ? Điều gì có thể quan trọng hơn cả các con?”

      “Vận mệnh của thế giới chăng?” Dan hỏi đùa.

      Nhưng nụ cười nhăn nhở của thằng nhóc tan khi nó bắt gặp ánh mắt xanh nghiêm nghị của Amy. “Vận mệnh của thế giới,” con bé nhắc lại.

      Trong phút, chẳng đứa nào gì với nhau. Dường như khó có thể nghĩ về điều đó ngay lúc này, trước đường chân trời dần nhuốm hồng và trước mặt biển xanh bừng sáng. Khó có thể nghĩ rằng vận mệnh của cái thế giới vĩ đại, rộng lớn xung quanh tụi nó lại... phụ thuộc vào tụi nó.

      “Em nghĩ là em biết lúc đó bọn họ tìm cái gì,” Dan . “Chính là bài thơ.”

      “Alistair đánh cắp nó,” Amy . “Giờ mọi chuyện . Tối qua, chị nhớ lại cảnh ông ta đứng kế lò sưởi. Trong lúc tất cả đều nhìn vào chị ông ta lại nhìn mấy cuốn sách.”

      “Nơi cha mẹ giấu bài thơ.”

      “Chị cá là cha mẹ nghĩ rằng bài thơ có thể dẫn đường tới rất nhiều đầu mối,” Amy . “Và họ hy sinh mạng sống của mình để cứu nó.”

      “Nếu tối đó Alistair có mặt ở đấy, có thể ông ta tham gia vào kế hoạch phóng hỏa,” Dan .

      phải Alistair đâu!”

      “Sao lại chứ?” Dan hỏi lại. “Nhớ điều ng ta với chị hôm qua ? Rằng khi có quá nhiều điều rơi vào vòng nguy hiểm có tàn nhẫn cũng sao cả, nhớ ? Chúng ta thể chắc rằng ông ấy làm chuyện đó.”

      “Giá mà chúng ta có thể giải mã được bài thơ,” Amy . “Chắc chắn trong đó có giấu đầu mối. Chị ước gì có câu trả lời nào đó giáng xuống đầu chị quá. Giống tối qua, trong lúc mưa bão...”

      Dan đăm chiêu nhìn ra mặt biển. Đột nhiên, thằng nhóc đập tay lên mặt cát và phá ra cười.

      “Em phát tưng tửng rồi hả?” Amy hỏi.

      Dan nhảy loi choi trước mặt Amy. “Đúng như Malarkey .” Dan giả giọng the thé. “Cả lớp, đừng sợ hãi trước thứ ngôn ngữ lạ lẫm. Hãy tìm ra ý nghĩa của nó.”

      sao chứ,” Amy xua xua tay trong khí. “ Malarkey sao? Chị vẫn chưa hiểu.”

      “Bài thơ! Ông già đó cảm thấy cùng đường, rồi ông ấy ngồi bãi biển, và rồi trời bắt đầu mưa, đúng nè? Rồi nước mưa rớt xuống đầu ông ấy.”

      “Chị hiểu hơn rồi đó.”

      “Và chuyện đó khiến ông ấy phải suy nghĩ. Muôn con sóng hát bài ca ta quen thuộc. Ông ấy cố điều gì?” Đáp lại ánh mắt ngơ ngác của Amy, Dan chỉ ra mặt biển. “Nước!”

      “Nước là manh mối hả?” Amy hỏi lại. “ lẽ đơn giản thế à?”

      “Đó là lý do vì sao ông già đó vừa vui mừng vừa phát điên lên cùng lúc,” Dan đáp. “Nó đơn giản thế đấy.”

      Amy trầm ngâm. “Tụi mình hứa cho Alistair biết.”

      “Ngay cả khi tụi mình biết ông ta có mặt ở nhà mình tối đó và có thể giết cha mẹ à?” Dan hỏi. “Em gọi việc đó là điều khoản phá vỡ hợp đồng.”

      “Tối qua, ông ấy sẵn sàng nhảy khỏi cái gờ tường đó để cứu tụi mình,” Amy .

      “Hoặc cứu chính mạng ông ta,” Dan . “Em cho rằng tụi mình cứ chờ tới khi biết chuyện gì xảy ra tối qua.”

      “Suỵt,” Amy , con bé thấy Alistair tiến về phía tụi nó. Cái áo ngủ bằng lụa của lão nhem nhuốc muội than và đất cát, tóc tai bù xù đầu.

      Lão quay mặt đón ánh mặt trời lên. “Hôm nay ngày tốt,” lão . “Chúng ta vẫn còn sống.”

      Lão trông có vẻ buồn bã và buồn cười nữa, Amy nghĩ, trong bộ đồ ngủ màu hồng và mái tóc bồng như kẹo bông đường, sao lão có thể là kẻ giết người được chứ? Nhưng Dan đúng. Tụi nó thể cứ thế đưa cho lão manh mối được. Chưa phải lúc.

      Họ nghe thấy tiếng rì rầm của động cơ. Phía ngoài dải đá ngầm, chiếc tàu dần tiến lại. Tụi nó có thể nhìn thấy cánh tay vẫy điên cuồng. Nellie.

      Alistair vẫy tay đáp lại. Lão bước ra mép nước.

      Tụi nó nhìn Alistair đứng đó, gấu áo ngủ nhúng trong nước, gió đùa mái tóc xám của lão. Ông già mà tụi nó từng quý, người mà tụi nó thể tin tưởng, vẫy chào người au pair mà tụi nó học cách để quý... và cũng là người mà tụi nó thể tin tưởng được.

      “Mọi thứ trở nên phức tạp,” Dan .

      “Chị ước gì có thể nhớ thêm còn ai ở đó nữa!” Amy bùng ra. “Có thể có thêm nhiều hình ảnh trở lại với chị. Chị chịu đựng được việc chẳng biết gì.”

      Gương mặt Dan trở nên nghiêm nghị. “Chúng ta phải tìm cho bằng được ai gây ra chuyện đó. Isabel lên kế hoạch phóng hỏa, nhưng chúng ta cần phải biết còn ai khác có mặt ở đó nữa.”

      “Rồi sao nữa?” Amy hỏi. “Rồi tụi mình làm gì? Gọi cảnh sát hả?” Con bé phát ra tiếng cười kỳ lạ.

      “Em chưa biết,” Dan . “Nhưng chúng phải trả giá.”

      “Chuyện báo thù nghe có vẻ... giống phong cách nhà Cahill quá,” Amy .

      phải báo thù,” Dan đáp. “Công lý.”

      Tụi nó nhìn nhau. Amy cảm thấy như cha mẹ nó hữu ở đây, gần gũi hơn bao giờ hết, và linh hồn của Irina “Tất cả giờ trông cậy vào các con”.

      Nó và Dan lại bên nhau. còn bí mật nào giữa tụi nó nữa. Và bao giờ có bí mật nào nữa. Nó có thể thấy rằng em trai nó cũng hiểu điều đó. Trong đáy mắt thằng bé, niềm tin trở lại.

      Và trong buổi sáng buồn thảm này, khi ngồi bãi biển nhiệt đới với đám tro tàn bốc khói sau lưng và tiếng thét cuối cùng của Irina còn vang dội trong tai, tụi nó trao cho nhau lời hứa lời. lời thề. Hai chị em ngừng nghỉ đến khi nào tìm ra được người sát hại cha mẹ tụi nó.

      Tụi nó bắt đầu cuộc săn lùng 39 manh mối vì nguyện vọng của Grace. Giờ tụi nó thắng cuộc đua vì Arthur và Hope.

      “Công lý,” Amy tán thành.

      HẾT

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :