39 Manh Mối - tập 1: Mê Cung Xương - Rick Riordan[Bestselling series][Giả Tưởng]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 9

      DAN TỪNG KHẲNG ĐỊNH là những vụ nổ đều hay ho, nhưng chẳng hay ho gì nếu chính chúng ta dính vào trong số đó.

      Suốt dọc đường đến Dinh Độc Lập, Amy ôm chặt lấy chiếc lồng đựng con Saladin cứ như đó là thứ cứu sống mình. Nellie mắng chúng té tát vì quá bất cẩn. Thính giác của Dan cứ ong ong đến nỗi những gì nó nghe thấy giống như Nellie chuyện với nó từ đáy cái hồ cá cảnh.

      “Chị thể tin nổi!” Nellie . “ quả bom thứ thiệt sao? Chị cứ nghĩ mấy đứa chơi thôi!”

      Amy quệt nước mắt. “Bọn Starling... bọn nó vừa...”

      “Có thể chúng sao đâu,” Dan , nhưng ngay với chính nó điều đó nghe cũng gượng gạo. Cả hai ở lại cho đến khi cảnh sát tới. Chúng sợ phát khiếp chỉ còn biết bỏ chạy thục mạng, do đó Dan hoàn toàn rõ điều gì xảy đến với bộ ba kia. Nó nghĩ rằng việc tìm thấy điện thoại của Sinead rơi bên cạnh cả đống ngói đổ nát là dấu hiệu tốt.

      Nellie bẻ tay lái và bọn chúng rẽ sang Phố Thứ Sáu. “Hai đứa, đây là chuyện hoàn toàn nghiêm túc. Có ai đó muốn giết hai đứa. Chị thể trông nom hai đứa nếu như...”

      “Au pair, tụi em,” Dan sửa lưng.

      “...Sao cũng được!”

      nàng dừng xe lại ngay trước Dinh Độc Lập. Mặt trời lặn dần và trong ánh chiều chạng vạng, nơi đây trông hệt như trong các cuộn băng video ở trường học - tòa nhà hai tầng bằng gạch có tháp đồng hồ lớn màu trắng, bao quanh là cây cối và những luống hoa. bức tượng của ông nào đó từ thời Độc lập án ngữ ngay phía trước. Dinh thự trông ấn tượng nếu đem so với những tòa nhà đại xung quanh, thế nhưng trở lại thời xa xưa, Dan đoán hẳn nơi đây là tòa nhà to lớn nhất thị trấn. Nó còn có thể hình dung ra Franklin và những ằng hữu của ông đầu trùm những bộ tóc giả rắc đầy phấn và những chiếc mũ ba chỏm, tụ tập ngay trước mấy bậc thềm để bàn về Tuyên ngôn độc lập, hay Hiến pháp Mỹ, hay biết đâu là đề nghị mới nhất của Ben đối với việc nghiên cứu tiếng rắm. Cả cảnh tượng này khiến Dan nghĩ về những bài kiểm tra lịch sử nước Mỹ, tất cả đều đáng sợ tựa như những viện bảo tàng phát nổ.

      “Nghe này, mấy đứa.” Nellie bảo. “Hợp đồng chấm dứt. Bất kể các nhóc vớ phải thứ gì chăng nữa - như thế này là quá nguy hiểm đối với hai đứa trẻ. Chị phải mang cả hai về lại với bà dì thôi.”

      !” Dan . “Nellie, được đâu mà. Bà ...”

      Nó tự động ngưng lại, thế nhưng cặp mắt ánh xanh lấp lánh của Nellie nhíu lại tò mò. “Bà ấy cái gì nào?”

      Dan liếc sang Amy cầu cứu, nhưng con bé vẫn còn bị sốc, cứ nhìn chăm chăm ra cửa sổ.

      có gì hết,” Dan . “Nellie, điều này là rất quan trọng. mà. Làm ơn chờ hai đứa em .”

      Nellie cáu tiết. “Chị còn, coi nào, sáu bài hát trong playlist, okay? Nếu như hai đứa quay trở lại xe sau sáu bài và sẵn sàng giải thích mọi thứ cho chị cách thành , chị gọi cho bà Beatrice.”

      “Nhất định!” Dan hứa. Nó cố gắng đẩy Amy ra khỏi xe, nhưng chắc hẳn con bé vẫn còn bị sốc, bởi nó cứ khư khư ôm chiếc lồng chứa con Saladin.

      “Chị làm cái gì vậy?” Dan hỏi Amy. “Hãy bỏ nó ở đây .”

      được.” Amy dò dẫm phủ tấm mền lên chiếc lồng. “Chúng ta phải mang nó theo.”

      Dan biết tại sao như vậy, nhưng nó quyết định cãi lại. Cả hai vội vã dọc vỉa hè. Khi bước được nửa bước lên các bậc thềm Dinh Độc Lập, Dan bất chợt nhận ra nơi này đóng cửa vào ban đêm. “Làm thế nào chúng ta lẻn vào được bên trong

      “Này các con!” Có tiếng gọi. “Lại đây!”

      William McIntyre đứng tựa người vào tòa nhà, thấp thoáng đằng sau bụi hồng. Amy chạy ào đến và ôm chầm vị luật sư cao tuổi, dường như việc này khiến ông thấy mắc cỡ. tay trái của ông có miếng băng và đường cắt bên dưới mắt phải, nhưng ngoài hai thứ đó ra trông ông vẫn còn khá ngon lành đối với người vừa xuất viện.

      “Ta rất vui khi thấy hai đứa đều an toàn,” Ông . “Ta nghe tin về việc xảy ra ở Viện Franklin và đồ rằng cả hai đều có mặt ở đó, đúng ?”

      khủng khiếp,” Amy đáp. Con bé kể lại tất cả mọi thứ - từ thư viện bí mật bên dưới gia trang của Grace cho đến gã mặc áo đen trong bảo tàng, đến bộ ba Starling vừa bị đùng-đoàng.

      Ông McIntyre chau mày. “Ta gọi cho bệnh viện đại học Jefferson. Bọn trẻ Starling vẫn còn sống, nhưng trong tình trạng được tốt. Chúng hồi phục sau vài tháng, coi như bị loại vĩnh viễn khỏi cuộc chơi, ta e là thế.”

      “Chính là gã mặc áo đen,” Dan . “Gã gài cái bẫy đó với tụi con.”

      Ông McIntyre nheo mắt lại. Ông tháo cặp kính ra và dùng cà vạt lau nó, chiếc mũi ông tạo thành cái bóng đổ xuống bên mặt. “Vụ nổ này... từ những mô tả của hai đứa, ta dám đó là thiết bị kích hoạt kíp nổ bằng thanh. Rất tinh vi, được tạo ra chỉ để làm choáng và tổn thương cục bộ thôi. Có ai đó biết điều bọn chúng thực .”

      “Làm sao ông biết được như vậy về thuốc nổ chứ?” Dan tò mò.

      Người đàn ông chăm chú nhìn nó, và Dan bất chợt có cảm giác người này phải lúc nào cũng là luật sư. Ông ấy trải qua nhiều thứ trong cuộc đời mình - những điều nguy hiểm. “Dan, con phải cẩn thận. Vụ nổ này suýt nữa có thể khiến cho cả hai bị loại khỏi cuộc chơi. Ta hy vọng mình tránh khỏi cuộc thi này. Người ta được biết ta thiên vị cho bất kỳ nhóm nào. Thế nhưng gia trang của bà hai đứa bị thiêu rụi... à, ta nhận thấy tình thế hiểm nguy đến mức nào khi cho hai đứa vào cuộc.”

      “Vì thế nên ông gửi cho tụi con đèn đọc sách bằng tia cực tím sao?”

      Ông McIntyre gật đầu. “Ta rất quan tâm đến việc những đội kia nhắm tầm ngắm về hai đứa. Bọn chúng quyết tâm khử cả hai khỏi cuộc đua này.”

      “Nhưng chúng thất bại!” Dan . “Hai đứa con có đầu mối thứ hai. ai khác có hết, đúng nào?”

      “Dan à, cái con tìm thấy chỉ mới là dẫn dắt đến đầu mối thứ hai mà thôi. Chớ phạm sai lầm, đó là dẫn dắt tồi, và ta rất vui khi biết chiếc đèn kia hữu ích với hai đứa. Nhưng nó hoàn toàn phải là dẫn dắt duy nhất. Hoặc giả, nếu đoán chắc rằng các con có những thông tin hữu ích, bọn họ bám theo, cũng giống như nhà Starling vừa cố làm, chỉ cốt để moi thông tin từ hai đứa thôi.”

      Dan muốn đá vào tường cái. Mỗi khi chúng có cơ hội lại có điều gì hay xảy đến hoặc hóa ra chúng cũng chẳng gần với đầu mối kế tiếp như là nó vẫn tưởng. “Vậy làm sao tụi con biết mình tìm được đầu mối thứ hai ? Nó có treo tấm bảng lớn đó đề là - ĐẦU MỐI THỨ HAI hay ?”

      “Rồi con biết,” Ông McIntyre đáp. “Nó ... hệ trọng hơn. phần cốt yếu trong cả câu đố.”

      “Tuyệt vời nhỉ,” Dan làu bàu. “Mọi thứ thế là .”

      “Nếu Nellie đúng sao?” Giọng của Amy lạc . “Nếu như điều này là quá nguy hiểm cho những đứa trẻ?”

      “Đừng như vậy chứ!” Dan thét lên.

      Amy quay sang nó. Mắt con bé làm nó liên tưởng đến kính vỡ. Nó mang ánh nhìn lấp lánh, có vẻ gì đó mong manh. “Dan à, chúng ta suýt chết. Bọn Starling trong bệnh viện, và chỉ mới là ngày thứ hai của cuộc thi tài. Làm sao chúng ta cứ như thế này mãi được?”
      Cổ họng nó khô ran. Amy có lý. Nhưng liệu cả hai có thể cứ thế mà bỏ cuộc hay ? Nó mường tượng cảnh về lại với Beatrice và xin lỗi bà. Nó có thể đòi lại cả bộ sưu tập của mình, học trở lại, có cuộc sống bình thường, có cảnh cứ vài giờ lần người ta cố giăng bẫy lửa hay làm cho nó nổ tung.
      Ông McIntyre hẳn thấy được những gì nó nghĩ trong đầu, bởi khuôn mặt ông tái . “Các con ạ, đâu. Các con phải nghĩ về điều này đâu.”

      “Tụi con - chỉ là những đứa nhóc,” Amy lắp bắp. “Ông thể trông mong hai đứa con...”

      “Con ơi, trễ rồi!” Trong thoáng, giọng ông McIntyre nghe có vẻ như thực hoảng hốt... khiếp sợ chúng quay trở về. Dan hiểu vì sao như vậy. Rồi người đàn ông hít hơi sâu. Dường như ông tự trấn an mình. “Các con, các conkhông thể quay trở lại. Bà dì Beatrice bực bội vô cùng khi hai đứa biến mất. Bà ấy nghĩ đến việc thuê thám tử truy tìm cả hai.”

      “Bà ấy đâu có quan tâm tới hai đứa chúng con!” Dan .

      “Có thể như thế , cho đến khi bà ấy chính thức trao hai đứa lại cho dịch vụ xã hội, bằng bà ấy phải gặp chuyện với bên pháp luật nếu có điều gì xảy đến với hai đứa. Nếu quay trở lại Boston, hai đứa bị gửi đến nhà nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Cả hai thậm chí còn được ở cùng với nhau. có cách nào quay trở lại cuộc sống cũ nữa đâu.”

      “Ông cũng thể giúp chúng con sao?” Amy hỏi. “Ý con muốn là, ông là luật sư kia mà?”

      “Ta giúp rất nhiều rồi đấy thôi. Tất cả những gì ta giúp được chính là thi thoảng cho các con hay tin.”

      Tai của Dan dỏng lên. “Chẳng hạn như tin gì ạ?”

      Ông McIntyre hạ giọng. “ trong những đối thủ, Jonah Wizard, chuẩn bị chuyến ra nước ngoài. Ta e rằng hai con sớm gặp nó thôi. Jonah và cha nó đặt phòng hạng nhất tại New York vào sáng nay.”

      “Bọn họ đến đâu?” Dan hỏi.

      “Nếu nghĩ về thông tin có trong tay, ta cho rằng cả hai biết họ đâu.”

      “Phải rồi,” Amy kêu lên. “Con biết. Và tụi con đến đó trước.”

      Dan chả biết Amy gì, nhưng nó vui khi thấy bà chị mình tức giận trở lại. Lúc Amy mít ướt chẳng vui vẻ gì khi làm phiền chị nó.

      Ông McIntyre thở phào nhõm. “Vậy cả hai tiếp tục. lùi bước chứ?”

      Amy nhìn Dan và cả hai ngầm trao nhau đồng thuận.

      “Bây giờ chúng ta tiếp,” Amy lên tiếng. “Nhưng mà ông McIntyre này, tại sao ông chỉ thực giúp tụi con. Ông đâu có giúp mấy đội kia, đúng ?”

      Vị luật sư già chần chừ. “Trong Viện Franklin, con con cảnh báo bọn Starling rằng chúng gặp nguy hiểm?”

      “Tất nhiên rồi,” Amy .

      “Bọn chúng làm điều tương tự với hai con đâu.”

      “Có thể như vậy, nhưng dường như đó là điều con phải làm.”

      “Thú vị ...” Ông liếc về phía con đường. “Ta thể gì thêm nữa. Bây giờ ta phải...”

      “Khoan ,” Amy khẩn khoản. “Chỉ việc này nữa thôi.” Amy mở chiếc lồng đựng con Saladin và ngay lập tức Dan hiểu vì sao con bé mang nó theo.

      “Amy, được!”

      húng ta phải làm như thế,” Amy với nó, “ an toàn cho nó đâu.”

      Cậu nhóc muốn phản đối nhưng có cái gì đó ngăn nó lại. Nó nghĩ tới cảnh lê lết kéo con mèo tội nghiệp ra khỏi lỗ thông gió trong đám cháy vừa rồi, rồi bắt nó phải ngồi trong chiếc lồng suốt hành trình chuyến tàu chật chội bên trong chiếc lồng. ra sao nếu con Saladin bị kẹt với chúng trong vụ nổ ở bảo tàng? Nếu cái chàng bé này bị thương Dan bao giờ tha thứ cho bản thân.

      “Có phải đó là con mèo của bà Grace?” Ông McIntyre cau mày. “Làm thế nào mà hai đứa...”

      “Nó thoát khỏi đám cháy với tụi con,” Amy . “Hai đứa con hy vọng giữ được nó, nhưng mà... tụi con thể mang nó theo được. Dắt nó theo hay chút nào. Ông có thể giữ nó được ?”

      “Meo.” Saladin ném cho Dan cái nhìn kiểu như Cậu thể nghiêm túc được hay sao.

      Ông McIntyre cũng có điệu bộ gần hệt như vậy. “Ta biết đâu các con ạ. Ta phải là à, ừ người biết nuôi thú. Ta từng nuôi con chó tên là Oliver, nhưng mà...”

      “Làm ơn ông,” Amy nài nỉ. “Đó là con mèo của bà con. Con muốn nó phải được an toàn.”

      Vị luật sư trông như thể muốn bỏ chạy, nhưng ông hít hơi sâu. “Thôi được. Chỉ thời gian ngắn thôi.”

      “Cám ơn ông!” Amy trao chiếc lồng cho McIntyre. “Nó chỉ ăn cá tươi. Món nó thích là cá hồng.”

      Ông McIntyre chớp chớp mắt. “Cá hồng à? Ừ thôi được,... ta biết mình làm gì.”

      “Meo, Saladin đáp lễ, dường như muốn đại loại như thể tin là cậu có thể bỏ tôi lại cho ông già chẳng biết là tôi thích món cá hồng nữa.

      “Mấy đứa à, các con phải thôi,” McIntyre . “ nàng giữ trẻ mất kiên nhn rồi. Hãy nhớ điều ta . Chớ có tin ai!”

      Và sau câu đó, William McIntyre rảo bước xuống đường, tay cầm cái lồng đựng con Saladin ở bên hông như chiếc hộp chứa chất phóng xạ.

      ***

      Khi trở lại xe, Amy bảo, “Chúng ta đến Paris.”

      Dan mải nghĩ về con Saladin, và tai nó vẫn còn lùng bùng tiếng nổ ở viện bảo tàng, do đó nó cũng chắc mình nghe đúng hay . “Chị vừa là Paris... như là ở Pháp đó hả?”

      Amy rút điện thoại của Sinead Starling ra. Tấm ảnh chụp bức thư của Benjamin Franklin vẫn còn màn hình - thông điệp bí mật là vết nhòe màu vàng trong ánh sáng tím.

      “Thời điểm đó, Franklin rất cao tuổi,” Amy kể, “Ông vẫn được chọn làm đại sứ của Mỹ sang Pháp. Ông thực hiệp ước hòa bình để kết thúc chiến tranh cách mạng. Ở Pháp ông có căn nhà ở vùng có tên là Passy, và tất cả người Pháp đều nghĩ ông giống như siêu sao nhạc rock.”

      “Ở Pháp người ta coi mấy ông già mập phệ như các siêu sao nhạc rock chắc?”

      “Chị rồi, Franklin là người nổi tiếng khắp thế giới. Ông uyên thông triết học, thích thết đãi tiệc tùng, và đủ hết những món... của Pháp. Dù sao thông điệp bí mật đó chỉ ra rằng ông muốn rời khỏi Paris, đúng nào? Lá thư viết vào năm 1785. Chị chắc đó là năm ông quay trở lại Mỹ. Vậy là ông ấy để lại Paris thứ gì đó.”

      “Cái gì đó khiến dân tộc của ông tan rã,” Dan . “Tan có nghĩa như vậy, đúng nào? Chị có nghĩ ông ấy về những chi tộc của nhà Cahill hay ?”

      “Có thể lắm.” Amy xoắn xoắn tóc mình. “Dan, nhớ chuyện chị vừa ... chị lòng muốn bỏ cuộc. Chị chỉ thấy sợ.”

      Dan gật đầu. Nó muốn thừa nhận mặc áo đen và vụ nổ cũng khiến nó sợ chết khiếp. “ sao đâu. Chúng ta vẫn tiếp tục mà, đúng nào?”

      “Ta có lựa chọn nào khác.” Amy đồng tình.

      Trước khi cả hai đến xe, cửa chiếc Toyota mở toang ra. Nellie đến thẳng bên chúng, lỗ tai vẫn còn nhét chiếc tai nghe lủng lẳng. nàng cầm sẵn điện thoại cứ như muốn quẳng nó vào hai đứa nhóc.

      “Đoán thử xem?” Nellie lên tiếng. “Chị vừa nhận được voice mail[1] từ dịch vụ xã hội tại Boston!”

      [1] Email được gởi cho người nhận dưới dạng thanh.

      Amy há hốc miệng. “Chị gì với bọn họ?”

      “Chưa gì hết. Chị chờ nghe lời giải thích hoành tráng của hai đứa đây!”

      “Xin chị,” Dan năn nỉ. “Tụi em cần chị giúp mà.”

      “Bọn họ tìm hai đứa!” Nellie cao giọng. “Bà dì chẳng biết hai đứa ở đâu, đúng ? Hai đứa biết chị có thể dính vô rắc rối cỡ nào ?”

      “Chị ném điện thoại ,” Dan dụ dỗ.

      “Cái gì?” Giọng Nellie nghe giống như có ai bắt nàng đốt tiền vậy - đó là điều mà Amy vừa làm mới tuần rồi.

      “Cứ giả đò là chị chưa nhận được tin nhắn đó,” Dan lại năn nỉ, “Chỉ chừng vài ngày thôi. mà chị Nellie, hai đứa em phải đến Paris và cần có người lớn cùng.”

      “Nếu hai đứa chịu suy nghĩ chỉ chút ... Nhóc vừa nh đến Paris phải ?”

      Dan nhìn thấy cơ hội. Nó làm ngay bộ mặt sầu não và thở dài đánh thượt. “Đúng vậy, tụi em định mua cho chị vé đến Paris, thêm cả tiền công của chị, phòng khách sạn miễn phí, những bữa ăn thịnh soạn và mọi thứ. Nhưng, thôi thế thời thôi thời thế đó...”

      “Nellie à, chỉ có vài ngày thôi mà,” Amy tiếp. “Làm ơn chị! Tụi em dóc về vụ truy tìm đâu. Nó rất quan trọng đối với cả gia đình tụi em và em hứa cẩn thận! khi xong việc ở Paris, chị có thể làm gì tùy thích. Tụi em cam đoan mọi việc phải là lỗi của chị. Nhưng nếu bây giờ mà quay lại Boston, bọn họ đem hai tụi em đến nhà nuôi dưỡng. Tụi em thua trong cuộc truy lùng. Thậm chí còn bị nguy hiểm hơn nữa!”

      “Và chúng ta được đến Paris,” Dan đế thêm.

      cách lập luận nào vừa rồi hiệu quả nhất, nhưng Nellie thả điện thoại vào túi. nàng khuỵu gối xuống để nhìn thẳng vào mắt chúng.

      “Chỉ chuyến nữa thôi đó,” nàng . “Nhưng như thế cũng quẳng chị vào mớ bòng bong rắc rối khổng lồ rồi đó hai cậu ạ. Chị muốn hai đứa hứa rằng: đến Paris, sau đó chúng ta quay về nhà. Đồng ý chứ?”

      Dan vừa nghĩ cả bọn làm gì còn có nhà mà về, nhưng nó đan những ngón tay vào nhau lại sau lưng và trả lời Nellie: “Đồng ý.”

      “Đồng ý,” Amy cũng lên tiếng.

      “Mình hối tiếc về điều này cho mà xem,” Nellie lầm bầm trong miệng. “Nhưng nếu đến Paris cũng tiếc chẳng kém.”

      trở lại chiếc xe và ngồi vào ghế tài xế.

      Dan nhìn chị nó. “Ừm,... vụ tiền bạc ấy mà. Em nghĩ chúng ta có đủ để trả ba vé chiều. Chúng ta có thể đến Paris và còn đủ tiền để ở khách sạn, thức ăn và các thứ linh tinh cho chừng tuần. Nhưng em biết có đủ tiền quay trở lại hay . Nếu Nellie ph ra ...”

      “Chừng nào đến đó hẵng hay,” Amy trả lời. Và con bé chạy đến bên chiếc xe, tay rút sẵn hộ chiếu ra khỏi ba lô.






      CHƯƠNG 10

      KẺ THÙ BỦA VÂY ngay khi Alistair Oh vừa hoàn tất thủ tục hải quan.

      “Bonjour[1], thưa bác.” Ian Kabra xuất bên phải lão. “Chuyến bay tốt đẹp chứ bác?”

      [1] Xin chào, tiếng Pháp.

      Alistair xoay sang trái Natalie Kabra cắt đường tháo lui của lão.

      “Là con con cố trốn đâu hết, chú Alistair thân mến,” Con bé cất giọng ngọt ngào. “ ngạc nhiên là con đây có thể mang theo chừng này món vũ khí ngay giữa sân bay.”

      Nó giơ lên con búp bê Trung Hoa vận đầm vải xa tanh màu xanh dương. Natalie quá tuổi chơi thứ đó, nhưng ràng nó có thể dụ những nhân viên bảo vệ tin vào điều ngược lại.

      “Đó là gì?” Alistair thắc mắc, cố gắng trấn tĩnh. “ khẩu súng? quả bom?”

      Natalie mỉm cười. “Hy vọng bác cần phải tìm ra nó là thứ gì. Khá là bầy hầy cho xem.”

      “Cứ bước nào, bác.” Ian nhấn mạnh vào từ “bác” với tất cả mỉa mai. “Tụi này muốn gây ra chút nghi ngờ nào hết.”

      Cả ba nhà đón khách. Tim Alistair đập thình thịch. Lão giữ quyển Niêm giám của Richard nghèo khó ngay trong túi áo khoác, nó cứ đập đập vào ngực lão sau mỗi bước .

      “Thế,” Alistair hỏi tiếp, “Hai đứa đến đây khi nào?”

      “Ồ, tụi này bằng máy bay riêng,” Ian trả lời. “Tụi này có chiếc máy bay riêng với hệ thống an ninh... lỏng lẻo hơn nhiều. Tụi này vừa nghĩ là đến chào hỏi bác tiếng!”

      “Tử tế làm sao,” Alistair trả lời nó. “Nhưng ta có món nào hai đứa muốn cả.”

      “Đó phải là điều hai đứa đây từng nghe nha,” Natalie lên tiếng. “Hãy đưa quyển sách ra ngay.”

      Cổ họng Alistair lập tức trở nên khô khốc. “Làm thế nào mà... tụi bây biết...”

      “Tin tức lúc nào mà chả lan truyền nhanh,” Natalie đáp. “Tụi này có kẻ cung cấp thông tin cho...”

      “Natalie này,” Ian chặn họng nó. “Hãy để tao chuyện, cám ơn em nhiều. Cứ mà giữ con búp bê .”

      Natalie xụ mặt, khiến nó trông chẳng còn xinh xẻo chút nào. “Em muốn em , Ian! Ba với mẹ bảo...”

      gì mặc kệ họ! Ở đây tao quyết!”

      Natalie trông như muốn quạt lại nó ngay tức , nhưng cố nuốt cơn giận vào lòng. Alistair ưa cái cách nó nắm khư khư con búp bê. Lão hình dung thứ đó hẳn phải có cái cò ở đâu đấy, và cũng chẳng muốn khám phá xem nó hoạt động ra sao.

      “Chắc chắn hai đứa muốn lại có thêm cuộc chiến giữa các chi tộc với nhau rồi,” Alistair , cố ra giọng ngoại giao xởi lởi. “Chỉ cuộc gọi thôi và ta có thể tìm người giúp từ Tokyo đến tận Rio de Janeiro.”

      “Tụi này cũng thế,” Ian đáp. “Và thằng n cũng xem gia phả gia đình rồi. Lần cuối các chi tộc giao tranh với nhau, phần tốt nào có nghiêng về chi bên bác, phải thế ?”

      Alistair tiếp tục bước , nặn óc suy nghĩ. cảnh binh đứng cạnh điểm kiểm soát an ninh ngay phía trước - chừng hai mươi thước. Nếu mà Alistair có thể đánh lạc hướng...

      “Vụ nổ năm 1908 tại vùng Siberia,” Lão với Ian. “Phải, chiến thắng rất ấn tượng. Nhưng lần này bọn ta cơ.”

      “Chính vậy,” Ian gật gù. “Vậy hãy trao cho bọn này quyển sách, lão già ạ, trước khi bọn này phải làm lão đau đớn.”

      Natalie cười phá lên. “Giá mà có thể nghe giọng của chính mình, Ian à. thiệt đó.”

      con bé chau mày tức tối. “Mày mới gì?”

      Chỉ còn năm mét nữa tới chỗ cảnh binh. Alistair tự nhủ. Cứ giữ bình tĩnh nào.

      “Ồ, có gì đâu,” Natalie tỉnh bơ đáp lại thằng . “Chỉ rằng thằng đại chán. có em, thậm chí biết đến hăm dọa lão già đáng thương.”

      Mặt Ian sầm xuống. “Tao hoàn toàn có thể, oắt con vô dụng...”

      Natalie bước ra trước Alistair, sẵn sàng thách thức thằng , và Alistair tìm thấy cơ hội. Lão bước lùi lại, rồi sang bên. Trước khi cả hai đứa nhóc Kabra kịp quay trở lại, Alistair đứng cạnh viên cảnh binh, lớn hết cỡ bằng tiếng Pháp.

      “Merci[2] hai cháu!” Lão hét về phía bọn Kabra. “Nhưng cha mẹ hai đứa lo lắng đấy. Hãy chạy mau và báo cho họ ta sắp ra ngay đây. Ta còn vài câu muốn hỏi viên sĩ quan này. Hình như là ta quên khai món trái cây tươi ở chỗ hải quan rồi!”

      [2] Cám ơn, .

      “Trái cây tươi ư?” Viên sĩ quan hỏi. “Thưa ngài, chuyện này rất quan trọng. Hãy vui lòng theo tôi, thưa ngài!”

      Alistair nhún vai nhìn về bọn Kabra tỏ vẻ hối lỗi. “Hai cháu tha thứ cho ta nhé.”

      Mắt Ian giận dữ đến độ nó trông như bốc cháy, nhưng vẫn cố giữ cho mình nụ cười. “Dĩ nhiên rồi, thưa bác. Đừng lo. Bọn này chắc chắn đuổi kịp bác thôi. nào, Natalie.” Nó nghiến răng khi gọi tên con em . “Chúng ta phải chuyệnthôi.”

      “Oái!” Nó ré lên khi thằng chộp lấy cánh tay mình, nhưng Ian lôi nó xuống sảnh và biến mất.

      Alistair thở phào nhõm. Lão theo viên cảnh binh, vẻ biết ơn rối rít. Họ trở lại chỗ hải quan, tại đó sau hai mươi phút hỏi han và kiểm kê hành lý, Alistair nhận ra - quelle surpise[3]! - mình chẳng mang theo tí trái cây tươi nào trong hành lý cả. Lão giả vờ mình là ông già đãng trí, và nhân viên hải quan cáu tiết cũng đành cho Alistair tiếp.

      [3] Ngạc nhiên làm sao, tiếng Pháp.

      Trở lại nhà đón khách, Alistair tự cho phép mình nở nụ cười. Ian và Natalie Kabra hẳn là những đối thủ cực kỳ nguy hiểm, nhưng bọn chúng vẫn chỉ là hai đứa trẻ. Alistair chẳng bao giờ để mình bị những đứa nít ranh như bọn chúng qua mặt - đời nào dù cho tương lai của lão và cả chi tộc bị đe dọa.

      Alistair vỗ vỗ vào quyển Niên giám của Richard nghèo khó, vẫn còn nguyên vẹn trong túi áo khoác. Alistair hoài nghi chẳng biết những nhóm khác ngoài kia có biết gì về ba mươi chín đầu mối mà chính lão lại biết hay . Suy cho cùng, lão theo dõi Grace nhiều năm ròng, tìm hiểu về mục đích của bà. Nhưng vẫn còn nhiều điều lão sao hiểu được - những bí mật mà Alistair mong rằng Grace nhắn nhủ cho hai đứa cháu của bà. Rồi chẳng mấy chốc lão cũng

      Alistair bước khởi đầu tuyệt vời. Giờ đây lão hiểu ý nghĩa đích thực của đầu mối đầu tiên: RESOLUTION của Richard S-. Lão cười thầm khi nghĩ đến điều này. Thậm chí cả Dan và Amy cũng còn chưa hiểu nó là gì kia mà.

      Lão khỏi nhà đón khách, mắt mở to quan sát xem bọn Kabra có quanh quẩn hay , nhưng dường như chúng mất tăm. Alistair ra ngoài, vừa kéo túi xách xuống khu vực chờ taxi chiếc xe tải màu tím phanh lại ở lề đường.

      Cửa xe mở ra. giọng nam hồ hởi cất lên. “Ê, này!”

      Điều cuối cùng Alistair Oh nhận ra được là cú đấm thoi thẳng vào mặt gã.






      CHƯƠNG 11

      SAU KHI QUA HẢI QUAN SÂN BAY Charles De Gaulle, Amy cảm thấy như nó vừa mới thua cuộc trong trận chiến với cơn cuồng phong.

      chịu trận tám giờ liền máy bay, kẹt gí giữa Dan và Nellie, hai vị khách dán chặt headphone vào tai với nút chỉnh thanh vặn hết cỡ. Dan xem phim. Nellie nghe nhạc và lướt qua những quyển sách nữ công gia chánh bằng tiếng Pháp có minh họa nào là ốc sên nào là gan ngỗng đủ màu sắc. Trong khi đó, Amy cố cuộn người lại và đọc sách. Con bé chọn mua thêm sáu quyển nữa khi còn ở Philadelphia, nhưng chỉ mới đọc xong quyển về tiểu sử của Benjamin Franklin và hai quyển hướng dẫn du lịch Paris. Với Amy, điều đó kinh khủng. Từng cơ bắp của nó mỏi dừ. Tóc nó rối như tổ quạ. Quần áo bết đầy mùi mì Lasagna mà Dan lỡ tay làm vấy lên người nó chuyến bay. Tệ hơn hết thảy, Amy chợp mắt được lấy phút nào, vì càng đọc cái ý nghĩ càng hình thành hơn trong đầu nó về Franklin và về Paris - và ý nghĩ ấy khiến nó sợ hãi.

      Ở khu vực xếp hàng chờ làm thủ tục hải quan, Amy biết chắc mình quên bẵng ngay mọi thứ khi viên hải quan hỏi về cha mẹ của cả hai, nhưng nó bập bẹ được câu dối tập dượt trước đó với Dan - rằng cha mẹ chúng đến ngay trong chuyến bay sau đó. diện của Nellie dường như khiến hải quan yên tâm, nhất là khi Nellie trả lời những câu hỏi bằng chính tiếng Pháp. Viên hải quan gật đầu, đóng dấu vào hộ chiếu và cho cả bọn qua.

      “Nellie này!” Dan gọi. “Chị được tiếng Pháp?”

      “Ừa. Mẹ chị dạy tiếng Pháp. Bà cũng giống như, xem nào, giống như người Pháp vậy đó.”

      “Thế mà em lại nghĩ gia đình chị đến từ Mexico City.”

      “Chỉ có cha chị thôi. Chị sử dụng ba thứ tiếng khi lớn lên.”

      tuyệt vời,” Amy thốt lên. Nó cảm thấy ghen tị. Nó ước gì mình biết được các thứ tiếng khác, nhưng khi học nó thấy vô vọng. Thậm chí Amy còn sao nhớ được màu sắc và con số trong quyển tiếng Tây Ban Nha dành cho nhà trẻ.

      “Đâu có gì ghê gớm đâu,” Nellie quả quyết với cả hai. “Khi biết hai ngôn ngữ, học hai, ba hay bốn thứ tiếng nữa dễ ợt à.”

      Amy nàng có nghiêm túc hay , nhưng rốt cuộc cả bọn cũng qua được chỗ hải quan. Cả hai nhận lại hành lý, đổi tiền đô la sang đồng Euro tại ki-ốt và cứ thế rảo bước vào trong nhà chờ hành khách.

      Amy thấy hoàn toàn bất lực trước những tấm biển chỉ dẫn viết bằng tiếng Pháp. Ánh sáng ban mai xuyên qua cửa sổ, dù với nó tưởng chừng như là nửa đêm. Dưới sảnh, đám đông tụ tập. Mọi người bấm máy ảnh với đèn láp lóe lên lia lịa và đặt câu hỏi cho nhân vật mà Amy sao nhìn thấy được.

      “Ôi, bọn paparazzi!” Nellie . “Có lẽ đó là, coi nào, Kayne West[1] chăng!”

      “Đâu phải!” Amy , nhưng Nellie cũng chẳng hề nản lòng. Cả ba băng qua đám đông bằng vô số những excusez-mois[2]. Và khi đến gần, Amy lập tức dừng sững lại. “Là Jonah Wizard.”

      [1] Ca sĩ và tượng hip hop nổi tiếng người Mỹ.

      [2] Xin lỗi, tiếng Pháp.

      Gã nhóc bước qua đám đông vây kín, tay bận ký tên, trong khi ông bố cứ kè kè lết sau lưng như tay vệ sĩ. Jonah mặc quần jeans thụng, áo khoác da màu đen choàng bên ngoài chiếc ba lỗ trắng, cộng với nửa tấn trang sức bằng bạc lỉnh kỉnh người. Trông gã ta tươi tắn khỏe khoắn, như thể chuyến bay vừa rồi của gã tốt hơn của Amy vạn lần.

      Wizard!” Những tay phóng viên cứ xúm xít quanh Jonah với hàng đống câu hỏi. Gã trả lời bọn họ bằng tiếng Pháp, khiến Amy rất đỗi ngạc nhiên.

      Ở đó có quá nhiều người đến nỗi Amy ước sao mình cứ tan chảy vào những bức tường cho xong, trái lại Jonah trông vẫn rất bình thản. Gã nhóc tặng đám đông nụ cười rạng rỡ và điều gì đó khiến họ cười phá lên, rồi gã nhìn chằm chằm vào Amy.

      “Yo!” Jonah gọi to. “Bọn nhìn lén!”

      Amy rúm người lại. Jonah bắt đầu rẽ về phía chúng và cả đám đông xoay theo xem thử siêu sao của chúng ta chuyện với ai.

      “Ồ, đời nào như vậy,” Nellie . “Hai đứa quen Jonah Wizard sao?”

      “Bọn em là họ hàng với nó,” Dan càu nhàu. “Họ hàng xa.”

      Nellie trông như thể sắp xỉu đến nơi. Bất thình lình, Jonah đứng đối diện cả ba, bắt tay với Amy, vỗ khẽ vào lưng Dan và ký tên vào áo của Nellie, rồi toàn bộ ống kính bắt đầu chụp ảnh tất cả bọn họ.

      Đừng có nhìn vào tôi! Amy muốn thét lên. Người tôi bốc đầy mùi mì lasagna! Giọng con bé cất lên nổi. Nó cố thoái lui nhưng hai chân cứng

      “Jonah này!” Cha của siêu sao lên tiếng. “Chúng ta phải thôi.”

      “Yeah, đúng vậy.” Jonah đá mắt với Amy. “ cùng, nào. Chúng ta có chuyện cần bàn.”

      Cha Jonah phản đối, nhưng Jonah choàng cánh tay qua Amy và dắt con bé qua nhà chờ hành khách, bỏ lại Dan, Nellie và bầy đông đúc những tay paparazzi đằng sau chụp ảnh liên hồi. Amy biết chắc nó có thể chết ngay tức khắc vào bất cứ lúc nào vì xấu hổ, nhưng rốt cuộc cả hai cũng bỏ được đám đông để ra ngoài. Ngày hôm đó trời ấm và nhiều mây. Những đám mây bão giăng kín ở phía chân trời. chiếc limousine đen đợi sẵn ở lề đường.

      “Chúng ta - nên,” Amy bắt đầu phản đối. Nó nhớ những gì ông McIntyre căn dặn: Chớ tin ai.

      “Em đùa đấy à?” Nellie . “ chung limo với Jonah Wizard? thôi!” nàng trườn thẳng vào chiếc limo. Chỉ vài phút sau, tất cả hướng về đường l’autoroute de l’est[3] phía trung tâm Paris.

      [3] Đường xa lộ phía Đông, tiếng Pháp.

      ***

      “Trời ạ, đây rất thành phố này,” Jonah lên tiếng.

      Hai hàng ghế sau chiếc limo quay đối diện với nhau. Jonah và cha của gã ngồi bên. Amy, Dan và Nellie ngồi bên còn lại. Ông bố mải mê ghi chú chiếc BlackBerry, cứ thi thoảng lại ngẩng lên và chau mày khi thấy Amy, như thể ông sao tin được rằng Amy vẫn còn ngồi đó.

      Bên ngoài, hàng dãy những tòa nhà bằng đá màu vàng óng lướt qua, cửa sổ ngập những giỏ hoa um tùm. Những nhà hàng đầy ắp người, ghế ngồi xoay ra phía đường như chờ đợi buổi diễu hành. Bầu khí nức mùi cà phê và bánh mì nướng. Bầu trời ngập mây khiến mọi thứ phủ ánh sáng kì lạ - như thể cả thành phố cũng chỉ là hư

      “Mọi người có biết rằng các bảng xếp hạng truyền hình của tôi ở đây thậm chí còn cao hơn ở Mỹ ?” Jonah .

      “Cao hơn 18 điểm,” Ông bố chêm vào.

      “Và đĩa mới của đây, Gangsta Life[4], đứng thứ ba trong các bảng xếp hạng tại Pháp đó.”

      [4] Đời Gangsta.

      “Hạng hai,” Ông bố chỉnh lại. “Và vẫn thăng hạng.”

      “Ôi, tôi rất thích album của cậu!” Nellie thốt lên.

      “Cám ơn,” Jonah . “Còn bây giờ nín .”

      Nellie trông như vừa bị tát vào mặt.

      “Này!” Dan la lên. “Như vậy hay tí nào!”

      “Cái gì?” Jonah hỏi. “ ả này phải người nhà Cahill. Đây chuyện với ả.”

      Amy sốc đến độ thốt lên được lời nào đáp trả, còn Jonah cứ tấn tới.

      “Như đây nói, đây làm chủ cả thành phố này. Nhà trưng bày của đây vừa mở cửa tuần vừa rồi ở Rue de la Paix. Những bức tranh màu nước của đây bán giá 6.000 euro bức. Thậm chí đây còn sắp cho ra quyển sách thiếu nhi.”

      Ông bố lấy ra quyển và chìa cho họ xem.

      Dan liếc nhìn, cố đọc tên quyển sách. “Le ... Li’l Gangsta Livre Instantané là cái gì?”

      “Nghĩa là ‘Sách hình nổi Tên cướp bé bỏng’, Cha Jonah hãnh diện trả lời nó.

      Jonah ngửa hai lòng bàn tay ra. “Hiểu ý của đây chứ? Đây còn nổi tiếng hơn cả” - Gã nhóc cười láu cá - “Hơn cả Benjamin Franklin.”

      Có gì đó trong Amy bắt đầu động đậy. Con bé bỏ ra nhiều giờ để đọc về Benjamin Franklin, do đó bị thuyết phục hơn bao giờ hết rằng Franklin là con người vĩ đại nhất trong lịch sử. Ý nghĩ mình có họ hàng với ông cũng khiến con bé thấy tự hào làm sao. Giờ đây khi phải nghe ông oắt sao truyền hình này so sánh bản thân gã với... con bé tức tối đến nỗi quên bẵng mất nhút nhát. “B-Benjamin Franklin quan trọng hơn ông nhiều, Jonah nhé! Đó là người Mỹ lừng danh nhất từng đặt chân đến Paris này. Khi ông ấy đến đây, người ta còn mang hình ông mặt dây chuyền...”

      “Như thế này đúng ?” Jonah rút ra chiếc dây lưu niệm có hình của mình.

      “Và... và mọi người cũng mặc quần áo như ông!”

      “Ờ há. Hiệu thời trang Jonah Wizard bán rất chạy ở đại lộ Champs-Élysées đấy.”

      Amy nghiến răng. “Thậm chí Vua Louis XVI còn đặt ảnh của Franklin trong chậu đựng nước tiểu của ông!”

      Jonah nhìn sang cha mình. “Chúng ta có những chậu nước tiểu lưu niệm chưa nhỉ?”

      “Chưa.” Ông cha vớ ngay lấy chiếc điện thoại. “Ta gọi ngay đây.”

      Jonah gật đầu. “Mọi người thấy rồi đó. Chính đây là nhân vật bự nhất kể từ khi Franklin đến đây, đó là lý do vì sao chính đây mới là người tất nhiên khám phá ra bí mật của ông.”

      “Nếu mà đầu ông bự hơn tí xíu nữa,” Dan lẩm bẩm, “ tụi này cũng dám dùng nó làm bóng khinh khí cầu lắm.”

      Jonah phớt lờ nó. “Coi này, Amy. em là đứa thông minh. biết gia đình chúng ta có nhiều chi tộc kia mà, phải ? Cahill tốt, Cahill xấu. Đây là...”

      “Jonah!” Ông bố lấy bàn tay trùm kín chiếc điện thoại. “Ta nghĩ chúng ta trao đổi là...”

      “Bố, bình tĩnh. Con chỉ muốn : con sử dụng tài năng của mình để tạo ra nghệ thuật. Bất kể kho báu cuối cùng có là gì chăng nữa, con rồi cũng dùng nó để mang lại cho thế gian này thêm nhiều vẻ đẹp! Con giống như những người nhà Lucian kia đâu. Bọn họ quá độc ác!”

      Tâm trí của Amy chạy vù vù. “Nhưng mà... Benjamin Franklin là người Lucian. Tụi này trông thấy gia huy con rắn...”

      “Rồi, vậy thi thoảng bọn nhà Lucian cũng làm cái gì đó đúng đắn.” Jonah xua tay đầy thô bạo. “Nhưng ngày hôm nay, đây mới chính là người tốt. thấy điều đó, Amy ạ.”

      Dan khịt mũi. “Vì ông là người sáng tác ra những quyển sách nổi về tướng cướp chớ gì?”

      “Chính xác! Coi kìa, mày nghĩ lớn lên mà giàu có và nổi tiếng ở Beverly Hills dễ dàng lắm sao?” Jonah ngừng lại. “ ra, dễ ợt thôi mà. Vấn đề nằm ở chỗ, đây lao động cật lực mới giữ được như vậy. Danh tiếng là món mà chúng ta đều ngừng vun đắp cho nó, nhãi à. Con đúng , bố?”

      “Đúng rồi, con trai!”

      “Đây có album, có truyền hình, rồi thời trang và cả sách... vậy còn phải làm gì nữa để tiến lên? Để đây cho mà nghe. Đây cần phải chiến thắng cuộc đua tài này. Đó là bước tiến khôn ngoan trong nghiệp! Nếu chúng ta hợp tác cùng nhau, đây cho hai đứa tỉ lệ phần trăm nào đó.”

      “Chú Alistair cũng đề nghị giúp đỡ,” Amy lầm bầm. “Chuyện đó đâu có đến đâu.”

      Jonah lại khịt mũi. “Alistair á? Lão khọm già đó hẳn lại bảo rằng lão phát minh ra món bánh burrito nấu được bằng lò vi sóng phải nào? Cá là lão chẳng hé môi với hai người rằng lão tán gia bại sản vì những vụ đầu tư bất thành. Lão phá sản tới nơi rồi, bé ơi. Lẽ ra lão nên cầm mớ tiền vài triệu đô rồi biến , thế nhưng lão lại có ý nghĩ điên rồ, ba mươi chín đầu mối này khôi phục lại được thanh danh của lão. Chớ dại nghe lời lão. Hãy theo đây, chúng ta đánh bại mọi đối thủ. Thậm chí còn có thể mở mắt cho bọn đánh lén, hai đứa Ian và Natalie đó. Hai người hãy cẩn thận ở đây, Amy ạ. Paris là căn cứ địa của nhà Lucian, biết rồi đó. từ nhiều thế kỷ nay rồi.”

      “Jonah này,” Cha gã nhóc lên tiếng. “Con nên giao du với bọn người này. Chúng có quyền lực của ngôi sao và chỉ khiến điểm số của con bảng xếp hạng bị tụt xuống thôi.”

      “Quay lại với vụ bô đựng nước tiểu bố. Cứ để con lo liệu chuyện này.” Gã nhóc tặng Amy nụ cười mê hoặc nhất của mình. “Thôi nào . Chúng ta đều biết đầu mối kế tiếp là về Ben Franklin mà. Chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau.”

      Amy bận tâm Jonah là tay kiêu căng. Amy bận tâm ở chỗ lời đề nghị của gã khiến con bé xiêu lòng ngay. Ý nghĩ vượt qua mặt Natalie và Ian khó cưỡng lại. Và Amy cũng khỏi cảm thấy phơi phới trong lòng khi ai đó như Jonah Wizard lại chú ý đến mình. Thế nhưng... Amy vẫn còn nhớ cái cách gã nhóc với Nellie, và gã tử tế với cả bọn ra sao lúc ở sân bay, nhưng tất cả chẳng qua cũng chỉ là trò diễn xuất, như thể cả bọn chỉ là những sản phẩm sân khấu cho ống kính chĩa vào, hơn.

      “Vì sao... vì sao muốn thỏa thuận với bọn này?” Nó hỏi Jonah bằng giọng lưỡng lự. “Bọn này có cái gì đặc biệt như thế?”

      “Chẳng có gì cả!” Jonah phá lên cười. “Chẳng tuyệt sao? Cả hai đều thuộc tộc Cahill, nhưng lại chẳng có tí tài năng nào hết! Còn đây ư, nếu đây muốn lẻn vào đâu đó để tìm đầu mối, giới truyền thông dí theo đây, người ta chụp ảnh đây và đặt câu phỏng vấn ỏm cả lên. Chẳng thể làm điều gì bí mật cả. Còn các người - các người là những người quan trọng, có thể đến được những nơi mà đây sao đến được. Chẳng ai quan tâm đến hai người cả.”

      “Xin cảm ơn,” Dan lầm bầm tức tối.

      “Đây vừa gì vậy nhỉ?” Jonah trông có vẻ lúng túng. “Này, nếu là tiền, đây có hàng đống. Thậm chí đây còn có thể làm hẳn ngày truyền hình cho chương trình Ai muốn làm Gangstar? thể làm gì ngon lành hơn thế.”

      , xin cám ơn,” Cả Amy và Dan đồng thanh.

      “Ồ, thôi nào. Hãy nghĩ về việc đó nhé. Khách sạn của hai người ở đâu nào? Đây cho xe tấp qua đó.”

      Amy suýt nữa quyết định xong chợt nhìn ra cửa sổ xe. Điều mà Amy trông thấy khiến cho máu nó như đông cứng lại. thể nào như vậy được. Ả ta làm gì ở đây vậy? Và ả mang cái gì trong tay...

      “Ngay tại đây!” Amy lớn. “Làm ơn dừng lại ngay đây!”

      Tay tài xế dừng xe.

      Jonah nhìn ra cửa sổ và chau mày. Xe dừng bên cạnh khách sạn xíu tên Maison des Gardons[5]. Tấm hiên che tả tơi theo thời gian còn tay gác cổng nhìn như con sâu rượu.

      [5] Tòa nhà của Gián, tiếng Pháp, đọc gần giống Garden, khu vườn trong tiếng .

      “Ở đây sao?” Jonah . “Trời ạ, cả hai muốn chơi khó đây rồi. Đây ư, đây ở khách sạn Ritz. Nếu đổi ý, cả hai biết phải tìm đây ở đâu rồi nha.”

      Amy kéo Nellie và Dan ra khỏi xe. Tay tài xế lấy hành lý ra khỏi cốp và chiếc limo lướt .

      kinh tởm!” Nellie thốt lên. “ TV nó đâu có như vậy đâu!”

      Dan ngẩng đầu nhìn khách sạn Maison des Gardons. “Đừng có là chúng ta ở lại ch này nha.”

      “Chị phải bắt gã nhóc dừng xe,” Amy đáp. “Nellie này, hãy tìm giúp phòng cho tụi em tối nay.”

      “Ở đây hử?” nàng phản đối. “Nhưng mà...”

      “Tên của nó có chữ “khu vườn”. Khu vườn có thể tệ cỡ nào nào?”

      ra cái đó có nghĩa là...”

      “Thôi cứ như vậy , nha chị!” Amy thấy hành xử kẻ cả như vậy kỳ cục, nhưng nó cũng có nhiều thời gian để phân bua. “Chúng ta gặp lại nhau ở đây trong vòng... em biết nữa, khoảng hai giờ nữa nhé.”

      “Tại sao vậy?” Dan thắc mắc. “Chúng ta đến đâu?”

      “Chị vừa nhác thấy người bạn cũ.” Amy . “ nào!”

      Nó lôi nhóc em băng qua đường, hy vọng cả hai quá trễ. cả người, Amy trông thấy mục tiêu. “Kia rồi!” Nó chỉ tay. “Mặc đồ đỏ!”

      Cách đó chừng nửa dãy phố, người phụ nữ trong chiếc khăn choàng đỏ bước gấp gáp. Có thứ gì đó kẹp ngay dưới cánh tay bà ta - vật mỏng, hình vuông, màu đỏ và trắng.

      Mắt Dan mở to. “Có phải kia là...”

      “Irina Spasky,” Amy trả lời. “Và bà ta có quyển Niên giám của Richard nghèo khó. Bám theo ả người Nga mau!”

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 12


      DAN DỄ PHẢI DỪNG LẠI tới hai mươi lượt khi cả hai bám theo đuôi Irina Spasky xuống Rue de Rivoli. (Nó thắc mắc biết có phải tên này có nghĩa là “Phố Rivoli” hay , nhưng biết chắc là nếu nó hỏi bà chị Amy quý hóa chọc quê ngay). Nhiều lần nó vẫn muốn tìm hiểu thứ này thứ nọ - như chiếc kim tự tháp bằng thủy tinh bá cháy ở Louvre hay những nghệ sĩ đường phố tung hứng lửa bên ngoài vườn Tuileries. Còn có người bán crème glacée[1], và Dan khá chắc rằng đó là kem. Tuy nhiên, phần lớn nó muốn dừng lại chỉ vì chân nó đau buốt.


      [1] Kem, tiếng Pháp.


      “Bộ bà kia chẳng bao giờ dừng lại nghỉ chút hay sao?” Dan làu nhàu.


      Amy có vẻ như chẳng mệt chút xíu nào. “Em thấy lạ là chúng ta tìm thấy Irina Spasky cách tình cờ ngay giữa mười triệu dân ở Paris hay sao?”


      “Chắc là 9,99 triệu người mang khăn choàng cổ đỏ tươi!”


      “Bà ta xuống phố chính, như thể muốn để người khác phát ra.”


      “Chị nghĩ đó là cái bẫy sao?” Dan thắc mắc. “Làm thế nào bà ta biết chúng mình tìm được bà ta chứ? Và thậm chí bà ta cũng chẳng thèm ngoái đầu lại lấy lần. Bà ta chẳng biết chúng ta ở đây đâu.”


      Nhưng vừa xong, Dan sực nhớ đến những chương trình truyền hình về những điệp viên nó từng xem - cách bọn họ theo dấu người khác mà để bị phát , hay “tình cờ” xuất trong tầm ngắm của nạn nhân và lùa họ vào cái bẫy nào đó. Liệu có thể rằng Irina chờ cả bọn ở phi trường ? Liệu bà ta có thấy cả bọn vào chiếc limo với Jonah và tìm cách vượt qua bọn chúng?


      “Trông kìa,” Amy bảo, “Bà ta rẽ!”


      Irina băng qua đại lộ và biến mất sau các bậc cầu thang.


      “Métro,” Amy tiếp. “Bà ta tàu điện ngầm.


      Hai đứa mất lúc mới hiểu ra cách sử dụng đồng euro cho máy bán vé, nhưng khi cả hai xuống các bậc thang thấy Irina vẫn còn ở đó - tại ke ga với quyển niên giám rách tơi tả kẹp dưới cánh tay. Tàu vừa đến. Dan chắc mẩm Irina chơi trò đổi hướng vào giờ chót và lẻn , vì vậy nó và Amy chờ cho đến khi cửa tàu chuẩn bị khép lại, nhưng Irina vẫn ở tàu. Hai đứa cũng nhảy lên tàu, và con tàu rời ga.


      Cả ba chuyển tàu hai lần chỉ trong thời gian ngắn. Mặc dù Irina mang chiếc khăn choàng đỏ chói, nhưng hai đứa cũng khó mà theo kịp ả.


      “Chị hiểu nổi,” Amy . “Giờ bà ta nhanh hơn, như cố bỏ lại chúng ta.”


      Dan vẫn mơ màng đến món crème glacée. Chỗ mì lasagna nó chén máy bay tiêu hóa sạch tự lúc nào, và giờ dạ dày của nó như thế muốn nhai đến chiếc áo nó mặc.


      Rốt cuộc , sau chuyến tàu thứ ba, Irina rời ga. Amy nắm tay Dan và trỏ vào biển báo tường nhà ga.


      “Passy,” Nó đọc lên.


      sao?”


      “Đây là khu phố mà Benjamin Franklin từng sống.”


      “Ôi, thôi!” Dan , “ bé quàng khăn đỏ lẻn mất rồi kìa.”


      ***


      Passy thoạt trông đông đúc như Tuileries. Những con phố nằm ngay ngắn với những tòa nhà bốn tầng. Khắp nơi đều có những cửa hiệu bán hoa, như dịp Ngày của Mẹ - hoa tulip, hoa cẩm chướng, mọi thứ hoa có thể làm cho Dan hắt hơi. Từ đằng xa, tháp Eiffel vươn cao sừng sững giữa những tầng mây xám, nhưng lúc này Dan lại hứng thú hơn với mùi đồ ăn thức uống. Cả thành phố dường như được tạo bởi những quán cà phê ngoài trời. Nó có thể ngửi thấy mùi sô la, bánh mì tươi mới ra lò, mùi phô mai tan chảy thơm lừng - nhưng Dan lại có thời gian để nếm bất cứ món


      Irina cứ như thể váy của ả bắt lửa. Hai đứa phải vừa vừa chạy. Amy vấp vào bình hoa và người Paris rủa nó.


      “Cháu xin lỗi!” Amy ngoảnh lại .


      Cả hai quẹo vào con đường có hai hàng cây thẳng tăm tắp với những căn biệt thự mang dáng dấp cổ kính. Cách nửa dãy phố phía , chiếc xe tải màu tím đậu ngang phè phè. Nó sơn hình bong bóng với mặt những gã hề và biển hiệu ghi CRÈME GLACÉE. Tâm hồn Dan phơi phới ngay. Biết đâu nó mua gấp được cây kem vani đào ba viên. Nhưng khi đến gần, nó thấy chiếc xe tải đóng cửa. Kính chắn gió bị bịt từ bên trong bằng tấm mành bạc. Dan nghĩ, phải có mưu gì đây. Cả thành phố Paris như cố bỏ đói nó.


      Cuối phố, Irina băng qua đường và khom người bước vào cánh cổng bằng thép. Ả vào bên trong tòa nhà lớn làm từ đá hoa cương trông như lãnh quán hay đại loại vậy. Dan trốn đằng sau cột cổng quan sát Irina nhập mật mã và bước vào bên trong.


      “Hãy nhìn cánh cửa kia,” Amy lên tiếng.


      Ngay chính giữa là biển có dòng chữ mạ vàng ghi[2]:






      [2] Nghĩa của tấm biển: Viện ngoại giao quốc tế.


      “Gia huy của nhà Lucian!” Dan ngay. “Nhưng cái viện dùng để làm gì, ừ, cho dù từ đó có nghĩa là gì nữa?”


      “Chị nghĩ đó là trường đào tạo đại sứ,” Amy đáp. “Nhưng bộ em hiểu sao? Đó chỉ là cái vỏ bọc. Em còn nhớ Jonah ? Paris là căn cứ địa của nhà Lucian.”


      Mắt Dan sáng lên. “Đây hẳn là cứ bí mật!”


      Amy gật đầu. “Vấn đề là chúng ta phải làm gì nữa đây?”


      “Vào trong chứ làm gì,” Dan trả lời.


      “Phải. Mà cần mã số bí mật ư?”


      “5910. Em thấy bà ta bấm như vậy.”


      Amy trố mắt nhìn nó. “Làm thế nào mà em... thôi được rồi. Vào nào. Nhưng phải cẩn thận. Bọn họ chắc hẳn có camera, chó canh gác và đủ thứ khác.”


      Cả hai nép vào cánh cổng và chạy thẳng lên bậc tam cấp. Dan nhập số. Cửa mở ra dễ dàng. có thiết bị báo động nào lên tiếng. có chó canh gác sủa gâu gâu.


      “Lạ nhỉ,” Nó lầm bầm. Nhưng giờ đoán thêm nữa cũng bằng thừa. Cả hai lẻn được vào căn cứ của nhà Lucian.


      ***


      Đại sảnh lớn hơn cả tòa nhà chung cư hai đứa từng ở. Nền nhà lát đá cẩm thạch nhẵn bóng và đèn chùm treo trần. loạt các cánh cửa màu đen trước mặt chúng. Phía trái là cầu thang xoắn ốc dẫn lên ban công.


      “Nhìn kìa.” Dan trỏ lên các cánh cửa. camera quan sát quét quanh phòng. Nó quay về chỗ cả hai đứng, nhưng bao lâu nữa nó lia tới.


      Rồi nó nghe thấy có nhiều tiếng phát ra đằng sau cánh cửa đôi - có ai đó về phía chúng.


      “Nhanh nào!” Nó chạy lên cầu thang. Amy trông như muốn tranh luận, nhưng còn thời gian nữa. Nó theo Dan leo lên .


      Tim Dan đập thình thịch. Lúc nào nó cũng nghĩ rằng chơi trò trộm bẻ khóa và lẻn vào nhà ai đó hẳn hay ho, nhưng giờ đây khi nó làm , tay nó vã đầy mồ hôi. Nó tự hỏi biết người Pháp có ném bọn ăn trộm vào những hầm ngục đầy chuột là chuột hay . Vì nó thấy cảnh đó trong vở nhạc kịch mà cả hai được Grace dẫn xem.


      Chúng rón rén dọc theo hành lang tầng .


      “Em vẫn hiểu,” Dan thào. “Irina hẳn phải là người Lucian. Benjamin Franklin cũng là người Lucian. Như vậy có nghĩa là Franklin cũng là người xấu hả?”


      “Chắc đơn giản như vậy đâu.” Amy đáp. “Nhìn kìa.”


      Những bức chân dung được treo dọc theo các bức tường - đó là những Napoleon Bonaparte, Issac Newton, Winston Churchill và vài người nữa mà Dan nhận ra.


      “Những người Lucian nổi danh đây,” Amy đoán. “ nhất thiết họ là người tốt hay xấu. Nhưng ràng có rất nhiều người quyền lực.”


      “Và chúng ta vừa mới đột nhập vào nhà của họ,” Dan tiếp.


      Cả hai qua dãy cửa bằng gỗ sồi nặng nề, tất cả đều đóng kín. cánh cửa đề LOGISTIQUE[3]. Cánh khác đề CARTOGRAPHIE[4]. Cánh cửa cuối cùng bên phải có dòng chữ ARSENAL[5].


      [3] “Thuật hậu cần”, tiếng Pháp.


      [4] “Thuật vẽ bản đồ”, tiếng Pháp.


      [5] “Kho vũ khí”, tiếng Pháp.


      “Tuyệt!”


      “Dan, đừng!” Amy khẽ , nhưng quá muộn cản được thằng bé nữa rồi. Dan mở cánh cửa kho vũ khí và lẻn vào trong.


      Lúc này nó mới chợt nghĩ, lẻn vào kho đầy ắp vũ khí phải là ý kiến hay ho gì nếu như trong đó có người. May thay, chẳng có ai hết. Kho vũ khí chừng mười thước vuông, đầy những món cả tuyệt vời: những rương đạn đại bác, những giá dao găm, kiếm, ba toong, khiên, dù. Dan hiểu tại sao lại có dù, nó thử hình dung người ta có thể làm gì khác hơn ngoài việc dùng nó để che mưa.


      “Chúng ta nên ở đây!” Amy rít lên.


      “Xùy, vậy hử?” Dan cầm lên chiếc tráp gỗ cỡ hộp đựng giày, bên trong đầy những ống thủy tinh có dây đồng quấn ở phía cùng. “Coi này, trong những cục pin của Franklin, giống thứ trong viện bảo tàng đây.”


      Lông mày Amy nhíu lại. “Sao cái này lại nằm trong kho vũ khí nhỉ?”


      biết, nhưng em lấy món này!” Bất chấp Amy ngăn cản, Dan quẳng cục pin vào ba lô. Nó vừa vặn vì bên trong chiếc ba lô cũng khá trống. Thứ còn lại gì khác ngoài tấm ảnh chụp cha mẹ của hai đứa, được gói trong tấm bìa nhựa mà nó quyết định mang theo bên mình để lấy may.


      chiếc thùng nhựa hình trứng khiến nó chú ý. Dan mở ra và thấy chỉ thấy duy nhất quả cầu bạc có ánh sáng đỏ lấp lánh. “Cái này cũng tuyệt nữa!” Dan lại bỏ nó vào ba lô.


      “Dan, được đâu!”


      “Sao cơ? Bọn họ có hàng tá những thứ khác, và chúng ta cần mọi thứ hỗ trợ mà ta có thể tìm thấy chứ!”


      rất nguy hiểm.”


      “Em cũng mong như vậy.” Nó trầm trồ trước những cây phi tiêu và nghĩ có nên thó tiếp vài món hay , thình lình có tiếng cửa sập lại đâu đó ngoài sảnh.


      “Tốt hơn hết chúng ta nên biết ả làm gì ở đây,” người vừa bằng tiếng . “Nếu ả sai


      Người phụ nữ trả lời lại bằng tiếng Pháp. Cả hai giọng nhạt dần phía cuối hành lang.


      nào,” Amy năn nỉ em nó. “Ngay bây giờ.”


      Cả hai ngẩng đầu lên quan sát để bảo đảm là ngoài sảnh còn ai khác, đoạn lẻn ra khỏi kho vũ khí và dấn sâu hơn nữa vào bên trong tòa nhà. Cuối hành lang là ban công khác, nhìn xuống căn phòng lớn hình tròn. Những gì thấy bên dưới khiến Dan hình dung đến trung tâm của bộ chỉ huy quân . Máy tính nằm dọc theo các bức tường, và chính giữa phòng có bàn họp trông như TV màn hình phẳng khổng lồ. Irina Spasky ở đó mình, cúi xuống mặt bàn. Cạnh ả là hàng chồng giấy báo và tập tài liệu. Irina ấn mệnh lệnh lên mặt bàn, khiến cho các hình ảnh to lên hoặc lại. Ả quan sát bản đồ vệ tinh của toàn thành phố.


      Dan dám hó hé lên tiếng, nhưng nó nhìn xoáy vào mắt Amy.


      Em muốn cái như vầy, nó như muốn .


      Điệu bộ của Amy rằng Ngậm miệng!


      Cả hai trườn ra sau các thanh chấn song lan can, quan sát Irina điều khiển tấm bản đồ phóng to nhiều địa điểm khác nhau. Ả kiểm tra quyển Niên giám của Richard nghèo khó, rồi lại cầm ra tập giấy và viết vào đó vài dòng. Xong, ả chộp lấy tập giấy, quyển sách và hối hả lao ra khỏi phòng - trở lại phía cửa ra vào.


      “Amy, thôi!” Dan giạng chân khỏi chấn song lan can.


      “Gãy chân bây giờ!”


      “Cứ bám ở mép lan can và thả người xuống. Em làm trò này mái trường học phải đến cả triệu lần rồi. Dễ như bỡn.”


      Nó làm . Và quả là dễ. Chỉ giây sau, cả hai ở bên cạnh chiếc bàn họp, chăm chú quan sát hình ảnh vẫn còn nhấp nháy màn hình: điểm định vị màu trắng tập trung ở điểm ngay tại Paris. Địa chỉ nổi lên bằng dòng chữ màu đỏ: 23 Rue des Jardins.


      Dan chỉ vào dải màu xanh dương bao quanh chấm trắng. “Đó là nước. Như vậy nghĩa là cái nơi bé mà bà ta muốn tìm phải là hòn đảo.”


      “Đảo St-Louis,” Amy . “Nó nằm sông Seine ngay chính giữa Paris. Em nhớ được địa chỉ ?”


      nhớ.” Rồi Dan phát thấy thứ khác - tấm ảnh nằm cùng chồng tài liệu của Irina. Nó cầm lấy tấm ảnh và lập tức thấy lộn lạo trong dạ dày.


      “Là .” Dan cho Amy xem tấm ảnh - người đàn ông trung niên tóc hoa râm vận áo vest đen, băng qua đường. Tấm ảnh bị mờ, nhưng chắc chắn được chụp ở ngay Paris. Dan biết chắc như vậy căn cứ vào những tòa nhà bằng đá màu vàng và các biển hiệu viết bằng tiếng Pháp. “Gã áo đen cũng có mặt ở đây.”


      Amy tái người. “Nhưng vì sao...”


      Có tiếng phát ra đâu đó trong sảnh: “-J’entends des mouvements. Fouillez le bâtiment[6].” Dan chẳng cần học tiếng Pháp mới biết câu đó có nghĩa gì khác ngoài rắc rối. Nó và Amy chạy về phía ngược lại, xuống hành lang khác.


      “Arrêtez[7]!” Người đàn ông thét lên sau lưng chúng. Ngay lập tức, chuông báo động vang lên inh ỏi.


      [6] “Tôi nghe có tiếng động, hãy kiểm tra tòa nhà”, tiếng Pháp


      [7] “Bắt lấy chúng”, tiếng Pháp.


      “Ồ, tuyệt chưa!” Amy than t


      ngả này!” Dan ngoặt vào góc. Nó thậm chí còn dám ngoái lại. Nó có thể nghe thấy những kẻ kia đuổi theo mỗi lúc gần hơn - tiếng giày nện cồm cộp sàn đá cẩm thạch.


      “Thanh chắn!” Amy cảnh báo.


      Chắc chắn hệ thống tự phòng vệ của tòa nhà được kích hoạt. Trước mặt chúng, hệ thống các thanh kim loại từ trần nhà hạ xuống, cắt ngang đường trở ra sảnh.


      “Trượt vào thanh thứ ba!” Dan thét.


      “Cái gì?” Amy hỏi, ngoái đầu lại nhìn những tay bảo vệ ập đến. Dan chạy về phía trước và trườn người xuống nền đất như thể đó là cú trượt nước, chui tọt dưới các thanh kim loại. “ nào!”


      Amy vẫn lưỡng lự. Các thanh kim loại càng lúc càng thấp xuống - chỉ còn cách mặt đất mét, rồi chỉ còn hơn bảy tấc. Sau Amy là hai gã lực lưỡng trong đồng phục bảo vệ tiến lại nhanh, tay cầm gậy tuần.


      “Amy, nào!”


      Amy hạ người thấp xuống và bắt đầu trườn xuống bên dưới các thanh kim loại. Dan kéo nó qua vừa vặn lúc các thanh đóng kịch xuống sàn. Hai gã bảo vệ cố tóm lấy chúng qua các chấn song, nhưng Dan và Amy chạy vọt mất.


      Cả hai tìm thấy cánh cửa mở và rón rén vào phòng khách.


      “Cửa sổ!” Dan .


      tấm màn kim loại mắt lưới khép xuống bên ngoài cửa kính. được nửa đường rồi. còn thời gian để suy nghĩ nữa. Dan nhặt bức tượng Napoleon bán thân bàn cà phê và ném thẳng vào tấm kính. XOẢNG! Nó nghe được tiếng những tay bảo vệ trong hành lang hét í ới giữa tiếng rú của còi báo động.


      Dan đá vào đám kính vỡ còn sót lại. “ nào!” Nó với Amy. Con bé bò qua và Dan làm theo, vừa thu chân trái lại đúng lúc tấm màn kim loại hạ xuống bậu cửa sổ. Cả hai chạy băng qua khu vườn, trèo qua những cánh cổng sắt, đoạn chạy thẳng ra đường. Hai đứa trốn sau chiếc xe bán kem và nằm sấp xuống đất, thở hổn hển. Dan ngoảnh lại, nhưng có dấu hiệu nào của theo dõi nữa hết - chí ít vẫn chưa có.


      “Chúng ta đừng có làm vậy nữa nhé,” Amy bảo.


      Máu của Dan chạy rần rật. Giờ qua cơn nguy hiểm, nó nhận thấy vừa rồi mới vui làm sao. “Em muốn có kho vũ khí! Và trong những chiếc bàn có lắp màn hình máy tính nữa chứ. Chị nè, tụi mình cũng cần có những tổng hành dinh bí mật của riêng mình nữa!”


      “Ừ, chắc rồi,” Amy đáp, vẫn thở hồng hộc. Con bé móc ra khỏi túi ít tiền lẻ và giấy bạc. “Chị còn chừng hai trăm năm mươi ba euro nữa. Nhiêu đây đủ mua tổng hành dinh bí mật ?”


      Dan tiu nghỉu. Chị nó đâu có cần phải bủn xỉn như vậy chớ, nhưng mà bà chị này lại đúng. Cả hai đốt tiền quá nhanh. Nó cũng chẳng còn nhiều hơn chị nó là bao. Cả hai dành ra phần lớn để đưa Nellie dùng vào các khoản chi phí lại, nhưng như thế cũng đâu có nhiều. Nếu như cả bọn phải đâu đó nữa sau Paris ... Nó quyết định nghĩ tiếp về vấn đề này. Nên giải quyết từ từ từng việc .


      “Hãy trở lại Metro,” Nó gợi ý.


      “Ừ,” Amy đáp. “Trở lại với Nellie. Chị ấy lo lắng đó.”


      Dan lắc đầu. “ phải, chị à. 23 Rue de Jardins. Chúng ta phải tìm xem có gì hòn đảo ấy và phải đến đó trước Irina!”







      CHƯƠNG 13


      CŨNG CÙNG LÚC ĐÓ bên trong chiếc xe kem, nhà Holt trong cuộc hỗn


      Madison nằm lên lưng Hamilton, nện vào đầu nó bằng hộp kem Fudgesicles. Mẹ chúng, bà Mary-Todd, cố gỡ hai đứa ra. Reagan và con chó Arnold chơi kéo co giành giật túi đựng kem Eskimo Pie. Eisenhower, vị lãnh đạo uể oải của gia đình, rống lên, “Dừng lại nào! Cả đội, XẾP HÀNG!”


      Hamilton và Madison rời nhau ra theo hiệu lệnh, bỏ hộp Fudgesicles xuống. Mary-Todd chỉnh trang lại bản thân, trừng mắt nhìn lũ con, rồi nhập trở vào hàng. Reagan cầm túi Eskimo Pies trong tư thế nghiêm. Arnold lăn vòng và giả chết.


      “Được rồi!” Eisenhower lại rống lên. “Ta phải chứng kiến cảnh nồi da xáo thịt chỉ vì mấy món bơ sữa đông lạnh này nữa đâu đấy nhé!”


      Reagan phân bua. “Nhưng mà, cha ơi...”


      “Im lặng! Ta có kem sau khi nhiệm vụ hoàn thành. Và chúng ta chưa xong nếu như ta vẫn chưa nhận đư33ợc bản báo cáo!”


      Madison giơ tay chào. “Cha, xin phép báo cáo!”


      .”


      “Micro quan sát hoạt động.”


      “Tốt. Hai đứa nhãi có lấy được quyển sách ?”


      Madison đáp vẻ tự tin lắm. “ biết, thưa chỉ huy. Nhưng bọn chúng đến số 23 Rue des Jardins, Đảo St-Louis.”


      “Nếu mày ghi đúng địa chỉ lần này.” Hamilton làu bàu.


      Mặt Madison đỏ ửng. “ phải lỗi của em!”


      “Chúng ta cho cả chiếc xe thuê xuống sông Seine rồi đấy!”


      “Ồ, và cũng có những ý tưởng ngon lành đó, Hammy à. Như là vụ nổ ngu xuẩn vào nhầm nhóm ở viện bảo tàng! Hay đốt trụi trang viên của Grace!”


      “Ngừng cãi nhau nào!” Mary-Todd thét lên. “Các con, chúng ta thể cãi nhau miết vậy được. Như thế làm tổn thương tinh thần chiến đấu chung.”


      “Mẹ mày đúng,” Eisenhower . “Ngọn lửa ở trang viên lẫn quả bom trong viện bảo tàng đều là những ý kiến tồi. Lẽ ra chúng ta phải giã hai đứa chúng nó!”


      Arnold rống lên thích thú và cố tợp vào mũi Eisenhower.


      Reagan nhíu mày. Nó chuyển tư thế đầy khó khăn từ chân này qua chân khác. “Nhưng mà, cha à,...”


      “Có vấn đề gì hả Reagan?”


      “Là, là đám cháy ở... ý con là, đám cháy đó có thể giết bọn chúng sao?”


      Madison tròn xoe mắt. “Chúng ta lại thế nữa rồi! Mày lại mềm yếu rồi Reagan ạ!”


      Mặt Reagan đỏ bừng. “ có!”


      “Có!”


      “Im lặng!” Eisenhower lại rống lên. “Bây giờ, hãy nhìn đây mọi người. Chúng ta sử dụng vài biện pháp quyết liệt hòng giành thắng lợi trong cuộc tranh tài này. Chúng ta thể có ai bị mủi lòng ở đây hết. Hiểu chưa?”


      Gã trợn mắt nhìn Reagan, con bé cúi gằm mặt xuống sàn.”Vââng.”


      “Chúng ta đều biết Amy và Dan là cháu cưng của Grace.” Eisenhower tiếp. “Lão già McIntyre hẳn là cung cấp tin nội gián cho chúng nó. Giờ bọn chúng đánh bại chúng ta trong căn cứ địa Lucian trong lúc chúng ta còn mải trò quan sát, đó cũng lại là ý tưởng tồi! Chúng ta còn phải chịu thêm bao nhiêu ý tưởng tệ hại nữa đây?


      đâu, thưa chỉ huy.” Lũ trẻ đồng thanh.


      “Bọn chúng có thể nghĩ chúng ta khôn ngoan,” Eisenhower tiếp. “Bọn chúng cho rằng chúng ta chỉ biết lấy thịt đè người. Được, chúng sắp sửa biết rằng chúng ta còn có thể làm nhiều hơn thế!” Eisenhower giương cơ bắp của gã lên.


      “Tinh thần đồng đội!” Mary-Todd ré lên. “Phải nào các con?”


      “Thưa phải! Tinh thần đồng đội!”


      “Grừừ!” Arnold đáp.


      “Còn bây giờ,” Eisenhower ra lệnh. “Chúng ta phải lấy quyển sách đó. Chúng ta phải giả thiết rằng bọn nhãi kia giữ nó, hoặc chúng biết trong đó có gì. Chúng ta cần đến đảo St-Louis, mà lái chiếc xe chở kem này xuống sông! Ai theo ta?”


      Lũ trẻ và Mary-Todd đồng thanh hô vang. Đoạn cả bọn lại nhớ đến món kem và lũ trẻ trở lại giành giật nhau.


      Eisenhower gầm gừ trong cổ họng. Gã quyết định để mặc xác bọn nhóc giành giật lúc. Có thể biết đâu như thế cũng rèn luyện được tính cách sao.


      Cả đời Eisenhower luôn bị người ta cười sau lưng. Họ cười khi gã phải rời học viện West Point[1]. Cười khi gã thi trượt đầu vào FBI. Thậm chí còn cười nhạo cả lúc làm bảo vệ, gã rượt theo tên trộm cửa hàng và vô tình tự đưa mình vào ngõ cụt. Chỉ là lỗi lầm thông thường. Ai cũng có thể mắc phải.


      [1] Học viện quân West Point Hoa Kỳ, nằm ở làng High Falls, Quận Cam, New York (Mỹ).


      khi giành được chiến thắng trong cuộc tranh tài này, gã trở thành nhân vật Cahill quyền uy mọi thời đại. chẳng còn ai được cười nhạo gã nữa.


      Gã thoi mạnh nắm đấm vào quầy thu tiền chiếc xe tải. Hai đứa trẻ Cahill bắt đầu khiến gã bực bội. Bọn chúng quá giống cha mẹ chúng, Arthur và Hope. Eisenhower biết họ quá . Gã từng có mối ân oán xưa với họ.


      Sớm muộn gì Amy và Dan cũng phải trả giá.





      CHƯƠNG 14


      AMY MUỐN ĐẾN ĐẢO ST LOUIS NHANH, thế nhưng dạ dày của nó lại có ý kiến khác. Cả hai ngang qua boulangerie, hẳn từ đó có nghĩa là bánh mì căn cứ vào những mùi hương ngon lành tỏa ra, và Dan với chị nó quay sang nhìn nhau.


      “Chỉ dừng lần thôi nhé,” Cả hai đồng thanh.


      Vài phút sau, hai chị em ngồi đung đưa ke dọc con sông, cùng thưởng thức bữa ăn ngon lành nhất chúng từng được nếm. Chỉ là ổ bánh mì thôi, nhưng Amy chưa từng được chén món gì ngon như thế.


      “Thấy kia ?” Amy trỏ vào đỉnh nhà thờ gần đó, nơi có thanh sắt đen vươn lên khỏi tháp chuông. “Đó là cột thu lôi.”


      “Ừ,” Dan ngồm ngoàm trả lời.


      “Người Pháp chính là những người đầu tiên ứng dụng thử lý thuyết cột thu lôi của Franklin. Rất nhiều tòa nhà cổ vẫn còn dùng các kiểu cột thu lôi ban đầu của Franklin.”


      “Ừa!” Dan hào hứng , nhưng Amy liệu cu cậu thích món bánh mì hay thích câu chuyện nó vừa kể.


      Mặt trời lặn dần sau dải mây đen kịt. Sấm rền từ phía xa, nhưng dường như người dân Paris quan tâm đến điều đó. Người chạy bộ, chơi lướt ván vẫn đông đúc dọc bờ sông. chiếc tàu du ngoạn đầy ắp du khách vẫn lững lờ dòng sông Seine.


      Amy thử dùng điện thoại của bọn Starling để gọi cho Nellie nhưng được. ràng điện thoại này chưa được cài đặt để bắt tín hiệu tại Pháp.


      Tâm trí Amy vẫn còn đầy ắp những thứ vừa thực trong cuộc đột nhập căn cứ địa nhà Lucian. Bất kể tất cả các biện pháp an ninh, cả hai lọt vào và thoát ra khá dễ dàng, nó chắc vì sao lại như thế. Nó cũng thích những món Dan cuỗm - pin của Franklin và cái miếng kim loại hình cầu quái gở kia. Nhưng Amy biết thà như vậy còn hơn là cãi cọ với nhóc về chuyện này. khi nó vớ được món gì đó đừng hòng bắt nó nhả ra.


      Amy thắc mắc biết làm sao Irina Spasky cuỗm được quyển sách từ tay lão Alistair, và vì sao ả lại quan tâm đến đảo St - Louis. Cảm giác như đây là cái bẫy, nhưng cũng chính là đầu mối duy nhất của Amy - hay chí ít là đầu mối duy nhất nó muốn nghĩ đến. Ghi chú của mẹ trong quyển Niên giám của Richard nghèo khó - Mê cung xương - vẫn còn khiến nó nhiều lần thấy rùng mình.


      Amy cố hình dung xem nếu ở vị trí của mình mẹ nó hoặc là Grace làm gì. Họ chắc chắn quả cảm hơn. hiểu hơn đâu là những việc cần làm. Mẹ từng tìm kiếm những đầu mối này. Giờ Amy chắc chắn về điều đó. Grace quyết cho Amy đón lấy thử thách này, nhưng nếu nó chẳng có đủ tài cán để đảm trách thì sao?


      Đến bây giờ nó thấy như mình vừa làm công việc kinh khủng. Mỗi lần cần lên tiếng, Amy đều thất bại. Những nhóm kia hẳn cho rằng nó chỉ là kẻ thua cuộc thiếu lưỡi. Nếu vì Dan, chắc hẳn nó thua rồi. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi cũng khiến cổ họng nó nghẹn lại.


      Cả hai chén xong ổ bánh mì. Amy biết chúng cần phải tiếp. Nó nhìn bầu trời đêm dần buông xuống và cố nhớ lại những chi tiết trong quyển sách hướng dẫn du lịch Paris. “ có tuyến xe điện ngầm nào đến đảo St - Louis,” nó bảo. “Chúng ta phải cuốc bộ.”


      thôi!” Dan nhảy vụt xuống đất.


      Amy sao tin nổi tinh thần của cu cậu vụt lên nhanh như vậy. Chỉ mới vài phút trước thôi, nó còn càm ràm về chân cẳng và chiếc ba lô nặng trĩu. ây giờ, chỉ nhờ mẩu bánh mì, thằng bé ngon lành như chưa có chuyện gì xảy ra. Amy ước sao mình cũng được như vậy. Nó cảm thấy mình cần phải nằm xuống và thiếp hàng thế kỷ, nhưng nó điều này với Dan.


      Khi hai đứa đến được cầu Louis-Philippe trời tối hẳn. Cây cầu đá cũ kỹ với hai hàng đèn đường hắt bóng xuống mặt nước. Phía bên kia cầu là hàng cây cối và những tòa biệt thự - chính là đảo St - Louis. Phía Bắc là hòn đảo lớn hơn, với giáo đường khổng lồ thắp sáng bừng ánh vàng bầu trời.


      “Kia chính là Ile de la Cité,” Amy chỉ cho Dan lúc hai đứa băng qua, như để giữ cho mình bình tĩnh. “Và đó chính là nhà thờ Đức Bà.”


      “Tuyệt,” Dan . “Chị nghĩ tụi mình có thể xem thằng gù ?”


      “Ừm... thôi để sau .” Amy quyết định kể cho Dan biết thằng gù nhà thờ Đức Bà chỉ là nhân vật hư cấu. “Dù sao hòn đảo hơn mà chúng ta đến - đảo St - Louis - các quyển sách du lịch hề gì về nó hết. Hầu như chỉ có các căn nhà cổ, cửa hiệu cùng vài thứ linh tinh. Chị biết vì sao Irina lại đến đó tìm kiếm nữa.”


      có trong tiểu sử của Ben Franklin nốt?”


      Amy gật đầu. “Trước kia người ta gọi đó là đảo Bò, vì chỉ có mỗi loài bò sống ở đây. Rồi dân cư bắt đầu đến đó sinh sống.”


      “Bò à,” Dan . “Vui à nha.”


      Sau tất cả những cảnh Paris mà hai đứa chứng kiến, đảo St - Louis trông như thị trấn bị bỏ hoang. Những con phố hẹp, hai bên là những tòa nhà tao nhã cổ kính - cao năm tầng với mái có đầu hồi đen. Cửa sổ hầu hết đều sẫm tối. Nhiều cửa hàng đóng cửa. Đèn đường đổ những cái bóng quái dị qua những tán cây, tạo thành những hình thù như quái vật tường. Amy qua rồi cái tuổi còn tin vào quái vật, nhưng những cái bóng ấy vẫn khiến nó thấy bất an.


      cặp vợ chồng cao tuổi băng qua đường ngay trước mặt chúng. Amy thắc mắc biết có phải đó chỉ là do trí tưởng tượng của nó, hay người đó cũng liếc nó với vẻ đầy hoài nghi trước khi biến mất vào con hẻm. Ở phố kế tiếp, gã đội mũ beret dắt con Labrador giống dạo. Gã mỉm cười khi bước qua Dan và Amy, nhưng cách mà gã ta cười khiến Amy nhớ đến Ian Kabra - như thể gã biết bí mật nào đó.


      Mày chỉ hoang tưởng thôi, nó tự trấn an. Hay có thể nào vẫn còn những người khác dò theo các đầu mối, những người thậm chí thuộc về bảy đội chính thức tham gia cuộc tranh tài? Nó liếc sang Dan và quyết định gì về điều này... chưa phải lúc. Cuộc tranh tài thực đem đến quá đủ những mệt mỏi rồi.


      thêm chừng năm mươi thước nữa, cả hai tìm thấy Rue des Jardins. Nó hẹp hơn các con đường xung quanh, với những tòa nhà bằng đá đổ nát. Hẳn rằng chúng diện ở đó hàng nhiều thế kỷ.


      Amy đếm số đường. Bỗng nó đột ngột dừng lại. “Dan... 23 Rue des Jardins. Em chắc ?”


      “Chắc. Sao vậy?”


      Amy chỉ tay. hề có tòa nhà nào ở số 23 Rue des Jardins. Thay vào đó là nghĩa trang , được bao quanh bởi hàng rào bằng sắt rỉ sét. Phía cuối là lăng mộ bằng đá cẩm thạch. Phía trước là cả tá bia mộ rêu phong nằm xiên chĩa ra khắp mọi hướng như những chiếc răng mọc lệch.


      Nghĩa trang nằm kẹp giữa các tòa nhà cao xung quanh. Tòa nhà bên phải viết là MUSÉE[1]. Tòa nhà bên trái hẳn từng là cửa hiệu nào đó trước kia, những cánh cửa sổ nay bị phủ sơn đen kịt, cửa cái bị bít kín bằng ván. Chỉ có nguồn sáng màu cam mờ mịt duy nhất từ bầu trời thành phố về đêm, thứ ánh sáng ấy khiến cho nơi đây thêm phần sởn tóc gáy.


      [1] Bảo tàng, tiếng Pháp.


      “Chị ưa chỗ này.” Amy lên tiếng. “Chẳng thể có dính dáng nào tới Franklin ở cái chốn này được.”


      “Làm sao chị biết chứ?” Dan thắc mắc. “Thậm chí là chúng ta chưa tìm kiếm mà. Mấy tấm bia mộ kia coi bộ ngon lành quá!”


      được đâu Dan. Em được tiếp tục cái trò khắc bia ấy nữa.”


      “Chậc...” Nó bước qua cổng nghĩa trang và Amy còn cách nào khác ngoài theo nó.


      Những tấm bia chẳng cho chúng biết được điều gì cả. Ngày xưa, hẳn đó vẫn còn các chữ viết, nhưng giờ đây tất cả bị mòn nhẵn sau nhiều thế kỷ. Tim Amy đập liên hồi. Có gì đó ổn ở đây. Con bé thử nặn óc, cố suy luận xem nơi này có thể quan trọng đối với Ben Franklin hay , nhưng nó tìm ra được điều gì.


      cách thận trọng, Amy đến gần lăng mộ. Lúc nào nó cũng ghét cay ghét đắng những nơi chôn cất nằm lộ mặt đất. Chúng khiến đầu nó nghĩ đến những căn nhà búp bê dành cho người chết.


      Các cánh cửa bằng sắt để ngỏ. Amy lưỡng lự tiến lại gần. Đứng cách đó chừng năm thước, nó sao nhìn thấy thứ gì đặc biệt bên trong - chỉ là những tấm bảng cũ rích đề tên treo thành hàng tường - nhưng còn có tấm cẩm thạch nằm mặt đất ngay trước lối ra vào. Ngay lập tức, Amy quan sát thấy những gì ghi đó mới hơn nhiều so với cả nghĩa trang. Trông như người ta chỉ vừa mới khắc.






      “Chu choa,” Dan thốt lên. “Tại sao lại là tên của tụi mình vậy nè...”


      thông điệp nào đó chăng...” Amy ước ao cách tuyệt vọng rằng nó đọc được tiếng Pháp ngay lúc này. Nếu về lại khách sạn, nó hứa với lòng mình để Nellie kèm cho khóa tiếng Pháp.


      “Vào trong, nha?” Dan gợi ý.


      , là cái bẫy đó!


      Nhưng nó vẫn tiến về phía trước và mặt đất bất ngờ sụp xuống. Tấm đá cẩm thạch rơi, kéo theo cả Dan.


      “DAN!”


      Amy chạy đến rìa hố, nhưng mặt đất vẫn chưa ngừng rung chuyển. Đất và đá cứ rơi xuống liên tục bên dưới hố và Amy ngã lộn nhào vào màn đêm.


      Chỉ trong tích tắc, đầu óc con bé mụ mẫm đến nỗi suy nghĩ được gì. Nó ho hắng, phổi hít đầy bụi. Amy vẫn ngồi cái gì đó mềm mềm và ấm...


      “Dan!” Trong cơn hoảng hốt, Amy sờ khắp người đứa em, lay lay cánh tay thằng bé, nhưng thể thấy được gì cả vì quá tối. “Dan, còn sống mà, xin em đấy!”


      “Ừm...,” Dan rên rỉ.


      “Ôi em sao chứ?”


      “Chị của em vừa ngồi lên người em với cái mông đầy xương xẩu. Sao mà ổn cho nổi.”


      Amy thở phào hơi, nhõm cả người. Nếu mà thằng bé bực dọc tức là nó vẫn sao. Amy loạng choạng đứng dậy, đất và đá lổn nhổn dưới chân. Ngẩng đầu nhìn lên, nó có thể thấy miệng chiếc hố mà cả hai vừa rơi xuống. Tụi nó ở trong nơi giống như chiếc hố sụt.


      “Đất bị khoét nơi khác,” Amy . “Nền đất ở đây là đá vôi. Ở dưới Paris có rất nhiều hang động, đường hầm. Chị chắc là tụi mình chỉ tình cờ rơi xuống đây thôi.”


      “Tình cờ hả?” Dan ngạc nhiên. “Irina cố tình dụ chúng ta đến đây có!”


      Amy biết có lẽ cậu nhóc đúng, nhưng nó muốn nghĩ đến điều này... hay nghĩ đến điều gì xảy ra tiếp theo. Cả hai phải ra khỏi đây. Amy lần tay quanh cạnh hố, nhưng chỉ có thế - cái hố hơn kém. có đường hầm bí mật, có lối thoát. Chỉ có cách duy nhất là trèngược lên và cả hai rơi xuống dễ chừng đến năm thước. gẫy cái xương nào phép màu rồi.


      Bỗng nhiên, luồng ánh sáng từ bên làm Amy bị lóa mắt. “Được lắm,” giọng đàn ông vang lên.


      “Ẳng!” Con chó hùa theo.


      Đến khi mắt quen được với ánh sáng, Amy trông thấy có tới năm người, vận đồ thể thao màu tím cúi xuống mỉm cười với mình và cả con chó ngao rất ư khoái chí.


      “Nhà Holt!” Dan thốt lên. “ rồi. Chính các người giúp Irina giăng bẫy tụi này!”


      “Thôi, thôi nào, oắt,” Madison vọng xuống. “Bọn ta bắt ai cả.”


      “Phải,” Reagan đế thêm. “Tự tụi mày té mà.”


      Madison và nó đập bàn tay vào nhau và phá lên cười.


      Tay Amy bắt đầu run rẩy. Đây hệt như các cơn ác mộng của nó... bị kẹt trong cái hố, đám đông cười nhạo vào mũi nó. Nhưng đây lại là .


      “Vậy .” Eisenhower tiếp tục vọng xuống. “Có phải hai đứa bây tìm nó ? Đây chính là Mê cung xương, đúng nào?”


      Tim Amy thắt lại. “Cái gì... các người gì?”


      “Ôi, thôi nào, nhóc! Bọn ta biết hết về mê cung xương rồi. Bọn ta đọc hết quyển Niên giám.”


      “Các người giữ quyển sách sao? Nhưng mà Irina...”


      cuỗm mất nó từ tay bọn ta,” Eisenhower gầm lên. “Sau khi bọn ta cuỗm từ tay lão già Hàn Quốc. Do đó bọn ta truy cho ra tổng hành dinh của ả, nhưng bọn mày vào đó trước khi bọn ta đột nhập vào bên trong. Giờ bọn mày quyển sách trong tay và đến đây, điều này có nghĩa là bọn mày phải biết cái gì đó rồi.”


      “Nhưng tụi này làm gì có quyển sách!” Amy trả lời lại. “Thậm chí còn có cơ hội để mà...”


      “Ồ, thôi ,” Hamilton . Mái tóc vàng xức kem bóng nhẫy của nó ánh lên trong đêm. “Nó ở ngay trang 52 - BF: Mê cung Xương, tọa độ trong chiếc hộp. Đó là chữ viết của mẹ hai đứa bây. Cha tao nhận ra.”


      Toàn thân Amy run rẩy. Nó ghét như vậy, nhưng sao trấn tĩnh được. Nhà Holt đọc nhiều hơn nó. Bọn họ tìm thấy thông điệp khác mà mẹ để lại: Mê cung Xương, tọa độ trong chiếc hộp. Nó hiểu chỗ Mê cung Xương, chí ít nó sợ mình ... nhưng còn tọa độ gì đó trong hộp sao?


      “Tôi... tôi biết nó có nghĩa gì hết,” Amy trả lời. “Tụi này có quyển sách. Nhưng nếu các người để tụi này ra khỏi đây, có thể tôi ...”


      “Đúng thế, chính xác!” Madison cười khinh bỉ. “Tức là bọn tao đây giúp mày!”


      Bọn chúng lại cười sằng sặc - cả nhà Holt, chế giễu Amy tội nghiệp.


      “Làm ơn im ,” Con bé thào. “Đừng...”


      “Oái, nó khóc bây giờ.” Hamilton nhe răng cười nhăn nhở. “Trời ạ, hai đứa mày trông thảm hại chưa kìa. thể tin được bọn mày lại thoát khỏi đám cháy và vụ nổ bom.”


      “Cái gì?” Dan quát. “Chính các người đốt trang viên của Grace sao? Chính các người cho nổ bom ở viện bảo tàng sao?”


      “Để chậm bước chúng mày lại,” Eisenhower thừa nhận. “Bọn tao lẽ ra đập cho chúng mày trận. Rất tiếc là vẫn chưa.”


      Dan ném hòn đá, nhưng nó chỉ đến giữa hai chân của Reagan cách vô hại. “Bọn ngu xuẩn! Hãy thả bọn tao RA KHỎI đây!”


      Reagan chau mày, còn Madison và Hamilton quát lại Dan. Con Arnold sủa nhặng cả lên. Amy biết cứ như thế này chẳng đến đâu. Hai đứa phải thuyết phục nhà Holt cho mình ra khỏi cái hố, nhưng nó thể nào thốt nên lời. Nó chỉ muốn cuộn lại thành quả bóng và núp cho xong.


      Rồi mặt đất rung chuyển. Có tiếng ầm ầm như thanh của động cơ rất lớn. Nhà Holt ngoảnh cả về phía con đường và thảng thốt bởi thứ mà chúng trông thấy.


      “Bọn-oắt-tinh-ranh-chúng-mày!” Eisenhower quắc mắt nhìn hai đứa. “Có mai phục ở đây, hử?”


      “Ông cái gì vậy?” Dan hỏi lại.


      “Chiếc xe tải chặn các cánh cổng lại!” Mary-Todd . “ chiếc xe chở xi măng.”


      “Cha ơi, nhìn kìa,” Reagan kêu lên giọng hoảng hốt. “Bọn chúng có cả cuốc xẻng.”


      Cảm giác về nguy hiểm trong Amy bắt đầu râm ran. Dan quay sang nó, và nó biết cậu em nghĩ đúng điều mà mình nghĩ.


      “Bọn chúng lấp cái hố này lại,” Dan với Amy. “Có phải ?”


      Amy gật đầu yếu ớt.


      “Ông Holt ạ!” Dan bắt đầu nhảy loi choi như con khuyển Arnold, nhưng thể nào với tới miệng hố. “Coi nào, các người phải để tụi này ra khỏi đây! Tụi này giúp cho!”


      Gã Holt khịt mũi. “Chính tụi mày dẫn chúng tao vào cái bẫy này! Còn nữa, đám nhãi tụi mày biết đánh đấm gì.”


      “Cha ơi,” Reagan nài nỉ. “Có thể chúng ta nên...”


      “Nín con nhóc kia,” Hamilton gào lên. “Chúng ta có thể lo liệu được vụ này!”


      “Reagan ơi!” Dan thét lên. “ mà! mấy người kia cho tụi này lên .”


      Reagan chỉ biết nhíu mày và nhìn chằm chằm xuống đất.


      Dan tuyệt vọng nhìn sang Amy. “Chúng ta phải làm cái gì đó chứ. bọn kia là chị có thể hiểu được quyển sách, nào!”


      Nhưng ngôn ngữ hề phát ra. Amy thấy như mình bị ngập chìm trong xi măng. Cậu em cần nó giúp. Nó phải cái gì đó. Nhưng nó lại đứng ì ra đó, đông cứng lại, vô vọng và căm ghét bản thân vì nó quá sợ hãi như thế.


      “N-N-NÀY!” Dan thét lên. “Amy biết đầu mối gì đó! Chị ấy cho mấy người nếu mấy người đưa tụi này ra khỏi hố!”


      Gã Holt quắc mắt vẻ giận dữ. Amy biết chắc gã chẳng đời nào làm vậy. Cả hai kẹt cứng ở đây vĩnh viễn, bị vùi trong xi măng. Nhưng rồi Holt Bố lại cởi chiếc áo khoác thể thao của gã ra và thả xuống hố. “Nắm lấy tay áo nào.”


      Chỉ trong tích tắc, Amy và Dan miệng hố. Đúng là có chiếc xe chở xi măng phong kín cổng nghĩa trang. Sáu tên du đãng mặc áo trùm và nón bảo hộ xếp hàng ngay trước hàng rào, lăm le cuốc xẻng tay như sẵn sàng muốn đánh nhau.


      “Cả đội chú ý,” Gã Holt bằng giọng hết sức phấn chấn. “Hãy cho chúng biết chúng ta giải quyết ra sao - phong cách nhà Holt nhé!”


      Cả gia đình sấn về phía trước. Gã Holt vung tay chộp lấy cái xẻng của tên đầu tiên ném phăng vào bên hông chiếc xe xi măng cùng với cả tên này tay vẫn còn nắm cán. BANG! Hai đứa con , Madison và Reagan, cùng húc vào tên khác mạnh đến nỗi bay vèo sang bên kia đường và tông thẳng vào cửa sổ cửa hàng hoa. Arnold cắn vào chân tên thứ ba và cứ thế khép chặt bộ hàm thép của nó. Mary-Todd cùng Hamilton quẳng tên thứ tư vào máng xả đằng sau xe. Đầu đập vào cái đòn bẩy và ngay lập tức xi măng tràn ra khắp con đường.


      Rủi thay, vẫn còn lại hai tên, và bọnao thẳng đến chỗ Dan và Amy. Nỗi sợ hãi bóp nghẹt cổ họng Amy. Nó nhận ra khuôn mặt chúng - chính là hai tên bảo vệ ở tổng hành dinh Lucian. Trước khi Amy kịp nghĩ ra phương án đối phó, Dan mở khóa ba lô của nó và lấy quả cầu bạc sáng loáng ra.


      “Dan, đừng!” Amy thốt lên. “Em được...”. Nhưng nó dừng lại.


      Dù có môn bóng chày cỡ nào chăng nữa, nhóc Dan vẫn là đứa ném bóng tệ hại nhất thế gian. Quả cầu bay vèo qua hai tên du đãng dí theo cả hai và nổ ngay dưới chân gã Holt, phát ra luồng ánh sáng màu vàng chói lóa. thanh tựa như cái tang trống to nhất thế giới vừa bị búa tạ giáng vào. Amy lóa cả mắt. Khi vừa kịp định thần, nó thấy cả nhà Holt và đám du đãng vừa quần thảo với nhau giờ đây nằm la liệt dưới đất, bất tỉnh - ngoại trừ hai tên mà Dan định tấn công. Hai tên chỉ bị choáng váng, loạng choạng và lắc đầu lia lịa.


      Amy hoảng hốt nhìn sang Dan. “Em vừa làm cái gì vậy?”


      Dan trông đầy vẻ kinh ngạc. “Ừm, lựu đạn gây chấn động, em nghĩ vậy. Như cái ở viện bảo tàng ấy! Em vừa hạ đo ván cả đám.”


      Hai tên du đãng vẫn còn loạng choạng thêm lúc nữa, rồi tập trung trở lại vào Dan và Amy. Trông chúng vui tí nào.


      “Chạy !” Dan kéo Amy vào đằng sau lăng mộ, nhưng còn lối nào nữa - chỉ là hàng rào sắt khác, và cách phía sau vài thước là mặt sau của tòa nhà - tường gạch, cao tới hơn mười lăm thước.


      Tuyệt vọng, cả hai đành trèo rào. Áo Amy bị vướng ở cùng, nhưng Dan kéo nó qua được. Cả hai nép sát vào bức tường đằng sau tòa nhà. hề có hẻm. lối thoát. Cả hai bị mắc kẹt. Giá như chúng có món vũ khí... và rồi Amy phát ra đầu óc nó cũng chưa đến nỗi bị sợ hãi làm cho mụ mẫm hẳn. Tiếng nổ khiến nó tỉnh táo trở lại. Nó biết cả hai cần gì lúc này. “Dan, cục pin Franklin!”


      “Làm được tích gì với cái đó?”


      Nó mở phăng ba lô của nhóc Dan và lấy cục pin ra. Cả hai tên du đãng thận trọng bước lại gần - chắc hẳn tự hỏi biết Dan có còn trái lựu đạn nào nữa . Amy gỡ dây đồng của cục pin và bảo đảm sao cho các đầu dây đều hở ra. “Hy vọng nó được sạc.”


      “Chị làm gì thế?” Dan thắc mắc.


      “Franklin thường đùa bằng cách này,” Chị nó đáp. “Để làm bạn ông giật mình. Có thể nếu như nó đủ dung dịch...”


      Hai gã kia đến bên hàng rào. tên xổ tràng tiếng Pháp. Nghe giống như lệnh bắt hai đứa đầu hàng. Amy lắc đầu.


      Khi cả hai tên bắt đầu leo qua rào, Amy nhảy bật về phía trước. Nó cho đám dây chạm vào hàng rào và cả hai tên hét toáng lên. Những tia sáng xanh lóe ra từ các thanh kim loại. Khói bốc lên từ bàn tay chúng và cả hai ngã ngửa ra sau, bất tỉnh. Amy ném cục pin .


      thôi!” Amy thét.


      Chỉ loáng, cả hai trèo qua hàng rào. Chúng chạy ra khỏi nghĩa trang, chạy qua gia đình nhà Holt và những tên du đãng nằm bất tỉnh, qua cả chiếc xe xi măng bị lật nhào.


      Amy cảm thấy chút tội lỗi khi bỏ lại bọn nhà Holt trong tình trạng bất tỉnh nhân , nhưng cả hai còn cách nào khác.


      Hai đứa chạy ngừng nghỉ cho đến lúc băng quá nửa cầu Louis Philippe. Amy dừng lại, lấy hơi gấp. Ít nhất chúng cũng an toàn. Chúng thoát khỏi cái bẫy.


      Nhưng khi nhìn lại, Amy thấy thứ khác còn khiến nó sợ hãi hơn cả lúc ở nghĩa địa. Ngay giữa những cái bóng dưới chân cầu, cách xa hàng trăm thước nơi chúng sắp đến là người đàn ông tóc hoa râm trong chiếc áo khoác màu đen.


      Và Amy biết chắc gã ta theo dõi chúng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 1


      DAN NGHĨ NELLE SẮP SỬA GIẾT CHÚNG ĐẾN NƠI. Chưa khi nào nó thấy mặt Nellie đỏ như lúc này.


      “Hai đứa làm cái giống gì vậy?” lại lại trong căn phòng khách sạn bé xíu. “Hai tiếng đồng hồ, hai đứa vậy. Hai tiếng đồng hồ đó. Còn chị đứng ngoài khách sạn cứ như vĩnh viễn, hai đứa mất tăm mất tích. Gọi điện cũng . Chị nghĩ hai đứa toi rồi chớ!” Nellie lắc chiếc iPod để nhấn mạnh ý vừa và hai tai nghe khua loạn xạ.


      “Điện thoại tụi em gọi được,” Amy , giọng ngượng ngùng.


      “Tụi em bị phục kích dọc đường,” Dan bổ sung thêm. “Có cả lựu đạn gây chấn động và xe chở xi măng và cục pin. Thêm ổ bánh mì.”


      Dan khá chắc rằng nó liệt kê hết các chi tiết quan trọng, nhưng Nellie trông cứ nghệt ra chẳng hiểu mô tê gì.


      “Kể từ đầu ,” Nellie ra lệnh. “Và đừng dóc đấy.”


      Lúc đó Dan cũng mệt lử rồi chẳng còn hơi sức đâu mà dối nữa và nó kể bằng hết câu chuyện - thậm chí kể luôn về ba mươi chín đầu mối - còn Amy lấp vào những thứ nó quên kể.


      “Vậy cả hai suýt chết,” Nellie bằng giọng . “Mấy thằng khốn đó suýt đổ xi măng lên hai đứa.”


      “Chắc chỉ chút xi măng thôi,” Dan bảo.


      “Còn bia mộ ghi gì?” Nellie hỏi tiếp.


      Dan biết tí tẹo nào tiếng Pháp, nhưng lập tức nó nhớ hết từng chữ tấm cẩm thạch. Dan lặp lại từng chữ cho Nellie.


      “Nơi đây an nghỉ Amy và Dan Cahill,” dịch lại, “Những kẻ chõ mũi vào chuyện của người khác.


      “Đích thị là tội lỗi của Irina Spasky!” Dan . “Chính ả dụ chúng ta vào đó. Cả câu chuyện này là sắp đặt sẵn.”


      “Và tụi em thậm chí cũng thể trả lương cho chị,” Dan thêm cách bi đát. “Chúng ta còn đủ tiền để đón chuyến bay về nhà... Em... em thực xin lỗi chị, chị Nellie ơi.”


      Nellie đứng như trời trồng. Màu trang điểm mắt của Nellie hôm nay là màu đỏ, càng khiến mắt trông giận dữ hơn. Hai tay khoanh lại trước ngực, áo có hình gã chơi punk rock gào thét. Nhìn tổng thể, trông Nellie khá ư đáng sợ. Rồi chộp lấy Amy và Dan, ôm chúng chặt.


      quỵ gối xuống để nhìn thẳng vào mắt chúng. “Chị vẫn còn tiền trong thẻ Master. Chúng ta sao.”


      Dan bối rối. “Nhưng mà... chị giết tụi em chứ?”


      “Chị giúp hai đứa, ngốc à.” Nellie lắc lắc vai nó. “ ai được cà chớn với người giữ trẻ.”


      “Au pair chứ,” Dan chỉnh lại.


      “Sao cũng được! Giờ ngủ . Ngày mai chúng ta phải xử lý bọn vô lương tâm kia.”


      ***


      Maisons des Gardons có nghĩa là nhà vườn. Thực ra, gardons có nghĩa là gián. Dan phát ra điều này vì Nellie kể cho nó, và cũng vì cả đêm nó nghe thanh sột soạt dưới sàn. Nó ước gì có con Saladin ở đây. Con mèo chắc hẳn rất hào hứng chơi trò săn mồi ban đêm.


      Buổi sáng, mắt ai cũng thâm quầng, nhưng cả bọn tắm rửa và thay đồ mới tươm tất. Nellie từ nhà hàng ở góc đường trở về phòng với phần cà phê cho riêng mình, sô la nóng cho Dan và Amy và pain au chocolat[1] cho cả bọn. Dan hình dung ở quốc gia nào mà người ta còn ăn sáng bằng sô la h đến nỗi tồi tệ toàn phần.


      [1] Bánh cuộn sô la, tiếng Pháp.


      “Thế,” Dan , “Hôm nay em có thể lấy thêm ít lựu đạn ?”


      !” Amy gạt . “Dan, may cho em đó mới chỉ là lựu đạn tạo chấn. Em có thể làm hại cả nhà Holt rồi.”


      “Và như vậy là tốt vì...?”


      “Được rồi, bỏ qua ,” Nellie cắt ngang. “Quan trọng là giờ hai đứa an toàn.”Amy cầm lên miếng bánh sừng bò. Sáng nay trông nó nhợt nhạt, tóc tai rối bù. “Dan... chị xin lỗi em chuyện tối qua. Chị... chị hoảng quá. Suýt nữa tại chị mà hai đứa mình bị giết rồi.”


      Dan quên gần hết chuyện đó rồi. Có thể khi ấy nó khá bực với Amy, nhưng khó mà cứ giận dỗi mãi được khi nhìn Amy ăn năn và thảm não.


      Còn chưa kể con bé làm rất tuyệt với cục pin, hoàn toàn có thể bù lại cho cái ẩm ương kia.


      “Đừng lo gì hết,” Dan trấn an.


      “Nhưng nếu chuyện lại xảy ra ...”


      “Này, nếu chúng ta lại để Irina cho vào tròng lần nữa, chúng ta còn ngu hơn cả bọn Holt.”


      Amy trông chẳng an tâm cho lắm. “Điều mà chị hiểu được ở đây chính là gã mặc đồ đen. Vì sao đêm qua lại có mặt ở đó? Và nếu bọn Holt chính là người thiêu rụi trang viên của Grace và tạo ra vụ nổ ở viện bảo tàng...”


      “Vậy gã áo đen đó làm gì ở cả hai nơi ấy?” Dan kết thúc câu hỏi của Amy. “Vì sao Irina lại có hình chụp gã?”


      Nó chờ Amy đáp lại kiểu “ồ-chị--làm-báo-cáo-đọc-sách-vụ-này-năm-ngoái-rồi”, nhưng chị nó tiếp tục cau có nhìn đăm đăm vào bữa ăn sáng.


      “Có lẽ hai đứa nên tập trung nghĩ xem chúng ta đâu tiếp theo.” Nellie khuyên.


      Amy hít hơi sâu. “Em nghĩ em biết mình đâu rồi. Dan, chị mượn laptop của em được ?”


      Nó ngó Amy chằm chằm, vì Amy đâu có ưa gì máy tính. Nhưng rốt cuộc nó cũng xách máy qua đưa chị nó và Amy bắt đầu tìm kiếm Internet.


      Chẳng mấy chốc, con bé với khuôn mặt nhăn nhó, xoay màn hình cho cả hai cùng xem. Bức hình cho thấy chồng xương người chất đống trong căn phòng đá tối om.


      “Em nghi ngờ vụ này lúc rồi,” Amy , “Nhưng em mong mình sai vì như thế rất mạo hiểm. Đó chính là dòng ghi chú của mẹ trong quyển Niêm giám của Richard nghèo khó. Chúng ta phải khám phá Hầm mộ[2].”


      [2] Catacombs hay Hầm mộ Paris, là nghĩa địa của thành phố Paris. Vốn là hầm mỏ cũ, từ năm 1786 được dành để chứa các hài cốt. Với chiều dài 1,7km, địa điểm mở cửa cho khách viếng thăm của hầm mộ nằm ở quảng trường Denfert-Rochereau.


      “Đó là nơi người ta nuôi mèo đúng chị?” Dan thắc mắc.


      Với Dan, đó là câu hỏi hết sức hợp lý, nhưng Amy lại ném cho nó cái nhìn “ông-ngu-quá-thể-ông-ơi”.


      “Hầm mộ, phải hầm nuôi mèo, là cái mê cung dưới lòng đất,” Amy giải thích. “Chị với em rằng ở Paris này chằng chịt những hang động và đường hầm rồi, phải ? Tất cả chỗ đá vôi họ dùng để xây nên thành phố này, kể từ thời người La Mã còn chiếm đóng, đều được đào lên từ lòng đất và để lại cả mạng lưới những gi trống bên dưới. Có chỗ chỉ là những cái hố, như nơi chúng ta rơi xuống tối qua.”


      “Và số khác là mạng lưới chằng chịt các đường hầm,” Nellie thêm vào. “Đúng vậy, chị nhớ là có nghe về điều này. Và chúng chất đầy những bộ xương, phải nào?”


      “Em muốn có căn phòng trang trí toàn bằng xương!” Dan . “Ở đâu ra đám xương đó nhỉ?”


      “Từ các nghĩa trang,” Amy trả lời. “Trở lại thế kỷ 18, các nghĩa trang trở nên chật chội, do đó họ quyết định đào lên hàng đống xác chết cũ - tất cả chỉ còn là xương - và chuyển chúng vào Hầm mộ. Vấn đề là... hãy nhìn ngày tháng xem. Hai người có thấy khi nào họ bắt đầu mang xương vào Hầm mộ ?”


      Dan liếc nhìn màn hình. Nó hiểu ý chị mình . “Đó là sinh nhật của em?”


      phải, đồ óc bã đậu. Nhìn kìa. Năm 1785. Phải đến năm sau đó người ta mới chính thức công bố mở nó ra, nhưng bắt đầu dự án và di chuyển các bộ hài cốt vào năm 1785. Cũng chính là năm cuối cùng Benjamin Franklin còn ở Paris.”


      “Ú òa. Ý chị là...”


      “Ông ấy giấu món đồ xuống dưới đó.”


      Mọi thứ trở nên yên ắng đến độ Dan có thể nghe cả tiếng lũ gián rột roạt dưới tủ.


      “Vậy ,” Nellie , “Chúng ta phải xuống dưới mặt đất, vào mê cung đầy xương người và tìm... dù nó là cái gì nữa.”


      Amy gật đầu. “Đó là chưa kể Hầm mộ rộng thênh thang. Chúng ta biết phải kiếm ở đâu. Điều duy nhất mà chị nghĩ ra được bây giờ là... có lối vào dành cho mọi người. đây ghi là nó nằm bên kia Ga Denfert-Rochereau, quận 14.”


      “Nhưng nếu đó là lối duy nhất dành cho mọi người,” Dan , “ các nhóm kia cũng có thể đến đó. Mọi người cứ cuỗm quyển iên giám khỏi tay nhau. Rốt cuộc bọn họ cũng biết về mê cung xương, nếu đến giờ vẫn còn chưa biết.”


      “Với chị vậy là đủ.” Nellie phẩy vụn sô la và bánh mì còn dính áo. “Hãy đoàn tụ gia đình nào.”


      ***


      Ba lô của Dan hôm nay hơn rất nhiều, nhưng trước khi ra khỏi khách sạn nó muốn bảo đảm tấm ảnh cha mẹ vẫn còn nguyên vẹn bên trong chiếc túi ở hông. Cha và mẹ vẫn nằm ở vị trí cũ: trong tập album ảnh bằng nhựa, mỉm cười đỉnh núi mà chẳng nề hà phải chia sẻ gian với cục pin Franklin hay trái lựu đạn tí nào.


      Nó tự hỏi biết hai người có thấy tự hào về nó khi nó xoay xở thoát ra khỏi cái hố hồi tối hôm qua, hay họ cũng luôn bảo vệ nó hệt như Amy: Suýt chút xíu nữa con bị giết rồi, vân vân và vân vân. Nó khẳng định luôn hai người xử ngon lành hơn thế chứ. Hẳn là cả hai cũng có hàng tấn những chuyến phiêu lưu đầy nguy hiểm. Có khi nhà của hai người còn có cả kho vũ khí nữa, trước khi nó bị thiêu rụi.


      “Dan này!” Amy gọi nó. “Hãy ra khỏi phòng tắm và nhanh nào!”


      “Ra liền!” Nó hét lên. Dan nhìn ngắm cha mẹ nó thêm lần nữa. “Cảm ơn mẹ cho tụi con biết về mê cung xương. Con làm mẹ thất vọng đâu.”


      Nó nhét tấm ảnh vào ba lô rồi theo Amy và Nellie.


      ***


      đường đến Ga Denfert-Rochereau chưa đầy hai phút cả bọn phát ra Alistair. khó khăn gì để nhận ra lão trong bộ vest màu đỏ đào, chiếc cà vạt to bản màu hoàng yến cùng cây gậy nạm kim cương vung vẩy trong tay. Lão già thong dong bước về phía chúng, mỉm cười dang rộng cả hai tay. Khi đến gần hơn, Dan chú ý thấy mắt lão bị thâm.


      “Các cháu thân mến của ta!”


      Nellie dùng ba lô nện mạnh vào đầu lã


      “Oái!” Alistair giật lùi, dùng bàn tay che nốt con mắt còn lại.


      “Chị Nellie!” Amy lên tiếng.


      “Xin lỗi,” Nellie lầm bầm trong miệng. “Nhưng chị nghĩ tay này là kẻ xấu.”


      “Đúng như vậy,” Dan đồng tình.


      , đâu.” Alistair cố nặn nụ cười, nhưng nỗ lực của lão chỉ tạo ra được cái nháy mắt và nhăn nhó. Dan nhận ra con mắt còn lại của lão ta cũng sắp thâm đen nốt nhờ cú giáng của Nellie. Ba lô của Nellie . “Các con, làm ơn, phải tin ta chứ, ta đâu phải là kẻ thù của các con!”


      “Chính ông cướp quyển sách của tụi này,” Dan , “Và bỏ mặc tụi này trong cảnh sống chết mặc bây!”


      “Các con, ta thừa nhận làm chuyện đó. Ta nghĩ các con bỏ mình trong đám cháy. Chính ta khó khăn lắm mới thoát khỏi đó. May mắn là, ta tìm thấy chốt cửa. Ta gọi hai đứa, nhưng hai đứa chắc thoát ra bằng lối khác. Đúng, ta có quyển niên giám. Ta thể nào bỏ nó lại được. Ta thừa nhận mình hoảng hốt khi ra được bên ngoài. Ta e sợ những kẻ thù của chúng ta vẫn còn ở quanh đó, hoặc chính ta rồi bị đổ vấy là thủ phạm cho cái đám cháy kinh hoàng ấy. Do đó ta trốn chạy. Hãy bỏ qua cho ta.”


      Cặp mắt quắc lên đầy giận dữ của Amy bỗng hiền hòa trở lại, còn Dan chẳng tin mảy may nào vào tay này.


      “Lão dối!” Dan bảo. “Chớ có tin ai, chị nhớ ?”


      “Chị có nên nện lão tiếp nào?” Nellie hỏi.


      Alistair giật lùi lại. “Làm ơn lắng nghe nào. Hầm mộ ở ngay dưới kia.” Alistair chỉ vào tòa nhà đơn giản có bề mặt đen đúa ngay bên kia đường. Những ký tự màu trắng cửa ghi ENTRÉE DES CATACOMB[3].


      [3] Lối vào Hầm mộ Paris, tiếng Pháp.


      Con đường xung quanh cũng giống như bao con phố bình thường khác - các tòa nhà phố, những tòa chung cư, khách bộ hành đường đến công sở. Khó mà tin được ngay bên dưới họ lại là mê cung của người chết.


      “Ta phải chuyện với các con trước khi cả hai vào trong,” Alistair nài nỉ. “Ta chỉ xin mười phút thôi. Các con gặp nguy hiểm chết người.”


      “Nguy hiểm chết người sao,” Dan làu bàu. “Giỡn chơi đấy à?”


      “Dan...” Amy chạm vào tay nó. “Tụi mình nên nghe ông ấy. Mười phút thôi. Có mất gì đâu?”


      Dan có thể nghĩ ra cả đống thứ, nhưng Alistair lại mỉm cười.


      “Cám ơn, cháu thân mến. Đằng này có nhà hàng. Đến đó nhé?”


      ***


      Alistair bận mua thức uống, nên Dan cũng tranh thủ gọi bữa trưa sớm - miếng sandwich gà tây phô mai với khoai tây chiên và ly Coca lớn, biết vì sao nó gọi loại đá. Nellie trò chuyện với hầu bàn bằng tiếng Pháp hồi lâu và gọi món đặc sản là lạ nào đó. chàng hầu bàn rất ấn tượng trước lựa chọn này, nhưng khi mang đến Dan cũng biết nó là món gì. Trông cứ như mấy bãi khạc nhổ của món Silly Putty bơ tỏi.


      Bằng giọng buồn bã, Alistair giải thích lão bị nhà Holt phục kích bên ngoài sân bay Gaulle và cuỗm mất quyển Niên giám của Richard nghèo khó ra sao. “Bọn man rợ ấy đấm vào mặt ta và làm gẫy cái xương sườn. Quả tình ta quá già cho tất cả những chuyện này.” Lão chạm tay vào hai con mắt bị bầm tí


      “Nhưng mà... vì sao mọi người đều muốn sát hại nhau để giành quyển sách đó chứ?” Amy thắc mắc. “Chẳng lẽ còn cách nào khác để tìm ra các đầu mối hay sao? Chẳng hạn như các thông điệp vô hình mà hai đứa con tìm được ở Philadelphia...”


      “Amy!” Dan cướp lời. “Giữ bí mật hay quá ha?”


      sao đâu con trai,” Alistair bảo. “Đúng vậy, Amy ạ. Có nhiều cách khác nhau để đến với đầu mối. Chẳng hạn, ta tìm thấy thông điệp bí mật được mã hóa trong bức chân dung nổi tiếng của... à, đây, hãy tự xem .”


      Alistair cho tay vào túi áo và lấy ra mẩu giấy. Lão mở ra bản in màu của bức tranh. Đó là Benjamin Franklin lúc về già mặc áo thụng màu đỏ, ngồi cơn bão sấm, trông khá là ngớ ngẩn. đám thiên thần bay lượn xung quanh ông - hai đứa dưới chân ông, nghịch những cục pin, ba đứa ở mé phải, tay cầm con diều có buộc chiếc chìa khóa vào dây. Sấm chớp từ chiếc chìa khóa truyền sang bàn tay giơ cao của ông. Ben trông hề khó chịu về điều này. Mái tóc muối tiêu dài của ông trông hoang dã và quăn tít, do đó có vẻ như ông cũng khá quen thuộc với việc bị điện giật.


      thể nào xảy ra chuyện như thế được,” Dan tức tối. “Với mấy nhóc thiên thần và đủ thứ khác.”


      “Đúng vậy, Dan à,” Alistair đồng tình với nó. “Chỉ có tính hình tượng thôi. Người họa sĩ, Benjamin West, muốn cho chúng ta thấy Franklin là người hùng thu lấy sấm sét bầu trời. Nhưng còn biểu tượng khác nữa mà lúc trước ta nhận ra - các dấu hiệu được giấu quá kỹ để chỉ những người con nhà Cahill mới có thể nhận ra. Hãy nhìn vào khuỷu tay Franklin xem nào.”


      Dan thấy gì khác ngoài cái khuỷu tay, nhưng Amy há hốc miệng. “Hình thù tấm vải kia!”


      Dan nheo mắt nhìn, và nó hiểu chị nó gì. phần khuỷu tay của Franklin được sơn sắc đỏ nhạt hơn, nhưng đó phải là đốm màu ngẫu nhiên. Đó chính là hình ảnh mà nó thấy nhiều lần trước đây.


      “Chu choa,” Nó kêu lên. “Gia huy của nhà Lucian.”


      Nellie cũng nheo mắt nhìn. “Cái gì? Cái đó trông hệt như trong những quý bà bị mắc vào tấm chắn bùn xe tải có.”


      đâu, đó là hai con rắn cuộn quanh thanh gươm,” Amy trả lời. “Hãy tin em , nếu chị từng thấy biểu tượng của nhà Lucian chị nhận ra ngay.”


      “Còn nữa,” Alistair tiếp. “Nhìn tờ giấy mà Franklin cầm tay. Hãy lật ngược nó lại. Thấy chưa - có lớp sơn trắng phủ lên, hầu như thể đọc được.”


      Dan chẳng bao giờ chú ý đến chi tiết ấy nếu Alistair gợi ra, nhưng đến khi quan sát kỹ, nó có thể nhìn thấy bóng mờ của những chữ viết tài liệu Franklin cầm tay.


      “Paris,” Nó đọc. “‘1785.’”


      “Chính xác, con trai của ta: bức tranh vẽ Franklin với chiếc chìa khóa, biểu tượng gia tộc Cahill và dòng chữ Paris, 1785. gợi ý quan trọng chứ.”


      “Con thể nào tìm ra được thứ này,” Amy ngạc nhiên hết sức.


      Alistair chỉ nhún vai. “Như con vừa đó, Amy ạ, vẫn còn nhiều gợi ý khác nữa, tất cả đều dẫn chúng ta con đường đến đầu mối thứ hai. Rủi thay, những người nhà Cahill chúng ta lại thích đánh nhau, thích ăn cắp thông tin, và ngăn cản cho nhau tiến lên phía trước.” Lão chuyển trọng tâm và lại nhăn mặt - “Hai con mắt bầm tím và chiếc xương sườn gãy của ta có thể làm chứng cho điều này.”


      “Nhưng ai chôn giấu hết các đầu mối ngay từ đầu chứ?” Amy thắc mắc. “Franklin ư?”


      Alistair hớp ngụm espresso. “Ta cũng biết nữa, cưng ạ. Nếu đoán, ta trả lời đó là cả mớ bòng bong, nỗ lực của rất nhiều thành viên nhà Cahill trải qua hàng thế kỷ. Grace đáng kính của chúng ta dường như chính là người gom tất cả chúng lại với nhau, nhưng vì sao và như thế nào ta đây cũng biết. Bất luận kho báu là gì chăng nữa, những bộ óc siêu việt nhất của nhà Cahill cũng trải qua ít rắc rối để chôn giấu nó . Hay có lẽ là, như trong trường hợp của Benjamin Franklin, vài người trong số họ lại hướng dẫn chúng ta đến với nó. Ta nghĩ chúng ta chỉ biết chắc khi tìm thấy được kho báu.”


      “Chúng ta sao?” Dan hỏi lại.


      “Ta vẫn tin giữa chúng ta còn có mối liên hệ đồng minh,” Alistair trả lời nó.


      “Ừm, ừm.” Nellie lắc đầu. “Nhóc, đừng có tin tay này. Lão dẻo mỏ quá.”


      Alistair cười phá lên. “Còn là bậc thầy của êm ái, đúng nàng giữ trẻ tuổi ô mai?”


      “Au pair!” Nellie chỉnh lại.


      Alistair nom như muốn tiếp tục tặng Nellie câu bông đùa nữa. Nhưng lão nhác thấy chiếc ba lô bằng da của ràng thay đổi ngay ý định.


      “Vấn đề là, các con ạ, các đối thủ của chúng ta đều xác định chính các con là nhóm cần đánh bại.”


      “Tại sao lại là tụi con?” Amy gặng hỏi.


      Alistair nhún vai. “Đến nay chính hai đứa dẫn đầu trong cuộc thi. Hai đứa thoát được mọi cạm bẫy. Cả hai lúc nào cũng là cháu cưng của Grace kia mà.” Mắt Alistair long lanh tựa như kẻ đói lả dán mắt vào cái hambuger Big Mac đầy vẻ thèm thuồng. “Công nhận nào? Chúng ta đều tin rằng Grace trao cho hai con các tin nội bộ. Chắc chắn như vậy. Hãy cho ta biết, và ta giúp cho.”


      Dan cuộn bàn tay lại thành hai nắm đấm. Nó nhớ cuộn băng video quay Grace, nhớ lúc nó bàng hoàng đến nhường nào khi nghe bà về cuộc tranh tài. Grace lẽ ra phải cho cả hai thông tin nội bộ. Nếu bà thương chúng, bà ắt bỏ chúng lại mình trong bóng đêm đâu. Những nhóm còn lại vẫn theo sát cả hai vì bọn họ cứ nghĩ rằng Amy và Dan chính là cháu cưng của Grace. Nhưng ràng Grace nào có quan tâm đến . Chúng cũng chỉ là đội như bao đội khác trong trò chơi tàn nhẫn mà bà nhào nặn ra. Càng nghĩ về điều này, nó càng thấy như mình bị phản bội. Dan nhìn vào chuỗi ngọc đeo cổ Amy. Nó chỉ muốn bứt phăng thứ đó và ném chỗ khác. Hai mắt nó đỏ ngầu lên.


      “Tụi này có thông tin nội bộ nào hết,” Nó lầm bầm trong miệng.


      “Thôi nào, con trai,” Alistair vỗ về. “Cả hai đứa con gặp nguy hiểm. Ta có thể bảo vệ hai con. Chúng ta có thể cùng nhau tìm kiếm Hầm mộ.”


      “Tụi này kiếm mình,” Dan đáp.


      “Nếu con muốn như vậy, con trai ạ Nhưng hãy coi chừng: Hầm mộ rất rộng lớn. Nó có nhiều dặm đường hầm thông nhau. Hầu hết chúng thậm chí còn được vẽ thành bản đồ. Hai đứa dễ dàng bị lạc dưới đó. Cảnh sát đặc nhiệm tuần tra chỉ để ngăn cho người lạ vào. số đường hầm còn bị ngập nước. Số khác có thể sập bất cứ lúc nào. Tìm kiếm đầu mối của Franklin trong Hầm mộ hết sức nguy hiểm và vô vọng trừ phi...” - Lão vươn người tới trước và nhếch lông mày lên - “Trừ phi hai đứa biết điều gì mà vẫn còn giấu chưa cho ta biết. Quyển niên giám có chú thích ở bìa. Nó nhắc đến tọa độ trong chiếc hộp. Hai đứa tình cờ biết chiếc hộp này có thể là gì chứ?”


      “Nếu biết chăng nữa,” Dan , “Tụi này cũng kể cho ông nghe đâu.”


      Amy chạm vào chuỗi ngọc cổ mình. “Rất tiếc, chú Alistair ạ.”


      “Ta hiểu rồi.” Alistair ngồi ngả lưng trở lại. “Ta khâm phục tinh thần của hai con. Nhưng nếu ta buộc phải... đổi chác thông tin sao? Ta chắc là hai đứa vẫn còn thắc mắc biết những chú thích mà mẹ mình để lại là gì. Ta quen hai người đó. Ta có thể giải thích vài thứ.”


      Dan thấy khí xung quanh như hóa thành thủy tinh. Nó dám động đậy vì sợ bị cứa vào người. “Vài thứ gì?”


      Alistair mỉm cười, như thể lão biết mình vừa nhử được hai đứa trẻ. “Chắc hẳn là sở thích của mẹ hai đứa đối với các. Hay là nghề nghiệp của cha hai đứa là gì.”


      “Ông là giáo viên toán,” Amy .


      “Hừm.” Nụ cười của Alistair khó chịu đến nỗi Dan gần như muốn bảo Nellie lấy ba lô nện cho lão thêm phát. “Hai đứa muốn nghe ta kể về đêm cả hai lìa đời chứ?”


      Chiếc sandwich phô mai gà tây trong dạ dày Dan trồi ngược trở lại. “Ông biết cái gì về đêm hôm đó nào?”


      “Nhiều năm về trước, mẹ của hai đứa...” Alistair đột ngột ngừng lại. Mắt của lão dán chặt vào cái gì đó bên kia đường. “Các con, chúng ta phải tiếp tục sau thôi. Ta tin là hai đứa nên khám phá Hầm mộ mình. Ta ở phía sau, hành động bày tỏ thiện chí của ta.”


      “Ý ông là sao?” Dan gặng hỏi.


      Alistair dùng gậy chỉ. Cách đó chừng trăm thước ở dưới đường, Ian và Natalie Kabra băng qua đám đông, lao nhanh đến lối vào Hầm mộ.


      “Ta hết sức giữ chân chúng lại,” Alistair hứa hẹn. “Giờ hãy xuống đó nhanh lên!”







      CHƯƠNG 16


      AMY CĂM GHÉT ĐÁM ĐÔNG, nhưng cái ý nghĩ phải lao vào giữa bảy triệu người chết lại khiến nó bận tâm.


      Nellie, Dan và nó chạy nhanh xuống cầu thang bằng kim loại. Cả ba thấy mình ở giữa hành lang bằng đá vôi với những chiếc ống kim loại chạy đầu và ánh sáng đèn điện mờ mịt. khí ấm áp ở đây có mùi nấm mốc và đá bị ẩm.


      “Chỉ có lối ra nhé hai đứa,” Nellie bằng giọng căng thẳng. “Nếu như cả đám bị bắt ở dưới đây ...”


      “Đường hầm sớm chẻ nhánh thôi,” Amy đáp, ráng giữ giọng bình tĩnh hơn là những gì nó cảm thấy bên trong.


      Các bức tường đá vằn vện tranh graffiti. số trông xưa cũ, số khác nhìn còn mới. dòng văn tự được khắc vào tấm đá cẩm thạch ngay đầu chúng.


      “Hỡi con người, hãy dừng chân,” Nellie dịch lại. “Đây là vương quốc của tử thần.”


      “Vui tính nhỉ,” Dan lẩm bẩm.


      Họ bước tiếp. Nền đất dưới chân Amy chỉ là lớp sỏi nhầy nhụa. Amy còn mải nghĩ đến Alistair. Hẳn lão ta biết điều gì đó về cha mẹ hai đứa, hay lão chỉ muốn thao túng chúng mà thôi? Nó cố gạt ý nghĩ ấy ra khỏi đầu.


      “Xương xẩu ở đâu nhỉ?” Dan thắc mắc. Rồi cả ba đến góc dẫn vào căn phòng lớn. Dan thốt lên, “Ôi.”


      Đây là nơi rợn người nhất mà Amy từng thấy. Sát tường, xương người được chất đống từ nền đất lên ngang đầu Amy như gỗ để chụm lửa. Những gì còn lại có màu vàng, màu nâu - hầu hết là xương đùi, nhưng các hộp sọ cứ nhìn ra khắp các phía như những miếng vá của chiếc chăn bông. hàng sọ người xếp dài mỗi chồng xương.


      Amy bước vào bên trong trong im lặng đến gai người. Căn phòng kế tiếp cũng hệt như căn đầu tiên - những bức tường nối nhau đầy những xác chết mốc meo. Luồng ánh sáng đèn điện u u hắt thành bóng phủ lên đám xương xẩu, khiến những hốc mắt trống hoác càng thêm rùng rợn.


      “Gớm quá mất,” Nellie trấn tĩnh. “Có đến, xem nào, cả ngàn xác chết.”


      “Hàng triệu ấy chứ,” Amy chỉnh lại. “Đây chỉ mới là phần thôi.”


      “Người ta quật bằng hết những người này lên sao?” Dan hỏi Amy. “Ai mà làm công việc đó chứ?”


      Amy biết, nhưng nó thấy hết sức ngạc nhiên trước cách các công nhân ngày trước tạo ra bằng xương sọ đặt những đống xương đùi như thế này - các hình dáng ngang, sọc, chấm gạch. Nó có thể xem là đẹp đấy chứ, theo cách quái gở và kinh khiếp.


      Ở căn phòng thứ ba, cả ba thấy bàn thờ bằng đá có nến chưa thắp.


      “Chúng ta phải tìm cho ra khu vực cổ xưa nhất,” Amy quả quyết. “Mấy bộ xương ở đây hãy còn quá mới. Hãy xem tấm bảng đồng kìa. Nó từ năm 1804.”


      Amy dẫn đường. Các hốc mắt trống trơn trông như quan sát họ qua.


      “Mấy cái này ngon lành ghê,” Dan khẳng định. “Chắc em ...”


      đâu Dan,” Amy ngăn nó. “Em được sưu tập xương người đâu.”


      “Èo.”


      Nellie lầm bầm cái gì đó nghe như kinh cầu nguyện bằng tiếng Tây Ban Nha. “Làm sao mà Benjamin Franklin lại muốn xuống đây chứ?”


      “Ông là nhà khoa học.” Amy tiếp tục bước , mắt chăm chú đọc những mốc ngày tháng khắc các bảng đồng. “Ông ấy rất thích các công việc phục vụ lợi ích cộng đồng. Chắc hẳn nơi này khiến ông hứng thú.”


      “Đến hàng triệu người chết,” Nellie . “ hứng thú làm sao.”


      Cả bọn rẽ xuống hành lang hẹp và bị chặn lại bởi cánh cổng kim loại. Amy lay các chấn song. Cánh cửa kẽo kẹt mở như thể hàng trăm năm nay ai dùng đến nó.


      “Hai đứa có chắc là chúng ta xuống dưới đó chứ?” Nellie hỏi lại.


      Amy gật đầu. Các mốc ngày tháng càng lúc càng xa hơn. Mặt khác, còn đường ống kim loại nào bắt đầu phía trước mặt, đồng nghĩa với việc chẳng còn ánh sáng điện nữa


      “Có ai có đèn pin ?” Nó hỏi.


      “Có,” Nellie đáp. “Trong xâu chìa khóa này.”


      Nellie chìa chùm chìa khóa cho Amy. Chỉ là chiếc đèn bấm nút . sáng, nhưng có còn hơn . Cả ba tiếp tục bước . Sau chừng năm mươi thước, họ xuất trong căn phòng có duy nhất lối ra khác.


      Amy soi vào bảng đồng cũ đặt giữa các bộ xương. “1785! Đây hẳn là những bộ xương đầu tiên được người ta mang xuống.”


      Bức tường họ nhìn thấy trông rất cũ kỹ. Các bộ xương ngả màu nâu, mủn vụn, vài bộ rơi rải rác nền đất. Những chiếc đầu lâu ở hàng cùng bị cán vỡ, nhưng những chiếc dính tường trông còn khá nguyên vẹn. Tất cả được xếp thành hình vuông - chẳng có gì đặc sắc.


      “Hãy tìm xung quanh,” Amy . “Nó phải ở đây thôi.”


      Dan thò tay vào những lỗ hổng bức tường xương. Nellie kiểm tra hàng . Còn Amy lấy đèn pin rọi vào các hốc mắt, nhưng cũng thấy gì.


      “Vô vọng thôi.” Cuối cùng Amy lên tiếng. “Nếu ở đây có gì đó nhóm khác chắc chắn tìm ra mất rồi.”


      Dan gãi gãi đầu. Rồi gãi tới đầu của hộp sọ. “Tại sao chúng lại được đánh số nhỉ?”


      Amy có bụng dạ nào cho mấy trò chơi của nó. “Số gì?”


      “Ngay trán đây.” Dan gõ vào hộp sọ. “Ông này được đánh số ba. Bộ mấy người này trong đội bóng hay sao ta?”


      Amy cúi xuống gần hơn. Dan đúng. Chữ số III rất mờ, nhưng nó được khắc hẳn vào trán của đầu lâu, có vẻ như ai đó dùng dao khắc số La Mã vào đó.


      Amy xem tiếp chiếc sọ ngay dưới. XIX. hình vuông. Các hộp sọ có chữ số. “Hãy xem hết nào. Nhanh lên!”


      mất nhiều thời gian cho việc này. Có tất cả mười sáu hộp sọ xếp lại thành đống xương, bốn hàng bốn cột. Ba hộp sọ đánh số, còn lại đều mang số. Hình dạng của chúng trông như sau:






      Sống lưng của Amy rợn nhói lên. “Tọa độ trong chiếc hộp. Chiếc hộp phép thuật!”


      “Cái gì chứ?” Dan thắc mắc. “Phép thuật gì chứ?”


      “Dan, em có thể ghi nhớ được hết mấy chữ số và vị trí của nó ?”


      xong.”


      “Chúng ta phải ra khỏi đây ngay và tìm tấm bản đồ. Đây chính là đầu mối - tức là, đầu mối cho đầu mối , cho dù đó là cái gì mà Franklin giấu chăng nữa.”


      “Chờ ,” Nellie hỏi lại. “Franklin khắc số vào hộp sọ á? Tại sao như vậy?”


      “Đó là chiếc hộp phép thuật.” Amy giải thích. “Franklin thường chơi với các con số khi ông muốn giải khuây. Tương tự như lúc ông có mặt ở Nghị viện Philadelphia và chán muốn nghe những bài phát biểu tẻ nhạt, ông tạo ra những chiếc hộp phép thuật, các bài toán số để tự mình giải. Franklin tự điền số vào các chỗ trống. Tổng của chúng phải bằng nhau, cả hàng ngang lẫn hàng dọc.”


      Nellie chau mày. “Em với chị Benjamin Franklin chính là người phát minh ra ô số sudoku sao?”


      “Phải, theo cách nào đó là như vậy. Và các thứ này là...”


      “Là các tọa độ,” Dan ngay. “Các tổng còn thiếu cho ra tọa độ của đầu mối


      Tiếng vỗ tay vang vọng trong căn phòng. “Giỏi lắm.”


      Amy ngoảnh lại. Ngáng ngay lối vào là Ian và Natalie Kabra.


      ***


      “Tao là tụi nó có thể làm được mà.” Ian với em mình.


      “Ồ, em đoán thế,” Natalie thừa nhận. Amy ghét nỗi là thậm chí ngay ở giữa căn phòng đầy xương xẩu dưới lòng đất mà Natalie vẫn cố chưng diện. Con mặc bộ đồ bó sát cơ thể bằng nhung đen tuyền, làm nó trông như già đến tuổi hai ba. Tóc nó buông xuống ngang vai. Thứ duy nhất khớp với toàn bộ trang phục nó mặc là khẩu súng bắn phi tiêu bằng bạc bé xíu cầm trong tay. “Có lẽ, dù Irina khiến chúng ta thất vọng mọi chuyện cũng chưa đến nỗi quá tệ.”


      “Chính tụi bây!” Dan thét lên. “Tụi bây thuyết phục ả Irina gài bẫy bọn tao ở đảo St - Louis. Suýt chút nữa tụi bây làm bọn tao bị chôn sống trong xi măng!”


      “Tiếc là chuyện đó thành,” Natalie “Tụi bây đáng lẽ ra thành tấm thảm chào đón khách tham quan lăng mộ đẹp đẽ rồi.”


      “Nhưng... nhưng tại sao lại như vậy?” Amy lắp bắp.


      Ian cười. “Để loại tụi bây khỏi cuộc đua, dĩ nhiên rồi. Và để tụi này có thêm tí thời gian tìm ra chỗ này. Cần chắc chắn đây chẳng phải là tiểu xảo đánh lạc hướng nào khác của bà họ hàng quý hóa Irina chứ. Lẽ ra ta cũng nên chú ý đến chiếc hộp phép thuật. Cám ơn cưng, Amy. Giờ cảm phiền dịch sang bên để tụi này chép lại các con số và biến khỏi đây.”


      Amy hắt ra hơi run rẩy. “.”


      Ian cười to. “Trông nàng xinh xắn chưa kìa, Natalie? Làm cứ như nàng vẫn còn lựa chọn vậy.”


      “Ờ.” Natalie nhăn mũi lại. “Xinh>


      Amy thẹn đỏ mặt. Nhà Kabra lúc nào cũng khiến nó thấy mình dị hợm và ngớ ngẩn, nhưng nó thể để cho bọn chúng lấy được đầu mối. Amy vớ chiếc xương cẳng chân. “Tiến tới thêm bước nữa ... đây ... táng vào sọ các người. Các người bao giờ lấy được các con số đâu.”


      Xem ra đây chẳng phải là lời đe dọa đáng sợ gì cho cam, thậm chí với chính Amy, nhưng Ian tái mặt . “Nào, đừng có mà ngu ngốc, Amy. Ta biết em căng thẳng như thế nào, nhưng bọn ta làm em đau đâu.”


      “Chính xác,” Natalie hùa theo. Nó nhắm khẩu súng phi tiêu vào mặt Amy. “Ta nghĩ chất độc số sáu phù hợp. gì nghiêm trọng hết. Chỉ là giấc ngủ sâu, rất sâu. Chắc chắn có ai đó tìm thấy bọn bây ở dưới này... ngày nào đó.”


      bóng đen chợt ra đằng sau hai đứa trẻ nhà Kabra. Thình lình, Alistair lao nhanh vào phòng và hạ Natalie gục xuống đất. Khẩu súng phi tiêu của nó văng ra xa và Ian nhặt nó lên.


      “Chạy mau!” Alistair thét lên.


      Amy cự cãi gì nữa. Nó, Nellie và Dan chạy nhanh đến lối ra khác, vào trong bóng tối - dấn sâu hơn xuống Hầm mộ.


      ***


      Cả ba chạy có lẽ nhiều giờ liền, có gì dẫn đường ngoài chiếc đèn pin bé xíu. Họ xuống thêm hành lang nữa và bị khối đất đá chặn lại. Thế là cả ba quay đầu và lần theo đường hầm khác cho đến khi chìm hẳn vào thứ nước màu vàng đục ngầu. Ngay tức , Amy chẳng còn biết cả ba hướng về đâu nữa.


      “Alistair ở dưới đây có cảnh sát,” Amy lẩm bẩm. “Ước gì họ tìm thấy chúng ta.”


      Nhưng chúng thấy ai cả. Ánh sáng đèn pin yếu dần và bắt đầu mờ .


      được,” Amy . “, , được!”


      Họ lao tiếp về phía trước. Năm mươi, năm mươi lăm thước, rồi ánh sáng tắt ngóm.


      Amy tìm thấy tay Dan và nắm chặt.


      sao đâu hai nhóc,” Nellie trấn an, nhưng chính giọng của nàng cũng run rẩy. “Chúng ta mắc kẹt mãi ở đây đâu.”


      Amy thấy có lý do gì để điều đó xảy ra. Hầm mộ kéo dài hàng nhiều dặm và chưa bao giờ được vẽ lại cách kỹ càng. có lý do gì để ai đó xuống nơi này tìm kiếm cả bọn hết.


      “Chúng ta có thể hét lên kêu cứu,” Dan .


      ăn thua gì đâu,” Amy trả lời nó bằng giọng ủ rũ. “Em rất tiếc, cả hai ạ. Em hề muốn mọi việc kết thúc theo cách này.”


      “Vẫn chưa kết thúc đâu!” Dan . “Chúng ta vẫn có thể lần theo bức tường cho đến khi tìm thấy lối ra. Chúng ta có thể...”


      “Suỵt!” Amy .


      “Em vừa là...”


      “Dan, nghiêm túc đó! Im nào! Chị nghĩ chị vừa nghe thấy cái gì đó.”


      Đường hầm yên ắng chỉ có lác đác tiếng nước rỏ từng giọt. Đoạn Amy lại nghe thấy tiếng động kia - tiếng rung chuyển yếu ớt của nơi nào đó ngay trước mặt họ.


      chiếc tàu điện chăng?” Nellie hỏi.


      Amy phấn chấn ngay. “Chúng ta hẳn ở gần nhà ga Metro rồi. Cố lên nào!”


      Amy hào hứng bước nhanh về phía trước, cả hai tay dang rộng. Chợt con bé rùng mình khi chạm phải bức tường bằng xương khác, nhưng rồi Amy tiếp tục theo hành lang cho đến khi nó uốn sang phải. Dần dần, tiếng rền nghe lớn hơn. Amy xoay sang bên trái. Tay nó chạm phải cái gì đó bằng kim loại.


      “Là cánh cửa!” Nó thét lên. “Dan lại đây, hình như có cơ chế khóa nào đó.”


      “Ở đâu nào?”


      Amy tìm thấy cậu em trong bóng tối và lần bàn tay nó đến chiếc khóa. Chỉ vài giây, chiếc cửa cống kẽo kẹt mở ra và cả bọn bị ánh sáng đèn điện làm cho lóa mắt.


      Phải đến lúc sau Amy mới hình dung ra nó chứng kiến điều gì. Cửa cống thực ra giống cái cửa sổ hơn là cửa cái - cái lỗ hình vuông cách mặt đất chừng mét rưỡi, vừa đủ để trèo qua nếu muốn leo lên phía . Họ ở ngang tầm mắt với mặt bên của đường ray nào đó - ray kim loại tà vẹt gỗ. Và có gì đó màu nâu đầy lông lá lọ dọ nền đường rải sỏi.


      Amy giật bắn người. “Chuột!”


      Con vật gặm nhấm ngó con bé, ràng chả có gì ấn tượng hết, đoạn trườn nơi khác.


      “Đó là cái hố đường ray,” Dan . “Chúng ta có thể trèo ra và...”


      Ánh sáng sáng hơn. Cả đường hầm rung chuyển. Amy lui lại và dỏng tai lên lắng nghe tiếng động - nghe như bầy khủng long đến. Con tàu băng qua nhanh như dải bánh xe kim loại mờ mờ ảo ảo. Nó hút sạch hết khí trong đường hầm, lùa cả áo quần lẫn tóc của con bé ra chỗ nắp cửa cống. Rồi, bất thình lình, nó cũng mất hút.


      Khi chắc giọng của mình có thể nghe thấy được trở lại, Amy bắt đầu , “Chúng ta thể ra bằng lối này được! chết mất!”


      “Trông kìa,” Dan . “Có thang thoát hiểm cách mặt đất chừng thước rưỡi. Chúng ta cùng trèo lên đường ray, chạy đến thang, và trèo vào ke ga. Dễ ợt!”


      dễ đâu! Nếu như có chiếc tàu khác đến sao?”


      “Chúng ta có thể canh thời gian mà,” Nellie gợi ý. “Chị có đồng hồ chiếc iPod.”


      Nellie lôi máy nghe nhạc từ trong túi ra nhưng cũng chẳng biết khi nào con tàu kế tiếp ồn ã phóng qua.


      Viền mắt lấp lánh của Nellie khiến khuôn mặt nàng nhìn giống như ma trong ánh sáng nhập nhoạng. “Chưa đầy năm phút. Ray này chắc chắn dành cho tàu tốc hành. Chúng ta phải khẩn trương thôi.”


      “Đúng thế!” Dan , và ngay lập tức trèo ra khỏi miệng cống.


      “Dan!” Amy hét lớn.


      Nó ngoảnh lại trong lúc trườn đường ray. “ thôi!”


      Hết sức kinh ngạc, Amy lại để Nellie đẩy mình lên. Với Dan giúp, nó cũng trèo lên được. “Giờ phụ em kéo chị Nellie lên nào!” Dan . “Nhưng coi chừng đường ray thứ ba.”


      Amy sợ cứng người. Chỉ cách chỗ đó hơn nửa thước là ray điện màu đen để tàu chạy. Nó đủ biết về hệ thống tàu điện ngầm để hiểu rằng chỉ cú chạm vào đó thôi cũng tệ hơn nhiều so với cả ngàn cục pin Franklin gộp lại. Amy giúp Nellie trèo ra khỏi cửa cống, nhưng phải ép chặt mới qua được. Chúng mất nhiều thời gian. Đường ray rít lên và khua canh cách phía bên dưới.


      “Chị ổn rồi!” Nellie bảo, tay phủi bụi bẩn dính vào quần áo. “Hãy đến chỗ cái thang nào.”


      Dan bước theo, nhưng vừa đứng bật dậy nó khựng ngay lại như bị mắc kẹt bởi cái gì đó.


      “Sao vậy Dan?” Amy hỏi nó.


      “Ba lô của em,” Nó trả lời. “Nó bị vướng vào ...”


      Dan kéo mạnh nhưng thể. vì sao sợi dây ba lô bị vướng vào ray kim loại, và đoạn ray này đổi hướng, kẹp chặt chiếc ba lô.


      “Hãy bỏ nó !” Amy gào lên.


      Nellie đến cầu thang, khản cổ gọi cả hai hãy nhanh lên. Hành khách sân ga cũng bắt đầu chú ý tới chúng. Bọn họ cũng thét lên cảnh báo, bằng tiếng Pháp.


      Dan bỏ ba lô ra khỏi vai, nhưng nó vẫn còn kẹt ở đường ray. Nó lại kéo, cố gỡ ba lô ra, nhưng có chút cơ may nào.


      “Mau!” Nellie hét lên.


      Amy có thể cảm thấy tiếng rung khe khẽ của đường ray dưới chân.


      “Dan!” Con bé năn nỉ. “ quan trọng đâu em!”


      “Em gỡ được mà. Chỉ giây nữa thôi.”


      “Dan, đừng. Chỉ là chiếc ba lô thôi mà!”


      “Nó chịu mở ra!”


      Phía xa cuối đường hầm sáng lên. Nellie đứng ở ke ga ngay bên chúng, vươn tay xuống dưới. Rất nhiều hành khách khác cũng làm như thế, khẩn khoản cầu chúng nắm lấy tay mình.


      “Amy!” Nellie thét. “Em lên trước !”


      muốn làm thế, nhưng chắc là nếu nó lên trước, nhóc Dan hiểu mình phải làm gì. Amy chộp lấy tay Nellie và Nellie nhấc nó qua chỗ hố ray. Ngay lập tức, nó xoay trở lại và vươn tay ra với lấy Dan.


      “Dan, mà em!” Nó gọi. “Lên nào!”


      Ánh sáng ở đầu tàu chớp lên. Giò ùa vào đường hầm. Mặt đất rung chuyển.


      Dan cố kéo chiếc ba lô thêm lần nữa, nhưng nó vẫn nhúc nhích. Dan trông thấy con tàu, và Amy thấy nó khóc. Nó cũng biết vì sao như thế.


      “Dan, nắm lấy - TAY - CHỊ!”


      Amy nhoài người ra hết sức. Con tàu trờ đến gần chúng hơn. Trong tiếng khóc tức tưởi, Dan nắm lấy tay Amy, và với sức lực đến chính Amy cũng ngờ tới, con bé kéo thằng em bật ra khỏi chiếc hố ray, mạnh đến độ cả hai đều té nhào.


      Con tàu vút nhanh qua. Khi tiếng ồn lắng xuống, h ga bắt đầu xôn xao - mắng cả bọn bằng tiếng Pháp trong lúc Nellie phải cố gắng giải thích cho họ hiểu và xin lỗi họ. Amy quan tâm bọn họ gì. Nó ôm em mình, thằng bé khóc nức nở trong lòng nó, đây là lần khóc dữ dội nhất kể từ lúc nó còn bé cho đến nay.


      Con bé nhìn qua mép hố, chiếc ba lô còn ở đó nữa, bị con tàu kéo tút vào đường hầm. Cả bọn ngồi lại đó lúc lâu, Dan run rẩy và lau nước mắt. Cuối cùng, hành khách hết hứng thú với bọn chúng. Họ tản hoặc bước vào các con tàu khác và biến mất. có cảnh sát xuất . Chẳng mấy chốc chỉ còn Nellie, Amy và Dan ngồi ở góc ke ga như gia đình vô gia cư.


      “Dan em,” Amy dịu dàng. “Trong đó có gì? Em có thứ gì bên trong ba lô vậy?”


      Nó sụt sịt, tay chùi mũi. “ có gì.”


      Đó là lời dối dở nhất mà Amy từng nghe. Thông thường, chỉ cần dòm vào mặt nó Amy biết cậu bé nghĩ gì, nhưng nó lại che giấu cho chị nó biết những ý nghĩ trong đầu. Amy chỉ có thể được là cu cậu rất sầu não.


      “Quên nó ,” Dan . “Chúng ta có thời gian đâu.”


      “Em chắc chứ...”


      “Em là quên ! Chúng ta cần phải tìm ra chiếc hộp số trước bọn Kabra, phải nào?”


      Amy thích như thế, nhưng thằng bé đúng. Vả lại, có gì đó mách bảo với con bé rằng nếu ở đây lâu thêm chút, cảnh sát có mặt và bắt đầu hỏi này nọ. Nó nhìn lại hố ray thêm lần nữa, nơi Dan suýt mất mạng và chiếc cửa hầm tối om dẫn vào Hầm mộ. Nỗi sợ hãi vẫn còn bao bọc quanh người nó, nhưng cả bọn vượt qua quá nhiều thứ, thể dừng lại được.


      “Vậy nào,” Nó . “Chúng ta cần tìm ra đầu mối.”


      ***


      Bên ngoài, trời bắt đầu đổưa.


      Khi cả bọn vào nhà hàng, Dan dường như trở lại bình thường - hay chí ít giữa họ thỏa thuận thành lời là hành động như thể mọi thứ vẫn bình thường. Cả ba ngồi xuống bên dưới mái hiên để hong khô trong lúc Nellie gọi món. Amy nghĩ mình có thể ăn uống gì nổi, nhưng nó đói hơn là mình tưởng. năm giờ chiều. Cả ba ở trong Hầm mộ thời gian dài.


      Nó lại thấy rùng mình khi nghĩ đến Ian và Natalie với khẩu súng bắn phi tiêu. Nó mong Alistair vẫn sao. Nó tin tưởng lão, nhưng thể chối cãi là lão giúp chúng trong Hầm mộ. Nó có những ý nghĩ rất khủng khiếp khi hình dung ra cảnh lão già nằm độc, bất tỉnh ngay trong mê cung.


      Lúc cả bọn ăn sandwich phô mai brie và nấm, Dan vẽ những chiếc đầu lâu và số La Mã ra khăn ăn.


      “12, 5, 14” Nó . “Đó là các con số còn thiếu.”


      Amy nghi ngờ gì về khả năng tính toán của Dan. Chẳng bao giờ thằng sai trong các bài toán.


      “Có thể đó là địa chỉ và quận ở đây,” Nó lên tiếng.


      Nellie tháo chiếc iPod. “Chẳng lẽ địa chỉ thay đổi sau hai trăm năm sao?”


      Amy cảm thấy bị hẫng. Có thể Nellie đúng. Hồi Franklin ở đây, Paris vẫn chưa có hệ thống phố phường. Còn địa chỉ chắc chắn phải thay đổi rồi - mà như vậy đầu mối của Franklin còn dùng được nữa. Làm sao Grace lại cho chúng tham gia vào cuộc truy tìm thể nào kết thúc kia chứ?


      Sao lại ? Có giọng bực dọc cất lên trong đầu con bé. Grace chẳng buồn quan tâm đến việc cho từng người biết về cuộc tranh tài. Nếu Dan chết chỗ hố ray kia, đó cũng chẳng phải là lỗi của Grace.


      , Amy quả quyết. phải vậy. Grace phải có lý của bà. Những con số này phải về cái gì đó khác. Amy nghĩ đến cách duy nhất để tìm ra đáp án - là cách nó vẫn hay làm mỗi khi gặp phải v thể giải quyết. “Chúng ta cần tìm thư viện.”


      ***


      Nellie với chàng bồi bàn bằng tiếng Pháp và chàng dường như cũng hiểu cả bọn muốn gì.


      “Pas de problème[1],” chàng .


      [1] thành vấn đề, tiếng Pháp.


      bồi bàn vẽ bản đồ tờ giấy ăn mới và ghi tên nhà ga. École Militaire.


      “Chúng ta phải khẩn trương lên,” Nellie . “ này thư viện đóng cửa lúc sáu giờ.”


      Nửa giờ sau, ẩm ướt và vẫn còn nồng nặc mùi như chính Hầm mộ, cả bọn đặt chân đến thư viện Mỹ ở Paris.


      “Tuyệt vời,” Amy lên tiếng. Tòa nhà có thanh chắn kim loại màu đen chỗ cửa ra vào, nhưng chúng vẫn còn mở. Vào trong, Amy thấy hàng chồng sách và vô số chỗ ngồi đọc rất ư thoải mái.


      “Làm sao mà mấy người này chịu giúp chúng ta chứ?” Dan thắc mắc. “Ý em là, chúng ta đâu có thẻ thư viện hay thứ gì khác nữa.”


      Nhưng Amy trèo tót lên cầu thang. Lần đầu tiên sau nhiều ngày trời, nó cảm thấy hoàn toàn tự tin trở lại. Đây chính là thế giới của nó. Nó biết mình phải làm gì.


      Những thủ thư đến giúp chúng như binh lính nghe thấy tiếng kèn xung trận. Amy bảo họ rằng mình nghiên cứu về Benjamin Franklin, và chỉ vài phút sau, Amy, Dan cùng Nellie ngồi chiếc bàn trong phòng họp, tận tay xem các bản sao chép tài liệu của Franklin - số rất hiếm, những thủ thư , là các bản sao duy nhất có mặt ở Paris.


      “Đúng thế, đây là danh sách hàng chạp phô quý hiếm,” Dan lẩm bẩm. “Úi chà chà.”


      Nó định gạt danh sách kia sang bên Amy chộp cổ tay nó lại.


      “Dan, em chẳng bao giờ biết cái gì là quan trọng hết. Vào thời đó, có nhiều cửa hàng đâu. Nếu muốn mua gì em phải đặt ở thương buôn và chờ người ta chở hàng đến. Franklin mua gì nào?”


      Dan thở dài. “Làm ơn gửi đến đây các thứ sau: 3 - Khảo luận cách làm rượu táo của Cave; 2 - Nelson bàn về Chính quyền của trẻ em, quyển 8 của Dodsley; 1 lượng - Iron Solute; Thư từ của sĩ quan Nga...”


      “Khoan ,” Amy . “Iron Solute. Chị nghe thứ này ở đâu rồi nhỉ?”.


      “Ở trong danh sách còn lại,” Dan ngay, “ trong những lá thư ta thấy ở Philadelphia.”


      Amy chau mày. “Nhưng Iron Solute phải là quyển sách. Cả danh sách đều là sách, trừ thứ đó.”


      “Vậy Iron Solute là gì nào?” Dan thắc mắc.


      “Ồ, các nhóc, chị biết nè!” Nellie xen vào. nàng úp hai tay vào mặt và nhắm nghiền mắt như cố nhớ lại đáp án bài kiểm tra. “Đó là dung dịch hóa chất, đúng nhỉ? Bọn họ dùng nó vào thuật chế tác kim loại, in ấn và hàng tá các việc khác nhau.”


      Amy nhìn Nellie chăm chăm. “Làm sao chị biết?”


      “Nè, học kỳ vừa rồi chị học Hóa. Chị nhớ vì thầy giáo có nhắc đến nó ở chỗ, kiểu như người ta tạo ra thiết bị nấu nướng cao cấp như thế nào. Có thể Franklin dùng Iron Solute cho mực in của mình khi ông còn làm nhà in.”


      “Tuyệt chưa,” Dan lầm bầm. “Ngoại trừ chi tiết là nó hoàn toàn quan trọng! Giờ chúng ta có thể quay trở lại với mấy tọa độ chiếc hộp huật hay chưa?”


      Amy vẫn thấy có gì đó lấn cấn trong đầu, như nó bỏ qua mối liên hệ nào đó, nhưng rồi con bé cũng lật nhanh hết chỗ giấy tờ còn lại. Cuối cùng, nó mở tiếp tài liệu khổng lồ ngả sang màu vàng, mà hóa ra lại là bản đồ thành phố Paris ngày trước. Mắt nó mở căng ra.


      “Đây rồi.” Amy hãnh diện trỏ tay vào chấm bản đồ. “ nhà thờ. St-Pierrre de Montmarte. Đây chính là nơi chúng ta cần phải đến.”


      “Sao em chắc chắn vậy?” Nellie hỏi nó.


      “Các con số tạo thành mạng lưới, chị thấy ?” Amy trỏ vào phía mép bản đồ. “Đây chính là tấm bản đồ chuyên gia do hai nhà khoa học người Pháp, Compte de Buffon và Thomas Francois D’Alibard thực . Em nhớ đọc về nó rồi. Họ chính là những người đầu tiên kiểm chứng lý thuyết về dây thu lôi của Franklin. Sau khi họ chứng minh chúng chính xác, vua Louis XVI ra lệnh cho hai người lên kế hoạch trang bị lại toàn bộ các tòa nhà trọng yếu ở Paris. Nhà thờ đó được xây dựng vào thế kỷ 14, tọa độ 5 - 12. Franklin hẳn biết về công trình này. Ông rất lấy làm tự hào khi biết người Pháp sử dụng ý tưởng của mình như thế nào. Chính là nó. Em cá với chị hộp sô la Pháp nếu chúng ta tìm thấy được lối khác vào Hầm mộ ngay trong nhà thờ.”


      Dan vẫn còn nghi ngờ. Bên ngoài, trời mưa nặng hạt. Sấm rền bên cửa sổ thư viện. “Nếu như bọn Kabra đến đó trước sao nhỉ?”


      “Chúng ta phải bảo đảm điều đó được xảy ra,” Amy giục. “ nào!”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CHƯƠNG 17


      DAN CẢM THẤY MÌNH GIỐNG NHƯ những hộp sọ ở Hầm mộ - bên trong rỗng tuếch.


      Nhưng nó quyết định để ai biết điều này. Nó quá xấu hổ để mọi người nhìn thấy mình khóc ròng ke ga. Nhưng nó vẫn cố với đến chiếc ba lô và chiếc ba lô còn ở đó nữa. Dan thể ngưng nghĩ về bức ảnh của cha mẹ, bức ảnh bị lôi điút trong đường hầm Metro. Có thể nó bị nghiền nát mất rồi, hay là hai người mỉm cười mãi mãi trong màn đêm với ai khác ngoài lũ chuột cống. Tất cả những gì Dan muốn là làm cho họ cảm thấy tự hào. Còn giờ đây nó biết liệu cha mẹ có bao giờ tha thứ cho nó nữa hay .


      Trời vẫn mưa. Sấm nổ rền vang khắp bầu trời. Cứ vài phút lại luồng chớp lóe lên thắp sáng chân trời thành Paris.


      Nếu trong tâm trạng thoải mái hơn, Dan hào hứng muốn khám phá khu Montmarte. Nơi này có vẻ là chốn rất tuyệt. Cả khu vực là ngọn đồi lớn, cùng là nhà thờ có mái vòm trắng rực sáng trong màn mưa.


      “Đó là nơi ta đến sao?” Dan hỏi.


      Amy lắc đầu. “Đó là Thánh đường Sacré-Coeur[1]. Nhà thờ St-Pierre hơn, nằm ngay ở dưới. Đứng đây em thể thấy nó đâu.”


      [1] Sacré-Coeur là nhà thờ Thiên Chúa giáo nổi tiếng của Paris, nằm đỉnh đồi Montmartre, thuộc quận 18, nhà thờ Sacré-Coeur được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, dành cho trái tim của Chúa. Sacré-Coeur có nghĩa: Trái tim thiêng liêng hay Thánh tâm.


      “Cả hai nhà thờ cùng nằm chỗ?”


      “Đúng vậy.”


      “Tại sao Franklin lại chọn cái to đẹp hơn nhỉ?”


      Amy nhún vai. “ phải gu của ông. Ông chuộng các kiến trúc giản dị. Có thể ông nghĩ hay ho khi chọn nhà thờ bé , đơn giản dưới bóng thánh đường bề thế, nguy nga.”


      Dan sao hiểu nổi điều này, thế nhưng cu cậu ướt nhẹp và quá mệt mỏi nên chẳng buồn đôi co tiếp. Cả ba bộ lên các con phố hẹp, qua các hộp đêm với tiếng nhạc xập xình và ánh đèn nê-ông rọi xuống vệ đường đẫm nước.


      “Chị cũng từng có đời sống về đêm thế này đây,” Nellie thở dài.


      Lúc chúng leo lên đỉnh đồi, Amy tranh thủ kể cho cả bọn nghe những gì con bé biết về khu vực này - những nghệ sĩ trứ danh như Picasso, Vincent Van Gogh và Salvador Dali từng sống ở đây.


      Nellie kéo áo mưa khít hơn vào người. “Còn mẹ chị kể câu chuyện khác - vì sao nơi này được gọi là Montmarte, đồi Thánh tử đạo. Bà kể lại là Thánh Denis từng bị chặt đầu ngay đỉnh đồi, chỗ chúng ta đến.”


      Điều này nghe chừng phải là điềm tốt lành gì. Dan tò mò biết người ta có còn giữ lại chiếc đầu của ông trong nhà thờ, và biết đầu của những vị thánh có tỏa hào quang hay .


      Vài phút sau cả ba đến trước nghĩa trang sình lầy, ngẩng đầu nhìn lên bóng St - Pierre de Montmarte tối sẫm. Nhà thờ này có lẽ cao hơn người ta vẫn tưởng, nhưng so với tòa thánh đường uy nghi màu trắng nằm ngay ngọn đồi phía sau, St - Pierre trông thấp bé. Nhà thờ được làm từ các phiến đá xám. tháp chuông hình vuông nổi lên bên mé trái, đỉnh có cột thu lôi và cây thập giá. Dan cho rằng tòa nhà trông có vẻ giận dữ và hằn học. Nếu nhà thờ có thể cau có mặt mày được, chính là cái này.


      “Làm sao chúng ta biết phải tìm ở đâu?”


      “Bên trong điện thờ chăng?” Nellie giọng đầy hy vọng. “Ít ra chúng ta cũng né được cơn mưa.”


      ĐOÀNG! Sấm lại rền vang khắp nóc nhà thờ. Chớp lóe sáng, và trong tích tắc ấy, Dan trông thấy cái gì đó.


      “Kia kìa,” Nó bảo. “Tấm bia mộ.”


      “Dan à,” Amy cằn nhằn, “ phải lúc để sưu tập đâu!”


      Nhưng nó phi thẳng đến cây cột đá hoa cương. Nếu như phải là đứa khoái m bia mộ chẳng bao giờ nó để ý đến. hề có năm. tên. Thoạt tiên, Dan nghĩ hình khắc bên thiên thần, nhưng hình dáng lại đúng như vậy. Nó rêu phong và bị bào mòn qua năm tháng, nhưng nó vẫn còn có thể...


      “Hai con rắn cuộn mình,” Amy há hốc miệng. “Gia huy nhà Lucian. Và có...”


      Con bé quỳ xuống và dò theo mũi tên được khắc bên dưới cột mốc - mũi tên chỉ thẳng xuống mặt đất.


      Amy và Dan nhìn nhau và cùng gật đầu.


      “Ôi kìa, hai đứa đùa chắc,” Nellie lên tiếng. “Hai đứa ...”


      “Đào mộ,” Dan đáp.


      ***


      Cả bọn tìm thấy gian nhà kho bên hông nhà thờ. Chúng mượn tạm chiếc xẻng, vài chiếc mai làm vườn, và chiếc đèn pin hoạt động tốt. lâu sau đó, cả ba quay trở lại chỗ ngôi mộ, đào bới trong bùn. Mưa khiến công việc gặp khó khăn. Chẳng mấy chốc, cả ba bẩn từ đầu đến chân. Điều này làm Dan nhớ lại những ngày xa xưa khi nó và Amy còn . Hai đứa thường chơi chọi bùn và au pair của chúng vẫn thét lên thất thanh vì sợ hãi, buộc chúng phải ngâm mình trong bồn tắm bọt cả buổi tối, để kỳ cọ cho bằng sạch mới thôi.


      Dan nghĩ là Nellie bắt chúng tắm bọt tối nay.


      Dần dần, hố sâu hơn. Nó cứ bị nước chảy tràn vào, nhưng cuối cùng chiếc xẻng Dan cầm chạm trúng tảng đá. Nó bới lớp bùn ra và thấy tấm đá hoa cương dài chừng thước, rộng hơn nửa thước.


      “Quá cho chiếc quan tài,” Amy .


      “Trừ phi đây là nơi chôn đứa trẻ,” Dan bảo. “Em có thể vào vừa chỗ này.”


      “Đừng gở


      Dan lau chỗ bùn mặt, khiến mặt nó trông còn tèm lem hơn. “Chỉ có cách để tìm ra.” Nó đẩy chiếc mai xuống mép phiến đá cho đến lúc tìm thấy vết nứt, đoạn bắt đầu cạy nó lên. “Phụ em .”


      Amy bắt tay làm cùng với nó. Nellie cầm chiếc xẻng và tra vào chỗ nứt, cho đến khi cả hai bật hẳn phiến đá ra ngoài. Bên dưới là cái lỗ hình vuông, nhưng đây phải lăng mộ. Những bậc thang dẫn xuống màn đêm của Hầm mộ.


      ***


      Ngay khi cả ba xuống đến đáy, Dan nhanh chóng quét đèn pin quanh căn phòng. Đó là gian phòng bí mật được đẽo thẳng vào đá vôi, với đường hầm dẫn ra cả hai bên cánh. có xương chất đống ở đây, nhưng các bức tường được vẽ những bích họa phai màu. Ngay chính giữa gian phòng là bệ thờ bằng đá cao chừng mét, được chạm khắc vô cùng tinh tế. cùng đặt chiếc bình bằng sứ.


      “Đừng chạm vào nó!” Amy cảnh báo. “Đó có thể là cái bẫy!”


      Dan đến gần chiếc bình hơn. “Nó được trang trí bằng những ông Franklin bé tí hon.”


      Nó có thể nhìn ra Ben chơi diều giữa cơn bão, Ben đội chiếc lưỡi trai bằng lông thú, Ben vung cây gậy giữa đại dương như ông thực phép thuật nào đó.


      “Đó là chiếc bình lưu niệm,” Amy . “Họ làm thứ này từ thế kỷ 18 như cách để ăn mừng xuất của Franklin ở Paris này.”


      “Cá ăn hai mươi đô rằng bên trong có viết gì đó,” Dan gạ.


      cá độ,” Amy bảo nó.


      “Nào hai đứa,” Nellie . “Xem đây này.”


      Nellie đứng ở bức tường phía sau. Dan đến bên và rọi đèn vào tường. Màu sắc bợt bạt, nhưng vẫn nhận ra được bốn hình người: hai người đàn ông, hai đàn bà, mặc quần áo kiểu xa xưa - thậm chí còn xưa hơn cả thời của Franklin, như từ thời Trung Cổ hay Phục Hưng hay đại khái là vậy.


      Mỗi bức hình đều được vẽ lớn hơn kích thước . Ở ngoài cùng bên trái là người mảnh khảnh, khuôn mặt độc ác, tóc đen. Tay ông cầm chiếc dao găm gần như bị giấu vào ống tay áo. Những chữ cái màu đen phai màu ở phía chân ghi L. CAHILL. Cạnh bên ông là phụ nữ trẻ có mái tóc ngắn màu vàng óng và cặp mắt tinh . Tay của cầm thiết bị kiểu cũ có tay nắm bằng đồng - giống như kiểu thiết bị định vị hay chiếc đồng hồ. Dòng chữ phía dưới viền váy nâu của ghi K. CAHILL. Bên phải gã to lớn vạm vỡ có chiếc cổ bạnh và hàng lông mày rậm rịt. Bên hông gã có thanh gươm. Quai hàm và nắm tay của gã siết chặt, cứ như gã sắp lao thẳng đầu vào bức tường gạch. Dòng chữ ghi bên dưới là T. CAHILL. Cuối cùng, ở ngoài cùng phía phải là phụ nữ trong chiếc váy màu vàng. Mái tóc đỏ của bà được thu lại thành bím tóc buông xuống bên vai. Bà cầm chiếc đàn hạc cỡ - giống như cây đàn hạc Ai-len mà Dan từng được thấy trong đám rước nhân ngày Thánh Patrick hồi còn ở Boston. Dòng ghi chú đề là J. CAHILL.


      Dan có cảm giác lạ lùng sao tả xiết, là tất cả bốn người bọn họ đều quan sát nó. Họ trông đều có vẻ giận dữ, giống như nó vừa quấy rầy khi họ mải trong cuộc chiến... nhưng ý nghĩ đó mới ngu ngốc làm sao. Làm thế nào mà nó nghĩ được như vậy chỉ từ bức tranh vẽ tường kia chứ?


      “Bọn họ là ai?” Nellie thắc mắc.


      Amy chạm vào hình người có dòng chữ L. Cahill, người đàn ông cầm dao. “L. ...tượng trưng cho Lucian?”


      “Đúng vậy,” Dan . Nó chắc, nhưng ngay lập tức nó biết Amy đúng. Cũng giống như nó đọc được biểu của từng hình người được vẽ đó, cái cách mà thỉnh thoảng nó có thể làm với Amy. “Chi tộc Lucian. Đây là gã đầu tiên của chi tộc.”


      “Và K. Cahill là...” Amy di chuyển đến người phụ nữ có thiết bị cơ khí tay. “Có thể K đại diện cho Katrina hay Katherine gì đó? Chi tộc Ekaterina đúng nhỉ?”


      “Chắc là vậy.” Dan nhìn sang gã cầm kiếm. “Vậy T của chữ Tomas? Này, gã này trông y chang bọn Holt.”


      Hình của T. Cahill dường như nhìn vào nó. Dan có thể hình dung ta trong đồng phục chạy bộ màu tím. Rồi Dan chuyển tập trung của mình vào bức cuối cùng - người phụ nữ với chiếc đàn hạc. “Và... J. cho Janus. Chị nghĩ tên của bà ta là Jane chứ?”


      Amy gật đầu. “Dám lắm. Người đầu tiên của chi tộc Janus. Nhìn kìa, bà ta có...”


      “Cặp mắt của Jonah Wizard,” Dan đáp. giống nhau mới kì quặc làm sao.


      “Bốn con người này,” Amy tiếp. “Trông họ gần như là...”


      “Là chị em trong nhà,” Dan . phải các đặc điểm của họ giống nhau. Mà chính là dáng điệu, là những biểu của họ. Dan gấu ó với chị Amy của mình đủ lâu để nhận ra cái nhìn đó: Những nhân vật này là chị em trong gia đình, những người dành ra hàng năm trời chỉ để gây phiền phức cho nhau. Cái cách mà họ đứng - như thể những con người hết sức thân quen với nhau nhưng luôn rất cố gắng hoạnh họe người kia.


      “Phải có điều gì đó xảy ra giữa họ với nhau,” Amy . “ điều gì đó...”


      Mắt nó mở to. Con bé đến giữa bức tranh tường và phủi vài chỗ mạng nhện ở giữa chữ K. và T. Cahill. Ở đó, dẫu thôi nhưng vẫn ở phía chân trời trong tranh: hình ngôi nhà bốc cháy và bóng người màu đen chạy thoát thân - ai đó trong chiếc áo choàng đen.


      đám cháy.” Amy nắm lấy chuỗi ngọc bích của mình. “Giống như trang viên của Grace. Như những gì xảy ra với cha mẹ chúng ta. Người nhà chúng ta chẳng hề thay đổi sau hàng thế kỷ ròng rã. Chúng ta vẫn luôn cố hủy hoại lẫn nhau.”


      Dan di ngón tay của nó dọc theo bức bích họa. Biết về những con người này rất vô nghĩa, thế nhưng nó chắc chắn là Amy đúng. Nó biết chắc như thế, đâu đó bên trong mách bảo nó như vậy. Nó nhìn vào bốn chị em - những khởi đầu của bốn chi tộc Cahill. Nó xem xét khuôn mặt họ theo cái cách nó vẫn thường xem tấm ảnh của cha mẹ, tự hỏi mình giống ai


      “Nhưng rồi điều gì xảy ra?” Nellie thắc mắc. “Ngôi nhà đó có gì nào?”


      Dan xoay người về phía bàn thờ đá. “Em cũng biết nữa, nhưng em nghĩ đến lúc chúng ta mở chiếc bình kia ra xem rồi.”


      ***


      Dan xung phong. Amy và Nellie lùi lại trong lúc Dan chầm chậm nâng chiếc bình lên khỏi bệ thờ. có tên độc phóng ra. có gai nhọn từ trần phóng xuống và có các ổ rắn bật ra, điều này khiến Dan thấy hơi thất vọng.


      Khi nó chuẩn bị mở nắp Amy ngăn lại, “Chờ .”


      Amy chỉ vào phần đế của bệ thờ. Dan chú ý các họa tiết khắc ở đó, nhưng vẫn chưa nhận ra chính xác chúng là gì.


      “Có phải đó là... tờ nhạc phổ?” Nó thắc mắc.


      Amy gật đầu.


      Những nốt nhạc, những dòng kẻ, những khổ thơ được khắc vào bề mặt đá - tác phẩm phức tạp đây. Nó gợi lại những kỷ niệm đau buồn của Dan với giáo viên dương cầm, Harsh, người hồi năm ngoái quyết định thôi việc vì Dan nhà ta dùng keo dán sắt trét lên phím đàn của .


      “Nghĩa là sao?” Nó hỏi Amy.


      “Chị cũng biết,” Amy trả lời nó. “Franklin thích nhạc...”


      “Có thể đó chỉ để trang trí,” Dan hấp tấp trả lời. Có gì đó động đậy bên trong chiếc bình, và nó ngứa ngáy muốn mở ra ngay. Dan cho tay vào nắp bình.


      “Đừng, Dan!” Amy cản lại.


      Nhưng nó mở chiếc bình. có gì xảy ra. Dan tay vào bên trong và lôi ra ống thủy tinh hình trụ đậy nút được cuộn lại bằng giấy.


      “Là gì vậy?” Amy hỏi nó.


      “Chất lỏng,” Dan . “ chiếc lọ chứa gì đó.”


      Nó gỡ tờ giấy ra và ném .


      “Này!” Amy kêu lên. “Tờ giấy có thể quan trọng đấy.”


      “Chỉ là tờ giấy gói thôi mà.”


      Amy nhặt tờ giấy lên và mở ra. Nó xem xét tờ giấy cẩn thận sau đó nhanh chóng nhét vào túi áo thun. Dan chẳng bận tâm điều này. Nó cố giải mã bằng được những con chữ được khắc vào chiếc lọ thủy tinh. Bên trong đó chứa chất lỏng sền sệt màu xanh lá, giống như thứ nhớt nó vẫn thường hay chơi và dùng để ném vào đám bạn. Dòng chữ ghi như sau:






      “Cái gì thế nhỉ?” Nellie thắc mắc.


      “Tiếng Đức chăng?” Amy hỏi.


      “Ừ hử,” Nellie trả lời. “Đó phải thứ tiếng mà chị biết.”


      Bất thình lình, cả người của Dan ngứa ngáy. Các ký tự bắt đầu sắp xếp lại trong đầu nó. “Đây là trong những câu đố chữ,” Nó tuyên bố. “Mà ở đó người ta đảo các chữ cái qua lại.”


      “Phép đảo chữ cái ư?” Amy hỏi nó. “Sao em biết?”


      Dan giải thích được. Nó chỉ có lý với cu cậu thôi, cũng giống như các con số, hay ổ khóa, bảng thống kê bóng chày vậy. “Đưa cho em tờ giấy và cây viết .”


      Amy lục túi mình. Mẩu giấy duy nhất nìm thấy chính là tấm giấy cứng màu vàng - đầu mối đầu tiên về Richard nghèo khó - nhưng Dan chẳng bận tâm. Nó trao chiếc lọ cho Amy rồi cầm lấy tờ giấy. Nó lật ngược lại và viết ở đằng sau, đảo lại trật tự chữ cái của từng từ .






      Nellie huýt sáo. “Okay, ấn tượng đấy.”


      “Đó là đầu mối thứ hai,” Dan . “Đầu mối bự thứ hai. Chắc là nó rồi.”


      Amy cau mày nghi ngờ. “Có thể. Nhưng có nghĩa gì chứ - khi ngươi bật nó?”


      Thình lình, ánh sáng ùa vào căn phòng.


      “Hay lắm bọn nhãi!” Ở chân cầu thang, ướt sũng nước nhưng lại trông khá hài lòng với bản thân, ai khác hơn chính là Jonah Wizard. Cha nó đứng đằng sau, tay cầm chiếc camera ghi hình.


      “Bố à, cái này thành chương trình ngon lành đó.” Jonah mỉm cười nham hiểm. “Đây chính là chỗ mà ta xông vào, hạ gục bọn hạng gà, và giựt lấy đầu mối!”







      CHƯƠNG 18


      LUỒNG NĂNG LƯỢNG chợt ùa vào cơ thể Amy, như nó xảy đến lúc kéo Dan ra khỏi hố ray. Nó đâu muốn trải qua bao nhiêu thứ để bây giờ phải gặp mặt thằng ngố tự phụ như Jonah Wizard này. Nó hình dung giọng của Grace trong đầu, với nó bằng tự tin tuyệt đối: Con khiến cho ta hãnh diện, Amy ạ.


      Con bé giơ chiếc lọ lên. “Lùi lại ngay, Jonah, nếu ... tao đập vỡ nó!”


      Gã nhóc cười lớn. “ em dám đâu.” Nhưng giọng của nó nghe có vẻ căng thẳng.


      “Bản quay tuyệt vời!” Cha Jonah hồ hởi. “Cứ tiếp con trai. kết hợp tuyệt vời.”


      “Và hãy bỏ chiếc camera kia xuống!” Amy thét lên.


      Dan và Nellie trố mắt nhìn Amy kinh ngạc, nhưng con bé chẳng màng. Nó cũng chẳng màng đến giá trị của chiếc lọ kia nốt. Nó quá quen thuộc với màn đâm lén của gia đình Cahill này rồi. Con bé giận dữ đến mức muốn ném phăng chiếc lọ thủy tinh xuống sàn.


      ràng Jonah cũng nhận thấy điều đó. “Thôi được, nhãi. Bình tĩnh nào. Chúng ta đều là bạn bè mà, đúng nào?”


      “Chiếc máy quay!” Amy tiến về phía trước như thể chuẩn bị tấn công gã nhóc.


      Jonah lùi lại. “Bố ơi, ngừng quay .”


      “Nhưng mà con trai à...”


      “Hãy làm theo !”


      Lưỡng lự, ông bố cũng đành ngưng quay.


      “Được rồi, Amy.” Jonah chưng ra nụ cười quyến rũ của mình. “Giờ chúng ta ổn rồi, phải nào? Cưng biết đó chính là đầu mối thứ hai. Nếu cưng hủy nó , cả sứ mệnh cũng kết thúc. ai nhận được gì. Cưng muốn thế sao?”


      “Lùi lại,” Amy ra lệnh, “Vào góc. Đứng cạnh Jane.”


      Jonah nhíu mày. “Ai chứ?”


      “Bức tường. Đứng cạnh quý bà mặc đồ vàng - bà-cố-cố-cố-cố tổ-tổ-tổ của nhà ngươi đó.”


      Jonah ràng chẳng hiểu con bé gì, nhưng cũng làm theo. Nó và ông bố đứng lùi vào góc phòng.


      Dan huýt sáo. “Hay lắm, chị yê


      “Leo trở lên ,” Nó bảo em mình. “Cả chị nữa, chị Nellie. Nhanh lên!”


      Ngay khi cả hai ở bên , Amy theo, nhưng nó biết Jonah và ông bố cũng chẳng ở đó lâu.


      “Tuyệt lắm đó chị!” Dan nhảy choi choi vì sung sướng. “Chúng ta niêm hai cha con nhà đó ở dưới nhé?”


      “Dan, nghe này,” Amy bảo. “Chỗ chữ viết ghi là Khi ngươi bật nó. Chị nghĩ cái thứ bên trong chiếc lọ này là trơ.”


      “Trơ là gì?”


      “Bất động! Như là hoạt động vậy. Nó cần có năng lượng để xúc tác. Franklin thạo hóa học. Khi ông ta ‘bật’...”


      Dan cười nhăn nhở. “Dĩ nhiên rồi!”


      “Nguy hiểm lắm.”


      còn lựa chọn đâu.”


      “Hai đứa cái gì vậy...” Nellie ngó về phía con đường. “Ôi, xúi quẩy . Nhìn kìa!”


      chiếc xe kem màu tím lao đến chỗ cả ba. Nó đột ngột rẽ và dừng ngay trước cổng. Eisenhower Holt rú lên đằng sau tay lái.


      “Vào trong nhà thờ!” Amy ra lệnh. “Mau!”


      Cả bọn chạy vào bên trong. Amy xô mạnh các cánh cổng điện thờ và va thẳng vào bộ vest màu đỏ đào.


      “Xin chào, các con của ta.” Chú Alistair mỉm cười cúi nhìn chúng. Lão trông như con gấu trúc với đôi mắt thâm quầng. Đứng cạnh lão là Irina Spasky.


      Tim Amy như rớt xuống. “Ông... ông và bà ta sao?”


      “Nào, nào,” Lão . “Ta cứu mạng hai đứa ở Hầm mộ. đồng minh là rất quan trọng mà. Ta chỉ đơn giản là kết bạn mỗi khi có thể. Ta thấy là nên đưa chiếc lọ đây, hai con dấu. Ta rất ghét để bà họ hàng Irina này sử dụng các thủ thuật thuyết phục của mình đấy.”


      Irina duỗi bộ móng tay của ả. Các mũi kim tí hon bật ra từ mỗi ngón.


      Amy quay đầu để chạy trốn, nhưng mắt nó lại mở lớn. Có gì đó lao ập đến từ ngoài đường - khối lập phương màu trắng lớn.


      “Cúi xuống!” Nó thét. Nellie, Dan và nó nằm ngay xuống sàn trong lúc thùng kem trượt qua đầu. Hẳn chiếc thùng phải chui ra từ phía sau khoang trữ đông, nó táng thẳng vào Alistair cùng Irina như khối xi măng và hạ cả hai đo ván.


      đến lúc báo thù!” Eisenhower rú lên, tiếp tục lấy đạn dược đông lạnh từ sau xe. Con chó ngao Arnold rống lên thích thú. Cả gia đình Holt dàn hàng bên lề đường, mỗi người cầm thùng kem.


      “Amy này,” Dan căng thẳng. “Chị có...”


      Nó chưa kịp dứt câu, nhưng Amy biết cậu em hỏi mình điều gì. Lần cuối chúng đụng độ với nhà Holt, Amy hoảng vía. Lần này . Bức tranh tường trong gian phòng bí mật tôi luyện sức mạnh ý chí của con bé.


      “Nellie, chị hãy ra khỏi nơi này,” Nó ra lệnh. “Bọn người này muốn chị ở đây. Hãy gọi cảnh sát !”


      “Nhưng mà...”


      “Đó là cách tốt nhất chị giúp được tụi em. chị!” Amy muốn nghe câu trả lời. Nó cùng với Dan lẻn vào bên trong nhà thờ, nhảy qua hai tấm thân rên rỉ của Alistair và Irina. Cả hai tháo chạy đến phía sau điện thờ.


      Amy có thời gian để chiêm ngưỡng nơi đây, nhưng con bé thấy như mình lạc vào thời Trung Cổ. Các ct đá màu xám vút thẳng lên mái vòm, các cửa sổ lát kính màu lấp lánh trong ánh nến nguyện mờ ảo. Bước chân của chúng các tấm đá lót nền khua vang vọng.


      “Đằng kia!” Dan kêu lên. Có cánh cửa để mở ở phía bên trái - cầu thang dốc dẫn lên phía . Amy khép cánh cửa đằng sau lại, nhưng nó biết như thế cũng giữ chân nhà Holt lâu được.


      Hai đứa hối hả leo lên. Dan bắt đầu thở dốc. Amy choàng tay qua và xốc nó theo.


      Lên nữa, lên nữa, lên nữa. Nó chưa hề hình dung là tháp chuông có thể cao đến như vậy. Cuối cùng Amy cũng thấy cánh cửa lật và mở ra. Mưa trút xuống khuôn mặt con bé. Cả hai trèo ra ngoài tháp chuông, nơi hứng trọn cơn bão từ mọi phía. Chiếc chuông đồng có kích cỡ của tủ chứa hồ sơ ngự ở góc. Trông như hàng thế kỷ qua rồi nó vẫn chưa được rung.


      “Giúp chị với!” Amy la lên. Nó sao di chuyển nổi cái chuông, nhưng hợp sức lại, cả hai có thể xoay xở để bít cánh cửa lật lại.


      “Cái... nên... à chờ ,” Dan khò khè. “Chờ... chút.”


      Amy nhoài người ra bên tòa tháp, nhìn cơn mưa và bóng tối. Nghĩa trang tưởng như ở xa thăm thẳm. Những chiếc xe đường giống như những món đồ chơi Matchbox mà Dan vẫn thường hay chơi. Amy chạm tay dọc theo bức tường đá ngoài cửa sổ. Ngón tay nó dừng lại chỗ thanh kim loại lạnh ngắt. Có dải nấc thang rất được bố trí bên hông tòa tháp, dẫn lên đỉnh tháp nằm chừng ba thước chỗ Amy đứng. Nếu nó ngã...


      “Ở yên đó,” Con bé ra lệnh cho Dan.


      ! Chị à, được...”


      “Chị phải . Đây, giữ lấy.” Amy đưa tờ giấy bọc quanh chiếc lọ cho Dan. “Hãy giữ cho nó khô và cho ai biết.”


      Dan nhét nó vào quần. “Chị ơi...”


      Trông nó sợ hãi. Chưa bao giờ Amy nhận ra ràng như lúc này là cả hai đứa nó lạc lõng giữa thế gian đến chừng nào. Chỉ còn lại hai chị em nó bên nh>


      Nó xoa vai em mình. “Chị quay lại, Dan à. Đừng lo.”


      BOONG! Chiếc chuông rung lên như có ai đó ở bên dưới, ai đó rất sức vóc, nện vào cánh cửa lật. BOONG!


      Amy cho chiếc lọ vào túi mình rồi thò chân ra ngoài cửa sổ, nhảy thẳng vào bóng đêm bên ngoài.


      ***


      khó khăn khi tiếp tục cầm cự. Mưa châm chích vào mắt nó. Con bé cũng dám nhìn xuống dưới. Nó tập trung hết sức vào bậc tiếp theo của chiếc thang, và, cách chậm chạp, nó cũng lên đến mái ngói thoai thoải.


      Rốt cuộc nó cũng đến đỉnh. chiếc cột thu lôi cũ kỹ chĩa thẳng lên bầu trời. Phần đế của nó là vòng kim loại trông như vành rổ bóng chày tí hon, và bên dưới là sợi dây tiếp đất, hệt như Franklin đề nghị trong các thí nghiệm ban đầu của ông. Amy quấn sợi dây quanh cổ tay mình, sau đó lấy ra chiếc lọ. Nó trơn đến nỗi suýt nữa bé đánh rơi mất. cách thận trọng, nó cho chiếc lọ vào vòng sắt - vừa khít.


      Amy trở lại nóc tòa tháp. “Làm ơn nào,” Nó tự nhủ, tay bấu chặt vào các bậc thang.


      phải chờ lâu. Tóc dựng đứng ở sau gáy nó. Amy ngửi thấy có gì đó giống như mùi lá nhôm cháy, và rồi, RẮCCCCC!


      Bầu trời nổ tung. Những tia hóa chất vung tung tóe xung quanh nó, nổ xèo xèo các tấm ngói ướt. Ngạc nhiên, Amy bị mất thăng bằng và trượt xuống mái ngói. Hoảng loạn, nó bấu lấy bấu để và cũng vồ được bậc thang, mạnh đến nỗi cổ tay nó đau nhói. Nhưng nó vẫn bám lại được và bắt đầu leo trở lại đỉnh tháp.


      Chiếc lọ thủy tinh phát sáng. Chất lỏng màu xanh lá bên trong còn sền sệt, nhơn nhớt nữa. Nó bây giờ trông như được làm từ thứ ánh sáng màu xanh lá hoàn hảo bị giữ lại bên trong thủy tinh. Amy thận trọng chạm vào chiếc lọ còn bị rung lắc nữa. Thậm chí cũng còn ấm nóng. Nó trượt chiếc lọ ra khỏi giá đỡ và nhét trở lại túi mình.


      Khi ngươi bật nó, ta cũng bật ngươi


      Nhưng phần gian nan nhất vẫn còn ở phía trước. Nó phải thoát khỏi nơi này an toàn và tìm hiểu xem mình vừa tạo ra cái gì.


      ***


      “Dan! Chị thành công rồi!” Nó trèo trở lại tháp chuông, nhưng nụ cười của nó tan biến ngay tức khắc. Dan nằm sàn, bị cột chặt và miệng dán kín. Đứng nó, trong bộ trang phục chiến đấu màu đen, là Ian Kabra.


      “Xin chào, em họ.” Ian chìa ra cái ống bằng nhựa. “Chúng ta trao đổi nhé.”


      “KKKKKHHH!” Dan giẫy giụa và cố gì đó.


      “KKKKKHHHHH! KKKHHHHH!”


      “Hãy... hãy thả nó ra!” Amy lắp bắp. Nó biết chắc mặt nó đỏ ửng. Nó ghét cái lắp của mình. Tại sao Ian Kabra làm lưỡi nó cứng queo lại thế này?


      Chiếc chuông đồng lại rung lên. Nhà Holt vẫn nện thình thịch ngay phía dưới chiếc chuông, cố đẩy cánh cửa lật lên.


      em chỉ có vài giây trước khi lũ chúng nó lên được đây,” Ian cảnh báo. “Ngoài ra, cậu em của cũng cần thuốc giải nữa chứ.”


      Bụng Amy quặn lại. “Mày làm gì với nó?”


      có gì thể vãn hồi nếu em quyết định trong vòng phút nữa.” Ian đong đưa chỗ thuốc giải. “Hãy đưa cho ta chiếc lọ của Franklin. Trao đổi công bằng.”


      “KKKKHH!” Dan lắc đầu dữ dội, nhưng Amy thể mất em được. gì giá trị hơn em nó. đầu mối nào. kho báu nào. gì có thể thế được Dan.


      Amy giơ ra chiếc lọ màu xanh lung linh. Ian cầm lấy khi Amy giật ngay lọ thuốc giải khỏi tay nó. Amy quỳ xuống cạnh bên Dan và bắt đầu tháo chỗ băng keo dán kín miệng nó.


      Ian cười khúc khích. “ em họ, làm ăn với thú vị .”


      “Mày ... mày thoát khỏi tòa tháp này đâu. Mày cũng bị kẹt ở đây như ch...”


      Rồi nó ngộ ra điều gì đó. Làm thế nào Ian lên được này chứ? Con bé chú ý tới các dây đai chạy dọc ngực thằng kia, như đai bảo hiểm của bộ thiết bị leo núi. Dưới chân bó ống kim loại với lụa đen.


      “Thêm thứ Franklin thích.” Ian nhặt đống đồ lề của mình lên và bắt đầu cột tấm vải lụa đen vào khung kim loại. “Diều. Ông ấy bay qua sông Charles bằng món này, em biết chứ?”


      “Mày thể...”


      “Ồ, ta làm vậy đó.” Ian trỏ lên mái vòm rực sáng của thánh đường to lớn đỉnh đồi. “Ta bay thẳng từ Sacré-Coeur vào đây. Và bây giờ ta lại bay khỏi nơi này.”


      “Mày là tên kẻ cắp,” Amy mắng.


      Ian cài đai bảo hiểm vào con diều khổng lồ. “ phải kẻ cắp, Amy ạ. Là Lucian, cũng giống như Benjamin Franklin. Bất luận trong chiếc lọ này đựng gì, nó vẫn thuộc về những người nhà Lucian. Ta nghĩ lão Ben cũng ưng lắm cái mỉa mai này.”


      Và như thế, Ian nhảy ra khỏi tháp chuông nhà thờ. Gió thốc nâng nó lên ngay. Con diều hẳn được thiết kế đặc biệt để đỡ nổi trọng lượng của con người, vì Ian bay ngay xuống phía nghĩa trang cách hết sức thong thả và hạ cánh an toàn xuống vệ đường.


      Đâu đó ngay giữa cơn bão, có tiếng còi cảnh sát cất lên. Chiếc chuông lại rung chuyển khi nhà Holt tông mạnh vào cửa lật.


      “KKHHH>


      “Dan!” Amy quên béng đứa em. Nó tháo miếng bịt miệng cho cậu nhóc.


      “Ui da!” Dan cằn nhằn.


      “Cứ nằm nguyên đó. Chị có thuốc giải đây.”


      “Ian láo đó!” Dan than thở. “Em cố cho chị biết. Nó có chích em phát nào đâu! Em làm gì bị đánh thuốc độc chứ.”


      ?”


      “Dương tính! Cái thứ mà đưa chị là vô dụng. Hay có khi đó mới là chất độc cũng nên.”


      Căm giận bản thân vì quá ngu ngốc, Amy ném chiếc ống tiêm . Nó cởi trói hẳn cho Dan và giúp thằng em đứng lên.


      Chuông đồng lại rền lên lần nữa và bật nghiêng sang bên. Cánh cửa lật mở hẳn ra. Eisenhower Holt trèo được vào tháp chuông.


      “Ông đến trễ rồi,” Dan với gã. “Ian lấy nó rồi.”


      Nó chỉ về phía con đường. chiếc taxi vừa tấp vào, Natalie Kabra ngồi đằng sau. Ian trèo vào xe và chúng bỏ chạy mất hút vào những con đường của khu Montmarte.


      Gã Holt gầm lên. “Tao bắt hai đứa mày trả giá vì chuyện này. Tao ...”


      Còi cảnh sát hú to hơn nữa. Chiếc xe cảnh sát đầu tiên xuất ở góc đường, ánh đèn xanh chớp tắt.


      “Cha!” Giọng Reagan gọi với lên từ chỗ cầu thang. “Có gì vậy?”


      Chiếc xe cảnh sát thứ hai xuất , chạy thẳng vào nhà thờ.


      “Chúng ta phải thôi,” Eisenhower quyết định. Gã hét xuống ra hiệu cho cả gia đình. “Cả nhà, quay đầu lại!” Gã nhìn Dan và Amy lần chót. “Lần sau nhé


      Gã để nguyên lời đe dọa lửng lơ trong khí, bỏ lại Dan và Amy tháp chuông.


      Amy nhìn vào màn mưa. Nó thấy Alistair được khiêng xuống con đường bên hông nhà thờ, cây kem Fudgesicle còn dính phía sau bộ vest màu đỏ đào của lão. Irina Spasky loạng choạng bước ra trước cửa nhà thờ, trông thấy cảnh sát và lập tức lẻn .


      “Arrêtez!” Cảnh sát quát lên và hai viên cảnh sát chạy theo ả. Nellie đứng vệ đường với vài viên cảnh sát nữa. nàng hét lên cách điên cuồng bằng tiếng Pháp, tay trỏ về phía nhà thờ.


      Mặc cho mớ hỗn loạn diễn ra, Amy cảm thấy thanh thản cách kỳ lạ. Dan còn sống. Cả hai thoát qua đêm nay. Nó làm chính xác những gì mình cần làm. nụ cười lên khuôn mặt nó.


      “Sao chị vui vậy?” Dan cằn nhằn. “Chúng ta đánh mất đầu mối lớn thứ hai rồi. Chúng ta thất bại rồi!”


      ,” Amy trả lời. “Chưa đâu.”


      Dan nhìn nó. chằm chằm “Chớp chiên chín não chị rồi sao?”


      “Dan, chiếc lọ phải đầu mối,” Amy đáp. “Chỉ là... chị biết sao nữa. Chỉ là món quà của Benjamin Franklin. món quà giúp ích cho cuộc tìm kiếm. Còn đầu mối chính là tờ giấy em nhét trong quần đó.”







      CHƯƠNG 19


      DAN THẤY XÚC ĐỘNG RUN NGƯỜI khi biết đầu mối thứ hai được tẩu tán an toàn ra khỏi nhà thờ ngay trong quần nó.


      “Vậy, là, em cứu vãn tình thế,” Nó quả quyết.


      “Chờ ,” Amy . “Chính chị trèo lên mái nhà thờ giữa cơn bão.”


      “Phải, còn đầu mối lại nằm trong quần của em.”


      Amy nháy mắt. “Em phải, Dan à. Em là hùng thứ thiệt.”


      Nellie cũng c nặn ra nụ cười. “Hai đứa đều rất giỏi, nếu hai đứa muốn nghe ý kiến của chị.”


      Cả bọn ngồi với nhau tại nhà hàng ở đại lộ Champs-Élysées, nhìn người qua lại và nhâm nhi pain au chocolat. Đó là buổi sáng ngay sau cơn bão. Trời trong xanh. Cả bọn thu xếp xong hành lý và làm thủ tục trả phòng ở Maison des Gardons. Khi xét tới xét lui mọi việc, Dan thấy mình may mắn.


      Nó vẫn nghi ngờ hiểu bọn chúng trải qua những gì. Cụ thể, nó thích chuyện Ian và Natalie trốn thoát. Nó ghét bị người ta trói gô, và nó muốn trả thù Ian. Nhưng có thể chuyện còn tệ hơn nữa. Chí ít chúng cũng bị kẹt mãi trong Hầm mộ hay bị quẳng hộp đầy kem vào mặt.


      “Dù sao em vẫn muốn biết trong chiếc lọ thủy tinh kia là gì,” Nó .


      Amy xoắn lấy tóc mình vẻ nghĩ ngợi. “Dù đó là gì, chị nghĩ nó dùng để trao cho đội tranh tài lợi thế hơn khi tìm chân lý - và hẳn chân lý chính là kho báu cuối cùng của cuộc tranh tài này. Do Ian và Natalie có chiếc lọ... ừm, chị có cảm giác hay là chẳng bao lâu nữa chúng ta buộc phải tìm ra nó có công dụng gì thôi.”


      “Nếu những gã Lucian tạo ra nó,” Nellie , miệng nhai bánh sừng bò, “Có lẽ nó cũng là loại độc chất đặc biệt nào đó. Bọn này hình như sính thuốc độc.”


      “Chắc vậy,” Dan đồng tình, dù câu trả lời hình như đúng. Nó thích khi nghĩ Ben Franklin lại là họ hàng với đám Ian và Natalie. Nó bắt đầu ngưỡng mộ Franklin - với những bài luận về đánh rắm, về sấm chớp và mọi thứ. Giờ nó cũng lão Ben là người tốt hay xấu nữa. “Nhưng chất độc gì lại liên can đến tờ nhạc phổ chứ?”


      Amy rút mẩu giấy ra khỏi ba lô của mình rồi trải nó lên b. Dan xem nó kỹ đến chục lần. Nó biết đó là bản sao chính xác của sáng tác được khắc lên bệ thờ chỗ căn phòng bí mật mà cả bọn thấy nhưng nó biết vì sao vật này lại quan trọng. Khi Dan thức dậy vào buổi sáng hôm đó, Amy dùng laptop của nó nghiên cứu. Thông thường Amy thích internet. Vì lý do trời hỡi nào đó, con bé bảo rằng sách vẫn tốt hơn, do vậy Dan biết chị hẳn là đói tin dữ dội.


      “Chị tìm thấy nó mạng,” Amy .


      “Cách nào?” Dan hỏi.


      “Chị nhập lệnh tìm kiếm về Benjamin Franklin cộng nhạc. Nó xuất ngay. Đó là bản adagio dành cho kèn armonica.”


      “Món nhạc cụ thích của Ben Franklin,” Dan nhớ lại. “Cái thứ có nước các tấm kính.”


      “Đúng vậy, nhưng chị lại có cảm giác nó là cái gì đó hơn chỉ là bản nhạc thông thường.” Amy chồm người về phía trước. Mắt nó sáng quắc, như thể nó biết bí mật. “Chúng ta tìm thấy bài hát và tải xuống. Nghe này.”


      Nellie đưa chiếc iPod của mình. “ phải loại nhạc chị thích. Nhưng mà sao cũng được.”


      Dan lắng nghe. Nó cảm thấy như mình chìm trong khí hê li. nhạc quá quen thuộc và đẹp đến độ nó khiến cậu nhóc muốn trôi bềnh bồng Paris, nhưng cũng khiến nó thấy rối. Thường nó chẳng gặp vấn đề gì với việc ghi nhớ, nhưng nó lại thể nhớ mình nghe sáng tác này hay chưa. “Em biết bài này...”


      “Cha từng chơi,” Amy . “Trong nghiên cứu của cha, khi ông còn làm việc. Lúc nào cha cũng chơi bản này.”


      Dan muốn nhớ điều Amy nhắc đến. Nó muốn nghe nghe lại bài hát đến khi nó có thể hình dung được cha mình làm nghiên cứu. Nhưng Nellie lấy chiếc iPod lại. “Xin lỗi nhé, nhóc. Em vẫn còn dính bùn trong tai đó.”


      “Các nốt nhạc chính là mật mã,” Amy . “Cả sáng tác này giống như thông điệp


      “Và ba mẹ cũng biết thông điệp này,” Dan ngạc nhiên. “Nhưng điều này có nghĩa là gì chứ?”


      “Chị biết,” Amy thừa nhận. “Nhưng Dan à, em có nhớ ông McIntyre ba mươi chín đầu mối là những phần của câu đố hay ?”


      “Có chứ.”


      “Chị nghĩ về điều này từ tối qua, sau khi em giải được thông điệp chiếc lọ. Chị tự hỏi... vì sao đầu mối đầu tiên lại giống như thế?”


      Nó cầm mẩu giấy màu vàng trị giá hai triệu đô la mà hai đứa trả để có. Chú thích nguệch ngoạc của Dan nằm đầy mặt sau tờ giấy. Mặt trước là đầu mối đầu tiên:






      Nellie chau mày. “Thứ này dẫn hai em theo dấu vết của Franklin đúng ? Đó phải là câu trả lời sao?”


      “Chỉ phần thôi chị,” Amy đáp. “Nó cũng là phần đầu tiên của câu đố. Nó là đầu mối dẫn đến thứ có . Cái này chị ngộ ra hồi tối khi em nhắc đến trò đảo chữ cái đó Dan.”


      Nó lắc đầu. “Em hiểu.”


      Amy lấy viết và viết chữ RESOLUTION. “Em hỏi chị vì sao chữ này là phần câu đố. Đến giờ chị mới hiểu. Chúng ta buộc phải đoán chỗ chữ nổi.” Nó chuyền tờ giấy và cây viết cho Dan. “Giải trò đảo chữ nào.”


      Dan chăm chú nhìn vào các chữ cái. Thình lình, nó thấy như bị pin Franklin làm cho giật bắn. Các ký tự tự sắp xếp ngay trong đầu nó.


      Nó đặt bút xuống và viết: IRON SOLUTE.


      tin nổi,” Nellie thốt lên. “Cả cái thứ này chỉ về iron solute thôi sao?”


      “Đó là phần đầu của câu đố,” Amy . “Đó là thành phần chế biến hay thành phần gì đó, đại loại như vậy.”


      “Cho cái gì?” Dan hỏi.


      Amy mím môi lại. “Iron solute có thể dùng vào hóa học, hay luyện kim, thậm chí là in ấn. thể biết chính xác được. Và chúng ta cũng biết phải dùng bao nhiêu nữa. Mỗi lần Franklin nhắc đến, ông chỉ viết ‘ lượng’.”


      “Phải tìm cho ra!”


      “Chúng ta tìm ra,” Amy hứa. “Còn tờ nhạc phổ...”


      Con bé phủ tay mình lên tờ phổ bản adagio.


      “Lại thành phần khác,” Nellie phỏng đoán.


      “Em nghĩ vậy,” Amy . “Đó là cách chúng ta có thể về các đầu mối lớn. Chúng cho thành phần đích thực. Chúng ta chỉ chưa biết đọc thứ này ra sao thôi.”


      “Nhưng làm sao tìm ra?” Dan phản đối.


      “Cũng hệt cái cách chúng ta làm với Franklin. Chúng ta tìm người viết ra nó. Nhà soạn nhạc là...” Đột nhiên Amy ngưng lại.


      bóng dáng quen thuộc từ dưới đường lên. Người đàn ông hói đầu trong bộ áo vest xám, tay cầm chiếc vali bằng vải. “Ông McIntyre!” Dan la lên.


      “À, hai đứa đây rồi!” Vị luật sư luống tuổi mỉm cười. “Ta ngồi được chứ?”


      Amy nhanh tay gấp đầu mối thứ nhất và thứ hai giấu . Ông McIntyre ngồi cùng với cả ba, gọi tách cà phê. Ông nhất nhất muốn thanh toán tiền ăn sáng cho mọi người, điều này với Dan sao, nhưng trông ông có vẻ lo lắng. ắt ông đỏ ngầu. Ông cứ nhìn ra bên kia đại lộ Champs-Élysées như thể lo lắng bị ai đó theo dõi.


      “Ta nghe hết chuyện tối qua,” Ông . “Ta rất tiếc.”


      có gì đâu,” Dan .


      rất tiếc. Ta chắc rằng hai đứa tìm lại được thôi. Nhưng có vậy ? Bọn Kabra cuỗm mất đầu mối thứ hai trước mũi của hai đứa sao?”


      Dan bực bội ngứa ngáy liên hồi. Nó muốn về tờ nhạc phổ mà chúng tìm thấy và cái thứ iron solute, nhưng Amy xen ngang.


      đó ông,” Nó . “Tụi con biết tiếp theo đâu.”


      “Trời ơi.” McIntyre thở dài. “Ta e hai con thể về nhà. Bên dịch vụ xã hội vẫn báo động. Bà dì thuê thám tử tư tìm hai đứa. Và cả hai cũng thể ở đây. Paris là thành phố đắt đỏ.”


      Mắt ông dán chặt vào chuỗi dây cổ Amy. “Con , ta có bạn bè ở thành phố này. Ta biết đây giải pháp quá tuyệt vọng, nhưng ta có thể thu xếp cho việc bán các món của bà ngoại...”


      , cảm ơn ông,” Amy . “Tụi con ổn thôi.”


      “Tùy con.” Giọng McIntyre cho thấy ràng ông tin tưởng điều nó . “À, nhưng nếu có gì ta có thể giúp. Nếu hai đứa cần lời khuyên...”


      “Cám ơn, ông McIntyre,” Dan . “Tụi con cũng tự tìm ra.”


      Vị luật sư quan sát cả hai. “Rất tốt. Rất tốt. Ta e là mình vẫn còn điều nữa phải hỏi cả hai.”


      Ông cúi xuống chỗ chiếc giỏ bằng vải, và Dan nhìn thấy vết cào tay ông.


      “Ui cha, xảy ra chuyện gì vậy ông?”

      McIntyre nhăn nhó. “Ừ, ...”



      Ông cầm chiếc giỏ đặt lên bàn. Có gì đó bên trong, “Meo!”


      “Saladin!” Amy và Dan đồng thanh reo lên. Dan cầm lấy chiếc túi và tháo dây kéo. Con mèo lông màu bạc to lớn trèo ra, đầy vẻ tức tối.


      “Ta e nó và ta hợp nhau lắm.” Ông McIntyre xoa vào bàn tay sứt sẹo của mình. “Nó vui khi bị hai đứa bỏ lại cùng ta. Ta với nó... ừm, nó bày tỏ cảm xúc khá là muốn được trả về cho hai đứa. Lách con vật qua khỏi hải quan là việc khó khăn, ta phải cho hai đứa biết, nhưng quả tình ta còn lựa chọn. Hy vọng hai đứa hãy bỏ quá cho ta.”


      Dan thể ngăn nổi cái cười toe toét. Nó hình dung nổi nhớ con mèo già này đến dường nào. Theo cách nào đó, có con mèo ở đây cũng bù lại việc làm mất chiếc lọ thủy tinh. Thậm chí còn làm nó thấy thoải mái hơn chút sau vụ tấm ảnh chụp cha mẹ bị mất. Khi có Saladin, nó cảm thấy như gia đình mình trọn vẹn. Lần đầu tiên sau nhiều ngày trời, nó nghĩ hình như, chỉ hình như thôi, Grace dõi theo cả hai đứa nó. “Nó phải ở cùng chúng ta. Nó có thể làm mèo chiến lắm chứ!”


      Saladin trừng mắt nhìn nó như muốn , Đưa tui cá hồng nào nhóc, rồi tui nghĩ về đề nghị này.


      Dan chờ Amy phản đối ý kiến này, nhưng nó cũng mỉm cười y hệt cậu em. “Em đúng, Dan ạ. Ông McIntyre, cám ơn ông!”


      “Vâng, tất nhiên rồi. Giờ hai con thứ lỗi cho ta. Ta xin chúc hai con lên đường săn tìm may mắn.”


      Ông để lại tờ giấy bạc năm mươi euro bàn và lao nhanh ra khỏi nhà hàng, vẫn nhìn quanh quẩn như thể chờ đón cuộc phục kích.


      ***


      chàng tiếp viên mang sữa đựng trong chiếc chảo ít cá cho Saladin. Dường như có ai trong nhà hàng thấy kỳ quặc khi chia sẻ bữa sáng với chú mèo Mau Ai Cập.


      “Em với McIntyre về tờ nhạc phổ,” Nellie . “Chị nghĩ ông ấy là bạn của hai em chứ.”


      “Ông McIntyre tụi em chớ có tin ai,” Amy .


      “Đúng vậy,” Dan xen vào. “Và như thế cũng bao gồm cả ông ta!”


      Nellie khoanh tay lại. “Có chị luôn , nhóc tì? Thỏa thuận của chúng ta sao nào?”


      Dan choáng váng. Nó quên béng mất Nellie chỉ hứa cùng với cả hai thêm chuyến nữa. Nó cảm thấy chán nản. Dan bắt đầu xem diện của Nellie là tất yếu. Nó càng biết cả hai xoay xở ra sao nếu nàng.


      “Em... em tin chị, Nellie ạ,” Nó trả lời. “Em muốn chị bỏ đâu.”


      Nellie hớp ngụm cà phê. “Nhưng mà tụi em quay về Boston. Có nghĩa là nếu chị quay lại, chị cũng gặp rắc rối to.”


      Dan cũng chưa nghĩ đến điều này. Amy nhìn vào bữa sáng với vẻ tội lỗi.


      Nellie nhét tai nghe vào tai. nàng quan sát mấy chàng sinh viên bước đường. “Đây cũng chẳng phải là việc quá tệ - ý chị là, cho dù phải làm với hai đứa trẻ phiền phức. Có thể chúng ta thực giao kết khác.”


      Dan cựa quậy đầy vẻ lo lắng. “ giao kết khác sao?”


      ngày nào đó khi hai đứa tìm thấy kho báu,” Nellie , “Tụi em có thể trả lại cho chị. Còn bây giờ, chị làm miễn phí. Vì nếu hai đứa nhóc tụi em nghĩ rằng chị để cả hai bay quanh thế giới chơi đùa mà có chị theo hai đứa cũng hâm mất rồi.”


      Amy chồm đến vòng tay quanh cổ Nellie.


      Dan cười toe toét. “ chị bá cháy.”


      “Chị biết mà,” nàng tiếp. “Thôi nào, Amy, em làm chị mất giá đó.”


      “Em xin lỗi,” Amy , miệng vẫn cười toe toét. Nó lại ngồi xuống và lấy bản nhạc phổ ra. “Giờ , lúc nãy em đến...”


      “Đúng vậy, đến nhà soạn nhạc,” Dan nhớ ngay.


      Amy trỏ vào cuối tờ giấy. “Hãy xem đây.”


      Ở góc bên tay phải dưới dòng lời cuối cùng, Dan nhìn ra ba chữ cái nguệch ngoạc viết bằng mực đen bay màu.


      W.A.M


      “Wam,” Dan . “Chẳng phải đó là ban nhạc sao?”


      đâu, ngốc! Đó là chữ cái viết tắt. Chị là nhiều người nổi tiếng vẫn viết nhạc cho cây armonica của Benjamin Franklin kia mà. Người này phải là trong số đó. Về cuối đời, hẳn ông gặp gỡ nhà soạn nhạc này. Chị nghĩ bọn họ đều làngười nhà Cahill. Cả hai hẳn phải có chung các bí mật nào đó. Dù gì , chị cũng tra xong rồi. Đây là tác phẩm nhạc thính phòng cuối cùng của nhà soạn nhạc đó. Tên gọi chính thức của nó là KV 617.”


      “Tên nghe hay nhỉ,” Nellie lẩm bẩm.


      “Vấn đề là,” Amy , “Có rất nhiều bản sao chép của tác phẩm adagio này. Và vẫn còn bản sao khắc đá ở bệ thờ. Các đội kia cũng tìm ra đầu mối thôi. Chúng ta phải nhanh chân đến Vienna.”


      “Ái chà chà, chờ ,” Dan . “Vienna, Áo á? Tại sao lại đến đó?”


      Mắt Amy long lanh đầy phấn khích. “Vì đó là nơi Wolfgang Amadeus Mozart sống. Và cũng là nơi chúng ta tìm ra đầu mối tiếp theo.”




      " face="Times New Roman" color="blue">CHƯƠNG 20




      WILLIAM MCINTYRE VỪA ĐẾN VỪA ĐÚNG HẸN.


      Ông bước ngay vào bục quan sát của tháp Eiffel. ngày sau cơn mưa to, khí trở nên trong lành và tươi mới. Paris lấp lánh ngay phía dưới như thể toàn bộ các bí mật nó cất giữ bị cuốn mất.


      “Chúng nó tin ,” Người áo đen .


      “Phải,” William thừa nhận.


      Vị đồng của ông mỉm cười. “Chúng nó học nhanh đấy.”


      William McIntyre vẫn kiềm chế cơn tức tối của mình. “Chuyện lẽ ra còn tồi tệ hơn.”


      “Hai đứa nó có thể xuất sắc hơn thế nhiều. Chúng ta phải theo dõi chúng gần hơn nữa, nghĩ vậy chứ?”


      làm thế rồi đấy chứ.” William McIntyre lấy điện thoại ra. Ông cho người đồng xem màn hình - số điện thoại cuối cùng mà ông gọi ở Vienna, nước Áo.


      Người áo đen huýt sáo khe khẽ. “Ông nghĩ như thế là khôn ngoan sao?”


      ,” William cũng thừa nhận. “Nhưng cần thiết. Lần sau, được có sai sót đâu nhé.”


      sai sót,” Người áo đen đồng tình. Và họ cùng nhau ngắm nhìn thành phố Paris trải ra bên dưới, mười triệu con người hoàn toàn biết số phận của cả thế gian trong tình trạng lâm nguy.


      HẾT

    5. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :