1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đức Phật Và Nàng - Tập 1

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

         Chương 18: Đến chùa Cakra


      Xe ngựa chạy mãi, tôi kéo rèm nhìn ra bên ngoài, vậy là chúng tôi về hướng bắc, bên đường, ruộng nương trải rộng mênh mông, chắc chắn ra khỏi thành Khâu Từ rất lâu rồi. Lạ quá, sao phải xa như vậy, lẽ nhà trọ đó ở nông thôn?

      - Chúng ta đến chùa Cakra.

      Thấy tôi có vẻ suy tư, Rajiva mỉm cười.

      - Tôi là sư trụ trì ở chùa Cakra. Chùa cách kinh thành bốn mươi dặm, đường sá khá xa xôi.

      Chùa Cakra ư? Là ngôi chùa mà Huyền Trang từng đến giảng kinh? Nơi có thành cổ Subash mà tôi khảo sát nhiều ngày khi ở Kucha? Đúng rồi, Rajiva từng trụ trì ngôi chùa đó, có điều thấy văn bản hay tài liệu nào ghi chép năm tháng cụ thể, ngờ lại vào khoảng thời gian khi cậu ấy còn trẻ như vậy.

      - Chúng ta kịp giờ ăn tối.

      Có lẽ thấy tôi ngơ ngác nhìn ra xung quanh, trông có vẻ khổ sở lắm, Rajiva càng cười tươi hơn.

      Định lên tiếng biện hộ, nhưng chạm phải nụ cười quyến rũ ấy, tôi chẳng còn nhớ mình muốn gì nữa, cứ mê mải ngắm nhìn. Nụ cười năm mười ba tuổi của cậu ta khiến người khác phải bối rối rồi, nụ cười tuổi hai mươi tư càng có sức cuốn hút mãnh liệt. Bất giác, tôi đưa tay lên che mắt, phải chặn ngay sức hấp dẫn khiến tôi cứ phải hồi hộp vô cớ ấy.

      - Tay bị đau, đừng chạm vào.

      Rajiva ơi, cậu có biết ánh mắt và nụ cười ấy của cậu ở thế kỷ XXI người ta gọi là “phát tín hiệu” hả? Tôi bỏ tay xuống, kìm chế bản thân để nhìn vào đôi mắt hút hồn ấy nữa và nhanh chóng nghĩ cách chuyển chủ đề:

      - Pusyseda vẫn khỏe chứ?

      Nhắc đến em trai, Rajiva cười vui vẻ.

      - Cậu ấy là đội trưởng đội cấm vệ quân, đức vua rất trọng dụng.

      Tôi biết mà, từ Pusyseda thích học võ hơn học chữ, lúc nào cũng ham mê diễn kịch đánh đấm. Mỗi lần lên lớp, tôi đều phải giả làm quân lính, giả làm giặc cướp, chơi đùa với chú nhóc lúc lâu, sau đó Pusyseda mới chịu ngồi vào học bài. Nghĩ đến cậu nhóc ấy lại thấy buồn cười. Bây giờ là chàng trai hai mươi mốt tuổi rồi, biết có còn nhớ tôi , khi mà chúng tôi chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng.

      - Cậu ấy kết hôn chưa?

      Vẫn chưa. Pusyseda suốt ngày rong chơi phong lưu, chưa thấy cậu ấy lòng với nào cả. Cha tôi thúc giục cậu ấy bảo nhất định cưới độc nhất vô nhị đời này.

      Ha ha, tiêu chuẩn cao gớm nhỉ! Cũng phải thôi, cậu ta xuất thân quyền quý, lại cao ráo đẹp trai nữa.

      - Tôi muốn gặp cậu ấy. Nhưng biết có làm cậu ấy hoảng sợ .

      Rajiva bật cười, hình như nhớ đến điều gì đó.

      - đâu, cậu ấy vẫn luôn nghĩ là tiên nữ và tin rằng, nhất định quay lại.

      - Cậu giúp tôi sắp xếp được ?

      biết tôi có nhận ra cậu nhóc ấy nữa.

      Rajiva gật đầu, tôi cảm thấy nhõm.

      - Gặp được cậu, sau đó gặp cậu ấy nữa, tôi có thể yên tâm quay về rồi.

      Khâu Từ vốn có trong kế hoạch vượt thời gian lần này. Tôi cố ý đến đây chỉ để được nhìn thấy Rajiva và nhân tiện tìm cách gặp Pusyseda, sau đó khảo sát thành cổ Taqian, rồi đến Trường An. Tôi luôn luôn nhắc nhở bản thân, tôi đến đây để làm việc. Tôi chỉ có thể ở lại nhiều nhất là năm. Mặc dù sau khi sử dụng Lithium, tính năng của đồng hồ vượt thời gian ổn định hơn trước rất nhiều, nhưng tuổi thọ của loại pin này cũng có giới hạn nhất định. Để đảm bảo còn đủ năng lượng khi quay về, tôi phải rời khỏi đây trong vòng năm. Nếu tôi phải lưu lại vĩnh viễn.

      Ánh mắt Rajiva thoáng vẻ ngỡ ngàng:

      - trở về Trung Nguyên ư? Hay… về trời?

      Về trời ư? Tôi sững người.

      - Cậu tin điều đó sao?

      - Nếu , vì sao như lại mình xuất giữa sa mạc? Vì sao chưa từng đến Kabul lại nắm kiến trúc chùa hang đá ở đó? Vì sao biết nguồn gốc chùa Masha ở Khotan? Vì sao kiến thức và hiểu biết của phong phú hơn bất cứ nào? Vì sao đột ngột biến mất để lại dấu vết gì? Vì sao sau mười năm dung mạo của hề thay đổi?

      Hàng loạt câu hỏi “vì sao” khiến tôi bối rối. Cậu ta vốn rất giỏi hùng biện, tôi làm sao chống đỡ nổi. Nếu tiếp tục hỏi nữa, chắc tôi “khai” ra hết.

      Nhìn vẻ mặt tội nghiệp của tôi, Rajiva khẽ cười, đôi mắt long lanh.

      - Thực ra, mười năm trước tôi cảm thấy rất lạ. đột nhiên biến mất, mười năm sau trở lại, dung mạo hề thay đổi. Điều này càng khiến tôi tin rằng, xuất của là do Phật tổ an bài.

      Tôi biết phải sao, ánh mắt ấy khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi gắng giữ bình tĩnh, chuyển đề tài:

      - Cha cậu vẫn khỏe chứ?

      Vẻ mặt Rajiva bỗng trở nên u ám.

      - Sức khỏe của cha giảm sút nhiều, có lẽ vì quá thương nhớ mẹ tôi.

      Tôi nhớ rằng, về sau Jiva rời Khâu Từ để đến Ấn Độ, nhưng các tài liệu ghi chép thời gian cụ thể. Bây giờ, hẳn là bà ra rồi.

      Tôi thinh lặng, Kumarayana, con người nho nhã, đôn hậu ấy, con người “thông tuệ và đức hạnh” ấy chắc hẳn vẫn luôn tha thiết vợ mình? Lẽ ra ông là người kế vị ở Ấn Độ ( quốc gia của ông là tiểu quốc nào, vì khi đó, Ấn Độ phân tách thành rất nhiều quốc gia ), nhưng ông từ bỏ tất cả để xuất gia và tìm đường đến Khâu Từ học đạo. Có sách chép rằng Kumarayana thành thân với Jiva vì bà rất ông, thậm chí ép ông phải cưới bà. Nhưng tôi nghĩ, cao tăng “tâm vững như bàn thạch” như Kumarayana nếu có tình cảm sâu sắc với Jiva, chắc chắn chịu làm quốc sư Khâu Từ, rồi lưu lại nơi này. Ở Ấn Độ, ông có thể trở thành tướng quốc kia mà! Nếu vì người vợ xinh đẹp, nếu vì những đứa con thông minh, chắc hẳn ông can tâm với thân phận kẻ tha hương. Vì vậy, khi Jiva muốn xuất gia ông kiên quyết phản đối, chỉ đến khi bà mực tuyệt thực, ông mới đành ngậm đắng nuốt cay chấp nhận. Giương mắt đứng nhìn người vợ đầu gối tay ấp của mình xuống tóc tu, từ nay gia đình hạnh phúc của ông còn trọn vẹn nữa, chắc hẳn ông rất đau lòng. Bản thân ông là tín đồ Phật giáo, lẽ ra ông phải vui mừng khi có người nguyện dành trọn đời phụng Đức Phật mới phải chứ? Nhưng vì sao khi tín đồ ấy là người ông thương, ông lại chẳng thể nguôi ngoai?

      Tôi vén rèm cửa nhìn ra bên ngoài, xe ngựa chạy rất nhanh, nhưng vì là cỗ xe tốt nên mức độ rung lắc quá nghiêm trọng. Từng thửa ruộng đều tăm tắp trôi qua trước mắt, phía xa xa là dãy Thiên Sơn sừng sững tạc hình lên bầu trời xanh ngút ngát. Quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Rajiva nhìn mình. Lại nhớ chuyện Kumarayana bằng lòng để vợ xuống tóc, nhưng lại đồng ý cho cậu con trai mới bảy tuổi của mình xuất gia. Có lẽ chỉ vì cậu bé tuổi cần có mẹ, mà còn vì Kumarayana muốn Rajiva ở bên Jiva để chăm sóc bà.

      Tôi đắm chìm trong những suy tư miên man dứt, bánh xe vẫn đều đặn quay, mí mắt trùng xuống, nặng trịch. Mấy ngày rong ruổi đường khiến tôi thấm mệt. Chợt thấy vẳng bên tai giọng khẽ khàng, ấm áp:

      - Ngải Tình, nằm xuống chợp mắt .

      kịp suy nghĩ thêm, tôi ngã đầu xuống, trước lúc thiếp chỉ nhớ mang máng là gối vật gì đó rất êm, sau đó ngủ say biết trời đất gì.

      Khi Rajiva đánh thức tôi dậy trời về chiều, trước mặt tôi là quần thể kiến trúc nguy nga, đồ sộ chẳng khác nào thành phố. Rajiva lại đỏ mặt khi tôi mở mắt ra nhìn cậu ta, chắc là điệu bộ của tôi lúc ngủ khó coi lắm, nên cậu ta mới như vậy. Tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng cảm giác ấy nhanh chóng biến mất ngay sau khi tôi xuống xe và nhìn thấy công trình kiến trúc trước mặt.

      Đó là ngôi chùa nổi tiếng nhất trong lịch sử Khâu Từ - chùa Cakra, được xây dựng dưới thời Ngụy Tấn, cũng là ngôi chùa lớn nhất còn lưu lại ở Tây vực. Trong “Đại Đường Tây vực ký” Huyền Trang gọi đó là chùa Chiêu Hộ Li. Khi Huyền Trang Tây Trúc thỉnh kinh và có ghé qua chùa Chiêu Hộ Li, ngôi chùa này khi ấy vào giai đoạn cực thịnh. Khuôn viên của chùa kéo dài đến tận vùng gò đồi và núi cao hai bên bờ phía đông và phía tây sông Tongchang. Ngài Huyền Trang ở lại chùa Cakra giảng kinh trong suốt hơn sáu mươi ngày và ngài để lại cho thế kỷ XXI rất nhiều tư liệu nghiên cứu quý giá về ngôi chùa này. Phía bắc chùa Cakra có thôn làng của người Duy Ngô Nhĩ (Uygur), nghe đó chính là nơi từng được gọi là “Nước con ” (Nữ nhi quốc) trong tiểu thuyết “Tây du ký” nổi tiếng của Ngô Thừa Ân. Nhưng có phải vậy vẫn chưa ai giải đáp được. số di chỉ thiền động với rất nhiều văn tự Khâu Từ và những bức bích họa đậm màu sắc Phật giáo nằm ngọn núi phía bắc chùa Cakra vẫn được bảo tồn đến ngày nay. Nghe , về sau, những pho tượng Phật trong chùa bị tín đồ Hồi giáo phá hủy, vì họ căm ghét việc sùng bái những thần linh có hình hài.

      Chùa Cakra lấy sông Tongchang làm đường ranh giới tự nhiên phân tách ngôi chùa thành hai khu vực phía đông và phía tây. Người dân Kucha ngày nay gọi đó là thành cổ Subash, là di chỉ quan trọng nhất ở Khâu Từ, bên cạnh Thiên Phật động Kizil. Ngày nay, muốn đến chùa Chiêu Hộ Li ở Kucha bạn phải là đến “thành cổ Subash”, vì hầu hết những người nghiên cứu sâu về lịch sử ở Kucha đều biết chùa Chiêu Hộ Li là ngôi chùa nào. Tuy nhiên, thực tế, thành cổ Subash chỉ là thành phố nằm ở đầu phía nam của khu chùa phía tây mà thôi. Là thành phố trực thuộc trong cả khối kiến trúc đồ sộ của ngôi chùa Cakra vĩ đại này. Subash là nơi nghỉ trọ của khách thập phương khi đến chùa cúng bái. Trong nội thành Subash, kiến trúc đền tháp chiếm đa số, đến đâu cũng thấy những tòa tháp, tháp lớn tháp bé, khiến người ta mỏi mắt ngắm nhìn.

      Chúng tôi có mặt ở nội thành Subash. Rajiva đưa tôi đến ngôi nhà ở nơi khá hẻo lánh trong thành phố. Người mở cửa là ông lão, tôi thấy ông rất quen, ông lão cũng nhìn tôi chăm chú. Tôi nhớ ra rồi, chính là ông cụ quản gia của phủ quốc sư, tên là Mavasu, là người theo hầu Kumarayana từ Ấn Độ sang Khâu Từ. Mất lúc lâu ông lão mới nhận ra tôi và đúng như tôi nghĩ, ông ngạc nhiên đến mức tay chỉ trỏ vào tôi hồi lâu mà được câu nào. Rajiva giải thích với ông cụ bằng tiếng Phạn. Ông cụ bình tĩnh trở lại, nhưng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thắc mắc khi đưa tôi vào nhà.

      Khuôn viên ngôi nhà rộng lắm, gồm ba gian, hai chái nhà ở hai bên. Và giống như mọi ngôi nhà khác ở Khâu Từ, trước sân có giàn nho, hoa nở rực rỡ. Lúc này là mùa nho chín rộ, nên khắp gian lan tỏa hương thơm ngọt ngào dìu dịu. Đồ đạc trong phòng rất giản dị: giường, tủ, bàn, ghế và có bất cứ thứ đồ dư thừa nào khác. Cảm giác như nơi này vướng chút bụi trần, thanh bần và thoáng đãng. Tài sản quý giá duy nhất là hai giá sách áp vào lưng tường. Chỉ thoáng nhìn thấy đầy đủ: sách tiếng Hán, tiếng Phạn, tiếng Tochari và vài cuốn trong số đó nhìn rất quen.

      - Đây là nơi tôi đọc sách.

      Thấy tôi chú ý đến tủ sách, Rajiva giải thích:

      - Pusyseda ham đọc sách, nên cha tặng tôi toàn bộ số sách trong nhà.

      - Cậu sống ở đây ư?

      - Tôi ở trong chùa chứ! Nơi này chỉ là chốn thanh tĩnh để đọc sách thôi.

      Khuôn mặt Rajiva toát lên vẻ thư thái hiếm thấy.

      - cứ yên tâm ở lại đây, vợ chồng Mavasu chăm sóc .

      Rajiva bước ra ngoài, tôi tranh thủ sắp xếp đồ đạc. lát sau cậu ta quay lại, tay cầm chai rượu thuốc và miếng vải bông sạch. Tôi muốn tự mình băng bó, nhưng khi rượu thuốc ngấm vào vết thương, tôi cắn răng chịu đau. Rajiva ngồi bên cạnh quan sát, trách tôi tay chân vụng về, rồi cầm lấy tay tôi, nhàng thấm rượu vào miếng bông tẩy trùng vết thương cho tôi. Thực ra vết rách trong tay nghiêm trọng, nhưng khuỷu tay bị toác miếng khá rộng và sâu. Tôi xắn tay áo lên, chìa vết thương sưng tấy, nhức buốt ra trước mặt cậu ta.

      Rajiva sững người khi nhìn thấy cánh tay trần của tôi. Quên cả việc băng bó, để mặc ánh mắt khó hiểu miệt mài du ngoạn cánh tay tôi. Tôi chợt nhận ra, trước mặt tôi lúc này còn là cậu thiếu niên với thân hình mảnh khảnh và khuôn mặt hồn nhiên của tuổi mười ba nữa. Rajiva của mười năm sau thanh niên trưởng thành, bằng tuổi tôi. Và vào thời cổ đại, chìa cánh tay trần của mình ra trước chàng trai là hành vi ý nhị chút nào. Tôi buông tay áo xuống, rằng tôi tự mình băng bó.

      Rajiva yên lặng bỗng kéo tay tôi về phía mình, vén tay áo lên cao, thấm bông và lau vết thương cho tôi. Động tác của cậu ấy nhàng chút nào, nhưng vẻ mặt nghiêm trang của Rajiva khiến tôi quên cả đau, chỉ biết len lén quan sát cậu ấy.

      Dưới ngọn đèn dầu của buổi chiều muộn, gương mặt dài bên ánh sáng, hàng mi dài khẽ đua lên cao, sống mũi cao vời vợi, đôi môi khép chặt. Vẻ đẹp cuốn hút ấy khiến người đối diện thở nổi. Chúng tôi ngồi cách nhau đủ gần để tôi có thể cảm nhận được mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương người cậu ấy, thứ hương thơm khiến tôi mơ màng và chỉ muốn lại gần thêm nữa. Tôi chợt nhận ra rằng, tôi phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nếu tôi mắc sai lầm. Mà sai lầm này, chắc chắn sếp tha cho tôi và bản thân tôi cũng thể tha thứ cho mình.

      Vợ chồng Mavasu mang đồ ăn vào phòng, mùi thơm của thức ăn làm vơi bớt hương thơm say người kia. Mối nghi hoặc của Mavasu vẫn rất lớn, điều đó thể qua ánh mắt nhìn tôi chăm chú. Tôi biết Rajiva gì để ông cụ chấp nhận trở lại của tôi, nên chỉ biết gượng cười chống chế. Sau đó, hỏi Rajiva, mới biết, cậu ta với Mavasu, tôi là cháu của Ngải Tình. Tôi cười lăn lóc. như thế là… Nhưng khoan , hòa thượng được phép dối kia mà? Tôi định trêu chọc Rajiva, nhưng kịp dừng lại. Vì chính tôi cũng nghĩ ra cách giải thích nào hợp lý hơn cho trở lại của mình.

      - Rajiva, lần trước có chiếc ba lô tôi quên mang theo, cậu còn giữ nó ?

      Tôi bỏ lại bao nhiêu đồ dùng của thời đại, trong đó có tập giấy nháp và cuốn sổ tay quan trọng. Sếp từng nhắc nhở rất nhiều lần là được lưu lại bất cứ thứ rác thải đại nào, nếu để người đời sau phát ra, … Thử tượng tượng xem, nhà khảo cổ với mái tóc bạc phơ lọ mọ nghiên cứu gói đồ cũ nát, rồi ông đột nhiên phát ra ở góc của gói đồ mấy chữ cái này: “Northface”… Rùng cả mình!

      Rajiva gật đầu, nhưng nét mặt được tự nhiên. Lạ quá, lẽ nào cậu ta thích cái ba lô của tôi? Đừng đùa, Northface là nhãn hiệu ba lô du lịch hàng đầu thế giới đấy! Khoản tiền mua chiếc ba lô này là do nhóm nghiên cứu chi trả, chứ sinh viên nghèo như tôi làm sao mà mua nổi. Nhưng mà, kể cả Rajiva thích đến thế nào tôi cũng thể tặng cậu ấy được.

      - Mấy hôm nữa mang đến cho .

      Tôi gật đầu, uống thêm ngụm canh thịt dê.

      - Rajiva, tôi muốn tham quan chùa Cakra, được chứ?

      Rajiva khẽ gật đầu.

      - Ngày mai đưa xem.

      Buổi tối, tôi ngủ chiếc giường gỗ thấp, thời cổ đại làm gì có chăn ga gối đệm, nhưng tôi quen nằm chiếc giường cứng như thế này rồi. Rajiva ở đây, có lẽ vì muốn tôi được thoải mái. Tôi tin rằng cậu ta sống ở đây, bởi vì mùi gỗ đàn hương dìu dịu vẫn còn thoảng tấm chăn này, chiếc gối này và mảnh chiếu này. Hương thơm thanh khiết ấy ru tôi vào giấc ngủ miên man.

                  Chương 19: Tham quan chùa Cakra


      Tinh mơ hôm sau, tiếng kẹt cửa làm tôi thức giấc. Tôi gắng gượng hé đôi mắt vẫn đói ngủ của mình và lơ mơ thấy bóng dáng cao gầy đứng giữa căn phòng ngập ánh sáng.

      - Rajiva, sao đến sớm vậy…

      - Tôi… tôi… xin lỗi.

      Ngược sáng, thấy biểu cảm gương mặt cậu ấy, chỉ nghe trong giọng có chút ngượng ngùng. Rajiva vội vã lui ra ngoài, lại tiếng kẹt cửa trả lại bóng tối cho căn phòng.

      Tôi nhìn đồng hồ, mới bảy rưỡi sáng. Chết , tôi quên mất, ngày nào cậu ấy cũng thức dậy lúc hơn bốn giờ, từ năm giờ đến sáu giờ là thời gian tụng kinh buổi sáng, sau đó mới đến bữa sáng. Giờ này, với cậu ấy, còn sớm sủa gì nữa. Nhưng tôi vẫn còn muốn ngủ, lại ngả xuống vớt vát thêm vài phút, sau đó mới uể oải xuống giường.

      Khoảng chín giờ tôi cùng Rajiva ra khỏi nhà. Thành phố Subash bé khi ấy tấp nập người qua lại, nhà sư, cư sĩ, thương nhân đủ cả, dòng người đông đúc phố xá chật chội. Tôi muốn Rajiva khó xử, nên ý tứ giữ khoảng cách với cậu ấy. Rajiva trước, tôi theo sau, chốc chốc cậu ta lại dừng bước, ngoảnh đầu quan sát, rồi mới tiếp.

      Có vẻ như Rajiva rất được lòng người dân nơi đây. đường , hầu hết mọi người đều lại gần chắp tay hành lễ với cậu ấy. đôi vợ chồng ẵm theo đứa trẻ sơ sinh đến xin Rajiva cầu phúc. Cậu ấy xoa đầu em bé, lầm rầm đọc đoạn kinh văn. Vợ chồng nọ vui mừng khôn tả, chắp tay tạ ơn, vẻ mặt hân hoan, mãn nguyện khi ra về. Rajiva quay lại nhìn tôi cười rạng rỡ, rồi tiếp tục bước , chốc chốc lại dừng bước đáp lễ với người đường.

      Ra khỏi thành Subash là đến cổng chính của khu chùa Cakra phía tây. Ấn tượng ban đầu của tôi về ngôi chùa này là những vọng lâu được trang trí rất bắt mắt phía bức tường bao quanh. “Khâu Từ có hơn mười nghìn nhà sư, chiếm phần mười dân số trong thành”. Chỉ riêng ở chùa Cakra có đến năm nghìn sư. hưng thịnh của Phật giáo ở Khâu Từ được thể sống động qua hình ảnh ngôi chùa Cakra nguy nga, đồ sộ. Tuy vậy, thời điểm này vẫn chưa phải là giai đoạn cực thịnh của Chiêu Hộ Li tự. Quy mô ngôi chùa vẫn hơn rất nhiều so với thời nhà Đường, khi Huyền Trang lấy kinh qua đây. Khi mang thai Rajiva, “năng lực giác ngộ của Jiva tăng lên gấp bội. Bà nghe danh tiếng ngôi chùa Cakra lâu, lại nghe trong chùa có nhiều vị cao tăng đắc đạo, bèn cùng với những tín nữ quý tộc khác và các ni ngày đêm nhang khói lễ bái, ăn chay niệm Phật”. Hẳn là, ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Rajiva “thấm nhuần” giáo lý Phật pháp. Trí tuệ siêu phàm của cậu ấy phải chăng có được từ bối cảnh đặc biệt này?

      Ý nghĩ đó khiến tôi bật cười.

      Chúng tôi bước đến bức tường thành thấp hình vuông bên ngoài cổng chính. Bên trong có điện thờ đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lập tức dập tắt những ý nghĩ lan man, lấy lại tinh thần chuyên nghiệp thường ngày, chuẩn bị lôi cuốn tập ra và bắt tay vào công việc.

      - Ngải Tình, cần vội. Để tôi đưa tham quan hết vòng, rồi quay lại vẽ cũng chưa muộn.

      - ?

      Tôi mừng quýnh!

      - Đúng rồi! Cậu là chủ trì, cậu có đặc quyền mà! Vậy, ngày nào tôi cũng đến đây vẽ nhé?

      - Được chứ!

      Rajiva mỉm cười. Những chùm nắng đầu hạ rực rỡ chiếu rọi làm bừng sáng cả con người cậu ấy, toát lên thứ hào quang khiến tôi dám nhìn thẳng.

      Tôi ép mình ngoảnh hướng khác.

      - Rajiva, khối ngọc khổng lồ dưới chân tượng Phật nằm ở đâu vậy? Đưa tôi đến đó xem !

      - biết về khối ngọc này?

      Rajiva có vẻ ngạc nhiên, ánh mắt nhìn tôi như thăm dò.

      - Đây là báu vật của chùa Cakra kia mà!

      Làm sao tôi biết được ư? Đơn giản thôi! Câu trả lời là: Huyền Trang được tận mắt chứng kiến và ghi chép lại trong “Đại Đường Tây vực ký”. Cuối thế kỷ XIX, nhà sưu tầm đồ cổ người Nga đào được khối ngọc này, ông ta còn ngu xuẩn hết mức khi đập vỡ nó làm đôi với ý đồ vận chuyển về nước. Nhưng người dân địa phương kịp thời ngăn chặn và bảo vệ được khối ngọc quý. Sau giải phóng, khối ngọc được đưa về trưng bày tại Viện bảo tàng tự nhiên Bắc Kinh. Nửa khối to nặng khoảng hơn nghìn hai trăm kilôgam, nửa khối hơn nặng khoảng hơn bảy trăm kilôgam. Còn bây giờ, cần thiết phải đến Bắc Kinh, tôi vẫn có thể chiêm ngưỡng khối ngọc ấy và là khối ngọc hoàn chỉnh, bạn xem, tôi có nên sung sướng hay ? Bởi vậy, khi Rajiva đưa tôi vào điện thờ nhưng được trang trí nguy nga, tráng lệ phía sau gian thờ chính và tận mắt nhìn thấy khối ngọc khổng lồ trong suốt, giống hình con ngao biển với hai màu trắng và vàng đan xen ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ vì mang theo máy ảnh. Khối ngọc rộng khoảng hơn ba mươi centimét, dài hơn nửa mét, cao hơn mười centimét. Dấu chân Phật tổ được in thành hình hai vết lõm rất tự nhiên giữa khối ngọc. Những hình ảnh phác họa dấu ấn như thế này có rất nhiều. Bạn có thể bắt gặp dấu chân của đại sư Liên Hoa Sinh (Padmasambhava) ở bất cứ đâu khắp vùng Tây Tạng, chỉ khác đó là hình phác họa những cây cối và sỏi đá tự nhiên, để Phật tử có thể cảm nhận được cách chân thực pháp lực vô biên của Phật.

      Nhưng tôi điều đó với Rajiva, sợ cậu ấy vui. Tôi bắt chước Rajiva, chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy hành lang rất dài chạy hút về phía sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm u kỳ lạ và cảm giác như nó kéo dài đến vô tận.

      Thấy tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Rajiva đến bên, nhàng lên tiếng:

      - Đó là nơi thọ đại giới. là người phàm, được phép vào đó.

      Thọ đại giới tức là thọ giới Cụ Túc (Upasambada)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi thọ giới Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành Tỷ khâu (Bhikkhu). Rajiva nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và giác ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, ai bì kịp. Nhưng, cho dù đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Rajiva thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi.

      Tôi từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Tùy. Nhưng ở đó có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới.

      Bước chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di khỏi dâng lên những suy cảm. Vậy là ta quyết, cả đời này gắn bó với kinh kệ, khói hương. Cả đời này từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, gánh vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó theo các Sa di chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới đàn (nơi tăng sĩ thọ giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa, những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục…

      Tôi quay đầu nhìn Rajiva yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần ai, thế tục còn duyên nợ gì với cậu ư, Rajiva?

      Chúng tôi bước vào gian thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Rajiva liền cung kính hành lễ, Rajiva gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng tiếng Phạn. Gian thờ này lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì tay ngài có cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng:

      “Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề

      Địa ngục vị , thệ bất thành Phật”.

      Nghĩa là:

      Cứu độ chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ

      Địa ngục còn chưa trống , thề thành Phật.

      Điều đó có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội lỗi dưới Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền và Quan , ngài được xem là trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài.

      Tôi quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. chú tiểu từ bên ngoài bước vào, mang theo ngọn đèn dầu, chuyển cho Rajiva rồi lẳng lặng lui ra. Rajiva nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng những khuôn mặt người, là đủ mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ!

      Những bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn.

      Chả trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.

      Tôi có biết về tám địa ngục lớn, nhưng nhớ tên gọi cụ thể, nên nài nỉ Rajiva diễn giải.

      - Đây là địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết sống lại). Chúng sinh mắc tội sa xuống địa ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ nguôi ngoai nỗi thương nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ tắt thở. Nhưng luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục chịu trừng phạt như lúc trước.

      Giọng của Rajiva đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:

      - Những người mắc tội sát sinh, chà đạp lẽ phải, phỉ báng người ngay đều sa xuống địa ngục này.

      Vừa ngắm nhìn các bức vẽ tôi vừa gật đầu, bước chân ngừng di chuyển theo ánh sáng ngọn đèn dầu tay Rajiva. Điện thờ trống trải chỉ còn lại hai chúng tôi. Giọng ấm áp của Rajiva vang giữa gian trầm mặc, khoảnh khắc ấy, cảm xúc trong tôi bỗng trở nên thê lương.

      - Đây là địa ngục hắc thằng (nơi chúng sinh bị trói bằng dây sắt), chúng sinh phạm tội bị trói lại bằng dây sắt nung nóng, sau đó tứ chi bị chặt hoặc bị cưa đứt. Nỗi đau đớn, khổ sở lớn gấp mười lần địa ngục đẳng hoạt. Những người phạm tội sát sinh, trộm cắp đều sa xuống địa ngục này.

      Ánh đèn tiếp tục được đẩy về phía trước.

      - Đây là địa ngục chúng hợp (nơi chúng sinh bị núi đá ép chặt), người phạm tội bị đẩy vào giữa hai núi đá và bị ép chặt cho đến khi xương cốt nát vụn. Phàm những người mắc tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm đều rơi xuống địa ngục này.

      - Đây là địa ngục khiếu hoán (nơi chúng sinh kêu la thảm thiết), người mắc tội bị nướng vạc dầu hoặc bị đẩy vào lò lửa, hoặc bị dùng kìm nóng banh miệng, đổ đồng nóng chảy vào bụng khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thiêu hủy. Phàm những kẻ mắc tội giết người, trộm cắp, tà dâm, dối, uống rượu đều sa xuống địa ngục này. Nếu đệ tử Phật môn vi phạm năm điều giới luật, dù là người xuất gia hay người tu tại gia đều bị sa xuống địa ngục đại khiếu hoán (địa ngục mà trừng phạt khiến chúng sinh kêu la thống thiết gấp rất nhiều lần địa ngục khiếu hoán).

      Tôi bỗng thấy rùng mình, trừng phạt đối với người nhà Phật còn khủng khiếp hơn cả người thường ư!

      - Đây là địa ngục tiêu nhiệt (nơi chúng sinh bị thiêu đốt), kẻ phạm tội nằm sắt nung, toàn thân bị đánh đến bầm dập vỡ nát. Phàm những kẻ vi phạm năm điều giới luật đều bị đẩy xuống địa ngục này.

      Ánh sáng ngọn đèn dầu bỗng nhiên dừng lại, bàn tay người giữ đèn run run. Bóng dáng cao gầy hắt lên tường, khiến cho những hình ảnh thảm thương cho bức vẽ trở nên mờ ảo, tan loãng trong những dao động lập lòa của ánh sáng.

      - Rajiva, cậu sao thế?

      Tôi ngước mắt lên nhìn cậu ấy, chúng tôi chỉ cách nhau bước chân, ánh đèn leo lét rọi vào khuôn mặt ưu tư, thoáng u buồn , nhưng tan rất nhanh. Rajiva lấy lại vẻ điềm tĩnh thường thấy, tiếp tục giảng giải.

      - Nếu tăng sĩ phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà tâm bị sa xuống địa ngục đại tiêu nhiệt, mức độ trừng phạt tàn khốc hơn rất nhiều lần so với địa ngục tiêu viêm.

      Giọng của Rajiva đượm vẻ chua xót, phải chăng vì lòng trắc đối với những hình phạt nặng nề dành cho giới tăng lữ. Phật môn quản giáo đệ tử của mình rất nghiêm khắc, trong số tám địa ngục lớn, có đến hai địa ngục dành để trừng phạt những tăng sĩ phạm tội.

      Rajiva lấy lại bình tĩnh, bàn tay mang theo chiếc đèn dầu khi nãy bất giác buông xuống, giờ lại được nâng cao.

      - Đây là địa ngục vô gián, hay còn gọi là địa ngục a tỳ, người phạm tội bị hành hình liên tục, chịu đau đớn khổ sở lúc nào ngơi nghỉ. Phàm những kẻ phạm phải năm tội đại nghịch (giết mẹ, giết cha, giết A- la- hán, gây chia rẽ tăng sĩ, phá hoại hình ảnh của Phật tổ), đều bị đày xuống địa ngục này.

      Đó là bức vẽ cuối cùng, chúng tôi cũng vừa hết vòng tròn.

      Rajiva đặt đèn dầu lên hương án phía trước pho tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, cung kính quỳ xuống vái ba vái, rồi cùng tôi bước ra khỏi điện thờ.

      - Mỗi địa ngục trong số tám địa ngục lớn lại được chia thành mười sáu địa ngục . Tội ác cũng chia thành ba cấp. Những kẻ phạm tội nặng nhất bị đẩy vào địa ngục lớn, những kẻ còn lại bị đẩy vào địa ngục .

      Ánh nắng rực rỡ bên ngoài xua tan những ảm đạm trong lòng, tôi giống như chiến binh Dante vừa dạo hết vòng địa ngục, cảm xúc đầy vơi. Kết luận rút ra là: nhân gian tuyệt vời!

      Gần đến giờ trưa, Rajiva dẫn tôi đến nhà ăn dành cho các cư sĩ tu tại gia đến chùa Cakra cúng bái, cậu ấy ngồi ăn cùng tôi. Rajiva ăn uống từ tốn, quả hổ danh là con nhà quý tộc. Nhưng điều khiến tôi thiếu tự nhiên là những ánh mắt đổ dồn về phía chúng tôi, tuy họ gì, nhưng tôi biết họ nghĩ gì. Tôi bỗng cảm thấy thoải mái. người như Rajiva nếu sống ở thời đại, cũng chưa hẳn chọn lựa lý tưởng. Mặc dù nếu có cậu ấy ở bên cạnh, đến đâu, tôi cũng có thể hãnh diện với bạn bè và những người xung quanh, nhưng cậu ấy quá tài trí, thông minh, lại đẹp trai hút hồn như vậy, làm lu mờ hình ảnh của tôi. những tôi phải thấp thỏm lo âu từng giây phút, canh chừng mọi lúc mọi nơi, đề phòng những trẻ đẹp khác, mà tôi còn phải đau đầu tìm cách nâng cao tầm vóc trí tuệ của bản thân để có thể theo kịp cậu ấy. Cuộc sống mệt mỏi như thế, lấy đâu ra vui vẻ, thoải mái chứ! Cho nên, kết luận của tôi là: tôi – – thèm!

      - thèm gì vậy?

      Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp hai vực nước sâu hun hút xoáy vào mình, xấu hổ biết giấu mặt vào đâu, bối rối biết phải thanh minh thế nào.

      - Các thầy!

      May quá! Có người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là… là người Hán, hai hòa thượng người Hán!

      Họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát đồng hương.

      Rajiva giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin nghe giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn mắt khi nghe thấy những cái tên đó.

      Tăng Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này! Họ đến Khâu Từ học đạo, sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền Tần khi ấy là Phù Kiên rằng, Kumarajiva là vị pháp sư tài trí hơn người, là người truyền bá sâu rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây vực. nhà sư nổi tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Kumarajiva lâu, cũng thuyết phục Phù Kiên mời Rajiva đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết định tấn công Khâu Từ, nhà vua với Đô đốc Lữ Quang rằng: “Trẫm nghe Tây Quốc có Kumarajiva, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận dương, là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Kumarajiva về đây”.

      Câu chuyện này được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp nơi. Họ cho rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có được Kumarajiva. Giống như việc các tin rằng cuộc chiến thành Troy là vì nàng Helen xinh đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ Tô Châu – Trần Viên Viên. cuộc chiến tranh quy mô lớn nổ ra và cướp tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì muốn đoạt lấy người thôi ư, những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử, tất nhiên, tôi tin Phù Kiên phát động chiến tranh chỉ vì muốn có được vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực hiểu Kumarajiva mang lại lợi ích gì cho ông ta hay ? Nhà vua muốn có Kumarajiva chỉ vì cậu ta thông tỏ dương ngũ hành? người tài trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng chỉ vì muốn ông ta coi bói cho mình?

      - Ngải Tình!

      Tôi lại để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại thấy hai vị hòa thượng hành lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên mà tôi gặp sau hai lần vượt thời gian đến đây.

      Rajiva giới thiệu với họ tôi là cháu của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ của cậu và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ, bởi vì những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những kiến thức trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử nguy.

      Sau vài lời xã giao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng Rajiva. Họ trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe hiểu, nên cũng quay ngắm nghía những bức vẽ tường.

      - Đoạn kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của chúng sinh trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy?

      Rajiva giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được nụ cười đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc nhiên, nghiêng tai lắng nghe.

      - Đức Phật , mọi tâm niệm đều thực tồn tại, đó chỉ là những ham muốn nhất thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta đặt cho nó cái hư danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn trong quá khứ là cái trôi qua, để lại vết dấu, ta muốn mà có được. Những ham muốn tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm bắt. Những ham muốn của tương lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt.

      Trình độ tiếng Hán của Rajiva đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại thêm giọng trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa, khiến mỗi câu mỗi chữ như làn gió vương vào trái tim tôi.

      - Vậy nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn có Phật pháp để thuyết giảng, thuyết pháp chỉ là danh xưng. những tồn tại Phật pháp để có thể thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng tồn tại.

      Dáng người cao lớn của Rajiva tọa lạc giữa Phật điện, thoáng nét cười thỏa nguyện vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng thấp chỉ đến vai mình:

      - Những luận giải của Rajiva, biết hai vị nắm hay chưa?

      Tăng Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm nhẩm lại lời Rajiva vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát lên vẻ say mê trong lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Rajiva. tự tin tỏa khắp con người cậu, sức hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi dám nhìn thẳng. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng ở Rajiva tụ hội đầy đủ phong thái của bậc danh sư.

      Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có quần thể hang đá, gồm rất nhiều căn phòng tọa thiền của tăng sĩ. là phòng tọa thiền nhưng thực chất chỉ là hốc đá , đủ chỗ cho người ngồi lọt vào trong. Rajiva chỉ cho tôi thấy vách tường phía sau có dấu vết in đậm hình hài con người. Cậu rằng, rất nhiều vị cao tăng theo trường phái tu khổ hạnh từng ngồi thiền ở đây, lâu dần, hình hài của các vị in tạc vào vách đá. Phật giáo Tiểu Thừa coi trọng việc tu hành. Công việc hàng ngày của tăng sĩ chủ yếu là ngồi thiền trong căn phòng trống , tĩnh tâm lĩnh hội Phật pháp. Phương pháp tu hành này xuất phát từ phép thiền Yoga của Ấn Độ. Trước khi giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng trải qua sáu năm tu hành khổ hạnh. Ngài ngồi thiền hết ngày này qua tháng khác, ăn uống rất ít, thân xác héo hon. Sau khi đắc đạo, ngài ăn uống bình thường trở lại và khoác lên mình chiếc áo cà sa chắp vá rách rưới nữa. Tuy nhiên, ngài vẫn duy trì thói quen tĩnh tâm tọa thiền. Điều này trở thành trong những đặc trưng nổi bật của Phật giáo Tiểu Thừa. Và cũng bởi vậy, trong cấu trúc của các ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa, ít hay nhiều đều có những phòng đá tọa thiền dành cho các tăng sĩ.

      Có điều, những căn phòng đó ra trống trải bóng người trước mắt tôi. Tôi hỏi Rajiva, cậu mỉm cười.

      - Từ khi tôi tiếp nhận vai trò trụ trì chùa này, ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa, cầu các nhà sư năng ra ngoài giảng đạo, thâm nhập vào đời sống của chúng sinh, việc tĩnh tâm tọa thiền có thể thực vào lúc thuận tiện.

      Mười năm trước, khi Rajiva vừa tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa vấp phải rất nhiều trở ngại và chịu nhiều lời điều tiếng. Người ta phê phán cậu lén lút học đòi những giáo lý ngoại đạo sai trái. Trong vòng mười năm, bằng thông tuệ, bằng tài năng thuyết pháp khiến người nghe tâm phục khẩu phục và tận dụng mối quan hệ với hoàng thất, Rajiva dốc toàn tâm toàn sức chuyển hướng tín ngưỡng của toàn bộ tiểu quốc Khâu Từ sang Phật giáo Đại Thừa. Truyện kể về Rajiva chép rằng: “Khi ấy số lượng tăng sĩ Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa lên đến hơn mười ngàn người. Điều này đáng kinh ngạc. Từ đó, ai nấy đều tỏ ra kính trọng và nể phục Kumarajiva”.

      - Lại ngơ ngẩn rồi!

      Tôi kéo lại những suy nghĩ miên man vân du tận đâu đâu, đưa mắt lên nhìn khuôn mặt điển trai của Rajiva.

      - Rajiva, cậu còn là cậu thiếu niên năm nào lúc còn hoang mang, trăn trở với khát vọng thay đổi tông phái.

      - Đúng vậy.

      Ánh mắt cậu ấy như phiêu du về với quá khứ, tìm kiếm những những ký ức xa xưa, khóe môi hé cười.

      - Ngải Tình, nếu có những lời khích lệ của , Rajiva thể có quyết tâm và nghị lực mạnh mẽ đến như vậy. Mười năm qua, mỗi khi phải đương đầu với khó khăn, Rajiva lại nhớ đến những lời . Phật giáo Đại Thừa xem trọng việc cứu rỗi chúng sinh, góp phần sửa đổi những khiếm khuyết của Phật giáo Tiểu Thừa. Phải như vậy, Phật pháp mới được truyền bá rộng rãi, mới cứu độ được nhiều chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Tôi dành ít công sức và tâm sức cho lý tưởng đó.

      Rajiva đưa mắt dõi nhìn về hướng xa xăm, giọng trở nên thanh thoát.

      - Phật tổ phù hộ, đến nay Rajiva thuyết phục được triều đình và các bậc tôn sư, Phật giáo Tiểu Thừa bắt rễ suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ, cuối cùng có những cải biến nhất định.

      Đến ngọn đồi này, có thể quan sát toàn bộ quang cảnh chùa Cakra. Sóng nước dòng sông Tongchang lấp lánh ánh bạc. Bóng chiều ngả về tây, phủ lên dáng hình cao lớn ấy những vệt nắng cuối ngày, gió thổi mạnh làm tung bay vạt áo cà sa. Con người ấy, thần thái ấy tạc vào gian của buổi hoàng hôn sườn đồi hình ảnh chú chim đại bàng khát khao tung cánh bay lên bầu trời bao la. Dưới chân chúng tôi là quần thể đồ sộ, nguy nga những đền đài miếu mạo, đó là vương quốc của Rajiva và cậu ấy là người cha tinh thần của hàng vạn chúng sinh trong vương quốc ấy. Đột nhiên tôi nhận ra rằng, mười năm trước tôi vẫn có thể đàm đạo với cậu ấy về Phật pháp, nhưng giờ đây, tư tưởng của cậu ấy, nhất là những kiến thức về Phật học, vượt lên cảnh giới cao vời vợi mà tôi sao vươn tới được. Tôi chỉ là người bình thường, nhưng trí thức mà tôi có, chẳng qua là tích cóp được từ 1650 năm thời gian. Nếu chúng tôi sinh ra cùng thời đại, tôi cũng như những người bình thường khác, chỉ có thể lặng lẽ ngắm nhìn cậu ấy đỉnh cao vinh quang và đừng mơ có thể lại gần.

      - Rajiva.

      Tôi hít hơi sâu, cùng hướng mắt về khung cảnh nguy nga dưới ngọn đồi.

      - Khâu Từ chỉ có mấy mươi vạn chúng sinh. Còn ở Trung Nguyên, lúc này chiến tranh xảy ra liên miên, hàng triệu người vẫn quằn quại trong bể khổ vô biên, hơn bao giờ hết, họ rất cần giải thoát về tinh thần để có thể vượt qua kiếp nạn này.

      - Ngải Tình, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp luôn là tâm nguyện bấy lâu nay của Rajiva.

      Rajiva quay lại nhìn tôi, nụ cười ấm áp tựa gió xuân.

      - luôn muốn Rajiva đến Trung Nguyên, Rajiva luôn ghi nhớ điều đó.

      Đón lấy nụ cười dễ làm say lòng người ấy, trái tim khó bảo của tôi lại bắt đầu lạc nhịp.

      Đến giờ tụng kinh buổi tối, tôi ngỏ ý muốn về mình. Rajiva bây giờ là “CEO” của ngôi chùa lớn nhất Tây vực, cậu ấy thể tùy tiện như hồi , thích trốn là trốn. Cậu ấy phải biết cân nhắc. Thế nên, Rajiva gật đầu, chỉ cho tôi đường về và dặn rằng hết giờ tụng kinh cậu ấy đến. Tôi vốn định mở lời can ngăn cậu ấy đừng đến, vì sợ có điều tiếng hay. Nhưng ý tứ ra đến đầu lưỡi lại lặng lẽ rút vào. Tôi hiểu tính cách của cậu ấy, Rajiva bao giờ để ý đến những lời đàm tiếu. Vả lại, hãy thành , lẽ nào tôi mong chờ gì ư?

      Kết quả là, khi Rajiva xuất trước cổng nhà vào lúc hơn sáu giờ tối tôi trong tư thế ngóng đợi, đôi mắt dán vào cánh cổng. Giây phút cánh cổng từ từ mở ra và bóng dáng cao gầy hắt lên hàng hiên từ ánh sáng ngọn đèn dầu, tôi bỗng thấy tiếng trái tim mình đập rộn ràng, tưởng như vang động khắp căn nhà.

      Rajiva tiếp tục chăm sóc vết thương cho tôi. Lại là khoảng cách quá gần ấy, lại là mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương ấy. Tôi… say mất…

                  Chương 20: Tiếp tục công việc gia sư


      Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ăn chốn ở, tôi bắt đầu công việc khảo sát, đo đạc, vẽ tranh ở chùa Cakra mỗi ngày. Rajiva căn dặn các sư sãi trong chùa, từ người giữ công, người trông coi Phật điện, đến người quản lý tàng kinh các để tôi được tự do tiến hành công việc của mình. Khách thập phương đến chùa Cakra, ngôi chùa lớn nhất Tây vực thời đó bắt gặp cảnh này: người Hán trong trang phục Khâu Từ tay cầm cuốn tập, dùng thứ bút kì lạ tô tô vẽ vẽ cuốn tập đó. Chốc chốc lại lôi từ trong túi ra chiếc thước cuộn hình thù kì dị đo chỗ này, ướm chỗ kia. Và vị sư trụ trì chùa, đại pháp sư Kumarajiva nổi danh khắp Tây vực cầu tất cả hòa thượng sư tăng trong chùa tạo mọi điều kiện và gây trở ngại cho công việc của đó.

      Khi tôi đo đạc, khi tôi vẽ tranh, tôi thường xuyên nhìn thấy Rajiva. Đây là lần đầu tiên tôi được quan sát công việc thường ngày của cậu ấy ở trong chùa. Lúc trò chuyện, đàm đạo với các đệ tử về kinh Phật, lúc bận rộn tiếp đón các tăng sĩ, hòa thượng đến xin học đạo từ các quốc gia lân cận, thậm chí từ các khu vực thuộc Trung Nguyên xa xôi. Rajiva cũng thường xuyên ra ngoài, thâm nhập vào đời sống của quần chúng để thuyết giảng và truyền bá những giáo lý kinh văn Đại Thừa. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu khi tôi còn say trong giấc ngủ, nhưng bù lại tôi được quan sát trọn vẹn giờ tụng kinh buổi chiều của cậu ấy từ bốn giờ đến năm giờ. Khi tiếng chuông ngân vang, tất cả sư tăng trong chùa đều đến tập trung đại điện. Rajiva khoác áo cà sa, cùng chư tăng hành lễ, dâng hương trước tượng Phật tổ, sau đó cậu ngồi vào vị trí cao nhất, bắt đầu tụng kinh cầu nguyện. thanh tiếng tụng niệm kinh văn của hàng trăm nhà sư ấy ngân nga trầm bổng tựa sóng biển, vang vọng khắp đại điện, xen với tiếng chuông tiếng mõ thanh thoát, trong veo. Linh hồn như được tắm gội trong biển thanh thanh khiết, thoát tục ấy.

      Chiếc ba lô Northface thân thuộc của tôi trở về. Đồ đạc bên trong thiếu thứ gì, kể cả chiếc khăn lụa Atala. Nhớ đến ngày Rajiva tặng quà sinh nhật cho tôi, nhớ đến khuôn mặt đỏ lựng vì xấu hổ ấy, tôi tủm tỉm cười và bất giác hứng khởi quàng ngay chiếc khăn vào cổ. vài vật dụng thất thoát, như cuốn tập mới tôi chưa dùng đến, hay vài cây bút chì và vài cục tẩy. Nhưng những bức vẽ của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi cũng vì thế mà âu sầu, tôi đoán Pusyseda lấy ra nghịch và làm gãy hoặc làm mất rồi. Sau mười năm mà vẫn có thể tìm lại được bao nhiêu kỷ vật và chúng lại được giữ gìn cẩn thận như vậy, tôi mong cầu gì hơn.

      Buổi tối, Rajiva vẫn đến và chăm sóc vết thương cho tôi. Thấy tôi quàng chiếc khăn lụa, cậu ấy thoáng ngạc nhiên, khóe môi nét cười. Rajiva đề nghị tôi tiếp tục làm giáo viên tiếng Hán của cậu ấy. Cuốn sách đầu tiên mà cậu ấy muốn tôi giảng là cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Thế là tôi bắt đầu khởi động chương trình “Trăm nhà thuyết giảng” với những câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, những tích về Tam Hoàng Ngũ Đế. Tôi vốn là người rất thích công việc giảng dạy. Vì học chuyên ngành lịch sử, tôi thường đến các Viện bảo tàng xin làm hướng dẫn viên du lịch “ lương”. Tôi cảm thấy rất phấn chấn mỗi khi du khách say mê lắng nghe những câu chuyện tôi kể.

      Trước mặt tôi lúc này tuy chỉ có thính giả, nhưng trình độ học thức của vị thình giả này lại rất cao. Vị thính giả ấy tập trung tinh thần cao độ để lắng nghe và liên tục gật đầu tán thưởng. Tôi cảm thấy như mình trở lại khoảng thời gian làm gia sư mấy tháng trước đó, chỉ khác là, tuy học trò thay đổi, nhưng thời gian trải qua mười năm đằng đẵng. Giờ đây, tôi thể cốc vào đầu cậu ấy, cũng thể làm bộ nghiêm khắc, lên lớp với cậu ấy được nữa. Tình hình trở nên tệ hơn, vì giáo thường xuyên nhìn trộm gương mặt điển trai hệt như bức tượng điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp của học sinh, sức lôi cuốn của vẻ đẹp ấy khiến giáo mất tập trung, ánh mắt cứ vân du tận chốn nao và giọng trở nên đến mơ hồ. Mất lúc mới kịp lấy lại tinh thần, mặt đỏ như gấc chín, vờ uống nước, vờ hắng giọng, vờ tìm quạt, vờ vệ sinh, vân vân và vân vân các phương thức chữa thẹn.

      Ở chùa Cakra, tôi từng được chứng kiến Rajiva chủ trì ngày hội cầu nguyện Phật Quan . Tên gọi Quan Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ ra phải dịch thành Quan Tự Tại, nhưng sau khi truyền vào Trung Nguyên, người Hán đọc sai thành Quan Thế . Thời nhà Đường, vì muốn phạm húy khi có đọc trùng với tên vua Lý Thế Dân, triều đình hạ lệnh lược bỏ chữ “Thế”, nên tên Bồ Tát chỉ còn là Quan . Tôi vốn hề biết đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan Bồ Tát mà sau này được truyền bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng Phạn của Quan rất khó nhớ. Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan tôi hiểu ra. Vào thời kỳ này, Quan Bồ Tát phải là hình tượng vị Phật nữ giàu lòng từ bi mà chúng ta thường gặp, mà là vị Phật nam uy nghiêm với hai vành râu rất đẹp, giống hệt hình ảnh những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn Hoàng và hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà Đường, Phật Quan mang hình tượng của vị Phật nam. Nhưng vì Quan chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật khéo léo tài tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ hình tượng Phật nữ phù hợp với ngài hơn chăng?

      Lễ hội kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai cũng có thể tham gia. Phật tử viết tên người thân qua đời của mình lên thẻ gỗ, rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban thờ Phật. Rajiva cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan , sau đó chắp tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ tốn, nho nhã, thanh thoát. Rồi cậu ngồi bục cao, khẽ lắc chiếc chuông đồng tay, thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện trở nên yên ắng lạ thường.

      Rajiva đưa mắt quan sát lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và gương mặt đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình ảnh của Rajiva tựa như vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, thanh như có sức mạnh thấu suốt, vang động mãi trong gian thánh khiết.

      Tự giác ngộ và giải thoát là biểu của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác ngộ và giải thoát là biểu của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Bồ Tát với trí tuệ sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban phát những lời răn và giúp đỡ dựa năng lực, phẩm hạnh và mong muốn giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống khổ, giúp niềm hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do tự tại, phiền muộn, ưu sầu.

      Chúng tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những người dân đứng bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo. Tiếp đó, Rajiva đọc câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo, biển thanh thành kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả trời xanh.

      Ngày hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa. Rajiva đích thân chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến tận cổng chính của chùa. Tôi len lỏi từng chút để nhích dần lên phía trước và ngừng nghển cổ ngóng trông. Rajiva miệng niệm A di đà Phật, tay chắp lại kính cẩn, phân phát từng phần lộc được gói bọc cẩn thận cho từng người, tay cầm cây trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ lên đầu mỗi người cầu phúc cho họ. Ai nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng mới đến lượt tôi, bụng đói cồn cào. Nhìn thấy tôi, Rajiva thoáng vẻ ngạc nhiên, đáy mắt gợn ánh cười, quay sang với đệ tử bên cạnh đôi câu. Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu phúc. vật gì đó chạm đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp gian, ngẩng đầu nhìn Rajiva, gương mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất thanh tao thuộc về thế giới trần tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh. định rảo bước vị sư khi nãy chạy tới trao cho Rajiva chùm nho. Rajiva tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi. Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy ai có phản ứng bất mãn nào với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh chân bước .

      Chùm nho ấy tôi nỡ ăn, tôi lấy tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất vào trong ba lô. Buổi tối khi trở về, Rajiva có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất phấn chấn và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc và cầu phúc cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ trong ba lô chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết phục cậu ấy như thế nào.

      Rajiva chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc và chìa chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. chờ tôi mở lời, cậu đón lấy, ngắt quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười:

      - Ngọt lắm!

      Tôi sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt quả thưởng thức, đúng là rất ngọt, ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn…

      Chúng tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ đến câu vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó! [9]  Tôi phì cười, muốn dạy lại cho Rajiva. Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu Khâu Từ nên phát chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. khí vui vẻ ấy khiến tôi bồi hồi, giá như, giá như thời gian ngưng đọng trong giây phút này…

      Những ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Rajiva rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên trì đến chỗ tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ ngơi, thư giãn. Đôi lúc rất muốn massage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám nghĩ trong đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. tay mỗi người đều có cây đèn . Rajiva đến trước tượng Phật tổ, khấu đầu vái lạy, rồi thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư sắp xếp theo phẩm giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ ngọn đèn của người phía trước để thắp sáng ngọn đèn tay mình. Phút chốc, cả đại điện lung linh rực rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn của mình, cảm giác như ánh sáng ấy có thể chiếu rọi cả cõi tâm linh. Trong khí linh thiêng ấy, Rajiva tựa như vị thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên những người khuất vào trong đống lửa. thanh tụng niệm vang vọng, bay lượn trong gian và rót vào tai tôi. Khung cảnh này, cảm xúc này khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc.

      Lễ hội kết thúc nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn ngừng hồi tưởng về bầu khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm lần nữa tôi lĩnh hội được sức mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ khi loài người xuất , tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với tồn tại của con người và chỉ biến mất khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là giai đoạn lịch sử thảm khốc. Khi tôi với Rajiva về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều thuộc, tôi chỉ có thể thảo luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi lúc, cậu ấy lí giải nổi những điều tôi , nhưng chỉ trong giây lát, tư duy thần tốc cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gian ngắn ngủi mỗi buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đến giờ cậu ấy phải về chùa, tôi khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Einstein lại đúng tuyệt đối kia chứ!

      Tôi tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi ngồi xếp bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, cậu ấy bước vào trong trò chuyện với các đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ tường, cậu ấy dẫn theo số hòa thượng vào điện thuyết pháp, quên ra hiệu cho tôi tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên đo chiều cao của ngôi tháp, bóng người cao gầy bước đến cầm lấy chiếc thước cuộn, che đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức chú tiểu mang nước đến cho tôi, sau đó thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng thân thuộc lướt qua bậc cửa…

      thể tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Rajiva, trái tim tôi lại đập rộn ràng cách khó hiểu. Ngày nào thấy cậu ấy, tôi như người mất hồn, thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu chiếc gối của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, niềm vui bất trị cứ trào dâng trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi ngừng dõi theo từng bước chân của cậu ấy, cho đến khi Rajiva ngước lên và mỉm cười với tôi. Tôi biết rất những biểu ấy có nghĩa là gì. Nếu tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng của của cậu ấy, tôi sa vào “vòng trầm luân”, thoát ra được và cũng muốn thoát ra. Nhưng, Ngài Tình ơi, có thể có tình cảm với bất cứ ai, nhưng được có tình cảm với cậu ấy. Cậu ấy phải là tách trà uống mỗi ngày. Giữa và cậu ấy là khoảng cách 1650 năm thời gian. Và điều quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi là hòa thượng, còn , sớm muộn cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình.

      Vậy nên, sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi thể kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định với cậu ấy về dự định của mình vào buổi học tiếp theo.

      Hôm đó, tôi giảng giải cho Rajiva quyển thứ sáu mươi mốt trong tập “Sử ký” của Tư Mã Thiên có tên gọi – Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước mất làm xấu hổ, thề ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua bữa, nhưng rau dại thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông bị chết đói tại núi Thú Dương. Dưới ngòi bút của Thái Sử Công Tư Mã Thiên, lòng trung thành và phẩm hạnh cao khiết lẫm liệt ấy được đánh giá rất cao. Phần truyện kể về Bá Di, Thúc Tề rất ngắn gọn súc tích, nhưng nội dung chính lại nằm trong đoạn Thái Sử Công bày tỏ những suy cảm của riêng mình.

      - Thế nhưng, chúng ta có nên học theo hành động “ngu trung” đó của Bá Di và Thúc Tề hay ? Khi ấy, thiên hạ thuộc về nhà Chu, họ thề ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại, nhưng rau dại ấy vẫn là rau dại của nhà Chu, họ sống núi Thú Dương thuộc lãnh thổ của nhà Chu và sau khi họ chết, chính người nhà Chu an táng cho họ.

      Tôi thở dài:

      - Ai rồi cũng phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc đời và trước mỗi khó khăn thử thách ấy, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn và quyết định của riêng mình. nhẫn nhục tiếp tục sống hay học theo Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ nhất định chịu nhục. Nếu là tôi, tôi chọn cách tiếp tục sống. Bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thực được lý tưởng của mình. Vậy còn những lời phán xét của người đời sau sao? Tôi thành người thiên cổ rồi còn để tâm đến điều đó làm gì nữa!

      Tôi lặng ngắm Rajiva và bâng khuâng nghĩ đến khúc ngoặt hành trình số mệnh của cậu ấy mười năm sau. Khi ấy, chắc hẳn cậu ấy phải chịu những nỗi dằn vặt đau đớn đến đứt từng khúc ruột?

      - Vì vậy, Rajiva ạ, nếu sau này gặp phải khó khăn hay trở ngại, cậu hãy nghĩ đến lý tưởng lớn lao của mình, lấy đó làm động lực tiếp tục sống.

      Mười năm sau, tôi xuất , nên chỉ có thể đưa ra lời khuyên như vậy với cậu ấy.

      - Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng khốn dùng để truyền đạt chí hướng và suy cảm của mình. Xưa Tây Bá (tức Chu Văn Vương) bị tù ở Dũ Lí nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Sài nên viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm Quốc Ngữ; Tôn Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lăm; Hàn Phi bị tù ở Tần làm nên những thiên Thuyết Nan, Phẫn; ba trăm bài ở “Kinh thi” phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi bày nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức biểu lộ ra được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau.

      Rajiva nhìn tôi, mượn lời của Thái Sử Công đáp lời tôi.

      Chúng tôi cứ thế nhìn sâu vào mắt nhau, mặc cho gian xung quanh trở nên tĩnh lặng thất thường, giữa chúng tôi là bầu khí khó đặt tên. Gương mặt Rajiva dần sắc đỏ, cậu đột nhiên quay . Vẻ mặt mà tôi nhìn thấy là đan xen của rất nhiều xúc cảm: chút khó xử, chút buồn và chút… hối hận.

      Rajiva, thực ra cậu đâu cần tôi dạy. Đoạn sử “Thái Sử Công tự thuật” cậu vừa đọc nằm trong chương cuối của bộ Sử ký. Tôi tin rằng, nếu cầu cậu đọc thuộc cả bộ Sử ký này, cậu cũng có thể làm được. Vậy vì sao cậu vẫn muốn tôi lên lớp? Trái tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, tưởng như có thể nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi có thể suy luận ra được, là vì cậu muốn được gặp tôi mỗi ngày, nên mới vờ như chưa từng đọc “Sử ký”, đúng ? Nhưng mà… nhưng mà…

      Tôi nhắm nghiền mắt lại, cố sức kìm chế nhịp đập gấp gáp, vất vả của trái tim và với cậu ấy bằng bình tĩnh lớn nhất mà tôi có được:

      - Ngày mai tôi đến chùa Cakra nữa, tôi vẽ xong rồi. Cậu biết phải tìm đoàn thương nhân Trường An ở đâu ? Nếu cậu biết, tôi tự tìm hiểu cũng được.

      Trầm tư trong giây lát, Rajiva hỏi tôi:

      - Lúc này Trung Nguyên trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên, người Hán và người Hồ ra sức tàn sát lẫn nhau. mình thân dặm trường, vì sao cứ nhất định phải đến nơi nguy hiểm ấy? Khâu Từ tuy chỉ là quốc gia bé , nhưng dù sao vẫn an toàn hơn nơi đó rất nhiều. Chi bằng…

      - Rajiva…

      Tôi khẽ ngắt lời cậu ấy.

      - Lý tưởng của cậu là cứu độ cho mọi chúng sinh thoát khổ. Để hoàn thành lý tưởng này, cậu sẵn sàng đến Trung Nguyên, dấn thân vào chốn binh đao khói lửa đó chứ?

      - Tất nhiên là tôi sẵn sàng.

      - Tôi cũng vậy.

      Tôi ngắm nhìn cuốn “Sử ký” vốn là tâm huyết đời của Thái Sử Công.

      - Tôi cũng có lý tưởng của mình. Tôi từng với cậu, ước nguyện của tôi là viết nên cuốn sách sử, ghi lại những kiện lịch sử chân thực, trả lại cho lịch sử tính xác thực vốn có.

      Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời đại lịch sử bi thảm nhất của người Hán. Cha con Thạch Hổ nước Hậu Triệu lấy việc giết hại người Hán làm thú vui, chỉ trong vòng hai mươi năm giết hại mấy mươi vạn người.

      Nhiễm Mẫn diệt Triệu, ban lệnh tàn sát người Hồ, phàm những người có dung mạo giống người Hồ là thẳng tay giết chết tha. Chỉ trong năm, giết hại hơn hai mươi vạn người Hồ. Phương bắc Trung Quốc, trong vòng hơn hai mươi năm, xương trắng đầy đồng, xác người chất cao thành núi, tiếng than khóc dậy trời. Nếu là thời đại đó, có cho tôi đem theo vũ khí hạt nhân, tôi cũng dám . May thay đó là giai đoạn khi Rajiva vừa chào đời. Tình hình Trung Nguyên nay, nhà Tiền Tần lấy được vùng Lương Châu và Liêu Đông, cơ bản thống nhất được phương bắc. Và Phù Kiên là vị vua mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Tôi rất mong muốn được đến tham quan nước Tiền Tần do ngài cai trị nay, bởi vì sau mười năm nữa, với thất bại thảm hại ở trận Phì Thủy, nhà Tiền Tần của ngài nhanh chóng suy yếu và tan rã, phương bắc lại tiếp tục rơi vào cuộc tranh đoạt thảm khốc của các thế lực ly khai.

      Tôi nhìn Rajiva, thầm hy vọng ánh mắt kiên định của mình lên điều gì đó. Cậu ấy nhìn tôi, rồi lại ngoảnh mặt hướng khác, ánh mắt lạc lõng thả ngọn đèn dầu lập lòa, giọng như hơi thở:

      - Tôi sắp xếp cho .

      Tôi tiếp tục giảng bài, Rajiva tiếp tục lắng nghe. Cứ xem như tôi hiểu tâm trạng của cậu ấy. Cứ vờ như thế , tiếp tục làm ngơ

      Kết thúc buổi học, như thường ngày, Rajiva lặng lẽ ra về. Tôi định thở phào tiếng, chợt cánh cửa phòng lại mở ra.

      - còn nhớ Thiên Phật động Kizil ?

      Vẫn dáng vẻ bình thản thường thấy đó.

      - Sau mười năm kể từ ngày ở đó ngôi chùa hang đá, đến nay có hơn mười hang động lớn được xây dựng rồi đó.

      - Bảy ngày sau tôi tới đó lễ Phật.

      Rajiva nhìn tôi, mắt sáng long lanh.

      - có muốn ?

      Tôi… tôi… tôi muốn chứ! Cậu ấy hiểu điều gì có thể hấp dẫn tôi. Nếu đến đó, tôi xác định thời gian và trình tự xây dựng các hang đá của ngôi chùa vĩ đại ấy và còn có thể phác họa lại những bức vẽ tuyệt đẹp tường mà về sau bị phá hoại nặng nề. Những tài liệu này là những tài liệu lịch sử vô cùng quý giá. Tôi kháng cự nổi sức hấp dẫn này. Trì hoãn thêm vài ngày có lẽ vấn đề gì. Có lẽ tôi vẫn còn đủ thời gian.

      Thấy tôi gật đầu, Rajiva tươi cười.

      - Bảy ngày sau chúng ta lên đường.


    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 21:Thiên phật động Kizil
       

      Bảy ngày sao đó, vào sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện dụng của Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươi dặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi. Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong khoảng gian hẹp như vậy, thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy: Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho nhã, lịch thiệp, Rajiva với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pixel, liên tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được bức ảnh của Rajiva tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi có kỷ vật để mà hồi tưởng lại. Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừng lãng phí và tình cảm thêm nữa.

      Nào hãy tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của "Chàng đẹp trai" và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.

      Quyết tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay chìa ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tự phục vụ bản thân, kiên quyết để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước, ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lau sạch những vụn bánh vương vấn mép, kiên quyết nhận lấy mảnh khăn từ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe, có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức, buồn ngủ cũng kiên quyết gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy tay cậu ấy làm gối

      Có phải là ảo giác của tôi hay ? tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến tai tôi. Trái tim tôi như thắt lại…

      Cuối cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục kiên cường của bản thân, suốt hai ngày trong gian riêng biệt chỉ có hai người, cái gian hẹp khỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiên quyết để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếp trước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ, em là người đại, em phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinh tình cảm nam nữ, lịch rất có thể vì em mà thay đổi…

      Nhưng khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ tắm gội dưới ráng chiều huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếc thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí len lỏi qua các hang đá, những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, trôi tuồn tuột ra khỏi đầu tự lúc nào hay.

      Tối hôm đó, tôi được sắp xếp ở lại trong quán trọ ven sông Muzat. Nghe họ dành cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh ổn cho lắm, may mà tôi chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, khí trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. gian tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu đặc biệt. Tôi vốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi, lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi khỏi xao động. biết phải làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.

      Ngày hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. Chùa Kizil thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá dành cho các tăng sư tọa thiền kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva với ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. , thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắc chắn tôi nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rất nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến căn phòng thiền đặc biệt, được dọn dẹp sạch . Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôi nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy, tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm chỗ, cả ngày bước chân ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình hiểu sâu những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại cho cùng , thứ thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đẩy mọi nghi hoặc ra khỏi đầu.

      Thiên Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ tường. Phần lớn hang đá là những căn phòng ngồi thiền của nhà sư theo tông phái Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi từng khảo sát di tích này. Trong các phòng thiền có tranh vẽ, chỉ có chiếc giường đá rất lạnh, và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gian nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi có mắt ở đây, ngôi chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn tất bật với công việc vẽ tranh của mình.

      Hấp dẫn quá! Đây là đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra trong số các công đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu chuyện Phật giáo các bức vẽ, bạn có được bài luận xuất sắp với giá trị học thuật cao. dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp tổ chức từ thiện của Liên Hợp Quốc trong ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa được sáp xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với nghẹ nhân nữ người Thụy Sĩ quỳ giá đỡ ở cao. cho tôi xem bộ đồ nghề của mình: Những chiếc bút lớn đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp , nhiều vô kể và dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát ấy vẽ tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa lụa. Những bức họa sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi được tận mắt chứng kiến quá trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên từ nhựa thông, những nghệ nhân này sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao. Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ tranh của họ, phác họa những bức vẽ hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được bận rộn và vui sướng đến thế.

      Họ sử dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếp giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa thấy những hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi màu xanh da trời. trải qua bào mòn của thời gian và mưa nắng, sắc đỏ bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc khác cũng giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở Afghanistan, cách Khâu Từ nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyến rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng trọng lượng. trong gian động đá, giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là tài sản lớn. Về sau, khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình tượng, họ tâm cạo sạch lớp bột vàng mình tượng Phật, để lộ lớp đất đá cằn cỗi tới tận đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cười với thời gian, vẻ đẹp của nó khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI phải thổn thức, ngậm ngùi.

      Sau khi phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong vòng vài trăm năm, Phật giáo hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu chân Phật và ban thờ Phật. thế kỷ sau Công nguyên, cùng với phát triển của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới bắt đầu xuất những tác phẩm tượng Phật.

      Alexander đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara [10] và mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở thành trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.

      Các bức bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó bị hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc lượn sóng, búi gọn lên đỉnh đầu. mình khoác áo choàng dài, lộ bên vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên các bức bích họa phần lớn đều để trần nửa thân , dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.

      Tôi phác thảo lại bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa (Siddartha)”. Bức họa này kể câu chuyện khi Phật tổ vẫn còn là thái tử, ngài nhìn thấu những phiền não, khổ sở của cuộc đời và từ đó quyết định tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn (Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên ra sức kiến tạo đời sống xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi say sưa phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi phác thọa hình ảnh cung nữ áp sát thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là hình ảnh rất trong hàng nghìn hình ảnh các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi vẽ lại và phóng to lên, chắc ai để tâm đến những nét tinh tế ấy. Thân hình và tư thế của cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến, tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người hết mà hay biết. còn cách nào khác, tôi đành ăn cùng cậu ấy.

      Mấy ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, lúc nào rời bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng pho tượng Phật khổng lồ. Tôi nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”

      Nghệ thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết, nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan bị Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo, đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy được chiêm ngưỡng những pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên trong dựng tượng Phật khổng lồ. công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và trí tuệ của bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành.

      Nhưng Rajiva biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động Kizil chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân Cương hay ở Long Môn.

      thể khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng này, trong khi Rajiva làm việc nghỉ ngơi các sư tăng khác chỉ ngồi yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng ra ngoài, thường chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này kỳ quặc, phải chăng họ thực nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi đem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ ngồi thiền, có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva muốn , nên tôi tranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽ tranh.

      - Họ ngồi thiền mùa hạ [11]

      Ngồi thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong "Pháp Hiển truyện" ngài Pháp Hiển có viết rằng hành trình Tây Trúc, ngài nhiều lần phải dừng lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.

      - Hàng năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, bước ra ngoài.

      - Đúng vậy, họ được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụ trì rồi mới được ra ngoài.

      - Đúng vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng ngồi thiền liền ba tháng.

      Cuộc thảo luận sôi nổi còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi cay cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vì đây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ ra ngoài để tránh sát sinh. ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Rajiva là có . Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, cậu ấy lại ngang nhiên ra ngoài cùng . Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượng Phật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gian ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấy bất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư?

      Buổi tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở góc khuất cách đó xa, cậu ấy yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ ngạc nhiên, chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự trong giây lát rồi từ từ ngồi xuống.

      - Rajiva, là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu nên ra ngoài mới phải…

      Cậu ấy hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc, giọng bình thản:

      - Tôi đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối với Phật tổ, vì sao được?

      - Nếu vậy, sao cậu chờ tháng sau hãy đến?

      Rajiva đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấy như cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm.

      Cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi dám nhìn vào mắt cậu ấy:

      - Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.

      Rajiva im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, chút biểu cảm.

      Tôi cắn chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:

      - Rajiva, tôi thuộc về nơi này.

      - Tôi biết.

      Bỗng nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực rất cao, tôi ngước lên nhìn cậu ấy chỉ lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ phải chỉ vì cậu ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như rơi, sắp rơi xuống rồi…

      - Ngày mai chúng ta rời khỏi đây.

      Tôi gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng di chuyển gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc biến mất trong ngõ hẻm quanh co, vắng lặng.

      Đêm đó, qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc, bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mong manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóng người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt nhạt nhòa mặt, lao ra khỏi phòng. gian buổi đêm tịch mịch, quạnh quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông bóng người. Đêm đó, tôi hầu như ngủ, chống mắt nhìn trời sáng.

      đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất những quầng thâm rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôi đều trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì thể, nên níu kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trở về thế kỷ XXI, tôi có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi tìm được người để . chàng cùng khoa, học tôi khóa có ý với tôi lâu rồi, tôi suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay .

      Cho dù ta đẹp trai bằng cậu ấy, thông minh bằng cậu ấy, dịu dàng bằng cậu ấy, .. Tôi biết chứ, chàng khóa chẳng có điểm nào có thể so sánh với cậu ấy, nhưng ta là con người của thực. Còn Rajiva, đối với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đống sách cũ nát mà thôi…

      Chúng tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà trong thành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắt khó hiểu, sau cùng là tiếng thờ dài:

      - Tôi sắp xếp đội thương nhân cho . Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi tối về đây nữa.

      lúc lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi cất bước.

      - Mười ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. từng muốn xem lễ hội này. Hay là…

      Cậu ấy ngập ngừng.

      - Để sau khi lễ hội kết thúc hãy

      Tôi ngẩng đầu, thấy nhìn như trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, có cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên tiếng:

      - Ừ.

      Vành môi của cậu ấy như được kéo lên, rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôi ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi muốn tham dự ngày hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là học sinh hiếu học, tôi là con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối phải là … người lí tưởng…

                  Chương 22: Ra ngoài dạo


      Những buổi tối sau đó, Rajiva đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng mỗi ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa, cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng ngày, cầm cuốn tập tay lang thang trong thành Subash, mãi mãi, rồi hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể có bàn tay ai đó nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét vẽ lại dần hình ảnh của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại ra sức xóa .

      Chỉ còn hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn thấy bóng dáng Rajiva đâu. Khi lễ hội kết thúc tôi rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra , liệu tôi có còn được gặp cậu ấy lần cuối hay ? Mặc dù vẫn biết rằng, gặp là cách tốt nhất để khi ra , tôi có thể quên tất cả…

      Buổi tối, tôi nằm co giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng” cánh cửa, suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn bày ta trước mắt, nhưng thể khơi dậy dù chỉ là chút cảm hứng trong tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài, vậy là lại đêm nữa trôi nữa qua.

      Bỗng tôi nghe có tiếng gõ cửa, ồn ào, nhưng rất ràng. Rồi tiếng trò chuyện của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ chuyện bằng tiếng Phạn! Là cậu ấy!

      Tim đập liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Rajiva đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi thấy biểu cảm khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu có việc gì hệ trọng, cậu ấy đến vào giờ này. Có lẽ xảy ra chuyện gì đó.

      Mavasu buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi bước của cậu ấy là nỗ lực vô cùng lớn lao.

      - Khuya thế này, lẽ ra Rajiva nên đến….

      Giọng trở nên run rẩy.

      - Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài dạo, hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu, mới quyết tâm gõ cửa.

      Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn trong phòng chiếu lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì khiến người luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế?

      Cậu ấy đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:

      - Rajiva, chúng ta ra ngoài dạo lát nhé!

      Rajiva nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thào:

      - mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh…

      Thành cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố tắt đèn từ lâu, nhưng ánh trăng vằng vặc vẫn soi tỏ đường dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ bên nhau. Đây là lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Rajiva hẳn cũng có chút e ngại và thận trọng.

      Subash là thành phố có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân , bởi vậy thành phố này có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng tôi vài bước ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của đêm vắng.

      Chúng tôi tìm thấy phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy.

      - Sư phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây.

      - Đại sư Bandhudatta ư?

      Truyện kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo lý Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là Bandhudatta nghe.

      - Vì sao biết tên của sư phụ?

      - Tôi…

      Tôi giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.

      - Đúng rồi, tôi từng với . ngờ, mười năm rồi vẫn còn nhớ.

      Rajiva từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi nhớ gì cả?

      Tôi ngượng ngùng chuyển chủ đề:

      - Cậu luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?

      Rajiva gật đầu

      - Mấy ngày qua, Rajiva cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật giáo Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của giáo phái này và được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva làm sư phụ Đại Thừa của mình, công nhận học thuyết mới của Rajiva, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.

      Tôi gật đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi người sáng lập ra luận thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, điều quan trọng nhất là luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này chứng tỏ, Rajiva chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Bandhuatta tôn Rajiva làm thầy, nhưng đại sư hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay cách khác, Banduatta chịu từ bỏ thân phận là "sư phụ Tiểu Thừa" của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến Rajiva buồn phiền như vậy?

      - Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu thuyết phục được đại sư chấp nhận luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều đó là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu Thừa?

      Rajiva nhìn tôi kinh ngạc.

      - Rajiva nào dám ngông cuồng như thế!

      - Vậy vì sao cậu lại buồn phiền?

      Rajiva đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi lâu.

      - Mẹ tôi…

      Rajiva cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.

      - Hôm nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ), mẹ tôi … đăng tam quả.

      Tôi hiểu

      - Đăng tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?

      Rajiva thở dài, rồi hít hơi sâu, chậm rãi :

      - Tam quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng mà những người xuất gia muốn đạt đến.

      Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích:

      - Anagamin có thể dịch thành " trở lại". Nghĩa là, các tu sĩ đạt đến cấp độ này, sau khi viên tịch, hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp tục thiền định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc [12] , tức là được giải thoát hoàn toàn và trở lại cõi phàm trần này nữa

      Rajiva nghẹn ngào, hít hơi sâu, nhưng giọng càng lúc càng trở nên run rẩy:

      - Mẹ tôi đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được cõi cực lạc rồi…

      Cuối cùng tôi hiểu, Rajiva dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva, Jiva qua đời tại Thiên Trúc.

      Các tài liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng sau đó có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà mất tại Ấn Độ. Và hung tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta..

      Tôi bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là người có sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đưa Rajiva đến cửa Phật, dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva theo học giáo thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Rajiva đều do mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể phải là người vợ hiền, nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn đường của cậu.

      - Rajiva, nếu cậu buồn hãy…

      - !

      Rajiva xúc động, hơi thở gấp gáp:

      - Tôi buồn. Mẹ chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người thành thực. Người đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải đau buồn, tôi nên đau buồn!

      Rajiva bị chấn động mạnh, ràng trái tim cậu ấy đập dữ dội và hơi thở trở lên gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời dối gắng gượng của cậu ấy.

      - Rajiva.

      Tôi nhàng vỗ vai Rajiva.

      - Trong hoàn cảnh này, ai cũng đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có tình , cậu mẹ cậu. Vậy vì sao cậu phải kìm chế, thể ra những cảm xúc đó?

      - Tình ư?

      Rajiva khẽ nhẩm lại từ này, tiếng "" mà như có sức nặng ngàn cân, khiến cậu ấy đọc thành tiếng, chỉ có những hưởng run rẩy.

      - Đức Phật rằng, mọi thứ cõi đời này đều tồn tại. Rajiva là người tu hành, đâu có thể có "tình "?

      - Giáo lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất phát từ tình . Chỉ cần "diệt" được "", lên cõi Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ có tình ? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn "diệt ái dục". vì ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do thương mang lại? Nhưng nếu thực có thể "diệt ái dục", vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được giải thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly hệ, giải thoát… tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với cái chết mà thôi. Chỉ khi chết người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải chăng chính vì thấu tỏ điều này, nên Phật tổ mới vẽ ra viễn cảnh, thế giới tây phương cực lạc sau khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà người tu hành phải chịu đựng khi quyết tâm diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì sao, nhất định phải…

      - Ngải Tình!

      Rajiva gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ cùng cực.

      - Đừng nữa…

      Rajiva xoay đầu qua bên, để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi vai rung rung dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi đứng lên, bước sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Rajiva, nhàng ôm cậu ấy vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Rajiva đẩy tôi ra, nhưng dường như cố nín thở.

      - Hãy khóc , cậu là con người phải thánh thần. Người ta khóc thương người thân của mình, có gì phải đâu. Muốn khóc hãy khóc cho thỏa, như thế cậu thấy dễ chịu hơn…

      Tôi nhàng vỗ về cậu ấy, Rajiva trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao lớn, nhưng thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi ước mình có thể hóa thân thành Jiva đẻ an ủi cậu ấy.

      Sau rất nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Rajiva rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động tác ấy khẽ khàng, như thể ôm người bằng giấy và sợ người đó tan biến .

      - Ngải Tình!

      Tôi cảm thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh tay tăng dần, càng lúc càng xiết chặt hơn.

      - Ngải Tình!

      Rajiva khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm vai áo tôi, làn gió lướt qua làm nguội hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt nóng ấm liên tục rớt xuống. Cuối cùng Rajiva cũng được khóc như con người bình thường.

      Cậu ấy khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy. Khóc như thể cạn nước mắt của cả đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy. Chúng tôi cứ thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi cả đất trời cũng mòn tan thành nước mắt…

      biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao giờ khóc nhiều như vậy, mệt mỏi rã rời, tôi tựa vào cậu ấy để gục xuống. Rajiva cũng thôi khóc, nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim tôi. Tôi muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi thậm chí dám thốt lên nên lời nào vì sợ làm hỏng khí này. Sau cùng, Rajiva là người chủ động buông tay, ánh mắt giấu rất xa, tôi nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ nghe thấy giọng chậm rãi:

      - Mẹ biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại Thừa, nên trước khi rời Khâu Từ, người từng với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn đến được Đông Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề này hề có lợi cho cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào?

      Tôi vẫn còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng nhìn cậu ấy. Rajiva ngừng lại lát, rồi tiếp tục:

      - Tôi trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ phải chỉ cho bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp chúng sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, dù có phải nhảy vào chốn dầu sôi lửa bỏng, Rajiva cũng quyết từ nan.

      Khi Jiva còn ở bên cạnh, Rajiva giống như thần đồng được bảo bọc và chăm sóc chu đáo. Rajiva tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài hoa trong nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Jiva ra , Rajiva phải dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí tưởng của cậu, phải chăng được hình thành từ khi còn ? Nhưng Rajiva đâu biết rằng, những lo lắng của Jiva trở thành thực trong tương lai. Cái giá mà Rajiva phải trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là những lời chỉ trích gay gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình biết trước tương lai của cậu.

      - Rajiva, tuy mẹ cậu ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim cậu. Bất cứ khi nào gặp khó khăn, cậu nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu vượt qua tất cả, đúng ?

      Rajiva gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy vơi đau buồn.

      - Rajiva, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi của cậu, những chuyện mà tôi biết ấy.

      rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực tò mò về tuổi thơ của cậu ấy.

      Chúng tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Rajiva hồi : nghiêm khắc và tình của Jiva dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư phụ và các sư huynh của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở Tây vực của cậu. Chuyện nào cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. ra người có chỉ số IQ 200 như Kumarajiva, hồi cũng từng trêu chọc các sư huynh, cũng từng bị mẹ trách phạt vì học thuộc các bài kệ. ra Rajiva cũng có tuổi thơ, tôi cứ nghĩ, ngay từ khi còn cậu ấy người thông tuệ và già dặn rồi.

      Tôi muốn Rajiva tạm quên nỗi đau mất mát kia và vui lên chút, nên kể cho cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về sếp của tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng qua. Tất nhiên là tôi lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh để lộ "thiên cơ".

      Phía xa xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt lên nền trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây lặn mất tự lúc nào. Tôi xem đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi ngồi suốt đêm. Tôi ngước nhìn Rajiva.

      - Rajiva, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi.

      Rajiva như vừa tỉnh cơn mơ.

      - Chúng ta ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt ?

      Tôi lắc đầu. Tuy tôi mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác mỏng manh đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai.

      Rajiva cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng ấm hơn, những ngón tay dài vuốt bàn tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi ấm. Rajiva ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu tiếp tục chà tay nữa, mà cầm hai bàn tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có cơn lũ vừa quét qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa..

      Chúng tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt khuôn mặt có chút hơi ấm của Rajiva. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, ra là những đốm râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có luồng điện lan truyền khắp cơ thể, khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi hoàn toàn hiểu ra điều này.

      Tôi Rajiva.

      Đúng vậy, tôi cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu ấy. Cũng có gì lạ, chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút hồn như cậu ấy có thể khiến bất cứ nào đời này xiêu lòng. Tôi do dự, cự tuyệt nữa. cứ thôi, làm sao tôi có thể phủ nhận cái thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là người bình thường. Tôi thể diệt được ái dục, nên tôi cần phải tranh đấu, dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân để phủ nhận tình cảm này, bởi tôi nhìn nhận tình bằng lí trí chủ quan cứng nhắc của con người đại. Tôi muốn tình phải được đáp lại. Tôi luôn viện cớ công việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo lắng, nếu Rajiva, tôi có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi quay về sao? Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy sao? Nếu tôi cần tương lai sao? Có ai nếu cậu ấy tôi thể tiếp tục công việc của mình đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là Rajiva và tôi cậu ấy theo cách của mình. Tôi cũng có thể để cậu ấy biết được tình cảm của mình. Tôi cũng có thể tiếp tục thầm nhớ, thầm sau khi trở về thế kỷ XXI. Chỉ cần được cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về sau. Việc gì phải lí trí, việc gì phải suy xét thiện hơn mọi đường cơ chứ?

      - Ngày kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay hãy lên đường đến thành cổ Khâu Từ .

      Giọng ấm áp lướt qua bên tai tôi.

      - Hãy về nghỉ ngơi , tôi dặn dò Kaodura đưa đến thành cổ Khâu Từ, tôi sắp xếp nhà trọ cho . Hay là về phủ quốc sư? vẫn muốn gặp Pusyeda kia mà!

      Kaodura ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Rajiva.

      - Tôi ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư khiến mọi người hoảng sợ. Còn Pusyeda, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi đến gặp cậu ấy.

      Sau khi lễ hội kết thúc, tôi tìm cách gặp Pusyeda. Mười năm trước, cậu bé rất quý mến tôi, nhưng giờ cậu chàng trai trưởng thành, có cuộc sống riêng, tôi muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được nhìn thấy Pusyeda là tôi có thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất, thực ra là…

      - Cậu… cậu…

      Chần chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ.

      - Cậu… có đến ?

      Rajiva thoáng giật mình, nhàng thả tay tôi ra.

      - Sư phụ vẫn còn đây, hơn nữa…

      - Tôi biết rồi, giới luật quy định, cậu được đến nơi hội hè ca múa.

      Nén lại nỗi thất vọng nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ:

      - Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Cậu… cần phải đến, cũng thể đến…

      Rajiva thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo cà sa màu nâu sòng, làm gió lật bay nhè những nếp áo. Cậu ấy đứng đó, đẹp tựa pho tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình.

                  Chương 23: Lễ hội Sumuzhe


      Tôi đến thành Khâu Từ bằng xe ngựa của Rajiva. Đường sá gập ghềnh, xe ngựa lắc lư, bình thường, trong trạng thái ấy, tôi ríu mắt lại hồi lâu, nhưng hôm nay hiểu sao, tôi vẫn tỉnh như sáo. chẳng hề buồn ngủ. Có lẽ vì, tôi vẫn đắm chìm trong nỗi phấn khích lúc trước, hai mắt vẫn chăm chú mở to nhìn đôi tay. Kể từ lúc đôi tay này chạm vào khuôn mặt của cậu ấy, tôi thậm chí nỡ rửa tay. Tôi đưa lên, nhắm mắt lại, cố hình dung ra từng đường nét và tưởng tượng ra những ngón tay mình khám phá khuôn mặt của Rajiva. Tôi vẫn nhớ cảm giác gai gai ấm áp khi chạm vào gò má gầy gầy, xương xương, lốm đốm râu và làm da mịn màng của cậu ấy. Cảm giác đó khiến tôi, dù rất cố gắng, cũng kìm chế được nụ cười hạnh phúc nở tràn môi.

      Tôi cứ tủm tỉm cười như vậy suốt dọc đường , cho đến xe ngựa dừng lại giữa thành phố Khâu Từ tắm mình trong ráng chiều. Phòng trọ mà Rajiva đặt trước cho tôi là căn phòng "hạng sang". Tôi thầm cảm ơn chu đáo của Rajiva, vì nhờ cậu ấy, tôi chỗ nghỉ ngơi thoải mái trong thành cổ và dịp lễ, khi mà tất cả các nhà trọ đều kín người. Ăn uống qua loa xong xuôi, tôi bắt đầu ngáp ngủ, rất lâu rồi tôi mới thức khuya như hôm nay. Tôi nhớ là chỉ vào những dịp thi cử, tôi mới phải thức trắng đêm trong phòng học tự học ở trường. Thế nên, tôi quyết định dành tất cả khoảnh thời gian còn lại… để ngủ. Hi vọng là lúc mê mệt, tôi ngáy to, nếu có ngáy, mong là khiến phòng bên cạnh mất ngủ.

      Sumuzhe, hay còn gọi là lễ hội cầu lạnh, được tổ chức vào tháng bảy lịch hàng năm. Lễ hội được tổ chức nhằm cầu nguyện mùa đông lạnh hơn, tuyết rơi nhiều hơn, để năm tới Khâu Từ có được nguồn nước dồi dào phục vụ việc trồng cấy. Lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên vào thời nhà Đường, khiến kinh thành của người Hán trở nên náo động hơn bao giờ. Có rất nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng viết về lễ hội Sumuzhe ra đời trong thời kỳ này, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Di, Lý Hạ… đều từng chấp bút về đề tài này. Đến đời Tống, Sumuzhe trở thành tiêu điểm của rất nhiều bài tử, trong đó, nổi tiếng nhất phải kể đến bài tử của Phạm Trọng Yêm:



      Biếc mây trời

      Vàng lá đất

      Sóng lẫn sắc thu

      Khói sóng xanh lặng ngắt

      Nước lên trời, núi chiều nắng bắt

      Đám cỏ trêu ngươi

      Mơn mởn trong nắng nhạt

      não hồn quê

      Buồn đất khách

      vì được bằng đêm

      Mộng đẹp ru ngon giấc

      Trăng sáng chớ mình tựa gác

      Rượu ngấm ruột sầu

      Nỗi nhớ đẫm nước mắt [13]


      Khi ngang qua Khâu Từ, Huyền Trang cũng từng được chứng kiến và ghi chép lại khí náo nhiệt của ngày hội này. Đức vua Khâu Từ mời nhà sư cùng dự lễ. Đến tiết mục nhảy múa, đức vua còn khẩn khoản mời sư phụ cởi áo cà sa và giày tất, cùng tham gia vào điệu múa cầu lạnh. Huyền Trang cũng xem múa hát đó thôi, vì sao Rajiva thể? Nhưng thôi, Huyền Trang là du khách từ nơi xa đến, nhập gia phải tùy tục là theo lẽ thường tình.

      Tôi đeo chiếc mặt nạ mua ở Subash, lang thang ngắm nghía phố phường. Những con phố chính chật kín người, ai nấy đều đeo mặt nạ, mọi người niềm nởi chào hỏi lẫn nhau, bất kể người quen hay người lại. khí cởi mở, vui tươi ấy bù đắp nỗi trống trải và xua tan ưu phiền trong lòng tôi. Tôi náo nức hòa vào dòng người phố. lát sau, đoàn diễn hành bắt đầu diễn qua. Đầu tiên là đội trống với dàn trống Hạt khổng lồ dẫn đầu [14] , các tay trống ngồi xe ngựa, đồng loạt đánh lên những thanh sôi động đầu tiên, mở màn cho lễ hội Sumuzhe.    Theo sau là đoàn nghệ sỹ cầm tay nhiều loại trống lớn khác nhau, vừa đánh trống vừa nhảy múa, phối hợp nhịp nhàng với đội trống Hạt đầu. Cách đoạn là đến đội hình múa đôi nam nữ. Họ mặc những trang phục chỉnh tề, nghiêm trang, mảnh khăn lụa dài được căng rộng hai sải tay, biểu cảm trang trọng, điệu múa truyền thống. đậm màu sắc cổ điển. Điệu múa này có nét gì đó rất giống với vũ điệu “ương ca [15] ” của các bà người Hán vào mỗi dịp năm hết Tết đến.

      Tiếp đó là đội hình biểu diễn múa dây, các trẻ, đầu đội mũ miện đính hoa tươi, sải bước những sợi dây thừng được trang trí hoa văn rực rỡ, ký thuật điêu luyện, động tác uyển chuyển, nét mặt rạng rỡ như hoa. Kế đó là các đội hình múa dải lụa, xiếc khỉ, vân vân. Mắt tôi được dịp no căng với bao nhiêu loại hình vũ đạo độc đáo. Mỗi điệu múa có đội hình riêng, với những cỗ xe được trang trí hoa tươi muôn hình muôn vẻ và rất nhiều các loại nhạc cụ khác nhau, kèn thất lật [16] , đàn [17] , tỳ bà, ống sáo làm bằng sừng động vật,... tất cả những nhạc cụ đặc sắc này tạo nên biểu thanh rộn rã, vui tai.

      Năm 1903, có hai người Nhật tìm được chiếc hộp, bên trong đựng xá lợi của vị cao tăng ở thành cổ Subash. Họ lẳng lặng đem chiếc hộp về Nhật Bản và giấu . Đến tận năm 1957, người Nhật Bản mới phát ra, dưới lớp màu sắc được phủ phía thấp thoáng dấu ấn của hội họa. Lúc đó, họ mới cạo bỏ lớp màu bề mặt, những hình vẽ nguyên sơ ra, đó là bức họa về các vũ điệu Sumuzhe, sống động và tinh tế khiến người ta phải kinh ngạc. Bức họa vễ rất nhiều ngưới, tay cầm những nhạc cụ đặc sắc của Tây vực, họ đeo mặt nạ và trình diễn những vũ đạo giống nhau.

      Đến nay, chiếc hộp vẫn ở Nhật Bản. Chúng tôi phải cất công sang tận đó để chụp hình mang về nghiên cứu.

      Còn bây giờ, lễ hội từng được mệnh danh là “ngày hội sôi động của phương Đông” diễn ra sống động trước mắt tôi, có thể rằng, niềm phấn khích trong tôi bút nào tả xiêt. Lễ hội Sumuzhe diễn ra liên tục trong bảy ngày, bất kể ngày đêm. Nếu như khi quay về, tôi có thể góp sức khôi phục lại ngày lễ cổ truyền long trọng này công tác nghiên cứu tính kế thừa lịch sử của các loại hình nghệ thuật ca múa dân gian chắc chắn được ủng hộ và phát triển rộng rãi. Và điều đó, chắc chắn khiến ít đồng nghiệp của tôi phải đỏ mắt ghen tị. Ha ha, chỉ nghĩ đến đó tôi sung sướng cười ngất.

      Bây giờ là buổi trưa, đoàn ca vũ vẫn tiếp tục diễu hành qua các con phố, bên đường, những quán ăn vặt bày sẵn lúc nào. Mùi thơm của thịt dê nướng khiến tôi khỏi nuốt nước miếng ừng ực. Tháo mặt nạ, tôi đến bên sạp hàng , hỏi mua ba xiên thịt. Xiên thịt nướng ở thời đại này sao mà vĩ đại! Miếng nào miếng ấy to bằng cả quả trứng gà. Khi du lịch ở Tân Cương, tôi phát ra điều này, rằng kích thước của xiên thịt cứ dần từ nam Tân Cương lên bắc Tân Cương, từ Tân Cương đến đại lục, đến các thành phố ven biển. Ở nam Tân Cương (gồm các huyện Kashgar, Khotan, Kucha), kích thước xiên thịt nướng thay đổi sau 1650 năm, vẫn to như quả trứng gà và thường chỉ có hai đồng xiên. Còn ở quán ăn trước cổng trường tôi học, họ bán những xiên thịt nướng nhất mà tôi từng thấy, đồng xiên, nhưng đám con chúng tôi phải ăn hai mươi xiên may ra mới có cảm giác “lót dạ”.

      Kéo mạch suy nghĩ lan man từ thời đại trở về với lễ hội cổ truyền trước mắt, tôi vừa thưởng thức thịt dê nướng vừa ngắm nhìn dòng người qua lại phố. Vừa “tiếp lương thực” vào bụng vừa được ngắm các chàng trai đẹp là tuyệt nhất, nhưng có vẻ như nhiều chàng trai đẹp ở đây cho lắm, vì hầu hết mọi người đều đeo mặt nạ. Nhưng đột nhiên, tôi há hốc miệng, bỏ dở miếng thịt dê thơm phức tay.

      Có ai đó tách ra khỏi đám đông, bước về phía tôi, dáng người cao lớn, mình là bộ trang phục truyền thống của giới quý tộc Khâu Từ: áo rộng màu vàng nhạt, thắt eo. Lối trang phục này nhìn qua rất giống trang phục của các kỵ sĩ châu Âu thời kỳ trung thế kỷ. Những chàng trai vóc dáng khỏe khoắn, khoác thêm bộ trang phục này càng nam tính và cuốn hút. Người đàn ông đó, dáng vẻ tự tin, thân hình cao lớn vạm vỡ, hoàn toàn nổi bật giữa đám đông,

      Tuy nhìn khuôn mặt, nhưng có thể dễ dàng đoán ra đó là chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vì sao ta lại đến gần tôi? Và vì sao dáng dấp ấy lại quen thuộc đến vậy? ta đeo chiếc mặt nạ hình ma quỷ, ánh mắt lúc lại gần, lộ vẻ kinh ngạc và nghi hoặc. Tôi chớp mắt liên tục, chăm chú quan sát và đoán định. Đôi mắt xanh nhạt ấy quá đỗi quen thuộc. Trái tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Là cậu ấy ư, cậu ấy bảo đến kia mà?

      - Ngải Tình, có phải chị ?

      Giọng xúc động.

      - Là tôi chứ ai.

      Tôi xoay xoay chiếc mặt nạ vắt vẻo cổ tay và nhận ra “bi kịch” này: bên tay tôi vẫn cầm ba xiên thịt nướng vĩ đại (có thể khiến bất cứ ai phải hoảng). Thôi thế hỏng hết! Mồm miệng nhồm nhoàm. dầu mỡ dính đầy mặt và cái vẻ ngớ ngẩn trợn tròn mắt nhìn cậu ta của tôi nữa, toàn bộ cái bộ dáng kỳ cục, đáng xấu hổ này lọt vào mắt cậu ta rồi!

      đau khổ và tủi hổ bất tận, tôi bỗng ngã vào vòng tay ấm áp. Nhịp tim tôi mỗi lúc dữ dội hơn, tư duy hỗn loạn: vì sao, vì sao cậu ấy lại…

      Tuy tôi vẫn giơ cao xiên thịt nướng, toàn thân như bị điểm huyệt, tôi để mặc người đàn ông cao lớn đó nhấc bổng mình lên xoay mấy vòng liền.

      - Ngải Tình, chị trở về rồi ư!

      Giọng có vẻ giống, nhưng chắc chắn phải giọng của cậu ấy! Cậu ấy chưa bao giờ ôm chặt tôi như vậy, cũng bao giờ cười lớn như vậy và càng bao giờ nhấc bổng tôi lên xoay mấy vòng liền giữa chốn đông người như vậy.

      lúc lâu sau người đó mới thả tôi xuống, hơi nghiêng người, tháo mặt nạ. Sống mũi cao thanh tú, mát sáng long lanh, hàng mi dày và rậm, đồng tử màu xám nhạt, giống cậu ấy qua! Chiều cao và vóc dáng cũng giống hệt cậu ấy. Nhưng khuôn mặt gầy guộc như cậu ấy, làn da có màu bánh mật như cậu ấy và vành môi cậu ấy bao giờ nhấc lên tinh nghịch như vậy. Thoáng chút thất vọng, nhưng ngay lập tức được thay thế bởi niềm vui mới tràn ngập.

      - Pusyseda!

      Bây giờ đến lượt tôi ôm chầm lấy cậu ta. Nhưng sao cậu ta lại cao lớn đến vậy?

      Cậu ta suốt từ lúc nhìn thấy tôi đến giờ, lúc tôi buông tay ra cậu ta làm vẻ mặt giận dỗi:

      - Ngải Tình, dầu mỡ miệng chị dính hết lên quần áo tôi

      Tôi hơi ngượng ngùng khi ôm “chú nhóc Pusyseda trưởng thành” ấy, nhưng câu chút kiêng nể kia khiến cảm giác ngượng ngùng ấy lập tức tan biến! Tên ranh này, chẳng thay đổi gì cả!

      - Bù lại, chị phải thiết đãi tôi bữa đấy!

      Tôi kịp phản ứng gì, bị cậu ta giằng lấy xiên thịt nướng, trả lại người bán hàng, sau đó, lôi tôi , cho tôi thời gian cằn nhằn vì lẵng phí đồ ăn! Cái tên hoang toàng này!

      Tôi tròn mắt nhìn từng đĩa sơn hào hải vị bày la liệt bàn ăn trước mắt. bao lâu rồi tôi được ăn đồ ăn Trung Quốc? bao lâu rồi tôi chưa nhìn thấy cơm trắng? Ở thời đại này, gạo được vẫn chuyển tới đây từ Trung Nguyên. Ăn bữa cơm gạo trắng ở Tây vực là cả khoản chi tiêu xa xỉ. Hãy nhìn xem cách bài trí ở quán hàng này, trời ơi, còn cả ghế lô nữa. Miệng nhai cơm, lòng thầm làu bàu: Đúng là tên phá gia chi tử!

      Pusyseda ngồi bên ghế đối diện, hầu như nhấc đũa, chỉ chăm chú nhìn tôi, nụ cười ngang tàn khóe môi chưa chịu tắt. Tôi cảm thấy hơi lo lắng, nên cắm đầu nhai nuốt. người Hán mang đồ ăn vào, cậu ta đón lấy và cảm ơn bằng nụ cười quyến rũ ấy. Tôi thấy bước ra ngoài với đôi má ửng đỏ và cuống quít đến mức cụng đầu vào cánh cửa.

      Tôi thở dài:

      - Pusyseda, cậu có biết điệu bộ tươi cười lả lơi của cậu có thể khiến mọi đời này nghiêng ngả ?

      Cậu ta nhướn mày, nhổm dậy, toàn thân vươn qua bàn, sáp lại gần tôi:

      - Còn chị sao, Ngải Tình?

      Tên ranh, dám ăn với tôi như thế đấy! Tôi nhìn khuôn mặt điển trai rạng rỡ của cậu ta, nuốt nước bọt:

      - Cho tôi xin, tôi già cả rồi, cậu làm ơn cho tôi sống thêm vài năm nữa !

      Cậu ta cười vang. Nụ cười đó hoàn toàn khác nụ cười của Rajiva. Pusyseda cười sảng khoái, chút e ngại. Rajiva khác, lúc nào cũng điềm đạm, nho nhã.

      - Ngải Tình, chị là tiên nữ, chị đâu có già !

      Cậu ta đột nhiên thôi cười, đổi sang giọng điệu nghiêm túc.

      Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào. Chính tôi với cậu ấy điều đó và cậu ta cũng được chứng kiến cảnh tôi biến mất. Nếu biết có ngày quay lại, tôi nên gieo vào tâm hồn thơ ngây của Pusyseda cái lý do ngớ ngẩn ấy. Giờ đây, tâm hồn ngây thơ bị tôi bẻ cong suốt mười năm, liệu có thể nắn cho thẳng lại được ?

      - Ngải Tình, chị về khi nào vậy?

      - Tôi…

      Tôi ấp úng, thần kinh căng như dây đàn

      - Hôm qua.

      Tôi muốn Pusyseda biết mình ở đây gần ba tháng. Tôi muốn cậu ta biết mình ở cùng Rajiva. Rajiva của tôi, tôi muốn bảo vệ cậu ấy và cậu ấy theo cách của mình…

      Sau đó, Pusyseda hỏi tôi ở đâu, tôi tên nhà trọ của mình. Thấy tôi vẫn tiếp tục ăn cơm, cậu ta tỏ ra hết kiên nhẫn:

      - Chị định ăn đến bao giờ mới thôi hả?

      Tôi giật mình.

      - Cậu bận à, sao gấp thế?

      - Tất nhiên là bận rồi!

      Cậu ta nhìn tôi nghiêm túc.

      - Tôi phải dọn giúp chị.

      - Để đâu?

      - Về phủ quốc sư chứ còn đâu nữa!

      Pusyseda theo tôi về nhà trọ trả lại phòng. Lúc tôi thu dọn đồ đạc, sơ ý để cậu ta nhìn thấy chiếc áo ngực của mình. Cậu ta còn nhấc chiếc áo lên và hỏi tôi đây là thứ gì với vẻ mặt rất hiếu kỳ, tôi xấu hổ biết giấu mặt vào đâu. Sau đó cậu ta chẳng chẳng rằng, khoác chiếc ba lô Northace của tôi lên vai, ném cho chủ quán xâu tiền, khoát tay hách dịch:

      - cần trả lại!

      Đúng là đồ hoang toàng!

      Gần đến phủ quốc sư, tôi ngập ngừng kéo tay Pusyseda lại:

      - Cậu định thế nào với mọi người? Mười năm qua, tôi hề thay đổi.

      Cậu ta dừng lại, mắt ra chiều suy nghĩ:

      - chị là cháu của Ngải Tình, gọi chị là Tiểu Ngải Tình nhé!

      Tôi đứng tim, em ruột có khác, đến cách nghĩ cũng giống hệt nhau.

      - Nhưng tôi giấu cha.

      Vẻ mặt cậu ta bỗng trở lên nghiêm trang.

      - Tôi chưa bao giờ dối cha điều gì.

      Kumarayana, con người thông tuệ, nho nhã ấy, hẳn chấp nhận xuất kỳ quặc của tôi

      Tôi giương mắt lên quan sát mọi thứ trước mặt. Vẫn căn phòng năm xưa, cách bài trí này, mười năm rồi hề thay đổi. Thậm chí bức tường phía đầu giường vẫn còn nguyên những chữ Hán mà tôi bắt Pusyseda tập viết. Khi ấy cậu nhóc nằng nặc đòi dán lên chỗ đó. Tôi chiều theo, cậu nhóc viết xong trang nào tôi dán lên tường trang ấy. Chữ viết xiêu vẹo ngả nghiêng, lúc trước nhìn chỉ muốn phát cáu, nhưng bây giờ lại cảm thấy vô cùng thân thuộc

      - Ngày nào cũng có người dọn dẹp, chờ ngày chị trở về.

      Giọng nhàng lướt qua vai, rơi vào vành tai tôi, cảm giác gai gai nhưng trong lòng thấy ấm áp lạ thường.

      - nào, cho chị xem thứ này.

      Còn chưa hết ngỡ ngàng bị cậu ta lôi . Tên ranh này tính nết vẫn như ngày nào.

      Cậu ta kéo tôi đến phòng mình. Căn phòng đổi khác rất nhiều. tường treo rất nhiều thanh kiếm dài, nhìn những hoa văn tinh xảo bao kiếm là biết đó toàn là kiếm quý. tủ sách nho , tôi lướt qua và nhận thấy hều hết đều là sách kinh Phật. Sách tiếng Tochari đều là sách về binh pháp và chiến tranh. Chỉ có vài cuốn sách tiếng Hán, "Binh pháp Tôn tử". "Hàn Phi Tử", "Chiến quốc sách"…

      mải mê ngắm căn phòng của Pusyseda. Chợt thấy cậu ta thận trọng lôi từ trong ngăn tủ ra vật gì đó rất giống khung ảnh, rồi nhàng cởi lớp vải lụa bọc bên ngoài.Tôi há hốc miệng, đó là bức họa Doremon mà tôi tặng cho cậu nhóc nhân dịp năm mới! ngờ, cậu ta vẫn giữ gìn nó như giữ báu vật vậy!

      Tôi ngẩng đầu lên nhìn Pusyseda, xúc động:

      - Pusyseda …!

      - Đừng sụt sịt vội, vẫn còn nữa đó.

      Cậu ta rút cuốn sách bên dưới gối, đặt vào lòng tôi, đó là cuốn "Kinh thi", mép sách nhàu nhì, chắc chắn được chủ nhân lật mở rất nhiều lần.

      - Chị có thể chọn trang bất kì để kiểm tra.

      Tôi cần mở sách, suy nghĩ trong giây lát:

      - Thiên "kích cổ" (Gióng trống) trong phần "Bội Phong - Quốc Phong", cậu thuộc chứ?

      Pusyseda nhếch mép cười, hai tay chắp sau lưng, bước vài bước, quay quay đầu, cất giọng trầm bổng, ngâm ngợi:

      Trống đánh thùy thuỳnh

      Gươm giáo tập tành

      Những ai đắp đất xây thành

      Xa nhà xa nước riêng mình sang nam



      Tử sinh cách trở đôi nơi

      Cùng em nặng lời từ xưa

      Đôi ta những nguyện cùng giá,

      Cầm tay thủa ấy, bây giờ chưa quên

      Cùng nhau thôi cách xa,

      Sống đâu còn đến thân ta hỡi mình,

      Thề xưa còn đó rành rành,

      Nay thôi phụ tình cùng em [18]

      Đây là bài thơ tôi thích nhất trong "Kinh Thi". Khi giảng bài cho Pusyseda, tôi dùng tiếng Tochari, giống khi lên lớp bằng tiếng Hán cho Rajiva. Nghe cậu ta phát tiếng Hán trọ trẹ, tôi muốn bật cười, nhưng hiểu sao sống mũi cay cay, chừng như muốn khóc.

      - Còn nhớ , chị từng , nếu tôi đọc thuộc "Kinh thi" chị trở lại?

      Tôi gật đầu. ngờ, những lời buột miệng ra khi ấy, Pusyseda đều cho là .

      - Năm đầu tiên, tôi đọc thuộc toàn bộ cuốn "Kinh thi", nhưng chị quay lại. Tôi nghĩ rằng tại mình chưa đọc tốt, nên năm thứ hai, tôi đọc thuộc lại lần nữa, nhưng chị vẫn bặt vô tín. Mỗi năm vào đúng ngày mùng mười tháng lịch, tôi đều đến phòng chị và đọc hết lượt cuốn 'Kinh thi" này. Tôi đọc mười lần chị trở về…

      - Pusyseda…

      - Cảm động lắm phải ?

      Tôi gật đầu, nước mắt trực trào ra, tôi sắp kìm chế được nữa rồi!

      - Vậy, cho tôi ôm cái!

      Tên sói nham hiểm chuẩn bị lao vào bé quàng khăn đỏ, nhưng bị khổ chủ cho cái bạt tai. Những giọt nước mắt khi nãy trực trào ra được nuốt ngược trở lại vào trong bụng.

      Hôm đó, tôi đến thăm Kumarayana. Mười năm qua , hai người con trai của ông trưởng thành và tận hưởng những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người, còn với ông, mười năm thời gian giống như lưỡi dao vô hình cắt từng vết hằn học thân thể ông. Khuôn mặt vốn gầy guộc, khổ hạnh, nay càng thêm hốc hác, xanh xao, tóc ông bạc trắng, hình như năm nay ông mới ngoài năm mươi tuổi. Nhưng ông có vẻ rất yếu, những tiếng ho khan bật lên liên hồi. Nhưng đôi mắt màu xám nhạt khảm giữa hai hốc mắt như hai vực sâu hun hút ấy, đôi mắt sáng rực vẻ thông tuệ và từng trải ấy như nhìn thấu tâm cam con người. Tôi bỗng run rẩy, đôi mắt Rajiva rất giống mắt cha.

      Bộ dạng bông đùa, cười cợt thường ngày của Pusyseda biến mất, cậu tỏ ra rất mực cung kính đối với cha, chuyện trò từ tốn với ông rất lâu bằng tiếng Phạn. Kumarayana ngừng đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía tôi, khiến tôi khỏi lo lắng, Nhưng sau đó, ông hề tỏ ra thắc mắc về lai lịch kỳ lạ của tôi. Ông chỉ nhàng bảo tôi hãy yên tâm ở lại và rằng người của phủ quốc sư đối đãi với tôi như vị khách quý. Tôi đoán đúng, người thông tuệ như Kumarayana, dù ông thể biết thân phận của tôi, nhưng ông xem tôi như ma quỷ quái để rồi trói tôi lại và đem thiêu sống. Có lẽ vì thế, ông mới sinh ra hai người con trai xuất sắc như vậy và cả hai đều kính ông như vậy!

      Đêm đó, tôi được ngủ giấc say sưa trong căn phòng mà trước kia tôi từng gắn bó suốt ba tháng trời. Tôi băn khoăn tự hỏi, biết Rajiva nghĩ gì nếu biết tôi quay về phủ quốc sư. biết giờ này cậu ấy làm gì? Và, biết cậu ấy có nhớ tôi ?

      Chú thích:

      [9] Câu vui này tương tự kiểu trẹo hài hước trong tiếng Việt như: Nồi đồng nấu ốc nồi đất nấu ếch, nhưng lại là về chủ đề ăn nho, nên người dịch tạm chuyển ngữ như vậy.

      [10] Khu vực tây bắc đại lục Nam Á, nay thuộc vùng giáp ranh giữa biên giới phía bắc Pakistan và biên giới phía đông của Afghanistan

      [11] Ngôn ngữ Phật giáo gọi là " hạ"

      [12] Năm điều trói buộc: cái tôi bản thể, nghi ngờ, giới luật, dục vọng và ghét.

      [13] Bản dịch của Nguyễn Xuân Tảo.

      [14] Trống Hạt là loại trống cổ của Trung Quốc, hai mặt bọc da, thân trống thắt eo

      [15] loại hình vũ đạo dân gian lưu hành chủ yếu ở các vùng nông thôn miền bắc Trung Quốc.

      [16] Khèm khất lật hay còn gọi là khèn Tacta, loại nhạc cụ dạng ống, thân trúc, gắn lau sậy để thổi.

      [17] Loại đàn cổ, số lượng dây đàn tối thiểu là năm dây, tối đa là hai mươi lăm dây.

      [18] "Kinh thi", Tản Đà dịch, trang 94- 95

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 24: Rong chơi
       

      Mở mắt thấy bên giường có bóng người. Tôi thót tim, sau đó giận sôi người. Lại là tên ranh ấy! Hồi chưa hiểu chuyện làm tôi hết hồn bao phen, tôi có thể bỏ qua, nhưng bây giờ là người lớn rồi, mà sao hiểu thế nào là "nam nữ thụ thụ bất thân"?

      - Chị ngủ giỏi đấy, tôi ngồi nhìn chị từ suốt từ nãy đến giờ mà chị hay biết!

      Tôi giận dữ thu người vào trong chăn. Lúc này, tôi chỉ mặc chiếc váy ngủ mỏng, biết khi nãy, chân thò ra ngoài có bị nhìn thấy ?

      - phải giấu, có gì đáng xem đâu!

      Tôi phi chiếc gối vào người , nhưng tên ranh nhanh nhẹn né được. cười vang, mon men lại gần giường tôi:

      - Mau dậy , lễ hội Sumuzhe hôm nay có nhiều trò hay lắm!

      - Cậu ra ngoài để tôi thay quần áo!

      Pusyseda cợt nhả nữa, ngoan ngoãn bước ra ngoài. Nhưng vừa ra khỏi cửa, lại thò chân vào, nháy mắt với tôi:

      - Chị mặc chiếc váy ấy cũng đẹp mà, nhưng tiếc là chỉ được mặc trong phòng cho tôi ngắm thôi.

      Tôi nổi đóa, lùng sục khắp phòng tìm vũ khí, nhưng chưa tìm ra cười ha hả chạy biến tận đâu rồi.

      Người qua lại phố đông như mắc cửi, Pusyseda che chắn cho tôi, để bị chen lấn. Nhưng tôi thích kiểu bảo vệ ấy. Cậu ta cứ ôm chặt lấy tôi dìu , ai nhìn thấy cũng tưởng chúng tôi là cặp tình nhân. Mà cậu ta, hình như được rất nhiều người quý mến, ai gặp cũng tươi cười chào hỏi. Đàn ông liếc thấy bàn tay như gọng kìm của cậu ta bám chặt lấy vai tôi cười nham hiểm. Còn phụ nữ phức tạp hơn nhiều, phần lớn là những ánh mắt hình mũi tên, khiến tôi lạnh cả người. Nhưng tên ranh ấy hình như thèm quan tâm, bộ dạng bất cần của đáng giận!

      Tôi cố sức vùng vẫy khỏi “vuốt sắc” của , nhưng càng vùng vẫy càng xiết chặt.

      - Đừng ồn, đội múa sư tử sắp bắt đầu rồi đấy.

      Các tay trống Hạt đồng loạt gióng trống, khí thế hào hùng. Năm chú sư tử đủ các màu: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, từ năm hướng tiến vào khu vực trung tâm. Mỗi chú sư tử được điều khiển bởi mười hai nghệ sĩ, đầu đội đai đỏ, có hai người trước phe phẩy cây phất trần màu đỏ, biểu diễn những động tác hài hước gây cười. Bên cạnh đội sư tử là dàn hợp xướng gồm hơn trăm người, họ hát vang những bài ca ca ngợi đức vua Khâu Từ, thanh tiếng trống tiếng nhạc tiếng hát ngân vang, bay cao lên chín tầng mây. Sư tử là loài vật linh được hoàng tộc Khâu Từ sùng bái, đức vua Khâu Từ thường tự xưng là vua Sư Tử. Người Khâu Từ còn sáng tạo ra câu chuyện vị vua dũng mãnh của họ hàng phục được loài sư tử. Điệu múa sư tử ra đời dựa câu chuyện ấy. Sau khi chiếm được Khâu Từ, Lư Quang đưa Kumarajiva cùng hàng vạn nghệ sĩ, nghệ nhân của Khâu Từ đến Lương Châu (nay là huyện Vũ Uy, Cam Túc), kể từ đó, múa sư tử gia nhập vào đời sống văn hóa của người Hán, được cải biên trở thành điệu "múa sư tử năm hướng" lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên cho đến tận ngày nay.

      Phía trước quảng trường là dãy lán trại được trang hoàng lộng lẫy, đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc ngồi bên trong. Tôi hỏi Pusyseda:

      - Sao cậu đến ngồi cùng họ?

      - theo mấy ông bà già ấy có gì hay ho chứ! Tôi thích chơi với chị hơn.

      Tiếng ồn ào khiến tôi nghe cậu ta gì. Pusyseda ghé sát vào tai tôi, gào to:

      - Nhìn bộ dạng lúc cáu giận và điệu cười ngớ ngẩn của chị rất là thích thú!

      Tên ranh hỗn hào! Tôi điên tiết hất tay ra, nhưng chỉ lát sau lại sáp đến, mặc tôi gườm gườm nhìn đe dọa, chẳng biết sợ là gì, cũng chẳng để tâm tức giận của tôi. mặt vẫn nhăn nhở cười đùa, cợt nhả. thích chọc tôi thế ư?

      ngày trôi qua rất nhanh với các tiết mục biểu diễn, với các món ăn vặt của Khâu Từ, với việc cãi lộn, cáu gắt với Pusyseda. Buổi tối, tôi thận trọng cài then cửa chính lẫn cửa sổ, đề phòng trộm cắp và đề phòng Pusyseda. Sáng hôm sau khi thức dậy, phải giật thót tim vì Pusyseda nữa, nhưng cái giá phải trả là toàn thân ngứa ngáy vì đêm nóng bức, ngột ngạt. Lúc mở cửa, thấy cậu ta đứng tựa lưng ở bên ngoài, điệu bộ cợt nhả, đẩy về phía tôi chiếc lọ . Tôi tò mò đón lấy, hỏi là thứ gì. Tên ranh thản nhiên đó là hộp phấn rôm, còn lên giọng tuyên bố, giáo huấn hồi, rằng mùa hè nóng nực, trong phòng phải mở cửa cho thoáng gió, thoáng khí. Tôi tiện tay vơ lấy cây chổi dựng ở góc nhà, đuổi theo chạy vòng vòng khắp phủ quốc sư, miệng ngừng gào to phải trị tội .

      Tất nhiên là tôi đuổi kịp , hồi mười tuổi tôi phải là đối thủ của rồi. Mới chạy được vài vòng tôi thở dốc, phủ phục xuống đất, hai tay giơ cao cán chổi, giọng thều thào:

      - Tôi xin hàng, xin đại tướng quân tha mạng!

      Vừa dứt lời tôi cảm thấy bất an, sao tôi có thể thốt ra những lời mà hồi bé Pusyseda nài ép tôi đóng kịch cùng nhỉ? thành phản xạ có điều kiện rồi, thành phản xạ có điều kiện rồi! Pusyseda ôm bụng cười nghiêng ngả giữa sân. Người trong phủ qua lại, nhìn chúng tôi với vẻ mặt ngạc nhiên khó hiểu. Tôi thấy mình còn chút thể diện nào…

      Ngày thứ ba của kễ hội Sumuzhe, vẫn rộn ràng những màn biểu diễn múa hát. Nghệ nhân từ khắp các quốc gia Tây vực đều tập trung về Khâu Từ, ngày nào cũng nhộn nhịp tưng bừng, ngày nào cũng hân hoan, náo nức. Pusyseda rất ham vui, hễ thấy chỗ nào đông người là kéo bằng được tôi đến đó. Lúc này, chúng tôi đứng ở góc quảng trường lớn, sân khấu được dựng lên ở khu vực trung tâm, giữa khán đài có trụ sắt khổng lồ, phía là đài hoa sen. Khi ba tiếng trống vang lên dồn dập, đài sen mở ra, xuất , đeo khăn che mặt bằng chất liệu voan mỏng, mặc chiếc váy dài, tay rộng màu mận chín, mình đeo những chiếc chuông được gắn vào những dải lụa mềm mại, chân đôi giày vải màu đỏ rất xinh xắn. nhạc nổi lên, bắt đầu nhảy múa, tiếng chuông lanh canh, réo rắt, vui tai vang lên theo mỗi chuyển động của cơ thể .

      - Đây là điệu múa Chaj [19]

      Pusyseda ghé vào tai tôi thầm:

      - Lát nữa đừng xấu hổ đấy nhé!

      Hơi thở của cậu ấy khiến vành tai tôi ngứa ngáy, tôi nghiêng đầu né tránh. Cứ chuyện bình thường, việc gì phải ghé sát như vậy chứ!

      Tiếng trống ngày càng rộn rã, dồn dập. Toàn thân rung lắc, uốn lượn mềm mại như dải lụa. Rồi tiếng trống đột ngột dừng lại, kéo chiếc áo choàng rộng thùng thình ra khỏi người và tung lên đài sen. Giờ người chỉ còn lớp áo voan mỏng màu mận chín bó sát người, chiếc áo khoác ngắn tay và chiếc váy dài thướt tha cùng màu. Tiếng trống tiếp tục vang lên với tốc độ ngày nhanh hơn, chiếc váy tung bay lả lướt, chuyển động của uyển chuyển, thanh toát tựa như nàng tiên. Tiếng trống lại dừng đột ngột, trút bỏ chiếc áo ngắn bên ngoài, để lộ cánh tay trần và thân hình quyến rũ sau lớp vải voan mỏng. Đám đông hò reo ngớt, ai nấy đều phấn khích rạng rỡ, tôi cũng ngoại lệ. Tiếng trống tiếp tục dội lên, bắt đầu xoay người, cơ thể chuyển thanh toát, sức hấp dẫn ngày đẩy lên cao qua mỗi điệu bộ lơi lả. Bàn tay nhàng giật tung chiếc váy dài thướt tha, để lộ chiếc quần thắt ống màu hồng phấn xinh xắn. Rồi sau đó, thắt lưng cùng chiếc áo voan mỏng bó sát đều được trút bỏ hết, mình chỉ còn lại chiếc áo ngực (giống kiểu áo Bra thời đại) và chiếc quần thắt ống (Kiểu quần Alibaba, với rất nhiều tư thế khêu gợi, quyến rũ khiến người xem phải nín thở.

      - Trời đất ơi, đây ràng là điệu múa thoát y mà!

      Hai mắt tôi được dịp co giãn hết cỡ, cổ họng cũng được hoạt động liên tục với việc điều tiết nước bọt. thể tin được, 1650 năm về trước, tư tưởng của người Tây vực đại đến mức này rồi ư? Ở thế kỷ XXI, muốn xem thoát y vũ với nhiều cấp độ khác nhau, bạn phải tìm đến quán bar hay các vũ trường, làm gì có chuyện được phép biểu diễn công khai ở giữa chốn đông người như thế này?

      Có ai đó vừa quệt tay rất mạnh lên mũi tôi.

      - Lạ , tôi cứ nghĩ con Trung Nguyên xem màn biểu diễn phải xấu hổ, thẹn thùng chứ nhỉ, nào ngờ, chị còn phấn khích hơn cả tôi!

      Tôi che kín chiếc mũi tội nghiệp của mình. So với người Khâu Từ, sống mũi tôi vốn được thẳng rồi, giờ lại bị tên đáng ghét kia làm cho lệch hơn nữa.

      - Chị hứng thứ như vậy, hay là...

      Tên háo sắc sáp lại gần tôi.

      - Tối nay về phủ chị biểu diễn cho tôi xem nhé.

      Mũi nhận được cú đấm trả hận đích đáng.

      ôm lấy mũi, mặt nhăn nhó kêu đau, nhưng vẫn cố vớt vát thêm câu:

      - Thôi, thôi, chị cởi ra cũng chẳng có gì hay ho xem đâu…

      Có vẻ như muốn sống mũi của mình bao giờ đứng thẳng lên được!

      Buổi sáng, vừa tỉnh dậy lại thấy đôi mắt màu xám nhạt chăm chú quan sát tôi ở khoảng cách gần đến choáng váng, khiến tôi thót tim, tôi sớm mắc bệnh đau tim vì mất, Tôi tự trấn an bản thân, rồi quen, rồi quen. Biện pháp đối phó lần này của tôi là thay váy ngủ, tôi lên giường và mặc nguyên bộ quần áo lúc chơi. Thế nên tôi tự tin mở toang cửa sổ và ngủ ngon lành cho tới sáng.

      Vẻ thất vọng lộ gương mặt Pusyseda:

      - Cái váy hôm trước đâu rồi, sao chị mặc?

      là đồ háo sắc! Tôi tươi cười đắc ý:

      - Cậu bảo chẳng có gì hay ho để nhìn kia mà!

      - đúng là như thế!

      gật gù nghĩ ngợi:

      - Ngải Tình, chị phải chịu khó ăn nhiều thịt vào.

      - Để làm gì?

      - Thế cái chỗ này mới to lên được.

      - Chị gầy quá chạm vào chỗ đó chẳng mang lại cảm giác gì cả.

      Tôi chịu nổi nữa! Ai có thể giúp tôi tiêu diệt tên háo sắc này ?

      Lại ngày rong chơi phố. Tôi hầu như quên bẵng công việc, ngày ngày chỉ biết vui chơi và ngủ nghỉ. Pusyseda là bạn chơi rất tuyệt, vì cậu ta luôn nghĩ ra những trò vui mới. Mỗi ngày cậu ta đưa tôi đến nơi để thưởng thức những món ăn khác nhau, món ăn Ấn Độ, món ăn Trung Á, món ăn Ba Tư, món ăn Trung Quốc, từ các món sơn hào hải vị đến các món ăn vặt đủ hương vị đặc sắc khác nhau. Vòng eo của tôi phình ra đáng kể. Bảy ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe ấy, tôi được vui chơi thỏa thích nhiều hơn bất cứ dịp Quốc tế lao động hay Quốc khánh nào ở thế kỷ XXI. Những màn biểu diễn nghệ thuật đường phố đều rất đặc sắc, là nguồn tài liệu thực tiễn vô cùng quý giá, tính chất đại chúng của các loại hình biểu diễn đó cũng đáng ngưỡng mộ. Mỗi khi nhạc vang lên, tất cả mọi người, phân biệt giới tính, tuổi tác đều cùng nhau nhảy múa ca hát.

      Ngày thứ tư của lễ hội Sumuzhe, tôi được tận mắt chiêm ngưỡng điệu múa tròn xoay (Hồ hoàn vũ) của người Hồ mà tôi hâm mộ từ lâu. Điệu múa này có nguồn gốc từ quốc gia Kangqu ở Trung Á [20] , sau khi du nhập vào Trung Nguyên, nó trở lên thịnh thành.

      Thời nhà Đường có rất nhiều thi nhân chấp bút họa thơ về đề tài này. Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến bài thơ của Bạch Cư Di: " Hồ múa điệu xoay tròn, tâm hồn hòa vào tiếng đàn, cánh tay đưa theo nhịp trống". Có tài liệu còn ghi chép rằng, Dương Quý Phi múa điệu Hồ hoàn vũ này rất điêu luyện, đến mức Bạch Cư Di từng phê phán "người đẹp": "Quý phi mê hoặc quân vương bằng điệu múa xoay tròn".

      Giờ đây, được tận mắt chiêm ngưỡng, quả là rất đẹp! Đây là điệu múa tập thể. Hơn mười thân hình mềm mại, dáng điệu thướt ta, với những động tác xoay người rất điệu nghệ, thanh toát. Các nhà thơ miêu tả họ "nhanh như sao băng", "rực rỡ như mặt trời" quá lời chút nào! Hồi Ai Cập, tôi từng được xem người dân bản địa múa điệu Sufi, cũng là động tác xoay liên tục nghỉ ngơi, nhưng do nam giới biểu diễn. Các nghệ sĩ cũng khoác lên mình những chiếc váy dài sặc sỡ, khi họ xoay tròn, sắc màu chiếc váy biến đổi kỳ ảo, tôi vừa ngưỡng mộ lại vừa lo lắng, biết họ có chóng mặt hay .

      Buổi tối, tôi dỗ giấc ngủ bằng nỗi nhớ Rajiva, bằng những kỉ niệm ngọt ngào giữa chúng tôi. Những điều nhặt nhất liên quan đến cậu ấy cũng có thể khiến tôi ngơ ngẩn hồi lâu. Mấy ngày qua tôi được vui chơi hết mình, tôi chưa bao giờ vui chơi thảo sức như thế, lại trong nhiều ngày liên tục như thế. Giá như có Rajiva bên cạnh… Thôi, nghĩ đến nữa. Cậu ấy chẳng thể ngồi xổm bên đường gặm thịt xiên với tôi như Pusyseda được. Nhắc đến Pusyseda mới nhớ, ngày mai nhất định phải với cậu ta, nên mới sáng sớm tinh mơ chạy đến phòng tôi như thế!

                  Chương 25: Lãng tử


      - Sao hôm nào mới sáng sớm tinh mơ chạy đến phòng tôi như thế này?

      Tôi trùm chăn, than vắn thở dài.

      - sao. Ngày xưa tôi vẫn thường xuyên như thế mà. Chị quên tôi từng ngủ cùng chị à?

      Tức chết mất!

      - Khi ấy cậu mới mười tuổi.

      Hồi bé quấn lấy tôi, tôi trách, nhưng bây giờ là người lớn rồi, cứ quẩn quanh bên tôi thế này, ngày sau kết hôn, làm sao vợ cậu ta có thể chấp nhận được!

      - Cậu có biết là cậu trưởng thành rồi ?

      Pusyseda gật đầu, đôi mắt mở to chớp chớp, long lanh, tỏ vẻ vô tội. Lại cái chiêu cũ rích hồi vẫn thường dùng để lấy lòng tôi đây mà!

      - Nam nữ phải giữ khoảng cách chứ, cậu em!

      Tôi ôm đầu, chỉ muốn lao vào bức tường kia cho xong!

      Bỗng nhiên, tôi bị kéo vào vòng tay rất chặt và mạnh mẽ, giộng xúc động thoảng qua đầu:

      - Ngải Tình, xin đừng như lúc trước, tỉnh dậy thấy bóng dáng chị đâu cả, báo hại tôi lang thang tìm kiếm khắp nơi…

      Tôi cảm động, những chiếc lông nhím chưa kịp xù lên mềm nhũn ra. ra, mỗi sáng cậu ta chạy đến phòng tôi là để chắc chắn rằng tôi vẫn ở đây. Nhớ năm đó cậu ta mới mười tuổi, vậy mà phải chứng kiến cảnh người , việc biến mất vào khoảng chỉ trong nháy mắt, hệt như diễn kịch vậy. người trưởng thành và tâm lý vững vàng, nếu phải chứng kiến cảnh đó, có lẽ cũng thể chịu nổi, đừng cậu nhóc. biết khi ấy Pusyseda hụt hẫng và hoảng sợ nhường nào! Chỉ e, suốt đời, cậu ta cũng thể xóa được ám ảnh tâm lý này. Tất cả là lỗi ở tôi…

      - Xin lỗi Pusyseda…

      Thực ra, lần này tôi lại biến mất, nhưng tôi hứa với lòng mình, để Pusyseda phải chứng kiến cảnh tượng đó thêm lần nào nưa. Thời đại này, kiếm đâu ra bác sĩ tâm lý để điều trị cho cậu ta?

      - Ngải Tình, tôi có phải là người đàn ông đầu tiên mà chị ngủ cùng ?

      Trời đất ơi! Tên trăng hoa này mà gặp trở ngại về tâm lý ư? Tôi gào lên thảm thiết. Ai giúp tôi xé xác ra với!

      Tâm điểm của lễ hội Sumuzhe trong ngày thứ năm này là vũ điệu "Hồ đằng" (điệu múa bay lên). Điệu múa này do nam giới biểu diễn và chú trọng đến các kỹ thuật: bay cao, trụ vững, sải dài, đá chân quay vòng, xoay tay chống eo, thu cằm nhún vai. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tương đồng giữa vũ điệu này với các điệu múa của người Uyghur thời đại. Tiếng nhạc hào hùng sôi nổi, xúc cảm dâng chào cuồng nhiệt, hơn mười chàng trai vừa hô vang, vừa bay nhảy, reo hò cỗ vũ nghỉ ngơi.

      - Ngải Tình, chị thích điệu múa này lắm hả?

      Pusyseda ghé tai hỏi lớn, tôi chẳng thèm suy nghĩ, gật đầu lấy lệ, ánh mắt rời khỏi các nghệ sĩ đẹp trai ngời ngời biểu diễn sân khấu.

      Pusyseda tháo mặt nạ đặt vào tay tôi, chạy biến. Chưa kịp hỏi xem cậu ta đâu thấy lãng tử rẽ đám đông, lao vào giữa đội múa. Tôi há hốc miệng khi thấy Pusyseda nhanh chóng hòa nhập với đội múa và thực những động tác bay nhảy như diễn viên chuyên nghiệp. Pusyseda nổi bật giữa sân khấu, chỉ bởi chiều cao mét tám mươi lăm và thân hình hoàn hảo, mà còn bởi khuôn mặt điển trai, quyến rũ. Cậu ta vừa bước lên sân khấu, tiếng reo hò cổ động của các khán giả nữ vang lên áp đảo.

      Pusyseda gập người làm tư thế ngồi, nhưng nhanh như cắt, bước chân biến chuyển tựa như chim bay, các động tác di chuyển vị trí, dứt khoát, nhịp nhàng, mềm mại, vừa thể được sức mạnh, vừa thể được khéo léo. Những bước nhảy điêu luyện của Pusyseda khiến tôi, lần đầu tiên cảm nhận được kiểu hấp dẫn khác của nam giới, tôi gào thét cổ vũ cùng các dưới khán đài. Nhưng như thế hình như vẫn chưa sảng khoái, tôi tháo mặt nạ, chụm tay quanh miệng làm thành hình cái loa, hướng về Pusyseda gào to:

      - Pusyseda, cậu khá lắm, tôi cậu!

      Nghe thấy tiếng kêu của tôi, cậu ta nháy mắt truyền tín hiệu, nhếch môi cười đắc ý, điệu bộ ấy có thể hớp hồn bất cứ nào!

      nhạc càng lúc càng sôi động. Động tác nhảy của Pusyseda càng lúc càng nhanh thoăn thoắt, tiếng reo hò cổ vũ của khán giả càng lúc càng bùng nổ, mọi người vỗ tay theo nhịp trống. Rồi nhạc đột ngột tắt lịm, Pusyseda đột ngột lộn vòng rất cao , khi tiếp đất, đầu gối ở tư thế quỳ xuống sàn diễn, vẽ đường trượt dài về phía tôi. Lúc dừng lại trước mặt tôi, cậu ta làm động tác dang rộng hai tay, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, nụ cười rạng rỡ, hấp dẫn bút nào tả xiết. Tôi cảm nhận rất những ánh mắt hình mũi tên chĩa về phía mình, vội vàng đưa tay kéo cậu ta dậy.

      Pusyseda mồ hôi nhễ nhại, vài lọn tóc xoăn màu nâu dính trán, quần áo cũng đầm đìa. Phản xạ đầu tiên của tôi là đút tay vào túi, nhưng chẳng có cái khăn nào cả. biết bao nhiêu năm rồi tôi mang theo khăn mùi xoa bên người, vì quen dùng khăn ướt, mặc dù tôi biết dùng khăn ướt vệ sinh chút nào…

      Thấy tôi tiu nghỉu rút đôi tay trống từ trong túi áo ra, Pusyseda cười : sao, rồi kéo vạt áo của tôi lên lau mồ hôi. Tôi sững sờ, cậu ta tự nhiên vô đối…

      Nhìn chiếc áo nhàu nhì, ướt mèm, tôi chỉ muốn khóc. Toàn mồ hôi là mồ hôi, mà hình như có mùi rất là khó chịu. Tôi bực mình càu nhàu:

      - Này, cậu làm thế, tôi mặc làm sao được nữa? Cậu… cậu… cậu là quá đáng

      - Sao thế? Tiếc gì cái áo ấy, tôi thấy vui là được!

      Lòng bàn tay cậu ta nhớp nháp mồ hôi, hỏng rồi, tay tôi cũng sạch nữa!

      - mua quần áo.

      Pusyseda quay đầu nhìn tôi, vẻ bực dọc.

      - Chị tiếc làm gì bộ quần áo cũ rích ấy, chị khoác thứ đó lên người cùng tôi ra phố làm mất mặt tôi quá!

      - Pusyseda!

      Chúng tôi giật mình dừng bước, nhìn lên. làm da trắng trẻo mịn màng dừng trước mặt chúng tôi, vẻ mặt giận dữ cuồng nộ. Pusyseda nghiêng mắt nhìn , điệu bộ thách thức. Đây ràng là màn kịch tình , nhưng tôi phải là vai chính, tôi phải rút lui thôi.

      Tôi lẳng lặng bứt ra khỏi bàn tay rặt mồ hôi của Pusyseda, định bụng thân vào góc khuất ở con phố bên cạnh.

      Nhưng được nửa bước bị kéo trở lại. Nguy quá, quàng tay lên cổ tôi. Tôi rùng mình, mùi mồ hôi nồng nặc..

      - Pusyseda, .. sao làm vậy?

      đó chừng sắp khóc, ánh mắt nhìn tôi đằng đằng sát khí.

      - nhìn thấy cả rồi đấy.

      Pusyseda quàng vai tôi, áp sát đầu vào cổ tôi. Chú em ơi, cậu thích người ta cũng đừng nên lấy tôi làm lá chắn cho cậu chứ. Huống hồ người chú em đầm đìa mồ hôi thế này…

      - Nhưng là…

      - gì? Tôi hứa hẹn gì với ? tự mình dấn thân đấy chứ?

      - ơi, hiểu nhầm rồi…

      - Tôi và cậu ấy phải như nghĩ đâu..

      "Chụt!"- tiếng động lạ, ràng, dứt khoát phát ra má trái của tôi. Thê thảm quá, hết tay chân, quần áo, đến cả mặt cũng bị vấy bẩn rồi!

      giận dữ giậm chân, nước mắt như mưa gió, chạy như bay. Tôi thở dài. Chỉ chú sơ ý, tôi trở thành vai chính của vở kịch này.

      - Pusyseda, sao lại đối xử với người mến cậu như thế?

      - Bọn họ cứ bám riết lấy tôi đấy chứ. Đôi bên vui vẻ chút sao, nhưng đằng này, chỉ vài ngày sau là họ lại đòi tương lai này nọ.

      Đúng là đồ lăng nhăng! Chả trách trai cậu ta từng trách: Suốt ngày trêu hoa ghẹo nguyệt. Nghĩ đến Rajiva, trong lòng chợt thấy ấm áp lạ thường. Rajiva chắc chắn bao giờ như vậy. Tuy rằng mười năm sau… Thôi, nghĩ đến nữa! Kể từ giây phút quyết định Rajiva theo cách riêng của mình, tôi quyết tâm nghĩ đến chuyện sau này cậu ấy kết hôn và sinh con. Tôi muốn nghĩ xa xôi đến thế. Tôi chỉ cần được Rajiva trong tại, thế là đủ…

      - Pusyseda, lẽ nào cậu chưa từng ai?

      - Đúng vậy.

      Câu trả lời mới dứt khoát làm sao!

      Gặp lại Pusyseda sau mười năm, tôi nhận thấy cậu ta trở thành lãng tử đa tình, cả ngày lông bông rong chơi. Cậu ta trở nên ranh mãnh hơn, biết chọc giận tôi, có lúc còn khiến tôi đỏ mặt vì xấu hổ. Lúc đầu, ngỡ rằng cậu ta có ý gì với mình, tôi ra sức đề phòng. Nhưng qua vài ngày tiếp xúc, mới biết đó là bản tính cợt nhả, bông lơi của cậu ta. Thực ra, Pusyseda chưa từng có hành vi hay cử chỉ gì phải với tôi, mặc dù đôi lúc vẫn bắt nạt tôi và những lời lẽ trăng hoa của cậu ấy khiến tôi nổi giận. Ra phố, gặp những cậu ta quen biết, thấy ai nấy đều niềm nở chào hỏi, những quen ngẩn ngơ ngó theo. Với bất kì nào cậu ta cũng liếc mắt đá lông nheo trêu đùa, chọc ghẹo. Mở miệng là thốt những lời có cánh. Cậu ta giống hệt "người tình của đại chúng". Thế nên, tôi quen và còn khó chịu với những cử chỉ thân mật của cậu ta nữa. Đôi lúc, tôi càu nhàu, gắt gỏng, nhưng dần chấp nhận con người mới của cậu ta, vì dù sao đó cũng là bản tính trời sinh.

      Nhưng tôi phải thừa nhận rằng, những lúc ở bên Pusyseda, tôi rất vui. Cậu ta thông minh, lanh lợi, hoạt bát, lại hài hước, phóng khoáng, cậu ta nghĩ ra rất nhiều thứ khiến tôi vui và còn đẹp trai nữa. Chả trách biết bao chết mê chết mệt, bám theo cậu ta, chả trách những bị cậu ta bỏ rơi đều đau khổ tuyệt vọng đến như thế. May mà tôi cứng cỏi, kiên cường, sức hấp dẫn "chết người" của Rajiva, tôi còn có thể kháng cự trong thời gian dài nữa là! Và cũng mừng là trái tim rất bé, Rajiva "chiếm giữ" toàn bộ rồi. Nếu có lẽ tôi cũng giống như người phụ nữ đáng thương kia, khóc hết nước mắt khi phải chứng kiến Pusyseda thay người như thay áo.

      Buổi tối, tắm rửa xong xuôi, vừa bước đến cửa phòng thấy gã "lãng tử" "nhàn cư vi bất thiện", vẽ vời lung tung cuốn tập của tôi. Thói xấu này mười năm qua vẫn thay đổi. Mấy cuốn tập tôi quên mang theo hồi đó, chắc chắn bị cậu ta xé ít

      Vừa thấy tôi, gã lãng tử liền quẳng ngay chiếc bút xuống, vẻ mặt cau có:

      - Chị tắm rửa gì mà lâu thế! Này mặc vào !

      Pusyseda đẩy chiếc váy mới ra trước mặt tôi, đó là chiếc váy lụa mềm, màu lục, trang nhã, thêu những bông lựu vàng tươi tăn, chất liệu vải cao cấp, thủ công tinh xảo, chắc chắc người mua phải bỏ ra khoản khổng lồ. Tôi tấm tắc khen ngợi:

      - Pusyseda, cậu đúng là cao thủ tình trường. Chiếc váy đẹp thế này, nào đành lòng từ chối kia chứ!

      - Đây là lần đầu tiên tôi tặng quà cho phụ nữ đấy. Xưa nay, đều là đám phụ nữ ấy tặng quà cho tôi, họ tặng quà mà chưa chắc tôi nhận đâu.

      Cậu ta rướn cằm, vênh mặt lên trời.

      - Rốt cuộc là chị có nhận hả, thích để tôi trả lại

      - Ấy, đừng đừng.

      Tôi vội vàng đón lấy

      - Tôi cũng là phụ nữ, tôi nỡ từ chối.

      Khi còn ở thế kỷ XXI, vì thích du lịch, thích tìm hiểu, nghiên cứu mọi thứ, nên trang phục thường xuyên của tôi là quần bò, áo phông, giày thể thao. Sếp thường lắc đầu nhìn tôi bảo rằng tôi chẳng nữ tính chút nào. Trở về thời cổ đại, lại càng có nhu cầu thu hút chú ý của người khác, quần áo người mặc lại càng giản tiện hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng là phụ nữ, phụ nữ ai cũng giống ai, ai cũng bị quần áo đẹp chinh phục.

      - Thích ?

      Tôi gật đầu, sung sướng ướm thử chiếc váy lên người. Giọng rủ rỉ của Pusyseda bay đầu tôi:

      - Chị định trả công tôi thế nào đây?

      - Tôi giật mình

      - Cậu muốn thế nào?

      - Hay là, tối nay tôi ở lại đây nhé?

      Lại là nụ cười quyến rũ và những cái liếc mắt đưa tình làm người khác ngộp thở, lại là chiêu bài đong đưa mang thương hiệu ấy. Mặt tôi nóng bừng. Tôi quen nghe những lời tán tỉnh ve vãn ấy. là sao? Cậu ta muốn gì chứ?

      - Ha ha, tôi đùa thôi.

      Pusyseda cười giòn giã.

      - Tôi chưa thèm khát đến mức ấy đâu.

      Nhưng mà…

      Cậu ta đột ngột ghé mặt sát tôi, ánh mắt phong tình gợi cảm, cố ý kéo dài giọng:

      - Ngải Tình, chị chưa từng có gì với đàn ông đúng ? Tôi mới thế mà chị đỏ mặt rồi.

      Mặt tôi lại càng đỏ lên dữ dội, tôi lừ mắt đe dọa tên ranh ấy.

      - Việc gì đến cậu! Nếu có cũng phải với cậu!

      Cậu ta được dịp cười lăn lộn

      - Chị hoàn toàn khác những mà tôi từng gặp.

      Gã lãng tử tiếp tục cười nữa.

      - Tôi mà muốn ôm đám phụ nữ đó vào lòng, chắc họ phải run lên vì vui sướng. Chị khác, mới đụng chạm tí thôi mà chị tránh né, sợ sệt như có ai sắp cắt da xẻ thịt của chị bằng. Đám phụ nữ kia gặp tôi ba ngày nài nỉ tôi lên giường với họ. Vậy mà chị, bao nhiêu ngày rồi vẫn dửng dưng như .

      - Họ nài nỉ cậu ư?

      Trời đất ơi, ngờ 1650 năm về trước Khâu Từ đại đến vậy, quan hệ nam nữ có thể tùy tiện đến vậy! Nhưng nghĩ kỹ lại cũng có gì đáng ngạc nhiên cả. Điệu múa thoát y đường phố trong lễ hội Sumuzhe, đến những bức họa bán khỏa thân và hoàn toàn khỏa thân vách đá ở Kizil, tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nồng nhiệt của người dân nơi đây. Với lối sống đó của họ, nữ giới chủ động theo đuổi nam giới chắc chắn có gì là lạ. Vả lại, Pusyseda hội tụ đủ những điều kiện để các phải chết mê chết mệt

      - Đúng vậy, tôi chưa bao giờ nài nỉ bất cứ nào. Nhưng điều đó có nghĩa là tôi tùy tiện. Muốn được lọt vào mắt cậu chủ Pusyseda dễ đâu nhé.

      Cậu ta đổ người lên chiếc giường của tôi, hai tay gập lại làm gối, rung đùi tự mãn, đúng là dáng vẻ điển hình của tên trăng hoa.

      - Nhưng phụ nữ người Hán các chị có vẻ thẹn thùng, e lệ rất nữ tính và đáng .

      Đây là lần đầu tiên trong đời tôi chuyện về vấn đề giới tính với người con trai vào lúc nửa đêm thế này. Tôi cảm thấy rất mất tự nhiên. Tôi là phụ nữ thế kỷ XXI, lại hơn cậu ta ba tuổi, mà sao tôi hề tự tin khi chuyện với cậu ta nhỉ?

      - Ngải Tình, chị là đầu tiên mà tôi chưa nỡ "ra tay" sau thời gian dài như vậy đấy.

      Tôi chịu nổi vấn đề nhạy cảm này nữa! Vì sao cậu ta cứ mở miệng là thốt ra những lời lẽ đong đưa ong bướm như vậy? Còn tình sao, tình xếp ở vị trí nào?

      - Những lên giường với cậu, cậu có họ ?

      - hề! Tôi chỉ thấy vui thích thôi. Nhưng được vài ngày là họ đòi này đòi nọ. Họ đòi tôi phải hứa hẹn, đòi tôi lòng dạ, đòi tôi kết hôn, họ khiến tôi mệt mỏi và ngán ngẩm.

      - Họ muốn cậu hứa hẹn bởi vì họ lòng cậu.

      Trái tim tôi như thắt lại khi nghĩ đến con người mà ngay cả lời cũng dám thốt ra ấy.

      Đàn ông và phụ nữ tình cờ gặp gỡ, nảy sinh tình cảm, giai đoạn đó người ta gọi cuốn hút. Cuốn hút là sức hấp dẫn nhục dục, nó tan rất nhanh. Nhưng là thứ tình cảm chứa đựng cả rung động của tâm hồn và khát khao nhục cảm. Khi người ta , lý trí trở lên bất lực, mọi buồn vui, hạnh phúc và đau khổ đều nảy sinh từ đó. Rồi người ta muốn được có nhau, muốn được hãnh diện về nhau, đón nhận nhau, thương nhớ nhau, tha thứ cho nhau, hạnh phúc vì nhau. Nhưng đó chưa phải là giới hạn cao nhất của tình , giới hạn cao nhất là sống bên nhau. Tình cuồng nhiệt đến đâu rồi nước chảy hoa trôi, cũng trở lên bình lặng. Hai con người nương tựa vào nhau, sống bên nhau cho tới khi đầu bạc răng long, đó mới là gắn kết bền chặt, mãi mãi.

      Tôi lặng ngắm bầu trời bên ngoài cửa sổ. Rajiva ở nơi cách tôi bốn mươi dặm. Có phải cậu ấy cũng hướng lên bầu trời ngàn vì tinh tú kia giống như tôi ?

      - Từ tình cảm đến chân tình rồi trao nhau ân tình, đó mới là những cung bậc trọn vẹn của tình .

      Tôi và Rajiva, chẳng bao giờ có cơ hội để trao nhau ân tình. Tình cảm của chúng tôi, rồi cũng hoang phế.

      - Ngải Tình, chị ai rồi phải ?

      Tôi thót tim! Pusyseda ở rất gần tôi, đôi mắt sâu thẳm chiếu vào tôi như muốn soi tâm tư. Ánh mắt ấy giống Rajiva đến kì lạ!

      - , , phải.

      Tôi vội vàng thanh minh. Tôi thể để Pusyseda hay bất cứ ai đời này biết được tình cảm của mình dành cho Rajiva.

      - Tôi chỉ hơi xúc động thôi! Giá mà tôi có được tình như thế tuyệt biết bao…

      Pusyseda xoay vai tôi lại, ngón tay nhè nâng cằm tôi lên để khiến tôi đối diện với đôi mắt thường khiến tôi gặp ảo giác ấy.

      - Tử sinh cách trở đôi nơi

      Cùng em nặng lời từ xưa

      Đôi ta những nguyện cùng già,

      Cầm tay thuở ấy, bây giờ chưa quên [21]

      Ngải Tình, chị muốn có tình như vậy, đúng ?

      Tôi chưa từng nghĩ về điều này. Tôi chưa bao giờ dám mơ đến ngày nào đó được bình thản nắm tay Rajiva, cùng nhau đến cuối chặng đường đời. Mỗi người trong chúng tôi phải gánh vai rất nhiều trách nhiệm…

      - Ngải Tình, hay chúng ta thử xem.

      Khi làn môi gợi cảm của tên lãng tử chực đổ xuống, tôi kịp dùng chiếc váy mới che trước mặt, sau đó đá ra khỏi phòng.

                 
      Chương 26: Màn trình diễn của tôi



      Mở mắt ra lại thấy Pusyseda ngồi cạnh giường. Tôi thấy lạ, cũng chẳng thèm để ý, mặc cậu ta gào thét thúc giục, ngủ nướng thêm lúc nữa, mới uể oải vươn vai chào bình minh. Tôi mặc chiếc váy được tặng hôm qua, ra ngoài sân thấy Pusyseda khoác mình chiếc áo ngắn chít eo màu xanh lục. Dáng người rất chuẩn, nếu sống ở thời đại mà làm người mẫu hay diễn viên quả là “phí của trời”. Có điều quần áo mà chúng tôi mặc người rất giống trang phục của cặp tình nhân. Pusyseda nhìn thấy tôi, huýt sáo tán thưởng, sau đó đảo vòng quanh tôi, gật gù tấm tắc. Nhưng, tên ranh này lại phán câu khiến tôi rất đỗi đau lòng:

      - Sao chị trang điểm? Đồ trang sức của chị đâu?

      Tối qua, ngoài chiếc váy mới, Pusyseda còn tặng tôi cả bộ đồ nghề trang điểm. Nhưng tôi thu dọn và cất vào ba lô, dự định mang về thế kỉ XXI làm vật hỗ trợ cho việc nghiên cứu về cách thức làm đẹp của phụ nữ thời cổ đại. Còn đồ trang sức ư, tôi chưa bao giờ dùng đến, nếu có, tôi cũng cất để làm vật nghiên cứu. Phụ nữ thời Hán trang trí mái tóc rất đơn giản, quấn tóc gọn sau gáy, rồi dùng chiếc trâm cài lên là xong. Ngày nào tôi cũng ra phố với vẻ ngoài giản dị ấy, có sao đâu, hà cớ gì hôm nay lại bị gã phong lưu đẩy đến trước gương, ép tôi trang điểm? Điều đáng ngại là, tôi biết sử dụng “mỹ phẩm” của người cổ đại. Thế là gã phong lưu đành phải ra tay.

      Pusyseda thỏa sức bôi quệt mặt tôi, lòng đau như cắt, biết hôm nay da mặt tôi phải hấp thụ bao nhiêu chì đây?

      Rất lâu sau, Pusyseda mới ngừng tay, tôi ngắm mình trong gương, ôm bụng cười nghiêng ngả. Hai hàng lông mày của tôi giống hệt vai diễn bà mối trong các bộ phim của Ngô Quân Như, vành môi tròn, rộng, đỏ chót, có thể khiến bất cứ đứa trẻ nào hoảng sợ. Trời cao đất dày ơi, tạo hình kiểu này khác vai diễn Như Hoa trong phim hài của Châu Tinh Trì chút nào! Tôi chạy như bay rửa mặt, cầu trời đừng ai nhìn thấy bộ dạng của tôi!

      Sau khi trở lại là chính mình, tôi hạ quyết tâm, nếu Pusyseda vẫn muốn trang điểm cho tôi, hôm nay tôi ra phố nữa, cho dù tôi háo hức chờ đợi ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe biết nhường nào!

      Pusyseda o ép tôi nữa, gương mặt cậu xuất dấu hiệu của xấu hổ mà xưa nay tôi chưa từng thấy. Bây giờ đến lượt tôi đảo quanh cậu ta vòng, lẽ nào đây là khuôn mặt cợt nhả, phong lưu ngàn năm đổi ư?

      phố hôm nay toàn là các nam thanh nữ tú, dập dìu tài tử giai nhân, họ đeo mặt nạ như mấy ngày trước, ai nấy trang điểm xinh đẹp như hoa như ngọc, rất nhiều đôi mặc trang phục tình nhân, tay nắm tay tình tứ dạo phố. Tôi hiểu rồi, ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe là ngày lễ tình nhân của người Khâu Từ. Sau đó tôi nhận được rất nhiều ánh mắt ghen tị, tức tối khi nhìn thấy trang phục của chúng tôi và cánh tay như gọng kìm của Pusyseda vai tôi. Tôi cứ băn khoăn sao cậu ta lại tốt bụng đến thế, tặng váy áo cho tôi, lại bắt tôi phải trang điểm đẹp, ngờ đó là mưu đẩy tôi ra làm lá chắn cho mình, hại tôi vô duyên vô cớ chịu tội với bao nhiêu nàng. Tôi giận sôi người, ra sức vùng vẫy, nhưng kết quả vẫn như những lần trước, thoát được là thoát được.

      Các cặp đôi tập trung rất đông trước sân khấu đặt giữa quảng trường lớn, ai nấy đều háo hức chờ đợi. Tôi ngó nghiêng xung quanh, thấy các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp đâu cả. Lẽ nào hôm nay là ngày hội của diễn viên quần chúng?

      - Đây là cuộc thi hát, từng đôi nam nữ lên trình diễn các bài tình ca, ban giám khảo cho điểm dựa vào nội dung ca khúc, phong cách biểu diễn và chất giọng. Đội chiến thắng được bình chọn là cặp đôi đẹp nhất Khâu Từ năm nay. Chị nhìn kìa, đó là giải thưởng.

      Tôi đưa mắt theo cánh tay Pusyseda, thấy hai chiếc hộp đặt chiếc bàn cao, bên trong hẳn là thứ gì đó quý giá lắm. Vì đứng cách xa nên tôi nhìn giải thưởng.

      Pusyseda thở dài thườn thượt:

      - Ngải Tình à, bao nhiêu muốn hát cặp với tôi, nhưng vì chị mà tôi từ chối tất cả, chị có biết, tôi muốn giành được giải thưởng đó từ lâu rồi

      Cậu ta đưa ánh mắt thèm khát, rất tội nghiệp về phía chiếc bàn đặt giải thưởng.

      - nào!

      Tôi dắt tay Pusyseda bước về phía khán đài.

      - Ngải Tình, đây là lần đầu tiên chị chủ động nắm tay tôi, tôi vui lắm, nhưng chị có thể cho tôi biết, chị định làm gì ?

      - Giúp cậu giành giải thưởng chứ làm gì?

      Tôi nháy mắt, cười bí hiểm với Pusyseda.

      - Xem như tặng quà cho cậu vì hôm qua cậu nhảy rất đẹp.

      Sau khi đăng kí, chúng tôi đứng sang bên, tôi hát cho cậu ta nghe lời hát bằng tiếng Hán. Pusyseda cười ngặt nghẽo, nhưng bị tôi lườm đe dọa:

      - Hãy tỏ ra nghiêm túc, đây là cuộc thi mà!

      Pusyseda thôi cười, chăm chú nghe tôi hát, sau đó tự dịch sang tiếng Tochari. Tuy điệu hát giản đơn, nhưng Pusyseda dịch rất nhanh và rất khớp nhạc. Chỉ nghe tôi hát thêm lần nữa, cậu ta chuyển ngữ thành bài hát bằng tiếng Tochari trọn vẹn. Tôi hết sức kinh ngạc, Pusyseda vốn rất thông minh, có thể bằng trai, nhưng IQ của cậu chắc chắn vượt xa người bình thường. Nhưng vì thường ngày cậu ta hay cợt nhả, bông đùa, nên ai nhận ra trí tuệ của cậu thôi.

      Diễn tập vài lần, kiểm tra thấy có sai sót, chúng tôi hăm hở bước lên sân khấu khi nghe thấy người dẫn chương trình gọi đến tên mình.

      Chúng tôi đứng ở hai đầu khán đài, Pusyseda giả bộ dạo chơi phố, bỗng nhìn thấy tôi, vẻ mặt ngỡ ngàng vui thích, đảo quanh tôi mấy vòng. Tôi làm bộ xấu hổ, cúi đầu toan bước , chàng muốn chặn lại, tôi vội né tránh, chàng bắt đầu cất giọng phía sau tôi:

      - Này em, có biết, thứ gì đùa chơi, thứ gì dựng nhà, thứ gì che ô và thứ gì quấn quít nhau mặt nước?

      Giọng hát của Pusyseda vút cao, vang xa, khỏe khoắn. ngờ cậu ta chẳng những nhảy múa giỏi mà ca hát cũng tài đến vậy. Tôi nhìn Pusyseda, làm bộ thẹn thùng, e lệ, bắt đầu cất lời đối đáp bằng chất giọng thanh trong, từng vô địch các phòng hát Karaoke của mình:

      - Này chàng ơi, loài vịt đùa chơi, thuyền lớn dựng nhà, lá sen che ô và chim uyên quấn quít nhau mặt nước đó !

      chàng tươi cười hớn hở, muốn tiến lên nắm tay tôi, nhưng tôi nhanh nhẹn quay người né tránh, nhìn chàng và cất cao giọng:

      - Này có biết, thứ gì có miệng mà năng, thứ gì miệng nhưng inh tai cả ngày, thứ gì có chân chạy bao giờ, thứ gì chân nhưng nhà nhà đều ghé.

      Nghe tôi hát, chàng làm bộ gãi đầu, đăm chiêu, ra chiều khổ sở, nhún vai xòe tay, như muốn cầu xin đối phương đừng ra câu đối khó như vậy! Những động tác này hề có khi chúng tôi diễn tập, ràng là phần diễn ngẫu hứng của Pusyseda, cậu ta diễn rất tự nhiên, khiến câu chuyện của chúng tôi càng thêm hấp dẫn. Tên ranh này quả nhiên rất có khả năng trình diễn. Nhìn bộ mặt giả vờ như của cậu ta, tôi chỉ muốn bật cười.

      Tôi kết thúc phần hát của mình nhưng chàng tiếp lời đối đáp lại ngay. chàng bước vài bước, vẻ mặt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, khiến khán giả ai nấy đều cho rằng ta sắp thua, đếu khỏi lo lắng. Sau đó mặt mày chàng bỗng trở nên hớn hở, gõ gõ vào lòng bàn tay với vẻ mặt hả hê, xoay người đối đáp:

      - Này em, Bồ Tát có miệng nhưng Người chẳng năng, cồng chiêng miệng nhưng inh tai cả ngày, nhà giàu có chân thèm chạy, đồng tiền chân đến muôn nhà.

      Khán giả dưới khán đài vỗ tay reo hò tán thưởng, khí của toàn bộ hội diễn sôi nổi hẳn lên nhờ Pusyseda. Trong lúc mọi người vẫn hào hứng sôi nổi, tôi ngượng ngùng để chàng nắm lấy tay mình, cùng nhau song ca:

      - Muốn hát, hãy hát lên. Muốn đánh cá, hãy ra biển. Em cắm sào, quăng lưới, ta theo nhau khắp muôn sông.

      Pusyseda chỉ nắm tay mà còn vòng qua ôm eo tôi, ngả đầu vào vai tôi, tiếng nhạc du dương trữ tình, chúng tôi kết thúc phần biểu diễn bằng hình ảnh kinh điển của chàng Jack và nàng Rose trong Titanic. Tiếng vỗ tay rào rào vang dội, hoa tươi ngập gian, tôi thầm thụi cho tên phong lưu đau, nhưng hề hấn gì, vẫn ôm chặt lấy tôi. Lẽ ra tôi phải cảnh cáo từ trước mới phải, giờ hối hận cũng muộn.

      Đó là đoạn hát đối trong phim “Chị Lưu Tam”, lời hát gốc còn có thêm các loại hoa quả vùng nhiệt đới như: đu đủ, chuối, dứa, bưởi, nhưng vì những loại hoa quả này người Khâu Từ chưa được thấy bao giờ, nên tôi lược bỏ.

      Kết quả ngoài dự đoán, chúng tôi được giải nhất, với lời đánh giá của ban giám khảo: bài hát độc đáo, ca từ thú vị, diễn xuất tài tình, giọng hát chuyên nghiệp. Điều đó là tất nhiên, các bạn tìm đọc tiểu thuyết về đề tài vượt thời gian thấy các trổ tài ca múa của mình sân khấu thời cổ đại như thế nào. Tôi sung sướng đắc chí, vì cuối cùng tôi cũng có dịp thể . Từ nay ai còn phàn nàn về chuyện tôi chẳng giống các vượt thời gian chút nào nữa nhé!

      Phần thưởng tuyệt vời! Đó là đôi sư tử (sư tử là tượng trưng của Khâu Từ) bằng ngọc trắng Khotan trong suốt, thủ công tinh xảo, nếu ở thời đại, chắc chắn phải trị giá hàng chục nghìn nhân dân tệ. Pusyseda đeo miếng ngọc hình sư tử cái lên cổ mình, sau đó, rằng, quàng ngay miếng ngọc hình sư tử đực vào cổ tôi. Cậu ta sung sướng tươi cười như chưa bao giờ nhìn thấy bảo bối gì quý giá hơn thế.

      Ngày hôm đó, Pusyseda gần như lúc nào thôi cười, cậu ta khiến bao nhiêu phải ngơ ngẩn nhìn theo, người đụng cột, kẻ đụng tường. Mỗi khi mở miệng gọi tôi là lại: này em. Tôi nhớ năm nọ, du lịch Dương Sóc, phố Tây, nơi tập trung đông khách du lịch nhất, hầu như quán hàng nào bên tai tôi cũng văng vẳng giai điệu ấy, đến nỗi về đến nhà rồi mà miệng lúc nào dừng hát: Này em, này chàng… Pusyseda giống hệt tôi ngày đó, cậu ta ca ca lại khiến tôi nhàm cả tai. Tôi bực quá phải cảnh cáo, nếu còn hát nữa tôi bỏ về mình, thế là cậu ta nín thinh.

      Buổi tối, gã phong lưu lại lẻn đến phòng tôi, nhưng nêu ra những chủ đề khiến tôi phải đỏ mặt nữa, mà nài nỉ tôi hát lại bài hát ngày xưa. vài ca khúc cậu ta còn nhớ, ngâm ngợi theo tôi. Khi hát đến bài “Ngủ ngon bé ”, tôi chợt nhớ lại, hôm đó hát cùng Rajiva. Kể từ giây phút ấy, tôi nhận ra mình rất nhớ, rất nhớ cậu ấy, nỗi nhớ cồn cào…

      thanh nghẹn lại, ý nghĩ mông lung, trong lúc sơ ý, tôi lại bị kéo vào vòng tay rất chặt. Tôi hối hận vì ngày trước tham gia các buổi học về kĩ năng phòng thân. Dùng “võ” được, tôi đành dùng “văn” vậy.

      - Pusyseda, sao cậu thích ôm tôi thế?

      - Bởi vì người chị có mùi thơm rất dễ chịu.

      Cậu ta hít hà cổ tôi, hệt chú cún con, làm tôi buồn buồn, tức cười. Tôi nhấc cánh tay lên ngửi, có mùi gì dễ chịu đâu nhỉ? Tôi mang theo dầu gội, sữa tắm, sữa dưỡng thể, cũng trang điểm, sức nước hoa, khi tắm, tôi dùng loại xà bông thông dụng của người Khâu Từ, làm gì có mùi thơm chứ!

      - Chị giống những khác, thân thể họ rất hôi, tôi chẳng thiết động vào họ.

      Cậu ta lại hít hà hơi, tán thưởng:

      - Ngải Tình thơm lắm!

      Tôi hiểu ra vấn đề! Mùi hôi cơ thể mà Pusyseda nhắc đến, chúng ta thường gọi là mùi hôi nách. Trần Dần Khác từng viết bài nghiên cứu mang tên “Người Hồ và mùi hôi cơ thể”. Bài viết có đoạn: “Mùi hôi, trước thường gọi là mùi người Hồ, chỉ mùi cơ thể đặc trưng của người Hồ ở vùng Tây vực. Nhưng sau khi tộc người Hồ vùng Tây vực hợp hôn với tộc người Hoa Hạ ở Trung Nguyên, trong số những người Hoa vẫn thấy xuất mùi hôi . Xét thấy nếu tiếp tục gọi là “mùi người Hồ” hợp lí, lại thấy mùi hôi đó giống mùi hôi của loài cáo, nên từ đó đổi tên gọi thành mùi hôi của cáo”. Hầu hết người phương Tây đại cũng có mùi hôi cơ thể, tôi cho rằng đó là vì thói quen ăn uống của họ khác với người phương Đông, họ thích ăn đồ lạnh, lâu dần tạo nên mùi hôi đó. Người da vàng ở phương Đông rất ít khi có mùi hôi cơ thể. Có lẽ vì vậy mà Pusyseda rất thích hít hà người tôi. Tôi bỗng chột dạ, may mà hai em họ đều có thứ mùi này.

      - Còn nữa, chị rất ấm…

      - Cậu đùa à!

      Tôi đẩy cậu ta ra.

      - Là người phải ấm chứ.

      - Nhưng mẹ tôi rất lạnh.

      Pusyseda buông tôi ra, chậm rãi bước đến và chăm chú quan sát bức tường có dán những chữ Hán ngô nghê năm nào.

      - Kí ức của tôi về mẹ là những lần cha đưa tôi đến chùa thăm bà. Bà mặc thứ trang phục khiến tôi bực bội, bà nhìn cha với ánh mắt lạnh lùng, với tôi cũng vậy. Cái người đứng phía sau mà cha bắt tôi gọi bằng cũng lạnh lùng như thế. Tôi chưa bao giờ với cha, rằng thực ra tôi ghét phải đến chùa thăm mẹ và trai. Sau đó, họ lên đường tầm sư học đạo, chuyến kéo dài suốt bốn năm. Tôi cảm thấy rất nhõm, vì cuối cùng phải gặp mặt những con người lạnh lùng ấy nữa.

      - Nhưng, tôi còn nhớ, khi họ trở về, cậu ôm chầm lấy mẹ và gào khóc rất thảm thiết.

      - Tôi làm thế vì muốn cha vui lòng.

      Pusyseda quay lại nhìn tôi, nhếch môi cười.

      - Cha luôn mong tôi mẹ, chỉ cần cha vui, tôi làm bất cứ điều gì. Mặc dù tôi thấy hết sức khó hiểu, vì sao cha có thể ngày đêm thương nhớ hai con người vô cảm ấy.

      Tôi sững sờ. Mới mười tuổi Pusyseda biết đóng kịch để làm cha vui lòng! Nhưng, điều đó cũng khó hiểu. Kumarayana là người thân duy nhất luôn bên cạnh Pusyseda từ lúc đến lúc trưởng thành, trong khi giữa mẹ, trai và cậu luôn có bức tường ngăn cách vô hình, chẳng thể vượt qua.

      - Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ôm mẹ, tôi cũng muốn biết cảm giác được mẹ ôm vào lòng như thế nào, nhưng bà rất dửng dưng. Tôi ghét vòng tay giá lạnh của bà cũng như ghét vẻ lạnh lùng của bà. Từ đó, tôi còn muốn ôm mẹ nữa.

      Vẻ mặt của Pusyseda trở nên buồn ảm đạm, nét buồn ấy rất giống Rajiva. Họ là em mà, kể cả khi có tình cảm với nhau người họ vẫn chảy cùng dòng máu.

      - Nhưng chị khác, lúc mười tuổi, trong vòng tay chị, cảm thấy rất ấm áp, khác hẳn cảm giác khi sa vào lòng mẹ, nên hồi đó, tôi rất thích được ôm chị.

      Pusyseda đưa tay ra, kéo tôi vào lòng, tiếng thở dài khe khẽ lướt cổ tôi.

      - Mười năm sau ôm chị vào lòng, khiến tôi khỏi bồi hồi nhớ lại hơi ấm ngày xưa.

      Tôi vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Pusyseda như lúc trước nữa. Bản năng làm mẹ của người phụ nữ khiến tôi nỡ từ chối chàng trai tội nghiệp này. Cậu ta luôn thiếu vắng và khao khát tình của người mẹ. biết khi mải mê theo đuổi lý tưởng của mình, Jiva có từng nghĩ bà gây nên những tổn thương trong lòng Pusyseda? Có lẽ bà cũng thương hai em họ như mọi bà mẹ cõi đời này, nhưng tình đó của bà, có phải rất lạ lùng hay ?

      Để mặc Pusyseda ôm mình hồi lâu, tôi nghĩ vẫn nên với cậu ấy. Dù những cử chỉ thân mật này xuất phát từ khát khao tình mẹ, nhưng tôi thể thay thế Jiva. Pusyseda giờ đây được vây bọc trong vòng tay của rất nhiều phụ nữ, chắc hẳn chưa bao giờ cậu ta nghĩ đến cảm giác của tôi. Tôi thể để tình trạng này tiếp tục. Quan trọng hơn cả là, tôi muốn Rajiva nhìn thấy những cử chỉ thân mật này. Tuy rằng giữa chúng tôi chưa có bất cứ lời hẹn ước nào, nhưng trong trái tim tôi, Rajiva là duy nhất.

      Tôi thở dài, lựa lời khuyên nhủ:

      - Pusyseda, cậu trưởng thành. Người Hán có câu: nam nữ thụ thụ bất thân, tức là mọi cử chỉ giữa đàn ông và phụ nữ phải có giới hạn, phải giữ khoảng cách, điều này gọi là lễ nghi. Vì vậy, cậu nên tùy ý ôm tôi như thế. Tôi là người Hán, tôi quen với việc đàn ông có những cử chỉ quá ư thân mật như vậy.

      - Chị thích à?

      Nhìn ánh mắt nghiêm nghị của tôi, Pusyseda thở dài, buông tay ra.

      - Tôi cứ nghĩ, nào cũng thích được tôi ôm vào lòng.

      - Đó là vì họ cậu. Chỉ những người nhau mới thích những tiếp xúc thân thể như thế.

      - Vậy…

      Pusyseda đột nhiên sáp lại gần tôi, ánh mắt hút hồn chăm chú quan sát biểu cảm của tôi, hỏi khẽ:

      - Chị có tôi ?

      - .

      Tôi cố gắng để giọng của mình là ràng và chắc nịch.

      - Cậu giống như em trai tôi. Đừng quên, tôi hơn cậu ba tuổi đó.

      - Nhưng chị là tiên nữ, chỉ vài năm nữa tôi nhiều tuổi hơn chị. Khi tôi trở nên già nua, chị vẫn trẻ trung như bây giờ.

      Lại là vấn đề đó. Tôi phải giải thích thế nào để có thể xóa bỏ hoàn toàn lời dối đáng ghét ngày ấy?

      - Pusyseda…

      Ánh mắt Pusyseda bỗng rực sáng, cậu ta vội vàng ngắt lời tôi:

      - Thôi được, nếu chị thích sau này tôi hạn chế ôm chị.

      Vẻ phong lưu, lãng tử quen thuộc trở lại.

      - Nhưng, thỉnh thoảng ôm cái, sao chứ?

      Chỉ được vài phút nghiêm chỉnh, Pusyseda lại “ nguyên hình” rồi. Đúng là, giang sơn dễ đổi bản tính khó dời.

      Chú thích:

      [19] Đây là tiếng Ba Tư, tiếng Turk gọi là Task, tiếng Sogdiana gọi là Cac.

      [20] Nay thuộc vùng Samarkand, nước cộng hòa Uzbekistan.




    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 27: Ngày hội té nước


      Ngày cuối cùng của lễ hội Sumuzhe, Pusyseda cần ngồi xổm trước mặt tôi và nhọc lòng gào thét tôi thức dậy nữa. Giấc mơ cùng Rajiva ngắm mặt trời mọc tan biến khi thanh tiếng kèn Xô – na và tiếng cười hoan hỉ vẳng tới bên tai tôi.

      - Ngải Tình, dậy ! Tôi chưa từng thấy nào thích ngủ nướng như chị. Hôm nay là ngày sôi động nhất của lễ hội Sumuzhe đấy.

      Miệng làu bàu, mắt vẫn nhắm chặt, tôi nuối tiếc giấc mơ đẹp. Rajiva và tôi chỉ có thể tay trong tay bên nhau trong mơ mà thôi!

      - Chị còn chịu dậy, tôi bế chị lên đó.

      Tôi bật dậy, nhanh như tên bắn.

      Chúng tôi đeo mặt nạ ra phố, vừa bước chân ra cổng, mắt tôi hoa lên vì cảnh tượng: đường phố ngập nước, ai nấy áo quần ướt sủng, nhưng dường như mọi người đều bận tâm.

      - Đây là…

      - nào, rồi chị thấy, ngày hội này thú vị ra sao…

      Tiếng nhạc rộn rã vang lên nơi góc phố, Pusyseda kéo tay tôi chạy như bay về hướng đó.

      chiếc xe ba gác chầm chậm tiến đến, xe có vài ba người thổi kèn Xô – na, thùng nước lớn bằng gỗ và hai chàng thanh niên to khỏe múc từng gáo nước, té lên người đường, miệng hô vang: “Năm mới phát đạt, tai ương còn”. Nhà nào nhà nấy mở rộng cửa, đặt thùng nước trước nhà và có chủ nhà cũng ra sức múc nước trong thùng hất về phía những chiếc xe ba gác. nhìn gương mặt những người tắm trong làn mưa nước vì họ đeo mặt nạ, nhưng tôi nghe thấy tiếng cười ha hả, sảng khoái ngân vang dứt của họ. Họ khiến tôi trở nên phấn chấn vì tôi được chứng kiến lễ hội té nước của 1650 năm về trước.

      Gã lãng tử nhanh nhẹn né được gáo nước, nhưng tôi lãnh đủ, áo váy dầm dề.

      - nào, Ngải Tình.

      Pusyseda nắm tay tôi, ánh mắt hoan hỉ.

      - Chúng ta té nước nào!

      Gã lãng tử kéo tôi quay lại phủ quốc sư. chiếc xe ba gác dùng ngựa kéo, trang trí rất đẹp chờ sẵn trong sân, xe thùng nước lớn. Pusyseda bố trí thanh niên điều khiển cỗ xe, hai người phụ trách thổi kèn Xô – na. Sau đó, cậu ta đỡ tôi lên xe và tự mình vọt lên theo bằng cú nhảy điệu nghệ. Pusyseda ấn vào tay tôi chiếc gáo, rồi quay ra hô chàng phu xe: nào! Cỗ xe di chuyển, tiếng kèn Xô – na vang lên, chúng tôi tuần du qua các góc phố và thỏa sức đắm mình vào lễ hội té nước trong thanh náo động và bầu khí rộn ràng, vui nhộn ấy.

      Tôi từng đến Thái Lan vào dịp năm mới theo lịch của người Thái, đó là ngày hội Songkran mà chúng ta thường gọi là ngày hội té nước. đường phố Bangkok, ai nấy đều cầm khẩu súng nước, những chiếc xe bán tải nối đuôi nhau diễu hành. Khi tiếng nhạc dồn dập, vút cao, các bạn nam nữ thanh niên hò reo múc nước trong những chiếc thùng nhựa cỡ lớn đặt xe, tới tấp té, hất vào người đường. Khi di chuyển đến nơi tập trung đông người, các xe dừng lại và cuộc “thủy chiến” diễn ra sôi động giữa các “chiến sĩ” té nước. Thậm chí khi chiếc xe bán tải dừng đỗ song song với những chiếc xe bus công cộng đường, các chiến sĩ ngần ngại té nước vào xe bus. Người bị té ướt, ai nấy đều cười vui vẻ. Nhưng hồi đó tôi chỉ là khán giả, đứng bên đường quan sát, tuy cũng bị té ướt, thậm chí nhóm các bạn trẻ người Thái tôi hề quen biết còn chạy tới, bôi lên mặt tôi thứ phấn trắng gì đó, nhưng chưa bao giờ tôi chính thức tham gia vào trò chơi té nước và chơi hết mình như ở lễ hội này.

      đường phố Khâu Từ, mọi người mải mê đùa vui, chúng tôi té nước vào người đường và họ té nước lại chúng tôi. Khi gặp những chiếc xe ngựa ngược chiều, chúng tôi dừng lại, cuộc thủy chiến diễn ra, các chiến sĩ vừa ra sức “chiến đấu” vừa hô vang những lời chúc tốt lành. Lúc đầu tôi còn e dè, chỉ múc những gáo nước và hất về phía mọi người. Nhưng sau khi bị “tấn công” tới tấp, quần áo ướt sủng, tôi hăm hở lao vào cuộc chiến và liên tục “chào hỏi” người đường bằng những gáo nước đầy tràn. Vừa chiến đấu vừa né trái né phải tránh đòn “phục thù”. Khâu Từ là mùa hè, thời tiết oi bức, được tắm trong nước thế này dễ chịu. Tôi gào thét khản cả cổ, chưa bao giờ tôi được vui chơi thỏa sức như hôm nay! phố, cũng có người cầm những khẩu súng nước bằng gỗ, khi bắn, nước phun khá xa. ai đó hướng khẩu súng về phía tôi, tôi vội nghiêng người né tránh, cỗ xe chòng chành, tôi trượt chân, té nhào. văng ra khỏi xe ngựa, nhưng tôi lại rơi vào vòng tay hừng hực hơi thở. Đôi mắt màu xám nhạt ở cách tôi rất gần, ánh mắt đảo vòng khắp người tôi, từ đầu đến chân. Tôi giật mình nhận ra chiếc váy ướt đầm dính sát vào thân người, ngôn ngữ thông dụng trong tình huống này gọi là “lộ đường cong cơ thể”. Chỉ nhìn thấy đôi mắt, nhưng khó đoán vẻ mặt của gã phong lưu này như thế nào. Hai má tôi nóng bừng, may mà đeo mặt nạ, tôi vội vàng vùng vẫy đứng lên. Gã phong lưu “bắt nạt” tôi như những lần trước, nhưng nhìn tôi hồi lâu, buông tiếng thở dài:

      - Ngải Tình, ngực chị quá…

      gáo nước lớn dội lên đầu . Tôi làm sao mà so sánh với các thiếu nữ “béo tốt màu mỡ” của Khâu Từ được.

      - Nhưng nghe , chịu khó xoa bóp to dần lên.

      Gáo nước thứ hai tặng cho .

      Pusyseda lắc đầu giũ nước tóc, những lọn tóc xoăn ướt sũng dính trán, nhưng hề biết sợ:

      - Tôi có thể giúp chị…

      Nước dùng hết, tôi lao lên tấn công, phải xử tên này thôi, để sống sót chắc chắn gây họa cho người đời.

      Cỗ xe chậm rãi lăn bánh trong thành phố, nước trong thùng cạn. Pusyseda kêu phu xe dừng lại, cùng những chàng trai khác khiêng thùng gỗ đến nhánh của sông Muzat chảy trong lòng thành phố để lấy nước. Tôi cũng xuống xe, giúp họ tay. Hồi nãy, Pusyseda là người chơi trò té nước nhiệt tình nhất, nên toàn thân cậu ướt sũng, lớp áo mỏng dính sát vào cơ thể, làm lộ những cơ bắp cuồn cuộn tráng kiện và tấm lưng rộng, lực lưỡng. Ngắm nhìn thân hình đàn ông hấp dẫn như thế mà vui thích phải là phụ nữ!

      - Thế nào? Chị thấy hài lòng chứ?

      Đúng là đồ phong lưu, thốt ra toàn những lời trăng gió, ong bướm. Tôi như bị sét đánh ngang tai! Xin cậu đấy, Pusyseda!

      thể cho tên này gáo nước, nhưng nhanh nhẹn né kịp, người đứng phía sau phải chịu trận…

      Quần áo của người đó vốn hề dính nước, nhưng giờ đây ướt nhẹp vì gáo nước của tôi, ta bối rối, bước lùi lại phía sau. Dáng người cao gầy, chiếc áo ngắn chít eo màu xanh nhạt, đeo mặt nạ hình sư tử, ở con người đó toát lên vẻ phiêu diêu thoát tục thể diễn tả nổi. Dù ở giữa chốn ồn áo náo nhiệt, nhưng người đó dường như rất độc. Tim tôi đập mạnh, ánh mắt hớt hải kiếm tìm, nhưng ta quay gót xa. Tôi muốn đuổi theo, nhưng Pusyseda giữ lại. Tôi thẫn thờ nhìn theo, khẽ lắc đầu. Chắc chắn là ảo giác, cậu ấy thể đến đây được! Vả lại người đó ràng là có mái tóc màu nâu nhạt dài ngang vai. Nhưng vì sao, vì sao tôi cảm thấy tim mình quặn thắt khi nhìn thấy bóng dáng đơn ấy? Những trò đùa của Pusyseda còn sức hấp dẫn với tôi nữa, tôi mặc lòng ủ dột…

      Cỗ xe tiếp tục hành trình, lướt qua quán trọ mà tôi từng ở…

      Cuối cùng chúng tôi cũng về đến phủ quốc sư. Pusyseda chưa chơi đủ, vẫn hô hào muốn tiếp. Cậu ta đúng là đồ ham chơi, cả ngày dài phố mà biết mệt.

      Bước chân vào cửa thấy khí có gì đó bất thường, mọi người trong phủ ai nấy đều giữ vẻ nghiêm trang khác lạ. Thấp thoáng bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng, dáng hình cao gầy, độc, lặng lẽ tư lự trong sân. Nghe thấy tiếng chúng tôi, người đó quay đầu lại, vẻ mặt an nhiên…

      Giây phút đó, hai mắt tôi ướt nhòe. Rajiva, bao lâu rồi được gặp cậu? Sao tôi cảm thấy thời gian dài miên man như trải qua đời người vậy?

      Rajiva chăm chú quan sát tôi, khuôn mặt đột nhiên ửng đỏ. Tôi vẫn trong tình trạng quần áo ướt đẫm, trước mặt Pusyseda tôi cảm thấy có điều gì bất thường, nhưng trước mặt cậu ấy, hiểu sao, tôi thấy tim mình đập dữ dội, hai má nóng bừng và biết đầu cúi thấp từ lúc nào.

      Chiếc mặt nạ của tôi bị tháo ra, gọng kìm của Pusyseda lại kẹp vai tôi:

      - nhìn xem ai đến này. Là Ngải Tình đó, tiên nữ của chúng ta, sau mười năm biến mất trở lại.

      Rajiva ngước lên nhìn tôi. chút ngạc nhiên thoáng qua trong đáy mắt. Hai tay khép lại, cung kính cúi đầu:

      - Rajiva kính chào thầy!

      ngờ cậu ấy lại xử với tôi như vậy trước mặt em trai. Tôi bối rối biết phải đáp lễ ra sao, nên cứ ngơ ngẩn nhìn cậu ấy.

      - Mau thay quần áo , chị ướt cả rồi này! Cẩn thận kẻo cảm lạnh.

      Đây là lần đầu tiên Pusyseda với tôi bằng những lời đầy “chăm sóc”. Tôi len lén nhìn Rajiva, vẻ mặt cậu ấy có gì khác lạ, cũng có bất cứ biểu cảm ngạc nhiên nào.

      Cơn buồn tủi bỗng trào dâng, bàn tay của Pusyseda vai tôi tựa như mọc gai cắm vào da thịt tôi, tôi tức giận vùng thoát, cắm đầu bước vội về phòng mình.

      Tiếng Pusyseda giễu cười phía sau:

      - Đúng là phụ nữ, hay cáu giận vô cớ…

      Rajiva ngắt lời Pusyseda bằng giọng lạnh lùng:

      - Em thay quần áo rồi đến phòng cha, ta có chuyện muốn .

      Thay xong quần áo, tôi dạo bước trong sân để hong khô mái tóc ướt. Hai em họ ở trong phòng Kumarayana, biết Rajiva muốn gì với họ. Tâm trạng tôi rối bời, vì sao hôm nay cậu ấy về đây? Sư phụ Banhuddata còn ở chỗ cậu ấy ?

      Cửa phòng Kumarayana bật mở, cắt ngang dòng suy tư của tôi. Sắc mặt Pusyseda tái nhợt, thấy tôi, cậu ta bước đến và ôm tôi vào lòng. Tôi cắn răng vùng vẫy, tôi muốn Rajiva nhìn thấy cảnh tượng này.

      - Ngải Tình!

      Pusyseda giữ chặt lấy tôi, giọng nghẹn ngào:

      - Mẹ tôi…qua đời rồi…

      Tôi lặng , quên cả mong muốn vùng thoát. ra, cậu ấy trở về để thông báo tin này. Tôi ngước mắt lên, thấy Rajiva đứng bậc thềm trước cửa phòng cha. Nền trời ảm đạm, bóng hoàng hôn đổ dáng hình cao gầy ấy, hắt xuống sân vòng nắng tròn buồn tẻ.

      - Cậu cả, phòng của cậu được dọn sạch.

      Dù Rajiva pháp sư nổi danh khắp vùng Tây vực, nhưng Kumarayana vẫn cầu mọi người trong phủ quốc sư gọi cậu là cậu cả. Phải chăng vì ông muốn nhắc nhở con trai mình: rằng cậu vẫn luôn là thành viên thể thiếu của gia đình?

      Rajiva khẽ gật đầu, bước xuống bậc thềm, về phía phòng mình, dường như bận tâm đến tôi và Pusyseda đứng trong sân. Lúc lướt qua tôi, đôi môi vẫn mím chặt, vẻ mặt lạnh lùng, như muốn rằng: mọi trong thế tục liên quan gì đến cậu! Tim tôi như bị bóp nghẹt, nước mắt tuôn trào, bằng tất cả sức lực của mình, tôi vùng thoát khỏi gọng kìm của Pusyseda.

      - Ngải Tình, sao vậy?

      Pusyseda sững sờ, cuống quít vỗ về tôi:

      - Chị khóc vì tôi, tôi vui lắm. Nhưng xin chị, đừng khóc nữa…

      Tôi hất tay cậu ta ra và vùng chạy về phòng, chốt cửa lại.

      - Ngải Tình, mở cửa ra!

      Pusyseda nhẫn nại gõ cửa, nhưng tôi mặc kệ. Lúc phiền muộn, tôi cho phép mình vùi đầu trong chăn, thỏa sức hành hạ bản thân đêm, để rồi sau đó bắt đầu ngày mới còn bóng dáng của nỗi buồn. đời này, có trở ngại nào là thể vượt qua. Nhưng tôi vẫn hiểu nổi vì sao mình lại khóc?

      - Khóc vì mẹ tôi, đáng đâu.

      Tôi chui ra khỏi chăn, thấy Pusyseda ngồi trước mặt. Cậu ta hình như chưa bao giờ vào phòng tôi bằng cửa chính.

      Tôi chưa từng thấy Pusyseda trong tâm trạng phức tạp thế này bao giờ. Biểu cảm gương mặt cậu là đan xen của nỗi buồn, tức giận và nỗi đau…

      - Mẹ chưa bao giờ quan tâm lo lắng cho gia đình này, bà lúc nào cũng chỉ lòng tu hành, để được giải thoát, để được lên cõi cực lạc, để còn phải chịu kiếp số luân hồi.

      Pusyseda nhếch môi cười, hơi thở gấp gáp chừng như rất xúc động.

      - Tôi hiểu, cõi cực lạc ấy có gì tốt đẹp hơn thế giới thực chứ? Vì sao nó quan trọng hơn cả chồng và con trai bà?

      Cậu ta cắn chặt môi, hít hơi sâu.

      - Trong lòng bà chỉ có trai tôi mà thôi. Bà sinh tôi ra chỉ để có người nối dõi tông đường, để hoàn thành nghĩa vụ với nhà chồng mà thôi. Thế nên bà ra cùng trai, bỏ tôi ở lại. Hai mươi mốt năm qua, tôi gặp bà được mấy lần? Bao nhiêu năm qua, cha tôi ngày đêm thương nhớ bà, còn bà sao? Tu hành đắc đạo thành Phật khiến con người trở nên lạnh lùng, vô cảm như vậy ư?

      Pusyseda đột ngột đứng lên, đầu ngẩng cao, giọng dõng dạc:

      - Người ta muốn thành Phật, tôi . Muốn thành Phật phải từ bỏ mọi tình cảm thế tục, như thế có gì vui đâu. Tôi thà sa xuống địa ngục A tì còn hơn phải o ép bản thân mình trong kiếp này. Đời người được mấy mươi năm. Kiếp sau tôi chẳng cầu được làm người, chỉ cần kiếp này được làm những gì mình thích kiếp sau có làm trâu làm ngựa cũng chẳng sao.

      Tôi bất ngờ đến quên cả khóc. Pusyseda chưa bao giờ bộc bạch với tôi những suy nghĩ sâu kín này. Phải chăng thái độ ngông nghênh, giễu đời giễu người của cậu là hành động phản kháng trước quyết định từ bỏ gia đình của mẹ cậu? Phải chăng cậu ra sức vẽ nên viễn cảnh tăm tối, tuyệt vọng của thế giới sau cái chết để chống lại giáo lý Phật giáo?

      - Con người tồn tại giữa trời đất, chỉ như bóng câu qua thềm, thoắt đến, thoắt .

      Tôi kéo chăn, bước xuống giường, đến bên Pusyseda, nhàng khuyên nhủ:

      - Pusyseda, trân trọng đời sống thực có gì là xấu.

      Cậu ta quay lại nhìn tôi chăm chú:

      - Ngải Tình, chị cho rằng tôi là kẻ hư hỏng đấy chứ?

      nơi mà người người kính Phật, người người ngóng đợi kiếp sau tươi đẹp như Khâu Từ, suy nghĩ của Pusyseda quả là thể chấp nhận được.

       Nước mặt đất

       Chia về muôn hướng

       Người nào phận nấy

       Chẳng nên than phiền

      Đó là những câu thơ của Bào Chiếu.

      - Pusyseda, những điều cậu nghĩ, những việc cậu làm thể khát khao sống và tận hưởng cuộc sống thực tại của cậu.

      Có điều, khi thực có tình , những trò vui trăng hoa tuyết nguyệt ấy liệu kéo dài được đến khi nào?

      - có tình ư?

      Miệng lẩm nhẩm, ánh mắt cậu ta trở nên mơ hồ.

      - Có lẽ có, nhưng cậu hề biết. Cậu dám thừa nhận rằng cậu mẹ. Vì mẹ, nên cậu muốn biết cảm giác ấm áp khi sà vào lòng mẹ như thế nào. Vì mẹ nên cậu mới tức tối khi bà bỏ , mới ghen tị với trai vì được mẹ quan tâm hơn, mới chống lại lý tưởng theo đuổi giải thoát của bà.

      - Ngải Tình!

      Ánh mắt Pusyseda nhìn tôi bối rối.

      - Theo chị, mẹ có tôi ?

      - Tất nhiên rồi! đời này có người cha người mẹ nào thương con cái. Bà cậu theo cách của bà, nhưng có lẽ cậu cảm nhận được tình đó, hoặc có lẽ vì nó chưa đủ lớn như mong đợi của cậu. Khi nào cậu làm cha cậu hiểu được điều này.

      Pusyseda im lặng, viền mắt đỏ dần lên. Thực ra cho đến bây giờ, cậu ta vẫn luôn khao khát tình mẹ.

      Đêm đó, Pusyseda trò chuyện với tôi rất nhiều, bằng chân thành, bằng nỗi lòng thổn thức, buồn khổ mà trước đó chưa bao giờ tôi thấy ở cậu. Lúc bước ra khỏi phòng tôi, khuôn mặt vẫn chồng chất ưu tư, hoàn toàn khác con người thường ngày của cậu. Tôi thổi đèn, ngồi bên cửa sổ, chăm chú nhìn sang căn phòng đối diện. Bóng dáng cao gầy chập chờn lướt qua ô cửa sổ, giây mất hút cũng khiến tôi thót tim. Tôi cứ ngồi thẫn thờ như vậy cho đến khi ánh đèn phòng đối diện vụt tắt. Trong bóng đêm tịch mịch, những suy tư theo nhau dội tới, khiến tôi sao bình tâm.

      Vậy là, lễ hội Sumuzhe kết thúc.

                  Chương 28: Trở lại Subash


      đêm trắng trằn trọc với những suy nghĩ rối bời, đầu óc quay cuồng. Trái tim thôi thổn thức khi nghĩ đến Rajiva ở rất gần, nhưng lại quặn thắt khi nghĩ đến vẻ mặt lạnh lùng của cậu ấy. Tờ mờ sáng, tôi uể oải ra khỏi giường, biết lại lại trong phòng bao nhiêu lần. Sau cùng, vẫn kìm chế được, mặc cho đôi tay đẩy tung cánh cửa và đôi chân lao vun vút đến phòng cậu ấy.

      gần bốn giờ ba mươi phút, chắc Rajiva thức giấc rồi, vì năm giờ là giờ tụng kinh buổi sáng. Cậu ấy tụng kinh ở đâu? Chắc là đến chùa Tsioli, vì chùa Cakra ở cách đây rất xa. biết Rajiva nghĩ gì khi nhìn thấy nàng si tình, mới sớm tinh mơ chạy đến trước cửa phòng cậu ấy. Quả là tôi chưa bao giờ thức giấc vào giờ này.

      Tôi tần ngần trước cửa phòng Rajiva, tim đập loạn nhịp, bàn tay vô cớ run rẩy, trời đất ơi, sao tôi lại căng thẳng thế này?

      Cửa phòng đột ngột mở toang, tôi giật mình lùi lại, đầu va vào cột nhà, đau điếng.

      - Ngải Tình dậy sớm quá!

      Tôi quên cả đau, ngạc nhiên nhìn bước ra từ phòng Rajiva. Đó là người lo công việc dọn dẹp trong phủ quốc sư, cầm tay thùng rác. Vậy còn Rajiva, cậu ấy đâu? Tôi sốt ruột, kiễng chân ngó vào trong phòng.

      - Cậu cả từ sớm rồi, cậu bảo phải quay về chùa Cakra.

      sớm vậy ư? lời từ biệt ư? nỗi thất vọng ngập tràn, trùm lên cả vết thương do va đập khi nãy.

      - Khoan !

      Thoáng thấy trong thùng rác có bộ đồ, tôi sững sờ giây lát, vội vàng kêu dừng lại.

      Đó là chiếc áo ngắn, chít eo màu xanh nhạt, sợi dây lưng cùng màu và còn… chiếc mặt nạ sư tử và bộ tóc giả màu nâu nhạt nữa. Khoảnh khắc ấy, tôi như hóa đá!

      - Cậu cả bảo đem vứt . Tôi thấy tiếc quá, toàn đồ tốt cả!...

      Lời than thở của chỉ càng khiến tôi thêm đau lòng…

      Pusyseda mở cửa và thấy tôi ngồi hành lang cạnh cửa phòng mình. Cậu ta ngạc nhiên, nhìn trời ngó đất, rồi nhìn tôi, sau đó nở nụ cười rạng rỡ.

      - Ngải Tình, sao chị vào phòng? Chị có thể vào phòng tôi bất cứ lúc nào mà…

      - Pusyseda, hôm nay tôi đến chùa Cakra.

      Tôi vội ngắt lời Pusyseda, vì muốn nghe những lời đường mật tiếp theo nữa.

      - Được! Tôi biết chị thích vẽ mấy thứ vô vị đó, tôi đưa chị . Nhưng mà…

      Cậu ta gãi đầu gãi tai, có vẻ rất khó xử.

      - Chị gắng chờ thêm mười ngày nữa được ? Bắt đầu từ hôm nay đến phiên tôi gác trong cung, mười ngày nữa mới được nghỉ.

      - cần đâu, cậu cứ làm việc của mình . Tôi tự thuê xe ngựa đến đó.

      - Ngải Tình, đừng cố chấp như thế, nghe lời tôi mà, chỉ mười ngày thôi…

      - Pusyseda! Cậu cần cùng tôi. Tôi phải yếu đuối, lúc nào cũng cần có người theo bảo vệ. Tôi có kế hoạch của riêng mình, vả lại tôi chỉ vài ngày rồi quay về.

      Tôi hứa với cậu ta trong vòng mười ngày quay lại. Cậu ta , chờ hết phiên gác, đưa tôi thăm thú thêm núi Thiên Sơn nổi tiếng. Hồi khảo sát ở Kucha, tôi từng nghe, cách phố huyện Kucha chừng bảy mươi cây số, có hẻm núi lớn Kizilya thuộc dãy Thiên Sơn. Cảnh sắc tráng lệ, khắp nơi là nham thạch màu nâu đỏ, tạo tác vô cùng kì ảo, nghe có thể sánh ngang với vẻ đẹp của hẻm núi Colorado ở Mỹ, nhưng quy mô hơn mà thôi. Năm 1999, lão nông người Uyghur hái cây thuốc vách núi cheo leo tình cờ phát ra hang động được xây dựng thời thịnh Đường, người ta đặt tên cho hang động này là Aay. Động đá này rất , chỉ sâu năm mét, nhưng ba mặt tường đều lưu lại dấu vết của các bức bích họa, rất khác so với những bức bích họa trong các động đá khác ở Khâu Từ. những bức bích họa này xuất chữ Hán, điều này chứng minh sức ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Hán thời thịnh Đường đối với Khâu Từ. Và vì vậy, động đá này có giá trị nghiên cứu rất lớn. Nhưng khi ấy tôi đủ thời gian đến đây tham quan. Còn bây giờ, tôi vượt thời gian trở về thời cổ đại để làm việc chứ phải ngao du sơn thủy, các bức bích họa có sức hút với tôi lớn hơn nhiều phong cảnh núi sông, huống hồ lúc này động đá đó còn chưa được xây dựng, nên tôi chẳng mặn mà gì với lời rủ rê của Pusyseda. Nhưng cậu ta cứ giữ chặt tay tôi chịu buông, tôi đành ậm ừ nhận lời cho qua chuyện.

      Cuối cùng cũng được lên đường. Pusyseda bảo bố trí người trong phủ đánh xe ngựa đưa tôi , nhưng vì muốn ai biết tôi đến sống trong gia tư của Rajiva ở Subash, nên tôi kiên quyết từ chối, rằng tôi tự mình thuê xe .

      thuyết phục được tôi, Pusyseda đành bỏ cuộc. Gã lãng tử này hôm nay rất nhiều lời, nằng nặc đòi giúp tôi tìm xe, rồi còn dặn dò đủ thứ đời. Cứ như đây là lần đầu tiên tôi xa bằng! Vậy nên, khi bên tai còn vang lên giọng lải nhải, dông dài của Pusyseda nữa, tôi thúc phu xe chạy nhanh hết mức có thể. Tâm tư của tôi lưu lại nơi này nữa, nó bay đến căn nhà yên tĩnh cách đây bốn mươi dặm rồi!

      Lễ hội Sumuzhe kết thúc, theo kế hoạch tôi phải lên đường Trường An. Nhưng tôi luôn thấy day dứt, nếu ra như vậy, tôi phải ân hận cả đời. Tôi muốn gặp cậu ấy, cần phải gì cả, chỉ nhìn thôi cũng đủ.

      Cảm giác được trở về căn nhà ở Subash vô cùng gần gũi, ấm áp, Mavasu đon đả chào đón tôi.

      - Những ngày Ngải Tình ở đây, cậu cả hàng đêm đều tới đọc sách đến khuya mới về chùa.

      Lòng tôi bỗng nhiên thấy ấm lại, trò chuyện với Mavasu hồi lâu, rồi nhờ ông đến chùa thông báo với Rajiva rằng tôi trở về. Sau đó công việc duy nhất của tôi là hồi hộp chờ đợi Mavasu mang theo tin nhắn từ chùa về. Thông tin rất ngắn gọn, Rajiva chỉ ậm ừ tiếng rồi lại tiếp tục công việc. Lẽ nào, đó là câu trả lời của cậu ấy? Vậy, tối nay, cậu ấy có về đây ?

      Nỗi băn khoăn dày vò tâm can tôi đến tận khi cánh cổng mở rộng.

      Tôi lao ra ngoài sân, nhìn thấy chiếc áo cà sa màu nâu sòng chưa bao giờ vương bụi trần ấy, nhìn thấy đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy và bóng dáng cao gầy, lẻ loi muôn đời ấy, nhịp đập trái tim tôi, phải chăng mọi người thế giới này đều có thể nghe thấy ?

      Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, vẻ mặt bình thản, khóe môi lướt qua nét cười lạnh nhạt. Rồi đột nhiên, nét cười ấy biến mất, vẻ mặt Rajiva trở nên hỗn loạn, bước chân gấp gáp hướng về phía tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì, cánh tay đỡ lấy đầu tôi, tay kia nâng cằm, hướng khuôn mặt tôi lên đối diện với cậu ấy. Vẻ ngạc nhiên của gương mặt tôi in trong đôi mắt màu xám nhạt sát kề.

      - Rajiva…

      Tôi xỉu mất! Cậu ấy, cậu ấy muốn hôn tôi ư? Cảnh tượng lãng mạn trong mơ lẽ nào sắp diễn ra trong thực? Tôi khẽ hé môi, mắt nhắm lại.

      - Đừng gì cả!

      Hơi thở của cậu ấy lướt má tôi, giọng ấm áp và êm như nhung khiến tôi run rẩy. Khuôn mặt tôi tiếp xúc với thứ gì đó, ồ, sao phải môi mà… mà lại là… mũi?

      Tôi mở mắt, thấy Rajiva chăm chú ngắm nghía gương mặt mình, ánh mắt lo lắng. mảnh khăn được phủ mũi tôi. Cậu ấy, cậu ấy hề hôn tôi. Thế mà, tôi, tôi… tôi cứ ngỡ…

      - Đừng cúi đầu!

      Giọng cậu ấy gấp gáp, sau đó cánh tay ôm lấy vai tôi, bàn chân tôi dường như chạm đất, trôi theo Rajiva vào trong phòng. Vòng tay cậu ấy khác hẳn vòng tay Pusyseda, nhàng, ấm áp, khiến tôi cứ muốn dựa vào như thế, dựa đến trăm năm.

      - Hay là ngày mai đến gặp thầy thuốc nhé.

      Rốt cuộc xảy ra chuyện gì với tôi? Kéo mảnh khăn phủ mũi xuống, tôi sững người! vệt máu sẫm đỏ loang rộng. Trời đất, tôi chảy máu cam khi vừa mới gặp lại cậu ấy ư? Trời ơi, chảy máu cam là trạng thái khi người ta bất mãn với điều gì đó kia mà! Nhưng, khi nãy tôi đâu có nghĩ ngợi hay lo lắng gì. Lẽ nào tôi vì quá ư thương nhớ cậu ấy?

      Máu vẫn tiếp tục chảy, Rajiva kê tay để đầu tôi ngửa lên, giọng nhàng:

      - Yên nào, lát hết.

      Chiếc khăn lại được phủ lên, Rajiva đỡ tôi ngồi chiếc giường thấp.

      Tôi ước gì mũi mình tiếp tục chảy máu, để cậu ấy cứ mãi ôm tôi vào lòng như thế. Nhưng, những giây phút đẹp đẽ luôn qua nhanh, lúc máu ngừng chảy, tôi chỉ muốn gõ mạnh vào mũi mình cái.

      Rajiva quan sát thấy tôi chảy máu nữa, thận trọng kéo chiếc khăn xuống, thu vào trong lòng. Má tôi nóng bừng:

      - Cái khăn đó đầy vết máu, để tôi giặt sạch rồi trả lại cho cậu.

      Cậu ấy đáp, lẳng lặng đứng lên, đến bên chiếc tủ đứng, lấy ra chiếc khăn mới, đưa cho tôi. Tôi ngẩn ngơ, biết tôi để khăn mùi xoa ở đó từ khi nào nhỉ?

      - chẳng bao giờ chịu dùng khăn, toàn lau miệng bằng tay, tốt chút nào.

      Vẫn là giọng ấm áp ấy, nhưng ánh mắt nhìn lên.

      - Trong tủ này đều là khăn mới, đừng quên nhé…

      Hạnh phúc sưởi ấm tôi! Rajiva, cậu vẫn có tình cảm với tôi, đúng ?

      Tôi cắn môi, để nụ cười tiết lộ niềm vui của mình, chớp mắt nhìn cậu ấy:

      - Rajiva, tôi vẫn chưa vẽ xong chùa Cakra…

      Cậu ấy thoáng ngạc nhiên, mỉm cười:

      - có thể đến bất cứ lúc nào.

      Chúng tôi ngồi nhìn nhau, tôi biết phải lời gì tiếp theo. Sau đó tôi bật cười. biết vì sao, nhưng tôi thấy niềm vui ngập tràn trong lòng, cười lên, tôi cảm thấy có lỗi với bản thân. Thấy tôi hồn nhiên tươi cười, Rajiva mím chặt môi, nhưng hình như nén nổi, vành môi cứ mở rộng dần, uốn cong lên và nụ cười ngày rạng rỡ.

      Chúng tôi cười ngất, quên hết e dè, ngại ngùng. Nhưng tất nhiên, tiếng cười của tôi hoan hỉ, vang dội hơn cả.

      Đột nhiên, Rajiva ôm chầm lấy tôi. Nụ cười mắc kẹt gương mặt, tôi biết phải biểu cảm xúc của mình lúc này như thế nào.

      Cậu ấy năng, chỉ nhàng ôm tôi trong vòng tay. Tôi tựa vào khuôn ngực xương xương của cậu ấy, mê mải lắng nghe tiếng trái tim cậu ấy gõ nhịp bên tai. lúc sau, hơi thở của cậu ấy đột nhiên trở nên gấp gáp, phả vào cổ tôi.

      - Rajiva…

      Tôi khẽ gọi cậu ấy, trong lòng chờ đợi hay run rẩy.

      Rajiva đột ngột đẩy tôi ra, sắc mặt tái nhợt, khuôn ngực vẫn phập phồng run động, bước chân cuống quít lao ra khỏi căn phòng.

      - Rajiva…

      Tôi chạy theo, nhưng trong lúc gấp vội, cẩn thận để khuỷu tay phải đập mạnh vào khung cửa. Cơn đau buốt thấu tận tim gan, tôi kêu lên thảm thiết.

      - Sao vậy?

      Rajiva dừng bước giữa sân, vội vã quay lại, dìu tôi vào phòng.

      Dưới ánh đèn, cậu ấy nhàng vén tay áo tôi lên, vết thương cũ hiển . biết vì sao, gần hai tháng rồi mà cánh tay tôi vẫn chưa lành hẳn. Tất nhiên, phần cũng do tôi bất cẩn, hàng ngày lúc tắm cứ để mặc nước ngấm vào chỗ đau, khi vết thương mới ăn da non, ngứa ngáy khó chịu, tôi lại ra sức gãi. có Rajiva ở bên bôi thuốc cho tôi, hàng ngày lại thường xuyên phải vẽ bằng tay phải, tôi cắn răng chịu đau. Cộng thêm ngày dầm mình trong lễ hội té nước, vết toác khó khăn lắm mới đóng lại thành vảy, lại bong ra. Cú va đập khi nãy làm tổn thương vùng nghiêm trọng nhất khiến vết thương ngày càng mở rộng, sưng tấy, chảy máu, ướt đẫm mảng tay áo.

      - Sao lại bất cẩn như vậy?

      Rajiva ngẩng lên nhìn tôi, vừa thương vừa trách.

      - chăm sóc cẩn thận nên vết thương mãi lành lại. Hôm qua, lẽ ra nên nghịch nước.

      Tôi tủm tỉm cười. nghịch nước làm sao biết được cậu ấy cải trang đến tìm tôi? Nhưng, cậu ấy muốn giấu tôi vờ như biết.

      Rajiva bôi thuốc cho tôi, buốt xót đến chảy nước mắt. Cậu ấy thở dài, bảo tôi cố chịu, miệng kề sát vết thương của tôi khe khẽ thổi, vẻ mặt chuyên tâm, chăm chút chu đáo ấy khiến tôi quên cả đau, tôi mải mê ngắm nhìn Rajiva. Dưới ánh đèn, vầng trán cao rộng, khuôn mặt đẹp như tạc tượng, hàng lông mày dài thanh tú khe khẽ rung động, nước da bánh mật lung linh dưới ánh sáng vàng vọt, hắt lên những gam màu quyến rũ, tuyệt đẹp.

      Rajiva nhàng băng bó cho tôi, sau đó lại nhàng kéo tay áo tôi xuống. Hai mươi tư năm trong đời, đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ của người con khi được người đàn ông chăm sóc, thương. Nếu Rajiva ngẩng đầu lên và đỏ mặt, hẳn tôi còn tiếp tục đắm đuối ngắm nhìn cậu ấy mãi mãi.

      Rajiva quay đầu , hồi lâu mới lên tiếng nhắc nhở tôi tránh tiếp xúc với nước. Sau đó, lại rơi vào trạng thái trầm ngâm.

      - Khi nãy…

      Cậu ấy đứng lên, nhìn tôi, tần ngần buông tiếng.

      - Rajiva mạo phạm…

      - Rajiva…

      Tôi muốn nhưng đủ sức thốt lên lời nào. Tôi có thể gì bây giờ? rằng tôi những trách cậu ấy mà ngược lại, tôi mong chờ điều đó ư? Hay với cậu ấy rằng tôi rất tham lam, tôi mong đợi nhiều hơn cái ôm của cậu ấy ư?

      - Muộn rồi, tôi phải về!

      Rajiva lấy lại ngữ điệu điềm tĩnh thường ngày, bước chân vừa đến cửa, bỗng ngừng lại:

      - Ngày mai, có thể đến chùa bất cứ lúc nào.

      Tôi lười biếng nằm dài giường, ngóng theo bóng dáng cao gầy ấy dần khuất xa. Rốt cuộc, cậu ấy vẫn thể vượt qua những chướng ngại trong lòng. Vòng tay khi nãy đẹp như giấc mộng có thực. Hay là, tôi vẫn mơ, giấc mơ tuyệt đẹp…

                  Chương 29: phẫn nộ của Pusyseda


      Tôi ngắt từng cánh hoa, , , , , cánh hoa cuối cùng: . Bỏ qua, bỏ qua, tính, tính, tôi ngắt bông hoa khác, lần này kết quả khả quan hơn: ! Tốt rồi, đó là ý trời, nào !

      Tôi quyết định có đến chùa Cakra vẽ tranh hay bằng cách như thế đó. Vừa tới nơi, mắt tôi như thiết bị dò tự động, quét qua các góc cạnh để tìm kiếm bóng dáng ấy, tìm thấy rồi, hai má tự nhiên nóng bừng, lại cắm cúi làm việc. Cánh tay băng bó co duỗi khó khăn, chỉ vẽ được lát là phải nghỉ. vẽ vẽ xóa xóa chú tiểu xuất với cốc nước và mảnh giấy, đó là những chứ Hán rất đẹp: “Vết thương chưa lành, đừng nên vẽ nữa”.  Niềm vui như ngọn lửa sưởi ấm cõi lòng tôi. Tôi ngẩng lên, Rajiva trò chuyện với sư phụ Bandhuddata đại điện, ánh mắt ơ hờ khẽ lướt về phía tôi, thấy tôi cầm mảnh giấy tay, cậu ấy lại bình thản tiếp tục câu chuyện.

      Tôi còn tâm trí để vẽ tiếp, kỷ niệm ngày đầu Rajiva đưa tôi đến tham quan ngôi chùa này ùa về, tôi muốn dạo quanh vòng. Vừa bước vừa nhớ lại biểu cảm và những lời cậu ấy khi đó, bất giác mỉm cười. Những hồi ức ngọt ngào đủ để tôi nhâm nhi hết ngày dài.

      Tôi chỉ trở về căn nhà khi Rajiva kết thúc giờ tụng kinh chiều muộn. Buổi tối cậu ấy tới, vì cánh tay tôi vẫn cần được chăm sóc. Tôi có nên nghĩ cách làm cho vết thương ấy phục hồi chậm lại chút ? Vì như thế, tôi khỏi phải ủ dột khi nghĩ đến ngày tháng li biệt sắp tới. Mặc dù tôi biết rằng trước sau gì cũng phải ra , nhưng có thể chậm ngày nào tôi biết ơn ngày đó. Sếp ơi, xin thầy đừng trách em, khi trái tim phụ nữ rung động lí trí đâu còn chỗ trú chân.

      Vừa về đến cổng thấy cỗ xe ngựa, tôi chớp mắt nhìn cho kĩ, phù hiệu gắn cỗ xe rất quen. Ai đó xuất từ phía sau xe, dáng người cao lớn, gương mặt khôi ngô tuấn tú, mặc bộ quân phục màu đen, viền vàng lấp lánh, eo thắt chiếc đai thêu kim tuyến, sau lưng dắt thanh kiếm dài. Đàn ông mặc quân phục tỏa ra sức hấp dẫn kì lạ, có thể đánh bại bất cứ đối thủ cùng giới nào. Nhưng khuôn mặt này có điều gì đó rất lạ.

      - Pusyseda?

      Tôi kinh ngạc kêu lên.

      - Sao cậu lại đến đây?

      Pusyseda lạnh lùng nhìn tôi, hồi lâu mới cất tiếng:

      - Đến đón chị về phủ.

      Giọng lạnh như băng khiến tôi rùng mình.

      - Tôi hẹn mười ngày về mà.

      Tôi bước lại gần, quan sát kỹ khuôn mặt ấy.

      - Xảy ra chuyện gì vậy?

      - Cha tôi muốn gặp chị.

      Pusyseda quay mặt , né tránh.

      - Cha tôi… từ lúc biết tin của mẹ, ngừng thổ huyết…

      Tôi hoảng hốt:

      - Rajiva có biết ? Cậu đến chùa chưa? nào, chúng ta phải thông báo ngay cho cậu ấy.

      Tôi kéo tay Pusyseda nhưng cậu ta hề động đậy, ánh mắt chăm chăm nhìn bàn tay tôi, tiếng cười nhạt bật ra:

      - Cần gì phải đến chùa, tối nào ta chẳng về đây.

      - Cậu…

      Tôi sững người, cậu ta biết rồi ư!

      - Mavasu hết với tôi. ra chị trở về được ba tháng rồi và ba tháng ấy chị luôn ở bên Rajiva.

      Pusyseda đột ngột kéo tôi sát lại, cánh tay cứng như thép bóp chặt vết thương của tôi, tiếng kêu đau đớn của tôi khiến cậu ta bận tâm. Cậu ta ép sát tôi vào ngực mình, đổ người lên khuôn mặt tôi, sắc diện u ám, nghiến răng gầm gào:

      - ta giấu chị ở đây, định bụng học theo Hán Vũ Đế “lầu son giấu người đẹp” chứ gì? vị cao tăng đại đức như ta mà cũng chẳng thể kháng cự được sức quyến rũ của đàn bà! nực cười, thế mà tôi vẫn nghĩ chị chưa bao giờ đụng đàn ông. ngờ, từ lâu bị kẻ đạo đức giả ấy chiếm đoạt rồi!

      - Pusyseda, cậu được ăn xằng bậy!

      Tôi nổi cơn thịnh nộ, định dùng cánh tay còn lại cho cậu ta cái tát, nhưng bị giữ chặt, tay tôi như muốn lìa ra. Càng ra sức vùng thoát, cơn đau buốt, nhức nhối càng dữ dội. Nước mắt trào ra, tôi kêu gào:

      - Buông tôi ra! Cậu được phép lăng mạ Rajiva! Chúng tôi hoàn toàn trong sạch…

      - Trong sạch ư?

      Pusyseda cướp lời tôi, ánh mắt dữ dằn, khuôn mặt như biến dạng.

      - Được thôi, bây giờ chúng ta lên giường, hãy chứng minh cho tôi thấy chị vẫn là trinh nữ.

      Cậu ta lôi tôi về hướng căn phòng, cánh tay phải thoát khỏi gọng kìm, tôi bám chặt lấy cột chống hiên nhà, kiên quyết thả ra. Giây phút ấy tôi vô cùng khiếp sợ, vì xưa nay chưa từng thấy Pusyseda dữ tợn như vậy. Cậu ta mà làm tới, tôi chẳng thể chống cự nổi.

      - Buông ra! Vì sao tôi phải chứng minh bằng cách đó? Cậu đủ tư cách ép buộc tôi!

      Cánh tay phải của tôi như sắp gãy, vết thương nhức buốt khiến tôi còn sức để bám vào cột nhà nữa. Nhưng nếu tôi đầu hàng, dám tưởng tượng chuyện gì xảy ra tiếp theo! Cậu ta như mất hết lí trí. Tôi vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết:

      - Pusyseda, cậu điên rồi. Lẽ nào cậu muốn tôi phải căm ghét cậu?

      Vợ chồng Mavasu đều chạy ra, kinh hãi đứng bên, hết lời khuyên nhủ Pusyseda. Pusyseda thấy tôi nhất quyết chịu buông cây cột, liền quay người, túm chặt hai tay tôi, cơ thể cường tráng áp sát lên thân thể tôi.

      - Tư cách hả?

      Pusyseda nhếch môi cười, tay nắm chặt hai tay tôi, tay thô bạo túm cằm tôi, đẩy gương mặt lên đối diện với đôi mắt của cậu ta.

      - Tôi điên dại bám lấy chị bao nhiêu ngày qua. biết là chị quá ư xuẩn ngốc hay quá ư thông minh nữa? Với ta được, với tôi ư? Mở miệng ra là trong trắng, cao thượng, sách vở, nào là cuốn hút nào là thương nào là gắn bó, thế nhưng chị ngại “ra tay” quyến rũ cả hòa thượng nức danh Tây vực. Giờ còn giả bộ trong trắng, thuần khiết ư?

      - Sao cậu dám xỉ nhục tôi? Tôi hoàn toàn trong sạch, tôi trác táng như cậu, lúc nào cũng chỉ muốn lên giường với phụ nữ. Mối quan hệ giữa tôi và Rajiva, kẻ thô thiển như cậu bao giờ có thể hiểu được.

      Tôi gào lên trong nước mắt, cánh tay bị thương như sắp rời bỏ thân thể, tôi đau đớn tê dại.

      Pusyseda toan lên tiếng, bỗng dừng lại, ánh mắt lạnh lùng lướt qua cánh cổng, khóe môi thoáng qua tia cười gian manh, bất chợt nghiêng đầu về phía tôi. Trong hỗn loạn đau đớn và sợ hãi, vật thể mềm ướt trùm lên môi tôi, đầu óc tôi trống rỗng…

      Pusyseda gan lỳ o bế, đòi tách đôi môi cố mím chặt của tôi ra, đầu lưỡi đưa đẩy hít hà môi tôi, tìm đường xông tới. Tôi dặn lòng phải khép môi chặt, nhưng cơn đau nhói ở môi dưới khiến tôi rụng rời, cậu ta cả gan cắn tôi! Phản xạ tự nhiên của tôi là lập tức hé miệng, Pusyseda đột nhập, đầu lưỡi ẩm ướt của cậu ta quần đảo trong miệng tôi, tìm kiếm, săn đuổi đầu lưỡi tôi trở nên bất lực đến tội nghiệp.

      - Cậu cả!

      Tiếng Mavasu. Tôi rùng mình, trời ơi, Rajiva đến rồi! Cậu ấy nhìn thấy! Tôi vắt kiệt sức tàn, cố gắng vùng thoát, nhưng vô ích. Trong cơn quẫn bách, tôi cắn Pusyseda, cậu ta kêu lên tiếng, nhả tôi ra, tay ôm lấy miệng, tay kia vẫn giữ chặt hai tay tôi. Chùm tia vằn vện tức tối trong mắt nhạt dần, nụ cười khó hiểu trồi khuôn mặt, ánh mắt thách thức, khiêu khích hướng ra ngoài sân.

      Tôi quay đầu, nhìn thấy Rajiva đứng như trời trồng giữa sân, sắc mặt tái nhợt. Pusyseda gào lên câu tiếng Phạn, toàn thân Rajiva rung động, sắc mặt càng trở nên thảm hại.

      - Buông tôi ra!

      Tôi nổi trận lôi đình, trong đời mình, chưa bao giờ tôi phải chịu lăng mạ thế này, tôi thể nhẫn nhịn được nữa:

      - Pusyseda, đến bao giờ cậu mới chịu lớn hả? Cha cậu hấp hối giường bệnh, vậy mà cậu vẫn còn tâm trạng giở trò ở đây à?

      Khuôn mặt Pusyseda đột nhiên biến sắc, dần buông cánh tay khóa chặt lấy tôi. Rajiva sải bước đến trước mặt cậu ta, giật tay Pusyseda ra khỏi người tôi, đứng chắn ngang giữa chúng tôi, giọng thảng thốt:

      - Cha sao rồi?

      Quầng mắt Pusyseda đỏ hoe, cúi thấp đầu, vẻ mặt đau khổ:

      - Thầy thuốc bảo… rất nguy kịch…

      Rajiva chắn trước mặt tôi, nhìn thấy vẻ mặt, chỉ thấy tấm lưng của cậu ấy rung động. Pusyseda đột nhiên xông tới, túm lấy cổ áo Rajiva, cất lời chì chiết:

      - Tất cả là tại ! thừa biết cha yếu, vì sao vẫn báo tin mẹ mất?

      Rajiva im lặng, tôi thấy bất bình.

      - Pusyseda, thôi !

      Tôi chạy đến bên họ, ra sức gỡ cánh tay Pusyseda khóa chặt Rajiva.

      - Bây giờ là lúc tranh cãi chuyện này hay sao? Việc cần kíp trước mắt là phải nhanh chóng về phủ.

      Tôi ngừng lại, nhìn hai em họ, tâm trạng nặng nề.

      - Tôi muốn hai người hao phí thời gian vào cuộc tranh chấp vô nghĩa này, để rồi ngày sau phải ân hận…

      Họ như bừng tỉnh sau cơn mê, Pusyseda buông tay. Tôi nhàng đến bên Rajiva:

      - Rajiva, cậu có cần chuẩn bị gì ?

      Rajiva rầu rĩ lắc đầu, tôi hạ lệnh:

      - Vậy chúng ta khởi hành ngay, chừng nửa đêm là tới nơi.

      - Chờ !

      Rajiva bước nhanh vào phòng. Lúc trở ra, cậu ấy cầm tay túi đồ .

      - thôi!

      Ba chúng tôi yên lặng xe. Pusyseda muốn ngồi cạnh tôi, nhưng tôi bỏ sang ngồi phía đối diện. Rajiva lên sau, quan sát lát, rồi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh em trai.

      Cỗ xe lăn bánh, Rajiva mở gói đồ, tôi lặng người. Bên trong có thuốc bôi ngoài da, rượu thuốc và vải sạch.Lúc này tôi mới nhớ đến cánh tay nóng rát của mình, vết máu loang lổ tay áo. Tôi gắng gượng dùng tay trái đỡ lấy tay phải, cơn đau buốt ập đến, khiến tôi kêu bật thành tiếng.

      - Ngải Tình, tay chị sao vậy?

      Từ lúc lên xe, Pusyseda ngượng ngập dám nhìn tôi, nhưng khi nghe tiếng tôi kêu, cậu ta đột nhiên nắm chặt cánh tay tôi, định vén tay áo lên kiểm tra. Tôi muốn cậu ta chạm vào người mình thêm nữa, cố sức rút tay ra, nhưng càng ra sức, vết thương càng nhức buốt tưởng như thở nổi, tôi rên rỉ.

      - Khi nãy tôi phải, tôi cũng biết mình làm sao nữa, tôi nên xử như vậy.

      Tôi kêu đau, cậu ta liền buông tay. gian xe quá ư chật hẹp, Pusyseda gần như quỳ trước mặt tôi, ánh mắt nhìn tôi vừa xót xa vừa ân hận.

      - Cho tôi xem vết thương của chị được ?

      Tôi thờ ơ đáp, tự mình vén cao tay áo, hai em họ đồng thanh thốt lên tiếng kêu . Máu thấm đẫm lớp vải quấn bên ngoài. Trời ơi, nếu cứ tiếp tục thế này, cánh tay tôi hỏng mất!

      Tôi cắn răng, tháo lớp vải quấn, Pusyseda muốn giúp, tôi vung tay né tránh, cánh tay đập vào thành xe, cơn thống khổ đẩy nước mắt tuôn lã chã. cánh tay gầy guộc nhàng vươn ra, đỡ lấy tay tôi. lời, cậu ấy chỉ lặng lẽ, chậm rãi, thận trọng gỡ lớp vải bọc vết thương của tôi, Tôi thư thái tận hưởng chăm sóc dịu dàng ấy, tâm trạng trở nên nhõm hơn, nỗi đau thuyên giảm.

      Lớp vải cũ được gỡ xuống, Pusyseda hốt hoảng. Vết thương há miệng rất rộng, nhiễm trùng nghiêm trọng, vệt máu sẫm đỏ. Rajiva cầm chai rượu thuốc tay, tôi cắn răng quay đầu nhìn. Cơn đau đớn, buốt xót làm tê tái tim gan, mình mẩy, dù gắng sức kìm chế, tiếng kêu thê thảm vẫn rung lên trong cuống họng. Tôi nắm chặt tay trái, móng tay như cắm sâu vào da thịt. bàn tay giá lạnh ôm lấy cánh tay tôi, tôi gắng gượng nhìn lên, bắt gặp nỗi hoảng sợ gương mặt Pusyseda.

      - Ngải Tình, chị bị thương khi nào vậy? Sao tôi hề hay biết?

      Tôi đáp, mắt nhắm chặt, ngã lưng vào thành xe. Rượu thuốc lành lạnh liếm vết thương, giúp tôi hạ nhiệt cơn bỏng rát. Bàn tay Rajiva nhàng phủ từng lớp vải mới lên cánh tay tôi, từ lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc, cậu ấy hoàn toàn thinh lặng.

      Trời sẫm tối, khí lạnh thổi vào trong xe, tôi co người lại. Pusyseda vẫn chưa ngớt lời xin lỗi, bất giác tôi cảm thấy mỏi mệt vô hạn, phải nỗi nhọc mệt thể xác mà là tinh thần.

      điên cuồng của Pusyseda ngày hôm nay khiến tôi nhận ra, biết từ khi nào cậu ta có ý với tôi. Nhưng tôi thể đáp lại tình cảm của cậu ta, tôi thể đáp lại tình cảm của cả hai em họ…

      - Pusyseda…

      Nếu tôi ngắt lời, chắc là cậu ta xin lỗi cả đêm.

      - Tôi tha thứ cho cậu…

      Bóng đêm bao phủ, nhìn gương mặt cậu ta, nhưng trong giọng lộ niềm vui. Tôi điềm nhiên:

      - Về thăm cha cậu, nếu ông có gì đáng ngại, vài ngày nữa tôi theo đội thương nhân đến thành phố Taqian của Ban Siêu, sau đó Trường An.

      - Chị…

      Tay trái tôi bị nắm chặt, giọng Pusyseda hốt hoảng:

      - Chị vẫn muốn ra ư?

      - Tôi có kế hoạch của riêng mình, thể ở lại Khâu Từ.

      Tôi muốn bứt tay ra, nhưng cậu ta ngoan cố kìm chặt. Tôi gắng dùng sức, cậu ta mới nhả tay.

      - Ngải Tình…

      - Pusyseda, tôi rất mệt…

      - Ngải Tình, chị mệt dựa vào vai tôi mà ngủ.

      - Pusyseda, xin cậu, ít nhất là hôm nay, đừng đụng vào tôi nữa…

      Tiếng vó ngựa lạc lõng vang đường. Tôi nhìn gương mặt Rajiva, từ lúc lên xe đến giờ, cậu ấy hề lên tiếng, kể cả lúc băng bó cho tôi. Như vậy cũng tốt, nhìn thấy, nghe thấy có khi lại khiến tôi động lòng. Ba chúng tôi im lặng hòa mình vào bóng đêm…

                  Chương 30: Nỗi mất mát


      Bước chân vào phòng Kumarayana, gian nồng nồng hơi thuốc. Chúng tôi trở về phủ quốc sư hơn mười ngày, bệnh tình của Kumarayana hề thuyên giảm. Mỗi ngày ông đều thổ huyết, hôn mê bất tỉnh nhiều lần. Pusyseda túc trực bên cha cả ngày lẫn đêm, cậu ta gầy rộc trông thấy. Rajiva cũng ngày ngày cận kề bên giường cha, chăm sóc ông và tụng kinh cho ông. Hai em họ bận bịu tới mức còn tâm trí để ý đến tôi nữa, điều đó khiến tôi thấy thoải mái hơn. Tôi thể ra lúc này, tôi phải góp sức giúp họ chăm sóc Kumarayana.

      - Quốc sư…

      Tôi ghé sát bên giường Kumarayana, ông héo hon, tàn tạ đến thương tâm, người ông, dường như chỉ còn đôi mắt màu xám nhạt là nơi duy nhất toát ra sống.

      - Ngải Tình đến đấy à?

      Ông khẽ gật đầu, gượng dậy, tôi vội vàng đến bên, chèn gối tựa sau lưng ông, bàn tay chạm phải thân hình da bọc xương của ông, trong lòng bỗng dâng lên nỗi chua xót!

      - Ngải Tình hẳn là rất bất ngờ khi ta muốn trò chuyện riêng với , đúng ?

      - Vâng, chút ạ.

      Tôi thành thừa nhận. hiểu sao, tôi luôn có cảm giác ông giống như là “sếp” của tôi vậy. Mặc dù tôi luôn gọi thầy hướng dẫn của mình là sếp, nhưng thầy luôn là người mà tôi kính trọng nhất. Tôi mỉm cười.

      - Quốc sư cho gọi Ngải Tình, hẳn là có chuyện muốn .

      - Ngải Tình giống những bình thường khác, mười năm trước ta nhận ra điều này.

      Tôi lặng yên đáp.

      - Ta tự biết còn sống được bao lâu nữa, lòng ta vốn chán ngán cõi trần, sớm ngày nào bớt phiền hà cho người thân ngày ấy.

      Sống mũi tôi cay cay, tôi muốn điều gì đó lạc quan để an ủi ông, nhưng ánh mắt tinh của ông ngắt lời tôi:

      - Nhưng người ta ai cũng vậy, đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa hết những mối bận tâm, với ta là hai đứa con này…

      Trực giác mách bảo với tôi rằng, chủ đề lần này của ông chắc chắn có liên quan đến em họ, nên tôi yên lặng chờ đợi.

      - Ngải Tình là người kì lạ, liệu có thể tiết lộ cho kẻ sắp rời xa thế gian này được biết, hai đứa con trai của ta ngày sau ra sao ?

      Tôi kinh ngạc, ngước lên đôi mắt sáng như thấu tỏ tâm can người đối diện. Lẽ nào ông ta đoán ra lai lịch của tôi? Nhưng, vì sao ông biết được?

      - Mười năm qua dung mạo của hề thay đổi, năm xưa lại đột ngột biến mất. Ta tin rằng, nhất định biết được những chuyện mà người bình thường thể biết.

      Tôi được phép tiết lộ lịch sử, nhưng tôi có nên cứng nhắc giữ nguyên tắc đó với người sắp qua đời? Thấy tôi do dự, ông tiếp tục:

      - Xin hãy tin ta, ta tiết lộ thiên cơ đâu.

      Sau khi suy xét kĩ lưỡng, tôi quyết định tiết lộ vài thông tin quan trọng, vì tôi đành lòng giấu ông.

      - Thưa quốc sư, Rajiva ngày sau lưu danh sử sách.

      Tôi ngập ngừng giây lát:

      - Còn về Pusyseda, xin quốc sư yên tâm, Ngải Tình hứa bảo vệ cậu ấy.

      Lịch sử ghi chép bất cứ điều gì về Pusyseda, có lẽ cậu ta sống cuộc đời bình yên giống như những người bình thường khác. Và tôi quyết định chủ động nhắc nhở cậu ta khi cần thiết, để cậu ta rơi vào thảm kịch xảy ra mười năm sau. Tôi cũng chỉ có thể giúp cậu ta chừng đó.

      - Thành tựu mà Rajiva có được là về lĩnh vực Phật học?

      Tôi gật đầu.

      - Rajiva có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình truyền bá đạo Phật vào Trung Nguyên.

      Kumarayana trầm ngâm suy tư, lúc lâu sau ông mới lên tiếng:

      - Người làm cha làm mẹ, ai cũng mong con cái thành đạt, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là bình an.

      Cơn ho ào đến, tôi vội vã tới bên giúp ông giữ nhịp thở đều đặn. Ông lấy hơi, tiếp tục câu chuyện:

      - Tôi thấy lo nhiều về Pusyseda. Nó là người dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, tuổi trẻ nông nổi có chút phản kháng cũng sao, rồi thời gian qua , nó trưởng thành và chín chắn hơn. Người khiến tôi lo lắng hơn cả là Rajiva…

      Trống ngực đập thình thịch, tôi ngạc nhiên nhìn ông. Từ khi đổ bệnh, Kumarayana chưa bao giờ trò chuyện nhiều đến thế. Gương mặt ông lúc này ửng lên sắc đỏ dị thường, ông trong tiếng ho khan:

      - Nó quá thông minh và từ đến lớn chưa từng nếm trải cực khổ. Trong lòng suy nghĩ rất nhiều, nhưng bao giờ tâm với ai. Tính cách ấy khiến cuộc đời nó trở nên bất hạnh.

      Tôi nhớ từng đọc bài báo viết về nhóm các nhà khoa học nghiên cứu, lai tạo ra giống chuột đột biến gen thông minh hơn rất nhiều loài chuột thông thường. Và người ta hào hứng kháo nhau rằng, nếu áp dụng phương pháp gây đột biến gen đó lên cơ thể người con người trở nên thông minh hơn, tài giỏi hơn rất nhiều. Nhưng lâu sau, người ta lấy làm vui mừng vì vội vàng biến giấc mơ ấy thành thực. Bởi vì nghiên cứu cho thấy, tuy rằng loài chuột đột biến gen trở nên thông minh hơn, nhưng chúng cũng phải trả cái giá rất đắt. Bộ gen mới trong cơ thể “chuột thông minh” có tác dụng kích thích thần kinh, giúp chúng phát triển trí nhớ và trí tuệ, nhưng đồng thời cũng khiến chúng trở nên mẫn cảm hơn với nỗi đau và tổn thương.

      Thế nên, quá ư thông minh hẳn tốt. Khi bi kịch xảy đến, người thông minh cảm thấy vô cùng tồi tệ và thể chấp nhận thực, thậm chí thể chịu đựng nổi. Người bình thường có thể xem hoặc bỏ qua để tiếp tục sống, nhưng họ . Họ dễ trở nên mất phương hướng và hóa điên dại và cuộc đời họ vì thế chỉ toàn thảm kịch. Đó là bi kịch của những người thông minh. Rajiva cũng khó tránh khỏi vận mệnh này.

      - Tuy Ngải Tình từ đâu tới, nhưng Rajiva thành công trong lĩnh vực Phật học, ta tin là đúng.

      - Quốc sư, xin hãy nghỉ ngơi lát.

      Tôi mang nước tới cho ông. Ông thở dài, mệt nhọc cất tiếng:

      - , e là còn thời gian nữa.

      Kumarayana đột nhiên hướng ánh nhìn nghiêm khắc về phía tôi:

      - Ngải Tình biết trước Rajiva dâng hiến trọn đời nơi cửa Phật, vì sao vẫn để nó nảy sinh tình cảm với ? Như thế, có tàn nhẫn quá ? Phải chăng, Phật tổ cử tới đây để thử thách nó?

      Bàn tay tôi run bắn, cốc nước rơi xuống, vỡ choang. Tôi hốt hoảng thu dọn, trong lúc cuống quít, mảnh vỡ lẹm đường vào tay, vết cứa ấy đánh thức tôi. Vậy là ông biết từ lâu. Cũng phải thôi, Mavasu là người nô bộc trung thành theo ông từ Ấn Độ đến Khâu Từ. Tôi sống trong căn nhà của Rajiva ba tháng trời, làm sao giấu ông được.

      - Quốc sư…

      Ông thở dài, vẻ mặt mỏi mệt, buồn khổ.

      - Ta là người từng trải, từng bị nỗi khổ vì dày vò. Năm xưa hoàn tục, ta chịu rất nhiều lời phỉ báng, chỉ trích. Cứ ngỡ, chữ tình có thể hóa giải tất cả, đền bù tất cả. Nào ngờ, người ta thương lại là người có trái tim sắt đá, lòng theo đuổi lí tưởng, khiến cả hai đứa con phải chịu khổ cùng ta.

      Ông dứt cơn thở gấp, ngừng lại nghỉ ngơi, rồi mới tiếp tục.

      - Ta biết cũng có tình cảm với Rajiva. Nhưng nó lòng hướng Phật, ngày sau lại có được thành tựu như vậy, nó thể dành chỗ cho tình trong tim mình được.

      Ông nhắm mắt, vẻ mệt mỏi cùng cực, khóe môi run run:

      - Xin Ngải Tình đừng giẫm lên vết xe đổ của ta…

      Tôi thẫn thờ bước ra khỏi căn phòng của Kumarayana, cảm thấy mình như trôi , thân thể hoàn toàn trống rỗng, hoàn toàn kiệt sức. Pusyseda lại lại trước cửa phòng, thấy tôi, vội vã bước tới truy hỏi:

      - Cha gì với chị?

      - có gì?

      Tôi khẽ lẩm bẩm, thấy cậu ta ý chừng vẫn muốn hỏi tiếp, tôi rầu rĩ lắc đầu:

      - Pusyseda, tôi rất mệt, muốn nghỉ lát.

      đường về phòng, tôi gặp Rajiva mang thuốc vào cho cha, ánh mắt nhìn tôi đăm đắm, đầy vẻ lo lắng và xót xa. Nước mắt cứ muốn trào ra, tôi vội cúi đầu để cậu ấy thấy được, lẳng lặng rảo bước về phòng.

      Ngày nào cũng vậy, khi màn đêm tĩnh mịch buông xuống, Rajiva lại ngồi trong phòng tụng kinh. thành thói quen, tôi tắt đèn, giấu mình trong bóng tối. Ánh đèn leo lét bên phòng đối diện hắt lên khung cửa sổ bóng hình độc. Bóng người dường như bất động, chỉ có thanh tụng niệm lầm rầm vang vọng trong gian tĩnh lặng. Rajiva, nếu chúng ta bị ngăn cách bởi 1650 năm thời gian, nếu cậu phải mang thân phận người tu hành, suốt đời chẳng thể thay đổi ấy, có lẽ tôi có đủ nghị lực để thổ lộ tình cảm với cậu. Tôi tin rằng cậu cũng có tình cảm với tôi, biết khi ấy, cậu có bằng lòng ? Nhưng, vì sao cuộc đời lắm nỗi trái ngang như vậy? Hai chúng ta, rốt cuộc cũng vẫn chỉ là hai đường song song tình cờ giao nhau. Khi trở lại vị trí của mình, chúng ta vẫn chẳng thể rũ bỏ những chướng ngại trong lòng mỗi người. Tôi cậu, bởi vậy, tôi quyết định, từ bỏ…

      Bệnh tình của Kumarayana ngày trầm trọng. Đức vua, hoàng hậu và hoàng thân quốc thích Khâu Từ thường xuyên tới thăm ông. Tôi nhìn thấy Bạch Chấn, em trai út của Bạch Thuần, người mà mười năm sau được Lữ Quang đưa lên ngôi vua Khâu Từ. Tôi cũng nhìn thấy công chúa Aksayamati, lúc này vẫn còn là chừng tám, chín tuổi. Cảm xúc của tôi lúc nhìn thấy khó diễn tả. Aksayamati là người mà mười năm sau trở thành vợ Rajiva. Lúc trước, khi đọc tới đoạn sử này, tuy có cảm thông với Rajiva, nhưng cảm xúc chính của tôi là câu chuyện này ly kỳ, thú vị, tôi hào hứng mang nó kể cho mọi người nghe. Giờ đây, khi tôi trở thành phần trong cuộc sống của cậu ấy, đoạn sử ngắn ngủi kia trở nên vô nghĩa, Rajiva, tôi nhận ra mình thể chịu đựng được việc sau này cậu ấy có mối quan hệ như thế với người phụ nữ khác. Nghe thấy giọng ngọt ngào của Aksayamati khi gọi Rajiva và nhìn thấy cậu ấy tươi cười với bé, tôi nổi cơn ghen tuông, bất chấp đối tượng chịu trận chỉ là bé con. Nhưng khi cơn thịnh nộ sắp bộc phát, những lời của Kumarayana lại văng vẳng bên tai, lạnh buốt tựa băng giá, thấm vào lòng tôi, dập tắt mọi ngọn lửa điên cuồng trong tôi. Phải rồi, tôi hứa với Kumarayana nhanh chóng rời khỏi đây. Vậy tôi lấy tư cách gì để ghen tị với số mệnh được an bài của Rajiva?

      Những loại thuốc quý giá nhất cũng chỉ có thể kéo dài sống của Kumarayana được hơn chục ngày, ông như ngọn đèn trước gió. Đêm đó, hai em họ túc trực bên giường cha, tôi nép mình vào góc khuất, giọng ngắt quãng của Kumarayana xen trong hơi thở khó khăn, đủ biết ông gắng gượng chừng nào.

      - Pusyseda, đừng ghét bỏ mẹ con… bà ấy… lúc nào cũng con!

      Ánh mắt tinh của ông giờ phút này trở nên mơ hồ, chỉ có thanh quản vẫn phập phồng lên xuống, khó khăn lắm mới nghe lời ông:

      - biết… có thể… đoàn tụ với bà ấy… cõi cực lạc… hay ?

      Gương mặt héo hon chỉ còn da bọc xương thoáng nét cười khổ sở:

      - Chắc là được rồi… Bà ấy chứng tam quả… cắt đứt mọi tơ tình nhân thế… trong khi ta vẫn đắm chìm trong bể khổ tương tư…

      Pusyseda nắm chặt tay cha, khóc cạn cả nước mắt. Rajiva vẫn thinh lặng nhìn cha, vẻ mặt thê lương. Kumarayana mấp máy môi:

      - Lần đầu gặp bà ấy, con tim ta lạc nhịp…

      Ánh mắt ông chợt bừng sáng, như thể ông vừa nhìn thấy ai đó.

      - Bà ấy rất đẹp, lại thông minh, lanh lợi, dễ thương… Jiva, đừng … bọn trẻ còn lắm…

      Kumarayana đột nhiên đưa tay về phía trước, ông hoàn toàn đắm chìm trong kí ức. Tôi nhìn thấy nét dịu dàng, thương chưa từng thấy trong đôi mắt ông, như thể, người ông ngày đêm mong nhớ hiển trước mắt ông vậy.

      - Jiva, chờ ta…

      Kumarayana chới với vươn ra phía trước, Pusyseda ôm chầm lấy cha. Cánh tay Kumarayana buông thỏng, ông đổ người vào vòng tay Pusyseda. Pusyseda gọi cha trong cơn tuyệt vọng, nhưng ông đáp lại. Rajiva vẫn thinh lặng đứng đó, biểu cảm đặc biệt nào nét mặt, đột nhiên cậu quỳ sụp xuống, tiếng tụng niệm vang lên. Hai em họ thể những tâm trạng hoàn toàn ăn khớp với nhau.

      - Thôi ! Ngoài tụng kinh ra, còn biết làm gì nữa?

      Pusyseda đặt cha xuống giường, quay người lại gằn hắt trai, giọng đầy vẻ thô bạo.

      - Cả ngày chỉ biết tụng kinh ích gì chứ? Tụng kinh có làm cha sống lại ?

      Cậu ta chỉ tay vào Rajiva, điệu bộ chì chiết dữ dằn:

      - chỉ biết trốn chạy trong kinh văn, Phật tổ của , ngoài việc vẽ ra cái thế giới vô nghĩa sau khi chết, còn có thể làm được việc gì nữa?

      - Pusyseda, được lăng mạ trai cậu!

      Tôi bước đến, kéo tay Pusyseda. Cậu ta còn tỉnh táo nữa, cậu ta muốn trút nỗi đau mất cha lên trai mình.

      Cậu ta quay lại nhìn tôi, ánh mắt vằn lên những tia đỏ, khuôn ngực rung động mãnh liệt:

      - Trong lòng mẹ chỉ có ta là người con duy nhất. Cha cũng vậy, lúc nào cũng thương nhớ ta, tự hào về ta, mặc dù ta chưa ngày tận hiếu với cha.

      Cậu ta hất tay tôi ra, sức mạnh cuồng bạo khiến tôi chao đảo:

      - Cả chị nữa, trong lòng chị cũng chỉ có mình ta. ta được tất cả mọi người thương, nhưng hãy xem xem, ta mang lại cho những người thương mình được những gì nào? Cha qua đời mà ta cũng thèm giọt nước mắt! ta là đồ quái vật máu lạnh!

      - Đủ rồi! Cậu có biết là cậu ấy còn đau khổ hơn cả cậu ? Cậu có thể gào thét để giải tỏa, muốn khóc là khóc, thích nhiếc móc là nhiếc móc, nhưng còn cậu ấy…

      Rajiva vẫn nhắm nghiền mắt, lầm rầm tụng kinh, nước mắt tuôn trào.

      - Cậu ấy phải biết đau đớn là gì, mà vì cậu ấy đau khổ tới mức rơi nổi nước mắt…

      - Ngải Tình…

      Cậu ấy bất chợt lên tiếng, giọng như lạc .

      - Pusyseda sai, tôi là người xuất gia, người xuất gia vốn dĩ thể có tình cảm thế tục…

      - Rajiva…

      Cậu ấy đứng lên, bước ra ngoài cửa.

      - Tôi vào cung thông báo cho đức vua…

      Tôi định đuổi theo nhưng bị Pusyseda giữ lại. Tôi đẩy cậu ta ra bằng hết sức lực mà tôi có. Tôi biết Rajiva làm gì, nhưng tôi phải theo, để bảo vệ cậu ấy.

      Cậu ấy rất vội, rẽ về hướng hoàng cung mà ra khỏi thành. Lính gác cổng thành thấy cậu ấy lập tức cho qua, đến lượt tôi, tôi phải đưa cho họ toàn bộ số tiền có người, họ mới đồng ý để tôi .

      Cậu ấy bước lang thang, vô định, bước chân gấp vội trong đêm, xiêu vẹo, loạng choạng. Điểm đến sau cùng là bờ sông Tongchang. Cậu ấy gào khóc thảm thiết với mặt nước lặng như tờ. Đêm khuya tịch mịch, ngoại thành xa vắng, tiếng khóc của cậu ấy khuấy động gian.

      Tôi lặng lẽ đứng nhìn từ xa. Rajiva, cậu phải có tình cảm, chỉ là cậu thể khóc trước mặt người khác. người giàu cảm xúc và giàu thương như cậu, vì sao lại sùng bái thứ tôn giáo buộc người ta phải đoạn tuyệt với mọi cảm xúc của con người?

      Tôi rất muốn đến bên an ủi cậu ấy, nhưng những lời của Kumarayana cứ văng vẳng bên tai. Rajiva, tôi muốn xuất của mình khiến cậu rối bời, tôi chỉ có thể lặng lẽ ở bên cạnh cậu như thế này thôi.

      Chợt nhớ đến những ca khúc của Tề Dự, bài hát khiến tôi cảm động nhất của là “Nước mắt lạc đà”.  Lúc trước, tôi cảm động vì câu chuyện tình đẹp mà buồn trong tiểu thuyết cùng tên của Tam Mao. Còn bây giờ, trong đêm sâu quạnh, con người mà ngay cả khóc cũng được khóc ấy khiến tôi khỏi cảm khái mà nhớ đến ca khúc này, nỗi buồn ngập tràn trong tôi. Con tim trốn chạy, tìm nơi trú nhưng vô ích, đành ở đó, nhẫn nhịn chống chịu với cơn đau.

      “Em mang theo hạnh phúc rượt đuổi nỗi đau. Ra có lẽ là cách duy nhất để .

      Chỉ biết trao , em học cách nhận lại. Lãng quên, có lẽ là lời chúc phúc thành tâm nhất ta dành cho nhau.

      Đôi mắt ấy dịu dàng từ thuở khai sinh, nhưng ngay cả khóc than cũng chịu nguyền rủa, có nước mắt, làm sao chảy ra cho vơi cạn nỗi đơn?

      Gió cát mịt mùng, mắt em nhạt nhòa, bước xô lệch trong đêm tối. Lạc lối trong sa mạc, trái tim là vì sao Bắc cực, cần mẫn, kiệm lời.

      Gió cát mịt mùng, hoang ảo tiếng gọi tình , muốn nhớ lại cũng nhọc nhằn. Hai ta, chẳng dám , dám hận, để mặc gió cát vô tình cuốn dấu chân”.

      Trái tim tôi hát lên lời ca này, nước mắt chan hòa, gió đêm thổi tới, tâm can càng thêm giá lạnh. Rajiva, sức ảnh hưởng của cậu mới lớn làm sao, ngay cả hát tôi cũng dám cất lời, ngay cả khóc cũng dám khóc thành tiếng. Rajiva, đêm nay cậu đơn, tôi luôn ở bên cạnh cậu, cùng khóc với cậu. Hãy để nước mắt của hai mươi tư năm tuổi đời trong tôi được lần vì cậu mà khóc cạn. Sau này, chúng ta đừng khóc nữa, hãy để gió cát vô tình cuốn dấu chân hai ta từng lưu lại sa mạc cuộc đời này.

      Tờ mờ sáng cậu ấy mới lặng lẽ quay về với vẻ mệt mỏi, rã rời, tưởng như hồn bay phách lạc. Đêm lạnh như băng, khi tôi đứng lên để theo cậu ấy, toàn thân dường như còn chút hơi ấm nào.

      Mùa hạ qua , mùa thu lặng lẽ kéo về.


    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

                  Chương 31: Tôi phải ra
       

      chiếc bàn gỗ được dưng bên bờ sông TongChang, thân thể Kumarayana được bọc kín trong những lần vải trắng. Tục lệ an táng của người Khâu Từ là an táng, nhưng vì Kumarayana là người Ấn Độ, nên ông được hoả táng theo phong tục của Ấn Độ.

      Bạch Thuần cùng các thành viên của hoàng thất, các vương công đại thần xếp thành hàng dài, tất cả đều mặc y phục màu trắng. Cạnh khung gỗ đặt thi thể Kumarayana là các nhà sư, do Rajiva dẫn đầu, sư phụ của cậu – Bundahatta cũng đến dự, họ ngồi xếp bằng sông và cùng tụng niệm.

      Pusyseda vận đồ tang màu trắng, vấn khăng tang, tay cầm đuốc, mắt đỏ hoe, thâm quầng, nét mặt đau thương. Theo phong tục con trưởng là người cầm đuốc, nhưng vì Rajiva xuất gia, cậu còn thân phận phàm tục nên việc này được giao cho con út.

      Bạch Thuần ra hiệu cho Pusyseda, cậu đến bên chiếc bàn gỗ, châm lửa lên lớp cỏ khô phủ xung quanh khung đỡ. Chỉ lát, ngọn lửa bùng cháy nuốt trọn Kumarayana.

      Tiếng kêu khóc thương tâm hoà lẫn tiếng tụng kinh trầm buồn, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thê lương.

      Pusyseda quỳ xuống, hai tay chống đất, đầu cuối thấp, hai vai rung động. Tôi nhìn sang Rajiva, cậu ấy như quên cả tụng niệm, đôi mắt thẫn thờ nhìn người cha tan biến dần trong đống lửa, nỗi đau đớn tột độ nét mặt khiến tôi đủ can đảm nhìn cậu ấy. Trong cuốn “Trung Luận” của Bồ Tát Long Thụ mà Rajiva dịch sang tiếng Hán có đoạn: “Con người, từ nhân quả kiếp trước nên sinh ra trong kiếp này, vì có sinh nên có già cỗi và chết , từ già cỗi và chết nên sinh ra buồn sầu, đau khổ. Mọi muộn phiền của con người đều từ đó mà ra. Nên biết rằng, sinh tử được tạo ra bởi nghiệp chướng của những kẻ u mê ngu muội”. Vòng luân hồi sinh lão bệnh tử là nghiệp chướng, là nỗi khổ của đời người. Bởi vậy, kẻ sáng suốt phải biết cách “diệt trừ mê muội, để diệt trừ nghiệp chướng” Nhưng nếu Rajiva có thể diệt trừ được mê muội, vì sao đêm đó, cậu ấy lại khóc cha thê thảm đến như vậy?

      Tôi lặng nhìn ngọn lửa đó, thầm cầu nguyện: Quốc sư, cầu mong ông gặp được người mà trọn đời ông thương nhớ. Nỗi lòng của ông, Phật Tổ thấu hiểu, vì Ngài cũng từng trải qua nổi khổ tương tư dày vò, nhất định Ngài giúp hai người được đoàn tụ. Cầu chúc hai người hạnh phúc nơi cục lạc…

      Nghi lễ an táng kéo dài hơn giờ. Khi tàn lửa cuối cùng lịm tắt, Pusyseda cùng người nhà thu lượm hài cốt của cha, rắc xuống sông TongChang. Trái tim tôi như thắt lại khi thấy Pusyseda ôm bình tro và kêu khóc thống thiết.

      Trở về phủ quốc sư, tôi với Pusyseda về ý định ra của mình, vì lúc này cậu quá đỗi đau buồn, tôi nỡ nêu ra chuyện đó. Rajiva ở lại phủ, mà cùng sư phụ Bandhudatta trở về chùa Cakra. Trước lúc ra , cậu ấy lặng nhìn tôi hồi lâu, tôi hiểu ánh mắt phức tạp ấy muốn truyền đạt điều gì, thực ra tôi cũng muốn tìm hiểu, vì tôi quá mệt mỏi…

      Tôi ngồi trong sân nhìn ngắm bầu trời. Trước kia tôi thường băn khoăn, bầu trời 1650 năm về trước chắc hẳn là trong lành và thoáng đãng hơn bầu trời thế kỷ XXI, nhưng cứ ngắm mãi bầu trời ấy có gì thú vị đâu chứ? Bây giờ tôi mới hiểu, phải bầu trời có thứ gì đáng để ngắm, mà vì khi trong lòng chất đầy tâm , ngắm nhìn bầu trời cao xa vời vợi kia cảm thấy dễ chịu hơn là ngồi thu mình chỗ.

      - Ngải Tình!

      Quay lại thấy Pusyseda đứng bậc thềm, cậu ta vẫn mặc áo tang, đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt hốc hác, râu ria lúng phúng quanh cằm. Cậu ta trở nên trầm tĩnh hơn trước, chín chắn hơn trước rất nhiều. Người xưa sai, đàn ông trưởng thành hơn vào ngày đưa tang cha.

      Hai chúng tôi nhiều ngày trò chuyện với nhau. Pusyseda bước xuống bậc thềm, đến bên cạnh tôi. cười đùa cợt nhã như trước kia, cậu ta chỉ cuối đầu nhìn tôi. Kể từ sau khi trở về phủ quốc sư, cậu ta luôn tỏ ra giữ ý với tôi.

      - Ngải Tình, hôm đó...

      Cậu ta ngập ngừng, tôi băn khoăn, hôm đó là hôm nào?

      - Ý tôi là hôm ở Subash ấy…

      Nhớ rồi! Tôi khẽ lắc đầu:

      - Chuyện qua lâu rồi, cậu nhắc lại làm gì!

      - Tôi chưa bao giờ thô bạo với phụ nữ, nhưng hiểu sao, với chị, tôi lại kiềm chế nổi.

      - Pusyseda, nếu cậu vẫn muốn xin lỗi, câu trả lời là, tôi tha thứ cho cậu từ lâu lắm rồi.

      - Vậy còn… chỗ đó…

      Cậu ta chỉ tay vào môi tôi, gương mặt ửng đỏ:

      - Nghe phụ nữ người Hán rất coi trọng tiết hạnh.

      Tôi giật mình! ra cậu ta muốn đến cái hôn đó. Tôi cười:

      - Cái đó… sao. Cứ xem như bị chó cắn

      tình tôi chẳng còn nhớ gì về chuyện đó nữa. Với tôi, đó phải là nụ hôn, mà chỉ là vật thể nào đó áp lên môi tôi mà thôi.

      - Chị… mắng tôi là chó ư?

      Cậu ta tức giận, nhào đến bên tôi.

      - Cẩn thận kẻo bị chó cắn lần nữa đấy!

      Tôi né sang bên, Pusyseda rượt đuổi tôi như trước nữa, chỉ đứng đó và cười. Nụ cười hiếm hoi sau gần 2 tháng. Pusyseda khi cười mới giống con người của cậu ấy!

      Nhưng nụ cười kéo được bao lâu tắt lịm, đưa mắt nhìn xung quanh, giọng cậu ta trở nên thê thiết:

      - Cha ra , căn nhà trở nên trống trải lạ thường, quạnh quẽ lạ thường.

      Rồi quay lại nhìn tôi ánh mắt dịu dàng, ấm áp.

      - May có chị ở đây, khiến tôi thấy vui hơn chút.

      Pusyseda đưa tay ra định chạm vào má tôi, tôi giật mình lùi lại. Cậu ta hụt hẫng, rụt tay lại.

      - Ngải Tình, sau cái đó đó, tôi mới biết mình trách oan chị.

      Tôi sững người, hiểu.

      Pusyseda mỉm cười:

      - Phản ứng khi đó của chị chắc chắn là của trinh nguyên, Pusyseda nhận ra điều này dựa kinh nghiệm dày dặn của mình về phụ nữ.

      - Cậu…

      Tôi giậm chân.

      - Sao cậu cứ nghĩ mãi về chuyện đó thế? Tôi có phải trinh nguyên hay liên quan gì đến cậu?

      - Chị gạt tôi rằng chị vừa trở về, đến tận hôm đó tôi mới phát ra chị sống cùng ta ba tháng rồi. Trai đơn chiếc ở cạnh nhau ba tháng trời, dù có là bậc cao tăng nữa, ta rốt cuộc vẫn là người đàn ông. Tôi tin giữa hai người có chuyện gì. Tôi luôn cảm thấy mình kém cỏi so với ta, cha mẹ chiều ta, đức vua tôn kính ta, người đời sùng bái ta. Còn tôi sao, tôi chẳng có gì cả. Mọi người chỉ biết tôi là em trai của đại pháp sư Kumarajiva, có ai biết đến tôi tên là gì, có ai thèm quan tâm tôi làm được gì đâu. Chờ đợi mãi mới gặp được mà tôi thích lại bị ta cướp mất. Nên, tôi cam tâm. Chờ mãi chị về, nên tôi đoán chắc chị đến chùa tìm ta. Tôi như hoá điên, nên mới hành xử thô bạo như vậy với chị.

      Cậu ta cúi đầu, như hồi tưởng lại điều gì, tủm tỉm cười nhìn tôi:

      - Nhưng sau khi hôn chị, tôi bình tâm trở lại. Tôi thấy mừng, vì chỉ môi chạm môi mà chị phản ứng dữ dội như vậy, chắc chắn thể có gì với ta được. tôi vẫn còn cơ hội. Vì dù sao ta thể thành thân, nhưng tôi có thể.

      Tôi bực mình.

      - Cậu trẻ con! Chỉ vì đố kị với Rajiva mà cậu biến tôi thành thứ đồ để tranh giành với cậu ấy? Tôi hiểu nổi, làm người bình thường có gì tốt? Người thông minh có những phiền não của riêng họ, tiếng tăm càng lừng lẫy, cuộc sống càng mệt mỏi. Cậu muốn trở thành người bình thường vui vẻ hay trở thành vĩ nhân bất hạnh?

      - Vậy là…

      Cậy ta nhìn tôi chăm chú, ánh mắt ắp đầy trông đợi.

      - Chị muốn chồng mình là người bình thường ư?

      Sao cậu ta lại hỏi vậy? Trống ngực đập thình thịch, lúc lâu tôi mới lấy lại được ngữ điệu bình thản.

      - Pusyseda, tôi liên hệ với đội thương nhân. Năm ngày nữa xuất phát, họ cùng tôi đến thành cổ Taqian, sau đó Trường An.

      Tôi phải trả thêm khoản tiền để đội thương gia đó nhận lời cùng tôi đến thành cổ Taqian.

      - Chị…

      Gương mặt Pusyseda biến sắc, cậu ấy chụp lấy vai tôi.

      - Chị vẫn muốn ra ư?

      - Tôi có lí do gì để ở lại đây cả.

      - Hãy lấy tôi, chị có lí do để ở lại.

      Vậy là ý tứ cậu ấy.

      - Pusyseda…

      - Chị đừng để bụng việc trước đây tôi qua lại với nhiều phụ nữ, tôi xin thề, từ nay tôi lòng dạ với chị, tôi chỉ có mình chị mà thôi.

      - Pusyseda…

      - Đừng với tôi về tuổi tác, vài năm nữa tôi già hơn chị. Cũng đừng với tôi chị thuộc về nơi này. trời hay Trường An, có tôi ở đó, chị tìm đâu được niềm vui? Tôi chỉ muốn nghe câu trả lời: đồng ý hay đồng ý?

      Chưa từng thấy cậu ta nghiêm túc như thế bao giờ. Nếu phải trái tim tôi từ lâu thuộc về người khác, hẳn là tôi chẳng thể cự tuyệt những lời thổ lộ ấy.

      - Pusyseda, tôi đồng ý.

      Tôi gỡ bàn tay Pusyseda nắm chặt vai mình, bình thản đối diện cậu ta.

      - Lý do duy nhất là: tôi cậu.

      Pusyseda thoáng chao đảo, nụ cười chán nản khoé môi.

      - Ngải Tình, chính chị dạy cho tôi biết thế nào là . Nhưng khi tôi biết người, chị lại với tôi rằng, chị chưa bao giờ tôi.

      - Tôi xin lỗi…

      - Đừng lời xin lỗi với tôi!

      Pusyseda đột ngột quay lại, túm lấy tay tôi!

      - Chị ta phải ?

      - Tôi…

      Tôi thể thừa nhận, tôi phải giữ gìn danh tiếng cho cậu ấy…

      - Đừng giấu nữa! Thời gian về đây ngày nào ta cũng chăm sóc vết thương cho chị và còn ánh mắt ta khi nhìn chị nữa. Chị tưởng tôi biết chắc?

      Pusyseda kéo tôi lại gần, ánh mắt sắc lẹm dò thám gương mặt tôi.

      - Chị thừa biết ta chẳng thể cưới chị mà vẫn hay sao?

      - Pusyseda, tôi cũng mong người tôi là cậu. Nếu là thời điểm khác, ở nơi khác, chắc hẳn tôi cậu. Ở bên cậu tôi thấy rất vui vẻ, cậu mang lại tiếng cười và khiến tôi quên hết nỗi đơn, buồn chán.

      Tôi thể tiếp tục phủ nhận. ra thừa nhận hay có gì khác nhau đâu, cũng đâu thay đổi được gì.

      - Nhưng, tình vốn mù quáng, tôi biết tại sao mình lại cậu ấy. Dù biết có kết cục gì, nhưng tôi vẫn chẳng thể kìm chế bản thân. Vậy nên, tôi quyết định ra .

      Pusyseda buông tôi ra, cất giọng cười lạnh lùng, biểu cảm gương mặt phức tạp đến nổi tôi sao hiểu được.

      - Vậy là tôi vẫn chậm hơn ta bước… năm qua tôi chán ngấy trò chơi tình ái với đám phụ nữ nhạt nhẽo, tôi có tình cảm thực với họ nên những mối quan hệ đó diễn ra chóng vánh, khi giây phút nồng nản qua nhanh, nỗi đơn lại trở về, xâm chiếm tâm hồn tôi. Từ lúc ấy, tôi bắt đầu mong chờ ngày chị trở về. Tiên nữ của tôi từng rằng, nếu tôi học thuộc lòng “Kinh Thi”, nàng quay lại. Chị nghĩ rằng mười năm trước tôi bắt đầu học thuộc “Kinh Thi” ư? đâu, mới từ năm ngoái thôi, tôi muốn thử xem lời chị hay . Kết quả, sau khi tôi học thuộc cả cuốn “Kinh Thi” ấy, chị trở về. Chị hề thay đổi, vẫn nụ cười ngây ngô, gương mặt thuần khiết của mười năm về trước. Trước kia, cha sốt ruột giục giã tôi thành thân, tôi luôn cao giọng tuyên bố chỉ kết hôn với độc nhất vô nhị tự xưa đến nay. Khi đó chỉ vì muốn thể với cha, nên tôi mới thốt ra nhưng lời to tát ấy. Nhưng từ lúc gặp lại chị, tôi đột nhiên nhận ra chị chính là hai ấy. Vì vậy, tôi muốn giữ chị ở bên mình, tôi muốn được ngắm nhìn tôi mắt trong sáng của chị mãi mãi. Tôi nghĩ lần này tôi nhanh hơn ta bước. Nào ngờ cuối cùng vẫn bị ta cướp mất chị.

      Tôi phải mảy may xúc động, nhưng những lời của Pusyseda khiến tôi lo lắng nhiều hơn.

      - Pusyseda, mười năm trước, tôi chỉ sống cùng cậu vẻn vẹn ba tháng và khi đó cậu mới 10 tuổi. Sau mười năm, e rằng hình dáng tôi thế nào cậu cũng chẳng nhớ nổi, chị đến chuyện ngày đêm nhung nhớ?

      - Tôi nhớ chứ…

      Cậu ta đưa tay ra định chạm vào má tôi, nhưng tôi kịp lùi lại. Cậu ta tiến đến, chỉ đứng đó, tưởng tượng ra khuôn mặt tôi trong gian.

      - năm qua, hình bóng chị luôn lên trong tim tôi, ngày ràng, sống động. Bởi vậy, khi chị xuất phố với bộ dạng ngây ngô đó, tôi lập tức nhận ra.

      Tôi thở dài, thể tiếp tục tình trạng này nữa. Tuy rằng biết vì sao cậu ta đột nhiên nảy sinh tình cảm với tôi, nhưng tôi cũng muốn tìm hiểu. Chuyện như vậy, có tìm hiểu thêm nữa cũng đâu có nghĩa lý gì. Tôi đưa mắt nhìn những cành nho trụi lá trong sân, thở dài.

      - Pusyseda, ngày mai tôi đến chùa Cakra.

      - Để gặp ta?

      - Đúng vậy, nhưng là để chào từ biệt, đừng lo, xảy ra bất cứ chuyện gì giữa chúng tôi đâu.

      Tôi cười cay đắng.

      - Tôi và Rajiva đều rất tự trọng…

      Tôi tháo chuỗi ngọc hình sư tử xuống, đưa cho Pusyseda.

      - Hãy tặng cho người con sau này cậu .

      Cậu ta lặng lẽ nhìn viên ngọc, đón lấy, cũng trả lời, lúc sau mới lên tiếng

      - Nó vốn là của chị mà!

      Cậu ta bắt chước tôi ngó lên trời. Ánh chiều tà đổ bóng lên thân người cao lớn ấy, sáng lạn, rực rỡ.

                  Chương 32: Làm sao sống được mà


      Mavasu rất kinh ngạc khi mở cổng và thấy tôi. Sau lễ tang Kumarayana ông theo Rajiva quay lại Subash. Người nô bộc rất mực trung thành này chăm sóc cha con Rajiva và cả tôi nữa, hết mực ân cần tận tuỵ. Tôi mỉm cười với ông, rằng tôi tới để từ biệt và nhờ ông tới chùa thông báo với Rajiva.

      Mavasu quay về cùng với Rajiva. Bây giờ còn chưa đến giờ tụng kinh buổi chiều, vậy là cậu ấy lại trốn việc rồi!

      Khi Rajiva bước chân qua cánh cổng, cậu ấy bị vấp vào bậc cửa, lúc đó tôi đứng ngoài cửa phòng nên thấy cả. bậc cao tăng đại đức, mọi cử chỉ thường ngày vốn rất từ tốn nho nhã vậy mà cũng có lúc vấp chân vào bậc cửa suýt ngã, tôi bật cười.

      Thấy tôi cười cậu ấy có vẻ hốt hoảng, dừng bước trấn tĩnh, chỉ lát lấy lại được phong thái ung dung đĩnh đạc thường thấy, chậm rãi tiến về phía tôi.

      - Vì sao chờ kết thúc buổi tụng kinh buổi tối hãy về?

      Cậu ấy sững người, gương mặt ửng đỏ, lặng yên đáp, ánh mắt trôi về phía xa xôi.

      - Rajiva, cậu là trụ trì của ngôi chùa lớn, cậu thể tuỳ ý vi phạm giới luật như khi còn được.

      Tôi nghiêm mặt, với cậu ấy bằng giọng điệu lên lớp của giáo năm xưa.

      - Cậu về chùa , hết giờ tụng kinh buổi tối hãy quay lại.

      Ngừng lát, tôi tiếp:

      - Tôi có chuyện muốn .

      - Chuyện ra ư?

      Tôi hơi ngạc nhiên, rồi gật đầu. Cậu ấy thông minh tuyệt đỉnh như vậy lẽ nào đoán ra được.

      - Nếu vậy, buổi tối Rajiva quay lại.

      Giọng điềm tĩnh, mảy may xao động. Cậu ấy khẽ cúi người, xoay lưng bước . Nhưng khi qua bậc cửa, hiểu sao lại bị vấp lần nữa. Nhưng lần này, tôi chẳng cười nổi.

      Mùa thu, màn đêm buông xuống nhanh hơn. Mặt trời vừa khuất núi, gió se se lạnh trong gian, sương đêm buốt giá. Tôi ngồi bên cửa sổ, ánh mắt đổ dồn về phía cánh cổng, Rajiva xuất , tôi chăm chú quan sát bước chân của cậu ấy. Tốt rồi, lần này bị vấp nữa.

      Cậu ấy bước vào phòng, vừa thấy tôi bèn cất giọng trầm ấm:

      - Trời về khuya lạnh lắm, mặc thêm áo vào cho ấm.

      Mũi tôi cay cay, nước mắt chỉ trực trào ra. Tôi hít hơi dài che thanh nghẹn ngào nơi cổ họng:

      - Đúng vậy, tôi cảm lạnh mất…

      - biết quý trọng sức khoẻ gì cả, ngày mai tôi mời thấy thuốc đến khám xem sao.

      Ánh mắt Rajiva di chuyển đến cánh tay bị thương của tôi.

      - Mấy ngày nay vẫn bôi thuốc đều đặn chứ?

      Hơn tháng ở phủ quốc sư, Rajiva tự mình đến băng bó cho tôi nhưng hằng ngày vẫn có a hoàn đến giúp tôi. Và dù bận bịu chăm sóc cha, cậu ấy vẫn ngày ngày đều đặn đến thăm tôi và dặn dò tôi được động vào vết thương khi ăn da non. chăm sóc ân cần kéo dài đến tận khi cậu ấy rời phủ.

      - cần đâu!

      Rajiva đừng chăm chút tôi như vậy, tôi dám nhận. Tôi cắn chặt môi, cố gắng giữ cho giọng của mình bình thản.

      - Ngày mai tôi trở về thành Khâu Từ. Tôi liên hệ được với đội thương nhân, chúng tôi nhanh chóng lên đường Trường An.

      Cậu ấy lên tiếng, ánh mắt lại trôi xa, lúc lâu mới quay lại nhìn tôi, chậm rãi :

      - vẫn muốn đến thăm thành cổ Taqian kia mà! Rajiva vừa quyết định tới Yarkland học đạo, đường ngang qua đó…

      - Rajiva!

      Tôi ngắt lời cậu ấy, chỉ muốn ngay lập tức đẩy những ức dồn nén, chất đầy trong lòng ra bên ngoài.

      - Cậu vẫn hiểu sao? Tôi ra muốn tiếp tục ở bên cậu nữa.

      Ánh mắt Rajiva đột ngột tối sầm, hàng mi dài rũ xuống, tiếng cười chua chát bật lên:

      - Ra là vậy

      Cậu ấy nghiêng đầu, hít hơi sâu, khe khẽ cất tiếng:

      - Vậy để Pusyseda chăm sóc cho . Cậu ấy tuy nóng nảy nhưng lòng với ...

      - Rajiva!

      Tôi kềm chế nổi nữa, cậu ấy thông minh như vậy, nhưng vì sao đến giờ vẫn hiểu ra?

      - Thế nghĩa là sao? Nhường tôi cho em trai cậu ư? Bởi vì Pusyseda có thể danh chính ngôn thuận ở bên cạnh tôi ư? Rajiva, tôi cần ai chăm sóc cả, tôi...

      - Ngải Tình..

      Rajiva đột nhiên ngẩng lên, ánh nhìn sắc lẹm bừng lên trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ấy.

      - Phải thế nào mới chịu ở lại?

      Tôi mở miệng nhưng thốt được nên lời, nước mắt lăn dài má.

      - Tôi...

      Lại mở miệng, nhưng vẫn chưa thể bật ra câu hoàn chỉnh.

      - Tôi...

      Tôi quay . Tôi muốn cậu ấy thấy tôi khóc, nhưng hiểu sao tôi kềm chế nổi. Tôi làm sao kềm chế nổi.

      - Ngải Tình...

      Giọng khẽ khàng, như hơi thở, cánh tay dài gầy guộc vươn đến với tôi. Tôi nhắm mắt lại. Ngã mình vào vòng tay run rẩy của Rajiva.

      Khoảnh khắc chạm vào khuôn ngực của cậu ấy, tiếng mơ hồ, bồng bềnh trôi đỉnh đầu tôi:

      - Mười năm chờ đợi chẳng lẽ chỉ đổi được vài tháng ngắn ngủi bên nhau?

      Tôi khống chế nổi mình, bật khóc thảm thiết. Rajiva, Rajiva, vì sao người tôi lại là cậu? Vì sao chúng ta nhau lại thể ở bên nhau? Vì sao khi ấy tôi lại đồng ý tham gia vào dự án vượt thời gian ngu ngốc này?

      Trong vòng tay cậu ấy, tôi khóc triền miên, khóc nhiều đến nghiêng ngả cả đất trời, khóc ướt đẫm vai áo của người ấy. Hơi ấm của Rajiva qua làn vải mỏng ấy khiến má tôi bỏng rát. Ước gì vòng tay ấm áp này là nơi tôi có thể nương tựa vào bất cứ khi nào.

      - Ngải Tình...

      Cậu ấy khẽ đẩy tôi ra, nhìn sâu vào mắt tôi. Hai hàng lệ đổ dài gương mặt hao gầy, đọng lại thành những giọt trĩu nặng nơi chiếc cằm nhọn, lún phún sắc xanh, rồi xuống chiếc áo cà sa màu nâu sòng. Nước mắt vỡ òa, thấm làn vải mỏng, tạo thành hình những bông hoa sẫm màu.

      - Đây là lần đầu tiên trong đời Rajiva khóc. Lần đầu khóc vì mẹ, nhờ có mà tôi biết được lúc đau khổ có ai đó ở bên cạnh dễ chịu biết bao. Lần thứ hai vào buổi tối ngày cha mất, mình Rajiva lặng lẽ chạy ra ngoại thành để khóc. Khi ấy tôi mong có ở bên cạnh biết nhường nào.

      - Tôi ở đó...

      Tôi khóc thành tiếng, ngước nhìn cậu ấy bằng đôi mắt ướt nhòe.

      - Tôi đến đó, đến rất gần cậu và chờ đợi đến tận bình minh ngày hôm sau khi cậu quay về.

      Rajiva siết tôi trong vòng tay chặt, giống như trước đó. Cánh tay cậu ấy ngày mạnh mẽ hơn, như muốn hòa tan tôi trong lồng ngực cậu ấy vậy. Vòng tay cuồng nhiệt khiến tôi chới với. Tôi vòng tay ôm lấy bờ vai gầy guộc của cậu ấy. Rajiva khẽ rùng mình, đột nhiên đẩy tôi ra.

      - Ngải Tình, Rajiva chưa bao giờ thấy vui vẻ như trong ba tháng qua. Cứ nghĩ đến thời khắc cuối ngày được trở về gặp , tôi ngày ngày mong chờ giờ tụng kinh buổi tối.

      - Rajiva...

      Tôi như mê trong ánh mắt đám đuối của cậu ấy.

      - Tôi cũng vậy, ngày nào cũng mong ngóng cậu trở về...

      - Tôi muốn...

      Rajiva ngập ngừng. Ánh mắt khóa chặt đôi mắt tôi. Mỗi tiếng thốt ra như có sức nặng nghìn cân.

      - Rajiva từ lâu muốn...

      Tôi nhìn Rajiva, chớp mắt, hít hơi sâu, chờ đợi. Cậu ấy ngập ngừng rất lâu, cứ khẽ mở miệng lại mím chặt môi lại, sao cất nổi dù tiếng.

      - Rajiva...

      Tôi khẽ gọi, mắt nhìn sâu vào hai vực nước hun hút của cậu ấy.

      - Cậu muốn gì?

      - Muốn... hôn... nàng, được ?

      Cậu ấy ra rồi, tuy giọng còn run run nhưng mỗi chữ thốt ra là cả nỗ lực dời non lấp bể. Gương mặt bừng bừng như thiêu đốt, đôi mắt như hai vực nước trong suốt, sâu hun hút ấy gắn chặt lấy tôi, như chờ đợi. Trái tim tôi lại chịu thử thách, nước mắt tuôn trào. Ôi người đàn ông này mới thuần khiết làm sao, đến bây giờ vẫn còn hỏi tôi có được hay .

      - được.

      Tôi cố gắng hít hơi sâu, nhàng đáp lại.

      - Chàng thể phá giới.

      Rajiva giật mình, cánh tay khi nãy vẫn siết chặt hai vai tôi khẽ buông và quay mặt . nỗi thất vọng, buồn tủi đày đọa gương mặt chàng.

      Đó là sắc diện luôn khiến trái tim tôi quặn thắt.

      - Nhưng, em có thể hôn chàng...

      Tôi kiễng chân, vòng tay lên níu lấy chiếc cổ thiên nga của chàng, khẽ đặt môi lên bờ môi mỏng manh của chàng. Từ khoảng cách gần trong gang tấc ấy, đôi mắt to của chàng trùm lên tôi tựa hai vực nước sâu vô tận hút tôi vào bên trong. Hàng lông mày dài thanh tú khẽ rung động, đẹp như thần tiên. Môi chàng rất mềm. Khoảnh khắc chạm vào đôi môi ấy như có luồng điện lan tỏa khắp cơ thể tôi.

      Rajiva khẽ rùng mình, đôi mắt vẫn mở to, đáy mắt hắt lên tia kinh ngạc, tiếp theo đó là niềm vui rạng rỡ. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận ngọt ngào của đôi môi chàng bằng trái tim. ra nụ hôn tuyệt vời đến như vậy! Trước đó, với Pusyseda thể gọi là hôn. Đây mới là nụ hôn thực của tôi. Nụ hôn mà suốt đời tôi thể nào quên.

      Rajiva chỉ đứng yên lặng, để mặc tôi gắn môi mình lên làn môi mềm mượt của chàng. Khi tôi đánh liều dùng đầu lưỡi liếm bờ môi vẫn mím chặt của chàng, Rajiva kinh ngạc, khẽ kêu lên tiếng, đôi môi hé mở. Chỉ nửa giây đắn đo, đầu lưỡi tôi nhàng vân du vào bên trong, chạm vào đầu lưỡi ngọt và ấm của chàng. Chàng vẫn đứng yên, động đậy, nhưng hơi thở bỗng trở nên gấp gáp. Lúc chạm phải đầu lưỡi tôi, chàng đột ngột ôm chặt lấy eo tôi, đầu cuối thấp, thân người đổ về phía trước, chủ động đẩy cao đầu lưỡi cuốn lấy tôi. Chúng tôi mê man đuổi bắt nhau, cuốn lấy nhau, quấn quít bên nhau. Trời sập sao, đất lở sao?! Giữa đất trời này, chỉ có tôi và chàng, người đàn ông và người phụ nữ...

      Lúc tách nhau ra, hai chúng tôi cùng thở hổn hển, nhìn vào mắt nhau và cười...

      - Chàng nhớ nhé, chàng bị em ép buộc, em chính là người dụ dỗ chàng phá giới, vì vậy, em gánh chịu mọi tội lỗi. Chàng có tội gì cả. Dù phải sa xuống bất cứ tầng địa ngục nào, Ngải Tình cũng sợ...

      - Ngải Tình...

      tay chàng giữ chặt eo tôi, tay khẽ đặt lên má tôi, chàng dịu dàng vuốt ve gương mặt tôi. Bàn tay với những ngón dài, thon gầy ấy chạm đến đâu là làm cho gương mặt tôi bừng sáng đến đó.

      - Rajiva phá giới từ lâu rồi...

      Chàng khẽ cất tiếng, cọ trán chàng vào trán tôi.

      - Ghen tị với em trai, phạm phải giới luật đố kỵ. Luôn mơ tưởng đến nàng, phạm phải giới luật tư dâm. Ở bên nàng lại khao khát được chạm vào nàng, phạm phải giới luật khát khao dục vọng. Ngải Tình, mười năm trước, mười năm qua, Rajiva luôn phá giới.

      Chàng xoay người tôi lại, để mắt tôi nhìn vào mắt chàng. Vẻ dịu dàng trong đôi mắt ấy khiến tôi như mềm .

      - Bởi vậy, ta mới đáng bị đẩy xuống địa ngục, chứ phải nàng...

      - Rajiva...

      Tôi áp mình vào ngực chàng.

      - Chàng có tội gì cả. Chính em quyến rũ chàng. Em giống như nữ từng quyến rủ Phật tổ năm xưa. Khi chàng tỉnh cơn mơ, em tan theo mây khói.

      Ngón tay chàng đặt miệng tôi, ngăn tôi tiếp. Tôi ngước nhìn đôi mắt long lanh, tinh khôi như hồ nước thu. Giọng chàng êm như lụa, thoảng bên tai:

      - đâu, nàng như vậy...

      Chàng nhìn tôi, ngập ngừng, do dự, đắn đo.

      - Nàng…

      Hít hơi sâu giọng chàng bẫng như làn gió.

      - Nàng… có muốn Rajiva hoàn tục ?

      - !

      Tôi hoảng sợ, rời khỏi vòng tay chàng. thực nghiệt ngã ùa về.

      - Chàng thể!

      - Rajiva, sau này chàng có được những thành tựu lớn lao, chàng đến Trung Nguyên truyền bá Đạo Phật và giúp cho đạo Phật ở Trung nguyên phát triển rực rỡ.

      Tôi đăm đăm nhìn chàng, giọng biết từ lúc nào trở nên quá đỗi bi ai:

      - Bởi vậy, chàng thể hoàn tục. Nếu chàng làm vậy, em thể tưởng tượng nổi hậu quả ra sao, em hoá điên mất! Và cả đời này em thể tha thứ cho mình. Rajiva, số mệnh của chàng được định đoạt, thể nào thay đổi…

      Tôi nghẹn ngào, tôi biết vận mệnh của chàng, tôi thể thay đổi vận mệnh đó, vậy còn vận mệnh của tôi sao? Lẽ ra, tôi bao giờ chạm được vào chàng, nhưng dự án vượt thời gian này thay đổi số mệnh của tôi. Ai mà biết được rồi số mệnh của tôi về đâu…

      Chàng thở dài, kéo tôi vào lòng.

      - Ngải Tình, Phật tổ cử nàng đến bên ta phải ? Nàng là tiên nữ, nên nàng biết tương lai của ta phải ?

      - Rajiva, em biết phải giải thích như thế nào với chàng về xuất của em, nhưng những gì em đều là . Hãy hứa với em, cả đời này chàng hoàn tục. Xin đừng quên lý tưởng lớn lao của chàng: Hãy đưa Đạo Phật đến Trung nguyên để cứu rỗi biết bao con người đắm chìm trong bể khổ.

      Chảng xiết chặt tôi hơn, khuôn ngực phập phồng, hồi lâu mới cất lời:

      - Được, ta hứa với nàng, nàng muốn ta đến Trung nguyên truyền bá đạo Phật, ta nhất định .

      Chàng ngập ngừng, lấy giọng, câu hỏi xen trong nỗi ngẹn ngào trôi đến bên tai tôi:

      - Nhưng, nàng vẫn phải ra ư?

      - Rajiva, chàng từng , mọi thứ đều tồn tại kia mà! Em chỉ là ảo ảnh, em tồn tại thực , em nhanh chóng biến mất. Sau này, chỉ cần chàng cố gắng, chàng nhất định quên được em…

      - Chúng sinh trong cõi phàm trần ai nấy đều bị ràng buộc bởi thế giới vật chất và tinh thần mà chẳng thể thanh thản.

      Chàng nhàng buông tôi ra, xoay lưng, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ, ngọn đèn dầu buổi chiều muộn che nổi nét đơn trong đáy mắt.

      Rajiva đắm chìm trong cõi trần ai, biết bao điều ràng buộc, làm sao có thể an nhiên tự tại?

      Mọi ân oán đời này

      Đều vô thường chóng phai

      Cõi thế nhiều khổ não

      Đời người như sương mai

      nên sợ hãi

      nên ưu phiền

      Kẻ nào lià chữ “ái”

      Tâm mới được an nhiên.

      Tôi khẽ nhẩm đọc những câu thơ trong tiểu thuyết “Phi hồ ngoại truyện” mà Viên Tử Y đọc cho Hồ Phỉ nghe trước khi ra , đây cũng chính là những câu kệ trong kinh văn Phật giáo (cuốn “Phật thuyết diệu sắc vương nhân duyên kinh”).

      Từng câu từng chữ lúc này như cứa vào tim gan tôi.

      - Rajiva, lìa xa ái tình, còn ưu sầu khổ não nữa…

      - Nếu quên là quên được đâu còn là “vì nên sợ hãi, vì nên ưu phiền” nữa.

      Rajiva khép mắt, giọt nước mắt sau cùng xuống.

      - Ý trời thể trái. Nếu vậy ta trả nàng về cõi trời…

      Đêm đó, sao chợp mắt được, chúng tôi nương tựa vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau. Trời trở sáng là thời khắc li biệt, giá như thời khắc ấy đừng bao giờ đến.

      - Rajiva…

      - Ừm…

      - Đến giờ tụng kinh buổi sáng rồi…

      - Hết đêm rồi ư? Sao thời gian trôi nhanh đến vậy?

      - Hôm nay phụ lên đường về Jabul, ta phải tiễn người, sau đó tới Yarkand. Các tăng sỹ ở đó nhiều lần mời ta đến thuyết giảng về giáo lý Đại Thừa…

      - Ừm…

      - Vì vậy, ta thể tiễn nàng…

      - Ừm…

      - Ngải Tình, liệu ta có được gặp lại nàng …?

      - Em biết.

      - Ngải Tình, hôm nay ta hôn nàng, vì vậy, tội nghiệt của chúng ta là như nhau. Rajiva thân là bậc tăng nhân, thờ Phật, nhưng phá giới, ta đáng bị đày xuống địa ngục đại tiêu nhiệt…

      - Vâng, vậy em tới đó tìm chàng…

                  Chương 33: Ai nợ Ai?


      Tỉnh dậy, thấy Pusyseda ngồi trước mặt, ánh mắt đăm chiêu, chăm chú quan sát gương mặt tôi. Tôi lẳng lặng đứng lên. Hôm nay là ngày cuối của tôi ở Khâu Từ, sắp xếp đồ đạc xong xuôi, nhét chặt hai chiếc balô Northface, lát nữa tôi đến điểm hẹn để gia nhập đoàn thương nhân.

      Khoác áo lên người, tôi đưa tay xuống dưới gối, thấy gì cả. Kéo gối ra, cũng thấy. Nhìn quanh xem có rơi đâu đó , vẫn thấy. Đâu rồi nhỉ?

      - Đừng tìm nữa.

      Giọng đượm vẻ mệt mỏi của Pusyseda cất lên:

      - Tôi giấu rồi.

      - Cậu…

      Tôi nổi giận:

      - Sao cậu làm vậy? Trả lại cho tôi.

      - có cái vòng bự tướng ấy, chị bay được lên trời.

      - Cậu!

      Việc đó mà cậu ta cũng nghĩ ra, liều lĩnh!

      - Trả chiếc đồng hồ, à , trả chiếc vòng lại cho tôi. Nếu cậu bất cẩn ấn vào nút đó, hậu quả khôn lường.

      - Hậu quả ư?

      Cậu ta cười mỉa, thái độ bất cần.

      - Hậu quả là tôi bay lên trời ư?

      - .

      có áo chống tia phóng xạ, cậu ta chẳng thể bay đâu.

      - Khi đó luồng ánh sáng cực mạnh, nếu bị chiếu vào, chỉ vài ngày sau, thân thể cậu tan rữa, cạn máu mà chết.

      Tôi tưởng tượng ra hậu quả khủng khiếp ấy để doạ cậu ta.

      - Được thôi, tôi động vào bất cứ thứ gì. Nhưng, cái vòng đó, tôi giữ.

      Pusyseda tỏ ra biết sợ hãi là gì, thản nhiên đứng lên, cười với tôi.

      - Nếu chị cho rằng vào phòng tôi có thể tìm thấy chiếc vòng xin mời tự nhiên!

      - Pusyseda, cậu muốn gì?

      Tôi mệt mỏi tựa vào thành giường, sao cậu ta cứ gây chuyện vào lúc tâm tư tôi rối bời thế này?

      - Muốn gì chị còn hiểu hay sao?

      Cậu ta sáp lại gần tôi, đấy mắt vằn lên những tia đỏ.

      - Tôi biết bây giờ chị vẫn chưa tôi, nên tôi phải tận dụng thời gian.

      Tôi cắn môi, nghiêng đầu , muốn nhìn cậu ấy.

      - Vô ích thôi.

      - Cứ mặc tôi!

      Cậu ta đột nhiên nổi đoá, cáu gắt:

      - Dậy mau, đến giờ phải rồi!

      - đâu?

      - Thành cổ Taqian. Tôi và các em đưa chị đến đó.

      Tôi gần như bị cậu ta nhấc lên xe. muốn nhưng tôi lại được với sức mạnh của cậu ta, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay ngồi yên trong xe. Pusyseda cùng bốn người bạn trong đội cấm vệ quân hộ tống tôi ra khỏi thành Khâu Từ.

      Cỗ xe lắc lư, tôi thẫn thở, cảm giác có thứ gì đó dồn tụ trong lòng, muốn đẩy ra đẩy được, muốn nuốt vào nuốt được. Sáng sớm hôm qua, tôi đứng nép vào góc tường cách cổng chùa xa, lén dõi theo cậu ấy. Rất nhiều người đến tiễn Bundahatta, người dân trong thành Subash cũng kéo đến rất đông, cả biển người nhấp nhô, chen chúc, kín hết khoảng gian trước cổng chùa. Tôi thấy Rajiva đâu cả. Mải đến khi cậu ấy lên lưng lạc đà, tôi mới vội đưa tay xoa chiếc cổ tê dại vì mỏi của mình và dặn lòng được chớp mắt. Cách nhau cả biển người mênh mông, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được nổi đơn trong mắt cậu ấy. Lúc Rajiva đưa tay lên, để lộ chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương sờn bạc, tôi bất giác nắm chặt vành khăn lụa Atala choàng cổ. Lục lạc vang lên lanh canh, Rajiva dõi mắt kiếm tìm, nhưng vô vọng, cậu ấy cúi đầu, xoay người bước . Đoàn người dằng dặc nối nhau với những chiếc áo cà sa màu nâu sòng chầm chậm trôi xa, rồi mất hút ở khúc quanh nơi hẻm núi Thiên Sơn heo hút. Tôi nén nổi nước mắt.

      Xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả. Tôi mê man, đắm chìm trong từng khoảnh khắc của hồi ức, cho đến khi Pusyseda thông báo đoàn xe phải dừng lại để dựng trại. Tôi phớt lờ tức giận trào lên trong sóng mắt Pusyseda, ăn uống qua loa, rồi nhanh chóng rút về lán trại của mình.

      Cậu ta bướng bỉnh theo, tôi lẳng lặng xoay lưng lại, nằm xuống ngủ, xem cậu ta như khí. Pusyseda thở dài, buồn bã, bước ra.

      Chúng tôi đến Taian lúc chiều muộn ngày hôm sau, hoàng hôn đổ dài những bức tường loang lổ. Chứng kiến khung cảnh tiêu điều ấy, nỗi buồn như thuỷ triều dâng lên xâm chiếm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy chán nản với công việc như lúc này. Đột nhiên băn khoăn, liệu việc tiến hành khảo sát, đo đạt, xác định vị trí của thành trì hoang tàn sau gần hai nghìn năm bể bãi nương dâu có thực ý nghĩa hay ? Con người luôn vội vã tiến về phía trước, mọi thứ trong thế kỷ XXI thay đổi chỉ trong tích tắc, liệu ai có đủ kiên nhẫn dừng bước để chiêm nghiệm những thứ thuộc về quá khứ?

      Rajiva cũng vậy, ngoài những nhà nghiên cứu về Phật giáo và lịch sử, thử hỏi có bao nhiêu người biết đến tồn tại của cậu ấy? Hoạt hình Nhật Bản trở thành phần thể thiếu trong đời sống của giới trẻ, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bạn trẻ biết rằng, các nhân vật quen thuộc với tên gọi thường khiến chúng ta níu lưỡi khi đọc như:

      Asura, Dragon, Yaksha, Gandharva, Garuda, Kinnava, … đều là thành quả dịch thuật của Rajiva?

      Tôi uể oải lôi đồ nghề ra, mặc lòng có thích hay , lúc này tôi phải làm việc gì đó mới được. Nếu , đầu óc tôi nổ tung vì những suy nghĩ chất ngất, hỗn độn mất! Lúc đầu tôi mực từ chối giúp đỡ của Pusyseda, nhưng cậu ta nằng nặc giằng lấy thước cuộn nên tôi đành để mặc cho cậu ta giúp.

      Buổi tối, chúng tôi dựng trại nền đất cũ hoang tàn, đổ nát của thành phố cổ. Ngồi bên đống lửa gặm bánh nướng Khâu Từ trệu trạo nhai, nuốt từng miếng, tôi nhanh chóng “bỏ cuộc”, đưa mắt về phía toà thành hoang phế trong đêm u tịch. biết giờ này cậu ấy ở đâu? Có ngồi trước đống lửa và bận lòng về “ai đó” như tôi ? Còn nhớ lần đầu tiên gặp Rajiva, cũng vào đêm tháng 10 giữa sa mạc mênh mông hoang vu. Khi ấy cậu vẫn là thiếu niên, đôi mắt long lanh, chăm chú nhìn tôi đầy vẻ hiếu kỳ.

      - Chị nghĩ gì thế?

      cốc nước được đẩy đến trước mặt tôi, ánh lửa bập bùng trong mắt Pusyseda, cậu ta giống Rajiva quá!

      Tôi đón lấy cốc nước, áp tay vào sưởi ấm.

      - Nơi đây từng là Đô hộ phủ của Ban Siêu tại Tây Vực, 16 năm chinh chiến của cha con Ban Siêu làm thay đổi lịch sử Tây vực và cả lịch sử Khâu Từ.

      Pusyseda ngồi xuống bên cạnh tôi, hướng mắt vào đống lửa.

      - Kể cho tôi nghe về ông ấy .

      - Tôi rất ngưỡng mộ Ban Siêu. Cha ông là Ban Bưu, trai là Ban Cố, em là Ban Chiêu, họ đều là những nhà sử học và nhà văn nổi tiếng thời Hán. Bản thân ông lúc đầu cũng theo nghiệp văn chương nhưng sau đó bỏ bút để cầm gươm.

      Tôi nhấp ngụm nước, hồi tưởng lại gia đoạn lịch sử hào hùng ấy.

      - Hán Vũ Đế hạ lệnh cho Trương Khiên “khai thông” Tây vực, thi hành chính sách kết giao hoà hảo, chỉ cần các tiểu quốc Tây vực thuận theo nhà Hán, những phải cống nạp, mà còn được Hán triều ban thưởng và cấp cho các kỹ thuật tiên tiến của Trung Nguyên. Thái độ cầu hoà này khác hẳn với chính sách xâm chiếm tàn bạo của quân Hung Nô đối với Tây vực. Bởi vậy, trong thời gian dài, Tây vực hoàn toàn quy thuận triều Hán, khiến quân Hung Nô vô cùng tức tối. Nhưng đến cuối đời Hán, Vương Mãng soán ngôi, thiên hạ đại loạn, quân Hung Nô được dịp ngóc đầu dậy, khống chế toàn bộ Tây vực. Đến khi Minh Đế, con trai của Quang Vũ Đế lên ngôi mới phải Đậu Cố điều binh tấn công quân Hung Nô ở phía Bắc. Từ đó, lịch sử viết những trang hào hùng về cuộc đời người hùng Ban Siêu.

      Thành quách tiêu điều ủ mình trong gió thu se sắt là chứng tích của những tháng năm huy hoàng ấy. Ban Siêu cùng với đội quân 36 người của mình chiến đấu và tiêu diệt 130 tên địch, từ chiến thắng đó, người đời mới có câu ngạn ngữ “ vào hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Khi Hán Chương Đế quyết định từ bỏ tây vực và hạ chiếu triệu hồi Ban Siêu về Trung Nguyên, ông kháng chỉ và cùng các tộc người Tây vực kiên trì trấn giữ Salaq suốt năm năm trời. Số binh lính người Hán dưới quyền chỉ huy của ông nhiều, nhưng ông thuần phục được các tiểu quốc Tây vực bằng nhân cách và tài trí của mình.

      Sau rất nhiều nỗ lực của cha con Ban Siêu, Khâu Từ quy thuận nhà Hán. Vương triều nhà Bạch do Ban Siêu dưng lên cai quản Khâu Từ gần tám trăm năm. Nhưng đến thời kì này, Khâu Từ còn nghe theo hiệu lệnh của Trung Nguyên nữa, nên mới dấy lên cơn binh biến, để rồi mười năm sau, Rajiva phải đối diện với bước ngoặt lớn trong cuộc đời.

      Trái tim như vỡ ra, rỉ máu, cảnh sắc trước mắt như cũng nhuốm màu sẫm đỏ. Tôi nhắm mắt lại.

      - Sao chị kể tiếp?

      - Cậu là người khâu Từ kia mà, sao lại hay biết về giai đoạn lịch sử này?

      Mở mắt ra, sắc đỏ biến mất, chỉ thấy đôi mắt Pusyseda long lanh, dò xét. Tôi cười buồn.

      - Tôi sao, cần nghĩ cách làm thay đổi tâm trạng của tôi đâu.

      Cậy ấy mỉm cười, rồi yên lặng.

      - Quan hệ giữa cậu và Bạch Chấn thế nào?

      Cậu ta nheo mày.

      - Vẫn ổn, sao chị hỏi chuyện này?

      Tôi do dự nhưng rồi vẫn quyết định ra:

      - Cậu đừng làm quân nhân nữa, được ?

      Pusyseda tỏ ra kinh ngạc, nhìn tôi đầy nghi hoặc.

      - Có thể cậu cho rằng lời của tôi là hàm hồ, nhưng hãy tin tôi, những gì tôi đều là .

      Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ta, chậm rãi buông từng tiếng:

      - Ngày sau, Khâu Từ trải qua biến cố rất lớn, gia nhập quân đội nguy hiểm đến tính mạng. Hãy kết thân với Bạch Chấn, người đó rất có thể là chỗ dựa của cậu trong tương lai.

      Pusyseda dường như quá đỗi kinh ngạc, trầm ngâm hồi lâu. Lúc sau mới nhếch môi cười rất khó khăn:

      - ngờ, chị cũng tiết lộ cho tôi biết trước tương lai của mình.

      Chưa hết ngạc nhiên, bàn tay tôi bị cậu ta nắm chặt, giọng dịu dàng đến bất ngờ.

      - Ở lại bên tôi, cùng tôi vượt qua giai đoạn khó khăn mà chị vừa , được ?

      Cậu ta đặt tay tôi vào lòng mình.

      - Chị là tiên nữ giàu lòng từ bi, chắc để mặc tôi chịu khổ, đúng ?

      Tôi gượng gạo vùng thoát, chạm phải vết thương, chịu nổi tôi kêu đau Pusyseda lập tức buông tay.

      Cậu ta thở dài, vẻ đau buồn gợn trong đáy mắt, quay lại với ngọn lửa bập bùng.

      - Ngải Tình, nếu tôi xuất gia, liệu chị có thích tôi ?

      - Cậu!

      Tôi giật mình:

      - Cậu bậy cái gì thế!

      Cậu ta cười vang:

      - Đùa chị thôi. Tôi mà xuất gia, biết bao nhiêu nàng khóc sưng mắt lên mất! Rồi tôi lại phải phá giới để dỗ dành họ thôi! Người như tôi, chẳng thể thành Phật được.

      Tôi bật cười:

      - Pusyseda, rốt cuộc cậu thích tôi ở điểm nào?

      - biết. Chị có xinh lắm đâu, ngực lại , biết tôi thích chị ở điểm gì cơ chứ?

      Cậu ta nhìn tôi, nụ cười vụt tắt, nhàng cất giọng:

      - Ngải Tình, chị rất thuần khiết.

      Đôi mắt màu xám nhạt từ tốn chiêm ngưỡng khuôn mặt tôi.

      - Đôi mắt thuần khiết, nụ cười thuần khiết, tâm hồn thuần khiết. Ở bên chị, tôi thấy mình cũng trở nên thuần khiết, muốn nghĩ đến những chuyện bậy bạ nữa.

      Cậu ta nhắm mắt lại, lúc mở ra nhìn tôi, ánh mắt buồn xa xăm.

      - Ngải Tình, chị nhất định phải về trời ư, thể lưu lại nhân gian ư?

      Tôi đứng lên.

      - Khuya rồi, nghỉ thôi.

      Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên đường quay về. Tôi vốn chẳng có hứng để làm việc, lại cũng muốn ở cùng Pusyseda, nên đề nghị về sớm. Nhất định phải lấy lại được chiếc đồng hồ vượt thời gian. Tôi ở Khâu Từ gần nửa năm, nếu gấp rút lên đường, có khi vừa đặt chân tới kinh đô Trường An, thời hạn năm hết, chưa gặp được Phù Kiên phải quay về thế kỷ XXI cũng nên.

      Chúng tôi phải dựng trại qua đêm đường, lẽ ra chỉ tối hôm sau là có thể về đến thành Khâu Từ. Nào ngờ, trưa hôm đó khi chúng tôi nghỉ ngơi trong rừng dương xảy ra biến cố lớn.

      Khi ấy chúng tôi vừa nghỉ ngơi xong, chuẩn bị lên đường. Vừa bước vào xe, tôi bỗng nghe thấy những tiếng động lạ. Khẽ thò đầu ra ngoài vật thể lạ đột ngột bay vút tới, cắm phật vào cửa xe, tôi lập tức nhận ra đó là mũi tên. Tiếng Pusyseda gào lên:

      - Ngải Tình, vào xe, ngồi yên trong đó!

      Vừa ngồi xuống, cỗ xe bỗng nghiêng về phía sau, bên ngoài, tiếng ngựa hí lên thảm thiết, cỗ xe lao như bay. Xe ngựa rung lắc dữ dội khiến tôi ngã lên ngã xuống đau điếng, tôi cố sức bò ra cửa xe. Vất vả lắm mới kéo nổi rèm cửa, tôi thấy mũi tên cắm lưng ngựa còn phu xe mất tăm mất dạng từ bao giờ. Bốn bề là sa mạc hoang vắng, thấy Pusyseda. Tôi chao đảo, choáng váng, buồn nôn nhưng vẫn gắng gượng lết đến bên cánh cửa, cắn răng, co người nhảy xuống. biết tôi lăn mặt đất bao nhiêu vòng, chỉ thấy cánh tay bị thương truyền đến cơn tê buốt, rụng rời.

      Sau đó, đầu tôi va phải vật gì đó rất lạnh, trời đất tối sầm và tôi thấy gì nữa cả.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :