Chương 07: Khẽ khàng thôi, chớ làm bươm bướm giật mình - P2 Bà chủ tay trái cầm đĩa tách, tay phải cầm chén trà nâng lên môi, nhàng nhấp ngụm . Thưởng thức mùi thơm, rồi khẽ gật đầu. Đặt chén trà lên đĩa, sau đó mới đặt đĩa trở lại khay kim loại. Đoạn bà lấy khăn ăn chấm chấm lên miệng, rồi đặt xuống đầu gối. Chỉ mấy động tác đó, dù có giảm nhất cũng tốn thời gian gấp ba lần người bình thường. Cứ như các tinh ở sâu trong rừng thẳm hút những giọt sương mai giàu chất dinh dưỡng. Aomame nghĩ. Sau đó, bà chủ khẽ đằng hắng tiếng: “Tôi thích những thứ có hình lưới.” Bà . Aomame im lặng đợi bà tiếp, nhưng sau đó còn câu nào nữa. thích vật hình lưới, rốt cuộc là những thứ tượng trưng cho bó buộc, chỉ xuất phát từ quan điểm thẩm mỹ, hoặc giả chẳng có lý do gì đặc biệt, mà đơn giản chỉ là ghét cảm tính? Chủ đề câu chuyện kết thúc cách khó hiểu như thế. Có điều, trước mắt, đây phải vấn đề nghiêm trọng, chỉ là ngẫu nhiên nghĩ đến, tiện thể hỏi. Aomame cũng học theo bà chủ, cầm cả đĩa và chén trà lên tay, lặng lẽ nhấp ngụm. Nàng thích uống trà hương thảo lắm. Thứ cà phê vừa nóng vừa đặc tựa như cơn ác mộng lúc đêm thâu mới là thứ nàng ưa thích. Hiềm nỗi thứ thức uống ấy dường như thích hợp uống trong nhà kính lúc buổi chiều. Vì vậy, mỗi lần đến đây, nàng đều uống thứ giống của bà chủ. Bà chủ mời ăn bánh quy, nàng liền cầm cái lên ăn. Là bánh quy gừng, vừa mới ra lò, có mùi gừng rất tươi. Trước chiến tranh, bà chủ từng sống ở thời gian. Aomame chợt nhớ ra điều đó. Bà chủ cũng cầm chiếc bánh lên, cắn miếng , hết sức lặng lẽ tựa hồ như muốn làm kinh động đến con bướm quý hiếm ngủ vai mình. “Theo lệ cũ, lúc về, Tamaru đưa chìa khóa cho .” Bà , “Khi nào dùng xong gửi lại cho tôi. Cứ như mọi lần thôi.” “Tôi hiểu rồi.” Khoảng lặng ấy kéo dài trong giây lát. Trong gian nhà kính kín như bưng này, thanh nào từ thế giới bên ngoài có thể lọt vào. Con bướm tiếp tục ngủ yên. “Chúng ta làm gì sai cả.” Bà chủ nhìn thẳng vào mặt Aomame, . Aomame khẽ cắn môi, gật đầu : “Tôi hiểu.” “ xem thứ ở trong phong bì ấy .” Bà chủ lại . Aomame đưa tay cầm chiếc phong bì đặt bàn lên, lấy bảy tấm ảnh chụp bằng polaroid bên trong ra, xếp bên cạnh chiếc ấm sứ men xanh tinh xảo, như thể xếp những lá bài mang điềm dữ khi bói bài taro. Đây là ảnh chụp đặc tả số bộ phận cơ thể trần truồng của người đàn bà trẻ. Lưng, vú, mông, đùi. Thậm chí cả gót chân. Chỉ có ảnh chụp mặt. Chỗ nào cũng có dấu vết của bạo lực. Vết sẹo, vết máu, dường như bị roi da quất vào. Lông mu bị cạo sạch, gần đó còn có có dấu vết giống như bị gí tàn thuốc lá vào làm bỏng. Aomame kìm được, chau mày lại. Trước đây nàng cũng từng xem những bức ảnh tương tự, nhưng đều tàn nhẫn đến mức này. “Lần đầu tiên thấy phải ?” Bà chủ hỏi. Aomame im lặng gật đầu. “Tôi có nghe đại để tình hình, nhưng ảnh đúng là mới nhìn thấy.” “Chính tên đó làm.” Người đàn bà lớn tuổi . “Ba chỗ xương sườn bị gãy được xử lý, nhưng bên tai có dấu hiệu nghễnh ngãng, e là thể hồi phục.” m lượng giọng của bà chủ hề thay đổi, nhưng trở nên lạnh lùng và cứng rắn hơn lúc nãy. Hình như bị biến đổi ấy làm kinh hãi, con bướm đậu vai bà chủ bỗng giật mình tỉnh giấc, đập đập hai cánh bay lướt lên trung. Bà tiếp tục : “Đối với hạng người như thế, chúng ta thể nhắm mắt làm ngơ. Dù có xảy ra chuyện gì nữa.” Aomame nhặt những tấm ảnh lên, cho lại vào phong bì. “ nghĩ thế à?” “Tôi cũng nghĩ vậy.” Aomame tán đồng. “Chuyện chúng ta làm là rất đúng.” Bà chủ . Bà đứng lên khỏi ghế, có lẽ là để tâm trạng ổn định lại, bà cầm bình tưới hoa bên cạnh lên, như thể cầm thứ vũ khí vô cùng tinh xảo. Sắc mặt bà ít nhiều có phần tái , nhìn chăm chăm chớp vào góc nhà kính. Aomame cũng hướng ánh mắt theo góc nhìn của bà, nhưng phát ra thứ gì đặc biệt. Chỗ đó chỉ có chậu hoa ké lớn mà thôi. “Cám ơn đến. Vất vả cho quá.” Bà cầm cái bình tưới trống , . Xem chừng cuộc gặp kết thúc. Aomame cũng đứng dậy, cầm túi đeo chéo “Cám ơn bà mời trà.” “Cảm ơn lần nữa.” Bà chủ . Aomame mỉm cười. “ phải lo lắng gì cả.” Bà chủ . Ngữ điệu biết từ lúc nào trở lại vẻ bình tĩnh ban đầu, trong mắt thoáng lên ánh nhìn ấm áp. Bà nhàng đặt bàn tay lên cánh tay Aomame. “Bởi vì chuyện chúng ta làm là rất đúng.” Aomame kiểm tra lại để chắc rằng xung quanh mình có con bướm nào, khẽ hé cửa nhà kính ra chút, bước ra, rồi đóng lại. Bà chủ vẫn cầm bình tưới, ở lại bên trong. Từ trong nhà kính bước ra, nàng cảm thấy khí mát lạnh và tươi mới, lan tỏa trong gian mùi hương của cây cối hoa cỏ. Nơi đây là thế giới của thực. Dòng thời gian vẫn chảy như bình thường. Aomame hít đầy bầu khí thực ấy vào hai buồng phổi. Bên ngoài tiền sảnh, Tamaru vẫn ngồi chiếc ghế làm bằng gỗ tếch, đợi để đưa chìa khóa hòm thư cá nhân cho . “ chuyện xong rồi à?” ta hỏi. “Tôi nghĩ thế.” Đoạn ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ta, nhận chìa khóa, cho vào ngăn bên của cái túi đeo. Hai người im lặng giây lát, ngước nhìn đàn chim bay vào trong sân. gian vẫn hoàn toàn lặng gió, cành liễu im lìm rũ xuống, vài cành gần như chạm sát xuống mặt đất. “Người đàn bà ấy vẫn ổn chứ?” Aomame hỏi. “Người đàn bà nào?” “Vợ của cái tên bị bệnh tim chết trong khách sạn ở Shibuya ấy.” “ nay vẫn chưa là ổn được.” Tamaru nhíu mày, đáp. “Vẫn ở trong trạng thái bị kích động, thể chuyện, vẫn cần thêm thời gian nữa.” “Là người như thế nào?” “Chưa đến ba lăm tuổi. có con. Xinh đẹp, đáng mến. Dáng dấp cũng rất khá. Đáng tiếc là mùa hè năm nay mặc được bikini. Mà có khi cả sang năm cũng được. Xem ảnh chưa?” “Vừa xem xong.” “Tệ quá đúng ?” “Cũng hơi thái quá.” Aomame . Tamaru : “Trường hợp này rất thường thấy. Xét các tiêu chuẩn thông thường của người đời người đàn ông đó tài giỏi, được người xung quanh đánh giá cao, gia đình gia giáo, học vấn cao, lại có cả địa vị xã hội nhất định “Nhưng về đến nhà là như biến thành người khác.” Amame tiếp lời ta, bổ sung thêm, “Đặc biệt hễ uống rượu là trở nên hung bạo. Nhưng chỉ dám ra tay với đàn bà, chỉ dám đánh vợ. Nhưng do bề ngoài tốt đẹp, người khác đều ngỡ y là người chồng tốt, đáng mến. Dù người vợ có tố cáo thế nào, mình bị đối đãi tàn bạo phi nhân tính ra sao, cũng chẳng ai tin. Người đàn ông cũng hiểu điều này, nên chỉ nhằm vào những chỗ người khác nhìn thấy mà đánh đập, hoặc là để lại dấu vết gì. Phải vậy ?” Tamaru gật đầu : “Cũng gần như thế. Nhưng thằng khốn này uống giọt rượu nào, hơn nữa chỉ toàn hành hung vợ giữa ban ngày ban mặt, tính chất nặng hơn. vợ muốn ly hôn, nhưng kiên quyết phản đối. Có lẽ vẫn còn vợ, hoặc có lẽ muốn buông tha cho vật hi sinh trong tay mình, mà cũng có khả năng là thằng khốn ấy thích hành hung vợ.” Tamaru khẽ giơ chân lên, kiểm tra xem đôi giày da bóng lộn lên chưa, sau đó tiếp tục . “Chỉ cần trưng ra được chứng cứ bạo hành gia đình, đương nhiên là có thể ly hôn. Nhưng làm vậy quá tốn thời gian, lại tốn cả tiền nữa. Hơn nữa, nếu đối phương thuê được luật sư giỏi đơn giản cho ấy. Tòa án gia đình nhan nhản, nhưng thẩm phán lại nhiều. Mà dù ly hôn được, rồi tòa xử cho nhận tiền bồi thường tổn thất tinh thần và tiền hỗ trợ sinh hoạt, cũng ít gã đàn ông nào chịu trả tiền cách tử tế. Bởi vì muốn tìm cớ để chối dễ lắm, bao nhiêu cũng có. Ở Nhật Bản, gần như chẳng có trường hợp nào chồng cũ phải vào tù vì bồi thường tổn thất tinh thần. Chỉ cần làm ra vẻ muốn làm vậy, rồi trả ít tượng trưng, tòa án rộng lượng bỏ qua cho. Xã hội Nhật Bản này vẫn dung túng đàn ông thế đấy. Aomame : “Nhưng mấy hôm trước, vừa may là gã chồng tàn bạo ấy phát bệnh tim chết trong khách sạn ở khu Shibuya rồi.” “Dùng chữ vừa may như thế hơi trực tiếp quá.” Tamaru khẽ chép miệng. “Trời có mắt. Tôi thích cách này hơn. Sao cũng được, nguyên nhân cái chết có điểm gì đáng nghi, tiền bảo hiểm cũng nhiều đến mức khiến người ta chú ý, công ty bảo hiểm nhân thọ cũng ngờ vực gì, chắc là nhanh chóng thanh toán. Là vậy, nhưng xét cho cùng cũng là khoản đáng kể đấy. Dùng số tiền bảo hiểm này, ta có thể bước đầu tiên trong cuộc sống mới. ta có thể tiết kiệm cả thời gian và tiền bạc cho việc ly hôn, tránh được thủ tục pháp lý vừa phức tạp vừa vô nghĩa, rồi cả những dằn vặt tinh thần sau khi vụ việc kết thúc nữa.” “Chẳng những vậy, tên khốn kiếp thể chạy rông ngoài kia để tìm vật hi sinh khác được nữa.” “Trời có mắt.” Tamaru . “Cũng may là bệnh tim phát tác, tất cả đều kết thúc cách viên mãn. Chỉ cần kết thúc ổn, tất cả đều ổn.” “Nếu có cái kết thúc như thế.” Aomame . Khóe miệng Tamaru nhếch lên, tạo thành nếp nhăn ngắn khiến người ta liên tưởng đến nụ cười. “Thế nào cũng tồn tại ở đâu đó kết thúc như vậy. Chỉ là chỉ ra ‘đây chính là kết cục’ mà thôi. bậc thang cuối cùng có bao giờ viết ‘đây là bậc cuối cùng rồi, xin đừng leo lên nữa’ ?” Aomame lắc đầu. “ chuyện kia cũng vậy.” Tamaru . Aomame : “Chỉ cần vận dụng kiến thức thông thường, mở to mắt ra nhìn, tự nhiên biết đâu là kết cục.” Tamaru gật đầu, “Mà nếu biết,” ta lấy ngón tay làm động tác rơi xuống, “Đằng nào cũng thế, đây chính là kết cục rồi.” Trong ít phút, hai người ai gì, lắng nghe tiếng chim hót. buổi chiều tháng Tư yên tĩnh. hề thấy dấu vết của bạo lực và ác ý. “Giờ có mấy người đàn bà sống ở đây?” Aomame hỏi. “Bốn.” Tamaru lập tức trả lời. “Hoàn cảnh giống nhau cả chứ?” “Đại khái cũng tương tự.” Tamaru , sau đó hơi nhếch mép, “Có điều trường hợp của ba người còn lại nghiêm trọng đến thế. Bọn đàn ông kia chỉ là mấy thằng ranh vô dụng, đến nỗi tệ hại như thằng khốn chúng ta vừa . Toàn là bọn vớ vẩn huênh hoang, cần đến phiên . Bọn tôi cũng xử lý được rồi. “Hợp pháp ?” “Đại để là hợp pháp. Cùng lắm cũng chỉ dọa chút. Tất nhiên, phát bệnh tim cũng là nguyên nhân tử vong hợp pháp.” “Dĩ nhiên.” Aomame phụ họa. Tamaru im lặng lúc, hai tay để đầu gối, lặng lẽ ngước nhìn những cành liễu rủ là là mặt đất. Aomame thoáng ngần ngừ, đoạn cất tiếng : “ Tamaru này, tôi muốn hỏi việc.” “Việc gì vậy?” “Sắc phục và súng của cảnh sát thay đổi từ mấy năm trước thế?” Tamaru hơi nhíu mày, dường như trong ngữ điệu của nàng có chút hưởng gì khiến ta phải dè chừng. “Sao đột nhiên lại hỏi vậy?” “Cũng có gì đặc biệt, chỉ là đột nhiên nghĩ đến thôi.” Tamaru nhìn thẳng vào mắt Aomame, đôi mắt ta lúc nào cũng giữ thái độ trung lập, bên trong hề có cảm xúc. Luôn để lại chỗ trống để có thể ngả theo bất kỳ hướng nào. “Trung tuần tháng Tám năm 1981, cảnh sát Yamanashi đọ súng với phần tử quá khích ở vùng núi gần hồ Motosu, năm sau đó, lực lượng cảnh sát tiến hành cải tổ quy mô lớn. Chuyện xảy ra được hai năm rồi.” Aomame gật đầu, nét mặt hề thay đổi. Nàng hoàn toàn có ký ức gì về vụ việc này, chỉ đành gật đầu phụ họa theo đối phương. “ kiện đẫm máu. Năm khẩu AK47 Kalashnikov, súng lục ổ quay bắn sáu phát kiểu cũ thể là đối thủ của món ấy. Ba viên cảnh sát đáng thương bị bắn lỗ chỗ như cái sàng, khắp người toàn vết đạn. Lính đặc chủng của lực lượng phòng vệ lập tức cho trực thăng tới trường, cảnh sát mất hết thể diện. Sau vụ đó, Thủ tướng Nakasone Yasuhiro lập tức quyết định phải tăng cường sức mạnh của cảnh sát. Họ tiến hành cải cách diện rộng, lập ra các đơn vị vũ trang đặc chủng, cảnh sát thông thường cũng chuyển qua đeo loại súng lục tự động có tính năng ưu việt hơn, Beretta 92. bắn thử bao giờ chưa?” Aomame lắc đầu. Làm gì có chuyện ấy? Đến súng hơi còn chưa dùng bao giờ nữa là. “Tôi bắn rồi đấy.” Tamaru . “Kiểu tự động bắn liền lúc mười lăm phát, dùng đạn chín ly Parabellum. Đây là loại súng được đánh giá rất cao, lục quân Mỹ cũng sử dụng. Giá cả rẻ lắm, nhưng cũng đắt như SIG hay Glock, đây chính là điểm khiến nó bán chạy. Chỉ có điều, đấy phải là loại súng tay mơ xài được. Khẩu ổ quay kiểu cũ chỉ nặng có bốn trăm chín mươi gam, còn loại này lại nặng đến tám trăm năm mươi gam. Đám cảnh sát Nhật Bản được huấn luyện tới nơi tới chốn, dù có đeo loại súng này cũng chẳng làm được trò trống gì. Ở chỗ đông người chật chội mà dùng loại súng có tính năng cao thế này bắn loạn lên chỉ tổ giết nhầm người dân thôi.” “ bắn thử cái đó ở đâu thế?” “Ồ, cũng thường xuyên lắm. Có lần, tôi chơi đàn hạc bên bờ suối, chẳng hiểu từ đâu xuất tiên, đưa cho tôi khẩu Beretta 92, rồi : “Ngươi bắn con thỏ trắng ở kia phát xem nào.” “ chuyện nghiêm chỉnh .” Tamaru để nếp nhăn nơi khóe miệng mình hơi sâu chút. “Tôi chỉ chuyện nghiêm chỉnh thôi.” ta . “Tóm lại, thay đổi sắc phục và súng lục là chuyện từ mùa xuân hai năm về trước, đâu như vào quãng đó thôi. Vậy coi là trả lời câu hỏi của chưa?” “Cách đây hai năm.” Nàng . Tamaru lại hướng ánh mắt sắc bén về phía Aomame. “Tôi bảo này, nếu có tâm gì, cứ với tôi. Hay là có dính dáng gì đến cảnh sát rồi?” “ phải vậy.” Aomame , các đầu ngón tay khẽ đung đưa trong trung. “Chỉ là tôi chợt nhớ đến trang phục của cảnh sát, nghĩ xem là đổi từ lúc nào.” Im lặng thêm giây lát, rồi cuộc trò chuyện của hai người cũng kết thúc ở đó. Tamaru lần nữa đưa tay phải ra: “Chúc mừng , công việc kết thúc thuận lợi.” ta . Aomame nắm lấy bàn tay đối phương, người đàn ông này hiểu được: sau khi hoàn thành việc quan trọng liên quan đến tính mạng con người, cổ vũ lặng lẽ mà ấm áp thông qua tiếp xúc cơ thể là hết sức cần thiết. “Nghỉ ngơi mấy ngày .” Tamaru , “Có lúc cũng cần dừng chân đứng lại hít thở sâu, thả cho đầu óc trống rỗng. Hay là chơi đảo Guam với bạn trai cũng được.” Aomame đứng dậy, đeo túi lên vai, chỉnh lại mũ của áo jacket. Tamaru cũng đứng dậy. Dáng ta thể xem là cao, nhưng khi đứng lên chẳng khác nào bức tường đá sừng sững ở đó. Aomame thường hay bị cảm giác dày đặc ấy làm cho kinh ngạc. Tamaru ở phía sau dõi theo bóng Aomame xa dần. Nàng tiến về phía trước, sau lưng vẫn cảm nhận được ánh mắt ta nhìn. Thế nên nàng thu cằm lại, ưỡn thẳng lưng, bước vững vàng theo đường thẳng tắp. Thế nhưng, ở nơi ánh mắt nhìn tới được, nàng lại chìm đắm vào trong hỗn loạn. Ở những nơi nàng hề hay biết, liên tiếp xảy ra những việc nàng hề hay biết. Chỉ vừa mới đây thôi, thế giới vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát của nàng, có sơ hở và mâu thuẫn. Song giờ đây, thế giới ấy bắt đầu sụp đổ và tan vỡ. Đấu súng ở Motosu? Súng lục Beretta 92? Rốt cuộc xảy ra chuyện gì? Tin quan trọng như thế, Aomame thể bỏ sót được. Hệ thống của thế giới này bắt đầu xuất hỗn loạn ở đâu đó. Nàng vừa bước vừa tiếp tục ngẫm nghĩ. Dù xảy ra chuyện gì, cũng cần phải tìm cách sắp xếp lại thế giới này, nhất định phải làm cho nó hợp lý. Mà phải nhanh. Bằng , ai biết còn xảy ra những chuyện gì nữa. Có lẽ Tamaru nhìn thấu tâm trạng bối rối của Aomame. ta là người thận trọng, có trực giác nhạy bén. Đồng thời cũng là nhân vật nguy hiểm. Tamaru vô cùng kính trọng bà chủ và tuyệt đối trung thành. Để bảo vệ cho an toàn của bà, có lẽ việc gì ta dám làm. Aomame và Tamaru đều mến tài nhau, và có tình cảm tốt với nhau. Hay ít ra là thứ gì đó gần với tình cảm tốt. Nhưng nếu Tamaru xét thấy tồn tại của Aomame vì lẽ nào đó gây bất lợi cho bà chủ, hẳn ta chút do dự ra tay xử lý nàng. Hết sức thực dụng, nhưng chuyện này cũng thể trách Tamaru được, cho cùng, đó cũng là chức trách của ta mà thôi. Aomame qua sân, cánh cửa mở ra, nàng hướng về phía ống kính camera giám sát gắng hết sức nở nụ cười thân thiện, vẫy tay nhè . Như thể chưa từng xảy ra chuyện gì. Nàng vừa bước ra bên ngoài tường bao, cánh cửa liền chầm chậm đóng lại sau lưng nàng. Vừa bước con đường dốc của khu Azabu, Aomame vừa sắp xếp lại những việc cần làm gấp trong đầu, liệt kê thành danh sách. cách kỹ càng và khéo léo.
Chương 08: Đến nơi xa lạ gặp người xa lạ - P1 Đối với rất nhiều người, buổi sáng chủ nhật tượng trưng cho nghỉ ngơi. Nhưng cả thời thiếu niên của mình, Tengo chưa bao giờ nghĩ rằng buổi sáng Chủ nhật lại vui vẻ. Ngày Chủ nhật thường khiến tâm trạng nặng nề, u ám. Cứ đến cuối tuần, cơ thể liền bắt đầu đờ đẫn, nặng trịch, chán ăn, mình mẩy chỗ nào cũng đau nhức. Đối với Tengo ngày Chủ Nhật giống như vầng trăng hình thù vặn vẹo lúc nào cũng hướng mặt sau tăm tối về phía . Nếu ngày Chủ nhật chẳng bao giờ đến tốt biết mấy! Hồi Tengo vẫn thầm mong như thế. Giá như trường học ngày nào cũng mở cửa, và có ngày nghỉ vui sao! Thậm chí còn từng khẩn cầu ngày Chủ nhật đừng đến! Đương nhiên lời khẩn cầu ấy thể nào ứng nghiệm. Cho đến tận bây giờ, khi trưởng thành, Chủ nhật còn là ngày đe dọa nữa, nhưng cũng có hôm, sáng Chủ nhật tỉnh dậy, chẳng hiểu sao lại thấy tâm trạng mình rất u ám, cảm giác từng đốt xương người kêu răng rắc, hơn nữa còn thấy buồn nôn. Phản ứng ấy có lẽ ngấm vào tâm trí của . Thậm chí tới vùng tiềm thức rồi chừng. Cứ đến Chủ nhật là người cha làm nhân viên thu phí của đài NHK lại dẫn Tengo khi ấy vẫn còn bé khắp nơi thu tiền. Chuyện ấy bắt đầu từ trước khi Tengo mẫu giáo, mãi đến thời học lớp năm mới chấm dứt, trừ phi nhà trường có hoạt động gì đặc biệt, còn chưa hề gián đoạn. Bảy giờ sáng thức dậy, cha Tengo lấy xà phòng rửa mặt cho sạch, cẩn thận kiểm tra lỗ tai và các móng tay, mặc cho quần áo sạch nhất (nhưng chẳng đẹp chút nào), rồi hứa hẹn lát sau xong việc mua đồ ăn ngon cho . Những nhân viên thu phí khác của đài NHK có làm việc ngày Chủ nhật hay , Tengo . Nhưng trong kí ức của , chắc chắn cha có làm việc Chủ nhật, thậm chí còn gắng sức hơn ngày thường. Bời vì ngày Chủ nhật có thể tìm được những người ngày thường ở nhà. Việc ông dẫn cậu bé Tengo cùng thu tiền cước là có mấy lý do. thể mặc Tengo còn lúc bé xíu như thế ở nhà mình là . Ngày thường và thứ Bảy đều có thể gửi ở trường mầm non, trường mẫu giáo hoặc trường tiểu học, còn Chủ nhật những nơi ấy đều nghỉ. lý do khác, là cần để con trai nhìn thấy cha làm việc như thế nào. Cuộc sống của chúng ta được duy trì, bởi điều gì, lao động là như thế nào, mỗi thứ ấy đều phải biết từ khi còn . Bản thân cha từ khi bắt đầu có ký ức cũng bị xua ra đồng làm việc rồi, vốn chẳng có gì gọi là Chủ nhật. Những lúc đồng áng bận rộn, thậm chí còn phải xin nghỉ học ra ruộng làm việc. Đối với cha , cuộc sống như vậy là lẽ đương nhiên. Lý do thứ ba, lý do cuối cùng, cũng là lý do có vẻ tính toán nhất, vì vậy cũng làm tổn thương Tengo nhiều nhất. Cha hiểu rất rằng nếu dẫn theo trẻ con, ông thường rất dễ dàng thu được phí. Khi đối diện với nhân viên thu tiền dắt theo trẻ con, những lời kiểu như “Tiền này tôi muốn trả đấy xéo ” khó mà ra miệng được. Trước ánh mắt chăm chú của đứa trẻ, nhiều người vốn chẳng định trả tiền cũng đành phải móc hầu bao ra thanh toán. Thế nên ngày Chủ nhật của cha rất hay chọn tuyến đường có nhiều nhà khó thu tiền. Ngay từ đầu Tengo nhận ra được vai trò mà cha kỳ vọng ở mình, trong lòng cảm thấy hết sức khó chịu. Nhưng mặt khác để làm cha vui lòng, cũng thể vắt óc suy nghĩ để hoàn thành vai diễn mà ông mong đợi. Giống như con khỉ làm xiếc. Nếu có thể khiến cha vui lòng, cả ngày hôm ấy Tengo được đối xử rất dịu dàng. Niềm an ủi nhất của Tengo là khu vực cha phụ trách thu tiền cách nhà khá xa. Nhà Tengo ở khu ngoại ô thành phố Ichikawa, còn khu vực cha phụ trách thu tiền lại ở trung tâm thành phố. Trường của cũng thuộc khu vực khác. Vì vậy có thể tránh tình huống đến nhà bạn học cùng trường mẫu giáo hoặc trường tiểu học thu tiền. Tuy thế, đường phố đông đúc ở trung tâm, thi thoảng vẫn gặp các bạn học ngang qua. Những lúc như thế, thường nhanh nhẹn nấp sau lưng cha, để các bạn phát . Cha đám bạn cùng lớp Tengo hầu như đều là dân công sở làm việc ở trung tâm Tokyo. Bọn chúng đều nghĩ thành phố Ichikawa là phần của Tokyo, chẳng qua vì nguyên nhân nào đó mới ngẫu nhiên bị biên vào địa chỉ giới tỉnh Chiba thôi. Sáng thứ Hai, lũ bạn liền sôi nổi tán chuyện Chủ nhật mình những đâu làm những gì. Chúng nào là công viên, vườn bách thú, sân bóng chày. Mùa hè đến biển Minamiboso bơi, mùa đông trượt tuyết. Hoặc đòi cha mình lái xe hóng gió, hoặc leo núi. Chúng hào hứng bàn tán về các kinh nghiệm, trao đổi thông tin về các địa điểm khác nhau. Còn Tengo chẳng có gì để kể. chưa từng du lịch, cũng chẳng bao giờ đến công viên giải trí. Từ sáng sớm đến tối mịt ngày Chủ nhật, chỉ theo cha ấn chuông cửa nhà những người hề quen biết, khom lưng thu tiền của những người ra mở cửa, nếu người ta chịu trả phải vừa dỗ dành vừa dọa nạt. Gặp phải người thích cãi lộn cũng phải lý luận tới cùng. Có lúc còn bị nhục mạ xua đuổi như chó. Những kinh nghiệm này thể nào kể ra với các bạn cùng lớp được. Năm lớp ba, ai cũng biết chuyện cha là nhân viên thu phí của đài NHK. Có lẽ lúc theo cha thu tiền bị ai đấy trông thấy. Phải biết là ngày Chủ nhật nào, từ sáng sớm đến tối mịt cũng lẽo đẽo theo cha khắp ngõ lớn ngõ trong khu trung tâm thành phố, bị người quen trông thấy cũng là chuyện tất nhiên. (Lúc ấy lớn, thể nấp sau cha được nữa). Mọi người còn ngạc nhiên hơn vì trước đó việc này chưa bao giờ lộ ra. Vậy là, từ lúc đó đám bạn đều dùng biệt danh “NHK” để gọi . Trong xã hội của tụi trẻ con thuộc giai cấp tiểu tư sản cổ trắng, thể thành thứ “dị chủng”. Nhiều chuyện vốn là lẽ đương nhiên với những đứa trẻ khác, với Tengo lại phải vậy. Tengo ở trong thế giới khác hẳn với thế giới của chúng, cuộc sống hoàn toàn dị biệt. Thành tích học tập của ở trường thuộc diện xuất sắc, môn thể dục cũng giỏi. Thân hình cao lớn, khỏe mạnh. Thầy giáo cũng đặc biệt chú ý đến . Vì vậy, tuy là thứ “dị chủng” trong môi trường đó, nhưng ở lớp, trở thành đối tượng bị bài xích, ngược lại gặp chuyện gì cũng được đối đãi đặc biệt. Song, cho dù có người rủ ngày Chủ nhật cùng đâu đó chơi, hoặc mời đến nhà, cũng thể nhận lời. Bởi Tengo hiểu , dẫu có với cha “Tuần này cả lớp đều đến nhà bạn nào đấy” ông cũng chẳng thèm để ý. Xin lỗi, Chủ nhật tuần này được rồi. chỉ có thể uyển chuyển từ chối như thế. Sau mấy lần liên tiếp, đương nhiên chẳng còn ai mời nữa. Đến khi nhận ra, chẳng thuộc về nhóm nào, luôn chỉ có mình. Ngày Chủ nhật, dù có xảy ra chuyện gì, cũng đều cùng cha theo tuyến đường nhất định để thu tiền cước từ sáng sớm đến tối mịt. Đây là quy luật tuyệt đối, thay đổi và cũng có ngoại lệ. Cho dù bị cảm ho sù sụ ngớt, hay sốt cao, hay đau bụng tiêu chảy, cha Tengo cũng cho phép ở nhà. Những lúc như thế, thường loạng choạng sau ông, trong lòng thầm nhủ: giá ngã lăn ra đây chết luôn có phải tốt . Như thế, có khi ít nhiều cha suy xét lại hành vi của mình … rồi nghĩ có thể ông quá nghiêm khắc với con trai. Nhưng chẳng là may mắn hay bất hạnh, trời sinh ra Tengo rất khỏe mạnh, cường tráng. Dù bị sốt, đau dạ dày, buồn nôn cũng chưa bao giờ ngã, cũng lần ngất xỉu, luôn cùng với cha hết tuyến đường thu tiền dài dằng dặc. Chưa bao giờ oán thán nửa lời. Vào năm chiến tranh kết thúc, cha Tengo đồng xu dính túi từ Mãn Châu trở về. Ông sinh ra trong gia đình nông dân Đông Bắc, là con trai thứ ba, cùng đám bạn đồng hương gia nhập “Đoàn khai thác Mãn Mông”, vượt biển đến Mãn Châu. Ông hề tin tưởng mù quáng vào tuyên truyền của chính phủ rằng Mãn Châu là cõi thiên đường hạ giới, đất đai phì nhiêu màu mỡ, đến đó là có thể sống giàu có sung túc. Ngay từ đầu ông hiểu , đời này chẳng có nơi nào gọi là thiên đường hạ giới. Nhưng đói nghèo bức bách, ở lại quê hương chỉ có thể sống lay lắt chờ chết đói. Vả lại nền kinh tế lúc đó quá tiêu điều, người thất nghiệp đầy rẫy. Cho dù có lên thành phố cũng đừng hòng tìm được việc làm. Trong hoàn cảnh ấy, con đường sống duy nhất là đến Mãn Châu. Sau khi được huấn luyện cơ bản ở đoàn nông dân khai thác để có thể cầm súng những lúc hữu , nhét vào đầu chút kiến thức tối thiểu về tình hình nông nghiệp ở Mãn Châu, sau khi được tiễn đưa bằng ba tiếng hô vang vạn tuế, bọn họ bỏ lại quê hương phía sau, rồi từ Đại Liên xe lửa đến biên giới Mông Cổ. Ở đó, họ được phân ruộng đất, nông cụ và súng trường, bắt đầu chung tay mở mang nông nghiệp. Đâu đâu cũng là đất cằn cỗi bạc màu lổn nhổn đá vụn, đến mùa đông vạn vật biến thành băng. Vì có gì ăn nên cả chó hoang họ cũng xơi tất. Mặc dù vậy, do mấy năm đầu vẫn có hỗ trợ của chính phủ, nên họ cũng có thể sống tạm qua ngày. Tháng Tám năm 1945, khi cuộc sống cuối cùng cũng bắt đầu có dấu hiệu ổn định, Liên Xô phá bỏ hiệp ước trung lập, tấn công toàn diện vào “Đế quốc Mãn Châu”. Quân đội Liên Xô, sau khi kết thúc chiến tranh ở châu u, dồn lực lượng lớn sang Viễn Đông qua đường xe lửa Seberia, bày binh bố trận để chuẩn bị băng qua biên giới. Cha Tengo được ngầm cho biết tình thế cấp bách này từ quan chức ông tình cờ quen biết, dự đoán trước việc quân Liên Xô tấn công. Quan chức kia còn với ông rằng quân Quan Đông yếu thế tới mức thể cầm cự với đối phương, cho nên tốt nhất là nên chuẩn bị tháo chạy, càng nhanh càng tốt, dù tay trắng cũng phải chạy. Vì vậy, tin tức quân đội Liên Xô vượt qua biên giới vừa truyền , ông cưỡi con ngựa chuẩn bị từ trước phi thẳng đến ga xe lửa, chen lên đoàn tàu cuối cùng chạy về Đại Liên. Trong số những người cùng năm đó, chỉ mình ông duy nhất sống sót trở về Nhật Bản. Sau chiến tranh, cha Tengo tới Tokyo, buôn bán kiểu chợ đen, rồi học nghề mộc, nhưng chẳng việc nào thành công, chỉ là cố nhét cho đầy bụng. Mùa thu năm 1947, khi làm người giao hàng ột quán ăn Asakusa, tình cờ ông gặp lại người quen cũ ở Mãn Châu bên đường, chính là vị quan chức rỉ tai cho ông biết tin Nhật – Xô sắp sửa khai chiến năm đó. Ông ta được điều đến Mãn Châu và làm trong ngành bưu chính, giờ về Nhật Bản làm công chức trong Đệ tín tỉnh[1] nơi ông ta công tác từ trước. Có lẽ vì tình đồng hương, hơn nữa ông kia cũng biết cha Tengo là người chịu thương chịu khó, nên rất quý mến, bèn mời ăn cơm. [1] Tiền thân của cục bưu chính Nhật ngày nay. Biết chuyện cha Tengo tìm được công việc nào ra hồn, cuộc sống rất khó khăn, người đó liền chủ động hỏi ông có muốn làm nhân viên thu cước cho đài NHK . Ông ta có người bạn làm ở đấy, có thể giúp được. Nếu được vậy tốt quá, cha . Tuy biết NHK là cái gì, nhưng chỉ cần có thu nhập cố định việc gì chẳng được. Người đó liền viết thư giới thiệu, thậm chí còn đứng ra bảo lãnh cho cha Tengo. Vậy là cha được nhận vào làm nhân viên thu phí của đài NHK mà gặp khó khăn gì. Được đào tạo, lĩnh đồng phục, phân công định mức công việc. Mọi người cuối cùng cũng vượt qua được cơn chấn động vì thua trận, và tìm kiếm tiêu khiển trong đời sống nghèo nàn. m nhạc, truyện cười và tiết mục thể thao sóng phát thanh trở thành phương thức giải trí tiết kiệm nhất ở bên cạnh mỗi người, mức phổ cập của radio vượt xa so với thời trước chiến tranh. Đài NHK cần lượng lớn nhân viên đến từng nhà để thu phí nghe đài. Cha Tengo rất nhiệt tình hoàn thành công việc được giao. Điểm mạnh của ông là cơ thể cường tráng và giỏi chịu đựng. Phải biết rằng từ lúc cha sinh mẹ đẻ, chẳng mấy khi ông được ăn no. Đối với những người như thế, công việc thu cước cho đài NHK hề vất vả. Bị người ta mắng chửi, ông cũng để tâm. Hơn nữa, mặc dù chỉ là nhân viên quèn, ông vẫn lấy làm thỏa mãn khi được làm ột tổ chức lớn. Ban đầu chỉ là nhân viên thu phí ngoài biên chế có bảo hiểm xã hội, ăn lương khoán, sau năm làm việc, vì thành tích và thái độ làm việc tốt, cha được nhận làm nhân viên thu phí chính thức. Theo thông lệ của NHK đây là quyết định khác thường. Có thành tích tốt ở khu vực khó thu cước cố nhiên là nguyên nhân quan trọng, nhưng uy tín của người bảo lãnh làm quan chức trong Đệ tính tỉnh mới là có tác động lớn. Ngoài lương cơ bản cố định, còn có các khoản phụ cấp khác, lại được dọn vào nhà tập thể của công ty, được bảo hiểm y tế. So với nhân viên thu phí hợp đồng kiểu hàng sử dụng lần khác trời vực. Cho dù thế nào, cuối cùng ông cũng kiếm được ình vị trí ở bậc thấp nhất cây cột totem rồi. Câu chuyện này được nghe từ cha mình biết bao nhiêu lần. Cha biết hát ru, cũng chưa từng kể chuyện cổ tích cho lúc ngủ. Thay vào đó, ông chỉ kể kể lại những trải nghiệm thực tế của đời mình cho con trai. Sinh ra trong nhà nông miền Đông Bắc, lớn lên trong lao động và những trận ẩu đả, cuộc sống chẳng khác gì loài chó má, rồi gia nhập đoàn khai thác đến Mãn Châu, ở vùng đất đến nước đái cũng đóng băng giữa chừng ấy, vừa cầm súng đuổi thổ phỉ và sói hoang vừa khai khẩn canh tác, rồi tháo chạy ngay dưới bánh xích xe tăng của quân Liên Xô, may mắn bị đưa vào trại tập trung tù binh chiến tranh ở Siberia mà lại về nước an toàn, nhẫn nhục chịu đựng đói rét qua thời kì hỗn loạn sau chiến tranh, rồi nhờ cơ hội ngẫu nhiên, trở thành nhân viên thu phí chính thức của đài NHK. Cả câu chuyện dài. Trong câu chuyện ấy, việc trở thành nhân viên thu tiền của đài NHK là kết thúc có hậu. Tới đây, câu chuyện của ông cuối cùng cũng có thể chấm dứt cách vui vẻ. Cha Tengo kể chuyện này rất giỏi. Tuy thể xác nhận thực rốt cuộc ra sao, nhưng câu chuyện đại thể cũng hợp lý. thể coi là hàm súc, nhưng chi tiết tương đối sống động chân thực, giọng kể nhiều sắc thái. Vừa có việc vui, vừa có chuyện buồn, lại có cả bạo lực. Có những chỗ bất ngờ đến độ khiến người ta há miệng ngạc nhiên, song cũng có đoạn nghe nhiều lần vẫn khó lý giải. Nếu đời người có thể đánh giá bằng đa dạng của những mẫu chuyện, cuộc đời ông chắc có thể được coi là tương đối phong phú. Song, khi đến việc sau khi trở thành nhân viên thu phí chính thức của đài NHK, hiểu sao, câu chuyện của cha bỗng nhiên mất sắc thái và cảm giác chân thực. Lời kể của ông dần thiếu chi tiết, trở nên vụn vặt. Như thể đối với ông, đó chỉ là những chuyện sau này đáng nhắc tới. Ông quen biết với , kết hôn rồi sinh đứa con… Chính là Tengo. Vợ ông sinh Tengo được vài tháng mắc bệnh qua đời. Sau đó, ông lấy vợ mới, chỉ cố làm tốt công việc nhân viên thu phí, mình nuôi Tengo, cứ như vậy đến bây giờ. Câu chuyện chấm dứt. Ông gặp gỡ rồi kết hôn với mẹ của Tengo trong hoàn cảnh nào? Bà là người thế nào? Vì sao bà mất? (Cái chết của bà có liên quan đến việc sinh hạ Tengo hay ?) Bà ra trong bình yên hay phải đau đớn rất nhiều? Cha Tengo hầu như nhắc đến điều này. Tengo có hỏi ông cũng lảng sang chủ đề khác mà trả lời. Có nhiều lần, thậm chí ông còn tỏ ra vui, chỉ im lặng. Mẹ để lại tấm ảnh nào hết. Ảnh hôn lễ cũng . có tiền tổ chức lễ cưới, mà cũng chẳng có máy ảnh, cha giải thích. Nhưng chung Tengo tin lời cha mình lắm. Cha che giấu , bịa ra câu chuyện khác. Mẹ Tengo qua đời sau khi sinh được mấy tháng. Trong ký ức còn sót lại của , tới khi tuổi rưỡi, mẹ vẫn còn sống. Chẳng những vậy, lúc Tengo ngủ, bà còn ôm ấp, hôn hít người đàn ông phải chồng mình ở ngay bên cạnh. Mẹ cởi áo sơ mi, buông quai chiếc váy lót màu trắng xuống, để người đàn ông phải cha mút vú. Tengo nằm ngủ bên cạnh, thở đều. Nhưng Tengo vẫn chưa ngủ. nhìn mẹ chằm chằm. Đối với Tengo, đây chính là tấm hình kỷ niệm về mẹ. Cảnh tượng kéo dài chừng mười giây ấy in vào trí óc . Đó là thông tin cụ thể duy nhất về mẹ mà có. Nhờ ấn tượng ấy, ý thức của Tengo mới có thể nối liền với mẹ, cái cuống rốn giả tưởng gắn liền hai người với nhau. Ý thức dập dềnh trôi nổi trong bọc nước ối của ký ức, lắng nghe những thanh vọng về từ quá khứ. Nhưng cha Tengo hoàn toàn biết trong tâm trí khắc sâu hình ảnh ấy, biết ngừng nhai nhai lại hình ảnh ấy, như con bò nhai cỏ đồng, nuốt lấy dinh dưỡng từ đó. Cả hai cha con đều ôm chặt trong lòng những bí mật tăm tối. Đó là Chủ nhật nắng ráo dễ chịu, nhưng cơn gió thổi qua vẫn mang theo chút lạnh, cảnh báo rằng tuy giữa tháng Tư, nhưng thời tiết vẫn có thể dễ dàng lạnh trở lại. Tengo khoác chiếc Jacket mặc từ thời còn học ra ngoài áo len lông cừu cổ tròn mỏng màu đen, phía dưới mặc quần kaki màu be, giày Hush Puppise màu nâu, đôi giày hãy còn khá mới. Đây là bộ đồ thoải mái nhất của . Lúc Tengo đến ke tàu, toa đầu tiên của chuyến Tachikawa, ga Shinjuku tuyến Chuo, Fukaeri có mặt ở đó rồi. ngồi mình ghế dài, nhúc nhích, nheo mắt nhìn chăm chú về phía trước. Ngoài bộ váy liền bằng vải bông in hoa giống trang phục mùa hè, khoác thêm chiếc áo len mùa đông dày sụ màu xanh lá, chân trần bít tất xỏ trong giày thể thao màu xám bạc màu. Thời tiết này mà mặc đồ kiểu ấy cũng khó tưởng tượng. Bộ váy liền mỏng quá, áo len lại quá dày. Nhưng dù vậy, khiến người khác chướng mắt. Có lẽ, muốn dùng hài hòa này để diễn tả thế giới quan của mình. phải là có khả năng này. Nhưng cũng có thể chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ tùy tiện chọn bừa vài món quần áo để mặc. đọc báo, xem sách, cũng nghe Walkman, chỉ lặng lẽ ngồi đó, đôi mắt đen tròn ngước nhìn về phía trước. Như thể chăm chú nhìn gì đó, lại như chẳng hề có thứ gì hết. Vừa có vẻ như nghĩ ngợi, vừa có vẻ như đầu óc trống . Từ xa trông như bức tượng theo trường phái tả thực được làm bằng loại chất liệu đặc biệt. “Em đợi lâu chưa?” Tengo hỏi. Fukaeri nhìn gương mặt , rồi lắc đầu sang bên rất khẽ, chỉ chừng vài xăng ti mét. Đôi mắt đen sáng bừng lên tươi tắn như dải lụa, nhưng cũng khác gì lần gặp trước, nét mặt hề biểu lộ cảm xúc. Như thể lúc này đây muốn chuyện với bất cứ ai. Vậy nên, Tengo thôi cố gắng bắt chuyện, chỉ ngồi xuống bên cạnh, chẳng lời. Tàu tới, Fukaeri lẳng lặng đứng lên, hai người lên chuyến đó. Tàu điện tốc hành đến Tachikawa trong ngày nghỉ rất ít khách. Tengo và Fukaeri ngồi cạnh nhau ghế, im lặng ngắm nhìn quang cảnh phố xá lướt qua ô cửa sổ trước mặt. Fukaeri vẫn lời, Tengo cũng lặng thinh. Như để đối phó với đợt lạnh khủng khiếp sắp ập đến, khép hai vạt áo khoác len lại, mím môi chặt nhìn về phía trước. Tengo lấy cuốn sách bỏ túi ra để đọc, nhưng do dự lát, lại thôi đọc nữa. cất sách vào lại trong túi, hai tay đặt lên đầu gối, chỉ bâng quơ nhìn về phía trước, như muốn bắt trước Fukaeri. muốn nghĩ ngợi chút, nhưng chẳng nhớ ra chuyện gì. Sau thời gian dài tập trung vào việc viết lại Nhộng khí, đầu óc dường như chịu suy nghĩ những vấn đề hoàn chỉnh nữa. Trong óc có cái gì đó giống như nắm tơ vò. Tengo ngắm nhìn phong cảnh chạy qua ngoài cửa sổ, lắng nghe thanh đơn điệu phát ra đường ray. Tuyến Chuo gần như đường thẳng tắp vạch bằng thước kẻ bản đồ, vươn dài vô tận về phía trước. cần phải thêm những lối hình dung “gần như” hay “giống như” ấy làm gì, người thời đó nhất định xây tuyến đường này đúng như thế. Địa thế vùng đồng bằng Kanto này có chướng ngại vật nào đáng nhắc tới, vậy nên mới có thể xây được tuyến đường sắt thẳng tắp như vậy, người ngồi có cảm giác uốn lượn hay gập ghềnh lên xuống, và cũng có cầu hay đường hầm. Chỉ cần cái thước kẻ là đủ. Xe điện chỉ nhắm đến đích mà chạy mạch. Tengo thiếp lúc nào chẳng hay. Lúc bị đánh thức vì cú lắc tàu điện từ từ giảm tốc tiến vào ga Ogikubo. giấc ngủ ngắn. Fukaeri vẫn giữ nguyên tư thế ban nãy, chăm chú nhìn về phía trước. Nhưng Tengo biết thực nhìn gì. chỉ căn cứ dáng vẻ tập trung tinh thần ấy của mà đoán rằng chưa có ý định xuống tàu lúc này. “Bình thường em hay đọc sách gì?” Tengo chịu nỗi buồn chán, cất tiếng hỏi sau khi tàu điện chạy qua ga Mitaka. định hỏi Fukaeri chuyện này từ lâu. Fukaeri liếc nhìn Tengo cái, rồi lại hướng mặt ra phía trước. “Em đọc sách”, trả lời ngắn gọn. “ bao giờ đọc à?” Fukaeri gật đầu dứt khoát. “ có hứng đọc sách à?” Tengo hỏi. “Đọc tốn thời gian,” Fukaeri . “Vì đọc sách tốn thời gian nên đọc à?” Tengo hiểu ý, nhắc lại câu hỏi. Fukaeri vẫn nhìn về phía trước, trả lời. Tựa hồ tỏ ý phủ nhận. Đương nhiên, đọc sách thường cũng phải tốn thời gian. Khác với xem tivi và truyện tranh, đọc sách là hành vi có tính liên tục trong thời gian tương đối dài. Nhưng kiểu “Tốn thời gian” của Fukaeri lại mang hưởng khác. “Em tốn thời gian, tức là... tốn rất nhiều rất nhiều thời gian đúng ?” Tengo hỏi. “Rất nhiều rất nhiều” Fukaeri quả quyết . “Nhiều hơn người bình thường rất nhiều?” Fukaeri gật đầu. “Vậy ở trường học chẳng phải là phiền lắm sao? Lên lớp phải đọc bao nhiêu là sách. Nếu tốn thời gian như thế.” “Em giả vờ đọc.” như .
Chương 08: Đến nơi xa lạ gặp người xa lạ - P2 Trong óc Tengo vang lên tiếng gõ cửa mang theo điềm chẳng lành. Nếu có thể, rất muốn vờ như nghe thấy thanh đó, để lờ . Nhưng thế được. cần phải biết thực. Tengo hỏi: “Em đấy có phải là chứng khó đọc ?” “Chứng khó đọc?” Fukaeri lặp lại lời . “Tức là khó khăn khi đọc ấy.” “Có người từng bảo thế rồi. Chứng khó…” “Ai vậy?” khẽ nhún vai cái. “Cũng có nghĩa là…” Tengo lần mò tìm kiếm từ ngữ thích hợp, “Từ em thế này rồi à?” Fukaeri gật đầu. “Tức là, cho tới giờ em chưa từng đọc tiểu thuyết hay thứ gì tương tự?” “ tự đọc” Nếu là như vậy, có thể giải thích tại sao chịu ảnh hưởng của bất cứ tác giả nào như thế. Đây là lý do hợp tình hợp lý. “ tự đọc” Tengo . “Người khác đọc cho nghe” Fukaeri . “Bố mẹ đọc cho em nghe à?” Fukaeri trả lời. “ đọc được nhưng viết chắc thành vấn đề chứ?” Tengo thấp thỏm hỏi. Fukaeri lắc đầu. “Viết cũng tốn thời gian lắm.” “Tốn rất nhiều, rất nhiều thời gian à?” Fukaeri lại khẽ nhún vai cái. Ý muốn đúng thế. Tengo ngồi lại, điều chỉnh tư thế ghế. “ vậy, có lẽ tác phẩm Nhộng khí ấy phải do em tự viết đúng ?” “Em viết.” Tengo mất mấy giây được lời nào, mấy giây thực rất nặng nề. “Ai viết vậy?” “Azami.” Fukaeri . “Azami là ai?” “Bé hơn em hai tuổi.” Lại xuất khoảng lặng ngắn. “ bé ấy thay em viết Nhộng khí.” Fukaeri gật đầu hết sức ngạc nhiên. Tengo vắt óc suy nghĩ. “Thế tức là, em kể chuyện, còn Azami viết lại. Phải thế ?” “Đánh máy chữ, gõ ra.” Fukaeri . Tengo cắn môi, sắp xếp lại trong óc những thực vừa biết được, điều chỉnh lại cho đúng thứ tự trước sau, rồi : “Có nghĩa là, Azami gửi tập bản thảo được in ra ấy đến tham gia giải Tác giả mới của tạp chí, và giấu cho em biết, lại thêm nhan đề Nhộng khí vào cho tác phẩm nữa.” Fukaeri nghiêng đầu, hiểu muốn “Đúng” hay “sai”. Nhưng phản bác. có lẽ về đại thể là đúng. “Azami là bạn em à?” “Sống chung.” “Em em à?” Fukaeri lắc đầu. “Là con của Thầy giáo.” “Thầy giáo,” Tengo . “Em muốn Thầy giáo đó cũng sống cùng với em à?” Fukaeri gật đầu. Như thể muốn , sao đến giờ vẫn hỏi mấy câu đó làm gì. “Người sắp gặp, chính là ông thầy giáo ấy phải ?” Fukaeri nghoảnh mặt lại nhìn Tengo, ánh mắt tựa như quan sát áng mây trôi xa xa, hoặc cũng có thể là ánh mắt như thể nghĩ xem nên xử lý con chó đầu óc lơ đễnh thế nào, sau đó mới khẽ gật đầu. “Chúng ta gặp Thầy giáo,” đáp với giọng chút cảm xúc. Cuộc chuyện đến đây tạm thời kết thúc. Tengo và Fukaeri lại ngậm tăm gì nữa, hai người ngồi cạnh nhau, chăm chú ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài hồi lâu. mặt đất bằng phẳng và đơn điệu, những căn nhà có chút gì đặc sắc cứ xếp thành hàng dài vô tận. Vô số cột ăng ten vô tuyến vươn lên trung như thể những cọng râu của lũ côn trùng. Những người sống ở đó liệu có nộp phí cho đài NHK đúng quy định nhỉ? Hễ cứ đến Chủ nhật là Tengo lại hay nghĩ đến việc thu phí phát thanh truyền hình. Kỳ thực, hề muốn nghĩ đến chuyện đó, nhưng chẳng cách nào thoát khỏi. Hôm nay, sáng Chủ nhật đẹp trời giữa tháng Tư, mấy việc dễ chịu dần sáng tỏ. Trước tiên, Nhộng khí phải do Fukaeri tự viết. Nếu hoàn toàn tin vào những gì (lúc này vẫn chưa nghĩ ra lý do gì để tin ), Fukaeri chỉ kể lại câu chuyện, còn bé khác viết lại thành văn. Quá trình hình thành tác phẩm ấy tương đồng với những tác phẩm văn học truyền miệng như “Cổ ký”[2] hay “Truyện kể Heike”[3]. thực này tuy làm giảm bớt phần nào cảm giác tội lỗi của Tengo khi chấp bút viết lại Nhộng khí, nhưng về tổng thể lại khiến việc càng phức tạp, trắng ra là đến mức tiến thoái lưỡng nan, biết đường nào mà lần. [2] Kojiki, hay Furukoto Fumi là ghi chép biên niên cổ nhất còn sót lại của Nhật Bản, được Yasumaro viết vào thế kỷ 8 theo thánh chỉ của Hoàng Gia. Kojiki tập hợp các thần thoại về nguồn gốc của nước Nhật và các vị thần. [3] Heike monogatari: câu chuyện kể về cuộc chiến giữa hai gia tộc Taira và Minamoto để giành quyền kiểm soát Nhật Bản vào cuối thế kỷ 12 trong cuộc chiến Genpei (1180-1185) Ngoài ra còn mắc chứng khó đọc, thể đọc sách cách bình thường. Tengo nhẩm lại những gì biết về chứng khó đọc. Thời đại học, khi học nghiệp vụ sư phạm, nghe bài giảng về chứng bệnh này. Về lý thuyết, người mắc chứng khó đọc vẫn có thể đọc và viết, về trí lực cũng được coi là bình thường, nhưng khi đọc tốn rất nhiều thời gian. Đọc những câu ngắn khó, nhưng khi những câu ngắn ghép thành câu dài, năng lực xử lý thông tin đáp ứng nổi, từ ngữ và ý nghĩa của từ khó liên kết được với nhau trong não. Đây là triệu chứng chung của người mắc chứng khó đọc. Đến giờ người ta vẫn chưa tìm ra nguyên nhân căn bệnh. Tuy nhiên, ở trường, cũng chẳng có gì đáng kinh ngạc nếu mỗi khối lớp có hai đứa trẻ mắc chứng khó đọc. Einstein từng mắc chứng này, Edison và cả Charles Mingus cũng vậy. Tengo biết người mắc chứng khó đọc liệu có cảm thấy viết văn cũng khó khăn như việc đọc hay , nhưng trong trường hợp của Fukaeri, có lẽ là như vậy. Lúc viết, cũng cảm thấy khó khăn như lúc đọc. Komatsu nghĩ gì khi biết chuyện này? Tengo bất giác thở dài. thiếu nữ mười bảy tuổi này mắc chứng khó đọc bẩm sinh, cả đọc sách và viết văn đều được như ý. Lúc chuyện với người khác (nếu phải cố ý làm vậy) mỗi lần chỉ được câu. Muốn biến người như vậy thành nhà văn chuyên nghiệp, cho dù chỉ giả bộ, cũng hoàn toàn bất khả. Kể cả khi viết lại Nhộng khí cách thành công, tác phẩm giành giải Tác giả mới, có thể xuất bản, được đánh giá cao, cũng thể lừa dối mọi người mãi được. Dù ban đầu tất cả đều thuận lợi, nhưng dần dà, chắc chắn người ta nhận ra “có gì đó bất thường.” Nếu lúc ấy thực bị vạch trần, những người liên quan khó mà tránh khỏi thân bại danh liệt. nghiệp viết tiểu thuyết của Tengo cũng đứt đoạn trước cả khi kịp bắt đầu. Kế hoạch đầy sơ hở ấy đương nhiên thể tiến hành thuận lợi được. Ngay từ đầu có cảm giác như băng mỏng, nhưng đến giờ cả cách so sánh ấy cũng trở nên quá . Còn chưa đặt chân giẫm lên, lớp băng ấy kêu răng rắc và nứt toác rồi. Về đến nhà, chắc đành phải gọi điện báo với Komatsu: “Xin lỗi, Komatsu ạ, vụ này tôi phải rút thôi. Thực quá nguy hiểm.” Đây mới là việc mà người có thần kinh bình thường nên làm. Nhưng hễ nghĩ đến Nhộng khí, Tengo lại thấy lòng dạ giằng co, rối bời. Mặc cho kế hoạch của Komatsu có nguy hiểm thế nào, Tengo cũng thể dừng việc viết lại Nhộng khí lúc này. Trước khi bắt tay vào họa chăng có thể. Nhưng đến bước này thể dừng lại được nữa. ngập sâu trong tác phẩm ấy. hít thở bầu khí của thế giới ấy, thích nghi với trọng lực của nó. Tinh túy của câu chuyện thấm sâu vào đến nội tạng . Câu chuyện khẩn thiết cầu chính tay Tengo viết lại, và cảm nhận được điều ấy cách rệt. Đây là việc mà chỉ mới làm được, là việc đáng làm, là việc nhất thiết phải làm. Tengo nhắm mắt lại, biết nên làm gì để đối mặt với tình huống này. thử tìm kết luận tạm thời, nhưng được. kẻ giằng co, bối rối thể nào đưa ra kết luận hợp lý. “Azami viết lại đúng những gì em kể à?” Tengo hỏi. “Đúng những gì em kể.” Fukaeri trả lời. “Em kể, ấy viết. Đúng ?” Tengo hỏi. “Nhưng phải tiếng thôi.” “Tại sao phải tiếng?” Fukaeri đảo mắt nhìn khắp toa xe. Gần như có hành khách, chỉ có bà mẹ dắt theo hai đứa ngồi ở hàng ghế cách khá xa trước mặt. Nhìn họ như ba người đường đến nơi nào đó rất thú vị. đời vẫn còn những người hạnh phúc như vậy. “Để cho họ nghe thấy.” Fukaeri thầm . “Họ?” Tengo , nhìn ánh mắt đảo liên hồi của , “họ” hiển nhiên phải ba mẹ con nhà kia. Fukacri đến nhóm người cụ thể nào đó nhưng có mặt ở đây lúc này, nhưng biết rất , còn Tengo chẳng biết gì. “Họ là ai?” Tengo hỏi. Giọng củng dần. Fukaeri tiếng nào, giữa hai chân mày xuất những nếp nhăn , đôi môi mím chặt. “Có phải Người Tí Hon ?” Tengo hỏi. Vẫn trả lời. “Họ mà em ấy. Nếu câu chuyện này được xuất bản ra công chúng, tạo ra tượng, bọn họ có tức giận ?” Fukaeri trả lời câu hỏi này. Ánh mắt vẫn cố định ở bất cứ chỗ nào. Đợi giây lát thấy phản hồi, Tengo đặt câu hỏi khác: “Có thể chuyện về Thầy giáo được ? Ông ấy là người như thế nào?” Fukaeri ngạc nhiên nhìn Tengo, như muốn : này cái gì vậy nhỉ! Sau đó bảo: “Bây giờ gặp Thầy giáo đây.” “ đúng thế,” Tengo , “Đúng là như vậy. Đằng nào lúc nữa cũng gặp. Gặp rồi tự đánh giá vậy.” Đến ga Kokubun, nhóm người già vận đồ leo núi lên tàu. Họ có khoảng mười người, cả nam lẫn nữ. Tuổi chừng từ sáu lăm đến bảy lăm. Người nào cũng đeo ba lô, đội mũ, vui vẻ, rôm rả như học sinh tiểu học dã ngoại. Người đeo bình nước ở thắt lưng, người nhét trong túi sau ba lô. Tengo thầm nhủ, khi già, liệu mình có vui vẻ như bọn họ? Sau đó khẽ lắc đầu. , chắc là . tưởng tượng cảnh các ông bà già ấy vui vẻ cầm bình nước uống đỉnh núi nào đó. Tuy cơ thể Người Tí Hon bé, nhưng họ uống rất nhiều nước. Và họ thích uống nước máy, chỉ uống nước mưa, và cả nước chảy trong con sông gần đó nữa. Vì vậy ban ngày bé ra bờ sông múc nước vào xô cho Người Tí Hon uống. Lúc trời mưa, đặt xô dưới mái hiên để hứng nước. Vì tuy là nước tự nhiên, nhưng người tí hon thích uống nước mưa hơn nước sông. Họ cảm kích hành động tử tế này của bé. Tengo nhận ra mình bắt đầu khó tập trung tinh thần. Đây phải dấu hiệu tốt. Có thể vì hôm nay là Chủ nhật. Có gì đó hỗn loạn bắt đầu. bình nguyên xúc cảm, đâu đó sắp bùng lên trận bão cát chẳng lành. Chủ nhật thường xảy ra những chuyện như vậy. “Sao thế.” Fukaeri hỏi bằng câu nghi vấn có dấu chấm hỏi. Hình như cảm nhận được Tengo căng thẳng. “Liệu có suôn sẻ ?” Tengo hỏi. “Gì cơ.” “Liệu có thể chuyện suôn sẻ ?” “Có thể chuyện suôn sẻ.” Fukaeri hỏi, có vẻ vẫn chưa hoàn toàn hiểu được gì. “Với Thầy giáo.” Tengo “Có thể chuyện suôn sẻ với Thầy giáo .” Fukaeri lặp lại. Tengo thoáng do dự, rồi thành thực thú nhận: “Tóm lại, có cảm giác như nhiều chuyện ổn, như thể mọi chuyện đều hỏng cả.” Fukaeri xoay tư thế, nhìn thẳng vào gương mặt Tengo. “Sợ gì.” hỏi. “ sợ cái gì ấy hả?” Tengo đối lại cách hỏi của . Fukaeri im lặng gật đầu. “Có lẽ là sợ gặp mặt người lạ. Đặc biệt là vào sáng Chủ nhật.” Tengo . “Tại sao là Chủ nhật.” Fukaeri hỏi. Nách Tengo bắt đầu rỉ mồ hôi. Lồng ngực cảm giác như thắt lại. Gặp mặt người lạ, xuất những thứ xa lạ. Và những điều đó đe dọa tồn tại của . “Tại sao là Chủ nhật.” Fukaeri hỏi lại lần nữa. Tengo nhớ lại thời thiếu niên. Sau khi mất cả ngày trời hết tuyến đường thu tiền định, cha dẫn đến quán ăn trước ga, muốn ăn gì cứ gọi. Đó là phần thưởng dành cho . Đối với những người sống giản dị như họ, đây gần như là cơ hội duy nhất được ăn cơm ngoài. Đó cũng là những lần hiếm hoi cha gọi bia (bình thường cha Tengo bao giờ nhấp môi giọt rượu nào). Vậy nhưng Tengo chẳng hề thấy thèm ăn. Bình thường đói khát, nhưng ngày Chủ nhật ăn gì cũng vô vị. Việc ăn hết sạch toàn bộ những thứ gọi ra (cha bao giờ cho phép để thừa thức ăn) trở thành cực hình. Có lúc thậm chí chỉ muốn nôn ra bằng hết. Đó chính là ngày Chủ nhật của Tengo thời niên thiếu. Fukaeri nhìn gương mặt Tengo, tìm kiếm thứ gì đấy trong mắt , sau đó đưa bàn tay ra, nắm chặt lấy tay Tengo. Tengo giật thót mình, nhưng vẫn cố lộ vẻ kinh ngạc. Fukaeri cứ nắm bàn tay mãi cho đến khi tàu điện đến ga Kunitachi. Bàn tay cứng hơn tưởng, nóng lạnh. Bàn tay ấy chỉ bằng nửa bàn tay Tengo. “ phải sợ, vì hôm nay giống như những ngày Chủ nhật hồi trước.” như công bố thực mọi người đều biết. Có lẽ đây là lần đầu tiên hai câu liền lúc, Tengo thầm nghĩ.
Chương 09: Cảnh sắc thay đổi, quy tắc thay đổi - P1 Aomame đến thư viện quận gần nhà nhất, đề nghị được đọc bản thu các số báo trong vòng ba tháng từ tháng Chín đến tháng Mười năm 1981. Có các tờ Asahi, Yomiuri, Mainichi, Nihon Keizai, muốn xem loại nào? Nhân viên thư viện hỏi. Đó là phụ nữ trung niên đeo kính, thoạt nhìn giống nhân viên thư viện chút nào, mà như bà nội trợ làm thêm. Người béo lắm, nhưng cánh tay nần nẫn như chân giò hun khói kiểu . Loại nào cũng được, Aomame đáp. Loại nào mà chẳng như nhau. “Có lẽ vậy, nhưng nếu chỉ ra loại tôi chẳng biết phải làm thế nào,” người đàn bà bằng thứ ngữ điệu trầm bổng, như thể muốn từ chối tranh luận. Aomame cũng chẳng có ý muốn tranh cãi với bà ta, bèn chọn đại tờ nhật báo Mainichi, chẳng với lý do gì. Sau đó, nàng ngồi xuống cái bàn có vách chắn, giở sổ ghi chép ra, tay cầm bút bi, ánh mắt lần theo những tin tức đăng báo. Đầu mùa thu 1981, chưa xảy ra kiện gì trọng đại lắm. Tháng Bảy năm đó, thái tử Charles và công nương Diana cử hành hôn lễ, dư đến nay vẫn chưa lắng xuống. Hai người đó đâu, làm gì, Diana ăn mặc thế nào, đeo trang sức gì, báo đều viết cả. Chuyện thái tử Charles và công nương Diana kết hôn, đương nhiên Aomame cũng biết, nhưng nàng hứng thú. Nàng hoàn toàn hiểu tại sao người ta lại quan tâm số phận của thái tử và công nương nước đến thế. Nhìn bề ngoài, thái tử Charles giống ông giáo sư vật lý bị đau dạ dày hơn là vị hoàng thái tử. Ở Ba Lan, “Công đoàn Đoàn kết” do Lech Walesa[1] lãnh đạo gia tăng đối lập với chính phủ, chính phủ Liên Xô bày tỏ “quan ngại” trước việc này. cho ràng hơn, nếu chính phủ Ba Lan thể xử lý tình hình, chúng tôi gửi quân đoàn xe tăng tới chỗ các vị giống như kiện “mùa xuân Praha”[2] năm 1968. Những thông tin này Aomame vẫn nhớ mang máng, nàng còn biết sau khi trải qua loạt biến cố, Liên Xô cuối cùng cũng từ bỏ, can dự nữa, vì vậy cần phải đọc kỹ nội dung bài báo ấy làm gì. Chỉ có chỗ, viết rằng, có lẽ để kiềm chế Liên Xô, tổng thống Mỹ Reagan tuyên bố: “Hy vọng tình hình căng thẳng ở Ba Lan làm cho kế hoạch hợp tác xây dựng căn cứ mặt trăng của hai nước Xô-Mỹ gặp phải trở ngại.” Xây dựng căn cứ mặt trăng? Chuyện này đúng là chưa nghe bao giờ. Nhưng nghĩ lại hình như lần trước chương trình tin tức ti vi cũng có nhắc đến chuyện này. Chính là buổi tối hôm nàng làm tình với người đàn ông trung niên có mái tóc lưa thưa người Kansai. [1] Lech Walesa là chính trị gia, nhà hoạt động công đoàn và hoạt động cho nhân quyền người Ba Lan. Ông là người đồng tổ chức Công đoàn Đoàn kết, công đoàn độc lập đầu tiên trong khối cộng sản Đông u. Ông đạt giải Nobel hòa bình năm 1983, và làm tổng thống Ba Lan từ năm 1990 tới năm 1995. [2] “Mùa xuân Praha” là giai đoạn phi Xô Viết nền chính trị tại Tiệp Khắc trong thời kì nước này chịu ảnh hưởng từ Liên bang Xô Viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu từ tháng năm 1968, khi nhà cải cách Alexander Dubcek lên nắm quyền lực, và kéo dài tới tháng Tám cùng năm khi Liên Xô và các thành viên khối hiệp ước Warsaw tấn công nước này nhằm chặn các cuộc cải cách. Ngày hai mươi tháng Chín, ở Jakarta tổ chức giải thi thả diều quy mô lớn nhất thế giới, hơn mười nghìn người tụ tập về đây tham gia thả diều. Tin này Aomame biết, nhưng biết cũng chẳng lạ. giải thi thả diều ở Jakarta từ ba năm trước đến giờ ai còn nhớ nổi? Ngày sáu tháng Mười ở Ai Cập, tổng thống Anwar El Sadat bị tổ chức Hồi giáo cực đoan ám sát. Aomame còn nhớ kiện này, lại thêm lần thương cảm tổng thống El Sadat. Nàng khá ưa kiểu đầu hói của ông ta, và xưa nay luôn căm ghét các tổ chức tôn giáo cực đoan. Chỉ nghĩ tới cái thế giới quan lệch lạc, hẹp hòi, thái độ kiêu ngạo luôn ình hơn người và áp đặt tàn nhẫn với người khác là nàng kìm được lửa giận bùng lên. Nàng thể nào dễ dàng khống chế cơn giận ấy được, nhưng chuyện này liên quan đến việc trước mắt. Aomame hít thở sâu mấy hơi lấy lại bình tĩnh, rồi tiếp tục lật trang. Ngày mười hai tháng Mười, ở vùng cư dân quận Itabashi, Tokyo, nhân viên thu tiền phí của đài NHK (năm sáu tuổi) cãi vã với sinh viên chịu trả tiền, dung con dao trong túi mang theo người đâm trúng bụng đối phương, gây thương tích nặng. Người thu phí đó bị cảnh sát bắt tại chỗ. Lúc ấy, ông ta vẫn cầm con dao dính đầy máu đứng thẫn thờ, hoàn toàn kháng cự khi bị bắt. Người này được nhận vào từ sáu năm trước, thái độ làm việc rất nghiêm túc, thành tích công việc cũng thuộc loại xuất sắc, đồng nghiệp của ông ta . Aomame hề biết xảy ra chuyện này. Nàng đặt định kỳ tờ Yomiuri, ngày nào cũng xem lượt, để sót mục nào, các tin ở trang xã hội… đặc biệt là tin tức liên quan đến tội phạm… càng đọc kỹ. Bài báo này chiếm gần nửa trang trong phần tin xã hội, chắc thể có chuyện để sót cả bài báo quan trọng thế này được. Dĩ nhiên, cũng có thể vì nguyên nhân gì đó mà nàng đọc đến. Khả năng này rất thấp, nhưng cũng thể khẳng định là tuyệt đối có. Nàng cau trán, ngẫm nghĩ về khả năng đó hồi lâu, sau đó ghi lại ngày tháng và tóm tắt việc vào sổ tay. Người thu tiền cước đó tên là Akutagawa Shinnosuke. Cái tên oai . Nghe cứ như văn hào[3]. Báo đăng hình ông ta, chỉ có hình của nạn nhân tên là Tagawa Akira (hai mốt tuổi). Tagawa là sinh viên năm thứ ba khoa Luật đại học Nihon, đệ nhị đẳng kiếm đạo, nếu trong tay có kiếm tre dùng để luyện tập chắc ta dễ bị đâm đến thế. Dĩ nhiên, người bình thường chẳng ai cầm kiếm tre ra chuyện với nhân viên thu phí của đài NHK, còn nhân viên bình thường của đài NHK cũng mang dao trong túi xách mà quanh. Aomame xem kỹ các bài báo mấy ngày sau, phát ra bài nào đưa tin sinh viên bị đâm kia chết, có lẽ tính mạng ta được an toàn. [3] Ý muốn đến nhà văn Akutagawa Ryunosuke. Ngày mười sau tháng Mười, mỏ than ở Yubari, Hokkaido xảy ra cố nghiêm trọng. Lửa bùng lên tại trường khai thác ở độ sâu nghìn mét dưới lòng đất, hơn năm mươi người làm việc tại đó chết ngạt. Hỏa hoạn lan lên đến gần mặt đất, khiến hơn mười người nữa thiệt mạng. Để ngăn ngọn lửa lan rộng, công ty thậm chí còn xác nhận xem những công nhân khác còn sống hay chết, sử dụng máy bơm nước nhấn chìm đường hầm. Tổng cộng có chín ba người chết. kiện đau lòng. Than đá là nguồn năng lượng “bẩn”, khai thác than là công việc nguy hiểm. Công ty khai thác chịu đầu tư thiết bị, điều kiện lao động tệ hại, thường xuyên xảy ra tai nạn, công nhân thể tránh được các bệnh liên quan đến phổi. Nhưng than đá là tài nguyên giá rẻ, vì vậy vẫn còn những người và doanh nghiệp cần đến nó. Aomame còn nhớ tai nạn này. kiện Aomame muốn tìm xảy ra vào ngày mười chín tháng Mười, khi dư của cố hỏa hoạn tại mỏ than Yubari vẫn còn chưa lắng xuống. Aomame hề hay biết chuyện đó, cho tới khi Tamaru kể với nàng mấy tiếng đồng hồ trước. thể nào lại như vậy. Bởi vì nhan đề bài báo về kiện ấy được in đậm bằng cỡ chữ to đến mức thể bỏ sót được ở ngay trang nhất số ra buổi sáng. ĐẤU SÚNG VỚI PHẦN TỬ QUÁ KHÍCH Ở YAMANASHI: BA CẢNH SÁT TỬ VONG tấm ảnh lớn cũng được đăng kèm. Đó là bức ảnh chụp trường vụ án. Ở gần hồ Motosu. Còn có cả bản đồ sơ lược. trường ở trong núi, từ khu vực được quy hoạch làm đất xây biệt thự phải vào sâu hơn. Ảnh chân dung ba cảnh sát tỉnh Yamanashi thiệt mạng. Lính dù đặc nhiệm của lực lượng phòng vệ[4] xuất kích bằng trực thăng. Trang phục rằn ri, súng bắn tỉa lắp ống ngắm, và súng trường tự động báng ngắn. [4] Sau năm 1945, quân đội Nhật Bản bao gồm Lục quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Đế quốc Nhật Bản bị giải tán, Cục phòng vệ Nhật Bản được lập ra để bảo vệ nước Nhật. Đơn vị này bao gồm ba binh chủng, là Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản, Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản và Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Vì vậy, từ sau năm 1945, người Nhật gọi quân đội của mình là lực lượng phòng vệ. Khuôn mặt Aomame biến dạng lúc lâu. Để có thể thoải mái biểu lộ cảm xúc, nàng kéo giãn hết cỡ toàn bộ cơ mặt mình. Hai bên bàn đều có vách ngăn, vì vậy ai nhìn thấy biến đổi ghê gớm gương mặt nàng. Sau đó Aomame hít thở sâu, rút hết khí xung quanh vào mình, rồi lại thở hết ra. Giống như con cá voi hít vào thở ra toàn bộ khí trong lá phổi khổng lồ của nó lúc nổi lên mặt biển. học sinh cấp ba ngồi quay lưng về phía nàng học bài giật mình trước thanh ấy liền ngoảnh đầu lại nhìn Aomame, nhưng dĩ nhiên thể thốt lên tiếng nào. Chỉ run bắn vì sợ. Sau khi khiến gương mặt biến dạng lúc, nàng cố thả lỏng các cơ thịt, để khuôn mặt trở lại như cũ. Rồi nàng lấy cán bút bi, gõ “cách cách” vào răng cửa, cố sắp xếp lại tư duy cho hợp lý. Ở đây chắc chắn có lý do gì đó. Phải có lý do gì đó mới đúng. Tại sao kiện nghiêm trọng gây chấn động toàn nước Nhật như thế mà mình lại bỏ sót được? , chỉ là kiện này. Cả vụ án người thu cước của đài NHK đâm bị thương cậu sinh viên, mình cũng hề biết. Kỳ lạ . thể nào liên tiếp xuất những sơ suất nghiêm trọng như vậy được. gì , mình cũng là người tỉ mỉ và cẩn thận. Sai sót dù chỉ mi li mét cũng bao giờ bỏ qua. Mình cũng rất tự tin với trí nhớ của mình. Có thể mới đưa được mấy người sang thế giới kia mà chưa phạm phải sai sót nào, và mới có thể sống tới ngày hôm nay. Ngày nào mình cũng đọc báo rất cẩn thận, mà “Đọc báo cẩn thận” tức là bao giờ bỏ qua bất cứ thông tin nào có ý nghĩa. Tất nhiên, kiện hồ Motosu xuất đầy các mặt báo nhiều ngày sau đó. Để truy bắt mười thành viên của nhóm phần tử quá khích, lực lượng phòng vệ và cảnh sát tiến hành lùng sục quy mô lớn trong núi, bắn chết ba người, làm trọng thương hai người, bắt sống bốn người (trong đó có phụ nữ), còn người biến mất. Báo chí liên tiếp đăng tải về kiện này, khiến các bài về vụ nhân viên thu phí đài NHK đâm bị thương cậu sinh viên ở quận Itabashi chìm nghỉm hoàn toàn. Đài NHK, dĩ nhiên thể ra ngoài, chắc chắn thở phào nhóm. Vì nếu xảy ra kiện lớn kia, các phương tiện truyền thông chắc chắn buông tha vụ án này, rồi lớn tiếng chất vấn hệ thống thu cước phí và phương thức tổ chức công việc của NHK. Từ đầu năm đó xảy ra việc Đảng Dân chủ Tự do chỉ trích chương trình đặc biệt đưa tin về vụ hối lộ đài NHK của công ty Lockheed[5], buộc đài này phải thay đổi nội dung. Trước khi phát sóng, đài NHK trình bày tường tận nội dung chương trình với mấy chính trị gia của đảng cầm quyền, khúm núm xin ý kiến: “Nội dung là như vậy, biết có thể phát sóng hay ?” Kinh ngạc hơn, đây lại là quy trình thường nhật. Dự toán ngân sách của đài NHK cần được Quốc hội phê chuẩn, lãnh đạo đài này luôn sợ làm mất lòng đảng cầm quyền và chính phủ. Trong đảng cầm quyền luôn có ý coi đài NHK chẳng qua chỉ là công cụ tuyên truyền của mình. Khi những nội tình ấy bị bóc trần, dân chúng dĩ nhiên bắt đầu có cảm giác bớt tính nhiệm với tính độc lập và khách quan về mặt chính trị của đài NHK. Do vậy phong trào từ chối trả phí nghe nhìn cũng ngày lan rộng. [5] Vụ scandal hối lộ của công ty hàng Mỹ Lockheed vào cuối những năm 1950 đến khoảng năm 1970 để thúc đẩy tiến trình bán máy bay. Ngoại trừ kiện hồ Motosu và vụ án của nhân viên thu phí của đài NHK, các kiện, biến cố và tai nạn khác xảy ra trong tuần ấy, Aomame đều nhớ như in. Mọi tin tức khác ngoài hai vụ việc này, nàng đều bỏ qua. Nàng nhớ khi ấy đọc kỹ từng bài báo . Vậy mà, chỉ riêng vụ đấu súng ở hồ Motosu và vụ án của nhân viên đài NHK là để lại chút ký ức nào trong đầu nàng. Vì sao? Cứ cho là đầu óc mình có vấn đề, nhưng liệu có thể có việc mình chỉ bỏ sót các bài báo đưa tin về hai kiện này, hoặc chỉ khéo léo xóa những phần liên quan đến chúng trong ký ức được sao? Aomame nhắm mắt lại, lấy đầu ngón tay ấn mạnh lên huyệt Thái dương. , biết đâu là có chuyện ấy . Trong óc mình hình thành thứ gì đó tương tự như chức năng thay đổi thực, nó chọn ra số tin tức đặc biệt nào đó, che kín bằng lớp vải đen dày, để mắt mình nhìn thấy, cũng để chúng lưu lại trong trí nhớ. Chẳng hạn như chuyện đổi súng và sắc phục của cảnh sát, Liên Xô và Mỹ hợp tác xây dựng căn cứ mặt trăng, nhân viên thu phí đài NHK dùng dao đâm bị thương sinh viên, các phần tử quá khích và lính đặc nhiệm của lực lượng phòng vệ đấu súng kịch liệt bên hồ Motosu… những tin kiểu như thế. Thế nhưng, rốt cuộc giữa những kiện này có điểm gì chung? Có nghĩ nát óc, cũng chẳng thấy có điểm chung nào. Aomame lấy cán bút bi gõ gõ lên răng cửa, vắt óc trầm ngâm. Sau lúc lâu, Aomame đột nhiên nghĩ: Thế này chẳng hạn, có thể cho rằng… phải mình có vấn đề, mà vấn đề nằm ở thế giới xung quanh mình hay ? phải ý thức và tinh thần mình có gì bất thường, mà là do ảnh hưởng của sức mạnh kỳ bí nào đó, bản thân thế giới xung quanh mình chịu thay đổi nào đó. Nghĩ nghĩ lại, Aomame nhận thấy giả thiết này có vẻ tự nhiên hơn. có cảm giác nào khiến nàng thấy ý thức của nàng bị khiếm khuyết hay biến dạng. Rồi nàng tiếp tục triển khai rộng hơn giả thiết này. Xảy ra hỗn loạn phải mình, mà là thế giới. Đúng, đúng thế.
Chương 09: Cảnh sắc thay đổi, quy tắc thay đổi - P2 Tại thời điểm nào đó, thế giới mà mình biết biến mất, hoặc giả lùi lại phía sau, để thế giới khác thay thế nó. Giống như đường ray được chuyển ghi. Có nghĩa là, mình ở đây, lúc này, nhưng ý thức vẫn thuộc về thế giới ban đầu, còn bản thân thế giới biến đổi thành thứ khác. Những thay đổi xảy ra ở nơi này, trước mắt vẫn rất hữu hạn. Hầu hết các bộ phận tạo thành thế giới mới vẫn dựa thế giới ban đầu mà mình biết. Vì vậy cuộc sống (lúc này gần như) chưa xuất trở ngại nào thực . Nhưng lâu dần, những “phần bị thay đổi” đó hẳn tạo ra xung quanh mình những khác biệt lớn hơn. Khác biệt lớn dần. Và rồi những khác biệt, trong trường hợp nào đó, có thể gây tổn hại tới tính logic trong hành động của mình, khiến mình phạm phải những sai lầm chí mạng. Và nếu có chuyện đó , đúng là đòn chí mạng. Những thế giới song song. Aomame nhăn mặt, như thể trong miệng ngậm thứ gì đó rất chua, tuy đến mức dữ dội như hồi nãy. Sau đó, nàng lại lấy cán bút bi gõ mạnh vào răng cửa lách cách, trong cổ họng vẳng ra tiếng ư ử trầm đục. m thanh ấy lọt vào tai cậu học sinh cấp ba sau lưng nàng, nhưng lần này cậu ta giả bộ nghe thấy gì. Cứ như là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Aomame thầm nghĩ. Hay là để bảo vệ bản thân, mình tự bịa ra giả thiết này? Cũng có thể chỉ là do đầu óc mình khỏe. Mình vẫn cho rằng tinh thần mình hoàn hảo và bình thường, ý thức của mình hoàn toàn méo mó. Thế nhưng, những tuyên bố kiểu mình hoàn toàn bình thường, còn thế giới xung quanh phát điên hết chẳng phải chính là cái kiểu của đại đa số những kẻ mắc bệnh tâm thần đấy sao? Có khi nào mình đưa ra giả thiết hoang đường về thế giới song song chẳng qua chỉ là cách khiên cưỡng nhằm hợp thức hóa điên rồ của mình? Cần phải có ý kiến bình tĩnh của người thứ ba mới được. Nhưng mình thể đến gặp bác sĩ phân tâm học được. việc này quá đỗi phức tạp, có quá nhiều thực thể ra. Ví dụ như công việc gần đây chẳng hạn, ràng là phạm pháp. Dù sao mình cũng dùng đục nước đá tự chế thầm giết chết cả lũ đàn ông! Chuyện này ràng thể để bác sĩ biết. Dù nạn nhân đều là lũ khốn kiếp làm những việc có chết cũng đền hết tội. Mà kể cả có thể khéo léo che đậy những việc phạm pháp, những phần hợp pháp còn lại trong đời mình cũng chẳng bõ bèn gì. Giống như cái vali da bên trong nhét đầy các thứ quần áo bẩn thỉu. Trong đấy có đủ các loại nguyên liệu để dồn ép con người đến mức thần kinh trở nên bất bình thường. , thậm chí đủ cho ba người ấy chứ. Chỉ riêng đời sống tình dục thôi củng quá đủ. Chắc chắn đây phải thứ có thể trước mặt người khác. thể gặp bác sĩ, Aomame nghĩ. Chỉ còn cách đơn độc giải quyết. Trước tiên, hãy tiếp tục theo đuổi giả thiết của mình. Giả định rằng tình huống ấy thực xảy ra, cách khác, thế giới mình sống đây thực bị biến đổi, vậy cụ thể thời điểm bẻ ghi ấy là lúc nào, nơi nào, và thực ra sao? Aomame tập trung ý thức, lục tìm trong trí nhớ. thay đổi đầu tiên của thế giới này mà nàng nghĩ đến, là hôm xử lí gã chuyên gia dầu mỏ ở trong khách sạn ở Shibuya mấy ngày trước. tuyến số ba đường cao tốc Thủ đô, nàng xuống xe taxi, dùng thang thoát hiểm khẩn cấp để xuống đường quốc lộ 246, thay quần tất khác, rồi bộ về phía ga Sangenjaya. Dọc đường Aomame lướt qua viên cảnh sát trẻ tuổi, và nhận ra vẻ bề ngoài ấy khác với bình thường. Đó là điểm khởi đầu. Như vậy có lẽ thế giới thay đổi trước đó lúc. Buổi sáng sớm hôm ấy, mình vẫn thấy cảnh sát ở gần nhà mặc trang phục cũ, đeo súng lục ổ quay kiểu cũ. Aomame nhớ lại cảm giác khó tin lúc ngồi trong chiếc taxi bị kẹt giữa dòng xe cộ đông đúc, nghe bản Sinfonietta của Leoš Janáček. Đó là cảm giác các bộ phận trong cơ thể bị vặn xoắn giống cái giẻ khô bị vắt kiệt. Bác tài ấy chỉ ình cầu thang thoát hiểm đường cao tốc. Thủ đô, mình cởi giày cao gót, leo xuống cái thang nguy hiểm ấy. Lúc chân trần leo xuống thang trong cơn gió mạnh, đoạn mở đầu của bản Sinfonietta cứ văng vẳng mãi bên tai mình ngớt. Có khi đó chính là khởi đầu, Aomame thầm nhủ. Ấn tượng về bác tài cũng vô cùng kỳ lạ. Aomame vẫn còn nhớ rất câu của bác ta lúc chia tay. Nàng gắng sức tái lại câu ấy cách chuẩn xác nhất trong óc. “Sau khi làm chuyện đó, có lẽ những quang cảnh thường ngày nhìn thấy hơi khác lúc bình thường chút. Nhưng mà, đừng để vẻ bề ngoài đánh lừa. thực lúc nào cũng chỉ có mà thôi.” Khi ấy Aomame nghĩ bác tài này ăn kỳ quặc. Nhưng rốt cuộc bác ta muốn điều gì, nàng lại hiểu, cũng để ý lắm. Nàng vội, có thời gian nghĩ những thứ phiền phức. Giờ hồi tưởng lại, những lời này ràng là rất đường đột, kỳ lạ. Vừa như lời khuyên chân thành, lại vừa như thông điệp ám chỉ. Rốt cuộc bác ấy muốn truyền đạt điều gì ình? Còn cả nhạc của Leoš Janáček nữa. Tại sao mình có thể lập tức nhận ra đó là bản Sinfonietta của Leoš Janáček? Sao mình biết được bản nhạc ấy được viết vào năm 1926? Bản Sinfonietta của Leoš Janáček đâu phải loại nhạc loại nhạc đại chúng chỉ cần nghe đoạn đầu là đoán ngay được tên? Từ trước giờ mình bao giờ ham thích nhạc cổ điển đâu, thậm chí khác biệt giữa nhạc của Beethoven và Haydn[6] mình còn chẳng . Vậy tại sao vừa nghe thấy bản nhạc ấy vang lên trong radio xe taxi, mình lập tức nhận ra là Sinfonietta của Leoš Janáček? Tại sao bản nhạc ấy lại khiến thân thể mình thấy rung động dữ dội đến thế? [6] Franz Joseph Haydn (1732-1890) là trong những nhà soạn nhạc xuất chúng của nền nhạc cổ điển, còn được gọi là “người cha của giao hưởng” và “cha đẻ của tứ tấu dây”. Ông cũng có nhiều đóng góp cho thể loại tam tấu piano và hình thức xô nát. Đúng. Đó là rung động hết sức cá nhân. Giống như tiềm thức ngủ sâu trong ký ức suốt thời gian dài, đột nhiên bị đánh thức trong khoảnh khắc lường trước vì lý do nào đó, chính là cảm giác ấy. Cảm giác như thể bị người nào đó nắm chặt vai lắc mạnh. Nếu vậy, có lẽ ở địa điểm nào đó trong cuộc đời, mình từng có mối quan hệ sâu sắc với khúc nhạc ấy. Có lẽ khi dòng nhạc chảy tới, cái van tự động mở ra, ký ức nào đó trong cơ thể tự nhiên cũng theo đó thức tỉnh. Sinfonietta của Leoš Janáček. Nhưng dù có gắng đào sâu vào ký ức, Aomame cũng tìm ra manh mối nào. Nàng đảo mắt bốn phía, rồi chăm chú nhìn vào lòng bàn tay mình, kiểm tra ngón tay, sau đó, để chắc chắn, nàng dùng hai tay nắn đôi bầu vú qua lần áo để kiểm tra hình dạng. có thay đổi gì đặc biệt, kích cỡ và hình dáng đều bình thường. Mình vẫn là mình trước đây, thế giới vẫn là thế giới rộng lớn ấy. Nhưng có thứ gì đó bắt đầu thay đổi. Aomame có thể cảm nhận được. Giống như trò tìm điểm khác nhau tấm ảnh. Ở đây có hai tấm ảnh, treo cạnh nhau bức tường, tưởng chừng như hoàn toàn giống nhau. Nhưng khi kiểm tra tỉ mỉ từng chi tiết phát những điểm khác biệt rất tinh tế. Nàng sắp xếp lại tư duy, tiếp tục lật các trang báo, chép lại chi tiết trận đấu súng bên hồ Motosu. Năm khẩu tiểu liên AK47 Kalashnikov do Trung Quốc chế tạo, theo suy đoán có lẽ được buôn lậu từ Triều Tiên. Có khả năng là hàng qua sử dụng của quân đội, chất lượng tốt, đạn dược đầy đủ. Đường bờ biển Nhật Bản rất dài, thuyền buôn lậu ngụy trang thành thuyền cá, lợi dụng ban đêm để chuyển lậu vũ khí qua biên giới phải chuyện quá khó. Bọn họ thường dùng cách này để chuyển ma túy và vũ khí vào Nhật Bản, rồi mang lượng lớn tiền Yên. Cảnh sát Yamanashi biết tổ chức quá khích kia được vũ trang mạnh như vậy. Bọn họ được lệnh khám xét để điều tra tội cố ý gây thương tích, thực chất chỉ là hình thức, và chia nhau ngồi hai xe tuần tra và xe buýt , được trang bị bình thường, rồi đến “nông trường” là đại bản doanh của tổ chức tên là “Akebono”[7]. Bề ngoài, các thành viên của tổ chức này đều làm việc ở nông trường sử dụng phương thức canh tác hữu cơ ấy. Bọn họ cho cảnh sát vào khám xét, vậy là thành xung đột đánh nhau, rồi bùng phát thành cuộc đấu súng. [7] Bình minh. Dù thực tế chưa sử dụng đến, nhưng tổ chức này thậm chí còn tích trữ cả lựu đạn cầm tay sát thương lớn do Trung Quốc sản xuất. dùng đến, là vì chúng mới nhận được chưa lâu, nên chưa được huấn luyện để sử dụng thành thạo. Đây thực là điều may mắn. Nếu chúng dùng đến lựu đạn, tổn thất của cảnh sát và lực lượng phòng vệ chắc chắn lớn hơn nhiều. Lúc đầu, các cảnh sát thậm chí còn chuẩn bị cả áo chống đạn. Lãnh đạo cảnh sát bị chỉ trích vì lơ là trong phân tích thông tin và trang bị cũ kỹ lạc hậu. Nhưng điều khiến mọi người kinh ngạc nhất vẫn là các phái quá khích vẫn còn tồn tại dưới các lực lượng chiến đấu như vậy và còn hoạt động sôi nổi trong bóng tối. Người ta cứ ngỡ cuộc “cách mạng” sau những năm sáu mươi ầm ĩ thời hoàn toàn trở thành quá vãng, tàn dư của các phái quá khích cũng bị tiêu diệt triệt để trong “ kiện sơn trang Asama”[8] rồi. [8] kiện sơn trang Asama là vụ bắt cóc con tin ở ngôi nhà núi gần Karuizawa, Nagano của năm thành viên tổ chức URA (Liên hợp Quân đoàn Đỏ). Đây là lần đầu tiên hành động giải cứu của cảnh sát được truyền hình trực tiếp ở Nhật Bản. Aomame ghi chép xong, đem đống báo trả lại quầy phục vụ, lại chọn quyển dày cộp tên là Các nhà soạn nhạc thế giới giá sách nhạc, rồi trở lại bàn đọc sách. Sau đó lật đến trang viết về Janáček. Leoš Janáček sinh ra ở làng quê vùng Movaria năm 1854, mất năm 1928. Trong sách có in hình chân dung ông những năm cuối đời. hói, đỉnh đầu được mái tóc bạc trắng như đám cỏ dại bù xù phủ kín, thể hình dung hình dạng hộp sọ của ông trông thế nào. Bản Sinfonietta được viết năm 1926. Janáček có cuộc hôn nhân bất hạnh tình , mãi đến năm 1917, khi sáu ba, ông mới tình cờ gặp được người đàn bà có chồng tên là Kamila Stösslová, và hai người nhau. Đó là tình ở tuổi xế chiều của hai kẻ từng kết hôn. Janáček độ âu sầu vì sáng tác sa sút, nhưng nhờ gặp Kamila, ông lấy lại được cảm hứng. Vậy là các kiệt tác liên tiếp xuất vào những năm cuối đời. hôm, khi tản bộ cùng Kamila trong công viên, ông bắt gặp buổi hòa nhạc diễn ra tại nhà hát ngoài trời nên dừng bước lắng nghe. Janáček bỗng thấy cảm giác hạnh phúc ngập tràn khắp cơ thể, cấu tứ của bản Sinfonietta bỗng dưng xuất . Về sau, ông kể lại rằng, khi đó ông thấy như trong óc mình có thứ gì đột nhiên nổ tung, toàn thân đắm chìm trong trạng thái xuất thần. Vừa khéo dạo ấy Janáček được mời sáng tác bản nhạc mở đầu cho lễ khai mạc đại hội thể thao lớn, mô típ của bản nhạc mở đầu ấy và “cấu tứ” có được trong gian hòa nhập làm , và Sinfonietta ra đời. Tuy tên gọi là “Khúc giao hưởng , nhưng kết cấu của nó hoàn toàn phi truyền thống, khúc mở màn đầy tươi sáng của nhạc cụ hơi kết hợp với hòa tấu đàn dây trầm lắng kiểu Trung u, tạo ra phong cách hết sức độc đáo. Trong sách giải thích như vậy. Để cho chắc chắn, Aomame chép tóm tắt nội dung tiểu sử và giới thiệu bản nhạc vào sổ tay. Nhưng cuốn sách gợi mở điều gì về chuyện rốt cuộc giữa Aomame và bản Sinfonietta ấy có quan hệ gì, hoặc có thể quan hệ như thế nào. Rời thư viện, nàng thả bước dọc theo con phố trước lúc hoàng hôn, chốc chốc lại lẩm bẩm mình, rồi lại lắc đầu. Aomame vừa vừa ngẫm nghĩ, tất nhiên, mọi điều chỉ là giả thuyết. Nhưng trước mắt, đây là giả thuyết có sức thuyết phục nhất đối với mình. Ít ra, trước khi có giả thuyết nào thuyết phục hơn xuất , hẳn là phải hành động dựa giả thuyết này. Bằng có thể mình bị đào thải. Vì vậy, có lẽ nên đặt cho hoàn cảnh mới này của mình cái tên phù hợp. Để phân biệt với thế giới trước đây khi cảnh sát đeo súng lục ổ quay kiểu cũ lại đường, cũng nên có xưng hô riêng. Chó mèo còn cần có tên nữa là. Thế giới mới bị biến đổi lại càng cần. Năm 1Q84. Mình gọi cái thế giới mới này như thế. Aomame quyết định. Q là chữ Q trong từ question mark. Thứ gánh lưng mình câu hỏi. Nàng vừa bước vừa gật gù mình. “Dù thích hay , nay mình ở trong “Năm 1Q84” này rồi. Năm 1984 mà mình quen thuộc kia biến mất còn dấu tích, năm nay là năm 1Q84. Bầu khí thay đổi, phong cách thay đổi. Mình phải nhanh chóng thích ứng với thế giới mang dấu chấm hỏi này. Như lũ động vật bị bỏ vào khu rừng xa lạ, muốn sinh tồn chúng phải nhanh chóng tìm hiểu và thích ứng với quy tắc ở nơi mới. Aomame vào cửa hàng đĩa hát gần ga Jiyugaoka, tìm đĩa Sinfonietta của Janáček. Janáček phải là nhà soạn nhạc được ưa chuộng. Góc dành cho các đĩa nhạc của ông rất , chỉ tìm được đĩa duy nhất có bản Sinfonietta ấy. Dàn nhạc dao hưởng Cleveland diễn tấu dưới chỉ huy của George Szell[9], mặt A là “Bản concerto cho dàn nhạc giao hưởng” của Bartók Béla Viktor János[10]. hiểu diễn tấu ra sao, nhưng cũng chẳng còn lựa chọn khác, vậy là nàng mua cái đĩa than ấy. Về tới nhà, lấy chai rượu Chablis trong tủ lạnh ra, mở nắp chai, đặt đĩa nhạc vào bàn quay, hạ đầu kim xuống. Sau đó nàng vừa uống rượu vang để lạnh vừa phải vừa nghe nhạc. Đoạn mở đầu bằng kèn vang lên rạng rỡ. Đúng là thứ nhạc nghe trong taxi. sai chút nào. Nàng nhắm mắt lại, tập trung ý thức vào nhạc. Dàn nhạc chơi khá hay. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra ngoài tiếng nhạc vang vọng. Thân thể nàng bị vặn xoắn, cảm giác cũng có gì thay đổi. [9] George Szell (1897-1970): Nhạc trưởng người Mỹ gốc Hungary. [10] Bartók Béla Viktor János (1881-1945): Nhà soạn nhạc và nghê sĩ piano nổi tiếng người Hungary. Nghe nhạc xong, nàng cất đĩa vào bao đựng, ngồi sàn nhà, dựa lưng vào tường uống rượu vang tiếp. Nhâm nhi vang mình trong lúc nghĩ ngợi hầu như cảm nhận được mùi vị gì. Rồi nàng vào nhà vệ sinh, lấy xà phòng rửa mặt, cầm kéo lên sửa lông mi, sau đó lấy tăm bông làm sạch trong tai. Mình điên, hoặc thế giới này điên, chỉ có thể là trong hai. Mình biết rốt cuộc là bên nào điên. Miệng chai và nắp chai vừa nhau. Cũng có thể trách cái chai, mà cũng có thể trách cái nắp. Nhưng dù thế nào cũng thay đổi được thực miệng chai và nắp chai vừa. Aomame mở tủ lạnh kiểm tra. Mấy hôm nay nàng mua thức ăn, đồ bên trong nhiều lắm. Nàng lấy ra quả đu đủ chín nục, cầm dao cắt đôi, dùng thìa xúc ăn. Sau đó nàng lại lấy ba quả dưa chuột, rửa sạch, chấm xốt mayonnaise ăn. Nàng chậm rãi nhai. Kế đó, nàng đổ sữa đậu nành ra cốc thủy tinh, uống cạn. Đây là toàn bộ bữa tối. Tuy đơn giản, nhưng lại là thực đơn lý tưởng phòng táo bón. Táo bón là trong những điều mà Aomame căm ghét nhất đời. Ghét ngang với bọn đàn ông bỉ ổi bạo hành gia đình và những phần tử tôn giáo cực đoan đầu óc hẹp hòi. Sau bữa tối, Aomame cởi quần áo, tắm nước nóng. Ra khỏi phòng tắm, nàng lấy khăn bông chà xát khắp người, rồi quan sát cơ thể mình trong tấm gương gắn cửa. Phần bụng thon thả, các bắp thịt săn chắc. Hai bầu vú cân đối và nổi bật, đám lông mu làm người ta liên tưởng đến sân bóng đá được chăm sóc. ngắm nghía thân thể trần truồng của mình, Aomame chợt nhớ ra tuần tới mình ba mươi tuổi. Sinh nhật buồn chán lại đến. đúng là! Phải đón lần sinh nhật ba mươi ở cái thế giới lạ kỳ khó hiểu này! Aomame thầm nghĩ, rồi nhíu mày lại. Năm 1Q84. Đó chính là nơi nàng trú ngụ.