39 Manh Mối - tập 4: Bước vào Cõi Tử - Jude Watson[Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 16

      AMY QUYẾT ĐỊNH bao giờ xem kênh Animal Planet[1] nữa. Khi sống trong Animal Planet, thế giới ấy mất quyến rũ của nó.

      [1] Kênh truyền hình của Mỹ về thế giới động vật hoang dã, thuộc Discovery Communications.

      Nó chầm chậm rời khỏi bờ sông. Phía sau Amy, cây lá trông rất rậm rạp. Khi có mặt trời, con sông khoác lên màu nhờn nhờn, tối sẫm.

      “Cá sấu có cú táp mạnh hơn bất kỳ loài động vật nào quả đất,” Dan . “350 ký centimet vuông. Cái đó, xem nào, mạnh hơn cá mập trắng mười hai lần. Chúng di chuyển nhanh, kể cả đất liền. Nhưng cách tốt nhất để thoát thân là chạy thẳng về phía trước, chứ phải chạy dích dắc. Chỉ việc chạy nhanh.”

      “DAN! Khóa miệng lại ngay,” Amy ra lệnh.

      “Chúng săn mồi về đêm. Chúng nấp trong bụi để rình mồi.”

      “Chẳng giúp ích gì hết.”

      “Cá sấu lôi chị xuống nước xoay chị vòng vòng với nó và nhấn chìm chị trước khi nó bắt đầu nhai chị rào rạo. Nếu chị may mắn ấy à? Chị chỉ phải hy sinh hai bàn tay đút vào hàm chúng và khép nó lại...”

      “Dan, biến cho nước nó trong!”

      “Em biến rồi đó!”

      khoảng yên lặng ngắn ngủi. Phía bên kia con sông đen ngòm, ánh sáng của Luxor vẫn lấp lánh. Đằng sau chúng ở bờ phía Tây, những vị vua và nữ hoàng cổ đại yên giấc những vách đá vôi, các xác ướp vẫn chưa được phát , những ngọn đồi là nơi trú ngụ cho linh hồn của họ. Chưa bao giờ Amy thấy có nhiều sao bầu trời như hôm nay. Lẽ ra đêm tuyệt đẹp nếu như Amy phải lo bị hai hàm cá sấu ngấu nghiến lấy mình.

      “Em chỉ cố gắng giúp chị mà,” Dan .

      “Nếu gây chú ý cho chiếc thuyền nào đó có người trông thấy chúng ta,” Amy . Nó nhìn thấy được những ánh đèn đơn lẻ ở đuôi thuyền - những chiếc felucca, Theo gọi chúng như thế - sông. “ hò dô bằng tiếng Ả Rập như thế nào?”

      “Em tin cái chữ hò dô đó là ngôn ngữ toàn cầu,” Dan . “Như là oái. Hoặc - chị đạp chân em kìa.”

      “Toàn cầu ư?”

      , chị đạp chân em mà. Oái.”

      Amy lui ra.

      “Hò dô!” Giọng con bé nghe rất mỏng. Nó bị nuốt trọn bởi bóng tối. Amy cố gắng nhớ xem liệu cá sấu có săn mồi dựa vào tiếng động hay . Nó quyết định hỏi Dan.

      “HÒ DÔ!” Amy la lớn. Những ngọn đèn bé tí các con thuyền vẫn giữ nguyên chỗ cũ, vẫn chậm chạp đong đưa. “Chà, Nellie và Theo rồi tìm chúng ta thôi,” Amy

      “Làm sao mà tìm được?” Dan hỏi lại. “Khi Jonah cướp con thuyền mất tiêu rồi!”

      “Họ thuê chiếc khác, rồi...”

      “Suỵt,” Dan giữ Amy lại.

      “Tại chị mới vừa em im, nên...”

      “Suỵt! Nghe nào.”

      Amy chẳng nghe thấy gì. Rồi nó nghe tiếng quẫy nước đánh tõm cái rất .

      Nó đông cứng người. “Em có thấy gì ?” Amy thào.

      “Em nghĩ là em vừa thấy... hai con mắt,” Dan trả lời. “Ở ngoài kia kìa... chỗ đám sậy ấy. Cá sấu nằm dưới nước trước khi chúng tấn công...”

      Amy nhìn theo. Nó cũng chẳng thấy gì cạnh đám sậy. Thứ Amy thấy chỉ là khúc gỗ khổng lồ nằm cạnh bờ sông. Rồi Amy thấy khúc gỗ ấy có hai con mắt và cái mũi. Con cá sấu xoay ngang, bắt đầu trườn về phía bờ.

      “Cá-á-á...”

      “Cái gì?”

      “Cá-á-á-s-sấ...”

      Con cá sấu trườn vào bờ, và Amy quên mất phải làm thế nào để di chuyển. Trông nó giống như con khủng long chuyển động. thứ gì đó rất nguyên thủy, độc ác và hau háu khát thèm thịt sống. Mỗi xung động xuất phát từ não Amy đều bị nỗi khiếp sợ làm đông cứng lại. Con vật há miệng. Amy sợ điếng người khi thấy có đến hàng trăm cái răng nhọn lởm chởm và bén ngót.

      Cá sấu có cú táp mạnh hơn bất kỳ loài động vật nào quả đất

      “Chạy !” Dan rít lên. Nó kéo tay Amy mạnh.

      Amy luống cuống quay tròn, vấp ngã dúi dụi, rồi lại đứng lên được, chạy băng qua bờ sông để vào giữa hòn đảo. Cát muốn nuốt chửng giày Amy. Giống như nó chạy trong cơn ác mộng vậy.

      Amy ngoảnh đầu nhìn lại. Con cá sấu đuổi theo chúng!

      “Đừng chạy dích dắc!” Dan la lớn.

      Nhưng con bé đâu có chạy dích dắc. Mà nó vấp chân lia lịa. Chân con bé run đến độ nó chạy cũng nổi nữa.

      Cả hai xộc thẳng vào bụi rậm, lần theo con đường mòn len lỏi qua cây cối. Chiếc áo thun của Amy vướng vào cành cây nhưng con bé xé toạc nó ra và tiếp tục chạy, hết nhảy qua rễ cây lại khom người dưới những cành lá.

      Ngoài tiếng thở hồng hộc của chúng, cả hai còn nghe cả tiếng thùm thụp của con cá sấu lao đường. Tiếng xào xào khi cái đuôi to tướng của nó quật vào cây cối.

      Bên dưới những lùm cây tối đến nỗi cứ như thể chúng chạy bên dưới tấm khăn choàng đen. Tim Amy va thẳng vào lồng ngực. Amy nghe được hơi thở nóng ran của con quái vật. Nó có thể chồm đến từ phía sau trong khoảnh khắc, hất con bé vào khí trước khi cặp hàm kia xé nó ra làm hai.

      Con đường thình lình chấm dứt, trước mặt chúng là bờ nước khác. Ánh trăng soi lấp lánh cát. Cứ như có ai đó vừa vặn hết đèn đóm lên vậy.

      “Giờ đâu đây?” Amy hỏi Dan, xoay đầu ngó nghiêng xung quanh

      Dưới mặt nước, bóng người bước ra từ chỗ cây cọ. người đàn ông, vận chiếc galabia trắng mà đàn ông Ai Cập thường mặc.

      “Cứu chúng cháu với!” Amy thét lớn.

      “Amy...” Dan ngăn lại ngay tức . “ ta có con dao.”

      Ánh trăng rọi vào lưỡi dao ông ta đeo ở bên hông.

      Amy quay lại. Phía đằng sau, con đường nó trông thấy cặp mắt màu xanh lá của con cá sấu trờ đến. Càng lúc càng nhanh hơn. “Mặc kệ,” Amy . “ nào!”

      Cả hai chạy xuống bờ nước, về phía người đàn ông mang dao.

      Dẫu sao vẫn khá hơn hai hàm răng cá sấu.

      Người kia tra dao vào vỏ khi thấy hai đứa trẻ chạy đến. Con cá sấu lúc này lao dọc theo bờ nước. Thình lình ông ta quay đầu, đoạn nhoài người về chiếc felucca mà khi nãy chúng vẫn chưa nhìn thấy.

      , làm ơn chờ chút! Làm ơn!” Amy òa khóc.

      Ông ta nhảy lên thuyền cách điệu nghệ và bắt đầu chèo . Amy khóc to hơn nữa. Nỗi khiếp sợ thắt chặt tim nó. còn hy vọng nào nữa. còn nơi nào để chạy thoát thân.

      Nhưng người đàn ông lại chèo thuyền về phía chúng, chứ phải chèo mất. Ông ta la lên điều gì đó bằng tiếng Ả Rập.

      Chúng chạy đến chỗ ông, nhanh như chưa từng nhanh hơn trong đời. Cả hai băng qua mặt nước, cảm giác như chân chúng hóa thành chì. Con cá sấu đến gần mép nước. Nếu như con vật xuống nước, có nghĩa rằng cả hai rồi đời. Amy biết điều đó. Con bé biết Dan cũng hiểu như vậy qua nét mặt hốt hoảng của thằng bé.

      Người đàn ông nhoài người ra ngoài thuyền. Ông chộp lấy mép áo sơ mi của Dan bằng tay, áo của Amy bằng tay còn lại. Amy thấy mình giống như chú cá khi ông nhấc bổng hai đứa và quẳng lên thuyền.

      Cả hai nằm con thuyền, thở hồng hộc. Cánh buồm căng lên đón cơn gió lướt qua đều nghe thấy tiếng ùm khi con cá sấu lao xuống nước. Người đàn ông gì. Miệng ông ta mím lại như dòng kẻ nghiêm nghị khi ông với tay sang bánh lái.

      Ông trở buồm, và con thuyền lướt mặt nước, tiến thẳng ra giữa sông. Họ bắt kịp dòng chảy và cuốn theo. Tất cả đều ngưng thở, đón chờ xem có bất kỳ động tĩnh nào gần con thuyền hay .

      Bất chợt, người đàn ông mỉm cười. Gật đầu với chúng. “Ổn rồi,” ông . “Ổn rồi.”

      Toàn thân Amy run lên bần bật. Con bé nhìn Dan. Chúng cận kề với cái chết.

      Con bé tì vào boong để ngồi thẳng lưng lên. Tay Amy chạm vào thứ gì đó ươn ướt, nhờn nhờn. Nó giơ tay lên nhìn xem đó là gì.

      Máu.

      Cả hai ở giữa dòng sông Nile với kẻ lạ mặt có con dao to và máu me sàn.

      “Chúng cháu... đến trong hòa b-bình,” Amy lắp bắp.

      Người đàn ông cúi người về phía trước. Cái nhìn của ông ta vừa tăm tối vừa trống rỗng. Ông chìa bàn tay rắn chắc ra và chỉ vào Dan. Amy lao đến bên đứa em để bảo vệ nó. “!” con bé thét lớn.

      “Đúng rồi!” ông ta cũng hét lên. “Tất đỏ[2]!”

      [2] Tên đội bóng chày của Mỹ.

      “Cái gì... đ-đỏ?”

      Ông chỉ vào chiếc áo thun Dan mặc. “Bos-ton. Vô địch thế giới năm 2004!” ông to. “Công viên Fenway!” Ông trỏ vào ngực mình. “Trận thứ hai!”

      Dan ngồi dậy, chớp chớp mắt trong lúc những từ ngữ ông ta ra bắt đầu trở nên ràng hơn. “Ông có xem trận đó sao? Tuyệt cú mèo!

      “Curt Schilling[3]!”

      “Manny Ramirez[4]!” Dan trở nên tươi tỉnh và quay sang Amy. “Bóng chày. Lại ngôn ngữ toàn cầu khác.”

      [3] Curt Schilling, sinh năm 1966, cựu vận động viên trong giải Bóng chày nhà nghề Mỹ. Ông từng chơi cho đội Red Sox ở Boston, là nơi Dan và Amy sinh sống.

      [4] Manny Ramirez, sinh 1972, vận động viên sân ngoài chuyên nghiệp lừng danh của Mỹ.

      “Vậy còn con dao kia?” Amy rít lên.

      “Chị ngửi thấy mùi gì hay sao?” Dan đáp. “Ông ấy là người đánh cá. Nhìn xem!”

      Phải rồi. Giờ ngửi thấy. Bên cạnh Amy là giỏ đựng cá. Ông ta rửa cá cả hai phát ra ông.

      “Đến Luxor?” ông hỏi. Giờ Amy đọc ra được thân thiện trong nụ cười của ông. Nó gật đầu.

      Con sông có màu xanh tối sẫm như mực. Amy cố gắng lấy lại nhịp thở bình thường khi tim nó đập chậm lại. Amy ngửa đầu ra sau. Nó trông thấy chòm Đại Hùng tinh trong muôn vàn các vì sao bầu trời. cảm giác thư thái tràn ngập cơ thể Amy. Từ đây, nó có thể nhìn thấy ánh trăng cát ở mạn Thebes của con sông. Trông như cánh đồng tuyết trải dài đến các vách đá. Khi thuyền chạy, ánh sáng Đại đền Luxor tỏa ra lung linh.

      “Tuyệt vời,” con bé thốt lên.

      “Tuyệt vời,” người đánh cá lặp lại.

      ràng, tuyệt vời cũng là phần của ngôn ngữ toàn cầu.

      ***

      Người đánh cá cho chúng xuống bến tàu gần đền Luxor. Bằng cái cười rộng hết cỡ và cú vẫy tay cào thân thiện, ông to, “Bai bai, người Boston! Hẹn gặp lại hai chú cá sấu nhé!” rồi dong thuyền .

      “Chúng tôi đến đây trong hòa bình?” Dan nhại lời chị nó. “Chị nghĩ ông ta là người Ai Cập hay người Hỏa tinh thế?”

      Amy nhịn được chuỗi cười khúc khích. “Làm sao mà chị biết được ông ấy là fan của đội Sox chứ?”

      “Giờ chúng ta đâu nào?” Dan hỏi.

      “Chắc là lúc này Theo và Nellie quay trở lại rồi,” Amy . “Có lẽ bọn họ chờ ở cảng. Ta phải giải thích vì sao con thuyền còn nữa.”

      Nhưng khi cả hai về đến cảng, con thuyền vẫn còn ở đó. Nellie và Theo ngồi boong dùng trà. “Hai đứa dạo sao?” Nellie thắc mắc.

      Dan nhìn Amy. Amy nhìn Dan. Chúng có nên nhắc đến Jonah Wizard, vụ chiếm thuyền, con cá sấu, con dao lớn hay ? Và cả người đánh cá đội Red Sox nữa chứ?

      “Vâng,” Dan đáp. “Chúng em chỉ dạo chút.”

      Bỏ mặc Theo và Nellie boong nhâm nhi món trà sữa Ấn và ngắm bầu trời đêm, tụi nó xuống dưới.

      “Ít ra Jonah trả lại con thuyền,” Amy với Dan.

      “Ít ra ta cũng lên đường Paris,” Dan đáp. “Vấn đề là, chúng ta phải đâu?”

      “Chị cũng mải nghĩ đến điều đó đây. Khi ta ở Paris, chị xem lịch sử bảo tàng Louvre. Trước kia nó từng là cung điện. Nên khi Drovetti viết cung điện L, có lẽ ông ấy muốn đến cung điện Louvre. Nhớ nào, lão Bae kể rằng Drovetti gửi bức tượng Sakhet về Louvre, và Ekat tìm cách mang nó về lại Ai Cập. Chị cá rằng chẳng có bức tượng Sakhet thứ tư nào hết. Xét cho cùng, ba tấm bản đồ chỉ cho ta lăng mộ Nefertari rồi. Giờ chúng ta chỉ phải sử dụng các chữ tượng hình để tìm ra nơi tiếp theo đến mà thôi.”

      Dan cau mày. “Katherine chẳng giúp ích gì hết. Và Grace cũng thế!

      “Ừm, Katherine nhắc đến Aswan trong bài thơ. Giza, Aswan, Thebes và Cairo, nhớ ? Chúng ta bắt đầu ở Cairo. Napoleon tìm ra bức tượng Sakhet đầu tiên trong kim tự tháp ở Giza. Bức tượng thứ hai được Howard Carter tìm thấy trong lăng Hatshepsut ở Thebes. Aswan là thành phố duy nhất còn lại. Chị cược rằng đó là nơi ta tìm thấy manh mối cuối cùng.”

      “Nhưng chúng ta biết chắc chắn,” Dan cự lại. Bae tìm thấy bức tượng Sakhet thứ ba ở Cairo, nhưng đó là hàng trăm năm sau khi Katherine để lại nó ở nơi nào đấy. Bức tượng có thể bị đánh cắp và bị buôn bán lại qua tay nhiều người. Có thể bức tượng đó cũng đến từ Aswan.”

      “Có lẽ,” Amy lưỡng lự đồng tình với nó. “Em có nhớ Bae gì về Katherine khi bà ấy cảm thấy bị xem thường chỉ vì bà là phụ nữ ? Em chẳng nhận thấy rằng Katherine dẫn chúng ta qua hết tất cả nữ pharaoh, nữ hoàng và nữ thần của Ai Cập cổ đại sao? Sakhet, Hatshepsut, Nefertari. Thậm chí manh mối Giza cũng được tìm thấy trong kim tự tháp nữ hoàng.”

      “Điều đó làm em nhớ thứ.” Dan nhìn lại những chữ tượng hình. “Khi Theo hướng dẫn cho chúng ta, và cái đoạn Isis nắm tay Nefertari, nhớ ? Hình đầu Isis y hệt hình này.”





      “Em cá chữ này có nghĩa là Isis.”

      “Lại là nữ thần!” Amy giở quyển sách. “Người Ai Cập cổ đại tin rằng khi Isis nghe tin chồng bà, Osiris, chết, nước mắt của bà khiến sông Nile tràn bờ - khiến vùng đất này trở nên màu mỡ cho nông nghiệp.” Amy ngẩng đầu lên, mắt sáng rực. “Kẻ kia làm cây trái tốt tươi bằng lệ tuôn dài!”

      “Vậy còn chỗ Nơi con tim của kẻ người ấy thương được tìm thấy sao”?

      Amy tiếp tục đọc, nhịp tim mỗi lúc nhanh hơn. “Osiris bị thần chiến tranh Seth giết và xé xác. Isis tìm thấy tim chồng mình đảo Philae. Đó là nơi đặt ngôi đền thờ bà.”

      Dan trỏ ngón tay vào từng chữ tượng hình. “Đảo. Isis. Cự thạch.





      “Philae ở đâu?” Dan hỏi Amy.

      “Chính là Aswan!” Amy reo lên. “Mọi thứ thế là .” Nó đóng quyển sách ập tiếng to. “Vấn đề là,” Amy tiếp, “chị thể nhớ bà Grace viết gì về Aswan. Giá mà chúng ta đừng làm mất quyển sách ấy!”

      “Chúng ta á?” Dan vặn lại.

      “Okê, là chị,” Amy đỏ mặt vì giận dữ. “Nếu em muốn trách móc gì chị cứ việc.”

      “À, nếu như chị cho em xem quyển sách, có lẽ chúng ta biết phải làm gì tiếp theo rồi,” Dan .

      “Như vậy là bất công,” Amy . “Em đâu có thích nghiên cứu như chị.”

      “Nhưng mà em có thể đọc,” Dan cay cú. “Và giống như chị, em có thể nhớ. Chị thậm chí còn chẳng cho em liếc nhìn nó nữa là.”

      “Lúc nào em chẳng nghiên cứu là chán òm.” Amy độp lại. “Làm sao mà chị biết được lần đầu tiên trong đời em muốn đọc quyển cẩm nang chứ?”

      “Đó chỉ là quyển cẩm nang. Đó là cẩm nang của Grace!” Dan cao giọng. “Chị muốn giữ hết mọi thứ Grace để lại cho riêng mình. Chị có sợi dây chuyền và giờ là bức tượng Sakhet... chị cũng chẳng bỏ nó ra nữa. Chị thậm chí còn muốn giữ ký ức cho riêng mình!”

      đúng,” Amy cãi lại. “Và như vậy cũng bất công luôn!”

      “Ừ, Grace đâu phải là bà của mình chị đâu, chị biết mà!” Mặt Dan đỏ tía lên. “Chị chỉ muốn giữ bà cho riêng mình thôi!”

      “Đừng có kỳ cục như thế!” Amy thét lên. Nó cảm thấy mặt mình nóng lên. “Đó là điều ngu ngốc nhất mà chị từng được nghe!”

      “Chị phải quyết định xem bà là người tốt hay xấu. Chị phải quyết định bà có thương chúng ta hay . Nếu chị với em rằng bà ngoại thương em tí nào, rằng bà là kẻ vạch kế hoạch đầy gian ác, tốt nhất chị hãy dùng dẫn chứng mà chứng minh ,” Dan giọng giận dữ. “Chị quá lo sợ rằng nếu chị mà mắc lỗi lần nữa chị lại bị quay lơ 180 độ chứ gì. phải vì Ian Kabra xấu xa tất cả mọi người đều xấu hết cả đâu nhé!”

      Amy há hốc miệng vì sững sờ. Chưa bao giờ nó thấy Dan hành xử như thế này. Thằng bé từng gọi nó bằng những cái tên khác nhau, từng đánh nhau với nó, nhưng chưa bao giờ như thế này. Chưa bao giờ Dan chủ ý như thế cả. Lúc này trông Dan có vẻ hả hê chiến thắng, như thể nó vừa ghi bàn vậy.

      Giống như điều con bé cảm thấy khi ở trong căn cứ Ekat, khi làm cho thằng em khóc.

      Điều gì xảy ra với chúng thế này? Có phải đó chính là thứ mà các manh mối mang đến cho hai chị em nó ? phản bội và bí mật là những điều bình thường mới. Những thứ ấy làm chúng bị méo mó tinh thần. Biến chúng thành những kẻ thù nghịch lẫn nhau.

      Cả hai hành xử như những con người mà trước kia con bé chưa từng nhận ra. Những người nó chưa từng thích.

      Amy nhận ra rằng, chúng cư xử như những thành viên dòng họ Cahill.






      CHƯƠNG 17

      MỚI CHÍN GIỜ SÁNG mà nhiệt độ ở Aswan ngoài ba mươi. Tại sân bay, Amy cảm thấy mồ hôi chảy dọc lưng mình, và con bé cởi balô ra để quàng nó vào bên vai. Chiếc balô lại đập vào túi đeo hông theo từng nhịp bước của nó. Amy kêu ca gì cả. Nếu làm thế, Dan ném cho nó cái nhìn khinh bỉ, gọi nó là đồ nhút nhát, rằng con bé chẳng chịu trách nhiệm về những gì mình làm.

      Nhưng trái lại, có thể thằng bé cũng chẳng màng gọi tên nó. Chúng thèm chuyện

      Uỵch, uỵch, tiếng balô đập vào túi đeo hông của nó. Con bé tụt lại đằng sau mọi người. Nellie dẫn đầu, đến bãi đậu taxi. Theo gọi điện hỏi Hilary giúp, và bà giới thiệu khách sạn Old Cataract, “nơi Grace vẫn ở khi đn Aswan, các bé vịt cưng à. Saladin quý, làm ơn bỏ móng chân của mày ra khỏi tay tao, cám ơn...”

      Dan theo sau Nellie, giữ khoảng cách giữa nó và Amy càng xa càng tốt. Theo trước Amy, tìm cặp kính râm trong túi áo. Các đám đông du khách chờ lấy hành lý tụ tập rải rác xung quanh, và người hướng dẫn viên gọi lớn, “Mọi người, lối này!” lúc toán du khách đông đúc khác tiến về phía dãy xe buýt.

      Theo làm rơi cặp kính nên cúi xuống để nhặt lên. Amy thấy có ai đó đâm sầm sau lưng mình làm nó dừng lại. Amy cảm thấy có cọ xát vào chiếc túi hông, bèn khom người xuống để khẽ dịch chuyển nó. Ngạc nhiên, con bé chạm phải bàn tay. “Này!”

      Amy cảm giác chiếc túi đeo hông bị giằng ra. Đám đông vẫn ép lấy nó. thể xoay, cũng thể tiến lên phía trước. Amy bắt đầu thấy hốt hoảng. “Cứu tôi!”, nó hét lên, nhưng chẳng ai nghe thấy. Theo quay lại. chàng vẫy Nellie. Con bé cảm thấy giống như mình bị đám rắn bò lúc nhúc bao vây. Amy thở được. Trời quá nóng, và những cơ thể chuyển động khóa chặt nó lại chỗ. Nó thể thoát ra. “C-c-ứu-với!” Giọng Amy yếu ớt quá, chẳng tạo nên nổi tiếng hét.

      Phía trước mặt, nó thấy Dan ngoảnh lại. Mắt thằng bé bắt gặp cặp mắt hoảng hốt của Amy. Nó biết ngay con bé gặp rắc rối. Nó bắt đầu tìm cách quay lại chỗ Amy.

      “Dan!”

      Amy cố tiến về phía nó và suýt nữa ngã nhào.

      “Dan, giúp chị với! Chiếc túi hông!”

      Thình lình, tay thằng bé thò xuyên qua đám đông, tóm lấy cổ tay Amy. Dan dùng hết sức kéo Amy, hất văng người phụ nữ giữa chúng. Amy thấy sức ép lên chiếc túi hông cò color="black">
      Nó ngoảnh lại và nhìn quanh quất đám đông. Thay vì những con rắn bò lúc nhúc, con bé nhìn thấy các du khách mồ hôi nhễ nhại nóng lòng muốn tìm phương tiện cho mình. Từ ngoài tầm mắt, nó thấy có ai đó di chuyển, nhưng đó chỉ là hai ông bà lão, người đàn ông to béo đội nón rơm còn người phụ nữ nhìn xuống và tìm kiếm thứ gì đó trong túi xách căng phồng của mình. Amy trông thấy ánh sáng rọi lên chiếc nhẫn bạc hình rắn của bà ta.

      “Nhanh nào, hai đứa!” Theo đứng cạnh chiếc taxi mở sẵn cửa.

      Amy đổ uỵch vào ghế sau cạnh Dan.

      “Này, ai đó cố tình cắt thứ này từ phía sau,” Dan thông báo.

      Amy mở khóa chiếc túi hông, mấy ngón tay run lẩy bẩy. Nó thấy dấu dao cố rạch xuyên qua lớp vải bố. Nhìn thấy vết cắt còn mới nguyên, nỗi sợ chạy dọc sống lưng Amy. “Suýt nữa chạm phải.”

      “Các em phải trông chừng đồ đạc trong đám đông,” Theo . “Tôi mừng vì Amy phản ứng rất nhanh.”

      ra là Dan đấy ạ,” Amy chữa.

      “Ừ, em chỉ cố gắng làm cái gì đó ra hồn thôi,” Dan .

      Theo trông ra cửa sổ. “Tại sao chúng ta để túi xách lại khách sạn và đón tàu sang đảo Agilika ngay sau đó?”

      “Khoan ,” Dan ngắt lời. “Em nghĩ tên hòn đảo phải là Philae chứ. Đó là nơi quyển sách về vị trí ngôi đền.”

      “Philae là tên di chỉ, nhưng hòn đảo là Agilika,” Theo trả lời Dan. “Đảo Philae chìm hoàn toàn xuống nước từ những năm 60 rồi.”

      “Cái gì?” Amy bật kêu. Manh mối nằm dưới nước sao?

      “Ấy là khi người ta xây Đập Cao[1]. Thậm chí còn trước đó nữa, sau khi con đập đầu tiên được xây dựng từ năm 1902, t hòn đảo bị chìm dưới nước vào số thời gian trong năm. Người ta khi ấy nhìn thấy nó dưới nước.”

      [1] Đập Cao vùng Aswan, tiếng là High Dam, đập thứ hai. Aswan là thành phố nằm gần thác nước đầu tiên sông Nile ở Ai Cập. Người ta xây hai con đập dạng chữ V để ngăn lũ sông Nile, phát điện và tưới tiêu. Đập Aswan cách Cairo 1.000 km về thượng nguồn. Nếu có đập, nước sông Nile gây lũ hàng năm trong suốt mùa hè khi dòng nước từ Đông Phi đổ vào, dù chúng cũng mang theo khoáng chất và dinh dưỡng cho đất sông Nile.

      “Vậy điều gì xảy ra với nhà cửa đảo?” Amy hỏi.

      “Người ta giữ và chuyển chúng đến Agilika,” Theo giải thích. “Hòn đảo được xây dựng để trông y hệt như Philae. Rất gần với thứ mà chúng ta có thể trải nghiệm được. Thứ duy nhất thay đổi chính là bản thân hòn đảo. Mọi người thấy Đền thờ Isis như nó từng tồn tại Philae.”

      “Ý là đảo Philae ngày trước vẫn còn tồn tại, nó chỉ nằm dưới sông Nile thôi?” Dan hỏi tiếp.

      Theo gật đầu. “Dưới chiếc hồ được con đập tạo ra. Nhưng bây giờ chẳng có gì để xem ở đó cả.”

      Hai chị Theo và Nellie bắt đầu trò chuyện, và Amy với Dan bằng giọng . Vì Dan cứu mạng mình, kỳ cục nếu vẫn điên tiết với thằng bé.

      “Chúng ta vẫn còn cơ may,” Amy thầm. “Bài thơ viết rằng cột đá hồng đổ bóng lúc trưa. Vì hai công trình đều có vị trí hệt như nhau, cùng chiếc bóng đổ vào cùng vị trí ‘cánh tay dài chở che’ - dù cho nó là gì nữa. Nếu chúng ta may mắn, manh mối của Katherine vẫn còn ở đó.”

      “Hoặc như thế, hoặc chúng ta cần dừng lại ở cửa hiệu bán đồ lặn,” Dan .

      Chiếc taxi đậu lại trước khách sạn Old Cataract, vị trí rất đẹp bên phải sông Nile.

      T đề nghị giữ giỏ xách của họ và “trả ít tiền boa”. Khi lại chỗ chiếc taxi, nhân viên khách sạn chạy đến và trao cho Theo miếng giấy . Theo đọc, cau mày lại, rồi đút nó vào túi áo.

      “Cái gì thế?” Amy hỏi Theo khi chàng vào ghế cạnh bác tài.

      có gì. Chỉ là... lời chào hỏi từ bàn tiếp tân.”

      Dan chồm qua ghế và móc mẩu giấy ra khỏi túi Theo. Nó đọc lướt. “ lời chào hỏi gì đó.”

      Nó đưa mẩu giấy cho Amy và Nellie. Phía cùng là bức vẽ kiểu Ai Cập về thần Osiris, thần của thế giới phủ. Bên dưới viết như sau:

      ngạo mạn dẫn các ngươi đến chỗ chết!

      “Tôi muốn mọi người nhìn thấy thêm những ghi chú vớ vẩn thế này nữa,” Theo .

      Dan vo tờ giấy lại. “ thành vấn đề.” Nhưng kỳ thực là có. Nó nghĩ rằng Jonah gửi các ghi chú ấy. Nhưng Jonah đáng lý phải đường đến Paris rồi chứ.

      “Bến tàu đây rồi,” Theo . “Khẩn trương nào - có chiếc phà sắp sửa rời bến.”

      Cả bọn chạy theo chiếc tàu trong chỉ có vài giây ngắn ngủi còn lại. Chiếc phà xình xịch rời bến. Ở thành phố Aswan, sông Nile dường như đẹp hơn. Màu nước gần với màu ngọc lục bảo, và đầy ắp những cánh buồm trắng. Những chiếc du thuyền đỗ lại gần đó, du khách tựa vào lan can tàu, tay cầm máy ảnh hoặc chỉ trỏ. Hai con diệc đậu duyên dáng bãi lau sậy, gợi cho Amy nhớ đến những bức tranh nó trông thấy trong lăng Nefertari. Cái cổ xưa và mới mẻ gặp gỡ nhau trong những giây phút tuyệt vời ấy khiến Amy bắt đầu nhận ra đó chính là phần của đất nước Ai Cập.

      “Chúng ta dừng chân ở mũi phía Nam, nhưng quá xa ngôi đền,” Theo bảo. “Các em biết câu chuyện về Isis ?”

      “Bà ấy kết hôn với cái gã Osiris, và rồi ta ngỏm tỏi,” Dan . “Thế là bà ấy buồn bã và thế này thế khác, sau đó khóc lóc khiến cho nước mắt chảy thành sông.”

      “Tuyệt vời! Giống hệt như những chữ bức vẽ,” Theo .

      Chiếc tàu cập bến, và cả bọn theo Theo vào Đền thờ Isis. Đó là công trình khổng lồ, vừa cao vừa to, với những bức phù điêu được khắc vào đá. Họ xuống hàng cột khổng lồ với nhiều dãy cột nối tiếp nhau.

      Dan nhìn xung quanh. “Cự thạch đâu? Ở đây có hay sao?”

      “Có cái,” Theo trả lời. “ ra là có hai cái, do vua Ptolemy VIII dựng nên, được làm từ đá granite hồng. Cả hai đều bị hư hỏng - cái bị đổ - và được người ta mang từ thế kỷ 18 - ừm, bị cướp, hay là mua lại, tùy cách mọi người muốn hiểu về nó - bởi người [2]. Chúng ở trong khu vườn của ông ta ở Dorset, nước .”

      [2] Nhà Ai Cập học Henry Salt, cũng là nghệ sĩ, nhà du hành, nhà ngoại giao của , đối thủ cạnh tranh với Bernadino Dvoretti trong lĩnh vực sưu tập cổ vật.

      Amy thấy nản chí. Hai cự thạch - hai chiếc cột màu hồng - còn nữa. Chẳng có gì để hắt bóng xuống nữa. Làm thế nào chúng tìm thấy manh mối đây?

      Theo tiếp tục bài giới thiệu. “ hòn đảo cũ, trước đây sông Nile ngập mỗi năm lần,” giảng giải. “Người ta xây tường để bảo vệ các ngôi đền. Đó là lý do vì sao ngôi đền ngày nay được bảo tồn nguyên vẹn đến thế.”

      “Nhưng giờ đâu có bức tường nào,” Amy .

      “Bọn họ cần tái thiết chúng,” Theo nhún vai. “Bởi vì có con đập, sông Nile còn dâng lũ nữa.”

      Theo theo Nellie. Amy ngồi xuống bậc thềm. “Chúng ta làm gì bây giờ?” Nó hỏi. “Cự thạch còn nữa rồi.” color="black">
      Dan ngồi xuống bên cạnh Amy. “Và cả những bức tường - chị có nghĩ chúng chính là ‘cánh tay dài chở che’ ?

      “Vì sao Grace dẫn dắt chúng ta đến đây nếu như con đập nhấn chìm hòn đảo?” Amy thắc mắc. “Bà hẳn phải biết điều đó. Và nơi này cũng khổng lồ. Đến nỗi chị cũng chẳng biết phải bắt đầu từ đâu nữa.”

      “Hẳn là bà để lại manh mối khác,” Dan . “Chúng ta chưa tìm ra mà thôi.”

      khoảng lặng ngắn ngủi. lạnh giá còn nữa, nhưng khí giữa hai đứa vẫn còn lạnh lẽo, bất kể mặt trời chói chang.

      “Dan, chúng ta thể trở thành những Cahill xấu được,” Amy . “Chỉ có hai chị em mình với nhau thôi. Chị thể làm được nếu có em.”

      “Em cũng thấy như vậy,” Dan đồng tình. “ có em chị chẳng làm gì được đâu.”

      Amy cười phá lên. Nếu như con bé ngày càng cứng cỏi hơn Dan cũng thế. Có thể những thay đổi cũng quá tệ. Nếu chúng vẫn là gia đình, chỉ có hai đứa với nhau, chúng cũng có thể hình dung ra việc trở thành người dòng họ Cahill là như thế nào.






      CHƯƠNG 18

      TỐI HÔM ĐÓ, Amy ngủ được. Những hình ảnh cứ choảng nhau trong đầu con bé. Những ngôi đền, lăng mộ, cá sấu và sư tử. Cặp mắt sẫm cùng nụ cười sáng chói của Ian Kabra. Cảm giác hoảng hốt vì bị ép chặt ở sân bay khi đám đông vây quanh. Khuôn mặt , nghiêm nghị của thằng em, cái cách mà nó xông qua đám đông để đến cứu mình. Hai vợ chồng già, người phụ nữ nhìn vào giỏ xách của bà ta. Ánh sáng lấp lánh chiếc nhẫn bạc của bà.

      Giấc ngủ lôi nó , và trước khi chìm vào trong nó, con bé trông thấy gương mặt Grace mỉm cười và .

      Hãy tin con người,

      ***

      Amy tỉnh giấc giữa đêm. phải vì nó nghe thấy tiếng động. Giống như thể nó nhớ rằng tiếng động nào đó đúng hơn. Amy cố chống chọi với giấc ngủ vốn trở thành thứ xa xỉ với nó.

      Tay con bé lần dọc theo chiếc giường, nơi Amy vẫn có thói quen đặt túi hông ở nền nhà. Nó kia rồi, góc nhọn của chân đế bức tượng Sakhet chìa ra ngoài. Nó bắt đầu quay về với gối ấm chăn êm... nhưng nhớ cho tiền vào tất.

      Amy lại trườn xuống và lần ngón tay quanh chỗ chân đế để chạm vào bức tượng Sakhet.

      Ngón tay chỉ chạm vào khí. có bức tượng gắn vào đế.

      Tim đập loạn xa, Amy tỉnh rụi. Nó trèo ra khỏi giường và kiểm tra dưới nền nhà. có gì. Dưới giường. Cũng trống trơn.

      Cửa sổ mở. Nó quên đóng cửa sổ ư? Amy lao đến để nhìn ra ngoài.

      Trăng lên cao, tròn vành vạnh, soi sáng trảng cỏ bên ngoài như ánh đèn trong sân vận động. Rất dễ dàng nhìn ra Theo, tay cầm túi xách, hớt hải khúc đường vòng. Amy trông thấy đèn ôtô chiếu sáng ở chỗ đỗ xe đằng xa.

      Amy ngừng suy đoán. Nó đẩy cửa sổ lên hết cỡ và trườn ra ngoài. Chân trần của nó chạm vào đất mát lạnh. Con bé len lỏi qua những bụi cây, đến bãi cỏ, và bám theo.

      Khi nghĩ ra mình cần giúp đỡ quá muộn. Theo tiến đến chỗ chiếc xe. Liệu nó có thể hạ gục ta ? Nó cần phải đánh ngay vào chỗ đầu gối ...

      Amy nghe thấy tiếng bước chân thình thịch phía sau. Nellie đuổi theo Theo, mặt nàng vẻ tức tối. Hai chân Nellie lộ ra bên dưới chiếc quần lót bó sát và chiếc áo thun quá khổ hình ban nhạc rock Pearl Jam mặc ngủ.

      nàng huých vào Theo bằng động tác nếu áp dụng ở NFL[1] đồng nghĩa với việc bị đuổi thẳng c

      [1] NFL viết tắt của National Football League - Liên đoàn bóng bầu dục quốc gia (Mỹ).

      ta khuỵu xuống đất trong tiếng rú đau đớn.

      Amy chạy nhanh qua cả hai và lao đến bên chiếc xe. Hết sức ngạc nhiên, Hilary là người ngồi sau tay lái, miệng há hốc vẻ kinh ngạc giả tạo trước cảnh tượng cháu trai của bà ta bị Nellie cưỡi ngực.

      “Chuyện gì xảy ra vậy, các chú vịt bé bỏng?” Mặt Hilary tái mét, nhưng bà vẫn cố giữ giọng vui vẻ.

      Amy chồm lên và tắt động cơ, rồi cho chìa khóa xe vào túi. “Sao chúng ta cùng tìm hiểu nhỉ,” con bé gợi ý. Amy thấy ngạc nhiên trước bình tĩnh của chính mình. Nếu tức tối quá mức, ta chẳng cần phải cố gắng để trở nên gan dạ.

      “Meeo.”

      Amy nghe đươc cái thanh khe khẽ ấy và tim con bé tràn đầy niềm hân hoan. “Saladin phải ?” chồm vào ghế sau và cầm lấy chiếc lồng mèo.

      Nắm chặt cổ tay Hilary, Amy dắt bà lão đến chỗ Theo và Nellie.

      Khuôn mặt Theo dúm dó vì đau đớn. “ em có cần phải đánh tôi đau thế ?” rống lên.

      Nellie cúi rạp người xuống và rít từng chữ vào mặt . “ ngạo mạn dẫn đến chỗ chết, đồ khốn ạ!”

      ***

      Theo ngồi bẹp xuống nền khách sạn trong lúc Amy lấy bức tượng Sakhet ra khỏi túi xách của .

      Hilary ngồi nghiêm nghị chiếc ghế.

      “Ta chắc rằng chúng ta có thể chuyện với nhau,” bà ta lên tiếng. “Nếu Theo làm điều gì sai, hãy để ta giải quyết.”

      “Cháu chắc thế đâu,” Amy đáp.

      “Chí ít có thể cho tôi ít đá chườm vào mắt cá chân được ?” Theo năn nỉ.

      “Tất nhiên rồi,” Nellie đáp. nàng đến xô đá, nhấc nó lên và trút toàn bộ xuống đầu Theo. “Cảm ơn,” Theo .

      có chi,” Nellie giọng ngọt ngào. “Đồ xảo trá.”

      “Chúng ta làm gì với bọn họ đây?” Dan hỏi. Nó chộp lấy chiếc đèn bàn và cầm lăm lăm trong tay, phòng trường hợp Theo cố bỏ chạy. Nó ra tay ngay tức khắc nếu Theo cho nó cơ hội.

      Nhưng trông Theo có vẻ muốn cho nó cơ hội. như hết pin và rất chán nản.

      “Chắc chắn là cảnh sát rồi,” Nellie trả lời.

      “Với thế là xong, đáng kiếp,” Dan đồng tình.

      “Mọi người gì thế?” Hillary hỏi vẻ kinh sợ. “Theo, bọn họ gì thế?”

      “Đừng gọi cảnh sát,” Theo van nài. “Xin làm ơn. Đánh cắp tượng là tội chung thân. Mọi người muốn tôi ngồi tù chứ? Tôi phải ở trong đó đến ngàn năm!”

      nhà khảo cổ nào đó có thể nghiên cứu ông ,” Dan .

      “Các người hiểu đâu,” Theo . “Các người thậm chí còn có vẻ cần đến nó. Bức tượng chỉ là phần trong cuộc truy lùng kho báu điên khùng nào đó. Các người hiểu mình có gì trong tay đâu!”

      “Theo!” Hilary la lên. “Khi con bảo muốn gặp ta ở đây, ta chẳng thể ngờ được là...” Hai tay Hilary đưa lên che miệng tỏ vẻ kinh ngạc.

      “Ồ, làm ơn thôi ,” Nellie . nàng đến bên điện thoại.

      “Nghe này, tôi xin lỗi, được chưa?” Theo tiếp. “Nhưng rốt cuộc mọi người đ những nhà Ai Cập học làm gì. Nghiên cứu từ năm này sang năm nọ, xuống những lăng mộ, chúi đầu vào giấy papyrus và nhận được gì nào? đề nghị về làm việc như giám tuyển trong bảo tàng với đồng lương thậm chí đủ để thuê nhà.”

      Hilary vùi mặt vào hai bàn tay. “Ôi, Theo. Nếu các cháu để ta đưa nó , ta hứa ... ta đền bù cho các cháu.”

      Amy nhìn chằm chằm vào tay bà. “ chiếc nhẫn đẹp đấy thưa bà Hilary.”

      “Cám ơn cháu cưng.”

      “Bà đến Aswan khi nào thế?”

      “Vừa đến thôi, vịt cưng ạ. Theo bảo ta đến gặp nó; ta hoàn toàn biết có chuyện gì.”

      biết sao,” Amy hỏi lại. “ tức cười, vì tôi trông thấy bà ở sân bay sáng hôm nay. Bà đứng cạnh lão già nào đó, hy vọng như thế bà trông như thể cùng với ông ta. Bà chính là kẻ cố gắng rạch túi đeo hông của tôi!” Amy quay sang Theo. “Và giả vờ làm rơi kính để bà ta có thể thực điều đó!”

      Hilary bật ra tiếng cười lớn nhưng nghe như mắc nghẹn. “Tưởng tượng giỏi !”

      “Ôi, bà ngoại, hãy thú nhận ,” Theo giọng mệt mỏi. “Bà nghĩ là mình chẳng lừa nổi ai hay sao?”

      “Ta thành công nếu cháu hợp tác!” Hilary rít lên.

      Nhìn khuôn mặt méo xệch của Hilary, cơn thịnh nộ của Amy trở lại. lần nữa bị phản bội, bị xem như đứa ngốc nghếch. “Sao bà có thể làm như thế chứ?” nó cao giọng. “Sao bà lại có thể phản bội Grace? Bà ấy là bạn thân nhất của bà kia mà!”

      “Chính xác!” Hilary bật khóc. “Và bà ấy có tất cả của cải thế gian, còn ta sống trong nghèo khó. Ta có mặt trong di chúc của bà ấy. Vì sao ta lại phần trong tài sản của bà ấy kia chứ?”

      “Bà quả là bà lão tham lam,” Nellie lắc đầu. “Nghiệp ác.

      Lại thêm vố nữa, Amy giận dữ tự nhủ. Nó tin tưởng ai đó, nhưng hóa ra điều đó hoàn toàn sai. Lúc này, Amy biết liệu nên giận Hilary hay bản thân mình hơn.

      Theo thở dài. “Coi kìa, tôi xin lỗi vì cướp bức tượng,” với Amy và Dan. “Nhưng khi có ai đề nghị món hời triệu đô, mọi người làm gì?”

      Nellie nhấc điện thoại.

      “Khoan ,” Dan xen vào. “Ai đề nghị đưa cho triệu?”

      quý bà người Nga điên khùng.”

      Nellie bỏ máy xuống.

      “Vậy gặp ả người Nga điên khùng này ở đâu?” Amy hỏi.

      Theo lúng túng. “Trong lăng Nefertari. Tôi va phải bà ta ở phòng chờ.”

      “Vậy chính là người giả tiếng xác ướp?” Dan hỏi tiếp.

      “Tôi nghĩ... nếu cả hai sợ... cả hai đưa bức tượng Sakhet cho tôi giữ,” Theo trả lời.

      “Cũng chính là người gửi những thông điệp cảnh báo,” đến lượt Nellie hỏi, mắt nàng nheo lại thành hai đường kẻ. “Thú nhận .”

      Theo gật đầu. ta rất hổ thẹn. “Tôi xin lỗi.”

      “Xin lỗi? nhốt hai đứa trẻ của tôi vào lăng mộ rồi xin lỗi thôi sao?” Nellie thét lên. “Tôi cho xin lỗi!” nàng bấm số.

      “Chờ , Nellie,” Amy cắt ngang. “Em nghĩ chúng ta có thể thỏa thuận ở đây.” Nó quay sang Theo và Hilary. “Bọn tôi nộp hai người cho cảnh sát. Nếu như cả hai thực cho chúng tôi việc.”






      CHƯƠNG 19

      NHÀ KHẢO CỔ HỌC TÓC VÀNG, hay ả nên gọi là tên trộm, dường như rất căng thẳng. Có lẽ vì ta lừa dối hai đứa nhóc với gia tài duy nhất mà bà ngoại thân của chúng để lại chỉ là cuộc tranh tài điên khùng mà chúng cầm chắc thất bại cùng bức tượng vô giá. Và nhờ có ta, chúng cũng... mất luôn bức tượng.

      Chà, đau cho bọn chúng, Irina nghĩ.

      Quyển sách hóa ra là ngõ cụt. Chẳng có gợi ý gì cả, mà chỉ là những ghi chú trang bìa, những thứ ngu ngốc kiểu như đừng bỏ lỡ cái này! và thức ăn ngon ở đây. con số to tướng cho bất kỳ manh mối nào ở Aswan. lãng phí thời giờ. Ả vứt nó . Những ý nghĩ về Grace, dù nhặt đến đâu cũng đều khiến mắt của ả co giật.

      Irina vòng về gần quán cà phê nơi Theo Cotter ngồi chờ, ngón tay khua liên hồi lên cái bàn khảm gạch men, chiếc túi đặt dưới chân. Ả biết ai theo dõi mình. Irina ngang qua quán ba lần cho chắc ăn.

      Ả ngồi vào chiếc ghế cạnh Theo. “Mày có bức tượng Sakhet chứ?”

      “Bà có tiền chứ?”

      Ả nghiêng đầu. “Như thỏa thuận. Tiền được chuyển vào tài khoản ngân hàng Thụy Sĩ khi ta xác định được đó là bức tượng .” Ả có chút ý định nào chuyển tiền. Ả cũng chẳng cần bức tượng, ả chỉ cần cái thứ ở bên trong. Bọn Lucian tìm kiếm thứ đó nhiều thế kỷ nay. Irina biết vì sao, nhưng khi có nó trong tay, ả có câu trả lời.

      “Trước tiên, ta cần phải vào phòng vệ sinh .”

      Ả nhặt chiếc túi lên rồi băng qua những chiếc bàn vào phòng vệ sinh. Ả đóng cửa lại kỹ càng.

      Ả cầm bức tượng tay. Đó là bức tượng Sakhet, ả biết điều đó, có chiếc đầu sư tử. Bng, như người ta báo cáo cho Lucian Napoleon vĩ đại. Cặp mắt bức tượng là ngọc lục bảo, ả cho là thế - Irina chẳng biết tí gì về đá quý. Mọi thứ có vẻ đúng như dự kiến. Irina gõ vào bức tượng, tìm thử cách để mở nó.

      Ả trông thấy đường rãnh mảnh như sợi tóc bờm sư tử. Irina trượt dao găm mảnh ( hữu ích làm sao khi con dao được sử dụng nhiều năm qua!) vào rãnh, và đầu bức tượng xoay theo hướng nghịch với kim đồng hồ cách dễ dàng. Nó để lộ ra khoang bên trong. Irina lại chúc ngược bức tượng, lắc nó. mảnh giấy papyrus rơi ra.





      Nghe lùng nhùng như mớ rau cải vậy. Nhưng những chú thích về các manh mối chưa bao giờ có ý nghĩa gì cho đến khi ta đến được nơi phải đến. Rabat là thành phố ở Ma Rốc. Chắc chắn tất cả ràng hơn khi ả đặt chân tới đó. cách thận trọng, Irina vặn đóng khoang bí mật. Ả nhét mảnh giấy vào túi và cho bức tượng trở lại túi xách.

      Ả lại len lỏi qua dãy bàn ghế và liệng chiếc túi trở lại chân Cotter. “Ta rất ngạc nhiên khi mày dám lừa gạt ta,” ả . “Đấy chẳng phải là ý hay đâu. Đây là bức tượng giả.”

      “Nhưng tôi bảo đảm với bà đó là đồ .”

      “Ha! Chú em nghĩ ta là trẻ sơ sinh hay sao? Chẳng có tiền cho chú mày đâu.” Irina đứng dậy và nhanh.

      Ả thắc mắc biết ở sân bay có chuyến bay nào thẳng đến Ma Rốc . Thành phố cổ Rabat là điểm dừng chân kế tiếp của ả.

      Khi nhảy vào taxi, Irina tự khen ngợi mình. Ả vượt qua được phút giây mủi lòng ngắn ngủi bên trong lăng Nefertari. Ả được cho phép mình yếu đuối thêm lần nào nữa.

      Khi có 39 manh mối, có lẽ ả cố gắng trở nên bác ái hơn. Hay cần như thế, chẳng cần phải cố gắng quá sức làm gì. Có lẽ chỉ... bớt hà khắc hơn. Đến khi đó, ả cho phép bất kỳ xao nhãng nào nữa. Và ả cũng chẳng bao giờđặt chân vào lăng mộ nào khác. Có quá nhiều hồn ma. Có quá nhiều ký ức...

      Mắt Irina lại bắt đầu giật giật.

      “Phi trường Aswan. Và hãy khẩn trương lên!”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 20


      “THÀNH CÔNG RỒI,” DAN . “ là hay, phải ?”


      “Đúng thế,” Amy đáp. Irina bay đến Ma Rốc, chúng cũng vừa chứng kiến Theo và Hilary lên máy bay về lại Cairo.


      “Tại sao hai em lại buồn rầu thế?” Nellie hỏi. “Hai đứa nên ăn mừng chứ. Vì tụi em có kế hoạch tuyệt vời này - mua tờ papyrus cũ, Theo bắt chước chữ viết của Katherine cách hoàn hảo. Chúng ta tìm bức tượng giả hoàn hảo và khoan cái lỗ lên đó. Nhờ vào tài ba của tất cả chúng ta, hai đứa vừa tống kẻ thù nguy hiểm nhất vào chuyến săn ngỗng trời trở lại. Vả lại, chị mới là người nên tủi thân đây. Tim chị tan vỡ.” Nellie huơ chiếc muỗng, rồi lại vục muỗng đầy yogurt và mật ong khác. “Ồ, ngon tuyệt.”


      “Tim chị tan vỡ chừng năm phút rồi đấy,” Amy .


      Nellie nhún vai. “Gì cơ, thế chị phải ngừng ăn ư?” nàng giơ muỗng về phía Amy. “Đừng bao giờ tiếc nuối vì trót tin tưởng ai đó. Điều ấy chứng tỏ em vẫn còn trái tim. Nhưng nếu ta là kẻ lừa lọc... chị cũng phí thời gian để than khóc đâu. Vì chị dư sức ngon cơm để vượt qua chuyện đó.”


      Amy biết Nellie nhắc nó hãy bỏ qua chuyện về Ian. Liệu Amy có thể mượn ít tự tin của Nellie nhỉ? Chưa bao giờ nó thấy mình ngon cơm cả. ngày nào đó nếu may mắn, nó có thể được điểm cao vì quá tệ.


      “Đó là kế hoạch xuất sắc,” Dan . “Chị biết Irina triệu đô.


      “Mụ ta đào đâu ra triệu đô,” Amy đáp. “Mụ chỉ định lừa Theo thôi. Tất cả những gì mụ muốn là manh mối. Và mụ muốn có nó nhiều đến độ chẳng dừng lại mà suy nghĩ vì sao nó lại đến với mình dễ dàng đến thế.”


      “Sai lầm chết người của bọn Lucian,” Dan bình luận. “Bọn họ cho rằng bọn họ quá xuất sắc.”


      Nellie vét hết chỗ yogurt còn lại rồi vươn vai. “Chị đến hồ bơi. Có gợi ý này - thử làm chuyến phiêu lưu xa lộ hôm nay xem sao, nhé?”


      “Em vẫn nghĩ,” Dan khi Nellie mất. “Em nghĩ Grace chuẩn bị mọi thứ cho chúng ta vào chuyến này. Chị còn nhớ khi bà dẫn chúng ta đến New York nghỉ cuối tuần ? Ta vào bảo tàng nghệ thuật Metropolitan và bỏ ra hàng giờ liền xem xét cái cánh của người Ai Cập. Chị còn nhớ đền Dendur[1] ?”


      [1] Đền Dendur, được thống đốc La Mã Petronius xây dựng khi cầm quyền tại Ai Cập vào khoảng năm 15 trước CN để thờ Isis và Osiris cùng hai con trai của thủ lĩnh Nubi là Pediese và Pihor, theo lệnh của hoàng đế Augustus.


      “Đúng rồi!” Amy thốt lên. “Bà kể chúng ta nghe về Đập cao Aswan, về cách nó làm ngập tất cả những đền đài mà người ta phải bảo tồn, như đền Dendur. Nhưng chị chỉ nhớ bấy nhiêu thôi. Nếu bà cho chúng ta manh mối, còn nữa.”


      “Bà mua cho chúng mình bánh quy que nóng,” Dan . “Đó, em nhớ cái đó.”


      Ký ức hồi sinh trong đầu Amy. trong số hàng trăm ký ức bị chôn vùi trong đầu và trong tim nó về bà ngoại. Ăn bánh quy que với mù tạt các bậc thềm của bảo tàng. Khi ấy là mùa thu - nó nhớ những cây cam tuyệt đẹp ở Central Park. Grace vừa trải qua đợt hóa trị. Chúng đều nghĩ bà giải quyết xong căn bệnh ung thư, rằng bà khỏe mạnh và sống đời với chúng.


      Chà. Amy và Dan nghĩ như thế. Vì Grace muốn chúng nghĩ như thế. Càng lâu càng t


      Những gì chúng ta xem ngày hôm nay tuyệt vời, Grace thế. Nhưng đôi khi người ta dành quá nhiều thời gian cho quá khứ. có gì ngày hôm nay ta thấy lại tuyệt bằng món bánh quy này! Bà huơ huơ xiên bánh vào khí và cắn miếng.


      Khi ấy, bà có ý về bánh quy. Giờ Amy hiểu. Ý của bà là về tất cả mọi thứ trong khoảnh khắc ấy. tại ấy. Cả ba bà cháu với nhau, ngồi những bậc thềm ở bảo tàng trong ngày thu hoàn hảo, ăn bánh quy que với mù tạt mua ở gánh hàng rong bên vệ đường.


      Ký ức chỉ của riêng Amy. Ký ức còn thuộc về Dan. Và thằng nhóc cũng nhớ những điều ấy. Những khoảnh khắc ngẫu nhiên chừng như nhặt hóa ra lại rất đỗi lớn lao. Thường những khoảnh khắc ấy lướt qua Amy chỉ vì nó mải lo lắng về những điều ngớ ngẩn như là đón xe buýt. Hay chuyện mù tạt dính vào chiếc váy mới của nó.


      Con bé lấy bức tượng Sakhet ra khỏi túi rồi đặt nó lên bàn.


      “Chúng ta nên làm gì với nó đây?” Amy hỏi Dan. “Chị cảm thấy an toàn khi mang nó theo ở Aswan này. Đến lượt em đó.” Điều con bé muốn : Grace thuộc về cả hai chị em nó chứ chỉ của riêng ai.


      Dan nhìn vào mắt chị nó. Nó hiểu. “Có lẽ là két sắt khách sạn?” nó đáp “Rồi chúng ta gặp Nellie ở hồ bơi và làm cái gì đó mà chị cho là hay ho.”


      “Như là gì nào?”


      Dan toét miệng cười láu lỉnh. “Vui chơi.”


      ***


      “A, Cahill.” Viên quản lý đứng bật dậy chào Amy. Ông ta nhanh đến để bắt tay con bé. “Rất mừng vì cho hay tin. Tôi rất thân với bà ngoại của .”


      ư?”


      vị khách đáng mến nhất trong nhiều năm. Bà ấy đến đây lần đầu vào cuối những năm bốn mươi và lui tới hàng năm trong quãng thời gian chừng hai mươi năm. Chúng tôi vẫn còn lưu các ghi chép của khách sạn, và bà ấy thường xuyên xuất trong đó.”


      “Cháu biết điều này.”


      “Ồ, phải rồi. Chúng tôi có bức ảnh tuyệt vời chụp bà ngoại vẽ sông Nile. muốn xem ?” Ông với tay về phía chiếc bàn. “Tôi tìm nó ngay khi gọi điện.”


      Amy nhìn vào bức ảnh đen trắng. Grace trong đó trẻ hơn, mảnh dẻ hơn, mặc bộ đồ trắng. chiếc khăn choàng được vấn quanh đầu bà. Bà ngồi cạnh giá vẽ đặt đâu đó trong khu vườn, đối diện với con sông. Kế bên bà là người đàn ông lớn tuổi, to khỏe đội nón rơm cũng vẽ cùng cảnh. “Chẳng phải đó là...”


      “Đúng thế, là ngài Winston Churchill, cũng là vị khách quý của chúng tôi. Thủ tướng nước trong Đệ nhị thế chiến, đồng thời là chính khách vĩ đại. Nhưng cũng đồng thời là - có biết nhỉ - họa sĩ. Ông ấy luôn bảo Grace rằng bà cần được ông dạy vẽ cho. Tôi tin rằng bức ảnh được chụp vào những năm 1950.”


      “Cám ơn ông cho cháu xem. Cháu tự hỏi biết ông có nhận giữ đồ trong két sắt giúp ạ?” Amy , chìa ra chiếc hộp bên trong có bức tượng Sakhet.


      “Tất nhiên rồi,” ông quay mở két sắt và đặt bức tượng Sakhet vào trong. “Và bây giờ, tôi xin thứ lỗi cho chuyện.” Ông lấy ra khỏi két sắt thứ gì đó. “Grace gọi điện cho chúng tôi cách đây năm về trước và cầu tôi tìm bức tranh mà bà vẽ và để lại như món quà. Bà ấy muốn mua lại bức tranh đó. Người quản lý trước tôi treo nó trong văn phòng ông nhiều năm trời. Rồi khi có đợt sửa chữa nâng cấp khách sạn, nó bị thất lạc. Nhưng ngay hôm nay, khi tôi tìm bức ảnh này, tôi tìm thấy nó. Giờ tôi xin tặng cho như món quà, với những lời xin lỗi của khách sạn chúng tôi.” Ông đưa nó món đồ được gói ghém cẩn thận.


      Amy ôm nó ngay vào lòng. “Cảm ơn ông.”


      “Em thấy ?” Amy giơ bức tranh cho Dan xem. “Hãy nhớ những gì Grace nhắc trong tấm thiệp. Chớ quên tác phẩm nghệ thuật. Chính là nó đây!”


      Đó là bức vẽ màu nước về sông Nile, và con bé nhận ra ngay phong cách lẫn góc nhìn ưa thích của Grace. Bà vẽ những cây cọ nhọn hoắt, dòng nước màu xanh lá, những đôi chân mảnh dẻ của chim rẽ bụng nâu ở hai bên bờ sông.


      Dan thở dài. “Em có cảm giác mình được bơi cho mà xem.”


      Amy đặt bức vẽ lên giường. Nó bẻ ngược những cây đinh dùng để ghim bức tranh vào khung. Dan quan sát Amy thận trọng lật bức tranh về phía sau và nhấc nó ra khỏi khung. “Có gì đó ổn ở đây.”


      Dan nheo mắt nhìn. Thằng bé cầm bức tranh và giơ nó ra ánh sáng. “Nhìn này. Grace vẽ vào mặt sau bức tranh của ai đó.”


      Amy cúi xuống thấp hơn để xem xét chữ viết nguệch ngoạc ở phía dưới cùng. “Grace vẽ vào mặt sau tranh của Winston Churchill.” Amy cười toe toét. “Chắc hẳn đây là trả thù của bà dành cho ông vì cho rằng Grace cần ông dạy vẽ.”


      “Amy này, đó là trả thù lên Cahill,” Dan . “Hãy nhìn bức tranh của Churchill xem. Chị có thấy ánh sáng mặt trời đều hướng về điểm ? Đó chính là đảo Philae. Chị có thấy đền Isis ? Đó chính là hòn đảo trước khi nó bị ngập nước.”


      “Em phải đó! Churchill hẳn vẽ bức tranh này để gợi ý về manh mối! Chị thắc mắc biết ông ấy thuộc về chi tộc nào trong gia đình.”


      “Em biết, nhưng nếu phải đoán em cá ông ấy là Lucian,” Dan . “Ông ta có thứ tài năng gì đó của nhà quân .”


      “Chị nghĩ bà vẽ chồng lên để giấu điều này,” Amy . Nó lại giơ bức tranh lên. “Chờ . Em có thấy những con sóng mà Grace vẽ ? Em trông chúng giống với cái gì?” Nó chỉ vào những con sóng, đỉnh sóng nhuốm màu cam từ mặt trời lặn.


      Dan ngắm nhìn lúc lâu. “Mũi tên,” nó trả lời. “Chúng là những mũi tên.”


      “Nếu cầm bức tranh lên, em có thể thấy bức vẽ của Churchill về Philae. Những mũi tên chỉ về bức tường kia.”


      “Hình vòng cung!” Dan la lên.


      “Đây chính là bản đồ,” Amy . “Dẫn đến manh mối của Katherine!”


      “Tuyệt vời nhỉ,” Dan bằng giọng thua cuộc. “Manh mối nằm dưới nước. Có lẽ em sắp được bơi rồi đây. Bơi chung với cá sấu. Và những con ký sinh trùng đào rãnh trong da.”


      Amy gõ gõ ngón tay bàn. “Phải có giải pháp,” nó .


      Vừa khi ấy nó phát ra ngăn kéo bàn mở he hé. Con bé nghiêng đầu sang bên và trông thấy vật bằng kim loại nằm bên trong.


      Phòng của chúng bị cài bọ!







      CHƯƠNG 21


      CÁNH CỬA MỞ TOANG. Nellie quẳng chìa khóa của mình lên bàn phấn. “Cái hồ ấy còn ngon lành hơn sinh tố Chai[1]. Chị thấy sảng khoái toàn tập. Cho chị xả vòi sen phát, và chúng ta bàn kế hoạch ăn tối. Chúng ta chỉ còn buổi tối nữa ở Aswan và chị có vài ý tưởng.”


      [1] Chai smoothie là loại sinh tố thập cẩm gồm trà túi lọc, sữa và các loại trái cây như dưa hấu, chuối và số gia vị chẳng hạn như gừng, quế...


      Nellie bước vào phòng tắm. Dan cùng Amy cũng ùa theo nàng và khép cửa lại.


      “ấy nhóc à? Ừm, chị biết chúng ta rất thân thiết, phải nào? Nhưng cái gần gũi này có vẻ là bị hơi quá thân mật đối với chị đấy, hiểu ?” Nellie .


      Amy với tay vặn vòi sen mạnh hết cỡ. “Căn phòng này bị cài bọ,” nó trong tiếng ồn của nước tuôn xối xả.


      “Bọ trong khách sạn á? thể như thế được. Là con gì thế, nhện hay con gì? Bình tĩnh, để chị xử lý cho.”


      phải côn trùng, mà là bọ điện tử,” Dan . “Giống như giám sát bất hợp pháp ấy.”


      “Chúng em muốn chị ra ngoài và yểm trợ chúng em lúc trong khi chúng em tìm xem kẻ nào theo dõi tụi mình,” Amy . “Bất kể đó là ai, kẻ ấy có lẽ cũng ở quanh đây thôi.”


      “Chị chỉ việc liên tục. Chúng em nghĩ rất nhiều về vấn đề này, và hoàn toàn tin là chị có những kỹ năng cần thiết,” Dan bảo.


      “Rất hài hước, Dan à. Nhưng đúng thế. Khi cần liền tù tì chị là vô địch,” Nellie đồng tình.


      Nellie đóng vòi sen và cả ba quay trở về phòng chính. “Cái hồ ấy ngon lành,” nàng bắt đầu, như thể chưa từng bị gián đoạn. “Chị gặp cặp vợ chồng đến từ Scotland, và chị thấy, úi chà chà, cả hai người mang theo món cá hồi xông khói ngon tuyệt cú mèo từ quốc gia bá chấy của họ...”


      Amy thận trọng kéo cửa sổ lên, gây ra tiếng động nào. Nó và Dan lặng lẽ trèo ra ngoài.


      “... và bọn họ cùng , ‘Aye, iem, đúng ròi đó, bít về hộp cá điệp của tụi tui, gỏi!’” Nellie bằng giọng Scotland tệ khủng khiếp. “Và thế là chị , ‘Hai người có biết tụi nam nữ choai choai khoái món gì ở Scotland ? Bánh mì vòng! Tuyệt vời đấy!’ ‘Úi chà,’ họ đáp, ‘ iem, iem nghiêm túc chớ, đếy thiệt là ý dất đọc đáo...’” Với tràng tiếng Scotland của Nellie vù vù trong tai, hai chị em chúng vội vã lủi mất.


      Chúng con đường uốn cong, dưới những tán cọ, qua những khu vườn, rồi làm vòng trở lại cổng khách sạn.


      “Em cá rằng ở sảnh,” Dan . “Thiết bị này có bộ phát sóng dây, do đó chúng ta cần phải kiểm tra tai của tất cả mọi người.”


      “Và bằng cách nào?”


      “Hãy là chúng ta dự hội nghị Bông Ngoáy tai của hãng Q-tip, nhỉ?”


      Cả hai chầm chậm vào trong. Sảnh đông nghẹt du khách nghỉ ngơi, trốn khỏi cái nóng gay gắt đầu giờ chiều.


      Dan và Amy đứng lại gần chiếc cột và quan sát họ. Thoạt tiên khó mà nhìn ra ai đó giữa đám đông này. Du khách đứng ngồi, trò chuyện, đọc sách và tạp chí, chuyền báo cho nhau, tất cả nghỉ chân trước khi tiếp tục tham quan loạt đền đài kế tiếp.


      Dan hất cằm về phía người ngồi quay lưng về phía chúng. Đấy là gã bị thịt đội mũ rộng vành kiểu cao bồi, giơ tờ báo lên trước mặt. Cái cổ nung núc thịt bị cháy nắng đỏ lựng. “Năm phút rồi ta giở trang báo nào. Và có gì đó đặt trong tai. Xem nào.”


      “Nhưng chị nhận ra ...”


      “Em cá đó là Eisenhower Holt ngụy trang.”


      Amy theo. Dan sải bước nhanh đến bên người đàn ông và giật tờ báo ra khỏi mặt người đó. “Ông bị phát !”


      “Vậy cậu nghĩ mình làm gì thế, thưa quý ngài?” Người đàn ông quát ầm lên bằng giọng .


      Dan nhanh chóng đưa tờ báo lại cho ông ta. “A, ông bị phát đội cái mũ đẹp nhất trong phòng!” nó đáp. “Ông bảnh!”


      Amy lôi Dan chỗ khác. “Khi em tấn công cái gã ấy, mọi người trong sảnh đều nhìn lên,” nó thầm. “Ngoại trừ


      Người đàn ông ngồi trong góc phòng, tờ báo mở ra trước mặt. Ông ta mặc bộ vest màu kem vani. Phía đôi giày rất hợp mốt, Dan liếc thấy đôi tất màu hồng tươi.


      “Chính là lão ta,” Dan khẳng định. “Chỉ có duy nhất tay mà chúng ta biết có thể sử dụng trò giám sát công nghệ cao và cũng biết cách ăn diện.”


      Nó vừa đùa câu ngớ ngẩn, nhưng chỉ để khỏa lấp điên khùng mà nó cảm thấy được ngay khi phát ra ông chú của nó. Alistair Oh là thành viên trong dòng họ Cahill duy nhất kết bạn với chúng. Ít nhất đó là điều chúng nghĩ. Chắc chắn, bọn họ cũng lừa lọc nhau đôi ba lần, nhưng rốt cuộc họ cũng hợp tác với nhau. Alistair hơn lần cứu mạng chúng. Nhưng rồi hóa ra lão ta cũng như tất cả những thành viên Cahill khác - cốt đạt được mục đích của mình và sẵn lòng phản thùng bất kỳ ai ngáng đường lão.


      Dan hiên ngang tiến đến và giật lấy mớ báo, xé nó ngay trước mặt Alistair. “Ngạc nhiên chưa!?”


      Alistair ngẩng đầu lên nhìn chúng với vẻ ngái ngủ. “Xin chào, các cậu bé.”


      “Xin chào ngài, lão già chuyên lẩn tránh,” Dan .


      “Có lẽ sắp sửa có lời giải thích để...”


      “Có lẽ sắp sửa có cú giáng vào đầu,” Dan .


      Amy thêm vài bước để tới chỗ chiếc điện thoại bàn. Nó bấm số phòng.


      Khi Nellie nhấc máy, Amy , “Ôkê, chị ngưng được rồi.”


      “Trùi, tin tót đóa,” Nellie . “ nàng này sắp sửa xỉu rồi.”


      Amy gác máy và quay trở lại chỗ Alistair. Dan đối mặt với ông chú, hai tay khoanh trước ng


      “Ta thấy mọi thứ có vẻ tệ đây,” Alistair .


      “Chị có nghe thấy ?” Dan hỏi Amy. “Người chết chuyện kìa.”


      “Tuyệt ,” Amy . “Nhưng có phải em về kẻ chết chuyên môn dối, lừa lọc, hai mang ?”


      “Ta có nguyên cớ riêng cho những gì làm!” Alistair kêu lên. “ an toàn của ta phụ thuộc vào việc ta bị chết. Nếu làm thế được việc. Hai đứa có thấy , liên minh giữa hai chúng ta mạnh hơn bao giờ hết.”


      “Hai đứa này có đồng minh nào cả,” Dan . “Vì ông dối.”


      lừa dối nhoi nhưng cần thiết. Hãy nghĩ xem. Giờ đây ta có thể hoạt động ngầm. Hai đứa đồng minh hoàn toàn kín tiếng. Bọn Kabra nghĩ ta chết. Chẳng mấy chốc tin tức lan đến tất cả mọi thành viên dòng họ Cahill.”


      “Chú của ông cho rằng ông vẫn còn sống.”


      “Thế à?” Alistair ho cái. “Lão ta nghĩ thế cũng có nguyên do của mình. Nhưng lão ta báo cho mọi người đâu. Bọn ta vẫn là Ekat, bất kể chúng ta nghĩ về nhau thế nào.”


      “Vậy tại sao ông lại cài bọ vào phòng tụi này chứ?” Dan vặn hỏi.


      “Ta biết hai đứa chuyện với lão ta khi ở Cairo. Ta muốn biết liệu hai đứa có làm đồng minh với lão . bao giờ được tin tưởng lão.”


      “Và tụi này phải tiếp tục tin ông ư?” Amy gặng hỏi.


      “Ông cài bọ theo dõi hai đứa này, và nếu như tình cờ có thông tin gì về manh mối có thể giúp ông đánh bại chúng nó , chà, cũng xem như là phần thưởng thêm, đúng ?” Dan hỏi đầy vẻ mỉa


      , phải mục đích ấy,” Alistair . “Nhưng riêng việc giúp hai đứa, ta sẵn sàng. Chúng ta có thể hợp tác với nhau.”


      “Chúng tôi phải tin ông bây giờ hay sao?” Amy gặng hỏi. “Chúng tôi tin tưởng ông, Alistair ạ. Nhưng ông bỏ rơi chúng tôi.”


      Alistair thở dài. Lão cúi xuống quan sát hai mắt cá màu hồng của mình. “Ta lấy làm tiếc là cả hai còn tin tưởng ta,” lão . Alistair ngẩng đầu lên và bắt gặp ánh mắt của chúng. Cái nhìn màu nâu ấm áp của lão trông rất thành khẩn. “Nhưng ta thể nào tiếc nuối việc làm. Ta làm thế cũng có lý do chính đáng. Cho liên minh giữa chúng ta.”


      “Ông vẫn cứ dùng hai chữ ấy,” Dan . “Bộ ông hiểu sao? Chúng tôi tin những kẻ lừa đảo!”


      “Hai đứa phải hiểu điều,” Alistair . “Đây chỉ mới là khởi đầu của cuộc truy tìm 39 manh mối. luôn có phản bội có hại và vô hại. luôn có đổi trắng thay đen. luôn có những chiến thắng nhưng biến chúng ta thành cát bụi. Những gì hai đứa phải làm giản đơn thôi. Bất kể mọi thứ trông thế nào nữa, cả hai vẫn phải tiếp tục. Tiếp tục bằng cách nào? Bằng cách tin theo con tim mình mách bảo. Nếu tin ta ở bên phe hai đứa, cứ việc bỏ . Nhưng nếu hai đứa tin chúng ta có thể tìm được manh mối này hãy ở lại đây.”


      Chúng ta phải làm gì đây? Dan tự hỏi. Nó vẫn còn rất giận Alistair. Chúng vẫn còn rất lao đao bởi lần phản bội mới đây của Theo và Hilary. Có lẽ Amy đúng - chúng thể tin tưởng được ai. Nhất là Alistair.


      Trừ phi chúng ở đường cùng, và cần đến lão.


      “Ta có cách để tìm ra manh mối,” Alistair với chúng.


      Dan lắc đầu. “ có cách nào.”


      Alistair mỉm cười. “Ta là Ekat mà. C


      ***


      Alistair dùng gậy dạt đám lau sậy ra để mở đường. Bùn ướt hết gấu chiếc quần màu kem của Alistair, nó được đặt may riêng tại Hong Kong bởi thợ may rất giỏi. Đôi khi hy sinh là cần thiết để theo đuổi mục tiêu đáng giá.


      Lão thuê chiếc taxi để chở cả bọn đến phía Nam thành phố, rồi để chiếc xe khi họ đến ngôi làng người Nubi[2]. Alistair đưa ra những túi kẹo và bút viết để xua đám trẻ trong làng nằn nì vòi baksheesh. Giờ chỉ còn lại bọn họ, con đường đất dẫn ra sông càng lúc càng um tùm cỏ dại.


      [2] dân tộc thiểu số sống ở Nam Ai Cập.


      Thiết bị giám sát có lẽ chẳng phải là ý kiến sáng suốt nhất của Alistair. Lẽ ra lão nên gõ cửa và chuyện trực tiếp với chúng. Nhưng lão thể chắc được chúng có chưa gì với Bae hay .


      Lão phải bảo đảm rằng chúng bán đứng mình.


      Đó là vấn đề với tất cả thành viên dòng họ Cahill - ai biết thế nào là tin tưởng. Dĩ nhiên với lý do ràng. Alistair phản bội và bị phản bội quá nhiều.


      Lão muốn thoát khỏi cái cung cách của dòng họ Cahill. Lão cố thử với Dan và Amy. Nhưng khi trông thấy cơ hội để bỏ trốn, giả vờ mình chết... lão bỏ rơi chúng.


      Đôi khi hy sinh là cần thiết để theo đuổi mục tiêu đáng giá.


      Alistair tự nhắc nhở bản thân.


      Nhưng có khác biệt giữa những chiếc quần và lũ trẻ.


      Điều buồn đó chính là lão thấy bản thân mình trong chúng. Thời thơ ấu của lão bị hy sinh để truy lùng cácChú của Alistair khiến cho chuyện ấy xảy ra. Ông ta dùng tài năng của Alistair, bóc lột nó. Lừa dối đứa cháu. Phải thực những điều thể ra để theo đuổi mục tiêu dành cho ông ta. Và giờ chú của Alistair gần kề cái chết và thậm chí còn liều lĩnh hơn.


      Và Alistair cũng liều lĩnh hơn. Liều lĩnh muốn chiến thắng. Vì 39 manh mối thể rơi vào tay của Bae Oh. Mặc dù lão ta vẫn là người chi Ekat.


      Điều gì xảy ra với Dan và Amy? Cuộc tranh đua này mang lại cho chúng điều gì? Grace để lại gì cho chúng? Lẽ ra bà ấy nên bảo bọc chúng hơn nữa, Alistair ngẫm nghĩ cùng nỗi buồn dâng trào. Chẳng lẽ các manh mối cũng khiến bà ấy xấu xa nốt?


      Phải chăng đến lúc lão cần bảo vệ chúng?


      Trong tình huống ấy, tất cả đều gặp rắc rối. Alistair làm hết sức mình, nhưng lão nào phải hùng.


      Alistair có thể thấy được qua bộ mặt của Dan rằng thằng bé vẫn chưa tin mình. Alistair thấy có gì đó lạ lẫm chạm vào tim. Tình thương. cảm xúc lão bỏ lại sau lưng rất nhiều năm về trước khi bắt đầu tập trung cho việc săn lùng manh mối.


      Bọn họ băng qua bụi rậm ra đến con sông. Alistair quẳng cây gậy và dùng tay dạt đám lau sậy ra. “Hãy nhìn đây,” lão giọng trìu mến. “Tàu ngầm Ekat.”


      Dan và Amy nhìn vào đám sậy. chiếc tàu hình bong bóng đứng hai chân trông như cặp chân vịt quá khổ. Bong bóng làm bằng nhựa nhuộm màu xanh lá. Có chân vịt đầu.


      “Ông đùa phải ?” Dan ngạc nhiên. “Ông mua thứ này ở Target[3] sao?”


      [3] trang web bán hàng trực tuyến của Mỹ.


      “Chính tay ta thiết kế đấy,” Alistair vỗ vỗ vào cỗ má color="black">

      Amy trông căng thẳng. “Có cửa thoát hiểm nào ạ?”


      “Chúng ta cần cửa thoát hiểm. Đó là thiết kế hoàn hảo. Hai đứa có bản đồ chứ?”


      Amy gật đầu, chỉ vào túi đeo hông.


      “Đây là cách duy nhất,” Alistair tiếp. “Philae ngay ở ngoài kia chờ chúng ta.” Lão chỉ vào dòng nước xanh. “Và chúng ta cũng còn nhiều ánh sáng ban ngày.”


      “Dan?” Amy hỏi nó.


      Dan nhìn ra dòng nước. Alistair trông thấy thằng nhóc tính toán cơ may của nó, rồi gạt chúng . Nó thực việc này.


      Đấy là phẩm chất tốt hay là mối nguy hiểm?


      Tuy nhiên, trái tim Alistair vẫn thấy vui khi Dan gật đầu. “Ta hãy tìm manh mối nào.”







      CHƯƠNG 22


      CHIẾC TÀU NGẦM lao thẳng xuống dưới, nước khép lại bên họ. Cả ba lướt xuống dưới sâu nhờ vào hệ thống định vị tối tân (Alistair bảo đảm với chúng như thế). Họ bị ép về phía trước trong gian hẹp, nhìn qua làn nước màu xanh lá, chờ đến khi trông thấy hòn đảo xuất . Khi chiếc tàu lặn xuống sâu hơn, dòng nước càng u ám, tối tăm và nhiều bùn hơn.


      “Hy vọng ta sớm tìm thấy nó,” Alistair . “Chúng ta muốn hết ôxy.”


      “Hết ôxy?” Dan hỏi lại. “Cháu nghĩ ông vừa là cái này hoàn hảo mà.”


      “Phải, thiết kế hoàn hảo. Nhưng nhất thiết bộ tuần hoàn khí cũng hoàn hảo. Ta chưa có thời gian để hoàn thiện nó.” Alistair đẩy mạnh bộ điều khiển để lái cho con tàu đúng hướng.


      “Cám ơn cho hai đứa cháu biết!”


      “Giờ Dan, chớ có chộn rộn quá. Như thế xài hết quá nhiều ôxy đấy.”


      “Chúng cháu cố thở,” Amy làu bàu.


      “Ta lường trước được những dòng chảy này,” Alistair giọng lo lắng.


      “Chà, đó chẳng phải là tin tốt lành gì,” Dan .


      Chiếc tàu ngầm thình lình đụng phải dòng chảy và bị bật xoay ngang.


      “Ái chà,” Alistair , cố gắng điều khiển con tàu. “Trước kia ở đây từng là ghềnh, và thác nước, trước khi có con đập, và ta đoán rằng... chúng vẫn còn nguyên, chỉ là nằm dưới mặt nước thôi.”


      “Ngay trước mặt kìa!” Dan kêu to. “Em thấy rồi!”


      Hòn đảo thình lình ra phía sau làn nước đục ngầu, những loài cây thủy sinh mọc rậm rì và tàn tích còn lại của những bức tường cổ xưa. Khi Alistair điều khiển chiếc tàu ngầm đến gần hơn, hai đứa cố hết sức để dò bức vẽ của Grace với những gì chúng nhìn thấy. Alistair bật đèn pha để thắp sáng gian xung quanh.


      “Kia rồi,” Alistair reo lên. “Hai đứa có thấy chỗ nhô lên đó ? Và bức tường kia nữa kìa? Đó chính là đền Isis! Hai đứa có thấy điểm nào khác với bản đồ của Grace ?”


      Amy soi đèn pin ngược từ dưới tờ giấy để nó xem được bức vẽ của Churchill lẫn mũi tên của Grace. “Hãy xem bức tường lệch kìa? Và có ba tảng đá lớn. tảng đá có đường xẻ ở giữa.”


      “Ông đến gần hơn được nữa ?” Dan hỏi Alistair.


      Chiếc tàu chao đảo khi đến gần hơn. “Rất khó giữ nó... đúng hướng...,” Alistair đáp, cố gắng giữ vững tay lái. Thình lình, nó rồ về phía trước khi bị luồng nước tai quái hất , va vào bức tường. Amy há miệng ra vì sợ hãi.


      “Ổn rồi, chúng ta vẫn ổn,” Alistair trấn an chúng lúc kiểm tra đèn định vị. Có bóng đèn bắt đầu nhấp nháy màu vàng. “Ta cho là thế.”


      “Có gì đó được khắc vào đá!” Dan thình lình reo lên. “Hãy đến gần hơn !”


      Bọn họ nhìn xuyên qua bùn lầy khi tàu ngầm đưa họ nhảy chồm về phía trước trong rối loạn. Chiếc tàu thình lình loạng choạng đổ về phía trước như quả bóng lăn, hất Amy sang bên. Mặt con bé dán vào thành bong bóng, ngay vị trí bức tường cổ.


      Nó có thể nhìn ra ngay hai chữ cái.


      KC


      “Katherine Cahill!” Amy hét lên.


      “Em nghĩ ký tự tiếp theo là các con số,” Dan . “Hãy đến gần hơn nữa!”


      “Chị thấy rồi!” Amy reo lên.


      Alistair điều khiển chiếc tàu gần hơn nữa. Lá hình lược của cây dương xỉ bị dòng nước cuốn uốn éo hình lượn sóng trước mũi tàu, và họ phải chờ đến khi tầm nhìn thoáng hơn. Ánh sáng chiếu vào bức tường.


      1/2 gm M


      “Là ½ gam!” Dan .


      “Vậy còn M và M là gì?” Amy hỏi.


      “Đúng rồi, là M&M[1] đó, nhưng em thích kẹo Skittles hơn,” Dan , mắt nhìn chăm chăm vào bức tường.


      [1] Câu hỏi của Amy làm Dan liên tưởng đến Sôcôla M&M.


      nhát cắt bén ngót hòn đá sau chữ M lớn. “Trông như chữ M lớn che chữ cái khác,” Amy . “Chắc chắn phải có thêm chữ khác. Chúng ta đọc được!”


      “Chắc chắn điều này xảy ra khi bọn họ di dời ngôi đền,” Dan .


      vệt mồ hôi chảy xuống khuôn mặt Alistair. “,” lão . “Chữ M là Madrigal. Bọn họ làm điều đó.”


      Như thể bị bàn tay vô hình đẩy , chiếc tàu ngầm thình lình lắc từ bên này sang bên kia đáng sợ. Amy và Dan ghì chặt mép ghế trong lúc Alistair cố sức điều khiển tàu. Bất chợt đèn đỏ bắt đầu nhấp nháy bàn điều khiển.


      “Chúng ta bị tràn nước,” Alistair báo động. “Chắc chắn con tàu bị rò rỉ. Nếu nó quá nặng ...”


      sao?” Amy hoảng hốt hỏi.


      “Chúng ta thể nổi lên.”


      Alistair kéo cần điều khiển mạnh. “Chắc hẳn nước vào trong hệ thống điện. Ta lạc bánh lái rồi!”


      Luồng nước nâng chiếc tàu ngầm như cây que bé và hất nó thẳng vào bức tường.


      “Làm gì đó chứ!” Dan thét lên.


      “Ta cố!”


      Nỗi sợ hãi dán chặt Amy vào ghế. Ngay vào giờ phút cuối cùng, luồng nước cuốn chiếc tàu ra khỏi bức tường.


      “Chúng ta làm gì đây?” Amy cố giữ để sợ hãi thể qua giọng của mình. Bị kẹt dưới vùng nước sâu trong lòng hồ, và ai biết bọn họ ở đâu...


      Như thể thế lực độc ác của những Madrigal giáng vào bọn họ từ xa và dẫn họ đến


      Alistair nhìn máy đo mực nước. Mặt lão tái . “Chúng ta chìm.”


      Amy giữ chặt hai thành ghế. Chầm chậm, chiếc tàu chìm xuống đáy. Nó đập xuống cát và nghiêng sang bên. Mọi thứ trở nên yên ắng.


      Có phải mọi thứ kết thúc, với yên lặng đáng sợ này hay ?


      “Chúng ta còn bao nhiêu khí?” Amy hỏi Alistair.


      Alistair nhìn máy đo. “Khó lắm.”


      Con bé nhìn thẳng vào lão. “Ông .”


      Alistair nuốt khan. “Có lẽ chừng mười lăm phút.”


      Tất cả im lặng hồi lâu. Rồi Dan lắc đầu. “,” nó cương quyết. “ đời nào. Em bỏ cuộc. Chúng ta phải ra khỏi đây.”


      Alistair nhấn vào vài nút bấm. “Ta rất tiếc... còn tí điện nào. Chúng ta thể làm gì được nữa.”


      “Hãy nhìn lên xem,” Dan thúc giục. “Hãy xem đáy tàu rơi xuống đâu? Ta có thể nhìn được luồng nước. Nó nhanh kinh khủng đấy. Nếu ta đón được nó...”


      Phía trước mặt, Amy trông thấy gợn nước, màu xanh lá, như con kênh cắt xuyên qua bùn. “Chị thấy rồi,” con bé . “Nhưng làm sao chúng ta đến được đó?”


      bộ,” Dan xoay sang Amy. “Chị nhớ ? đất liền em thắng cuộc thi chạy...”


      “Chạy bong bóng!” Amy chợt nhớ ra. “Hãy thử nào!”


      Alistair bối rối quan sát hai đứa ném mình về phía trước trong chiếc tàu hình bong bóng. Nó bắt đầu lăn chầm chậm về phía trước. Chúng tiếp tục, và nó lại lăn, thêm vài centimet.


      “Ta hiểu rồi!” Alistair bật dậy và tham gia cùng với chúng


      Nhích từng centimet trong đau đớn, trơn trượt và va đập vào nhau, cả ba cũng di chuyển được quả bóng lăn tròn đáy hồ, mỗi lúc gần hơn và gần hơn nữa với luồng nước.


      “Chỉ... còn... ... thước... nữa thôi,” Dan , mặt nó nhễ nhại mồ hôi.


      Họ cố gắng với toàn bộ sức lực. Chiếc tàu nảy khỏi chỗ nó rơi xuống, chạm vào luồng nước và bắn thẳng về phía trước.


      Giờ họ rơi vào luồng nước chảy xiết, nảy lên với vận tốc rất nhanh.


      “Yeeeeee!” Dan hò reo khi bọn họ vọt theo luồng nước.


      Mọi người bám chặt trong lúc con tàu nảy tưng tưng và xoay tít mù, hoàn toàn phó thác cho dòng nước cuốn . Amy va đầu vào nóc tàu. Alistair níu chặt lấy ghế.


      “Nó đưa chúng ta đến chỗ nước nông hơn!” Dan reo lên.


      Họ như thấy được đáy sông dâng lên đón mình. Với tiếng vút bất ngờ, cả ba bật va vào nền đất và bắn vọt lên mặt nước. Nước lõng bõng quanh giày của họ, nhưng cái vật đó vẫn nổi lên được.


      Alistair nhoài người bật cửa thoát hiểm. “Ta có cặp mái chèo,” lão vẻ ngượng ngùng.


      “Tuyệt vời,” Dan nhận xét khi họ bập bềnh dòng sông. “ bong bóng màu xanh lá chèo dọc sông Nile. Như thế này chẳng nên để cho ai biết tí nào.”


      ***


      May mắn giống như kẹo ngày Halloween, Dan ngẫm nghĩ. Chắc chắn rồi, ta định bụng có thời gian chén thỏa thuê kẹo sôcôla Milky Way, nhưng trước khi nếm được nó ta còn phải nạy cái hộp hình quả bí đỏ bằng nhựa ra, và thứ duy nhất sót lại trong đó chỉ là mẩu kẹo bắp tua tủa lông tơ.


      Rồi ta cắn phát, và nó lấy của ta mất cái răng.


      chiếc bóng đổ dài bên ngoài khách sạn Old Cataract khi chúng chào tạm biệt Alistair. Thất bại khắc hằn bộ mặt của cả ba. Họ suýt chết, nhưng vẫn chưa tìm thấy manh mối. Nó mất vĩnh viễn, bị bọn Madrigal cướp mất.


      Alistair cúi chào. “Ta xin lỗi vì suýt khiến hai đứa chết đuối,” lão . “Grace chắc hẳn tức giận lắm. Ta có thể nghe tiếng bà ấy , Alistair, đó là những rủi ro được lường trước, thế mà rồi vẫn có tự tin thái quá.”


      “Ông đâu tiếp theo?” Dan hỏi lão.


      “Trước tiên, về nhà, vào thư phòng của ta,” Alistair . “Khi ta đến ngõ cụt tìm hiểu thêm đôi khi có thể ra đáp án.”


      Amy cũng cảm thấy như thế, nhưng trong tình hình này, nó chẳng biết tìm kiếm ở đâu. Amy thất bại. Con bé chỉ biết rằng nó quá mệt mỏi để tiến về phía trước.


      “Đêm nay ta bay tới Cairo để nối chuyến về Seoul,” lão . “Ta cho cả hai số di động mới. Hãy ghi nhớ chúng - nhưng chớ có viết ra.”


      Lão lấy ra mẩu giấy . Dan liếc cái rồi xé nó.


      “Có chắc là cháu nhớ chứ?”


      Dan tặng lão cái nhìn ông chú giỡn cháu hả.


      Alistair lặng lẽ cười. “Ta với cả hai điều này - hai đứa đều sở hữu tài năng có hai. Thoạt tiên, ta ngỡ hai đứa hoàn toàn thua kém mọi người. Ta mới sai lầm làm sao. Nếu cả hai cần tìm nơi để trú tại Cairo, cứ việc sử dụng thẻ của ta ở khách sạn Excelsior. Ta vừa nhận được tin ông chú ta trở lại Seoul. Cả hai an toàn trong hay hai đêm.”


      “Còn những Ekat khác sao ạ?” Amy hỏi.


      “Ôi đừng lo - chẳng ai đến đó đâu. Ai cũng phát chán việc Bae cứ ê a với họ rằng lão ấy thiên tài ra sao mới có thể thực được cái căn cứ ấy và những người khác ngu ngốc như thế nào do đó thể nhận ra điều này. Nên hai đứa có thể gọi đó là cuộc tẩy chay. Vả lại, mọi người đều thích Tam giác quỷ Bermuda hơn - căn cứ ở


      Dan nuốt nước bọt đánh ực. Nó thích khám phá trọn ý tưởng về Tam giác quỷ Bermuda đó, nhưng khuôn mặt Amy cho thấy con bé hiểu được ánh nhìn của Dan, như thể chị nó lên kế hoạch xong xuôi cho bước tiếp theo rồi. Như thường lệ, thằng nhóc lại đánh hụt mất tiêu những điều hay ho.


      Amy gật đầu. “Ý hay đó.” Nó lên tiếng. “Chúng cháu cần chỗ để lập kế hoạch cho bước kế tiếp.”


      “Ta nhận được tin nhà Holt hoạt động đâu đó gần St. Petersburg,” Alistair tiếp. “Đó là chọn lựa, mặc dù khả năng nhà Holt làm gì đó khôn ngoan là rất thấp.”


      “Cảm ơn ông cho hay,” Dan . “Cháu nghĩ chúng cháu bỏ qua nó.”


      “Đó có thể là lựa chọn sáng suốt,” Alistair . “Cơ may tìm thấy manh mối còn nguyên vẹn được Cahill tổ tông để lại... xem nào, đấy là giấc mơ, có phải ? Giờ chúng ta biết có nửa gram của... cái gì đó chờ chúng ta khám phá.” Lão chào khẽ cả hai thêm lần nữa. “Hẹn gặp lại hai đứa.”


      Dan và Amy chầm chậm trở lại phòng khách sạn, buồn nản đến độ lên lời.


      “Chị biết phải làm gì nữa,” rốt cuộc Amy cũng thốt lên. “Ta suýt chết ở dưới đó! Làm sao bà lại dẫn dắt chúng ta như thế chứ?”


      “Bà chẳng biết được rằng bọn Madrigal cắt ngang hòn đá,” Dan .


      “Cứ cho là thế ,” Amy . “Mà sao bà lại nghĩ rằng chúng ta có thể xuống được nước sâu chừng ấy chứ?”


      Dan nắm chặt cánh tay Amy. “Chờ nào. Có thể bà biết. Chị có nhớ chị từng rằng Grace cố gắng lấy lại bức tranh ? Có lẽ bà muốn chúng ta tìm thấy nó. Có lẽ đó là manh mối cũ. Bà vẽ bức tranh trước khi họ xây con đập thứ hai.”


      “Có lẽ em đúng,” Am vừa vừa mở cửa. “Có lẽ đó là lý do vì sao chị chẳng nhớ đến bất kỳ ghi chú nào trong quyển sách viết về Aswan. Bởi vì chẳng hề có. Grace bảo chúng ta theo bước chân của bà, nhưng chính chúng ta người tìm ra manh mối thần Isis. Rồi Hilary bảo chúng ta đến đây. Có lẽ chỉ vì bà ấy lên kế hoạch muốn cướp bức tượng Sakhet mà thôi.”


      Dan lấy tấm thiệp của Grace ra đọc lại. “Chúng ta bỏ lỡ cái gì đó rồi.”


      Amy cúi người qua vai nó. Rồi con bé đặt ngón tay vào câu trong tấm thiệp. “Nhìn này, Dan.”


      Giá như bà được bằng nửa grandmother của các con mà lẽ ra bà nên thế.


      Từ nửa được gạch dưới. Và chữ ‘g’ trong grandmother đậm hơn những chữ khác trong từ này.


      nửa gram,” Dan rên lên thất vọng. “Nó ở ngay khúc này thôi. Chúng ta chẳng cần phải đến đây làm gì. Nhưng ta vẫn còn câu hỏi quan trọng nhất. Nửa gram của cái gì?”


      “Bực bội quá ! Chúng ta chỉ còn cách bà có bước nữa thôi.”


      “Lúc nào chả thế chứ.” Dan cau có. “Nếu chúng ta nên đến Aswan, em cho rằng chúng ta nên quay lại Cairo.”


      “Thu dọn hành lý nào,” Amy đồng tình.


      Cả hai bắt đầu ném đồ đạc vào giỏ xách và balô. Dan nhặt chân đế mạ vàng của bức tượng Sakhet lên. “Bỏ hay giữ lại?”


      “Bỏ,” Amy . “Thứ đó vô dụng.”


      Dan quẳng chân đế vào giỏ rác. Nó bay vèo và đáp xuống trong tư thế lộn ngược. “Này, Amy, đến đây.”


      Amy thở dài và bước tới. “Rác trong thùng rác. Nhìn nó chị thấy chóng cả mặt.”


      “Nhìn vào cái nhãn này xem. Kho báu Ai Cập. Món này đến từ cửa hiệu ở Cairo. Đây là tên và địa chỉ. Nó nằm ở Citadel, bất kể nơi ấy là ở đâ


      “Vậy là? Bà Grace mua bức tượng ở đó.”


      “Tại sao Grace lại mua tấm chân đế cho bức tượng Sakhet? Để che giấu nó, Hilary vậy. Nhưng nó lại nằm trong két sắt tới 30 năm để làm gì chứ?”


      “Thông điệp của Grace!” Amy reo lên. “Kết thúc với những điều cơ bản, bà viết như thế. Có phải ý bà muốn đến thứ này ?”


      “Đó là manh mối duy nhất của chúng ta,” Dan . “Ta phải theo chân bà - quay lại Cairo nào.”







      CHƯƠNG 23


      “CITADEL TRƯỚC KIA ĐƯỢC DÙNG ĐỂ PHÒNG THỦ.” Amy đọc to quyển cẩm nang mới. “ nay nơi đây có nhiều di tích thiêng liêng. Nó cũng cho ta những cảnh quan đẹp nhất trong thành phố.”


      “Nó cũng có cả đống đường sá chẳng có tên hiệu gì,” Dan đảo mắt nhìn quanh. “Làm cách nào để chúng ta có thể tìm được cửa hiệu này?”


      “Chắc chắn là cực kỳ nhọc công,” Amy vừa trả lời vừa xem bản đồ.


      Tụi nó qua những con đường và ngõ hẻm ngoằn ngoèo ở Citadel chừng hai mươi phút. Cuối cùng, chúng đến hẻm bản đồ. Hầu hết các bảng hiệu đều bằng tiếng Ả Rập. Các địa chỉ được đánh số thứ tự.


      “Đừng quan tâm xem chúng ta tìm thấy nó ra sao, mà bà Grace tìm nó như thế nào nhỉ?” Dan thắc mắc.


      Amy dừng chân trước cánh cửa hẹp trông cũng như tất cả những cánh cửa khác. Cửa sổ mờ tối. Nó khép lại. “Chính là đây.”


      “Chị chắc


      “Chắc. Nhìn xem.”






      Trí nhớ hình ảnh của Dan được kích hoạt. “Cái này hệt như tấm thiệp của Grace. Kho báu, Ai Cập, và Chào mừng đều ở trong cùng hàng từ xuống.”


      Amy chộp lấy tay nó. “Bà dẫn ta đến đây, Dan à. Chính là nó!”


      Con bé đẩy cửa và tiếng chuông lanh canh vang lên. Cửa hiệu dài và hẹp, các kệ tủ đựng đầy đồ gốm và hàng mỹ nghệ làm từ kim loại. Thảm trải sàn nhà. Ở phía sau, nó thấy người đàn ông ngồi tại quầy và đọc sách. ta ngẩng lên nhìn con bé trong chốc.


      “Chào mừng đến xem hàng.” ta rồi lại nhìn xuống quyển sách.


      Lạ . Chưa nơi nào ở Ai Cập này con bé bắt gặp chủ cửa hiệu tỏ ra hào hứng bán món gì đó, sáp lại gần, đưa ra giá hời và mời khách những tách trà.


      “Xin lỗi chú?” Dan bước đến. “Chú từng bán món này phải ạ?” Nó đặt tấm chân đế bức tượng lên bàn.


      ta cầm nó lên. Đó là người Ai Cập còn trẻ tuổi, điển trai, mặc áo thun trắng tinh và khăn rằn quấn quanh cổ cho dù thời tiết oi bức. ta liếc nhanh tấm chân đế. “Khó lắm,” trả lời. “Trông như thứ chúng tôi vẫn dùng để trưng bày hàng lưu niệm. Tôi có thể chỉ cho hai người số thứ tương tự.”


      “Tụi cháu muốn mua cái khác,” Amy . “Tụi cháu muốn biết liệu chú có nhớ nó hay .”


      “Tôi rất tiếc.” Lần đầu tiên ta nhìn nó, và chắc hẳn nhận ra được thất vọng của con bé. “Tôi cháu hỏi gì?”


      “Chú còn nhớ từng gặp người phụ nữ tên là Grace Cahill ?”


      Người đàn ông lắc đầu. “Tôi biết ai có tên ấy cả.”


      Amy và Dan nhìn nhau. Ngay bây giờ hoặc chẳng bao giờ nữa.


      lẽ nào đó Grace dẫn chúng đến nơi này. Dan lôi bức tượng Sakhet ra khỏi balô. Amy đưa nó cho người chủ. “Chú từng thấy món này chưa?”


      Dan trông thấy thừa nhận trong mắt người bán hàng, nhưng ta nhanh chóng lắc đầu. “Chưa.”


      “Chúng cháu là cháu của Grace Cahill,” Dan . “Chúng cháu tin rằng bà dẫn hai chị em cháu đến đây.”


      nhìn cả hai hồi lâu. Cái nhìn của dò xét và có phần chân thành. Đoạn cúi người về phía trước. “Chiếc dây chuyền đẹp đấy, .”


      “Cám ơn.”


      “Ba mươi năm về trước, chiếc móc của nó bị gãy. Xin phép cho tôi xem nhé?” Những ngón tay vươn ra và nhàng chạm vào móc dây chuyền.


      “Cha tôi là người sửa nó. Rất mừng khi thấy nó vẫn còn nguyên vẹn.”


      “Vậy chú biết bà cháu?”


      “Hãy bỏ quá cho chần chừ của tôi. Ai cũng cần phải thận trọng. Tên tôi là Sami Kamel. Hãy gọi tôi là Sami.”


      “Cháu là Amy, còn đây là Dan.”


      “Vậy là cuối cùng cả hai cũng đến.” rời ghế ở quầy và đến bên cánh cửa, lật bảng hiệu sang chữ ĐÓNG CỬA.


      “Xin mời. Nếu hai cháu muốn theo tôi.” khẽ cúi đầu chào, rồi dịch chuyển tấm màn, sau đó biến vào trong.


      Amy và Dan theo ta vào căn phòng , ấm cúng. ra hiệu cả hai ngồi xuống và rót cho chúng trà bạc hà vào hai cái tách sứ mỏng tang.


      “Bà của cháu có quen với cha tôi,” kể. “Và cha của cha tôi. Ông nội tôi từng là người nổi tiếng... thế nào nhỉ... lường gạt nổi tiếng.”


      Amy và Dan khẽ bật cười, kinh ngạc.


      “Nhưng ông ấy là người tốt,” Sami tiếp tục kể kèm theo nụ cười. “Là người làm giả đồ cổ. Ông từng giúp bà của hai cháu hồi cuối những năm bốn mươi, nhưng chẳng bao giờ ông ấy kể đó là chuyện gì. Khi cha tôi tiếp quản công việc năm 1952, ông ấy thuyết phục cha tôi chấm dứt phần, ừm, phần bất hợp pháp của việc kinh doanh. Chúng tôi bán ít đồ tốt, ít chất lượng cao, ít rẻ tiền, nhưng khách hàng luôn có thứ họ muốn. Bà của hai cháu ghé cửa hiệu mỗi khi đến thăm Ai Cập. Bà ấy là bạn rất thân của cả ông tôi và cha tôi.”


      Amy nhấp ngụm trà. “Chú , ‘Vậy là cuối cùng cả hai cũng đến’.”


      “Bà ấy bảo với cha tôi rằng cả hai đến. Ông giữ giùm thứ cho bà được ít lâu rồi. Bà ấy mang nó đến trong lần cuối tới Cairo. Và giờ đây, tôi đưa nó cho cả hai.”


      xoay ghế và với đến kệ sách ở sau lưng, gạt cần điều khiển giấu trong khung gỗ và các quyển sách xoay tròn. rút ra bàn cờ bằng gỗ cũ kỹ và đặt nó lên bàn dùng trà. “Đây.”


      “Bà để lại cho chúng tôi bàn cờ đam ư?” Dan thắc mắc.


      Sami mỉm cười. “ phải cờ đam. Mà là Senet. Đó là trò chơi của người Ai Cập cổ đại. Có số bộ cờ được tìm thấy trong các lăng mộ, nhưng lại có luật chơi nào còn tồn tại được đến ngày nay. Bàn cờ này cổ đến mức đó, nhưng nó rất đẹp. Được khảm xà cừ và gỗ chạm khắc. Chúng tôi cho rằng trước đây nó từng chứa những quân cờ giá trị, có lẽ làm bằng vàng, bởi có chiếc chìa khóa để khóa ngăn kéo này, nơi giữ những quân cờ.”


      “Ngăn kéo ư?” Amy nhoài người ra nhưng ta giơ tay lên.


      “Khoan . Bà của hai cháu cầu cha tôi làm cái khóa khác cho ngăn kéo. Cả hai có thấy những chái đây ? Ông dùng thứ mà người Trung Hoa gọi là khóa chữ. Chỉ mở được bằng mật khẩu. Cả hai phải đặt các chữ cái vào đúng thứ tự.”


      “Chúng cháu có mật khẩu,” Dan . “Nếu chúng cháu thử vài cái...”


      “Cả hai chỉ có duy nhất cơ hội,” Sami . “Điều đó để bảo đảm rằng các cháu đúng là cháu của Grace. Nếu cả hai làm được, ngăn kéo cũng mở ra. Hai người có thể đập vỡ bàn cờ, nhưng có hai vấn đề ở đây. Thứ nhất, nó cũng tiêu hủy thứ ở bên trong. Thứ hai, tôi cũng cho phép cả hai làm như thế. Đó là mệnh lệnh của tôi.” ta cười, nhưng tụi nó thấy được kiên quyết đằng sau nụ cười đó.


      Dan và Amy nhìn nhau, kinh ngạc. Chúng biết phải thử như thế nào nữa.


      “Cha tôi kể rằng Grace chắc chắn cả hai biết.”


      “Bà có... điều gì mà qua đó biết đâu có thể gợi ý cho chúng cháu ạ?” Amy hỏi Sami.


      “Rất tiếc. Tất cả chỉ có thế.”


      ta lui lại ít để tạo riêng tư cho hai đứa. Amy đưa tay lên vò đầu bứt trán.


      “Chị biết,” nó lầm bầm. “Có thể có quá nhiều thứ để xem xét.”


      “Người ta thường dùng gì để làm mật khẩu nào?” Dan hỏi. “Tên lót? Nơi sinh? Màu thích của Grace - xanh lá cây. Hay món kem ưa thích của bà...”


      “Kem quả hồ trăn.”


      “Món ăn ưa thích...”


      “Sushi. Nơi thích...”


      “Sconset vào tháng Tám, Paris vào Giáng sinh, New York vào mùa thu, và bất cứ thời điểm nào ở Boston.” Dan liệt kê ra.


      Cả hai thuộc lòng những điều Grace ưa thích. Amy bất giác vỡ lẽ, với tụi nó, những điều này chỉ là những từ ngữ thông thường. Đó là những kỷ niệm.


      Rồi Amy chợt nhận ra điều gì đó. Cho đến nay, ký ức nối tiếp ký ức lấp vào khoảng trống mà Grace từng diện. Ngồi những bậc thềm ở viện bảo tàng, huơ huơ lên trung những chiếc bánh quy que nóng hổi. Làm món bánh sôcôla. Rúc rích cười bên trong thư viện, lắng nghe Grace kể chuyện bên ngọn lửa cháy rực. Nhảy ào vào làn nước biển lạnh ngắt. Chạy con đường ở Boston trong màn mưa.


      “Chị sai,” nó , nghiêng người về phía Dan. “Chị quá sai lầm. Chị tin vào ký ức của mình. Grace chuẩn bị cho chúng ta tham gia cuộc đua tranh này, nhưng phải bằng thứ uy quyền méo mó nào đó. Mà bà chuẩn bị cho chúng ta bằng chính tình thương của bà. Bà biết trong đó chứa đựng điều gì. Và bà biết chúng ta thể thoát khỏi chuyện đó. Có nguyên nhân Grace muốn chúng ta tham gia cuộc truy tìm manh mối này. Nhưng ta vẫn chưa biết nó là gì. Song vẫn phải tin tưởng nơi bà. Ý chị muốn là, phải tin vào Grace. Đừng nên suy diễn về bà. Chúng ta phải tiếp tục tin vào Grace.”


      khó mà nổi giận với Grace khi em nhớ bà nhiều đến thế,” Dan .


      “Khi bà mất, chúng ta cũng nổi điên lên. Chỉ điên thôi. Nhưng giận được bà.”


      Bất chợt, Dan mỉm cười. Có gì đó hình thành nơi chị em chúng, hòa hợp như kết quả cuối cùng của trò chơi ghép hình. Amy cảm thấy ý hợp tâm đầu đầy mãn nguyện.


      Dan gật đầu. “Được rồi. Quay trở lại với bài toán. Bà biết chúng ta vượt qua mọi thứ mà ta có thể hình dung ra. Đấy thể là phỏng đoán, mà là điều hoàn toàn hiển nhiên.” Dan lại quanh căn phòng, cố tập trung suy nghĩ. tấm chân dung lớn treo phía chiếc bàn, và đôi mắt ấy dường như theo dõi nó. Đó là bức vẽ người đàn ông có râu dài bạc phơ và cặp mắt với ánh nhìn sắc nhọn.


      “Đó là bạn của chú phải ạ?” nó hỏi Sami.


      hẳn. Đó là Salah ad-Din. nhà lãnh đạo Hồi giáo nổi tiếng xây dựng Citadel từ năm 1176. Người Mỹ các cháu gọi ông ấy là...”


      Amy và Dan cùng đồng thanh reo lên: “Saladin[1]!


      [1] Saladin là Sultan của Ai Cập và Syria, chiến binh quả cảm, trọng công bằng và danh dự trong thế kỷ 11. Ông là người đẩy lùi quân Thập tự chinh ra khỏi đất Ả Rập, cuối cùng buộc phương Tây phải ký Hiệp ước hòa bình năm 1192.


      “Chính xác.”


      Amy dịch bàn cờ lại gần hơn. Con bé ngẩng nhìn Dan. Nó gật đầu.


      Amy di chuyển các chữ cái trong ổ khóa, lần lượt từng chữ .






      Cả hai ngạc nhiên khi cái nắp bật lên.


      “Thấy chưa?” Sami mỉm cười. “Cả hai biết về bà mình hơn là các cháu tưởng đấy.”


      Amy nhìn Dan. “Vâng,” con bé khẽ. “Đúng thế ạ.”


      Sami hơi cúi đầu làm động tác chào. “Tôi để cả hai khám phá xem bà các cháu để lại thứ gì.”


      Hai đứa chờ đến khi tấm màn đóng lại. Amy trượt mở ngăn kéo. Nó lấy ra bản vẽ miếng đệm bằng vải lanh.






      “Trông giống như minh họa loài thực vật,” Amy .


      “Có gì đó được viết bằng bút chì này,” Dan .


      mat 2.11


      “Trông giống như miếng vải đệm nhỉ?” Amy


      “Tất cả những gì ta phải làm,” Dan , “là tìm ra chiếc lá này thuộc về loại thực vật nào, thế là ta có được manh mối.”


      quá khó đâu,” Amy bảo.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 24


      “TẤT CẢ LÀ LỖI CỦA CHỊ ĐÓ,” Dan với Amy khi chúng về khách sạn Excelsior. “Chẳng lẽ chị biết rằng chị bao giờ, đời nào được có thứ gì đó dễ dàng cả?”


      Amy vùi đầu vào hai bàn tay mình. “Chị biết.”


      “Thử rau ngò xem nào,” Nellie gợi ý. nàng khom người cho con Saladin miếng hummus nữa. Họ cầu phục vụ mang món đó lên chỉ để cảm ơn con mèo vì trở thành mật khẩu tuyệt vời như thế.


      Dan ngồi khom lưng bên chiếc laptop của nó. Thằng nhóc tìm thấy từ điển hình ảnh trực tuyến mô tả thực vật, nhưng xem ra việc dò lá cây của loài thực vật nào đó quả khó hơn chúng nghĩ. Và cũng vô ích khi Nellie cứ tung ra tên của những loài thực vật cách ngẫu nhiên như thể nàng làm món thịt hầm vậy.


      “Trong đó có bao nhiêu mục từ?” Amy hỏi nó.


      “Khỉ gió, em biết. Hàng ngàn ấy chứ.”


      “Và từ lúc chúng ta ở đây đến giờ em dò được bao nhiêu mục rồi?”


      Dan nhìn vào danh sách nó thu thập. “Ba mươi bảy. ! Ba mươi tám. Em quên rau ngò.”


      Amy than thở. “Ta ở đây được hai mươi phút. Phải mất cả đêm


      “Và ngày mai nữa,” Nellie . “Thử me xem nào!”


      Dan click chuột. “ nốt,” nó trả lời đầy vẻ thất vọng.


      Amy bật dậy. Con bé lao đến sau lưng Dan. “Dù sao đây chỉ là ý thôi,” nó gợi ý. “Ý chị là, chúng ta ở Ai Cập. Ta nên thử kiếm các loại thực vật Ai Cập. Katherine chẳng thể dẫn cháu chắt của bà đến đây để tìm món rau ngò, phải nào?”


      “Thử cây keo xem,” Nellie gợi ý tiếp.


      “Hay hummus, hay baba ghanoush, hay bạc hà, hay cọ.” Dan xoay tròn ghế, vung vẩy hai cánh tay. “Đầu em quá tải mất rồi.”


      “Nơi này có thể tốt cho em đấy,” Nellie đồng ý. “Chỉ trong vài ngày mà chúng ta trải qua quá nhiều thứ. Những ngôi đền, lăng tẩm, di tích cổ. Hoàng hôn tuyệt diệu, tác phẩm nghệ thuật lộng lẫy...”


      “Chắc chắn rồi, nhưng chị bỏ ra khúc thú vị nhất,” Dan . “Cá sấu, lời nguyền của pharaoh, dụng cụ rút não, những bộ phận cơ thể trong bình ướp xác - có gì để thích nào?”


      “Chị thích ngắm nhìn những bức ảnh cũ của Grace,” Amy . “Em có nhớ bức ảnh vui tính bà chụp ở đền Hatshepsut ? Đôi khi chị cũng quên mất là bà từng tếu như thế nào.”


      “Bánh quy que và mù tạt,” Dan . “Chị nhớ chứ? Bà từng , Hãy chú ý! Mọi thứ đều có ích!”


      Dan trân trọng những thứ bé, giống hệt như Grace, Amy tự nhủ. Nó nhớ cái ngày chúng lần đầu đặt chân đến căn phòng cao cấp này. Thằng bé chạy khắp những căn phòng, hào hứng gọi tên từng đồ vật cứ như thể nó chưa từng thấy chúng trước đây. Gối! Kinh Thánh! Áo choàng! Dầu gội!


      “Người ta bảo chị trông giống Grace,” Amy với nó. “Nhưng em mới là người giống bà


      Dan nhún vai rồi quay trở lại với chiếc máy tính. Amy thấy vành tai nó đỏ ửng lên, dấu hiệu cho thấy con bé làm nó vui. Amy có thể Chị xin lỗi. Nó có thể Em đúng. Chị muốn giữ kỷ niệm về Grace cho riêng mình. Nhưng con bé biết mình như vậy là đủ.


      “Mọi thứ đều có ích,” Amy lẩm nhẩm. Nó nhìn vào hình ảnh tấm thiệp của Grace, ba nhà Thông thái đến mang quà cho Chúa Hài Đồng, phốp pháp hơn và vương giả hơn bất kỳ hài nhi nào mà Amy từng được ngắm.


      Bất giác, những từ ngữ và hình ảnh bỗng trở thành bức tranh được tổng hợp lại trong đầu Amy.


      Nhà thông thái. Nữ hoàng Hatshepsut. Xứ Punt.


      Từ thời Tân Vương quốc, nữ hoàng phải mua sắm Giáng sinh.


      Cơ hồ như bị mê sảng, Amy mở ngăn kéo ở bên hông giường. Con bé lấy ra quyển Kinh Thánh mà Dan tìm thấy và lật nhanh đến những trang viết về Thánh Matthew, chương hai, dòng mười .


      “Dan ơi?” con bé gọi nó bằng giọng hơi run rẩy. “Hãy dò cây myrrh xem. M-Y-R-R-H,” con bé đánh vần, lao đến đứng ngay sau lưng nó. Nellie cũng vội vã chạy đến.


      Dan gõ cái tên ấy vào công cụ tìm kiếm. Chiếc lá ra màn hình.






      “Đúng là nó rồi!” Dan reo lên. “Giờ hãy giải thích xem làm thế nào mà chị tìm ra.”


      “Chớ quên tác phẩm nghệ thuật. Chúng ta cứ tưởng đó là bức tranh của bà, nhưng sau đó hiểu ra rằng Grace chẳng để lại thứ đó như manh mối. Chúng ta quên nghĩ xem ý của bà là gì.” Amy giơ tấm thiệp lên. “Bà về chính tấm thiệp này đây.


      “Em vẫn chưa hiểu.”


      “Nó liên quan đến nữ hoàng Hatshepsut.”


      “Nữ hoàng Hatshepsut ư?” Nellie hỏi với vẻ bối rối. “Nhưng bà ấy sống hàng ngàn năm trước khi có Giáng sinh.”


      “Hatshepsut đến vùng đất của Punt và mang cây myrrh về. Grace tạo dáng trước bức phù điêu ấy. Và trong quyển cẩm nang bà đùa về nữ hoàng phải mua sắm Giáng sinh đúng nào? Grace dẫn chúng ta quay lại với thứ này.” Amy giơ tấm thiệp lên. “Ba nhà Thông thái. Họ mang...”


      “Quà đến cho Chúa Hài Đồng,” Nellie đáp.


      Amy cầm quyển Kinh thánh lên. “Thánh Matthew, chương hai, câu thơ thứ mười . Mat 2:11 là chú giải, chứ phải là giá bán của tấm vải lót quanh bức vẽ. Nghe này.” Amy đọc to đoạn thơ lên: “Rồi khi họ bày của báu ra, dâng lên cho ngài những đồ lễ vật; là vàng, nhũ hương và myrrh.’”


      Dan gật đầu. “Và Grace cố tình viết sai chữ “thấm”. Grace là người cực giỏi về văn phạm - ta nên nhớ điều này. Chúng ta chơi ô chữ với bà mỗi dịp cuối tuần trong nhiều năm. Myrrh là loại chất nhựa[1]! Nửa gram myrrh. Đấy chính là manh mối!”


      [1] Chữ resinate (thấm nhựa) có liên quan tới chữ resin ( dạng chất nhựa).


      Mắt Amy sáng rỡ. “Và Grace theo chúng ta mọi nẻo đường. Bà bỏ rơi chúng ta đâu Dan ạ. Bà giúp khi chúng ta cần. Và điều này cũng hệt như chính bà vậy. xuất khi ta mong chờ giúp đỡ, mà chỉ khi ta ít đặt hy vọng vào đó nhất. Bà mất. Bà vẫn còn với chúng ta.”


      Dan quay lưng về phía con bé. Nhưng Amy biết bởi vì mắt nó đầy nước. Mắt con bé cũng ầng ậng nước. Amy cảm thấy như thể tay của Grace đặt vai mình, xoa nó và bảo rằng, giỏi lắm, Amy ạ.


      Grace quay lại với chúng. Chúng chẳng bao giờ để mất bà nữa.


      Thình lình, họ nghe tiếng động ở phòng kế bên. tiếng đập mạnh.


      “Nó phát ra từ căn cứ,” Dan với giọng khẽ.


      “Ta có nên nhìn ?” Amy hỏi.


      “Có lẽ đó là Alistair,” Nellie .


      Cả ba rón rén đến chỗ cánh cửa nối với căn phòng kế bên. Chúng áp tai vào cửa.


      “Em chẳng nghe thấy gì,” Amy thầm.


      “Em nghĩ ta nên kiểm tra thử xem,” Dan đề nghị.


      Nó lấy chiếc dù ra khỏi tủ quần áo, vặn tay cầm ra và nhét nó vào ổ khóa.


      Nắm cửa di chuyển.


      Nó mở của he hé chừng vài centimet và đưa mắt nhìn qua khe cửa.


      “Em thấy gì?” Amy thào.


      “Những thứ rất tuyệt,” Dan . “Ở sàn.”


      Nó đẩy cửa ra. Căn cứ bị tấn công. Những tủ kính trưng bày bị đập hết, các bức tranh bị ném bừa bãi, các ô ván bị quẳng tứ tung. Cả ba thận trọng bước vào trong, né các mảnh kính vỡ.


      Các bức tượng Sakhet biến mất, chân đế hoàn toàn trống trơn.


      “Ai làm điều này


      Nellie cúi xuống để nhặt lên cái gì đó. miếng vải đen, có lẽ bị xé từ góc của tủ trưng bày vỡ.


      Amy nhìn mẫu hoa văn được dệt tấm vải. Nó nhận ra hoa văn ấy là chữ cái lặp lặp lại. Chữ M.


      Nỗi sợ hãi thắt nghẹt tim Amy. “Bọn Madrigal,” Amy thào.


      HẾT

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :