Chương 20: Người Gilyak đáng thương - P1 Tengo ngủ được. Fukaeri nằm giường , mặc đồ ngủ của , và chìm vào trong giấc ngủ say. Tengo chuẩn bị vài thứ đơn giản để ngủ chiếc sofa ( thường ngủ trưa chiếc sofa này, cũng thấy bất tiện gì lắm), nằm xuống, nhưng lại thấy chẳng buồn ngủ chút nào, bèn đứng dậy, ngồi bên bàn bếp viết tiếp cuốn tiểu thuyết dài. Máy xử lý văn bản để trong phòng ngủ, nên dùng bút bi viết lên giấy có dòng kẻ. thấy bất tiện. Nếu về tốc độ viết và khả năng lưu trữ máy xử lý văn bản dĩ nhiên vừa nhanh vừa tiện, nhưng vẫn thích hành vi cổ điển, tức là viết tay giấy hơn. Viết tiểu thuyết lúc nửa đêm là chuyện tương đối hiếm gặp với Tengo. thích làm việc lúc sắc trời vẫn sáng sủa, mọi người vẫn lại bên ngoài. Viết văn lúc bốn bề bị bóng đêm bao vây, vạn vật đều tĩnh mịch, văn chương đôi lúc trở nên quá đậm đặc. Những thứ viết ra lúc nửa đêm, thường thường đều phải viết lại trong ánh sáng ban ngày. tốn công như vậy chẳng thà ngay từ đầu cứ viết lúc trời sáng. Tuy nhiên, sau thời gian dài mới cầm lại bút bi để viết vào buổi tối, bỗng nhận ra đầu óc mình trở nên hoạt bát lạ thường Tưởng tượng thỏa sức dang cánh, câu chuyện tự do tuôn trào. Ý tưởng này kết nối với ý tưởng kia cách tự nhiên. Dòng chảy ấy tựa hồ bao giờ dứt. Ngòi bút bi ngừng phát ra những tiếng sột soạt giấy trắng. Khi mỏi tay, đặt bút xuống, cử động những ngón bàn tay phải trung, giống nghệ sĩ dương cầm luyện giai trong tưởng tượng. Kim đồng hồ chỉ giờ rưỡi. Bên ngoài nghe thấy tiếng động nào, tĩnh lặng đến độ khó tin. Tầng mây dày đặc như đám bông che phủ bầu trời thành phố, dường như hút hết mọi thanh dư thừa. lại cầm bút lên, sắp xếp lại các từ ngữ giấy. viết giữa chừng, chợt nhớ ra, mai là ngày người tình hơn tuổi ghé qua. luôn đến vào khoảng mười giờ trưa thứ Sáu. Trước lúc ấy cần phải đưa Fukaeri đâu đó. Cũng may Fukaeri bao giờ dùng nước hoa. Nếu có mùi vị của ai đó lưu lại giường, hẳn là người đàn bà ấy phát ra mất. Tengo hiểu tính cách cẩn trọng mà hay ghen tuông của . Bản thân vẫn làm tình với chồng chẳng sao. Nhưng hễ Tengo dạo phố với khác, thể nào cũng lại bực bội. “Vợ chồng làm tình với nhau là chuyện khác,” giải thích “Là tài khoản khác.” “Tài khoản khác?” “Mục thu chi khác nhau mà.” “Ý mình là sử dụng phần khác trong kho tình cảm?” “Chính là vậy. Cho dù cùng sử dụng bộ phận cơ thể, nhưng tình cảm có khác biệt. Vậy nên có thể chấp nhận được. Là người đàn bà trưởng thành, em có thể làm được điều đó. Nhưng mình được phép ngủ với nào khác.” “ đâu có làm chuyện đó.” “Dù mình làm tình với nào khác,” người tình của , “Nhưng chỉ cần nghĩ đến khả năng ấy có thể xảy ra, em thấy bị sỉ nhục rồi.” “Chỉ vì có khả năng thôi hay sao?” Tengo kinh ngạc hỏi. “Hình như mình chẳng hiểu gì về tâm lý đàn bà cả. Thế còn viết tiểu thuyết gì nữa.” “Như thế, thấy được công bằng lắm.” “Có lẽ vậy. Nhưng em bù đắp ình mà,” . Và dối. Tengo hài lòng trong mối quan hệ với người tình hơn tuổi này. thể xem là người đẹp xét theo nghĩa thông thường. Có lẽ nên là có kiểu khuôn mặt độc đáo. Thậm chí còn có người thấy xấu. Nhưng hiểu sao, ngay từ đầu Tengo thích kiểu khuôn mặt ấy rồi. có gì để chê trách ở cương vị bạn tình, hơn nữa, cũng cầu gì nhiều ở Tengo. Mỗi tuần lần, ở bên nhau chừng ba bốn tiếng đồng hồ, làm tình chu đáo. Nếu có thể làm hai lần. được bén mảng với người đàn bà khác. Đại để chỉ cầu Tengo những điều ấy. coi trọng gia đình, hoàn toàn có ý định vì mà phá vỡ nó. Chỉ là cuộc sống tình dục với chồng được thỏa mãn. Về cơ bản, lợi ích của hai người là đồng nhất. Tengo chưa hề có ham muốn với người đàn bà nào khác. chỉ hy vọng có được thời gian tự do và bình lặng. Nếu đảm bảo được việc làm tình định kỳ, còn cầu nào khác với đàn bà nữa. Khi quen biết, nhau, giữ quan hệ về mặt tình dục với những người đàn bà cùng độ tuổi, tất nhiên phải gánh thêm trách nhiệm, mà thích điều đó lắm. Các giai đoạn tâm lý cần phải trải qua, các ám chỉ tới những khả năng, những xung đột khó tránh khỏi của toan tính… toàn là những vấn đề rắc rối mà muốn tránh càng xa càng tốt. Những quan niệm về trách nhiệm và nghĩa vụ thường làm Tengo hết sức e ngại, chùn bước. Cho đến tận bây giờ, luôn tìm cách khéo léo né tránh mọi tình huống có thể dẫn đến trách nhiệm và nghĩa vụ. bị quan hệ phức tạp giữa người với người thúc bách, cố gắng tránh xa mọi ràng buộc của các quy tắc, nợ nần cũng cho vay, sống mình, tự do mà bình lặng. Đây là thứ bấy lâu nay vẫn theo đuổi. Vì điều này, sẵn sàng chấp nhận hầu hết những bất tiện khác. Để né tránh trách nhiệm và nghĩa vụ, ngay từ giai đoạn đầu của đời mình Tengo học được cách làm người khác để ý đến mình. thể bản lĩnh trước mặt người khác, nêu quan điểm cá nhân, tránh lộ mặt, làm hết sức để khiến tồn tại của mình trở nên mờ nhạt. Từ thời thơ ấu, luôn ở trong trạng thái được dựa dẫm vào bất cứ ai. Nhưng thực tế, đứa trẻ rất yếu ớt. Nên khi gió lớn bắt đầu nổi lên, nó buộc phải trốn vào nơi kín đáo, bám chặt lấy thứ gì đó mới bị cuốn bay . Toan tính này lúc nào cũng phải thường trực trong đầu. Giống như bọn nhi trong tiểu thuyết của Dickens. Cho đến nay, có thể mọi việc cơ bản đều thuận lợi với Tengo. né tránh được tất cả các nghĩa vụ và trách nhiệm. ở lại trường đại học, cũng có nghề nghiệp chính thức, thậm chí còn chẳng kết hôn. tìm được công việc tương đối tự do, và người tình đủ làm mình thỏa mãn (hơn nữa lại đòi hỏi rất ít), tận dụng thời gian nhàn rỗi để viết tiểu thuyết. Tình cờ gặp được người hướng dẫn lĩnh vực văn học là Komatsu, nhờ ta mà thường xuyên nhận được những công việc liên quan đến chữ nghĩa. Tiểu thuyết viết ra tuy chưa được xuất bản bao giờ, nhưng cuộc sống tại cũng có gì câu thúc. có bạn bè thân thiết, cũng có người chờ đợi những lời hứa ngọt ngào. Cho đến giờ giao du với hơn chục người đàn bà, có quan hệ tình dục, nhưng chẳng duy trì lâu dài được với ai. Song ít nhất cũng được tự do. Thế nhưng, từ khi cầm bản thảo Nhộng khí của Fukaeri tay, cuộc sống bình lặng của bỗng bắt đầu lộ ra nhiều lỗ hổng. Đầu tiên, gần như gượng ép mà bị lôi kéo vào kế hoạch nguy hiểm của Komatsu. Người thiếu nữ xinh đẹp kia làm xáo động trái tim từ góc độ lạ lùng. Hơn nữa, thông qua việc viết lại Nhộng khí, ở Tengo dường như xảy ra biến đổi nội tại nào đó, bắt đầu bị thôi thúc bởi ham muốn về việc viết ra cuốn tiểu thuyết của chính mình. Đây cố nhiên là thay đổi tốt. Nhưng đồng thời, có thực tế là vòng tuần hoàn gần như hoàn hảo của cái cuộc sống mà tự thấy chẳng thiếu thốn được duy trì cho đến nay bị buộc vào tình thế phải thay đổi. Tóm lại, ngày mai là thứ Sáu. Người tình của đến. Trước lúc đó cần phải đưa Fukaeri đâu đây. Fukaeri tỉnh giấc lúc hơn hai giờ sáng. mặc áo ngủ, mở cửa vào bếp. Lấy cốc thủy tinh lớn uống nước máy. Kế đó dụi mắt, rồi ngồi xuống đối diện với Tengo. “Em làm phiền ,” Fukaeri vẫn theo lệ cũ, dùng câu nghi vấn có dấu chấm hỏi. “ sao. Cũng chẳng phiền hà gì.” “ viết gì.” Tengo gấp tập giấy lại, đặt bút bi xuống bàn. “Chẳng có gì quan trọng,” đáp, “Vả lại cũng xong rồi.” “Em ngồi với lúc được ,” hỏi. “Được chứ. định uống chút rượu vang. Em muốn uống gì ?” trẻ lắc đầu. Ý muốn cần gì cả. “Em muốn ở đây lúc.” “Được mà. vẫn chưa buồn ngủ.” Bộ đồ ngủ của Tengo quá rộng so với Fukaeri, phải xắn gấu tay và gấu quần lên khá nhiều. Lúc gập người về phía trước, có thể thấy phần bộ ngực tròn căng qua cổ áo. Nhìn Fukaeri mặc bộ quần áo ngủ của mình, hiểu sao Tengo bỗng thấy khó thở. mở tủ lạnh, rót chỗ rượu vang còn lại trong chai ra ly. “Đói bụng ?” Tengo hỏi. đường về nhà, hai người vào quán cạnh ga Kôenji ăn mì Ý. Ăn nhiều, lại cũng khá lâu rồi. “ có thể làm cho em mấy món đơn giản, kiểu như bánh sandwich chẳng hạn.” “ đói bụng. Hay là đọc thứ vừa viết cho em nghe .” “Thứ vừa viết?” “Phải.” Tengo cầm bút bi lên, kẹp giữa các ngón tay quay quay. Cây bút ràng quá so với bàn tay to bè của . “Trước khi viết xong toàn bộ, sửa chữa bản thảo cách rốt ráo, đưa cho ai xem cả. Làm vậy mang đến vận rủi.” “Mang đến vận rủi.” “Là quy tắc tự đặt ra.” Fukaeri nhìn vào mặt Tengo lúc lâu. Sau đó khép hai bên cổ áo ngủ lại. “Thế, đọc cuốn sách gì đấy cho em nghe.” “Đọc sách em ngủ được à?” “Đúng thế.” “Vậy nên Thầy giáo Ebisuno thường đọc sách cho em nghe, phải vậy ?” “Vì Thầy giáo ngủ cả đêm.” “Truyện kể Heike cũng do Thầy giáo đọc cho em nghe hả?” Fukaeri lắc đầu. “Nghe băng.” “Nhờ thế mà em thuộc làu làu. Nhưng chắc là băng phải dài lắm?” Fukaeri lấy hai cánh tay mô tả chiều cao của chồng băng. “Rất dài.” “Lúc ở buổi họp báo, em đọc thuộc lòng đoạn nào?” “Phán quan bỏ trốn.” “Đoạn sau khi tiêu diệt nhà Taira, Minamoto, Yoshirune bị Minamoto Yoritomo trục xuất khỏi kinh đô. Sau khi giành được thắng lợi, em trong nhà bắt đầu trở giáo đánh nhau, cốt nhục tương tàn.” “Đúng.” “Em còn thuộc lòng đoạn nào nữa?” “ muốn nghe đoạn nào.” Tengo lục tìm trong trí nhớ xem Truyện kể Heike có những đoạn nào hấp dẫn. Nhưng câu chuyện quá dài, tiểu đoạn nhiều sao kể xiết. “Hội chiến ở Dan-no-ura”, Tengo ra cái tên ngẫu nhiên. Fukaeri im lặng chừng hai mươi giây, tập trung tinh thần. Sau đó bắt đầu cất tiếng ngâm. Quân lính nhà Minamoto leo lên chiến thuyền của nhà Taira, đám thủy thủ, lái thuyền hoặc bị bắn tên chết, hoặc bị chém chết, chưa kịp quay thuyền đổ vật xuống lòng thuyền. Tân Trung Nạp Ngôn Tumomori ngồi thuyền đến ngự thuyền của Thiên hoàng, : “Xem chừng thiên hạ mất. Mọi người rồi bị hại, bảo họ nhảy xuống biển hết !” xong liền chạy khắp thuyền, vừa quét, vừa lau, rồi hốt bụi bẩn, đích thân dọn dẹp. Đám nữ quan đều nhao nhao hỏi: “Trung Nạp Ngôn đại nhân, chiến thế nào rồi? Thế nào rồi?” “Đàn ông của Đông quốc là tài giỏi, mọi người nhìn !” đoạn cười lên ha hả. “Giờ này còn đùa được chứ!” người nào người nấy đều kêu lên. Nhị phẩm phu nhân thấy vậy, vì trong lòng chuẩn bị sẵn, liền khoác áo kép màu đen nhạt lên người, vạt váy tố quyên kéo lên buộc chặt ở hông, kẹp Thần tỷ[1] bên mạng sườn, bảo kiếm giắt thắt lưng, ôm Thiên hoàng lên, : “Ta tuy là phận đàn bà, nhưng cũng thể rơi vào tay kẻ địch, ta phải theo Thiên hoàng. Kẻ nào trung thành với Thiên hoàng, hãy theo ta.” xong liền chạy ra phía mạn thuyền. [1]Ấn của Thiên Hoàng. Thiên hoàng năm nay mới tám tuổi, nhưng biểu già dặn hơn tuổi biết bao nhiêu. Tư dung trang nghiêm, phong thái rạng ngời, tóc dài đen nhánh phủ xuống sau lưng. Thấy cảnh tượng ấy, ngài lấy làm kinh ngạc hỏi: “Ngoại tổ mẫu, dân ta đâu thế?” Nhị phẩm phu nhân đối diện với vị Thiên hoàng trẻ người ngây thơ, lau nước mắt : “Chúa quân Người biết đấy thôi, Người hành thiện tích đức mười kiếp trước, kiếp này mới được làm đấng cửu ngũ chí tôn, nhưng vì ác duyên dồn ép, khí số tận. Giờ, Người hãy hướng về phương Đông, cáo biệt Đại thần cung Ise, sau đó ngoảnh mặt về phương Tây, khẩn cầu chư thần chư Phật đón Người về Tây phương tịnh độ, toàn tâm niệm Phật. Đất nước bé miền biên viễn xa xôi này khiến người ta chán ghét, để thần đây dẫn Người đến miền Cực lạc tịnh độ.” Nhị phẩm phu nhân vừa khóc vừa , sau đó thay cho Thiên hoàng chiếc ngự bào màu lông chim sơn cưu, chải lại kiểu tóc kết búi hai bên mai của trẻ thơ. Ấu đế nước mắt lưng tròng, chắp hai bàn tay nhắn đáng lại, bái lạy phương Đông, từ biệt Đại thần cung Ise; rồi hướng về phương Tây, miệng ngừng niệm Phật. Giây lát sau, Nhị phẩm phu nhân bồng ngài vào lòng, an ủi : “Dưới con sóng lớn có Hoàng đô.” Dứt lời bèn nhảy xuống biển lớn muôn trùng. Nhắm mắt lại nghe đọc thuộc lòng câu chuyện, quả nhiên cũng thú vị như lắng nghe thầy pháp mù ôm đàn tỳ bà kể chuyện. Nó khiến Tengo sực nhớ rằng Truyện kể Heike vốn là trường ca tự truyền miệng. Thường ngày cách chuyện của Fukaeri hết sức đơn điệu, gần như thể nghe ra trọng hay ngữ điệu, nhưng khi bắt đầu kể chuyện, giọng ấy lại có sức mạnh lạ thường, rất giàu sắc thái, thậm chí còn khiến người ta cảm thấy như có gì đó nhập vào người vậy. Trận hải chiến trác tuyệt xảy ra eo biển Kanmon năm 1185 lên cách nét. Thất bại của nhà Taira là điều chắc chắn. Vợ Kiyomori ôm ấu vương Antoku trầm mình xuống biển. Các nữ quan cũng nhảy xuống theo vì muốn rơi vào tay các võ sĩ Đông quốc. Tomomori cố nén tâm trạng đau thương, làm bộ đùa cợt thúc giục các nữ quan tự sát: nếu cứ sống thế này chắc chắn các ngươi phải nếm trải địa ngục nhân gian, hay là tự kết liễu sinh mạng của mình ở đây luôn . “Còn muốn nghe nữa .” Fukaeri hỏi. “, đến đây là được rồi. Cảm ơn em,” Tengo vẫn chưa hết ngỡ ngàng, đáp. Giờ Tengo có thể hiểu được tâm trạng ngỡ ngàng nên lời của các phóng viên. “Nhưng mà, sao em nhớ được cả đoạn văn dài thế?” “Em nghe băng nhiều lần lắm.” “Dù có nghe nhiều người thường cũng thể nhớ nổi thế đâu.” Tengo . Ngay sau đó, chợt nghĩ ra. Chính vì thể đọc được, nên khả năng ghi nhớ những gì nghe thấy của trẻ này có lẽ phát triển hơn hẳn người thường. Chắc cũng giống như những đứa trẻ mắc phải hội chứng bác học[2], có thể ghi nhớ lượng lớn các thông tin thị giác trong nháy mắt. [2]Chỉ hội chứng nhận thức khó khăn, nhưng ở phương diện nào đó lại có năng lực hơn người thường rất nhiều lần. “Đọc sách cho em nghe,” Fukaeri . “Đọc sách gì?” “Cuốn sách mà hôm nay với thầy giáo đến ấy, có .” Fukaeri hỏi, “Cái cuốn mà có ‘ Cả’ đó.” “1984 hả? , có cuốn ấy.” “Sách ấy về cái gì thế?” Tengo nhớ lại cốt truyện của cuốn tiểu thuyết. “ đọc nó trong thư viện trường từ lâu lắm rồi, chi tiết cụ thể còn nhớ nữa. Tóm lại là cuốn sách này được xuất bản vào năm 1949, vào thời điểm đó, năm 1984 vẫn còn là tương lai xa vời.” “Tức là năm nay.” “Phải, năm nay vừa đúng là năm 1984. Thế nào chẳng có ngày tương lai biến thành thực. Sau đó lại lập tức trở thành quá khứ. Trong cuốn tiểu thuyết ấy George Orwell miêu tả tương lai thành xã hội đen tối bị chủ nghĩa toàn trị thống trị. Con người bị kẻ độc tài tên gọi là ‘ Cả’ quản lý chặt chẽ. Truyền thông bị hạn chế, lịch sử ngừng bị viết lại. Nhân vật chính là công chức trong chính phủ, nhớ hình như ta làm việc tại cơ quan chuyên trách viết lại ngôn ngữ. Mỗi khi lịch sử mới được tạo ra, lịch sử cũ liền nhất loạt bị phế bỏ. Song song với đó, ngôn ngữ cũng được làm lại, những từ ngữ hữu cũng buộc phải thay đổi ngữ nghĩa. Vì lịch sử bị viết viết lại quá nhiều lần, thành thử chẳng ai còn biết là đâu nữa. Thậm chí cả ai là kẻ thù ai là bạn hữu cũng chẳng . Câu chuyện đại khái là như thế.” “Viết lại lịch sử.” “Tước đoạt lịch sử đúng đắn cũng chính là tước đoạt phần nhân cách con người. Đó là hành vi phạm tội.” Fukaeri ngẫm nghĩ về chuyện này trong giây lát. “Ký ức của chúng ta là do ký ức cá nhân và ký ức tập thể cùng tạo nên,” Tengo , “Hai loại ký ức này có quan hệ gắn bó chặt chẽ. Mà lịch sử chính là ký ức tập thể, khi nó bị tước đoạt , hoặc bị viết lại, chúng ta thể gìn giữ được nhân cách chính đáng nữa.” “ cũng viết lại.” Tengo nở nụ cười và nhấp ngụm rượu vang. “ chẳng qua chỉ sửa chữa chút vừa phải tiểu thuyết của em. Điều này thể đem ra so sánh với việc viết lại lịch sử được.” “Nhưng mà, cuốn sách có ‘ Cả’ ấy lại có ở đây,” hỏi. “Tiếc . thể đọc cho em nghe được rồi.” “Sách khác cũng được.” Tengo bước đến trước giá, nhìn các gáy sách. Cho đến giờ đọc rất nhiều sách, nhưng sách giữ trong nhà lại rất ít. thích bày biện quá nhiều đồ đạc trong nhà mình, bất kể là gì. Vì vậy, trừ những cuốn sách là đặc biệt, còn đọc xong là mang ra tiệm sách cũ. chỉ mua loại sách có thể đọc được ngay, sách nào quan trọng đọc đến nát nhừ, khắc sâu vào trong óc. Ngoài những cuốn ấy ra, nếu cần sách nào thường đến thư viện gần đó mượn đọc.
Chương 20: Người Gilyak đáng thương - P2 Mất khá nhiều thời gian để chọn sách. quen đọc thành tiếng, vì vậy mà thể quyết định cuốn nào thích hợp để đọc to. Trù trừ lúc, rút ra cuốn Đảo Sakhalin của Anton Chekhov vừa đọc xong tuần trước. Vì dán giấy nhớ đánh dấu những chỗ thú vị, nên chắc là tiện tìm chỗ thích hợp đọc to cho Fukaeri nghe. Trước khi đọc, Tengo giới thiệu sơ qua về cuốn sách này. Năm 1890, khi Chekhov đến đảo Sakhalin du lịch, ông mới ba mươi tuổi. Là nhà văn trẻ được đánh giá cao thuộc thế hệ sau Leo Tolstoy và Fyodor Dostoyevsky, người thành thị sống cuộc sống xa hoa ở thủ đô Matxcơva như Chekhov, tại sao lại quyết định mình đến vùng đất xa xôi Sakhalin, lại còn ở đó suốt thời gian khá dài. ai biết lý do thực . Sakhalin chủ yếu là vùng đất được khai khẩn để làm nơi lưu đày những người tù khổ sai, đối với người bình thường, đó chỉ là biểu tượng của bi thảm và chẳng lành. Huống hồ thời bây giờ vẫn chưa có đường sắt Tây Siberia, ông chỉ có thể ngồi xe ngựa rong ruổi hơn bốn nghìn cây số giữa trời đất giá băng, cuộc hành xác ấy khiến thân thể vốn được khỏe mạnh của ông bị tàn phá nặng nề. Và cuốn sách Đảo Sakhalin, thành quả sau chuyến dài tám tháng đến miền Viễn Đông ấy, khiến ít đọc giả phải bối rối. Bởi vì đây là tác phẩm bóp nghẹt các yếu tố văn chương, giống như bản báo cáo điều tra thực tế hay dư địa chí nhiều hơn. “Tại sao Chekhov lại làm chuyện nhọc công vô ích, chẳng có ý nghĩa gì trong giai đoạn vô cùng quan trọng với nhà văn như thế?” Những người xung quanh đều xì xào bàn tán. Thậm chí có nhà phê bình còn khẳng định đó là hành vi “Cố ý gây chấn động, mượn cớ để nổi danh”. Cũng có người đoán rằng “ còn biết viết gì nữa, nên để tìm kiếm tư liệu sống.” Tengo cho Fukaeri xem tấm bản đồ in kèm theo sách, chỉ cho vị trí của Sakhalin. “Tại sao Chekhov lại Sakhalin.” “Em hỏi nghĩ thế nào về chuyện này à?” “Phải. đọc sách này rồi.” “Đọc rồi.” “ nghĩ thế nào.” “Có lẽ chính bản thân Chekhov cũng biết nguyên nhân thực ,” Tengo . “Hay là thế này nhé, đột nhiên ông nảy ra ý tưởng, muốn đến đó xem thử thế nào. Chẳng hạn, khi nhìn bản đồ thấy hình dáng của đảo Sakhalin, ông sao kiềm chế được thôi thúc, muốn đến tận nơi xem tận mắt. cũng từng có những trải nghiệm tương tự vậy. Có số nơi, nhìn bản đồ, bất chợt thấy dâng lên ý muốn: ‘Cho dù thế nào, mình cũng phải đến đó xem!’ hiểu sao, rất nhiều trường hợp, đó đều là những nơi xa xôi bất tiện. Phong cảnh ở đó như thế nào? xảy ra chuyện gì? Tóm lại, chỉ mực muốn đến xem thử thế nào. Cảm giác ấy giống như ngứa ngáy, vì vậy thể cho người khác biết nguồn gốc của tâm trạng bị thôi thúc ấy. Chỉ là lòng hiếu kỳ thuần túy. thứ linh cảm thể ra được. Thời bấy giờ, từ Matxcơva Sakhalin là chuyện khó khăn đến mức thể tưởng tượng được, vì vậy nghĩ, chắc rằng Chekhov chỉ có lý do đấy thôi đâu.” “Ví dụ như.” “Chekhov chỉ là nhà văn, ông ấy còn là bác sĩ. Vì vậy, là nhà khoa học, có lẽ ông ấy muốn tận mắt kiểm tra vết thương của nước Nga vĩ đại. Cái bản thân là nhà văn nổi tiếng cư trú ở thành thị khiến Chekhov cảm thấy khó chịu. Ông chán ghét khí của văn đàn Matxcơva, thể hòa hợp được với đám bạn văn ngày ngày làm bộ làm tịch, hoặc động tí là phá đám nhau. Còn những nhà phê bình tâm địa bất trắc ấy, ông chỉ thấy chán ghét. Có khi chuyến Sakhalin chính là cuộc hành hương gột rửa hết những vết nhơ của văn học. Hơn nữa, đảo Sakhalin ở nhiều tầng ý nghĩa làm ông cảm thấy chấn động sâu sắc. Có lẽ chính vì vậy, Chekhov mới thể viết được tác phẩm văn học lấy chuyến du hành đến Sakhalin làm đề tài. Đó tuyệt đối phải chuyện nông cạn có thể tùy tiện lấy ra làm đề tài tiểu thuyết được. Hơn thế, vết thương này có thể trở thành phần của thân thể ông. chừng đây mới là thứ mà ông ấy theo đuổi.” “Cuốn sách ấy thú vị,” Fukaeri hỏi. “ đọc thấy rất thú vị. Trong sách liệt kê rất nhiều con số và thống kê thực tế, vừa nãy cũng rồi, có sắc thái văn học lắm. Nó thể cách mạnh mẽ khía cạnh nhà khoa học ở Chekhov. Nhưng ở đó, đọc được quyết tâm cao quý của ông. Hơn nữa, trong những ghi chép mang tính thực tế đó, thi thoảng cũng kèm những đoạn miêu tả nhân vật và phong cảnh mang lại ấn tượng sâu sắc. Thậm chí, ngay cả những đoạn văn mang tính thực tế chỉ liệt kê thực cũng tồi chút nào. Đôi lúc còn rất đẹp là đằng khác. Như đoạn miêu tả về người Gilyak chẳng hạn.” “Người Gilyak,” Fukaeri hỏi. “Người Gilyak là những thổ dân sinh sống ở Sakhalin từ rất lâu trước khi bị người Nga đến chiếm đất. Bọn họ vốn sống ở phương Nam, nhưng vì bị người Ainu đến từ Hokkaido áp bức nên phải chạy đến cư trú ở miền Trung. Người Ainu cũng bị người Hòa[3] bức bách, nên mới phải rời khỏi Hokkaido. Chekhov quan sát đời sống văn hóa tiêu vong nhanh chóng vì Nga hóa tại Sakhalin ở cự li gần, đồng thời gắng sức ghi chép lại cách chuẩn xác.” [3]Người Nhật. Tengo lớn giọng đọc đoạn văn miêu tả về người Gilyak. Để dễ hiểu hơn, có số chỗ lược bớt và sửa đổi cho phù hợp. Người Gilyak có thân hình thấp đậm nhưng rắn chắc. Khó có thể là tầm thước, mà có lẽ thuộc loại thấp đúng hơn. Nếu thân hình cao lớn, hẳn là họ cảm thấy vướng víu trong rừng rậm. Đặc trưng của họ là xương lớn, những chỗ đầu xương có mật độ cơ bắp dày đặc, xương cột sống, xương khớp đều rất phát triển. Điều này làm người ta liên tưởng đến cuộc đấu tranh căng thẳng và ngừng nghỉ giữa các cơ bắp mạnh mẽ, rắn chắc với tự nhiên. Cơ thể họ gầy guộc và săn chắc, có mỡ dưới da. Bạn đừng hòng gặp được người Gilyak nào to béo. Hiển nhiên, tất cả mỡ của họ đều tiêu hao để duy trì nhiệt độ cơ thể. Để bù đắp phần thân nhiệt mất do nhiệt độ thấp và độ ẩm cực cao, những người ở Sakhalin thể tạo ra trong cơ thể mình thân nhiệt tương ứng. Từ đây, có thể lý giải được tại sao người Gilyak lại có nhu cầu ăn nhiều mỡ đến thế. Thịt hải báo béo ngậy, mỡ cá hồi, cá tầm và cá voi, những miếng thịt còn rỏ máu, tất cả những thứ đó họ đều ăn sống, hoặc phơi khô, và phần lớn trường hợp là để đông lạnh. Họ ăn rất nhiều. Vì ăn những thực phẩm thô cứng như thế, nên những bộ phận tập trung nhiều cơ nhai của họ phát triển dị thường, răng cái nào cái nấy đều mòn vẹt. Họ chuyên ăn thịt, chỉ những khi ăn ở nhà hoặc uống rượu, mới ăn thêm tỏi Mãn Châu và dâu tây kèm với thịt và cá. Theo tường trình của Gennady Ivanovich Nevelskoy[4], người Gilyak coi nông nghiệp là tội ác ghê gớm, họ tin rằng người nào tự ý đào đất lên để định trồng thứ gì đó chắc chắn chết. Nhưng bánh mì mà người Nga cho họ, lại rất được thích, cho là món ngon. Ngày nay, ở Alexandrovsk và làng Orekhov, cũng hiếm gặp những người Gilyak kẹp dưới nách cái bánh mì tròn loại lớn nữa. [4] Gennady Ivanovich Nevelskoy (1813-1876): nhà hàng hải, nhà thám hiểm, quân nhân hải quân người Nga. Tengo đọc tới đây dừng lại nghỉ lúc. đoán được cảm tưởng của Fukaeri từ gương mặt lắng nghe say sưa ấy. “Thế nào? Vẫn đọc tiếp chứ? Có cần đổi cuốn khác ?” hỏi. “Em vẫn muốn biết thêm về người Gilyak.” “Vậy tiếp tục đọc nhé.” “Em nằm giường được ,” Fukaeri hỏi. “Được chứ,” Tengo trả lời. Vậy là hai người bèn chuyển sang phòng ngủ. Fukaeri leo lên giường, Tengo đem ghế kê bên cạnh, ngồi xuống, sau đó tiếp tục đọc. Người Gilyak bao giờ rửa mặt, nên ngay cả các nhà nhân loại học cũng dám khẳng định màu da của họ là gì. Họ cũng giặt đồ lót, còn các thứ quần áo, giày ủng bằng da và lông như thể mới được lột từ mình con chó chết ra vậy. Bản thân người Gilyak cũng phát ra mùi xú uế nồng nặc khiến người ta phát mửa. Nếu nhà của họ ở gần đâu đó, có thể biết ngay nhờ vào mùi khó chịu, đôi lúc thậm chí thể chịu nổi của cá khô và nội tạng cá rữa nát. Bất cứ nhà nào, bên cạnh cũng đều có sân phơi đầy những con cá xẻ đôi, nhìn từ đằng xa, đặc biệt lúc mặt trời chói lóa, trông như bãi san hô. Ở gần sân phơi này, Krusenstern[5] từng phát ổ dòi bọ nhung nhúc phủ kín cả mặt đất, dày đến ba xăng ti mét. [5]Ivan Fyodorovich Krusenstern (1770-1846): nhà thám hiểm, tư lệnh hải quân người Nga. “Krusenstern.” “ đoán ông ta là nhà thám hiểm thời kỳ trước đó, Chekhov là người cần cù nghiên cứu, ông ấy đọc hết loạt các sách viết về Sakhalin.” “Đọc tiếp .” Đến mùa đông, trong căn nhà , khói đặc bay ra từ bếp lò, thêm nữa, người Gilyak kể cả phụ nữ và trẻ con, ai nấy đều hút thuốc lá. Tuy chưa có bất cứ số liệu nào về tình hình bệnh tật và tỷ lệ tử vong của người Gilyak, nhưng cần phải thấy điều kiện vệ sinh tệ hại như vậy chắc chắn ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ. Rất có thể nguyên nhân họ lùn , mặt mũi phù thũng, động tác thiếu sức sống, tỏ ra mệt mỏi là do điều kiện vệ sinh ấy gây ra. “Người Gilyak đáng thương,” Fukaeri . Về tính cách của người Gilyak, các tác giả đưa ra những giải thích khác nhau, nhưng đều nhất trí ở điểm, đó là họ hiếu chiến, thích tranh luận và ẩu đả, là dân tộc có thể sống hòa bình với bất cứ hàng xóm nào. Mỗi khi có người mới xuất , họ dò xét bằng cái nhìn đa nghi vì lo lắng cho tương lai, nhưng hề có ý đồ phản kháng, và bao giờ cũng đón tiếp cách hòa nhã. Giả sử họ cho rằng việc mô tả Sakhalin như nơi buồn tẻ khiến những dân tộc khác rời khỏi đảo này ra , và họ bèn dối, đó là phản kháng ở mức độ cao nhất của họ. Họ rất hữu hảo với đoàn người của Krusenstern, thậm chí còn ôm hôn thắm thiết, khi L.I.Schlenk[6] mắc bệnh, tin tức này lập tức lan truyền trong cộng đồng Gilyak, và họ xót xa thực . Họ chỉ dối khi mua bán, và đôi lúc chuyện với những người khả nghi hay những nhân vật mà họ cho là nguy hiểm; chẳng những vậy, trước khi dối, họ còn phải đưa mắt nhìn nhau, bộ dạng chẳng khác nào con nít. Còn trong giao tiếp xã hội thông thường liên quan đến buôn bán, tất cả những lời dối trá và khoe khoang đều làm họ thấy chán ghét. [7] L.I.Chlenk (1826-1894): nhà nhân chủng học, động vật địa lý học người Nga, từng khảo sát tại đảo Sakhalin ba năm. “Người Sakhalin tuyệt vời,” Fukaeri . Khi hứa với người khác việc gì, người Gilyak nhất định thực bằng được. Cho đến giờ vẫn chưa từng có chuyện người Gilyak giữa đường vứt bỏ bưu kiện, hoặc lạm dụng đồ đạc của người khác. Họ dũng cảm, tiếp thu nhanh, vui tính, dễ gần, khi ngồi cùng với những người quyền thế hay giàu có cũng thản nhiên như . Họ chấp nhận bất cứ thứ quyền lực nào, giữa họ dường như tồn tại ngay cả khái niệm kẻ người dưới. Thường xuyên có người hoặc viết rằng, trong cộng đồng người Gilyak, chế độ gia trưởng được tôn trọng. Người cha cho rằng mình là bề của con trai, còn con trai cũng chẳng hề kính trọng cha, cứ sống thỏa mái tùy ý. Ở trong nhà, bà mẹ già cũng có quyền lợi gì hơn đứa con vẫn còn mũi dãi lòng thòng. Theo ghi chép của Vasili Danilivich Poyarkov[8], ông từng chỉ lần mục kích cảnh con trai đấm đá mẹ ruột của mình đuổi ra khỏi nhà, vậy mà cũng có người nào ra mặt khuyên ngăn. Trong gia đình, đàn ông nhất loạt đều bình đẳng. Nếu bạn mời người Gilyak uống rượu vodka, cần mời cả cậu bé trai chưa trưởng thành nữa. [8] Vassili Danilovich Poyarkov (?-166: nhà thám hiểm người Nga đầu tiên đến khu vực Amur (dòng sông chảy giữa Trung Quốc và Nga). Mặt khác, phụ nữ, dù là bà nội, mẹ hay đứa trẻ vẫn bú, đều có quyền lợi như nhau. Bị bỏ rơi, bán , hay đánh đập như đối xử với loài chó, tất cả đều thành vấn đề, bị đối xử cay nghiệt như đối với đồ vật hay gia súc. Người Gilyak có thể cưng chiều con chó, nhưng tuyệt bao giờ vui vẻ cười với phụ nữ. Họ cảm thấy việc kết hôn cực kỳ vô vị, gọn là còn quan trọng bằng việc vui chơi uống rượu. Họ cũng thực bất cứ nghi thức tôn giáo hay mê tín nào. Người Gilyak dùng giáo dài, thuyền hoặc thậm chí cả chó đổi lấy phụ nữ, gánh về lều mình, ném lên tấm da gấu ngủ với nhau… vậy là xong. Họ cũng thừa nhận chế độ vợ chồng, nhưng dù thế nào đàn bà vẫn nhiều hơn bọn đàn ông, thành thử chế độ này cũng phổ biến. Coi phụ nữ như động vật hạ đẳng hoặc đồ vật, trong cộng đồng người Gilyak, phụ nữ thậm chí còn được coi bằng nô lệ. Hiển nhiên, đối với họ, phụ nữ cũng giống như thuốc lá và vải bông vậy, đều là đối tượng để giao dịch. Nhà văn Thụy Điển August Strindberg, người căm ghét đàn bà nổi tiếng, chỉ mong phụ nữ thành nô lệ, chỉ cần nghe theo vui giận bất thường của đàn ông là tốt nhất. Về bản chất, ông ta có tư tưởng tương đương với người Gilyak. Nếu đến phía bắc Sakhalin chắc chắn ông ta được người Gilyak hoan nghênh lắm. Tengo dừng lại nghỉ chút. Fukaeri phát biểu cảm tưởng gì. Chỉ im lặng. lại tiếp tục đọc. Chỗ của họ có tòa án, cũng biết việc xét xử có ý nghĩa gì. Đến giờ họ vẫn thể hiểu được vai trò của đường sá, chỉ từ chuyện này thôi có lẽ có thể làm được điều: đối với họ, khó khăn để hiểu được chúng ta. Cả ở những nơi đường được làm xong, họ vẫn cứ xuyên qua rừng rậm như trước. Thường xuyên có thể nhìn thấy cả nhà họ dẫn theo chó xếp thành hàng dài, khó nhọc bước trong đám bùn lầy lội ngay bên cạnh đường cái quan. Fukaeri nhắm mắt, hơi thở hết sức bình yên. Tengo chăm chú quan sát gương mặt lúc. Nhưng rốt cuộc ngủ chưa, biết. Vậy là, bèn lật trang khác, tiếp tục đọc, tự nhủ nếu ngủ rồi để ngủ say hơn nữa, đồng thời, cũng muốn đọc thành tiếng thêm vài đoạn văn nữa của Chekhov. Ở cửa sông Najawa, trước đây có đồn gác, được xây dựng vào năm 1886. Khi công sứ Nga tới đây, tổng cộng nhà có người ở và nhà trống có mười tám căn, còn có cả giáo đường, tiệm thực phẩm. Theo bài viết của nhà báo đến đây vào năm 1871, nơi này hình như có hai mươi binh sĩ đồn trú dưới chỉ huy của viên sĩ quan dự bị. Ông ta còn viết rằng trong nhà, người vợ lính xinh đẹp khoản đãi nhà báo bằng trứng gà tươi và bánh mì đen, hết lời khen ngợi cuộc sống ở đây, chỉ phàn nàn điều rằng giá đường cát cao quá. Giờ đây những căn nhà gỗ đó đều biến mất, dõi mắt nhìn khung cảnh hoang lương xung quanh, câu chuyện về người vợ lính xinh đẹp chẳng khác nào thần thoại. Giờ ở nơi đây chỉ có khu nhà mới cất, phải đồn gác là nhà trọ. Ngước mắt nhìn ra xa là biển lớn lạnh lẽo đục ngầu, gầm gừ quất tung những con sóng trắng xóa cao bốn năm mét vào bờ cát, trông như thể bị giam cầm trong tuyệt vọng, rên rỉ rằng “Thượng đế ơi, tại sao Người tạo ra chúng con”. Nơi đây là Thái Bình Dương. Ở bờ biển, có thể nghe thấy tiếng đập búa của những người tù vang lên khắp công trình xây dựng, còn bên bờ đối diện xa xôi kia, là nước Mỹ. Phía trái có thể thấy doi đất Sakhalin bị mây mù che phủ, bên phải cũng là doi đất… bốn bề thấy bóng người, cả con chim, con nhặng cũng chẳng thấy. Ở nơi này, sóng biển rốt cuộc thét gào vì ai? Có ai hàng đêm lắng nghe tiếng sóng? Sóng biển tìm kiếm gì? Sau khi tôi rời khỏi đây, sóng biển lại tiếp tục gào thét vì ai… cả điều này cũng thể biết được. Đứng bên bờ biển này, bản thân ta trở thành tên tù u uất và còn tư tưởng. nỗi sợ vô cớ, nhưng đồng thời cũng khiến người ta có cảm giác muốn đứng mãi ở nơi đây, dõi mắt ngắm nhìn sóng biển đơn điệu cuộn dâng, lắng nghe tiếng gầm điếc tai của nó. Hình như Fukaeri ngủ say hẳn. Lắng tai nghe, chỉ thấy vang lên tiếng thở đều đặn, nhàng của . Tengo gấp sách lại, đặt lên chiếc bàn đầu giường, sau đó đứng lên, tắt đèn phòng ngủ. Cuối cùng lại đưa mắt nhìn gương mặt Fukaeri lần nữa. ngửa mặt lên trần nhà, miệng mím chặt thành đường thẳng, ngủ rất bình yên. Tengo khép cửa lại, trở ra bếp. Nhưng thể nào viết tiếp được nữa. Phong cảnh nơi bờ biển hoang lương ở Sakhalin mà Chekhov miêu tả ăn sâu vào tâm thức . Tengo có thể nghe thấy tiếng sóng biển gầm thét ấy. Vừa nhắm mắt lại, liền mình đứng bên bờ biển Okhotsk hoang vắng vết dấu của con người, trở thành tên tù đắm chìm trong trầm tư mặc tưởng. có thể cảm nhận được tâm tư u uất vì có nơi dốc lòng ấy của Chekhov. Chắc hẳn ở chốn góc biển chân trời ấy, ông bị thứ cảm giác bất lực áp đảo. Là nhà văn Nga cuối thế kỷ mười chín, có lẽ cũng đồng nghĩa với việc gánh lưng sứ mệnh dữ dội của kẻ cùng đường mạt lộ. Họ càng muốn thoát khỏi nước Nga, nước Nga lại càng nuốt chửng họ vào cơ thể rộng lớn của mình. Tengo lấy nước rửa sạch ly rượu vang, vào nhà vệ sinh đánh răng, tắt đèn bếp nằm xuống sofa, đắp chăn lên người, định bụng ngủ. Sâu trong tai , tiếng sóng ầm ầm vẫn ngừng vang động. Mặc dù vậy, lâu sau, ý thức dần trở nên mơ hồi, rồi bị kéo vào giấc ngủ sâu lúc nào chẳng hay. Lúc tỉnh giấc tám rưỡi sáng. giường thấy Fukaeri. Bộ đồ ngủ cho mượn vo viên thành đống, ném vào máy giặt trong nhà vệ sinh. Chỗ ống tay và ống chân vẫn còn xắn lên. bàn bếp có lời nhắn viết bằng bút bi mẩu giấy nhớ: “Người Gilyak giờ thế nào rồi. Em về nhà đây.” Chữ , cứng và góc cạnh, nhìn có vẻ được tự nhiên lắm. Cảm giác như thể từ quan sát những hàng chữ xếp bằng vỏ sò bãi cát. gấp tờ giấy lại, cho vào ngăn kéo. Nếu để người tình đến lúc mười giờ nhìn thấy, chắc chắn làm ầm lên. Tengo dọn sạch giường, cất tác phẩm công phu của Chekhov lên giá. Sau đó pha cà phê, nướng bánh mì lát. Vừa ăn sáng, vừa cảm thấy có thứ gì đó cứ đè nặng trong ngực mình chịu tan . Mất lúc lâu mới hiểu được đó là gì. Đó là gương mặt bình thản của Fukaeri. Chẳng lẽ mình nảy sinh tình cảm với bé này rồi sao? đúng, thể có chuyện ấy. Tengo tự nhủ. Chỉ là người có thứ gì đó, vô tình làm rung động trái tim mình theo lối cơ học. Thế nhưng, tại sao mình lại để ý đến bộ đồ ngủ ấy mặc như thế? Tại sao lại (và ý thức được cách sâu sắc) cầm lên ngửi mùi hương còn sót lại đó? Những câu hỏi cứ nổi lên. “Nhà văn phải là người giải quyết vấn đề, mà là người đưa ra vấn đề.” Người câu này hình như chính là Chekhov. câu danh ngôn sâu sắc. Nhưng Chekhov chỉ đối xử với tác phẩm của mình như thế, mà khi đối mặt với cuộc đời mình, ông cũng luôn giữ thái độ ấy. Chỉ có vấn đề đặt ra, nhưng có vấn đề được giải quyết. Ông biết mình mắc bệnh phổi nan y (bản thân ông chính là bác sĩ, thể nào biết), nhưng lại cố gắng bỏ qua này, cho đến lúc chết cũng chịu tin rằng mình con đường đến với cái chết. Ông ngừng ho ra máu, ra khi tuổi vẫn còn trẻ. Tengo lắc đầu, đứng lên khỏi bàn. Hôm nay là ngày người tình của mình đến, tiếp theo còn phải giặt quần áo, quét dọn nhà cửa. Việc suy nghĩ để sau hãy tính.
Chương 21: Dẫu cho trốn chạy đến nơi xa xôi thế nào - P1 Aomame đến thư viện của quận, sau khi thực các thủ tục giống như lần trước, nàng trải bản thu các số báo ra bàn để xác nhận lại kiện những kẻ quá khích đấu súng với cảnh sát tại Yamanashi mùa thu ba năm trước. Bà chủ đại bản doanh của giáo đoàn Sakigake ấy được đặt ở vùng núi tỉnh Yamanashi. Đây có lẽ chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng “Trùng hợp ngẫu nhiên” là thứ khiến Aomame cảm thấy hài lòng. Giữa hai chuyện này có lẽ tồn tại mối quan hệ gì đó. “ kiện trọng đại” mà bà chủ đề cập đến dường như cũng ám chỉ mối tương quan nào đó. Cuộc đọ súng xảy ra ba năm về trước, ngày mười chín tháng Mười năm 1981 (theo giả thiết của Aomame, đó là “ba năm trước của năm IQ84”). Về chi tiết cuộc đấu súng, lần trước nàng đến thư viện đọc báo cũng nắm được đại thể. Vì vậy nàng chỉ định đọc lướt qua phần này, mà chủ yếu tìm đọc các bài đưa tin liên quan sau đó, cùng với các bài phân tích kiện từ nhiều góc độ khác nhau. Lúc đầu khi cuộc đọ súng nổ ra, ba cảnh sát bị súng AK47 Trung Quốc sản xuất bắn chết, hai người bị trọng thương. Sau đó nhóm phần tử vũ trang quá khích chạy vào núi sâu, cảnh sát vũ trang tiến hành lục soát quy mô lớn. Đồng thời, lính dù vũ trang của lực lượng phòng vệ được trực thăng đưa tới trường. Kết quả, ba thành viên của nhóm quá khích chịu đầu hàng nên bị bắn chết, hai bị thương nặng ( trong số đó chết trong bệnh viện ba ngày sau, người còn lại số phận thế nào thể xác định được nếu chỉ dựa vào tin tức đăng báo), bốn người bị thương hoặc bị thương và bị bắt sống. Vì mặc áo chống đạn tính năng cao nên phía lực lượng phòng vệ và cảnh sát có thương vong, chỉ có cảnh sát trượt chân xuống vách núi trong quá trình truy đuổi, bị gãy chân. Trong đám phần tử quá khích, chỉ có người là tung tích. Gã đàn ông này như thể biến mất tăm tích bất chấp cuộc lùng sục quy mô lớn. Sau khi cơn chấn động do vụ đọ súng tạo ra lắng xuống phần nào, báo chí bắt đầu đăng tin tường tận về nguồn gốc, lai lịch của nhóm quá khích. Họ vốn là những đứa con bị bỏ rơi của cuộc đấu tranh ở trường đại học vào những năm 1970, có hơn nửa số thành viên từng tham gia chiếm giữ Giảng đường Yasuda của Đại học Tokyo hoặc Đại học Nhật Bản. Khi “Thành lũy” bị cảnh sát cơ động dùng lực phá vỡ, các học sinh và số giáo viên hoặc bị đuổi ra khỏi trường hoặc cảm thấy việc lấy đại học làm trung tâm để hoạt động chính trị ở thành phố vào bước đường cùng, bèn bỏ qua xung đột hệ phái, cùng hợp tác xây dựng nông trường ở Yamanashi, bắt đầu hoạt động theo kiểu công xã. Mới đầu họ tham gia “Takashima”, tập thể công xã lấy nông nghiệp làm trung tâm, nhưng lâu sau vì cảm thấy hài lòng với cuộc sống ở đó nên họ tổ chức lại các thành viên ban đầu thành nhóm độc lập, mua ngôi làng bỏ hoang trong núi sâu với giá cực rẻ, bắt tay vào làm nghề nông. Thuở ban đầu hết sức gian nan, về sau thực phẩm trồng bằng phương thức hữu cơ của họ thầm gây nên cơn sốt ở thành phố, mô hình kinh doanh rau quả qua đường bưu điện được thiết lập thành công. Nhân đà ấy, nông trường cuối cùng cũng phát triển thuận lợi, tăng dần quy mô. Tạm chưa đến những chuyện khác, bọn họ đều là những người nghiêm túc, cần cù, lại đoàn kết chặt chẽ dưới bàn tay người lãnh đạo. Công xã này được gọi là Sakigake. Aomame chau mày, nuốt nước bọt. Những thanh khá lớn phát ra từ trong cổ họng. Cây bút bi trong tay gõ lên mặt bàn kêu canh cách. Nàng lại tiếp tục đọc báo. Song cùng với việc kinh doanh dần vào ổn định, các dấu hiệu chia rẽ trong nội bộ Sakigake cũng ngày ràng. Bọn họ rút cuộc phân thành hai nhóm lớn, gồm “phái đấu tranh vũ trang” quá khích theo lập trường chủ nghĩa Marx tiếp tục hy vọng có thể làm cách mạng bằng chiến tranh du kích, và “phái công xã” tương đối ôn hòa chấp nhận thực rằng trong tình hình Nhật Bản nay bạo lực cách mạng là phi thực tế, đồng thời cơ sở này phủ định tinh thần của chủ nghĩa tư bản, theo đuổi cuộc sống tự nhiên cùng với đất đai ruộng đồng. Năm 1976, cuối cùng xảy ra kiện “phái công xã” chiếm ưu thế về số lượng trục xuất “phái đấu tranh vũ trang” ra khỏi Sakigake. Mặc dù vậy, Sakigake dùng sức mạnh để đuổi phái đấu tranh vũ trang . Theo bài báo, họ cung cấp cho phái đấu tranh vũ trang khu đất mới và số vốn nhất định, mời họ ra cách êm thấm. Phái đấu tranh vũ trang chấp nhận thỏa thuận này, xây dựng công xã riêng ở khu mới, đặt tên là “Akebono”. Thế rồi, đến thời điểm nào đó, dường như họ sở hữu được các loại vũ khí cao cấp. Về các kênh cung cấp và nguồn tài chính để huy động số vũ khí đó, phải đợi các điều tra sau. Mặt khác, công xã nông nghiệp “Sakigake” chuyển hướng thành tổ chức tôn giáo vào lúc nào, như thế nào? Lý do của nó là gì? Cả cảnh sát lẫn báo chí đều có vẻ nắm được tình hình thực tế. Sau khi chia tách với “phái đấu tranh vũ trang”, công xã dường như nhanh chóng rơi vào khuynh hướng tôn giáo, và đến năm 1979 nó được công nhận pháp nhân tôn giáo. Đồng thời, công xã này liên tiếp mua lại các khu đất xung quanh, mở rộng đất nông nghiệp và các công trình, xây tường cao xung quanh các công trình của giáo đoàn, và người ngoài thể tự do ra vào được nữa. Lý do của họ là “Vì việc đó gây trở ngại cho việc tu hành”. Nguồn tiền rốt cuộc từ đâu đến? Tại sao công xã được công nhận pháp nhân tôn giáo sớm như vậy? Đây cũng là phần chưa được điều tra làm . Nhóm quá khích sau khi chuyển sang khu đất mới, vừa sản xuất nông nghiệp vừa ra sức huấn luyện đấu tranh vũ trang bí mật trong khu đất của mình, và mấy lần va chạm với nông dân lân cận. Môt trong số đó là vụ tranh chấp quyền sử dụng nước con sông chảy qua địa bàn “Akebono”. Con sông này trước đây vẫn là nguồn cung cấp nước công nghiệp cho cả khu vực, nhưng Akebono lại cho những người dân xung quanh đặt chân vào địa bàn của họ. Cuộc tranh chấp kéo dài mấy năm ròng, cuối cùng dẫn đến kiện cư dân quanh vùng phản đối việc Akebono làm hàng rào dây thép và bị số thành viên của tổ chức này đánh đập. Cảnh sát tỉnh Yamanashi xét đây là vụ án cố tình gây thương tích nên xin lệnh khám xét Akebono để nắm tình hình. Và thế là cuộc đọ súng bất ngờ xảy ra. Sau trận nổ súng kịch liệt trong rừng sâu, thực tế “Akebono” bị tiêu diệt, giáo đoàn “Sakigake” ngay lập tức lên tiếng. Người phát ngôn trẻ tuổi đẹp trai của giáo đoàn trong bộ vest tổ chức buổi họp báo. Luận điểm của họ hết sức ràng. Chuyện trước đây là khác, còn giữa “Akebono” và “Sakigake” nay có bất cứ quan hệ gì. Sau khi chia tách, ngoài các liên hệ về mặt công việc, hai bên gần như có qua lại. “Sakigake” là cộng đồng dồn sức vào nông nghiệp, tuân thủ pháp luật, theo đuổi thế giới tinh thần tĩnh lặng, và vì biết thể cùng hoạt động với nhóm “Akebono” theo đuổi chủ nghĩa cực đoan nữa, nên mới chia tách trong hòa bình. Sau này “Sakigake” trở thành tổ chức tôn giáo, và được công nhận là pháp nhân tôn giáo. Xảy ra kiện đẫm máu như vậy cố nhiên là điều vô cùng bất hạnh, giáo đoàn chân thành bảy tỏ chia buồn sâu sắc với những cảnh sát hy sinh và người nhà họ. Giáo đoàn “Sakigake” tuyệt đối liên quan đến kiện này dưới bất kỳ hình thức nào. Mặc dù vậy, thể phủ nhận điều rằng “Akebono” thoát thai từ chính “Sakigake”, vì vậy nếu chính quyền cho rằng cần tiến hành điều tra dưới hình thức nào đó, dù chỉ là để tránh những hiểu lầm cần thiết, Sakigake xin sẵn sàng đón tiếp những cuộc điều tra như vậy. Giáo đoàn là tổ chức hợp pháp rộng mở với toàn xã hội, có điều gì cần che giấu. Nếu cần Sakigake công khai các thông tin liên quan, giáo đoàn sẵn sàng đáp ứng các cầu của chính quyền bằng mọi khả năng có thể. Mấy ngày sau, như thể đáp lại tuyên bố ấy, cảnh sát tỉnh Yamanashi mang theo lệnh khám xét tiến vào giáo đoàn Sakigake, họ mất cả ngày trời khắp khu đất rộng lớn, cẩn thận kiểm tra bên trong các công trình và các loại giấy tờ sổ sách của giáo đoàn. Có mấy vị chức sắc trong giáo đoàn bị thẩm vấn. Cơ quan điều tra nghi ngại rằng, tuy bề ngoài tuyên bố chia tách, song có thể sau đó hai bên vẫn tiếp tục qua lại, và “Sakigake” vẫn ngấm ngầm tham gia các hoạt động của Akebono. Nhưng rốt cuộc họ chẳng phát được chứng cứ nào như vậy. Họ chỉ thấy trong khu rừng gỗ tạp xinh đẹp đó, các công trình xây dựng bằng gỗ dành cho việc tu hành nằm tản mát xung quanh con đường , rất nhiều người mặc đồ tu giản dị nhập định hoặc ra sức tu tập theo lối khổ hạnh. Cạnh đó, các tín đồ làm việc đồng áng. Có đủ chủng loại máy nông nghiệp và những thiết bị thi công công trình được bảo dưỡng cẩn thận, nhưng tìm được thứ nào giống vũ khí, hay những thứ gợi đến bạo lực. Tất cả đều sạch , ngay ngắn, trật tự. Có nhà ăn sạch , có nơi ngủ, còn có cả cơ sở y tế đơn giản (nhưng bài bản). Trong thư viện hai tầng lầu lưu trữ rất nhiều Phật điển và danh tác Phật giáo, công tác nghiên cứu và phiên dịch do các chuyên gia phụ trách vẫn được tiến hành. Nơi này giống cơ sở tôn giáo cho lắm, mà giống trường đại học tự lập nhưng gọn gàng sạch hơn. Cảnh sát chưng hửng ra về với hai bàn tay trắng. Mấy ngày sau, lần này là phóng viên báo chí và truyền hình nhận được lời mời của giáo đoàn. Và cảnh tượng họ thấy ở đó đại thể giống như những gì cảnh sát thấy. phải cuộc đến thăm được dày công sắp xếp theo lối cũ rích, các phóng viên có ai theo, có thể tùy ý đến thăm mọi nơi bên trong khu vực của giáo đoàn, tự do chuyện với bất cứ người nào, và được quyền sử dụng nội dung đó trong bài báo. Nhưng để bảo vệ riêng tư của các tín đồ, giáo đoàn và các cơ quan truyền thông giao hẹn trước là chỉ có thể sử dụng những bức ảnh và đoạn băng mà phía giáo đoàn cho phép. Mấy chức sắc của giáo đoàn bận áo tu hành trả lời các câu hỏi của phóng viên trong phòng lớn dùng để hội họp, giải thích về thành lập, giáo lý và phương châm hoạt động của giáo đoàn. Cách chuyện của họ khách khí nhưng thẳng thắn, giọng điệu tuyên truyền thường thấy ở các tổ chức tôn giáo hoàn toàn có. Bọn họ giống những nhân viên cao cấp của các đại lý quảng cáo quen với việc thuyết trình hơn là chức sắc trong giáo phái. Chẳng qua chỉ là bộ đồ mặc người khác nhau mà thôi. Chúng tôi có giáo lý ràng, họ giải thích. Chúng tôi cần những thứ ghi chép thành văn đó. Điều chúng tôi làm là nghiên cứu nguyên lý của Phật giáo nguyên thủy, là thực hóa các pháp tu được thực từ thời đó. Thông qua thực tiễn cụ thể này mà đạt được giác ngộ tôn giáo có tính linh hoạt, chứ phải chỉ mặt chữ, đó mới là mục tiêu mà chúng tôi theo đuổi. Các vị có thể hiểu thế này: giác ngộ tự phát của mỗi người, tụ họp lại hình thành nên giáo lý của chúng tôi. phải có giáo lý trước rồi mới giác ngộ sau, mà là mỗi cá nhân giác ngộ trước, cuối cùng mới tự sản sinh ra giáo lý quyết định Phật pháp của chúng tôi. Đây chính là phương châm cơ bản. Xét ý nghĩa này, tính chất của chúng tôi hoàn toàn khác với những tôn giáo thời. Về nguồn vốn, trước mắt chúng tôi cũng giống như nhiều tổ chức tôn giáo khác, phần dựa vào quyên tặng tự nguyện của các tín đồ. Nhưng sau cùng, chúng tôi dựa hoàn toàn vào tiền quyên tặng, mà xây dựng cuộc sống giản dị tự túc tự cấp lấy nông nghiệp làm trung tâm. Sống cuộc sống “biết đủ”, tẩy rửa nhục thể, rèn luyện tinh thần, cố gắng đạt được yên tĩnh trong linh hồn. Những người thấy chán ngán chủ nghĩa vật chất của xã hội cạnh tranh, muốn theo đuổi thứ gì đó sâu sắc hơn, vẫn ngày ngày đến gõ cửa giáo đoàn của chúng tôi. Trong số đó, ít người được giáo dục ở trình độ cao, có nghề nghiệp chuyên môn, có địa vị xã hội. Chúng tôi hoàn toàn khác với những “Tôn giáo mới nổi” mà người đời vẫn nhắc đến. Chúng tôi phải loại tổ chức tôn giáo “kiểu thức ăn nhanh” dễ dàng chấp nhận mọi phiền não của thế gian, muốn ôm trọn lấy trách nhiệm cứu giúp con người, và cũng có ý theo đuổi điều đó. Cứu giúp kẻ yếu cố nhiên là điều hết sức quan trọng, các vị có thể coi chúng tôi là tổ chức mang đến cho những người có ý thức tự cứu mình địa điểm và những trợ giúp thích hợp, cách khác là cơ sở tương đương với “Cao học” tôn giáo. Giữa chúng tôi và những người trong tổ chức “Akebono” nảy sinh những bất đồng rất lớn về cách điều hành, có khoảng thời gian thậm chí còn đối đầu gay gắt. Nhưng qua đối thoại, hai bên đạt được thỏa thuận ôn hòa: quyết định chia tách làm hai. Bọn họ cũng hình thành nhóm độc lập, theo đuổi lý tưởng cấm dục thuần túy, kết quả là xảy ra thảm ấy. Đây có thể là bi kịch. Họ quá giáo điều đến nỗi đánh mất mối liên hệ với xã hội thực vẫn tồn tại. Có lẽ đây chính là nguyên nhân lớn nhất. Chúng tôi cũng cần nhân dịp này chấn chỉnh bản thân nghiêm khắc hơn, đồng thời phải ghi nhớ rằng: cần kiên trì phương châm là tổ chức cởi mở với thế giới bên ngoài. Bạo lực thể giải quyết bất cứ vấn đề gì. Hy vọng các vị hiểu rằng, chúng tôi phải là tổ chức ép buộc mọi người tin theo tôn giáo. Chúng tôi khuyến dụ người khác theo tôn giáo, cũng công kích các tôn giáo khác. Điều chúng tôi làm chỉ là tạo cho những người tìm kiếm giác ngộ và theo đuổi tinh thần môi trường cộng đồng phù hợp và hiệu quả. Các phóng viên đa phần đều mang theo ấn tượng tốt với giáo đoàn này đường trở về. Tín đồ phân nam nữ đều gầy guộc ốm yếu, tuổi đời còn tương đối trẻ (đôi lúc cũng bắt gặp cả các tín đồ cao tuổi), ánh mắt trong sáng, năng lễ độ, cử chỉ đúng mực. Hầu hết các tín đồ đều muốn nhắc nhiều đến quá khứ, nhưng dường như phần lớn trong số họ được giáo dục ở trình độ cao. Đồ ăn trưa chuẩn bị cho các phóng viên (nghe đại loại cũng giống với những thứ thường ngày tín đồ vẫn ăn) tuy đơn sơ, nhưng đều là thực phẩm tươi vừa mang về từ đồng ruộng của giáo đoàn, mùi vị thơm ngon. Vậy là, rất nhiều phương tiện truyền thông định nghĩa nhóm cách mạng chuyển sang “Akebono” là những hạt giống xấu tất nhiên phải bị sàng lọc khỏi “Sakigake”, cộng đồng của những người theo đuổi các giá trị tinh thần. Ở Nhật Bản những năm 1980, tư tưởng bạo lực cách mạng cực đoan lỗi thời. Tầng lớp thanh niên từng theo đuổi lý tưởng chính trị cấp tiến những năm 1970 giờ vào làm việc trong các công ty khác nhau, làm việc cật lực chiến tuyến kinh tế. Nếu , họ cũng giữ khoảng cách nhất định với ồn ào và cạnh tranh của xã hội, mỗi người ở vị trí riêng, đều gắng theo đuổi những giá trị cá nhân. tóm lại, dòng chảy của thế giới này hoàn toàn đổi thay, mùa vụ chính trị trở thành quá khứ xa xôi, kiện “Akebono” tuy là biến cố đẫm máu và bất hạnh, nhưng về lâu dài, đó cũng chỉ là vong linh của quá khứ tình cờ lên, khúc nhạc đệm đột khởi hợp thời mà thôi. Từ đây có thể nhận thấy thời đại cáo chung. Đây chính là luận điệu thường thấy các báo. “Sakigake” là lựa chọn đầy hy vọng của thời đại mới. Trái lại, “Akebono” chẳng có tương lai. Aomame đặt bút bi xuống, hít thở sâu. Sau đó nàng hồi tưởng lại đôi mắt từ đầu chí cuối hoàn toàn có chút xúc cảm cũng như chiều sâu của Tsubasa. Đôi mắt ấy nhìn mình chăm chú, nhưng đồng thời, lại cũng chẳng nhìn gì hết. Những luận điệu này dường như để sót thứ gì đó rất quan trọng. Tuyệt đối thể nào đơn giản như thế được, Aomame thầm nhủ. thực Sakigake trong sạch như báo viết. Ở sâu bên trong nhất định còn tồn tại những góc tối u bí mật thể tiết lộ với người ngoài. Theo lời bà chủ, người gọi là “Lãnh Tụ” kia cưỡng hiếp các bé chỉ mới mười mấy tuổi, còn tuyên bố rằng đó là hành vi tôn giáo. Còn giới truyền thông hoàn toàn hay biết gì về chuyện này. Bọn họ chỉ ở lại đó nửa ngày, được dẫn tham quan những nơi ngăn nắp trật tự dùng để tu hành, được chiêu đãi bữa cơm trưa bằng thực phẩm tươi ngon, nghe bài thuyết giảng về giác ngộ đẹp đẽ, và vậy là họ có thể thỏa mãn ra về. Họ thể nào biết được ở tầng sâu bên trong đó, rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Aomame ra khỏi thư viện, bước vào quán, gọi ly cà phê. Nàng lấy điện thoại trong túi gọi tới đơn vị của Ayumi. Ayumi bất cứ lúc nào cũng có thể gọi đến số này được. đồng của nghe máy, Ayumi ra ngoài làm việc, chắc khoảng hai tiếng nữa mới quay về cơ quan. Aomame giới thiệu mình, chỉ : “Tôi gọi lại cho ấy.” Aomame về nhà, hai tiếng sau lại bấm máy gọi đến số điện thoại ấy. Ayumi nghe máy. “Chào. Aomame đấy à. Dạo này khỏe ?” “Khỏe. Còn ?” “Tôi cũng khỏe. Mỗi tội có đàn ông. Thế còn , Aomame?” “Cũng như thôi,” Aomame . “Thế được đâu,” Ayumi , “Những phụ nữ trẻ và quyến rũ như chúng ta sao cứ phải than vãn, loay hoay với cái nhu cầu tình dục sung mãn và lành mạnh của mình như thế chứ! Xã hội này chắc chắn có vấn đề rồi. Phải làm gì đó mới được.” “Cũng phải… à, tôi bảo này, lớn tiếng như vậy có sao đấy? phải làm à? Bên cạnh chẳng lẽ có ai?” “Chẳng sao hết. Chuyện gì cũng được, cứ !” Ayumi . “Nếu được, tôi có chuyện này muốn nhờ đến . Vì tôi nghĩ ra ai giúp tôi được nữa.” “Được chứ. biết liệu tôi có giúp được . xem nào.” “ có biết giáo đoàn tên là Sakigake ? Đại bản doanh đặt ở vùng núi tỉnh Yamanashi ấy.”
Chương 21: Dẫu cho trốn chạy đến nơi xa xôi thế nào - P2 “Sakigake hả?” Ayumi , sau đó mất chừng mười giây lúc trong ký ức, “À, chắc là có đấy. Hình như nhóm quá khích Akebono gây ra kiện nổ súng ở Yamanashi hồi trước từng thuộc về cái công xã tôn giáo đấy phải. Hai bên giao chiến kịch liệt, ba cảnh sát tỉnh bị bắn chết. Đáng thương . Có điều Sakigake liên quan đến kiện này. Sau khi vụ việc xảy ra, cảnh sát tiến hành điều tra cái giáo đoàn ấy rồi, kết quả là trong sạch. Còn chuyện gì nữa à?” “Tôi muốn biết sau trận đọ súng đó, Sakigake có gây ra vụ việc gì nữa ? Kể cả án hình lẫn án dân . Nhưng tôi chỉ là dân thường, biết nên bắt tay điều tra thế nào. Mà lại thể lật hết các bản thu báo ra đọc lượt được. Nhưng tôi nghĩ nếu là cảnh sát chắc có cách kiểm tra được chuyện này.” “Chuyện này đơn giản lắm, tra cái máy tính là ra ngay… Tôi cũng muốn vậy với , nhưng đáng tiếc là trình độ máy tính hóa của cảnh sát Nhật Bản vẫn chưa đến mức đó đâu. Muốn ứng dụng vào thực tế sợ phải mất hàng vài năm. Giờ muốn tìm hiểu những chuyện này chắc là chỉ có thể nhờ cảnh sát tỉnh Yamanashi giúp đỡ, sao chép lại tất cả các tư liệu liên quan gửi đến mới được. Đầu tiên là tôi phải viết công văn xin tài liệu ở đây, sau đó xin cấp cho phép. Đương nhiên lý do cũng phải viết ràng. biết là chỗ tôi là cơ quan nhà nước mà, mọi người đều lĩnh lương để làm cho việc thành ra phức tạp hơn tình hình thực tế.” “Thế à,” Aomame , sau đó thở dài tiếng, “Thế xong rồi.” “Nhưng sao lại muốn tìm hiểu chuyện này? Có bạn bè nào bị cuốn vào chuyện liên quan đến Sakigake à?” Aomame biết nên trả lời thế nào, nàng trù trừ giây lát, rồi quyết định thực. “Gần như vậy. Liên quan đến chuyện hiếp dâm. Ở giai đoạn này tôi vẫn chưa thể gì kỹ càng, cưỡng dâm thiếu nữ vị thành niên. Có tin tức rằng bọn họ lợi dụng tôn giáo làm vỏ bọc để làm chuyện này cách có tổ chức trong nội bộ.” Qua điện thoại cũng có thể cảm nhận được Ayumi khẽ chau mày lại ở phía bên kia. “Hừ, cưỡng dâm thiếu nữ vị thành niên, chuyện thể chấp nhận được.” “Dĩ nhiên là thể,” Aomame . “Thiếu nữ mà , khoảng mấy tuổi vậy?” “Mười tuổi, thậm chí còn chưa đến mười tuổi. Ít nhất là vẫn chưa có kinh lần đầu.” Ayumi ở đầu dây bên kia lặng giây lát, sau đó với giọng khô khan: “Tôi biết rồi. Nếu là thế, để tôi nghĩ cách xem sao. Cho tôi ba ngày được ?” “Được chứ. cứ gọi điện cho tôi là được.” Sau đó hai người chuyện phiếm lúc, rồi Ayumi : “Được rồi, tôi lại phải làm đây.” Sau khi gác máy, Aomame ngồi xuống ghế đọc sách kê cạnh cửa sổ, ngắm nhìn bàn tay phải của mình lúc lâu. Những ngón tay thon dài, móng tay cắt ngắn. Móng tay được sửa rất cẩn thận, nhưng giũa. Nhìn những móng tay ấy, nàng càng lúc càng có cảm giác bản thân chẳng qua chỉ là tồn tại mong manh như hạt sương sớm. Chỉ riêng chuyện hình dạng của cái móng tay này thôi, phải là thứ mình có thể quyết định được, mà do người khác tùy ý quyết định, còn mình chỉ biết ngoan ngoãn chấp nhận, mặc cho có thích hay . Rốt cuộc ai quyết định làm óng tay của mình thành ra thế này nhỉ? Bà chủ lần trước từng với Aomame: “Cha mẹ trước đây và nay vẫn là tín đồ cuồng nhiệt của Chứng nhân Jehovah.” Nếu vậy đến giờ có lẽ họ vẫn dốc hết tâm sức vào hoạt động truyền giáo như trước đây. Aomame có trai lớn hơn nàng bốn tuổi. trai nàng rất ngoan ngoãn. Khi nàng quyết ý bỏ nhà ra , nàng nghe lời cha mẹ, vẫn tiếp tục với cuộc sống bảo vệ tín ngưỡng. Dạo này ấy ra sao rồi? Nhưng Aomame muốn biết tin tức của người nhà lắm. Đó là phần kết thúc trong cuộc đời nàng, sợi dây gắn bó giữa họ và nàng bị cắt đứt từ lâu. Quên hết tất cả mọi chuyện xảy ra trước năm mười tuổi! Suốt thời gian dài nàng luôn cố gắng làm như thế. Cuộc đời mình thực ra bắt đầu từ năm mười tuổi, mọi thứ trước đó đều chỉ là cơn ác mộng thê thảm. Những ký ức ấy phải quên bằng hết! Thế nhưng, dẫu cho nàng nỗ lực thế nào, chỉ cần có cơ hội là tâm trí nàng lại lập tức bị kéo trở về với thế giới thê lương trong cơn mộng mị ấy. Nàng có cảm giác mọi thứ mình đạt được như đều bén rễ ăn sâu vào mảnh đất đen tối ấy, hút lấy dưỡng chất từ đó. Dẫu cho trốn chạy đến nơi xa xôi thế nào, rốt cuộc vẫn phải trở về. Aomame thầm nghĩ. Mình cần phải đưa tên “Lãnh Tụ” đó sang thế giới bên kia. Aomame hạ quyết tâm. Cũng là vì cả mình nữa. Buổi tối ba ngày sau đó, Ayumi gọi điện thoại đến. “ biết được mấy việc,” . “Về Sakigake?” “Đúng thế. Lần trước trong lúc suy tính, tôi đột nhiên nhớ ra gã thi vào phòng cảnh sát cùng đợt với tôi, chú ta làm việc ở Sở cảnh sát tỉnh Yamanashi, giữ chức vụ cũng tương đối cao. Vậy là bèn tìm gã đó nhờ giúp, bịa ra câu chuyện, bảo là họ hàng nhà tôi có đứa trẻ suýt chút nữa gia nhập vào giáo đoàn ấy, rồi tình hình rất ổn, người nhà đều bó tay. Vì vậy, thu thập các thông tin liên quan đến Sakigake. Nào là xin lỗi nhé, phiền giúp đỡ. biết đấy thôi, thực ra tôi rất giỏi bịa những chuyện kiểu như thế đấy.” “Cám ơn. Cám ơn nhiều lắm,” Aomame . “Vậy là gã đó liền gọi điện nhờ ông chú ở Yamanashi tình hình, ông ấy khảng khái nhận lời ngay, giới thiệu người phụ trách điều tra Sakigake với tôi. Thế rồi, tôi trực tiếp gọi điện cho người đó.” “Tốt quá.” “Ừ. Lúc đó tôi chuyện với ta rất lâu, nghe được kha khá thông tin về Sakigake. Những thứ đăng báo chắc chắn biết rồi, tôi nữa, chỉ những phần dân thường biết được thôi, như vậy được ?” “Được.” “Đầu tiên là Sakigake nhiều lần gây ra các vấn đề liên quan đến pháp luật. Họ vướng vào vài vụ tố tụng dân . Hầu hết là các vướng mắc liên quan tới việc mua bán đất đai. Giáo đoàn này hình như có nguồn vốn rất dồi dào, sục sạo lùng mua bằng hết đất đai ở xung quanh. Vì ở nhà quê, nên giá đất rẻ cũng đúng là rẻ , nhưng dù sao như thế vẫn là quá nhiều. Hơn nữa, nhiều trường hợp cách làm của họ có vẻ hơi quá đáng. Họ thành lập công ty mạo danh làm vỏ bọc, để người khác biết là có giáo đoàn tham gia, ra sức thu mua đất đai với số lượng lớn, vì vậy thường xuyên nảy sinh bất hòa với chủ sở hữu đất và chính quyền địa phương. Cách làm ấy khác gì với mấy công ty chuyên thổi phồng giá nhà đất. Giai đoạn này vẫn chỉ là tố tụng dân , chưa phát triển đến mức cần phải can thiệp, nhưng cũng còn xa, chỉ là vẫn chưa bị đưa ra ánh sáng thôi. khéo còn dính dáng đến cả xã hội đen với lại chính trị gia nữa cũng nên. Nếu có người trong chính trường nhúng tay vào, cảnh sát dĩ nhiên nương tay. Có điều, nếu việc lớn lên, khiến phía kiểm sát phải ra mặt chuyện khác đấy.” “Tức là về mặt hoạt động kinh tế, Sakigake trong sạch như vẻ bề ngoài của nó.” “ biết các tín đồ bình thường thế nào, song chỉ riêng việc soát xét các ghi chép về mua bán bất động sản thôi những chức sắc phụ trách quản lý tiền bạc kia chưa chắc có thể là trong sạch. Dù giải thích thiện chí thế nào cũng thể cho rằng bỏ ra ngần ấy tiền là để theo đuổi mục đích tinh thần thuần túy. Hơn nữa, đám người đó những chỉ mua đất đai và nhà cửa ở Yamanashi, mà còn có cả ở Tokyo và Osaka nữa, đâu cũng toàn là những khu tấc đất tấc vàng cả. Shibuya, Nam Aoyama, Shoto… giáo đoàn này hình như định cắm rễ phạm vi toàn quốc phải. Ý tôi là, giả dụ họ có ý định chuyển nghề sang kinh doanh địa ốc.” “ tổ chức tôn giáo sống trong tự nhiên, lấy việc tu hành thanh tịnh và khổ hạnh làm mục tiêu tối thượng tại sao phải tiến vào trung tâm thành phố làm gì nhỉ?” “Lại còn bao nhiêu là tiền như thế, rốt cuộc có nguồn gốc từ đâu?” Ayumi đặt nghi vấn, “Chỉ trồng củ cải với bán cà rốt, tuyệt đối thể gom góp được ngần ấy tiền.” “Họ vơ vét của các tín đồ.” “Đúng là có trường hợp ấy, nhưng dù có làm vậy cũng thể đủ được. Chắc chắn là họ có kênh tài chính lớn khác. Chúng tôi còn tìm được số thông tin rất đáng nghi, chắc là thấy hứng thú. Trong giáo đoàn có khá nhiều tín đồ trẻ con, hầu hết đều học ở trường tiểu học địa phương, nhưng lũ trẻ đa số chỉ đến trường được thời gian bỏ học. Đây là giáo dục bắt buộc, vậy nên nhà trường gay gắt cầu cho lũ trẻ đến trường học, song giáo đoàn cứ nhất quyết giải thích ‘nhiều trẻ thế nào cũng chịu đến lớp’, sau đó bảo rằng họ giáo dục lũ trẻ ấy về mặt học hành cần phải lo lắng làm gì.” Aomame nhớ lại thời mình học tiểu học. Nàng hiểu tâm trạng muốn học của lũ trẻ con trong giáo đoàn. Bởi vì có đến trường cũng chỉ để bị coi là kẻ dị biệt, bị ức hiếp, hoặc chẳng ai thèm để mắt tới. “Ở trường học, lũ trẻ chắc cảm thấy cuộc sống khó chịu đựng,” Aomame , “Vả lại, học cũng phải là chuyện gì hiếm gặp.” “Nhưng theo lời các thầy giáo của lũ trẻ, đám trẻ trong giáo đoàn bất kể là nam hay nữ, nhìn bề ngoài dường như đều có vấn đề về tâm lý. Ban đầu chúng là những đứa trẻ hết sức bình thường, tính cách cởi mở, nhưng càng lên lớp cao, chúng càng ít , nét mặt dần trở nên đờ đẫn, rồi hoàn toàn vô cảm, cuối cùng học nữa. Trẻ con ở Sakigake hầu hết đều trải qua những giai đoạn giống hệt nhau, biểu các triệu chứng giống nhau. Vì vậy, các thầy giáo đều lấy làm lạ và hết sức lo lắng. Lũ trẻ trốn trong giáo đoàn chịu học rốt cuộc ở trong trạng thái nào? Có sống khỏe mạnh ? Nhưng họ gặp được lũ trẻ ấy, vì giáo đoàn từ chối cho phép bất cứ người ngoài nào vào trong khu vực của họ.” Triệu chứng của Tsubasa, Aomame thầm nhủ. Vô cảm đến cực đoan, hoàn toàn có chút xúc cảm nào, gần như mở miệng chuyện. “Chắc nghi ngờ trong nội bộ của Sakigake có xảy ra chuyện ngược đãi trẻ em. cách có tổ chức. Trong đó bao gồm cả việc cưỡng hiếp nữa.” “Có điều, chỉ dựa vào nghi ngờ của người dân bình thường, cảnh sát hành động, đúng ?” “Ừ. cũng biết đấy, cảnh sát là cơ quan nhà nước thủ cựu, cố chấp còn gì. Đám chóp bu chỉ nghĩ đến đường tiến thân. Dĩ nhiên phải ai cũng thế, nhưng tuyệt đại đa số đều chỉ nghĩ muốn bình an vô để thăng chức, sau khi nghỉ hưu hạ cánh xuống làm lãnh đạo tại cơ quan nghiệp trực thuộc hoặc doanh nghiệp tư nhân nào đấy. Đó là mục đích duy nhất của đời họ. Vì vậy những chuyện nguy hiểm, khó khăn, bỏng tay ngay từ đầu họ nghĩ đến, hỏi đến rồi. đùa chứ, cái đám ấy có khi ăn bánh pizza cũng phải đợi nguội rồi mới ăn cũng nên. Nếu có người bị hại đứng lên làm chứng ràng trước tòa tất nhiên lại là chuyện khác. Nhưng e rằng chuyện này có hy vọng gì nhiều.” “Ừ. Có lẽ rất khó,” Aomame , “dù sao chăng nữa, cũng cảm ơn nhiều lắm. Thông tin của rất hữu ích. Lúc nào tôi phải cảm ơn ra trò mới được.” “Chuyện đó có gì đâu. Mấy hôm nữa chúng ta đến Roppongi chơi cho quên sạch những chuyện phiền não trong lòng .” “Được đấy.” Aomame đáp. “Phải thế chứ,” Ayumi chợt , “Tiện thể hỏi luôn, có hứng thú với trò còng tay nhỉ?” “Tôi nghĩ chắc là đâu.” Aomame trả lời. Trò còng tay? “Chà. Tiếc quá.” Ayumi , vẻ như tiếc nuối lắm.
Chương 22: Thời gian có thể tiến lên với hình dạng méo mó - P1 Tengo nghĩ về bộ não của mình. Về bộ não, có rất nhiều điều thể suy nghĩ. Trong vòng hai triệu năm trăm nghìn năm, bộ não của con người tăng lên gấp chừng bốn lần so với kích thước ban đầu. Xét về trọng lượng, bộ não chỉ chiếm hai phần trăm trọng lượng cơ thể người, nhưng lại tiêu hao chừng bốn mươi phần trăm tổng số năng lượng mà cơ thể cần đến (có lần đọc sách thấy viết như vậy). Trong mở rộng mang tính nhảy vọt này của bộ não, con người có được quan niệm về thời gian, gian và khả năng. Quan niệm về thời gian, gian và khả năng. Tengo biết thời gian có thể tiến lên với hình dạng méo mó. Tự thân thời gian cố nhiên có cấu tạo đồng nhất, thế nhưng khi bị tiêu hao hình dạng của nó trở nên méo mó. Có thời gian rất nặng và dài, cũng có thời gian mà ngắn. Thứ tự trước sau có lúc còn bị đảo lộn, nếu nghiêm trọng thậm chí còn tan biến tăm tích. Trong khi những thứ vốn nên tồn tại lại được thêm vào. Phải chăng nhờ vào việc tùy tiện điều chỉnh thời gian như thế, con người điều chỉnh lại ý nghĩa tồn tại của mình. cách khác, chính nhờ thao tác ấy, con người mới có thể gắng gượng giữ được chính khí. Nếu cứ chấp nhận thời gian theo đúng thứ tự và nguyên dạng của nó thần kinh người ta chắc chắn chịu đựng nổi. Cuộc đời như thế chẳng khác nào cuộc tra tấn, Tengo nghĩ vậy. Nhờ lớn ra của bộ não, con người có được quan niệm về tính thời gian[1], đồng thời cũng học được phương pháp thay đổi và điều chỉnh thời gian. Con người mặt ngừng tiêu hao thời gian, nhưng đồng thời cũng ngừng tái sản sinh ra thứ thời gian được ý thức điều chỉnh. Đây phải công việc tầm thường. Cho nên bộ não tiêu tới bốn mươi phần trăm tổng năng lượng của cơ thể cũng là có lý. [1] Đặc trưng chỉ có công hiệu, ý nghĩa hoặc tác dụng trong giai đoạn thời gian nhất định của vật. Tengo thường tự hỏi, ký ức hồi tuổi rưỡi, hoặc nhiều lắm là hai tuổi, phải chăng thực là cảnh tượng chính mắt nhìn thấy? Cảnh tượng mẹ mặc đồ lót, để người đàn ông phải chồng bà bú mút đầu vú. Cánh tay quấn lấy thân thể người đàn ông đó. Đứa bé hai tuổi có thể phân biệt ràng như vậy sao? Có thể nhớ như in từng chi tiết nhặt nhất như thế? Đây liệu có khi nào là thứ ký ức giả mà sau này tự tạo ra để bảo vệ bản thân hay ? Có lẽ cũng có khả năng ấy. Để chứng minh mình phải là con, xét về mặt sinh học, của người vẫn gọi là cha, vào thời điểm nào đó, bộ óc Tengo tạo ra ký ức về người đàn ông khác (người có khả năng là cha của ) trong vô thức. Đồng thời tìm cách loại trừ “người vẫn gọi là cha” ra khỏi mối quan hệ huyết thống chặt chẽ. Bằng cách dựng lên trong mình hình ảnh người mẹ vẫn còn sống ở đâu đó, và tồn tại mang tính giả thiết về người cha thực , muốn lắp cho cuộc đời hạn hẹp và khó thở này cánh cửa mới. Nhưng đoạn ký ức này lại đôi với cảm giác thực hết sức rệt. Có cảm giác xác thực, có trọng lượng, có mùi vị, có độ sâu. Nó giống như con hà bám vào thân tàu hoang phế, dính cứng vào vách tường ý thức của . Cho dù gắng sức lay động và cọ rửa thế nào cũng thể bóc chúng được. Tengo thể cho tầng ký ức ấy chỉ là thứ giả tạo do ý thức bịa đặt ra vì cần thiết. Nếu coi là hư cấu nó quả thực hơi quá chân thực, quá kiên cố. Cứ thử cho nó là thực, vậy sao? Tengo nghĩ. Chắc chắn Tengo rất khiếp sợ khi nhìn thấy cảnh tượng này thuở còn là đứa bé ẵm ngửa. Đó là đầu vú lẽ ra phải thuộc về , nhưng lại bị người khác mút chặt. kẻ nào đó to lớn và mạnh mẽ hơn rất nhiều. Và, dù chỉ là trong khoảnh khắc, tồn tại của mình dường như cũng biến mất khỏi tâm trí mẹ. Điều đó đe dọa kẻ yếu ớt như từ gốc rễ. Hoặc có lẽ, nỗi sợ mang tính căn nguyên ấy in đậm lên mặt tờ giấy ý thức của . Vậy là ký ức đáng sợ ấy, đột nhiên sống lại trong những trường hợp thể dự liệu trước, biến thành cơn lũ quét ập xuống Tengo, cuốn vào trạng thái gần như hoảng loạn. Nó kể với , buộc nhớ lại. Mặc cho ngươi chạy tới đâu, làm gì, cũng đừng hòng thoát khỏi tay ta. Đoạn ký ức ấy quy định con người ngươi, hình thành nên cuộc đời ngươi, đưa ngươi đến nơi được số phận định sẵn. Mặc ngươi vùng vẫy thế nào, cũng đừng hòng thoát khỏi sức mạnh ấy, nó . Sau đó Tengo đột nhiên nghĩ đến lúc lấy bộ đồ ngủ Fukaeri mặc trong máy giặt ra, đưa lên mũi ngửi, có lẽ khi ấy cũng tìm kiếm mùi của mẹ mình ở trong đó. Mình cảm thấy vậy. Thế nhưng, tại sao mình lại tìm hình bóng của mẹ trong mùi cơ thể của bé mới mười bảy tuổi? Hẳn là còn có những nơi thích hợp hơn để tìm kiếm. Ví dụ ở người tình hơn tuổi chẳng hạn. Người tình của Tengo lớn hơn mười tuổi, lại có đôi bầu vú khá giống với người mẹ trong ký ức của , bầu vú lớn, hình dáng đẹp. Váy lót màu trắng cũng rất hợp. Nhưng hiểu tại sao Tengo bao giờ tìm kiếm hình bóng mẹ ở . Cũng hứng thú gì với mùi cơ thể của . có thể vắt hết toàn bộ ham muốn tình dục tích lũy trong tuần của Tengo cách hiệu quả. Tengo cũng có thể (gần như trong mọi trường hợp) thỏa mãn về mặt tình dục. Đây dĩ nhiên là thành tựu rất quan trọng. Nhưng nó chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc hơn trong quan hệ giữa hai người. Đa số các hành vi tình dục là do đạo diễn. Tengo hầu như nghĩ ngợi gì, chỉ hành động theo cầu của người tình. cần thiết phải lựa chọn, cần thiết phải phán đoán. chỉ cầu hai việc. là dương vật cương cứng, hai là chớ để lỡ thời cơ xuất tinh. Nếu “Vẫn chưa được, cố thêm chút nữa”, gắng hết sức để phóng tinh ra. “Được rồi, ra , nhanh! Nhanh nữa lên!” Khi thầm bên tai như thế, xuất tinh cách chuẩn xác, nhanh và mạnh. Mỗi lần như thế, khen ngợi Tengo, dịu dàng vuốt ve lên má : Tengo à, giỏi đấy. Còn với Tengo, theo đuổi chuẩn xác vốn là trong những sở trường bẩm sinh của . Thêm dấu câu cách chính xác, tìm ra công thức đơn giản nhất để giải bài toán. Khi làm tình với người đàn bà ít tuổi hơn thể như vậy được. phải nghĩ mọi chuyện từ đầu đến cuối, đưa ra các lựa chọn, phán đoán. Điều này làm Tengo cảm thấy thoải mái. Bao nhiêu trách nhiệm đều đè nặng lên vai . thấy mình giống như viên thuyền trưởng của con thuyền lướt mặt biển dữ dằn, phải cầm lái, phải kiểm tra tình trạng buồm, phải nghĩ đến cả khí áp và hướng gió. Ngoài ra còn phải tự nghiêm khắc với bản thân, nâng cao tín nhiệm của thuyền viên với mình. Những lầm lỗi nhặt và các sai sót dù chỉ chút xíu cũng đều có thể dẫn đến thảm kịch. Nếu như vậy, chẳng còn giống làm tình, mà tựa như thực nhiệm vụ đúng hơn. Kết quả, vì quá căng thẳng mà bỏ lỡ thời cơ xuất tinh, hoặc giả lúc cần cương cứng thể cứng nổi. Vậy là càng lúc càng nghi ngờ bản thân. Khi ở cùng với người tình hơn tuổi, những sai sót ấy hầu hết đều xảy ra. đánh giá cao khả năng tình dục của Tengo, lúc nào cũng khen ngợi , cổ vũ . Sau lần duy nhất Tengo xuất tinh sớm đó, liền cẩn thận mặc váy lót màu trắng nữa. chỉ là váy lót, cả quần áo lót màu trắng cũng mặc. Hôm nay cũng vậy, mặc bộ đồ lót dưới tuyền màu đen. Và khẩu dâm nhiệt tình. Sau đó khoái chí hết cỡ với cương cứng của dương vật và cảm giác mềm rũ của tinh hoàn Tengo. Tengo cũng thấy được cặp vú bọc bên trong áo lót ren màu đen của rung lên theo chuyển động của miệng. Để xuất tinh quá sớm, nhắm mắt lại, nghĩ đến người Gilyak. Chỗ của họ có tòa án, cũng biết việc xét xử có ý nghĩa gì. Đến giờ họ vẫn thể hiểu được vai trò của đường sá, khó khăn để hiểu được chúng ta. Cả ở những nơi đường được làm xong, họ vẫn cứ xuyên qua rừng rậm như trước. Thường xuyên có thể nhìn thấy cả nhà họ dẫn theo chó xếp thành hàng dài, khó nhọc bước trong đám bùn lầy lội ngay bên cạnh đường cái quan. tưởng tượng đến cảnh những người Gilyak mặc quần áo thô kệch xếp thành hàng dài, dẫn theo lũ chó và phụ nữ, lẳng lặng bước trong khu rừng rậm cạnh đường cái. Trong quan niệm về thời gian, gian và khả năng của họ, tồn tại thứ nào là đường cái. Có lẽ trong rừng sâu còn hơn là đường cái, mặc dầu có chút bất tiện, nhưng họ lại có thể hiểu được ý nghĩa tồn tại của mình cách ràng hơn. Người Gilyak đáng thương. Fukaeri . Tengo nhớ đến bộ đồ ngủ của Fukaeri. Fukaeri mặc bộ đồ ngủ quá cỡ của Tengo, ngủ say thiêm thiếp. Tay áo và ống quần quá dài xắn lên. lấy bộ đồ trong máy giặt ra, đưa lên mũi hít ngửi. thể nghĩ đến chuyện này! Tengo giật bắn mình sực tỉnh lại. Nhưng quá muộn. Tengo bắn mạnh mấy lần liền trong miệng người tình, dùng miệng đón lấy cho đến khi bắn hết, sau đó mới xuống giường vào nhà vệ sinh. Tengo nghe thấy tiếng vặn vòi nước và tiếng súc miệng. Sau đó trở lại giường như chưa từng xảy ra chuyện gì. “Xin lỗi,” Tengo áy náy . “Mình nhịn được, phải ?”, người tình hỏi, lấy đầu ngón tay vuốt vuốt lên mũi Tengo, “ sao đâu, đừng ngại. À, em hỏi này, cảm giác ấy có dễ chịu ?” “Dễ chịu lắm,” đáp, “Lát nữa là lại lên ấy mà.” “Ừ. Em đợi mình,” , sau đó áp mặt vào bộ ngực trần của Tengo, nhắm mắt lại nằm bất động. Tengo cảm thấy hơi thở nhè từ lỗ mũi phả vào đầu vú mình. “Lúc em nhìn ngực mình, vuốt ve nó, mình biết em thường liên tưởng đến gì ?” hỏi Tengo. “ biết.” “Cổng thành trong phim của Kurosawa Akira.” “Cổng thành?” Tengo vuốt ve lưng người tình, hỏi lại. “Này nhé, trong mấy cái phim đen trắng cũ như Ngai vàng đẫm máu, Pháo đài bí … chẳng có cái cổng thành vừa to vừa kiên cố còn gì? Bên đóng đầy đinh sắt to tướng. Lần nào em cũng liên tưởng đến cái đó. Vừa kiên cố, vừa rắn chắc.” “Ngực có đóng đinh sắt đâu,” Tengo . “Cái đó em chẳng để ý,” đáp. Cuốn sách Nhộng khí của Fukaeri vừa tung ra thị trường, sang tuần thứ hai lọt vào danh sách bán chạy, tuần thứ ba nhảy lên hàng đầu của thể loại sách văn học nghệ thuật. Tengo lần theo quá trình trở thành sách bán chạy của cuốn sách này trong mấy loại báo khác nhau để ở phòng nghỉ dành cho giáo viên của trường dự bị. Đăng quảng cáo báo hai lần. trang quảng cáo có tấm ảnh của đặt song song với hình bìa sách. Chiếc áo len mỏng mùa hè bó sát người trông rất quen mắt, bộ ngực hình dáng đẹp (chắc là chụp trong buổi họp báo). Mái tóc dài thẳng xõa xuống vai, đôi mắt đen láy bí nhìn thẳng về phía trước. Đôi mắt ấy xuyên qua ống kính máy ảnh, như thể nhìn thẳng vào thứ gì đó giấu trong nội tâm người đối diện mà bình thường đến chính bản thân người đó cũng chưa từng ý thức được mình lại có nó. Trung lập, nhưng dịu dàng. Ánh mắt chút do dự của thiếu nữ mười bảy tuổi ấy xua tan cảm giác đề phòng của người bị nhìn, đồng thời cũng khiến họ cảm thấy hơi khó chịu. Tuy chỉ là tấm ảnh đen trắng , nhưng chỉ cần nhìn tấm ảnh này thôi, hẳn có ít người nảy ra ý nghĩ mua sách về đọc thử. Mấy ngày sau khi sách ra thị trường, Komatsu gửi tới hai cuốn Nhộng khí, nhưng Tengo mở ra xem. Chữ in đấy đúng là do viết ra, dĩ nhiên đây cũng là lần đầu tiên những gì viết ra được in thành sách, nhưng muốn cầm lên đọc chút nào. Thậm chí cả ý nghĩ muốn giở lướt qua xem chút cũng . Lúc nhìn cuốn sách, cũng chẳng thấy dâng lên cảm xúc mừng rỡ nào. Cho dù đây là văn chương của , nhưng câu chuyện viết ra hoàn toàn là của Fukaeri, được sản sinh từ ý thức của . Sứ mệnh nhoi trong vai trò kỹ thuật viên đứng đằng sau tấm màn của kết thúc, vận mệnh của tác phẩm sau này như thế nào là chuyện chẳng còn liên quan gì đến , vả lại cũng nên có quan hệ gì nữa. nhét hai cuốn sách được bọc nguyên bằng ni lông ấy vào góc khuất giá. Khoảng thời gian từ sau đêm Fukaeri ngủ lại ở nhà , cuộc đời Tengo trôi qua trong bình lặng, xảy ra chuyện gì lạ thường. Mặc dù trời hay đổ mưa, nhưng Tengo hầu như quan tâm đến thời tiết. Trong danh mục các việc quan trọng đối với , vấn đề thời tiết được đẩy xuống vị trí mãi tít bên dưới. Cũng từ đêm đó, Fukaeri hề liên lạc lại. Mà liên lạc, có nghĩa là xảy ra vấn đề gì đặc biệt. Ngoài viết tiểu thuyết hàng ngày, còn phải viết mấy thứ lặt vặt đăng tạp chí theo lịch hẹn trước. Đó là những bài ký tên, ai cũng viết được, chỉ để kiếm chút tiền tiêu vặt. Nhưng với , phần nào điều đó cũng có tác dụng thay đổi tâm trạng, vả lại so với sức lao động bỏ ra, tiền thù lao nhận được cũng đến nỗi. Còn lại, vẫn như thường lệ, mỗi tuần ba lần đến trường dự bị dạy toán. Để quên những phiền não trong lòng, chủ yếu là những thứ liên quan đến Nhộng khí và Fukaeri, để mình chìm sâu vào thế giới của toán học còn hơn cả trước đây. Và hễ bước vào thế giới toán học, các mạch trong não liền tức chuyển đổi (kèm theo những thanh nho ). Miệng bắt đầu phát ra thứ ngôn ngữ khác, thân thể bắt đầu sử dụng các cơ bắp khác. Cả điệu cũng đổi khác, nét mặt cũng có phần thay đổi. Tengo thích cảm giác chuyển đổi này. Cảm giác tựa hồ như từ căn phòng chuyển sang căn khác, hoặc cởi đôi giày ra, đôi khác vào. Khi bước vào thế giới của toán học, có thể thả lỏng tâm trạng hơn và trở nên hùng biện hơn so với lúc ở trong cuộc sống bình thường hoặc thậm chí cả lúc viết tiểu thuyết. Nhưng đồng thời, cảm thấy mình như trở thành kẻ giỏi biến báo hơn. thể đoán xem đâu mới là bộ mặt của mình nữa. Tuy nhiên Tengo có thể thực việc hoán đổi này cách hết sức tự nhiên, cần phải nghĩ ngợi gì. còn biết, việc hoán đổi này ít nhiều cũng cần thiết với mình. Là thầy giáo dạy toán, đứng bục giảng nhồi vào đầu đám học sinh rằng toán học là thứ đòi hỏi logic tham lam đến thế nào. Trong toán học, những thứ thể chứng minh có bất cứ ý nghĩa gì, nhưng khi được chứng minh, bí mật của thế giới nằm gọn trong lòng bàn tay con người như con hàu mềm mại. Lúc nào giảng bài cũng tràn đầy nhiệt tình khiến học sinh nghe như nuốt lấy những lời thao thao bất tuyệt. dạy cho học sinh các phương pháp toán cách thiết thực và hiệu quả, đồng thời chỉ cho chúng lãng mạn đằng sau các đầu bài. Tengo đảo mắt nhìn quanh lớp học, biết có mấy bé trạc mười bảy mười tám tuổi chăm chú nhìn mình với ánh mắt đầy kính phục. biết mình mê hoặc chúng bằng toán học. Cái lưỡi khéo léo của vuốt ve kích thích, hàm số ở sau lưng vỗ về, định lý phả hơi thở ấm áp bên tai. Nhưng sau khi gặp Fukaeri, Tengo còn hứng thú tình dục với các như thế nữa, cũng như chưa từng nghĩ muốn ngửi quần áo ngủ mặc qua của họ. Fukaeri chắc chắn là có cái gì đó đặc biệt, Tengo nhắc lại với mình. Những trẻ khác gần như thể so sánh được. nghi ngờ gì hết, đối với mình, ấy có ý nghĩa gì đó. ấy, phải thế nào nhỉ, là thông điệp có tính tổng thể dành ình, nhưng bất kể bằng cách nào, mình cũng thể đọc hiểu được thông điệp ấy. Thế nhưng, tốt nhất nên tránh dính líu đến Fukaeri, đây là kết luận nhanh gọn và ràng mà lý tính của rút ra được. Nên tránh càng xa càng tốt những chồng sách Nhộng khí xếp cao ngất ngoài tiệm sách, ông thầy giáo Ebisuno lòng dạ khó dò, và giáo đoàn đầy những bí mật khôn lường. Tốt nhất vẫn nên giữ khoảng cách với Komatsu, ít nhất là trong khoảng thời gian này. Bằng , e rằng mình bị cuốn vào nơi còn hỗn loạn hơn bội phần, bị đẩy vào góc hiểm nguy hoàn toàn chẳng còn logic, bị dồn vào cảnh ngộ còn đường xoay xở. Nhưng ở giai đoạn nay, thoát khỏi mưu phức tạp này phải chuyện dễ, điều này Tengo cũng hiểu rất . dính líu vào rồi. Chẳng phải vô tình bị cuốn vào mưu nào đó như nhân vật chính trong phim của Alfred Hitchcock. Mà tự cuốn mình vào trong khi biết những nguy hiểm kèm theo. Cỗ máy ấy khởi động. Khi cục diện hình thành thể ngăn nổi, và ngờ vực gì nữa, Tengo trở thành bánh răng trong cỗ máy ấy. Và là bánh răng chủ chốt. nghe thấy tiếng gầm gừ của cỗ máy, cảm thấy trong mình những mômen ngoan cố của nó. Komatsu gọi điện tới ít ngày sau khi Nhộng khí liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng sách văn nghệ bán chạy trong hai tuần liền. Khoảng hơn mười giờ đêm, chuông điện thoại reo vang. Tengo thay đồ ngủ, leo lên giường, nằm soài ra đọc sách được lúc và định tắt đèn đầu giường ngủ. Từ lúc chuông điện thoại vang lên, lờ mờ đoán ra người gọi là Komatsu. Tuy thể giải thích, song bao giờ cũng có thể nhận ra những cuộc điện thoại gọi tới của Komatsu. Cách tiếng chuông vang lên giống bình thường. Điện thoại của ta gọi tới, tiếng chuông có cách ngân lên rất đặc biệt, giống như văn chương cũng có văn phong vậy. Tengo xuống giường, ra bếp, cầm ống nghe lên. Kỳ thực chẳng muốn nghe chút nào. chỉ muốn được lặng lẽ chìm vào giấc ngủ. Mèo rừng Iriomote[2], kênh đào Panama, tầng Ôzôn, hay Matsuo Basho, gì cũng được, miễn là có thể mơ thấy những thứ xa khỏi chốn này. Nhưng nếu bây giờ cầm ống nghe lên thế nào mười lăm hoặc ba mươi phút nữa tiếng chuông lại vang lên. Komatsu hầu như có khái niệm về thời gian, chẳng bao giờ thông cảm cho những người có cuộc sống bình thường. như vậy, thà rằng ra bắt máy luôn bây giờ cho xong. [2] Tên loại mèo rừng chỉ có ở đảo Iriomote, Nhật Bản “A lô, Tengo à, cậu ngủ chưa?” Komatsu cất tiếng, vẫn là cái giọng đủng đỉnh như thường lệ. “ định ngủ,” Tengo đáp. “Xin lỗi nhé,” Komatsu , nghe ngữ điệu vẫn chẳng cảm thấy áy náy gì cả. “Nhộng khí bán tốt lắm. Vậy nên tôi muốn gọi báo cho cậu tiếng.” “Thế hay quá.” “Cứ như là bánh nướng ấy, vừa ra lò bán sạch bách, đến kịp làm nữa. Tội nghiệp cái xưởng in sách, phải làm tăng ca thâu đêm. Mà đương nhiên thôi, ngay từ đầu tôi đoán được là bán tốt mà. Tiểu thuyết của thiếu nữ xinh đẹp mới mười bảy tuổi. Lại còn là chủ đề nóng hổi nữa chứ. Các yếu tố để bán chạy đều đủ cả.” “ thể đem so với tiểu thuyết của thầy giáo trường dự bị ba chục tuổi đầu, tướng mạo xấu như con gấu được.” “Đúng vậy. Mặc dù cũng rất khó đây là tiểu thuyết có nội dung giàu tính giải trí, có cảnh đương, cũng có đoạn nào xúc động khiến người ta rơi nước mắt. Thế mà lại bán chạy tới mức này, cả tôi cũng ngờ được.” Komatsu dường như muốn thăm dò phản ứng của Tengo nên ngưng lại giây lát. Nhưng Tengo chẳng gì, vậy là ta lại tiếp tục