1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đức Phật và nàng - Chương Xuân Di(tập 2 - full)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 87: Hạnh phúc ngọt ngào

      Những dịu dàng, ve vuốt êm ái cứ mãi nấn ná trán tôi. Lúc hé mắt trong cơn ngái ngủ mơ hồ, tôi bắt gặp đôi mắt màu xám nhạt gần mình trong gang tấc. Ánh sáng ngập đầy căn phòng, nụ cười ngọt ngào của chàng tỏa rạng môi, chàng chăm chú “thưởng thức” tôi. Tiếng chim kêu ríu rít, giòn tan ngoài cửa sổ, bóng nắng rực rỡ này nhắc tôi rằng, bình minh qua từ lâu. Má tôi nóng ran, đây là lần đầu tiên kể từ khi sinh nhóc Rajiva, tôi dậy muộn thế này. bao lâu rồi, được ngon giấc như vậy? Tôi đánh răng, rửa mặt và dùng bữa sáng cùng chàng. Có tiếng gõ cửa và giọng cung kính vang lên:

      - Thưa thầy, Bệ hạ cho người báo tin, sau nửa canh giờ nữa, ngài đến đây.

      Tôi mỉm cười vì biết chắc nhà vua đến. Ngài quả là con người thấu tình đạt lý, nên mới dành cho chúng tôi hai ngày trọn vẹn vừa qua. Rajiva mở cửa bước ra, giọng cung kính lại cất lên:

      - Bệ hạ còn bảo, ngài rất muốn gặp… gặp… sư mẫu.

      Từ “sư mẫu” phát ra khó khăn, sau rất nhiều ngập ngừng, do dự, ấp úng và gắng gượng. Tôi cười trừ, tiếp tục gấp gọn chăn đệm.

      - Tăng Triệu, theo ta vào trong.

      Rajiva khẽ thở dài.

      Tôi ngạc nhiên hướng mắt ra cửa. Hai ngày qua, mỗi khi đệ tử của chàng mang đồ đến cho chúng tôi, chàng đều đích thân ra ngoài nhận, cho phép bất cứ ai vào phòng.

      Nhà sư trẻ tuổi bối rối bước vào và dừng chân tại nơi ánh mặt trời xuyên qua ô cửa sổ, đầu cúi thấp. Tôi quan sát và đoán nhà sư trẻ này chưa đến hai mươi tuổi, gương mặt thanh tú, nho nhã, vóc dáng gầy gò, trong nắng mai rực rỡ, người đó giống như trang giấy trắng, tinh khôi.

      - Ngải Tình, đây là đại đệ tử của ta, tên gọi Tăng Triệu.

      Rajiva bước đến bên tôi và giới thiệu nhà sư trẻ.

      Tôi gật đầu, tôi biết nhà sư này. Sau khi đến Trường An, Rajiva thu nhận ba ngàn đệ tử, đều là những nhân tài. Trong đó, những người tài giỏi bậc nhất được mệnh danh là “Thập môn tứ thánh”[1], “Bát tuấn”[2] hay “Thập triết”[3]. Tăng Triệu luôn ở vị trí số . Trong số các đệ tử người Hán, Tăng Triệu là người theo Rajiva nhiều năm nhất, cũng là người được truyền dạy nhiều nhất. Tặng Triệu để lại bốn cuốn luận xuất sắc, được người đời sau tập hợp lại trong quyển “Triệu luận” – là cuốn kinh văn quan trọng của phái Tam luận tông. Chỉ tiếc rằng, Tăng Triệu qua đời rất sớm (năm ba mươi mốt tuổi), nếu vị sư trẻ này còn có thể gặt hái được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa.

      [1] Bốn đệ tử xuất sắc nhất của Kumarajiva.

      [2] Tám đệ tử tài giỏi nhất trong pháp hội của Kumarajiva.

      [3] Mười đệ tử thông minh trí tuệ nhất của Kumarajiva.

      Tôi mải quan sát vị sư trẻ tuổi, tài giỏi, nghe Rajiva khẽ:

      - Cẩu Nhi, con hãy quỳ lạy sư mẫu như quỳ lạy mẹ mình, vì chính sư mẫu cứu sống con.

      Cả tôi và Tăng Triệu đều bàng hoàng ngẩng lên. Tôi kinh ngạc nhìn nhà sư trẻ nho nhã, hiền hậu này, còn chút dấu vết nào của hình hài chú bé con năm xưa tay tôi nữa. Cẩu Nhi ư? Tăng Triệu chính là bé Cẩu Nhi tôi nhận nuôi năm xưa ư?

      - Thưa thầy!

      Tăng Triệu dường như mất bình tĩnh, giọng run run:

      - ấy, ấy chính là sư mẫu mà người ngày đêm mong nhớ? Chính là sư mẫu năm xưa nhận lời kí thác của mẹ con cứu mạng và nhận nuôi con lúc nạn đói hoành hành ở thành Guzang?

      Rajiva gật đầu khẳng định:

      - Bởi vậy, người khác có thể nhận sư mẫu, nhưng con được.

      - Sư mẫu!

      Tăng Triệu đột nhiên quỳ sụp xuống và bật khóc:

      - Cẩu Nhi lạy tạ ơn đức của sư mẫu. Nếu có người, con bỏ mạng cùng cha mẹ trong trận đói năm ấy, đâu thể theo thầy học đạo như bây giờ.

      Nước mắt chứa chan, tôi vội đỡ Tăng Triệu đứng dậy, năm nay cậu mười tám tuổi. Sau khi tôi , Rajiva nuôi dưỡng và nhận cậu làm đệ tử. Vậy nên, mặc dù là người trẻ nhất trong số mười đệ tử ưu tú của Rajiva, nhưng Tăng Triệu lại là đệ tử được Rajiva truyền dạy nhiều nhất. Mười sáu năm sớm tối nương tựa vào nhau, hai người chỉ có tình thầy trò, mà còn có cả tình cha con.

      Hàn huyên với Tăng Triệu được đôi câu, chúng tôi hay tin Diêu Hưng sắp tới nơi. Rajiva nắm tay tôi bước ra ngoài sau hai ngày giam chân trong phòng. Từ lúc gặp chàng, tôi như người mất hồn, chẳng để tâm mình ở đâu, chỉ lờ mờ nhớ rằng, sau cuộc hội ngộ trong chùa Thảo Đường, chàng dìu tôi chừng mười lăm phút tới nơi này. Như vậy, nơi ở của chàng cách chùa xa lắm, có điều tôi chắc chắn rằng chàng sống trong chùa.

      Tôi nheo mắt ngắm nhìn dinh cơ này trong nắng trưa chói chang, đó là khu vườn rộng lớn và trang nhã, nửa này của hoa viên là hàng tùng bách cao vút, nửa kia là những cây lạp mai[4], hoa cỏ muôn màu đua nhau khoe sắc. Đúng vào mùa hoa lạp mai nở rộ, hương thơm ngan ngát, đằm đượm, thấm vào tận buồng tim lá phổi. Giữa vườn là hồ nước nhân tạo xinh, ven hồ là kiến trúc vọng đình được xây ngọn núi giả. Chạy dọc hoa viên là dãy nhà chính năm gian được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống với ngói chồng và chiếu nghỉ, cột trụ dầm xà được điêu khắc và trang trí hoa văn hết sức tinh tế, hai dãy nhà ngang ở hai bên cũng rất trang nhã, hoa lệ.

      [4] Lạp mai, tiếng Nhật gọi là Roubai, tiếng là: Wintersweet, hoa lạp mai nở vào mùa đông, cánh hoa trong như là sáp nến, mùi thơm dìu dịu, thoang thoảng.

      Người hầu hối hả quét dọn, các nhà sư tấp nập ra vào, thấy chàng nắm tay tôi, ai nấy đều tỏ ra kinh ngạc. Rajiva căn dặn người hầu gọi tôi là phu nhân, lại nhắc nhở các đệ tử gọi tôi là sư mẫu. Theo sắp xếp của chàng, từ nay mọi việc trong nhà do tôi cai quản. Sau đó, chàng đưa tôi đến phòng khách trong dãy nhà chính. Giữa phòng bày sạp gỗ lớn với các họa tiết khá cầu kì, hai bên là các sạp gỗ và bàn trà. Tượng Phật tổ được đặt chiếc bàn dài, hương thơm của gỗ đàn hương vấn vít tỏa lan khiến bầu khí trở nên thanh khiết, êm dịu.

      Bao năm bên nhau, đây là lần đầu tiên tôi được sống cùng chàng ở nơi sang trọng như vậy. Truyện kể về chàng viết rằng, chàng “ sống trong chùa cùng các sư sãi khác, mà ở nhà riêng, có người hầu kẻ hạ, sung túc, đủ đầy”. Diêu Hưng quả biệt đãi chàng.

      Nhắc đến Diêu Hưng chợt nhớ lại chuyện, tôi khẽ hỏi Rajiva:

      - Hôm đó, đại điện chùa Thảo Đường, lúc chàng về phía em, Diêu Hưng ngăn chàng lại. Sau đó, chàng gì với nhà vua?

      Rajiva tủm tỉm cười, ghé sát tai tôi, thầm :

      - Có hai đứa bé cứ nhảy múa vai ta, hãy ban cho ta thiếu nữ.

      Tôi gần như nghẹt thở, đưa tay lên bịt miệng, mắt tròn xoe nhìn chàng:

      - Chàng… chàng… vì sao lại vậy?

      Chàng mỉm cười bình thản:

      - Nếu ta như vậy, theo nàng, sử sách có thể được sửa lại ?

      Tôi biết phải trả lời ra sao. Quả thực, dù chàng có gì với Diêu Hưng chăng nữa, cũng chẳng thể thay đổi những ghi chép “đáng sợ” kia. Biết vậy, nhưng trong lòng tôi vẫn nguôi tấm tức. Tuy nhiên, thấy chàng dường như xem chuyện đó tựa lông hồng, tôi cũng thấy bình tâm. Đúng thế, chàng gì cũng quan trọng nữa, vì dù sao người đời sau cũng ghi chép như vậy, bận lòng làm chi nữa?

      Tăng Triệu bước vào, thông báo Diêu Hưng chuẩn bị tới nơi. Rajiva gật đầu, dẫn chúng tôi ra ngoài cổng nghênh đón. Tiếng chân người, tiếng vó ngựa, tiếng bánh xe lộc cộc rầm rộ vang lên, cả đội quân đông đảo theo hộ tống hai, ba cỗ xe ngựa. Ở giữa là cỗ xe màu vàng lóng lánh, hoa lệ. Khi xe dừng trước cổng, các thái giám đon đả chạy lại, rước Diêu Hưng xuống xe.

      Rajiva cung kính cúi chào, nếu theo đúng quy tắc mà tôi được học trong trường hợp này, tôi phải quỳ lạy nhà vua. Trong lúc còn bối rối biết nên ứng xử ra sao, tôi nhận được tín hiệu từ Rajiva, nên chỉ cúi đầu hành lễ. Diêu Hưng chắp tay vái chào Rajiva, và quên đưa mắt về phía tôi. Qua cái nhìn của ngài, tôi nhận ra rằng, ngài hề nhớ từng gặp tôi trước đó.

      Ngài ngự ghế cao trong phòng khách, Tăng Triệu dâng trà. Diêu Hưng cười vui vẻ:

      - Chẳng hay chuyến viếng thăm của trẫm có làm phiền quốc sư ?

      Ngài đưa mắt về phía tôi, lời đầy hàm ý:

      - Trẫm nghe , hôm đó, sau khi đưa này , quốc sư hai ngày liền rời khỏi phòng.

      Rajiva mỉm cười, gật đầu đáp:

      - Bệ hạ có biết khi còn ở Lương Châu, bần tăng từng có vợ?

      - Trẫm nghe , phu nhân của quốc sư tuy là công chúa Khâu Tử nhưng lại là người Hán. Đó là hiền thục, đoan trang, tài trí hơn người. Mười sáu năm trước mang thai, nhưng may mất sớm.

      Ánh mắt Rajiva trôi về phía tôi, rồi chàng khẽ thở dài, cất giọng thâm trầm:

      - Rajiva và vợ vốn là duyên trời định, trải qua mấy mươi năm dâu bể, cứ ngỡ chỉ có thể gặp lại nhau nơi địa ngục. Chẳng ngờ, Phật tổ đoái thương, ban cho bần tăng cơ hội được gặp lại vợ mình, bần tăng mong cầu gì hơn.

      Diêu Hưng hoàn toàn bị bất ngờ, ngài quay sang quan sát tôi kỹ hơn:

      - Chả trách lúc giảng kinh mà quốc sư hành động lạ lùng như vậy. ra vì tướng mạo của cung nữ này giống hệt phu nhân của quốc sư. Quốc sư quả là người nặng tình nặng nghĩa, bao nhiêu năm vẫn nguôi nhớ nhung vợ hiền, trẫm lấy làm cảm phục.

      Tôi há hốc miệng vì ngỡ ngàng. Trí tưởng tượng của Diêu Hưng phong phú. Rajiva chỉ mỉm cười, , ý chừng muốn để mặc nhà vua thoải mái với những suy đoán của mình. Diêu Hưng tiếp tục:

      - Nếu năm đó phu nhân quốc sư có thể sinh hạ quý tử, bây giờ công tử của quốc sư trang nam nhi phong độ ngời ngời, giống hệt quốc sư. Cứ nghĩ như vậy, trẫm lại khôn nguôi tiếc nuối.

      Chúng tôi nhìn nhau, biết phải trả lời ra sao. Diêu Hưng bắt gặp ánh mắt chúng tôi giao nhau bật cười ha hả:

      - Mừng thay quốc sư là người nhìn xa trông rộng, thần cơ diệu toán. Chẳng bao lâu nữa quốc sư được đón cặp song sinh, đáng chúc mừng!

      Rajiva tỏ ra bối rối, chắp tay thưa rằng:

      - Những lời phỏng đoán của bần tăng lúc trước là sai lầm. Đến nay bần tăng mới biết, vợ mình mắc bệnh nặng, e là thể sinh nở được nữa.

      Diêu Hưng ngỡ ngàng, lắc đầu:

      - Nếu vậy đáng tiếc.

      Nhà vua nhấp ngụm trà, suy nghĩ lát rồi tiếp tục:

      - Quốc sư hãy để trẫm sắp xếp.

      Tôi giật mình, ý của nhà vua là ngài tặng cho Rajiva mười cung nữ ư? Đây là lịch sử, chẳng thế thay đổi, vậy đến lúc đó, tôi phải ứng xử ra sao?

      Rajiva lắc đầu:

      - Bệ hạ chẳng nên bận lòng, bần tăng tuổi tác cao, vả lại bần tăng còn việc quan trọng hơn phải hoàn thành.

      Diêu Hưng tỏ ra ngạc nhiên:

      - Ngoài việc giảng đạo và thu nhận đệ tử, quốc sư còn việc gì quan trọng hơn nữa?

      Rajiva thong thả dạo bước, nghiêm trang đáp:

      - Phật pháp được truyền bá vào Trung Nguyên bắt đầu từ thời Hán Minh Đế. Sau thời Ngụy Tấn, các bộ kinh luận ngày càng xuất nhiều. Nhưng kinh văn tiếng Hán hầu hết đều được dịch bởi các nhà sư Thiên Trúc và Tây vực. Hành văn trúc trắc, lưu loát, ngữ nghĩa còn nhiều sai sót, và phần lớn đều chưa truyền đạt được hết cái tinh túy của bản gốc tiếng Phạn. Người dân Trung Nguyên khó mà tiếp nhận và lĩnh hội được những kinh văn ấy. Bần tăng sinh sống ở Trung Nguyên nhiều năm và nghiên cứu ít thư tịch bằng chữ Hán. Bần tăng muốn chuyển dịch tất cả các cuốn kinh, luật, luận sử tiếng Phạn sang tiếng Hán, từ đó góp phần truyền bá rộng rãi giáo lý Phật giáo mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn này.

      Diêu Hưng càng nghe càng phấn khởi, nhà vua hào hứng vỗ tay tán thưởng:

      - Hay lắm! Quốc sư tinh thông cả tiếng Phạn lẫn tiếng Hán, chắc chắn là dịch gỉa kinh Phật số . Chi bằng quốc sư hãy lập ra đạo tràng dịch thuật trong chùa Thảo Đường, trẫm hứa trợ giúp quốc sư toàn bộ kinh phí.

      - Đạo tràng dịch thuật cần được tổ chức nghiêm ngặt, và cần đóng góp công sức của rất nhiều người. Hai mươi tư đệ tử Khâu Tử có thể giúp bần tăng phần kinh văn tiếng Phạn, nhưng số các tăng sĩ người Hán có đủ năng lực trợ giúp bần tăng dịch kinh Phật chỉ có mình Tăng Triệu, chỉ e, sức người thể cáng đáng số lượng công việc lớn như vậy.

      - Chuyện đó có gì khó!

      Cặp mắt Diêu Hưng phát sáng, nhà vua gật gù :

      - Trẫm lập tức hạ chỉ, chiêu mộ tăng sĩ tài giỏi từ khắp nơi tề tựu về đây, bái quốc sư làm thầy, trợ giúp quốc sư dịch thuật kinh Phật.

      Sau khi Diêu Hưng ra về buổi chiều hôm đó, chúng tôi vui mừng đón tiếp đại sư Buddhayassa. Tiếng Hán của ngài trôi chảy, nên ngài mất rất nhiều công sức để đến được chùa Thảo Đường. Trước đó, tôi kể cho Rajiva nghe chuyện tôi gặp đại sư đường . Chàng vui mừng khôn tả khi hay tin “người bạn tri kỷ” sắp tới Trường An trợ giúp chàng dịch thuật kinh văn. Hơn hai mươi năm mới gặp lại, họ có rất nhiều điều muốn với nhau. Tôi để hai người được thoải mái chuyện trò, hàn huyên, còn mình tập làm quen với nơi ở mới dưới hướng dẫn của Tăng Triệu.

      Tôi dạo quanh lượt khu nhà, gặp ai Tăng Triệu cũng dừng lại, nghiêm nghị giới thiệu với họ tôi là ai. Khi gặp lại tôi, các đệ tử Khâu Tử của Rajiva đều nhận ra tôi. Mặc dù vô cùng kinh ngạc, nhưng họ vẫn tỏ ra rất mực cung kính với tôi. Tôi cũng muốn giải thích gì nhiều, chỉ mỉm cười với họ rằng, tôi vừa từ nhà mẹ đẻ trở về.

      - Rajiva, chàng mệt ?

      Tôi đặt thêm lên bàn chạc đèn gồm ba cây nến, dùng kéo cắt bỏ đầu bấc cháy đen. Căn phòng sáng lên rất nhiều, nhưng vẫn thế so sánh với bóng đèn thời đại. Nhìn bóng tôi và chàng quấn quít rèm cửa sổ, chợt nhớ đến câu thơ của Lý Thương : “Bao giờ chung bóng song Tây, Còn bao nhiêu chuyện núi này mưa đêm”[5].

      [5] Câu thơ trong bài “Dạ vũ ký bắc” (Đêm mưa gửi người phương Bắc), bản dịch của Tương Như.

      Lòng chợt thấy ấm áp lạ.

      - Ta mệt.

      Chàng chấm đầu bút lông vào nghiên mực, tiếp tục công việc viết lách, nhưng chốc chốc lại đưa tay lên dụi mắt. Ngồi cách bàn viết càng xa, mắt chàng càng nheo lại.

      - Chàng dừng lại lát .

      Tôi dịu dàng lên tiếng, lôi trong ba lô ra chiếc kính lão, đeo lên mắt chàng.

      Chàng kinh ngạc nhìn cuốn tập trước mặt, nhấc lên đặt xuống kiểm tra vài lần, khóe môi vẽ đường cong đẹp mắt, quay lại hỏi tôi:

      - Đây là thứ gì vậy? Vì sao đeo vào lại có thể thấy như thế?

      Chàng đeo kính nhìn rất lạ, giống hệt các vị giáo sư uyên bác trong trường đại học. Rajiva về già giống cha chàng như đúc. Tôi thầm cảm thán: sức mạnh di truyền mới lớn lao làm sao!

      - Thứ này gọi là kính lão, dành cho người nhiều tuổi, mắt kém. Chiếc kính này ứng dụng nguyên lý quang học, có thể giúp mắt chàng khôi phục khả năng tập trung. Người cao tuổi nơi em sống đều đeo kính này khi đọc sách hay viết chữ.

      Chàng chưa kịp tán tụng, tôi thở dài:

      - Em mang theo kính lão hai độ, là loại kính mà những người tầm năm mươi tuổi thường đeo, nhưng chắc dã chính xác, tốt nhất chàng nên đến bệnh viện để đo mắt và kính. Nhưng tiếc là, chàng đến đó được…

      Chàng đáp, chỉ mỉm cười hiền từ, các nếp nhăn nơi đuôi mắt, trán, khóe môi và cổ chàng được dịp “khoe mình”. Nhưng những dấu vết khắc nghiệt của thời gian ấy làm mất vẻ nho nhã ở chàng. Khí chất thoát tục từ con người chàng thăng hoa tựa vò rượu quý ủ qua nhiều năm tháng, hương thơm, theo thời gian, càng thêm nồng nàn, khiến người ta say đắm, khiến người ta ngất ngây. Gương mặt từng trải ấy, tôi nhìn ngắm bao nhiêu cũng thấy chán.

      Chàng “hào phóng” để mặc tôi nhìn ngắm, đỏ mặt như hồi trẻ nữa. Nhưng thấy tôi có ý định kết thúc cuộc “thưởng lãm”, chàng buồn cười, định đưa tay ra kéo tôi sát lại.

      - Đúng rồi, em còn món đồ này nữa.

      Tôi cố ý né tránh:

      - Chàng nhấc chân lên.

      Tôi giúp chàng xỏ đôi tất bằng lông cừu dài đến tận đầu gối, rất dày và ấm. Đây là loại tất xuất khẩu sang Nga, mấy trăm nghìn đôi, tôi mua liền lúc mấy chục đôi.

      - Chàng thấy ấm ? Mùa đông tất này bị nứt nẻ nữa.

      - Ừ.

      Chàng ngẩng lên nhìn tôi, bật cười:

      - ngờ ta lại được sử dụng đồ vật của nghìn năm sau.

      Tôi còn mang theo mấy chục hộp lưỡi dao lam, mười mấy chiếc dao cạo râu. Khi Tuyết Tuyết nhìn thấy chiếc ba lô to uỳnh của tôi, giật mình hoảng hốt. Tôi đưa tất cả cho Rajiva, chàng mỉm cười, lôi trong tủ ra vật gì đó được quấn bọc rất cẩn thận bằng khăn tay. ra là chiếc dao cạo râu gỉ sét, là chiếc dao mà năm xưa tôi mang cho chàng.

      Sống mũi cay cay, tôi rút khăn tay chấm nước mắt:

      - Gỉ sét như vậy còn giữ lại làm gì nữa, số dao cạo râu mới này đủ cho chàng dùng mấy năm liền.

      Chàng đáp, chỉ lặng lẽ cười, bọc lại cẩn thận rồi cất vào tủ. Chàng xỏ tất lông cừu, đeo kính lão, kéo tôi vào lòng, xiết chặt eo tôi, vùi đầu vào tóc tôi, hơi thở ấm áp của chàng phà vào cổ tôi. Tôi khẽ hắng giọng, nhìn cuốn tập bàn, hỏi chàng:

      - Chàng viết gì vậy”

      - Ta viết “Thực tướng luận” theo cầu của Bệ hạ, sách này gồm hai quyển. Ta viết ròng rã gần tháng nay, cũng sắp xong rồi.

      Chàng ghé sát vào tôi, dịu dàng :

      - Đại tướng Diêu Hiển và Tả tướng Diêu Tung nhiều lần ngỏ ý mời ta đến chùa Đại Tự ở Trường An thuyết giảng kinh văn mới, đợi sau khi ta hoàn thành cuốn sách này, chúng ta lên đường.

      Tôi rất đỗi ngạc nhiên:

      - Em cũng ư?

      - Tất nhiên rồi!

      Chàng vẫn xiết chặt eo tôi, đặt nụ hôn lên cổ tôi:

      - Trong nửa năm nàng ở đây, ta muốn xa nàng ngày nào cả.

      Chàng tháo kính, đặt lên bàn, sau đó bế tôi lên:

      - Con trai căn dặn ta phải giám sát việc thuốc thang và nghỉ ngơi của nàng mỗi ngày.

      Chàng đặt tôi lên giường, hơi thở gấp gáp:

      - Ta già mất rồi, sắp bế nổi nàng nữa.

      Tôi vội vã an ủi:

      - Tại em mập lên đấy.

      Chàng đổ người lên mình tôi, cười rạng rỡ:

      - Đúng là nặng hơn đôi chút…

      Đại sư Buddhayassa chỉ ở lại với chúng tôi buổi tối, sau đó ngài dọn đến chùa Thảo Đường, vì cầm theo hết số kinh văn tiếng Phạn, Rajiva phải nhờ đại Buddhayssa chép lại cuốn “Thập trụ kinh”, để sau khi chàng từ Trường An trở về, hai người cùng nhau nghiên cứu và phiên dịch cuốn kinh này.

      Đại sư Buddhayassa tỏ thái độ bài xích cuộc sống vợ chồng của tôi và Rajiva, nhưng tôi biết, ngài rất khó chấp nhận. Tuy nhiên, cả tôi và chàng lâu nay còn bận tâm đến việc người khác đánh giá về chúng tôi ra sao. Chúng tôi đâu còn thời gian để bận lòng về việc đó, thời gian dành để tận hưởng dư vị hạnh phúc mà chúng tôi có còn chẳng đủ nữa là.

      Trung tuần tháng ba dương lịch, hoa đào nở rộ. Sắc hồng rực rỡ phủ kín cả khu vườn. Gió xuân thổi qua các cành cây, những cánh hoa cuộn bay trong trung, la đà đậu khẽ bờ vai gầy guộc của chàng. Chàng nhìn tôi, nụ cười rạng rỡ giữa trời hoa bay, thần thái ấy hệt như tiên ông giữa chốn bồng lai tiên cảnh.

      Chàng chìa tay về phía tôi:

      - Chúng ta Trường An nào…

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 88: Gặp lại người quen

      Vườn Tiêu Dao cách Trường An hơn bốn mươi dặm, chúng tôi mất nửa ngày đường mới tới nơi. Tôi vén rèm cửa, nhìn ra ngoài. Kinh đô danh tiếng trải mười tám triều đại vua hiển sống động trước mắt.

      Tôi đến tham quan cố đô Tây An thời đại, đường rộng rãi, bố cục cân đối, giống như bàn cờ, Tây An bảo tồn nguyên vẹn tường thành từ thời Minh. Lầu chuông lầu trống, tháp Đại Nhạn, tháp Tiểu Nhạn, Bi Lâm (rừng bia đá và mộ chí), phố Hồi Dân (phố người Hồi, phố ẩm thực nổi tiếng của Tây An), Thư Viện Môn (phố bộ cổng thư viện Quan Trung), đan xen hài hòa với các trung tâm thương mại, các tòa nhà cao tầng đại, với phố xá nườm nượp xe cộ và người lại, tạo nên bầu khí rất đặc biệt.

      Tây An thời đại được xây dựng từ thời nhà Đường, kế thừa bố cục kinh đô của nhà Minh. Còn thành Trường An trước mắt tôi, nằm ở phía Tây Bắc Tây An, là kiểu kiến trúc đô thành của thời Hán. Kinh đô trải bao bãi bể nương dâu, vật đổi sao dời này, cũng chẳng được yên ổn trong thời kỳ Thập lục quốc. Cuối thời Tây Tấn, loạn Bát vương phá hoại nghiêm trọng thành phố này, sau đó, vua Phù Kiên nhà Hậu Tần phải mất rất nhiều công sức mới khôi phục lại nguyên trạng, nhưng đến khi Mộ Dung Xung bao vây, tấn công Trường An, dung túng cho quân lính hoành hành ngang ngược, đốt phá, cướp bóc, giết chóc, khiến cho đất Quan Trung trở thành chốn địa ngục A Tì. Nhưng vào thời điểm này, với nỗ lực của hai đời vua Diêu Trường, Diêu Hưng, tuy chẳng thể so sánh với quy mô thời thịnh Đường ngày sau, Trường An cũng có thể được xem là thành phố phồn hoa, đô hội.

      Xe ngựa chầm chậm lăn bánh qua lầu trống, lầu chuông, dòng người qua lại như mắc cửi, hơi thở đầy sinh khí của cuộc sống ấm no ngập tràn khắp phố phường. Rajiva vòng tay qua eo tôi, chiều để mặc tôi gác cằm lên thành cửa sổ xe ngựa, quan sát mọi thứ, ánh mắt tràn thương. Khi ngang qua khu chợ bán đồ thủ công, chúng tôi thấy bên đường có rất nhiều người ăn mặc rách rưới, đầu cắm cọc tiêu bằng cỏ[1], ánh mắt thẫn thờ. Rajiva cho dừng xe lại, bước xuống hỏi han. Tôi cũng muốn theo chàng, nhưng ngẫm ngợi lát lại thôi. Nếu để người ta bắt gặp chàng cùng phụ nữ ra phố, ảnh hưởng tốt đến danh tiếng của chàng. Lát sau, Rajiva quay lại xe ngựa, bảo tôi đưa cho chàng ít tiền, tôi ngần ngại dốc sạch hầu bao. Chàng cho những người tội nghiệp đó tiền, và lúc quay lại, vẻ mặt chàng trầm buồn.

      [1] Cọc tiêu bằng cỏ cắm hàng hóa cho biết là hàng để bán.

      - Họ là dân lang thang đến từ Lương Châu, còn đường sống, phải bán thân làm nô lệ.

      Chàng thở dài não nề:

      - Ta khuyên Bệ hạ trả tự do cho họ.

      Tôi gật đầu đồng tình. Diêu Hưng giống Lữ Quang, ngài là vị vua minh, chắc chắn nghe lời khuyên của Rajiva.

      Xe ngựa đỗ ở cổng phụ của cung Vị Ương để chờ người vào cung thông báo. Lúc dừng xe, chàng trai cao lớn đứng ở phía đối diện thu hút chú ý của tôi. Cậu ta đứng ngoài cổng ngó nghiêng vào bên trong, vẻ mặt đầy lo lắng. Tuổi chừng hai mươi, cao khoảng mét chín. Nghe thấy tiếng động từ phía sau, cậu ta quay lại nhìn cỗ xe ngựa. Tôi thầm thốt lên: đẹp trai quá!

      Thân thể cao lớn, cường tráng, các bắp thịt săn chắc, vạm vỡ. Tuy mặc áo bông thường dân, nhưng cử chỉ nho nhã. Nước da trắng bóc, làn môi đỏ và hàm răng trắng nổi bật. Đôi mắt đen long lanh chăm chú quan sát cỗ xe ngựa của chúng tôi đầy vẻ hiếu kỳ. Chiếc cằm thuôn nhọn khiến cho gương mặt trở nên dịu dàng, hiền hậu.

      Hách Liên Bột Bột cũng cao lớn, tráng kiện, nhưng gương mặt của quá ư lạnh lùng, dữ dằn, khiến người ta sợ hãi. Chàng trai trẻ này hoàn toàn có những nét “ác bá” ấy, nên nếu đánh giá về mức độ “đẹp trai”, cậu ta hơn hẳn Hách Liên Bột Bột. Nước da trắng ngần này chắc chắn phải huyết thống của người Hán.

      Chàng trai giật mình thảng thốt khi nghe thông báo người ngồi xe là pháp sư Kumarajiva và phu nhân, kế đó liền rảo bước về chúng tôi. Cả tôi và Rajiva đều băn khoăn khi nhìn thấy chàng trai ấy, gương mặt mày quen thuộc quá, biết cậu ta là ai? Cỗ xe rời khi chàng trai chưa kịp lại gần. Ngồi xe, tôi quay lại nhìn, thấy cậu ta có vẻ hụt hẫng, ánh mắt thẫn thờ, ngóng theo cỗ xe xa dần.

      Sau khi vào cung, chúng tôi được sắp xếp nghỉ ngơi tại khu nhà chỉ có cổng ra vào ở vành ngoài cung điện. Rajiva đưa Tăng Triệu đến chào hỏi vua Diêu Hưng, chàng biết bệnh nghề nghiệp của tôi rất “nặng”, nên cắt cử viên thái giám họ Trịnh, chức quan Hoàng môn[2] đưa tôi thăm thú Hoàng cung trong phạm vi cho phép. Hậu cung là chốn cung cấm, được tự ý ra vào.

      [2] Hay còn gọi là Hoàng môn thị lang, chức quan coi sóc công việc trong cung vua thời xưa.

      Nhưng sao, được tự do thăm thú vòng ngoài thế này cũng đủ vui lắm rồi. Vua Lưu Bang năm xưa lệnh cho Tiêu Hà giám sát việc xây dựng cung Vị Ương, đây là cung điện dài nhất trong lịch sử Trung Quốc còn giữ lại được đến ngày nay. Từ thời Tây Hán, Tiền Tần, Hậu Tần, đến Tây Ngụy, Bắc Chu thời Nam Bắc triều, các vị Hoàng đế đều đặt cung Vị Ương làm trung tâm hành chính trung ương, qua nhiều lần tu bổ mở rộng, cung Vị Ương chiếm 1/7 tổng diện tích thành Trường An. Vì vậy, dù chỉ được phép lại ở khu vực ngoại diên, nhưng diện tích cũng vô cùng rộng lớn, đủ để tôi khảo sát thoải mái. Tôi hào hứng, nhét vào trong người ít bạc vụn, rồi theo Trịnh Hoàng môn ra ngoài.

      Chợt nhớ đến chàng trai trẻ khi nãy, lòng hiếu kỳ trỗi dậy, tôi bèn nhờ Trịnh Hoàng môn đưa ra khu vực cổng phụ khi nãy. đường , vị thái giám này giải thích cách khách sáo để tôi hiểu rằng, trong cung có rất nhiều quy tắc, được tự ý ra khỏi cung, muốn ra ngoài phải có lệnh bài. Lẽ ra Rajiva cần phải sống trong cung, nhưng vì Bệ hạ muốn được nghe chàng giảng kinh mỗi ngày, nên bằng lòng để chàng ở nơi cách xa ngài. Trịnh Hoàng môn giao cho tôi lệnh bài, rằng cầm lệnh bài này có thể tự do ra vào cung.

      Tôi vừa lắng nghe vừa cảm ơn, cũng quên rút ra ít bạc vụn, ý nhị trao cho Trịnh Hoàng môn, ông ta được nhận hối lộ, càng nhiệt tình dẫn đường cho tôi hơn.

      Ra khỏi cung, tôi bàng hoàng khi mấy tên lính gác cổng đánh đập ai đó. Quan sát người co gập người dưới đất, tay ôm đầu chịu đòn kia, tôi nhận ra đó chính là chàng trai hồi sáng. Tôi vội vàng chạy đến can thiệp. Đám lính gác biết tôi là ai, nhưng thấy tôi cùng viên thái giám chức sắc hề trong cung, lập tức dừng tay lại.

      Tôi đỡ chàng trai trẻ dậy, trán cậu ta sưng tấy, gò má bị toạc da, nỗi căm phẫn ngập trong đôi mắt đẹp mê hồn, nộ khí trùm lên gương mặt tuấn tú. Cậu ta chắp tay vái tôi và lời cảm ơn. Hỏi han nội tình mới biết, cậu ta từ Lương Châu tới đây, đường , chị bị đội kị binh bắt cóc, nghe bị đưa vào cung làm ca kĩ. Ngày nào cậu ta cũng đến cung Vị Ương ngóng đợi, mong sao tìm được cơ hội cứu chị .

      Tôi cười buồn, chả trách cậu ta bị đám binh lính kia đánh đập. Hẳn là vì ngày nào cậu ta cũng qua lại chỗ này, thậm chí rất có thể cả gan chặn xe của các quan lại đường vào cung cũng nên. Tôi hỏi cậu ta về dung mạo và tuổi tác của người chị. Cậu ta mô tả cho tôi nghe về chiều cao của chị , và rằng ấy hai mươi lăm tuổi, tuy xinh đẹp nhưng hiền thục, đoan trang. Tôi hiểu rồi, ra là ấy.

      - Chị cậu tên là Nghiêm Tĩnh phải ?

      Cậu ta vui mừng khôn xiết, gật đầu rối rít. Tôi lấy làm khó hiểu, các nét gương mặt ấy tương đối thô kệch, mắt to, lông mày rậm, giống người Hung Nô, còn chàng trai cao lớn, da trằng như trứng gà bóc này, giống người Tiên Tì hơn, sao họ lại là chị em?

      Nghĩ vậy nhưng tôi ta, chỉ gật đầu bảo cậu ta:

      - Tôi gặp chị cậu. ấy kết hôn rồi đúng , vì tối nào tôi cũng thấy ấy khóc nhớ chồng.

      Cậu ta lấy làm ngạc nhiên, biểu cảm trong ánh mắt rất phức tạp, hai má hơi đỏ lên.

      - Xin chị làm ơn làm phước giúp đỡ, tôi bao giờ quên ơn.

      Cậu ta quỳ chân xuống, chắp tay lại, đưa lên cao, đầu cúi thấp.

      Tôi hơi khó nghĩ. Diêu Hưng khi đó lệnh cho Vương ma ma đưa các về đội ca múa của triều đình, việc diễn ra được tháng rồi, biết tình hình của họ bây giờ ra sao. Bước vào cửa quan khó ra, huống hồ là cửa cung.

      Nhìn vẻ mặt đầy hi vọng của chàng trai, tôi thấy đành lòng:

      - Cậu cứ về , đừng ở đây dò la tin tức nữa. Hãy cho tôi biết tên và địa chỉ nhà cậu, nếu có tin gì tôi cử người đến thông báo cho cậu.

      Cậu ta vui mừng cảm ơn tôi, và cho biết:

      - Tôi tên Mục Siêu, nhà tôi ở phường Hoài Viễn.

      Tôi giật mình ngẩng lên. Cuộc sống lam lũ hề làm sạm nước da trắng bóc của cậu ta, mái tóc dài đen bóng, nửa quấn gọn trong khăn vải, nửa thả xuống ngang vai. Mục Siêu ư? Nhiều năm trước cũng có chú bé lém lỉnh tự xưng như vậy. Có phải chàng thanh niên cao lớn này chính là chú bé ấy, hay đây chỉ là trùng hợp? Tôi suy nghĩ thêm lát, Nghiêm Tĩnh phải chăng là Diên Tĩnh, cha bé từng nhận tên mình là Nghiêm Bình. Mộ Dung Siêu năm nay hai mươi tuổi, trùng khớp với độ tuổi của chàng trai này. Và gia đình họ lại có cả người Hung Nô và người Tiên Tì…

      Cậu ta bối rối trước ánh mắt chăm chú của tôi, hai má bỗng nhiên ửng đỏ. Tôi hỏi khẽ:

      - Hồi cậu ba, bốn tuổi, có từng sống ở Guzang ?

      Cậu ta nhìn tôi kinh ngạc, sau đó quan sát tôi rất kỹ rồi lặng lẽ gật đầu. Tôi hỏi tiếp:

      - Khi ấy, cậu sống ở đâu?

      Cậu ta tiếp tục nhìn tôi chớp mắt, mấp máy môi:

      - Nhà của pháp sư Kumarajiva.

      Tim tôi đập mạnh:

      - Mẹ cậu họ Đoàn, tên Sính Đình, phải ?

      - là ai?

      Thiếu chút nữa cậu ta nhảy dựng lên, khuôn ngực phập phồng.

      Tôi bật cười khanh khách, đây đúng là duyên trời, cậu ta quả nhiên là chú nhóc đáng ngày đó. Tôi lôi ra nắm bút chì giấu trong tay áo:

      - Cậu có nhận ra vật này ?

      - !

      Cậu ta kêu lớn, ôm chặt lấy vai tôi, vui mừng khôn xiết:

      - chính là !

      Nhưng cậu ta ngay lập tức lùi lại, vẻ mặt đầy hồ nghi:

      - Nhưng hơn tuổi mẹ tôi kia mà, vì sao trông lại trẻ hơn cả chị Tĩnh? Hơn nữa, tôi nghe ,

      - Tên ranh, được trù ẻo . là tiên nữ, trẻ mãi già. chỉ về nhà mẹ đẻ thời gian thôi, sao dám bảo chết hả?

      Tôi trêu đùa cậu ta, cố ý làm cho vấn đề kia trở nên mơ hồ.

      - Siêu à, cháu lớn nhanh quá, cao hơn cả rồi.

      Tôi ngẩng lên nhìn cậu ta, vóc dáng cao lớn, lại đẹp trai ngời ngời thế này, nếu ở thời đại, làm người mẫu, diễn viên quả là phí của trời. Tôi vui mừng nắm tay cậu ta:

      - nào, đưa đến thăm mẹ cháu.

      Sính Đình nheo mắt lại quan sát tôi hồi lâu dưới bóng hoàng hôn ảm đạm lọt vào căn nhà mái lá tồi tàn, sau đó mới kêu lên:

      - Chị Ngải Tình, chị là chị Ngải Tình!

      ấy kéo tôi ra ngoài cửa, mượn chút ánh nắng cuối ngày để nhìn tôi cho hơn, sau đó hết sức ngạc nhiên:

      - Chị Ngải Tình, vì sao chị hề già ? So với mười sáu năm trước, còn đẹp hơn rất nhiều.

      Tôi chỉ cười đáp. Mười sáu năm trước sống trong cảnh đói khổ triền miên như vậy, làm sao mà đẹp nổi. Mấy năm qua, nhờ ăn uống đủ chất, và các loại mỹ phẩm chăm sóc da của thời đại, nước da của tôi còn khô héo, vàng vọt như xưa nữa, cơ thể cũng béo tốt, mỡ màng ra nhiều. Trước mắt tôi lúc này là người phụ nữ ăn mặc rách rưới, tiều tụy, héo hon, sắc mặt úa vàng, dáng người gầy gò, còm cõi, nhận ra vẻ đẹp của Sính Đình năm xưa nữa. Mười sáu năm trước, ấy hai mươi hai tuổi, bây giờ mới chưa đầy bốn mươi hai, nhưng trông ấy còn già nua hơn cả phụ nữ năm mươi tuổi. Tôi cảm thấy xót xa, hẳn là, mười sáu năm qua, gia đình họ phải chịu đựng rất nhiều nhục nhằn, kham khổ.

      Tôi quan sát căn nhà mái là thấp bé, rách nát, tồi tàn, trong nhà có đồ đạc gì đáng tiền. Mộ Dung Siêu vội vã dùng tay áo lau sạch bụi chiếc sạp và mời tôi ngồi xuống. Tôi bảo Trịnh Hoàng môn về trước, nhắn với Rajiva rằng tôi gặp lại người quen, ăn tối xong mới về cung. Sau đó, ngăn hai mẹ con Sính Đình cuống quít, sốt sắng lo tiếp đón tôi lại, mời họ ra ngoài ăn tối.

      Lúc ăn cơm, Sính Đình kể cho tôi nghe cuộc sống của họ mười sáu năm qua. Họ bỏ trốn đến Thiên Thủy, thuê mảnh đất, cả gia đình mai danh tích, làm ruộng sống qua ngày, đời sống thanh bần, kham khổ, họ cũng nhớ vượt qua những ngày tháng ấy bằng cách nào. Bà Công Tôn lâm bệnh qua đời khi Mộ Dung Siêu lên mười. Hô Diên Bình cũng ốm bệnh mà qua đời năm trước, trong trận đói kinh hoàng ở Lương Châu.

      Nhắc lại cái chết của Hô Diên Bình, mắt Sính Đình đỏ hoe, nước mắt giàn giụa. Khi ấy họ còn tiền để bốc thuốc, lại gặp phải trận đói, nên đành bất lực, giương mắt nhìn Hô Diên Bình chầm chậm đến cái chết. Điều an ủi duy nhất với ta là Mộ Dung Siêu và Hô Diên Tĩnh bái đường thành thân ngay trước giường bệnh của ta. Sau khi Hô Diên Bình qua đời, gia đình họ cũng mua nổi quan tài, chỉ bọc thi thể trong chiếc chiếu cói rồi an táng.

      Những ngày sau đó, vì thể gắng gượng thêm nữa, lại đúng lúc nhà Tần thôn tính Hậu Lương, họ hòa vào dòng người chạy nạn đến Trường An tìm kế sinh nhai. Nào ngờ, đường , Hô Diên Tĩnh bị bắt, biết sống chết ra sao. Sính Đình vừa khóc vừa kể, bát cơm chan đầy nước mắt. ấy vốn là tiểu thư con nhà quyền quý, sống trong nhung lụa, văn chương thơ phú, cầm kỳ thi họa đủ cả, vậy mà số phận lại trở nên trớ trêu, thê thảm nhường ấy.

      Chúng tôi chuyện trò, hàn huyên rất lâu, sau khi ăn xong, ra khỏi quán ăn trời sẩm tối. Mộ Dung Siêu đề nghị chủ quán gạt hết đồ ăn thừa vào chiếc đĩa sứ để cậu mang về. Thấy họ tằn tiện như vậy, tôi đành lòng, nên dốc hết số tiền mang theo bên mình đưa cho Sính Đình, đồng thời an ủi họ rằng, tôi nhất định nghĩ cách cứu Hô Diên Tĩnh ra.

      - Siêu à, cháu cưới chị Tĩnh làm vợ rồi, vì sao vẫn gọi là chị?

      Tôi hỏi Mộ Dung Siêu khi cậu ta đưa tôi về cung.

      Phố xá vắng lặng, đường chỉ có tiếng bước chân của tôi và cậu ta vang lên lạo xạo. có đèn đường, chỉ có ánh sáng leo lắt của những ngọn nến hắt ra từ khe cửa các căn nhà ven đường.

      Tôi nghe trong giọng của cậu ta có chút gì đó buồn bã. Cậu ta muốn thừa nhận mối quan hệ vợ chồng với Hô Diên Tĩnh trước mặt mọi người, phải chăng vì đối với hơn mình năm tuổi ấy, cậu ta biết ơn nhiều hơn là ? Chuyện tình cảm rất khó , tôi chỉ khuyên nhủ cách tế nhị:

      - ấy là tốt…

      - Cháu biết chứ.

      Cậu ta tiếp tục bước , cất giọng nhàng:

      - Xin yên tâm, chị ấy là vợ cháu, cháu bao giờ bỏ rơi chị ấy.

      Chúng tôi đến cổng dinh cơ bề thế, cổng lớn cao ngất, bậc cửa lạnh ngắt, biển đề: Phủ tướng quân kỵ binh. Tôi giật mình, ra đây là phủ đệ của Hách Liên Bột Bột…

      - Ối!

      Mải ngắm nghía cánh cổng vĩ đại nhà Hách Liên Bột Bột, nên tôi vấp phải bậc thềm nhà ta. Tôi đau đớn co cẳng nhảy lò cò, miệng thôi xuýt xoa. Mộ Dung Siêu giữ tôi lại và đỡ tôi ngồi xuống bậc thềm. Cậu ta ngồi bên cạnh, cúi xuống nhấc cổ chân tôi lên, vặng sang trái vặn sang phải và hỏi tôi có bị trẹo chân . Tôi đoán là , có lẽ chỉ bị thương , nhưng vẫn rất đau, tôi bực mình nguyền rủa Hách Liên Bột Bột và bậc thềm chết tiệt nhà .

      Chợt nghe thấy tiếng cười thậm thụt bên cạnh. Tôi tức quá, đưa tay cốc cho cậu ta cái. Đây là hành động tôi thường làm khi xưa, mỗi lần cậu ta nằng nặc đòi tôi kể chuyện.

      - Tên ranh, được cười!

      Tiếng cười ngày lớn và sảng khoái:

      - Cháu ngờ vẫn trẻ con như vậy!

      Tôi định nghiêm mặt nạt nộ cậu ta, nhưng chợt nhớ ra là tôi chưa bao giờ biết dạy bảo người khác, nên sau đó cả tôi cũng bật cười, nhớ lại chuyện xưa, khỏi bùi ngùi:

      - Cháu còn nhớ chuyện cháu bắt chuột cống ngày xưa ?

      Tiếng cười tan , lúc lâu sau mới nghe tiếng cậu ta khe khẽ vang lên:

      - Cháu làm sao quên được.

      Ngừng lại rất lâu, giọng thâm trầm, lành lạnh mới lại cất lên:

      - Sau chuyện đó, cháu hiểu ra rằng, khi yếu thế, bất kể kẻ nào cũng có thể hiếp đáp, bắt bạt . Muốn bị kẻ khác chèn ép, cách duy nhất là làm cho bản thân mình trở nên lớn mạnh.

      Cậu ta quay lại, ngước nhìn dinh cơ đồ sộ, bề thế kia. Đèn lồng chiếu sáng cả góc phố, chiếu rọi cả dã tâm và hào khí dâng lên trong mắt Mộ Dung Siêu. Tôi bỗng cảm thấy rất đỗi bất an khi nghĩ về kết cục bi thương của cậu ta ngày sau…

      Rajiva về nhà từ lâu. Tôi đem chuyện hôm nay tình cờ gặp lại Đoàn Sính Đình và Mộ Dung Siêu kể lại cho chàng. Sau đó, bàn bạc với chàng làm cách nào để cứu Hô Diên Tĩnh.

      Rajiva trầm tư giây lát, :

      - Ngày mai gặp Bệ hạ, ta tâu với ngài rằng con người quen bị bắt và đưa vào cung, ta tin Bệ hạ thả ấy ra thôi, ngài là vị vua minh. Hôm nay, khi ta cầu xin ngài trả tự do cho các nạn dân Lương Châu bán mình làm nô lệ, ngài lập tức hạ chỉ trả tự do cho họ, đồng thời cấp phát đất đai cho họ khai khẩn

      Tôi gật đầu. Bây giờ khác với khi còn ở Lương Châu, sức ảnh hưởng của Rajiva ở Trường An rất lớn.

      Chàng ra ngoài và bưng vào bát thuốc:

      - Nàng về muộn quá, bát thuốc này phải hâm hâm lại nhiều lần.

      Chàng thổi bớt bọt khí, tự mình nhấp môi kiểm tra nhiệt độ, rồi mới đưa cho tôi. Sau khi tôi uống hết bát thuốc trong trạng thái nhăn mặt, khó khăn, chàng lau miệng cho tôi:

      - Bệ hạ còn , có mấy vị tăng sĩ đến Trường An, họ muốn bái ta làm sư phụ và trợ giúp ta dịch kinh.

      Tôi vừa bóp vai cho chàng, vừa hỏi chuyện:

      - Họ là những ai thế?

      Chàng vui mừng đáp:

      - Ba người học rộng biết nhiều nhất trong số họ có pháp danh là Trúc Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Duệ.

      Tôi “a” lên tiếng. Chàng giữ tay tôi lại, quay đầu hỏi:

      - Ngải Tình, nàng biết họ, phải ?

      Tôi lè lưỡi tinh nghịch, đáp:

      - Ba vị đó, cộng với Tăng Triệu được người đời sau mệnh danh là “Thập môn tứ thánh”, là những đệ tử đắc lực nhất của chàng.

      Tôi nhớ lại những tài liệu lịch sử từng đọc, thuật lại cho chàng nghe cách tỉ mỉ về lai lịch của họ.

      Trúc Đạo Sinh sinh cùng năm với Đạo Dung, cả hai chỉ kém Rajiva năm tuổi. Đạo Sinh xuất thân con quan, rất có tài biện luận, hồi trẻ nổi danh khắp vùng vì khả năng đó.

      Đạo Dung xuất gia năm mười hai tuổi, là người có trí nhớ phi thường. Hồi , vào ngày nọ, sư phụ sai Đạo Dung vào trong thôn mượn cuốn “Luận ngữ”, Đạo Dung mang sách về mà rằng mình đọc thuộc. Sư phụ tin, liền lấy cuốn “Luận ngữ” ra đối chiếu và bảo Đạo Dung đọc thuộc, Kết quả, nhà sư đọc sai chữ.

      Tặng Duệ trẻ hơn hai người kia, nhưng năm nay cũng ngoài ba mươi. Trước kia, Tăng Duệ là đệ tử của ngài Thích Đạo An, vị cao tăng rất được vua Phù Kiên trọng dụng. Người này rất chăm chỉ, năng lực lĩnh hội rất cao.

      Rajiva vừa nghe giới thiệu vừa hết lời khen ngợi, và rằng ngày mai bẩm tấu với Diêu Hưng, để ba người đó vào sống trong chùa Thảo Đường, trợ giúp chàng dịch thuật kinh Phật. Có được ba đệ tử tài giỏi như vậy, Rajiva rất vui. Tôi rót trà cho chàng, hỏi:

      - Chàng định dịch cuốn kinh nào trước?

      - Tất nhiên là…

      Chàng nhấp ngụm nước, mỉm cười:

      - Cuốn “Kim cương bát nhã ba la mật kinh”.

      Tôi hết sức ngạc nhiên. Chàng đặt cốc nước lên bàn, ôm tôi vào lòng, ghé tai tôi thầm:

      - Nàng thích những bài kệ trong cuốn kinh văn này nhất kia mà…

      “Tất cả các pháp hữu vi

      Như bóng bọt nước có gì khác đâu

      Như sương như điện lóe mau

      Hãy xem như giấc chiêm bao mơ màng”.

      Chàng lầm rầm đọc lại, giọng chàng trầm ấm, đưa hồi ức của tôi trở về buổi tối mùa hạ năm đó. Khi ấy chàng mực ép tôi ra , tôi đau lòng biết bao khi đọc những câu kệ này. Chớp mắt, ngần ấy năm trôi qua…

      Chàng cúi xuống, gác cằm lên vai tôi, khẽ thở dài:

      - Ngải Tình, ta vẫn nhớ như in cảnh tượng lần đầu gặp nàng. Khi ấy nàng rất mệt mỏi và lo lắng, mắt tròn xoe, miệng há hốc. Nàng nhớ nổi tên ta bằng tiếng Phạn, cứ nhẩm nhẩm lại cách vất vả. Lúc đó ta thầm nghĩ, này rất thà, chất phác, màu mè, kiểu cách. Ngày tháng qua , càng ở gần nàng, càng bị nàng hấp dẫn bởi tính cách đặc biệt và trí tuệ của nàng. Kể từ đó, trái tim ta còn dành riêng phụng thờ Phật tổ nữa, mới đây mà bốn mươi năm, đúng là “như sương, như điện, như chiêm bao”…

      Giọng chàng ấm áp, êm như gió xuân, lướt qua tim tôi, làm rung động những con sóng cảm xúc, tôi thấy mũi mình cay cay. Trong bốn mươi năm của đời chàng, mười năm của đời tôi, nếu cộng cả nửa năm ở Trường An, chúng tôi cũng chỉ được sống bên nhau vỏn vẹn bốn năm. Thời gian còn lại là nỗi khắc khoải chờ đợi mỏi mòn. Ông trời có bất công với chúng tôi ? đâu, tôi lắc đầu, xua những suy nghĩ bi quan. Nếu trải qua những năm tháng đợi chờ dằng dặc ấy, làm sao biết quý trọng những khoảnh khắc ngắn ngủi bên nhau.

      Tôi xoay người lại, nép vào ngực chàng, hai cánh tay vòng qua, xiết chặt lấy chàng, như kẻ chết đuối chới với ghì chặt lấy khúc gỗ cứu mạng giữa đại dương mênh mông. Tôi thầm nhủ với chính mình: đừng mong cầu gì nhiều, được ôm chàng trong vòng tay như thế này, là đủ rồi…

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 89: kiện mười ca kỹ

      Ngày hôm sau, vẫn là viên thái giám họ Trịnh đưa tôi tham quan khắp lượt khu vực ngoại diên của cung điện. Dù chỉ là phần , nhưng đủ khiến tôi mỏi nhừ chân, quả hổ danh là cung Vị Ương năm trăm năm lịch sử. Vì có mặt của Trịnh Hoàng môn nên tôi thể lôi đồ nghề ra phác hoạ và ghi tốc ký, chỉ có thể thầm ghi lại mọi thứ trong trí nhớ. Lúc quay về nơi ở ngày sang chiều, tôi thấy rất nhiều người có mặt trong sân vườn. Nhìn kỹ nhận ra họ chính là các Lương Châu bị Hách Liên Bột Bột bắt cóc, Hô Diên Tĩnh cũng có mặt.

      Chín nhìn thấy tôi đồng thanh chào:

      - Phu nhân!

      Tôi giật mình, họ đều quen tôi, nhưng vẫn cúi chào tôi cách trịnh trọng thế này, tin rằng trước đó, họ được dặn dò kỹ lưỡng. Tôi nhìn thấy gương mặt lạ, này cùng với tôi tới vườn Tiêu Dao dạo trước. Tôi đếm lại, tổng cộng là mười người, phải chín.

      Tôi dò hỏi viên thái giám đứng bên cạnh. Ông ta rằng, bệ hạ sai người đưa họ đến đây. Tôi định hỏi tiếp nghe thấy tiếng bước chân rầm rầm vang lên, sau đó thái giám cao giọng thông báo:

      - Bệ hạ đến!

      Mọi người có mặt trong khu vườn khi ấy nhất loạt quỳ rạp xuống, tôi muốn gây chú ý, nên cũng quỳ theo. Diêu Hưng cười vang, nắm tay Rajiva, bước vào. Nhà vua khoát tay, cho phép chúng tôi đứng lên. Theo sau Diêu Hưng và Rajiva, ngoài Tăng Triệu, còn có ba nhà sư người Hán nữa, hai trong số họ chừng hơn bốn mươi tuổi, vị trẻ hơn, có lẽ là các nhà sư Trúc Đạo Sinh, Đạo Dung và Tăng Duệ mà tối qua Rajiva nhắc tới.

      Rajiva nhìn các trong vườn, kinh ngạc hỏi:

      - Bệ hạ, chuyện này…

      - Đây là mười thiếu nữ đến từ Lương Châu, Khuất Kiết dâng tặng cho đội ca múa của Hoàng cung. Quốc sư bảo rằng muốn tìm con của người quen kia mà, nếu vậy, trẫm tặng họ cho quốc sư. Ngoài người quốc sư cần tìm ra, những người khác ở lại đây hầu hạ quốc sư.

      Rajiva chắp tay, khiêm cung:

      - Xin bệ hạ chớ làm vậy! Bần tăng chỉ muốn tìm con của người quen mà thôi.

      - Quốc sư đừng từ chối.

      Diêu Hưng liếc sang tôi, rồi quay lại thuyết phục Rajiva:

      - Phu nhân quốc sư thể sinh nở được nữa, vậy quốc sư hãy giữ lại các thiếu nữ này làm thiếp, để họ sinh ra những đứa trẻ thông minh xuất chúng. Quốc sư là người trí tuệ siêu phàm, nếu có hậu duệ nối nghiệp đáng tiếc.

      Rajiva mực từ chối, khẩn thiết cầu xin:

      - Thưa bệ hạ, bần tăng là người xuất gia, lẽ ra nên quyến luyến hồng trần. Bần tăng và vợ là duyên nợ từ kiếp trước, bần tăng thành thân vốn phạm tội đại nghịch, sao có thể cưới thêm thiếp được?

      - Quốc sư là người phóng khoáng, hơn mười năm trước phá giới, hơn mười năm sau, ngay chính đại điện công nhận vợ, việc nạp thiếp, sinh hậu duệ để nối nghiệp có gì mà thể? Phật pháp Đại Thừa đề cao thuận tiện trong quá trình truyền pháp, vì vậy việc này chẳng hề làm tổn hại đến lòng hướng Phật của quốc sư.

      Diêu Hưng tiếp tục bước về phía dãy nhà chính, Rajiva theo sát nhà vua, tiếp tục can ngăn:

      - Bệ hạ, bần tăng sợ người đời gièm pha, nhưng nếu tăng sĩ Trường An biết chuyện này, chỉ e có người học theo…

      Vua Diêu Hưng dừng bước, vẻ mặt giận dữ:

      - Kẻ nào dám buông lời gièm pha quốc sư, trẫm tha cho kẻ đó. Kẻ nào có trí tuệ siêu phàm như quốc sư mà dám học đòi đương nam nữ, kẻ đó có tội với Phật tổ, trẫm trừng trị nghiêm khắc.

      Tôi thở dài, tự biên tự diễn những chuyện nhằm tạo ra sức thuyết phục cho lời của mình, sau đó, dùng cường quyền áp chế, ngăn trở người khác, vốn là cung cách mà các bậc vua chúa thường làm.

      - Bệ hạ…

      Giọng của Rajiva run rẩy.

      - Quốc sư!

      Diêu Hưng dường như bắt đầu khó chịu.

      - Thứ mà trẫm ban tặng bao giờ thu nhận lại.

      Thấy Rajiva vẫn còn muốn cự tuyệt, tôi vội vàng bước đến, cúi đầu, thưa rằng:

      - Thần thiếp xin thay mặt quốc sư tạ ơn Bệ hạ. Thần thiếp nhất định đối xử với các này như chị em trong nhà.

      Diêu Hưng mặt mày hớn hở, cười vang:

      - Ha ha, phu nhân quốc sư quả là người hiểu biết, hiền thục, đức độ. Tốt lắm, vậy trẫm giao mười cung nữ này cho phu nhân, sau này, họ cùng phu nhân hầu hạ quốc sư.

      Rajiva chau mày nhìn tôi, tôi mỉm cười an ủi chàng. Cuối cùng Rajiva cũng đành yên lặng, thêm điều gì, chàng cùng vua Diêu Hưng, Tăng Triệu và ba đệ tử bước vào phòng khách.

      Tôi đưa mười sắp xếp chỗ ở. Khi chúng tôi vào phòng, tôi nhận thấy vẻ mặt rất đỗi hoang mang, lo sợ của họ, nghiêm trọng hơn là sắc mặt của lạ kia. Tôi nhàng với họ:

      - Các em đừng lo lắng. Ta biết các em đều theo người thân chạy nạn từ Lương Châu đến đây, mất liên lạc với các em, người thân của các em chắc chắn rất phiền muộn. Quốc sư là người từ bi, người giúp các em đoàn tụ với người nhà của các em, quốc sư ban tặng lễ vật và đưa các em về.

      Mấy vui mừng khôn xiết, cảm ơn rối rít. Đột nhiên lạ kia đẩy người bên cạnh và lao ra ngoài, vấp phải bậc cửa, lảo đảo, vội níu lấy cánh cửa, nôn oẹ dữ dội. Tôi chạy đến đỡ đó và kêu các khác mang nước đến.

      lạ uống ừng ực mấy ngụm liền mới lấy lại được bình tĩnh, sắc mặt nhợt nhạt như lúc trước nữa. Tôi ngắm ấy kỹ hơn, chừng mười sáu, mười bảy tuổi, đường nét khuôn mặt sống động, tinh tế như khối ngọc quý được chạm khắc tỉ mỉ, làn da mịn màng, dáng điệu thướt tha, đó là xinh đẹp nhất trong số mười cung nữ.

      - Phu nhân bảo rằng thả tự do cho chúng em, có ạ?

      vừa hổn hển, vừa ngước nhìn tôi bằng đôi mắt to thâm quầng, chan chứa hy vọng.

      - Tất nhiên là .

      bỗng nhiên quỳ sụp xuống:

      - Sơ Nhụy tạ ơn phu nhân. biết phu nhân có thể cho phép Sơ Nhụy ra ngay bây giờ ?

      Sao lại gấp gáp như vậy? Tôi gật đầu:

      - Ta cho người đưa em về nhà.

      sợ hãi, lắc đầu quầy quậy:

      - dám làm phiền phu nhân. Em rất thuộc đường, em chỉ xin phu nhân cấp lệnh bài cho em thôi.

      ra gấp gáp như vậy, lại cần người hộ tống, hẳn là có điều khó . Tôi ra ngoài tìm Trịnh Hoàng môn, nhờ ông ta đưa ra khỏi cung. cảm ơn, rồi nhanh chóng rời .

      Các khác nhìn nhau ngơ ngác, tôi động viên họ yên tâm ở lại đây, và đưa cho tôi thông tin về người thân, tôi nhờ vào sức ảnh hưởng của Rajiva ở Trường An để giúp họ tìm kiếm. Vì dù có để họ rời khỏi cung lúc này, giữa biển người mênh mông, họ biết đâu tìm người thân? Hách Liên Bột Bột dám công nhiên bắt bớ, người cắm cọc tiêu tình nguyện bán thân làm nô lệ nhan nhản ngoài phố. Chỉ e là, thành Trường An dưới cai trị của Diêu Hưng cũng mấy an toàn.

      Các trẻ người non dạ, nên khi nghe tôi phân tích như vậy đều gật đầu đồng ý. Tôi ghi lại thông tin về người thân của tám người, hai người kia cứ im lặng hoài. trong số đó là Hô Diên Tĩnh, còn lại dáng vẻ kiều, xinh xắn, chừng mười bảy, mười tám tuổi, gương mặt trái xoan, ngũ quan xinh đẹp. Nhan sắc của này tuy sánh bằng Sơ Nhụy, nhưng cũng có thể xem là vẻ đẹp nổi trội. Tôi nhớ ấy tên là Yến Nhi.

      Tôi hỏi Yến Nhi về gia cảnh, được biết ấy có mẹ, nhưng bà mất vì bệnh nặng đường chạy nạn và có người thân nào ở Trường An. kể lể, bỗng quỳ sụp xuống, khóc lóc như mưa gió, cầu xin tôi cho ấy ở lại. Tất nhiên là đồng ý, và tôi nghĩ ngay đến việc ngày sau sắp xếp chu toàn cho việc kết hôn của ấy, để an ủi vong linh cha mẹ khuất của ấy.

      Tôi dẫn Hô Diên Tĩnh nãy giờ vẫn mải mê quan sát tôi, và có vẻ như rất muốn điều gì đó. Tôi tủm tỉm cười, bây giờ là thời gian của ấy.

      Tôi dẫn Hô Diên Tĩnh đến phòng trống, tươi cười:

      - Tĩnh à, cháu nhận ra rồi, phải ?

      kinh ngạc, nhìn tôi trân trân, như thể tin nổi:

      - chính là người cứu cháu trong nạn đói ở Guzang mười sáu năm trước?

      Tôi mỉm cười, gật đầu. Năm đó chín tuổi, nên chắc là nhớ được nhiều chuyện hơn Mộ Dung Siêu.

      đỏ hoe cả hai mắt, nắm tay tôi, xúc động :

      - Lần đầu gặp , cháu thấy rất quen, nhưng vì nghe qua đời lâu sau khi gia đình cháu rời , nên khi ấy cháu dám nhận . Hôm nay gặp lại pháp sư, rồi gặp lại , cháu rất đỗi băn khoăn. Bởi vì còn rất trẻ, nên cháu nghĩ, phải chăng pháp sư tìm được người trông giống hệt ngày trước. Vì, dù sao cũng thể trẻ như vậy được.

      Tôi mỉm cười, đổi đề tài:

      - Chúc mừng cháu nên vợ nên chồng với em Siêu, chưa kịp chuẩn bị quà cưới cho hai đứa.

      đỏ mặt, lí nhí:

      - Sao biết chuyện đó?

      - Vì hôm qua gặp phu quân của cháu.

      - Em Siêu ư?

      ngạc nhiên ngẩng đầu, mừng rỡ rối rít, kéo tay áo tôi:

      - Em ấy ở đâu?

      Đôi mắt sáng long lanh, gương mặt lộ vẻ sốt ruột, tôi trêu:

      - Nếu cháu hứa sớm sinh nhóc con cho bế, đưa cháu gặp cậu ấy.

      - !

      giẫm chân nũng nịu, vành tai cũng đỏ ửng cả lên.

      Trịnh Hoàng môn quay về, tôi tiếp tục nhờ ông ta đưa tôi và Hô Diên Tĩnh rời cung. Diêu Hưng vẫn say sưa đàm đạo những việc lớn lao ở phòng khách, chốc chốc tiếng cười sảng khoái lại vang lên. Tôi lắc đầu, cứ đà này, chắc hẳn phải đến bữa cơm tối, nhà vua mới chịu ra về.

      Sau khi ra khỏi cung, Trịnh Hoàng môn cho tôi hay, khi nãy chỉ nhờ ông ta đưa đến cổng. Viên thái giám thấy ngừng nôn ọe, sức khỏe yếu ớt, có ý tốt muốn đưa ấy về, nhưng mực từ chối, bảo rằng tự mình.

      - ơi, tên Sơ Nhụy đó rất lạ.

      Hô Diên Tĩnh nhíu mày với tôi:

      - Hôm đó, sau khi bỏ trốn, Vương ma ma rất tức giận, nhưng làm cách nào tìm được , nên đành đưa chín người chúng cháu đến đội ca múa. Những ngày sau đó, chúng cháu chỉ biết chuyên tâm học múa. Sơ Nhụy vào đội ca múa trước chúng cháu hơn tháng, cũng là do cái tên Lưu tướng quân hơi tí là đòi chặt chân chặt tay người khác ấy đưa tới. ấy xinh đẹp là thế, lại giỏi múa hát, nếu có cơ hội trình diễn, chắc chắn được Bệ hạ để mắt tới. Nhưng xuất của pháp sư khiến Bệ hạ đổi hướng hứng thú, suốt hơn hai tháng trời, ngài chẳng màng thưởng thức ca múa, chỉ chuyên tâm nghe pháp sư giảng đạo, tu tâm dưỡng tính… Trong mấy chục ngày ở cùng phòng với Sơ Nhụy, cháu thấy ấy thường xuyên nôn ọe, ăn được cơm, nhưng cứ nửa đêm lại lén lút thức dậy ăn táo chua.

      Hô Diên Tĩnh ghé vào tai tôi, thào:

      - ơi, chắc là ấy có thai rồi.

      Tôi khẽ gật đầu. Sơ Nhụy vội vã ra , phải chăng là đến tìm người đàn ông ấy?

      - Vậy tại sao ấy lại bị đưa đến chỗ pháp sư?

      - Vì đấy.

      Hồ Diên Tĩnh mỉm cười, khoác tay tôi, tiếp tục hạ thấp giọng:

      - Hôm nay đội ca múa bỗng nhiên nhận được ý chỉ của Bệ hạ, lệnh cho Vương ma ma đưa mười ca kỹ mà Lưu tướng quân dâng tặng đến nơi ở của pháp sư. Vương ma ma lo lắng tột độ, ghép Sơ Nhụy vào cho đủ số người.

      ra là như vậy.

      Chẳng mấy chốc chúng tôi đến căn nhà lá đơn sơ của Mộ Dung Siêu. Chưa kịp bước vào nhà nghe có tiếng gọi lớn:

      - !

      Tôi quay lại, thấy Mộ Dung Siêu hồ hởi chạy về phía mình. Mặt trời hoàng hôn chiếu qua vai cậu ta, kéo dài bóng dáng cao lớn ấy ra thêm mãi. Ánh nắng vàng ươm hất lên gương mặt với những đường nét như in tạc của cậu ta. Hô Diên Tĩnh đứng bên cạnh, mê mải ngắm nhìn vẻ điển trai ấy.

      Cậu ta chạy đến trước mặt tôi, hơi thở gấp gáp, tay áo xắn lên cao, để lộ các bắp tay cuồn cuộn. Nhìn thấy Hô Diên Tĩnh, cậu ta giật mình kinh ngạc, sau nhấc bổng lên, xoay vòng, miệng hét vang:

      - Chị Tĩnh về rồi!

      Tôi hả lòng hả dạ nhìn đôi trẻ. Hô Diên Tĩnh đỏ mặt, vùng vẫy đòi xuống. Mộ Dung Siêu đặt xuống đất, nhìn tôi, gãi đầu, cười hoan hỉ:

      - Hôm nay cháu bốc hàng thuê, kiếm được hai mươi quan tiền, bây giờ cháu mua thức ăn, mời bữa thịnh soạn.

      Tôi gọi cậu ta lại, đưa thêm ít ngân lượng:

      - Mua nhiều đồ ăn ngon vào nhé.

      Cậu ta ngẩn ngơ:

      - cần nhiều thế này đâu

      Tôi mặc kệ, cứ nhét vào tay cậu ta:

      - Mẹ cháu đâu?

      - Mẹ giặt đồ thuê cho người ta.

      Ánh mắt cậu ta chợt tối sầm lại, cười buồn:

      - Cũng sắp về rồi.

      Tôi nhờ Trịnh Hoàng môn về nhắn với Rajiva, rằng hôm nay tôi ở lại ăn cơm ở nhà người quen. Tôi muốn mời họ ra ngoài quán nhưng sợ họ phật ý vì làm vậy rất lãng phí, nên tôi ở lại làm cơm cùng Sính Đình và Hô Diên Tĩnh.

      Mười ngón tay của Sính Đình bị bọt xà phòng làm cho tước hết da, bàn tay thô ráp, còn đâu vẻ đẹp nõn nà của những ngón tay chỉ biết cầm bút khi xưa. Mộ Dung Siêu mua miếng thịt ba chỉ, họ rang cháy cạnh và ăn uống ngon lành. Mộ Dung Siêu với tôi, họ được ăn thịt suốt mấy năm nay rồi. Tôi thích các món nhiều mỡ, nhưng thấy họ vui vẻ như thế, tôi cũng cảm thấy vui lây.

      Niềm vui đoàn viên ấm cúng của họ khiến tôi nghĩ ngợi. Nếu Mộ Dung Siêu tham vọng, họ có thể tiếp tục cuộc sống bình yên này. Tuy nghèo khó nhưng đầm ấm, hạnh phúc. Có điều, tôi rất rằng, cậu ta cam chịu cuộc sống bị chà đạp, bị chèn ép, sớm muộn cậu ta cũng trở lại con đường chọn. Sau rốt, cậu ta lên ngôi vua, nhưng là Hoàng đế của tiểu quốc yếu ớt, non kém. Lưu Dực tiêu diệt Nam Yên, bắt Mộ Dung Siêu làm tù binh và chặt đầu ở Kiến Khang. Chàng trai khôi ngô tuấn tú trước mặt tôi đây, chỉ tám năm sau phải chết thê thảm.

      - sao vậy?

      Tôi chợt giật mình nhận ra, khi nãy nhìn cậu ta quá lâu, bèn gắp miếng thịt bỏ vào bát cậu ta cười ha ha:

      - Cháu đẹp trai quá, nhìn mà chảy cả nước miếng đây này.

      Cậu ta đỏ mặt, cầm miếng bánh bao, chấm vào nước thịt rang, cắn miếng to, sau đó, vét sạch những giọt nước mỡ sau cùng đĩa. Tôi thầm nhủ, mong là cậu ta nhìn ra nỗi bi ai trong mắt tôi khi nãy.

      Ăn tối xong, như thường lệ, Mộ Dung Siêu đưa tôi về cung. Cậu ta rất vui vẻ, đường cứ ngâm nga mãi. Mất lúc lâu tôi mới nhận ra, đó chính là ca khúc “Ngủ ngoan, bé ” mà hồi tôi dạy cho cậu ta và Hô Diên Tĩnh. Nhưng cậu ta hát sai hoàn toàn tiết tấu. Tôi thở dài, ngăn cậu ta lại, bảo rằng tôi biểu diễn bài hát chuẩn.

      Trăng sáng vằng vặc đầu, phố xá vắng tanh, gian thanh trong, yên ả. Tôi cất giọng hát khe khẽ, nhớ lại trước đây từng hát ca khúc này cho Rajiva, Pusyseda, Cầu Tư, Vịnh Tư, Hô Diên Tĩnh và cả người bên cạnh tôi nghe. Những kỉ niệm quá khứ lần lượt lên theo lời hát, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi ở vào cái tuổi rất hay hoài niệm rồi!

      Cậu ta lắng nghe từ đầu đến cuối, kinh ngạc :

      - Cháu chỉ nhớ lờ mờ về bài hát này và biết ai dạy cháu. ra người đó là .

      Cậu ta nài nỉ tôi hát lại lần nữa, tôi chiều ý, cậu ta cũng ngâm nga theo tôi, miệng cười tủm tỉm, hình như vừa nhớ lại chuyện vui thời thơ ấu. Khung cảnh này, chàng trai vui vẻ này, ấm áp…

      - chỉ là ca kĩ mà đòi bước chân vào phủ tướng quân của ta ư?

      giọng lạnh như băng cất lên, cắt ngang bài hát của tôi. Phía trước là dinh cơ bề thế, đèn lồng đỏ soi rọi bóng người đàn ông và người phụ nữ. Tôi giật mình, kéo tay Mộ Dung Siêu, nép sát vào ngõ bên cạnh.

      Tôi thận trọng thò đầu ra nhìn, đây chính là phủ tướng quân kị binh mà tối qua tôi qua. Dưới ánh sáng của chiếc đèn lồng, dáng người cao lớn và gương mặt khiến người ta khiếp sợ của Hách Liên Bột Bột lộ . Còn nhắn, yếu đuối đến mức đáng thương, nức nở khóc kia chính là Sơ Nhụy.

      - Bột Bột, em đứng chờ cả buổi ở ngoài cổng để nhận được câu này ư? Sao chàng có thể nhẫn tâm như vậy? Em có…

      - Có gì hả?

      liếc xéo Sơ Nhụy, vẻ mặt xấc xược:

      - Ai chứng minh được? làm hỏng việc của ta, lại dám chạy đến đây đòi ta nhận .

      Giọng của trở nên run rẩy:

      - Chàng sợ em với Bệ hạ rằng…

      Hách Liên Bột Bột túm lấy cổ áo Sơ Nhụy, kéo áp sát vào ngực , động tác thô bạo, mảy may thương hoa tiếc ngọc, giọng hằm hè, lạnh như băng:

      - Bệ hạ tin ta hay tin ngươi? Sơ Nhụy, nếu ngươi dám dở trò với ta, ngươi mất mạng đó.

      cười lạnh lùng, rồi đột ngột đẩy mạnh . Thân thể yếu ớt của Sơ Nhụy vấp phải bậc thềm, hét lên và ngã ngửa về phía sau. Tôi lao với tốc độ của tên lửa, đón lấy cơ thể trước khi ngã xuống, nhưng trọng lượng của Sơ Nhụy khiến tôi lăn ra đất. Tôi đỡ Sơ Nhụy dậy, ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi đó là: may mà em bé trong bụng ấy việc gì. Ý nghĩ thứ hai đến ngay sau đó là: đây là lần đầu tôi làm đệm đỡ cho người khác, mình mẩy đau ê ẩm.

      Mộ Dung Siêu chạy đến, kéo Sơ Nhụy ra khỏi người tôi, rồi vội vã đỡ tôi lên. Tôi cắn răng vào môi gượng dậy, hai tay cuống cuồng vòng ra sau lưng xoa bóp. Mộ Dung Siêu cũng góp tay vào làm việc chăm sóc đấm lưng của tôi.

      - Là à!

      Hách Liên Bột Bột bước xuống, vắt chéo tay trước ngực, lạnh lùng quan sát tôi, hậm hực:

      - là kẻ ranh ma nhất trong đám con Lương Châu đó, dám cả gan chạy đến chùa mồi chài lão hòa thượng ấy. lão hòa thượng ấy là kẻ được sủng ái nhất trong triều. Tuy hơi già, nhưng theo hầu lão được hưởng vinh hoa phú quý. Ta nên gọi là gì nhỉ, phu nhân quốc sư ư…

      Khi ấy cùng vua Diêu Hưng vào chùa Thảo Đường nghe giảng pháp, nên chứng kiến cảnh tôi và Rajiva nhận nhau. chầm chậm tiến lại gần tôi, tôi giận sôi người khi nhìn vào đôi mắt hung hãn, ác bá của . Đồ tiểu nhân bỉ ổi!

      liếc nhìn Mộ Dung Siêu, rồi lại đột nhiên kẹp chặt cằm tôi dưới những ngón tay thô bạo của :

      - cũng ghê gớm ghê nhỉ, lại dụ dỗ được con thỏ trắng Tiên Tì này rồi đấy à!

      - Buông ấy ra!

      Mộ Dung Siêu bóp chặt cánh tay của Hách Liên Bột Bột, dùng thân hình cao lớn của cậu ta che chắn cho tôi.

      Hách Liên Bột Bột ra sức thoát khỏi gọng kìm của Mộ Dung Siêu, cười khinh bỉ:

      - Thỏ con, ta hơn tuổi ngươi phải ? ta ăn vụng được bao nhiêu ngân lượng từ lão hoà thượng đó để nuôi ngươi?

      - Đồ vô liêm sỉ, năng xằng bậy!

      Mộ Dung Siêu nổi trận lôi đình, xông lên giao đấu với Hách Liên Bột Bột. Hai người đó cao lớn ngang nhau, tuổi tác cũng tương đương. Hách Liên Bột Bột được huấn luyện võ công bài bản trong đội kị binh, nhưng Mộ Dung Siêu từ phải lao động vất vả nên cậu ta khoẻ hơn . Giao đấu hồi vẫn phân thắng bại, họ chuyển sang vật nhau đất, tôi chẳng thể làm gì, chỉ biết đứng nhìn và lo lắng. Nơi này là phủ đệ của Hách Liên Bột Bột, người hầu của nghe thấy tiếng động nhanh chóng kéo ra, đến lúc đó, mình Mộ Dung Siêu chẳng thể đấu lại nổi. Hơn nữa, Hách Liên Bột Bột là đại tướng quân, trong khi Mộ Dung Siêu chỉ là thường dân áo vải, chẳng có phán quyết công bằng nào cho việc này.

      Hách Liên Bột Bột đè lên người Mộ Dung Siêu, ra sức đấm đá túi bụi, bỗng đờ đẫn, mắt trợn ngược, sau đó lăn đùng ra đất. Mộ Dung Siêu kinh ngạc đẩy sang bên, túm cổ áo định ra đòn, nhưng tôi vội ngăn cậu ta lại.

      - Còn mau chạy ! Người trong phủ của sắp kéo ra rồi đó.

      Lúc ấy Mộ Dung Siêu mới sực tỉnh, vội buông ra. Hách Liên Bột Bột nằm bất động đất. Tôi kéo tay Sơ Nhụy nãy giờ vẫn ngơ ngác, cả ba cùng co cẳng chạy về phía cung Vị Ương.

      - Sơ Nhụy, em cứ yên tâm ở lại đây dưỡng thai, chờ ngày sinh nở.

      Sau khi trở về nơi ở, tôi gặp Rajiva ngay mà sắp xếp phòng riêng biệt cho Sơ Nhụy.

      - Sơ Nhụy tạ ơn cứu mạng của phu nhân!

      Nước mắt tuôn trào, ấy định quỳ xuống, nhưng tôi ngăn lại, nhàng khuyên nhủ:

      - Em mang thai, đừng lo nghĩ nhiều quá, ảnh hưởng đến đứa bé, hãy nghỉ sớm .

      ấy cúi đầu, nức nở:

      - Phu nhân, chị hỏi em về việc... có mang sao?

      - Ta hỏi, vì ai cũng có điều khó .

      Tôi có thể đoán ra cha đứa bé là Hách Liên Bột Bột, nhưng căn cứ vào cuộc đối thoại mà tôi tình cờ nghe được, chắc chắn đó đơn giản chỉ là chuyện tình vụng trộm.

      Trước lúc rời khỏi phòng Sơ Nhụy, tôi ngoái đầu lại với ấy:

      - Ta chỉ muốn với em điều này: cho dù xảy ra chuyện gì, đứa bé là vô tội.

      ấy sững sờ, đưa tay lên bụng rồi lại cúi đầu rơi nước mắt. Tôi thở dài, đóng cửa lại.

      Tôi men theo hành lang trở về phòng, uể oải đưa tay lên đấm lưng, toàn thân đau mỏi, bước loạng choạng. Ngày hôm nay xảy ra nhiều chuyện, tôi thấy đầu óc quay cuồng. Mỗi khi mệt mỏi tôi thường hay chóng mặt, đó là do căn bệnh máu trắng gây ra. Bỗng nhiên phía trước xuất hai bóng người, cao lớn, bé, ánh trăng chếch nghiêng, chiếu sáng góc hành lang, soi tỏ màu áo cà sa nhà chùa và màu váy hồng thiếu nữ.

      Tôi băn khoăn biết vị sư nào hẹn gặp thiếu nữ, nên lẳng lặng nép vào góc khuất, lòng thầm thở than: Hôm nay là ngày gì thế biết, toàn phải thập thò bờ tường bụi rậm nghe chuyện người khác thế này!

      Giọng thâm trầm của người đàn ông cất lên:

      - Ta đáng tuổi ông của , chỉ là bé mà sao thiếu tự trọng như vậy!

      Người đó là Rajiva! Chàng chuyện với ai? Tôi thót tim, mồ hôi đổ trán, hồi hộp thò đầu ra nhìn.

      Thiếu nữ tiến lên bước, Rajiva lập tức lùi lại phía sau. đứng ở vị trí được chiếu sáng hoàn toàn bởi ánh trăng vằng vặc, nên có thể thấy vẻ kiều, tha thướt, và khuôn mặt được trang điểm hết sức kĩ càng. Tôi đưa tay lên bịt miệng, đó là Yến Nhi!

      - Pháp sư phu nhân cũng là nạn dân từ Lương Châu đến đây. Phu nhân gặp gỡ pháp sư trước Yến Nhi, nên Yến Nhi dám tranh giành chức vợ cả với chị ấy. Hôm nay được ngắm nhìn dung nhan phi phàm của pháp sư, Yến Nhi rung động và lấy làm ái mộ, muốn được trọn đời hầu hạ pháp sư, dù có phải làm tì thiếp, Yến Nhi cũng bằng lòng.

      - được những lời này nữa!

      Rajiva nghiêm mặt, đưa mắt nhìn xung quanh, cố gắng hạ thấp giọng:

      - có ai là người thân thích nên ta có thể tạm thời cho ở lại, ngày sau giúp sắp bày chuyện hôn . Nhưng nếu chịu từ bỏ ý nghĩ khi nãy, đừng trách ta vô tình.

      xong Rajiva rảo bước về phòng, mặc Yến Nhi đứng đó sững sờ, bực bội. ấy cắn môi, vò khăn tay, giẫm chân, sau đó, ngó nghiêng xung quanh, rồi rảo bước về hướng khác.

      Tôi cứ đứng mãi trong bóng tối, ngẩn ngơ cho tới khi họ khuất dạng từ khi nào. Lúc lâu sau mới lò cò nhảy ra, bàn chân hoàn toàn tê dại. Tôi ngồi xuống, tựa lưng vào thành chắn, vừa xoa bóp, vừa hoài niệm.

      Rajiva khôi ngôi tuấn tú, khí chất cao quý, lại dịu dàng, thuần khiết và chung tình, chàng là người đàn ông hoàn hảo. Nếu vào thời đại, chắc tôi phải ngày đêm nơm nớp lo âu, canh chừng những người phụ nữ sẵn sàng nhào đến cướp đoạt chàng. Thế nhưng, nếu chịu khó theo dõi và tổng kết cuộc đời chàng thấy, số phụ nữ ái mộ chàng ít ỏi đến mức tội nghiệp, có lẽ vì thân phận đặc biệt của chàng. Chàng tu từ , ở Tây vực, chàng được tôn vinh như thần thánh. Các tín nữ Tây Vực sùng bài chàng như thần thánh. Nếu tôi gặp chàng khi chàng còn , nếu chỉ muộn vài năm nữa thôi, có lẽ nếu tôi có thể có được nhân duyên sâu đậm này.

      Ngoài tôi ra, chàng luôn luôn giữ khoảng cách nhất định với các khác. Những người phụ nữ cùng thời đại với chàng thể hiểu nổi những tư tưởng vĩ đại của chàng, điều này càng khiến họ luôn giữ thái độ "ngưỡng vọng" đối với chàng. Tuy chàng , nhưng tôi tin, khi tôi ở bên chàng, chắc chắn vẫn có người con khác có tình ý với chàng. Có điều, từ thái độ của chàng đối với Yến Nhi cho thấy, bốn mươi năm qua, ý chí của chàng chưa bao giờ bị lay động.

      Chúng tôi cùng đồng cam cộng khổ, chúng tôi hiểu nhau và tin tưởng nhau tuyệt đối. Dù phải chờ đợi bao lâu nữa, chúng tôi vẫn tin rằng người kia bao giờ thay lòng.

      Có điều, nếu là trước đây, chàng vẫn còn hi vọng để nương vào, nhưng sau này sao, sau khi tôi rời khỏi Trường An sao, chàng còn chờ đợi tôi làm gì nữa.

      Miệng tôi đắng chát, tôi mệt nhọc lê tấm thân rã rời về phòng. Rajiva đeo kính lão, ngồi viết sách. Thấy tôi về, chàng sốt sắng ép tôi uống thuốc, tôi nhăn mặt vì đắng, tâm trí vẫn rối bời, nghe chàng cất giọng hỏi:

      - Ngải Tình, vì sao nàng giữ những đó lại?

      Tôi trả lời qua quít:

      - Vua Diên Hưng khi ấy rất bực bội, chúng ta nên chọc ngài nổi giận.

      Nhận thấy vẻ mệt mỏi của tôi, chàng đặt tay lên hai vai, xoa bóp cho tôi. Tôi nhắm mắt lại, lấy hết cam đảm với chàng:

      - Rajiva, em chỉ có thể ở lại đây nửa năm, cặp song sinh của chàng...

      - Ngải Tình!

      Chàng dừng tay lại, giọng pha chút bực dọc:

      - Sao nàng vậy?

      - Rajiva, em thể sinh con được nữa...

      Tôi mở mắt, thở dài, cảm thấy cay đắng khi phải ra điều mà cà hai đều biết rất nhưng cứ cố né tránh bấy lâu.

      Chàng ngồi xuống bên tôi, đặt tay tôi vào lòng bàn tay chàng, vuốt ve:

      - Chúng ta có nhóc Rajiva, chú bé thông minh, đáng như thế vẫn chưa đủ hay sao?

      - Nhưng, sử sách chép rằng...

      - Ngải Tình! Ta phải thế nào nàng mới chịu hiểu. Vì sao nàng cứ mãi bận lòng vì những ghi chép ấy?

      Chàng nghiêm giọng ngắt lời tôi, khuôn ngực phập phồng:

      - Chỉ vì những ghi chép vô thưởng vô phạt ấy mà nàng tự ý sắp đặt tì thiếp cho ta ư?

      Lòng tôi đau như cắt, trong đầu thoáng lên gương mặt kiều của Yến Nhi. Lời thốt ra nặng như đeo đá, khiến lưng tôi dường như cũng còng hẳn xuống.

      - Chẳng bao lâu nữa em phải quay về, chàng... Chàng có thể, để sau khi em rời khỏi đây, mới... mới...

      Chàng bật dậy, ôm lấy hai vai tôi, cúi thấp xuống, để mắt chàng nhìn thẳng vào mắt tôi:

      - Nàng từng với ta, ở thời đại của nàng chỉ cho phép hôn nhân vợ chồng, đàn ông được lấy vợ hai. Ta kết hôn với người đến từ tương lai. Nàng là người vợ duy nhất của ta, là người vợ mà suốt đời này ta bao giờ ruồng bỏ. Ta quyết nạp thiếp.

      Tôi mỉm cười chua xót, sống mũi cay xè:

      - Rajiva, em chưa bao giờ hoài nghi về tình chàng dành cho em, nhưng em ra lần này, thể gặp lại chàng nữa...

      Chàng rời khỏi vai tôi, đứng thẳng lên, chầm chậm cất bước đến bên cửa sổ, ánh mắt ngưng đọng những cây đào ngoài kia, lúc lâu sau mới lên tiếng:

      - Ngay từ khi gặp nàng ở chùa Thảo Đường ta hiểu, đây là lần sun họp cuối cùng của hai ta.

      Chàng quay lại nhìn tôi, ánh sáng ngọn nên tỏa rạng gương mặt bình thản, điềm tĩnh của chàng, soi rọi những gợn buồn trong đôi mắt như hai vực nước sâu của chàng.

      - Tuy nàng chưa bao giờ ta sống đến năm bao nhiêu tuổi, nhưng ta biết, thời gian dành cho ta còn nhiều nữa. Chỉ còn vài năm ngắn ngủi, mà phải dịch thuật khối lượng lớn như thế, nàng nghĩ, ta còn thời gian để bận tâm việc khác nữa ?... Nàng trở về và ở bên ta nửa năm, tặng cho ta bao kỉ niệm đẹp trong những năm tháng cuối đời ngắn ngủi của mình thế này, ta mãn nguyện lắm rồi.

      Chàng chìa hai tay về phía tôi, mỉm cười hồn hậu.

      Tôi đứng lên, đến bên chàng. Chàng kéo tôi tựa vào ngực chàng, vòng tay qua eo tôi, gác cằm lên vai tôi, giọng chàng rủ rỉ bên tai:

      - Đừng trăn trở chuyện cặp sinh đôi ấy nữa, đó chẳng qua là lời đồn thổi thiếu căn cứ mà những kẻ chấp bút chép sử mấy trăm năm sau viết lại. Ta chỉ có người vợ duy nhất là nàng, người con duy nhất là nhóc Rajiva. Hai mẹ con nàng là những người thân thiết nhất của ta.

      Sống mũi cay xè, nước mắt tôi trào ra. Chàng hôn vào má tôi:

      - Những kia bị Hách Liên Bột Bột bắt cóc, người nhà của họ chắc chắn rất lo lắng, ngày mai ta nhờ người dò hỏi tin tức để họ được trở về đoàn tụ với gia đình.

      - Chàng sợ Diêu Hưng trách tội ư?

      - Ta từng thề với Phật tổ quyết nạp thiếp, lẽ nào Bệ hạ vẫn muốn gây khó dễ cho ta?

      Chàng mỉm cười, xiết chặt tôi hơn nữa, kéo tôi ghì sát vào cơ thể chàng.

      - Vả lại, Bệ hạ cũng chỉ vì cao hứng mới làm vậy, lẽ nào ngài ngày ngày cất công tới đây kiểm tra tình hình của mấy kia?

      Tôi rút mảnh giấy trong tay áo ra:

      - Đây là thông tin về người thân của mấy đó.

      Ngừng lát, hít hơi, tôi tiếp tục:

      - Có tên Yến Nhi còn người thân, hay là, tạm thời cứ giữ ấy lại.

      Tôi hề vui khi nghe những lời Yến Nhi khi nãy, nhưng thể vì thế mà đuổi ấy được. ấy chỉ còn thân mình, nếu chúng tôi cưu mang, ấy biết đâu về đâu bây giờ.

      Chàng có vẻ vui, nhưng vẫn cầm tờ giấy, gấp lại, cất vào trong túi áo:

      - Bắt đầu từ ngày mai ta đến chùa Đại Tự thuyết giảng kinh văn. Nhân tiện, ta nhờ dại tướng Diêu Hiển và tả tướng Diêu Tung tìm kiếm người thân của mấy này.

      Chàng dắt tay tôi về phía chiếc giường, kê gối cho tôi, rồi làm mặt nghiêm nghị:

      - Còn nữa, từ nay trở , ta muốn nghe về chuyện này thêm nữa...

      - Vâng...

      Tôi ngoan ngoãn gật đầu, và mang theo vào giấc ngủ miên man nụ cười rạng rỡ như nắng ban mai của chàng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 90: ngày rong chơi

      - đến chơi!

      Mộ Dung Siêu bỏ cây rìu xuống, niềm nở đón tôi. Cậu ta mặc độc chiếc áo mỏng phong phanh, ánh nắng mùa xuân chiếu những bắp thịt cuồn cuộn, bóng lóa. Tôi vào nhà, còn cậu ta vẫn tiếp tục bổ củi ở cửa bếp, mồ hôi nhễ nhại, cơ thể cường tráng toát ra sức sống căng tràn của tuổi trẻ, sức sống ấy mãnh liệt đến nỗi khiến tôi ngậm ngùi tiếc nuối tuổi trẻ thanh xuân của mình.

      - Mẹ và vợ cháu đâu?

      Tôi ngó nghiêng xung quanh, chỉ thấy mình cậu ta ở nhà.

      - Họ giặt đồ thuê rồi.

      Tôi rút khăn tay đưa cho Mộ Dung Siêu, cậu ta đón lấy, nhưng lau, bối rối nhìn chiếc khăn tay.

      - Chiếc khăn đẹp thế này, cháu nỡ dùng để lau mồ hôi đâu.

      Cậu ta định trả lại cho tôi, nhưng nghĩ thế nào lại rụt tay về:

      - Cháu giặt sạch rồi trả lại . Tay cháu làm bẩn mất khăn rồi...

      Tôi cười bảo sao đâu, nhưng cậu ta đáp, chỉ lặng lẽ cất vào trong tay áo. Cậu ta lấy ống tay áo quệt mồ hôi, rồi mời tôi vào nhà. Tôi đưa lọ thuốc bôi vết thương cho Mộ Dung Siêu. Trận ẩu đả với Hách Liên Bột Bột tối qua chắc chắn để lại ít những vết thương mặt và người cậu ta.

      có gương soi, Mộ Dung Siêu chật vật bôi thuốc, tôi cầm lấy lọ thuốc, bảo cậu ta ngồi xuống và giúp cậu ta xử lý các vết thương.

      - ơi, tối qua Hách Liên Bột Bột tự nhiên ngã vật ra bất tỉnh là do phải ?

      Tôi chấm thuốc vào vết thương gò má Mộ Dung Siêu, cậu ta khẽ rên lên, nhưng quay mặt , vẫn mở to cặp mắt tuyệt đẹp, chăm chú quan sát phản ứng của tôi, đôi đồng tử đen láy, lấp lánh.

      Tôi đưa ngón trỏ lên miệng, suỵt tiếng:

      - Đó là vũ khí phòng thân của , cháu đừng cho ai biết nhé!

      Cậu ta trầm ngâm lát, rồi lại chăm chú nhìn tôi:

      - đời này có thể có thứ vũ khí lợi hại như vậy ư?

      Tôi cười lấy lệ, nhanh chóng đổi đề tài:

      - người có vết thương nào ?

      Cậu ta gật đầu, cởi và thả áo trễ xuống tận eo, vai và lưng có khá nhiều vết bầm tím. Tôi dùng thuốc, rồi dùng bàn tay chà mạnh cho nóng lên, cậu ta cắn răng chịu đau. Ánh trăng chiếu rọi vào trong nhà, chiếu lên làn da trắng bóc của cậu ta, khiến cho cơ thể rắn chắc ấy càng trở nên gợi cảm quyến rũ.

      - Tên Lưu Bột Bột ấy là cái thá gì chứ? Chẳng qua chỉ là hậu duệ của tiểu quốc Hung Nô bị tiêu diệt, được Diêu Hưng sủng ái nên coi ai ra gì.

      Mô Dung Siêu nghiến răng sỉ vả:

      - Nếu xét về xuất thân, cháu hơn gấp trăm lần. Nếu phải vì thất cơ lỡ vận, cháu chẳng phải lưu lạc khổ sở thế này.

      Tôi giật mình, bàn tay kiểm soát được, chà sát mạnh, khiến cậu ta kêu lên vì đau, tôi vội vã xin lỗi. Lưu Vệ Thần, cha Hách Liên Bột Bột chỉ là Thiền Vu Hung Nô bé, thế lực mạnh, chẳng thể so sánh với bậc cha chú bác của cậu ta, có ba người xưng đế, là Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Đức.

      Cậu ta đỏ mặt khi nhìn thấy tôi nhìn cậu ta chăm chú. Cậu ta ngước lên, sóng mắt long lanh, hơi thở gấp gáp. Tôi chợt nhận ra chúng tôi ở trong tư thế rất đỗi thân mật. Cậu ta còn là chú nhóc bốn tuổi năm xưa nữa. Tôi vội vàng tách ra xa, khoác áo cho cậu ta.

      Mộ Dung Siêu hắng giọng chữa thẹn, thắt chặt dây lưng quay lại nhìn tôi, khẽ:

      - có biết, chú cháu xưng đế ở Thanh Châu ?

      Tôi gật đầu, Mộ Dung Siêu tiếp tục hạ thấp giọng:

      - Cháu vẫn tìm cách đến Thanh Châu tìm chú ấy. Chú ấy có con trai, cháu mà người thân thiết nhất của chú ấy.

      - Thanh Châu ở Sơn Đông, cách Trường An ngàn dặm xa xôi, huống hồ bị ngăn cách bởi nước Ngụy của họ Thác Bạt và nước Tấn ở phía Nam, đường vô cùng nguy hiểm, cháu lại có mẹ và vợ, làm sao nổi?

      Tôi những mong cậu ta từ bỏ ý định này, để sống cuộc đời bình dị, yên ổn bên mẹ và vợ. Từ bỏ ý định đó đồng nghĩa với việc tránh được vận mệnh bi thảm.

      Cậu ta thở dài, mặt ủ mày chau:

      - Cháu cũng biết làm cách nào. Chú ấy biết cháu vẫn còn sống. Ngay cả nếu có đến được Thanh Châu nữa, thường dân áo vải như cháu, sao có thể dễ dàng gặp Hoàng đế.

      Sau hồi đăm chiêu suy nghĩ, cậu ta ngẩng lên nhìn tôi, vẻ khẩn cầu:

      - , cháu phải làm sao để báo cho chú ấy biết, cháu vẫn còn sống?

      - Siêu ơi, đừng suy nghĩ nhiều nữa.

      Tôi biết làm cách nào, nhưng muốn cho cậu ta, đành cười vang, chuyển đề tài:

      - Hãy nghĩ cách để vợ cháu sớm sinh em bé hơn.

      Cậu ta ngỡ ngàng, sau đó đỏ mặt.

      Rajiva thuyết giảng kinh Phật ở chùa Đại Tự suốt bày ngày liền. Hầu hết các tăng nhân và vương tôn quý tộc đều đến nghe giảng. Danh tiếng của Rajiva như mặt trời ban trưa, người ta tôn vinh, ca ngợi chàng khắp nơi, hệt như khi xưa ở Tây vực. Họ biết chàng được Diêu Hưng rất mực trọng vọng. Trong số họ, có người lòng tin Phật, có kẻ giả vờ xu nịnh, chỉ biết rằng, hàng ngày, khách khứa nườm nượp kéo đến nơi ở của chúng tôi. Rajiva điềm nhiên trước mọi , chàng vẫn nhiệt tình tiếp đón họ, nhưng chỉ dừng ở mức xã giao.

      Đại tướng quân Diêu Hiển và tả tướng quân Diêu Tung khiến Rajiva thất vọng, chỉ sau vài ngày, gia đình của các lần lượt đến nhận người thân. Mỗi đều được nhận khoản tiền làm của hồi môn. Diêu Hưng đặc biệt ưu ái Rajiva, cách vài hôm lại cho người mang lễ vật và tiền bạc đến. Rajiva giao tất cả cho tôi quản lý. Tôi muốn các được cưới gả tử tế, nên rất rộng rãi với họ.

      Cuối cùng, chỉ còn lại ba . Vào thời cổ đại mà mang bầu khi chưa kết hôn, Sơ Nhụy chẳng còn nơi nào để dung thân. Tôi bàn bạc với Rajiva, cho phép ấy ở lại chỗ chúng tôi, yên tâm sinh con. Sau này, chúng tôi nhận nuôi đứa bé để ấy yên tâm lấy chồng. Từ khi Rajiva tuyên bố bao giờ lấy vợ bé, tôi ngờ rằng, cặp song sinh mà sách sử nhắc đến, chính là những đứa bé trong bụng Sơ Nhụy.

      Lạc Tú là người ít tuổi nhất trong số các thiếu nữ Lương Châu, năm nay mới mười bốn tuổi, gương mặt bé non nớt, ngây ngô, rất đáng . Người thứ ba là Yến Nhi. Tôi căn dặn Yến Nhi và Lạc Tú chăm sóc Sơ Nhụy chu đáo, những lúc đến thăm hỏi gia đình Mộ Dung Siêu, tôi thường dạy ba học chữ.

      Riêng đối với Yến Nhi, tôi cố gắng để nảy sinh định kiến với ấy. Có thể ấy lòng ái mộ Rajiva, cũng có thể vì muốn mưu cầu cuộc sống yên ổn về sau. Dù là nguyên nhân gì, nếu Rajiva tỏ thái độ với ấy, tôi nên bạc đãi ấy.

      Chớp mắt sang sáng tư, Rajiva kết thúc công việc thuyết giảng kinh Phật ở chùa Đại Tự. Nhờ sắp xếp của Diêu Hưng, Rajiva thu nhận được rất nhiều đệ tử người Hán. Mấy ngày trước khi chúng tôi trở lại chùa Thảo Đường, chàng thu nhận thêm Đạo Hằng, Đàm Ảnh, Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm, bốn người này cộng với “Tứ thánh: Tăng Triệu, Trúc Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Duệ, được người đời sau tôn vinh là “Thập môn bát tuấn”. Như vậy, tính đến thời điểm này, đội ngũ nhân tài cần cho công việc dịch thuật kinh Phật cơ bản tập trung đông đủ, chỉ vài ngày nữa đoàn chúng tôi trở về chùa Thảo Đường trong vườn Tiêu Dao để chuẩn bị thành lập đạo tràng dịch kinh. nghiệp dịch thuật huy hoàng của cuộc đời Rajiva sắp bắt đầu.

      Tôi hé mắt ra nhìn, ánh bình minh tỏa sáng căn phòng, chiếu rọi bóng dáng cao gầy và màu áo bàng bạc trăng non của ai đó. Nụ cười đượm gió sương thăng trầm dần trước mặt tôi, đôi mắt màu xám nhạt tựa hồ làn nước mùa xuân tươi đẹp.

      - Rajiva…

      Hai mắt tôi bỗng nhiên nhòe lệ, thấy gì nữa. Cánh tay chàng vươn về phía tôi, vóc dáng gầy guộc, thoát tục ấy khiến tôi khỏi xúc động. Chàng mặc chiếc áo màu trắng nhạt, nền nã, tóc dài, lọn xoăn màu nâu thả ngang vai, y hệt người đàn ông ở thành Cheshi năm xưa, khi chàng mỉm cười với vợ rằng đưa nàng chơi. Vẫn là con người ấy, trái tim nhiệt tình ấy, chỉ có thời gian như bóng câu qua thềm mà thôi. Ngoảnh đầu nhìn lại, ngỡ ngàng như vừa trải qua giấc mộng.

      - Trước khi về chùa Thảo Đường, ta muốn thực tâm nguyện của nàng.

      Chàng cười rạng rỡ, những nếp nhăn xô lại, càng tôn thêm khí chất và sức hấp dẫn của người đàn ông ở vào độ chín ấy.

      Tôi mơ màng chải đầu, chốc chốc lại liếc trộm chàng cái, càng nhìn càng say mê, nỗi phấn khích dâng trào trong huyết quản hệt như thuở mới .

      - Rajiva, năm đó em từng rằng, chàng là người đàn ông hấp dẫn nhất mà em từng gặp.

      Tôi khoác tay chàng, hít hà cơ thể chàng, thấy lòng đầy mãn nguyện.

      Chàng hỏi tôi làm gì vậy, tôi cười:

      - Em tận hưởng hương rượu nồng nàn mà năm tháng để lại cơ thể chàng. Dù chàng có tuổi, dù chàng còn trẻ trung như xưa, nhưng chàng từng trải hơn, uyên bác hơn, ngọt ngào hơn. Bởi vậy, em vẫn muốn rằng: Chàng là người đàn ông hấp dẫn nhất đời!

      Chàng bật cười, gương mặt thoáng ửng đỏ nhưng tan rất nhanh. Chàng đưa tay lên vuốt ve hai má tôi, khẽ :

      - Ta nhăn nheo già cả thế này mà nàng vẫn sao?

      Tôi nhìn chàng đắm đuối, mỉm cười:

      - Chàng biết câu trả lời mà.

      Chàng gật đầu, nhìn tôi rất lâu, cọ trán chàng vào trán tôi:

      - Ngải Tình, bốn mươi năm qua, nàng vẫn trẻ trung như vậy, nhiều lúc ta cứ băn khoăn tự hỏi, biết về già, trông nàng thế nào.

      Tôi tách ra khỏi chàng, bước ra xa, khom lưng xuống, vờ như chống gậy, bước từng bước lom khom, lẩy bẩy chầm chậm tiến về phía chàng. Lúc đến gần, tôi giả bộ chau mày, nheo mắt nhìn lên, chìa cánh tay run run ra chới với tìm kiếm, giọng thều thào, chốc chốc lại ho khan:

      - Ông lão ơi, hôm nay là ngày rong chơi thường niên, ông dự định mời bà già này ăn món gì thế?

      Chàng quan sát tôi chăm chú, sau đó bật cười sảng khoái, nhưng lại cười ra nước mắt:

      - Ngài Tình, ta chẳng được thấy nàng già

      Tôi vùi mình vào lòng chàng, nước mắt thấm vào lần áo màu trăng non của chàng, gượng cười:

      - Thế càng tốt chứ sao, vì vậy, em mãi mãi trẻ trung xinh đẹp trong tim chàng. Em già rất khó coi, chàng thích đâu…

      - Nàng chê ta già nua, sao ta có thể nàng khi nàng già cả được.

      Chàng cọ cổ chàng vào cổ tôi, nước mắt tràn ra:

      - Nàng có già , cũng bà già đẹp lão, mẫn tiệp, thông tuệ, điềm đạm và cốt cách.

      - Vâng, dù chàng có thấy được em già hay , em nhất định trở thành người phụ nữ như chàng .

      Tôi khẽ rời khỏi lòng chàng, cười trong nước mắt:

      - Em đói rồi, chàng mời em ăn bánh sủi cảo .

      Tôi kéo tay chàng, nhảy chân sáo bước ra khỏi cửa cung, ánh mặt trời nhuộm hồng cả hai người, cảm giác ấm áp lạ thường. Mùi hương hoa đào ngập tràn trong gian, làm say lòng người, tôi tung tăng chạy nhảy, như vừa được chắp thêm đôi cánh tự do, tôi là chú chim nhạn vút bay trời xanh, cất cao bài ca đời, ca ngợi cuộc sống tươi đẹp.

      - Nàng đúng là bé ham chơi…

      Chúng tôi lang thang khắp các phố phương. Người Hồ Tây vực xuất ở kinh thành Trường An này khá đông, nên phục trang của Rajiva gây chú ý với người đường.

      Thấy tôi nằng nặc đòi ăn sủi cảo, chàng ngạc nhiên hỏi tôi sủi cảo là gì. Tôi tả cho chàng nghe, chàng bảo, chàng quen gọi là món “vằn thắn” (hay hoành thánh), và phải vớt ra chấm với nước chấm, mà trộn lẫn với nước canh, múc ra bát ăn. Bởi vậy, tôi ngồi xuống sạp hàng, và khi bát “vằn thắn” được bưng ra, đặt trước mặt tôi, tôi ngơ ngẩn hồi lâu.

      món ăn rất nổi tiếng khác ở Tây An là súp bánh nướng thịt dê, nhưng tôi phải mất rất nhiều thời gian miêu tả, họ mới hiểu tôi muốn ăn gì. ra, vào thời đại này, người ta chỉ gọi là canh thịt dê. Chủ quán còn hỏi tôi muốn có ly rượu hoàng quế , tôi gật đầu lia lịa. Chủ quán đến bên vại trà, ra sức ấn ép, những giọt rượu chảy ra, đầy chén, chủ quán mang đến trước mặt tôi. Rajiva được uống rượu, nên mình tôi xử lý nguyên cả chén. Loại rượu này rất thơm, rất ngọt, mùi vị rất đặc biệt. Hương thơm của hoàng quế hòa trong từng giọt rượu, len vào cuống họng. Loại rượu này rất , nhấp ngụm là ấm cả bao tử.

      Như thường lệ, tôi rời khỏi quán ăn trong trạng thái vừa vừa ôm bụng. Chàng vừa buồn cười, vừa ra vẻ nghiêm khắc nhắc nhở tôi, đường , chàng nắm tay tôi e ngại, mặc thiên hạ nhìn ngó. Chúng tôi đến khu chợ bày hàng thủ công ở phía Tây. Tôi thể cưỡng lại nổi sức hấp dẫn của những mặt hàng thủ công mỹ nghệ tinh xảo, bệnh nghề nghiệp được dịp phát tác, tôi sung sướng mua mà ngừng tay.

      Tôi cứ thế bước để ý Rajiva biến mất tự lúc nào. Ngoảnh đầu lại, thấy chàng đứng trước sạp bán hàng, ngắm nghía rất lâu.

      Tôi quay lại tìm chàng, tay chàng cầm chú chuồn chuồn bằng tre, mắt nhìn ngơ ngẩn.

      - Rajiva…

      Chàng giật mình quay lại, đưa chú chuồn chuồn cho tôi và bảo:

      - biết, nhóc Rajiva có thích đồ chơi của thời đại này ?

      Tôi mỉm cười, gật đầu:

      - Quà của bố, chắc chắn bé rất thích. Em hứa với con, trong vòng nửa năm em vắng nhà, nếu bé ngoan ngoãn nghe lời ông bà ngoại, em mang quà của cha về cho bé.

      Chàng quay mặt , lặng lẽ chấm nước mắt, sau đó, với chủ quán:

      - Này , tôi muốn mua cái này.

      Cho đến lúc khu chợ đóng cửa, chàng vẫn miệt mài chọn đồ chơi cho con trai và mua liền ôm lớn. Tôi nhấc cây lúc lắc, thử chơi. Cây lúc lắc này được thiết kế gồm sợi dây quấn quanh trục lăn hình chuông ( phát ra thanh) ở giữa. Nhưng tôi chơi giỏi, nên trục quay cứ tuột khỏi dây thừng. Tiếp theo là chiếc xúc xắc cửu liên hoàn, hình dáng phức tạp như xúc xắc về sau này, nhưng nguyên lý tháo khóa vẫn như nhau. Hồi bé tôi rất ngại chơi trò này, cầm tay lúc là ngán ngẩm. Rajiva đón lấy chiếc xúc xắc từ tay tôi, suy nghĩ lát, sau đó thử mở chiếc khóa đầu tiên. Những mắt xích nối tiếp theo rất dễ tháo bỏ. Tôi tròn xoe mắt nhìn chàng tháo khóa, chưa đầy 5 phút xong. Tôi thầm nhủ khi nào trở về tôi cho nhóc Rajiva thử tháo khóa và tính giờ, để xem bé có nhanh hơn bố . Ngoài ra, còn cả con quay, con rối, còi gốm… nữa. Về đến cung Vị Ương chắc rằng tay chân rã rời ra mất.

      Mặt trời xuống núi, tơ liễu lơ thơ trong gió, mềm mại như nhung lụa trong nắng chiều vàng ươm, rũ vai khách bộ hành, làm nảy sinh những cảm xúc êm ái thầm vào tận tim gan. Hoàng hôn mùa xuân đến êm đềm, được cùng người sống trong thế giới của hai người, mê mải nhìn nhau cười, ngọt ngào xiết bao! Lồng ngực chật hẹp dường như chứa nổi hạnh phúc dạt dào, từng giọt căng tràn, thấm vào thanh quản, làm rung lên những thanh của bài tình ca. Chàng nhìn tôi đắm đuối, tôi chợt nhìn ra, mình ngâm ca khúc “ đỉnh núi phía Đông”.

      Tôi cười tươi nhìn chàng, cất cao giọng hát, tôi muốn chia sẻ hạnh phúc của tôi với mọi người. Mong sao, mọi đôi tình nhân đời này được nên duyên chồng vợ.

      Bỗng nhiên có tiếng chửi rủa và đấm đá từ đầu phố vẳng lại. Chúng tôi nhìn nhau, rồi vội vàng bước đến, mười mấy người dân địa phương bắt giữ hai nhà sư và ngừng la hét đòi đưa họ đến nha môn.

      - Nhà sư mà dám bao kỹ nữ, sợ bị trời đánh à? coi vương pháp ra gì!

      Những người dân địa phương hô hoán, sỉ vả với nỗi bức xúc dâng cao.

      - Bọn ta bao kỹ nữ sao? Quốc sư Kumarajiva những có vợ chính, còn rước mười ca kỹ trong cung về làm vợ lẽ. Ban ngày bái Phật, ban đêm vui vầy với đám phụ nữ, nghe thê thiếp của ngài có người mang bầu nữa kìa. Bọn ta thỉnh thoảng bao kỹ nữ, thể là phạm pháp được. Còn ngài sao?

      Nhà sư trẻ tuổi bị trói giật hai cánh tay ra phía sao lên tiếng biện bạch với vẻ bất mãn cao độ. Cách trang phục và năng của họ cho thấy họ chỉ là những tăng sĩ vị trí thấp kém trong chùa, chắc hẳn chưa bao giờ gặp Rajiva.

      Dân chúng địa phương nổi giận, có người quát lớn:

      - Đồ sư hổ mang, còn dám xảo biện. Hãy giải bọn chúng đến cho Bệ hạ xử lý.

      Người đó vừa dứt lời nhận được những tiếng hô hào ủng hộ.

      Rajiva tái xám mặt mày, định bước đến điều gì đó, nhưng tôi kịp giữ chàng lại, khẽ thào vào tai chàng:

      - Trong tình huống này, chàng có xuất đầu lộ diện cũng chẳng giải quyết được vấn đề gì, hãy về cung trước, em có cách.

      Chàng nhìn tôi hồi lâu, lại nhìn hai nhà sư vẫn ngừng gào thét rằng mình vô tội kia, gật đầu, nặng nhọc cất bước, cùng tôi trở về nơi ở.

      Tôi lôi ra bọc đồ, đặt trước mặt chàng, chàng mở xem và tròn xoe mắt:

      - Kim khâu ư?

      Tôi gật đầu:

      - Vâng nhưng phải kim khâu thông thường.

      Chàng đeo kính lão, dùng đầu ngón tay nhón chiếc lên, đưa sát ngọn nến, nhìn kỹ:

      - Đúng là giống chiếc kim khâu thông thường, vì thấy có lỗ kim.

      Tôi nhặt chiếc lên, bỏ vào miệng nhai. Rajiva thất kinh, mặt mũi biến sắc, giữ chặt má tôi, ép tôi nhả kim ra. Tôi bật cười ha hả, nhón thanh khác, đưa lên miệng chàng:

      - Chàng ăn thử , khá ngon đấy!

      Chàng cúi nhìn chiếc kim tay tôi, thận trọng lè lười ra cuốn lấy, rồi chậm rãi nhâm nhi, thẩm định, ngay lập tức chàng ngẩng lên hỏi tôi:

      - Là kẹo ư?

      - Vâng.

      Đây là những thanh sô la hình kim khâu mà đầu bếp trong nhà ăn của trung tâm nghiên cứu phải mất ngày trời kì công mới làm ra được. May sao tôi đến đây là vào mùa đông, và bây giờ dù sang xuân nhưng thời tiết vẫn còn mát mẻ, nên sô la bị tan chảy mà vẫn giữ được nguyên trạng.

      Tôi nghiêm nghị với chàng:

      - Rajiva, kết hôn là điểm tối nhất trong cuộc đời chàng. Huống hồ giờ đây chàng còn có thêm tì thiếp. Người đời biết câu chuyện tình bốn mươi năm của chúng ta, cũng ai hay những cung nữ được đưa đến đây hầu hết đều trở về bên gia đình. Các tăng nhân trẻ tuổi, nông nổi học theo chàng, dùng câu chuyện về chàng để viện cớ cho hành vi đồi bại của mình. Nếu cứ tiếp tục như thế này, danh tiếng của chàng bị tổn hại. Bởi vậy chàng phải chứng minh cho mọi người thấy chàng có thần lực và ai ngoài chàng được phép kết hôn.

      Chàng nhìn chiếc kim sô la trước mặt, rồi ngẩng lên hỏi tôi:

      - Điều này phải chăng cũng có trong những ghi chép về ta? Nàng đọc tài liệu đó, nên mới chuẩn bị chu toàn thế này?

      Tôi mỉm cười gật đầu, chàng vẫn thông thái như ngày nào. Tôi đọc cho chàng nghe những ghi chép trong sách “Tần thư”: “Nhiều nhà sư muốn học theo Kumarajiva. Ngài mang đến bát đầy kim khâu và với chúng tăng rằng: Ai có thể nuốt kim được như ta được phép cưới vợ. Kế đó, ngài ăn hết bát kim như ăn cơm. Chúng tăng nể phục và hối hận, từ đó ai dám học đòi kết hôn như ngài nữa”.

      Tôi kéo chàng đến bên giường, dịu dàng :

      - Rajiva, ngày mai Diêu Hưng hỏi chàng xem nên xử trí hai nhà sư kia thế nào. Chàng phải diễn vở kịch nuốt kim này.

      Chàng im lặng đáp, hẳn là chàng cảm thấy muôn phần hổ thẹn. Tôi sốt ruột:

      - Rajiva, hãy nghĩ đến sứ mệnh của chàng. Chàng phải dịch thuật kinh Phật, phải dẫn dắt ba nghìn đệ tử, vì vậy, chàng nhất định phải giữ vững tôn nghiêm, chàng hiểu chứ?

      Chàng ngẩng lên, nhìn gói sô la thêm lần nữa, rồi mới gật đầu cách khó nhọc.

      Thank you sis [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 91: Năm tháng huy hoàng

      kiện Rajiva nuốt kim khiến dân chúng thành Trường An sửng sốt, vui mừng và hoàn toàn tâm phục khẩu phục, danh tiếng của Rajiva được bảo toàn. Chàng khẩn cầu vua Diêu Hưng trả tự do cho hai nhà sư trẻ kia. Họ lấy làm hổ thẹn muôn phần, trước khi ra về họ thề rằng: Từ nay nguyện lòng kính Phật, tơ tưởng chuyện gió trăng trần tục nữa.

      Trung tuần tháng tư, chúng tôi chuẩn bị khởi hành về chùa Thảo Đường. Trước lúc lên đường, tôi đến chào từ biệt gia đình Mộ Dung Siêu, nhưng vừa tới nơi, tôi bàng hoàng khi thấy căn nhà lá vốn dĩ cũ nát của họ bị giật đổ tơi bời. Sinh Đình và Hô Diên Tĩnh kêu khóc thảm thiết, Mộ Dung Siêu máu chảy khắp người, trừng mắt căm hờn trước cảnh đổ nát tan tành, nắm chặt nắm đấm, tưởng như có thể ép ra nước.

      Tôi thất kinh, vội hỏi nguyên nhân. ra do Hách Liên Bột Bột gây nên. Sau khi tỉnh lại, cho người lùng soát khắp nơi, cuối cùng tìm được Mộ Dung Siêu. Hách Liên Bột Bột cho rằng chính Mộ Dung Siêu khiến bất thình tỉnh ngày đêm, nên dẫn theo người hầu, vây đánh Mộ Dung Siêu trận tàn bạo, còn phá nhà bọn họ, đập nát đồ đạc trong nhà.

      Mộ Dung Siêu bị đánh bầm tím mặt mày, tôi nhìn mà xót xa. Tôi coi cậu ta như con trai mình, nên cầm lòng nổi khi cậu ta bị kẻ khác ức hiếp. Hơn nữa, mối hiềm khích giữa Mộ Dung Siêu và Hách Liên Bột Bột là do tôi mà ra. Nếu để gia đình Mộ Dung Siêu tiếp tục ở lại Trường An, biết tên ác bá khát máu Hách Liên Bột Bột còn sử dụng thủ đoạn đê tiện gì để trả thù họ nữa.

      Thế nên, trong đoàn người trở về chùa Thảo Đường cùng chúng tôi, ngoài các đệ tử Rajiva mới thu nhận, ba cung nữ, còn có thêm gia đình Mộ Dung Siêu. Họ chỉ có thể được yên ổn dưới bảo vệ của chúng tôi. Đoàn chúng tôi hăm hở tiến thẳng về phía vườn Tiêu Dao, đội ngũ đông đảo, nên mất ngày trời mới về tới chùa.

      Sau khi trở về, Rajiva bận rộn tối tăm mặt mũi với công việc tổ chức dịch thuật. Chàng để thất thoát ít kinh văn tiếng Phạn sau khi tới Trung Nguyên. Vào thời đại này, hầu hết kinh văn tiếng Phạn đều có bản chép tay, mà được khẩu truyền từ thầy sang trò khi các bậc sư phụ giảng kinh cho đệ tử nghe, sau đó phải nhờ vào trí nhớ của các đệ tử nhà chùa. Tuy Rajiva có trí nhớ siêu phàm, nhưng chàng thể thuộc hết mọi kinh văn. May mà còn có giúp đỡ của Buddhayassa.

      Rajiva với chiếc kính lão, lao tâm khổ tứ, đăm chiêu bên bàn làm việc, dưới ánh nến lấp lánh. cuốn kinh văn tiếng Phạn mở ra trước mặt. Chàng đọc đọc lại nhiều lần, rồi chép lại lời dịch sang tiếng Hán vào cuốn tập mới, liên tục các thao tác khoanh tròn, chấm, gạch, sửa chữa. Ngày nào sau khi ở chùa về chàng cũng bận rộn, miệt mài như vậy. Tôi cố gắng chăm sóc chàng chu đáo, công việc trong nhà mình tôi cáng đáng, để chàng được chuyên tâm dịch thuật.

      Chàng nghiên cứu và dịch bộ "Kinh kim cương" trong vòng nửa tháng. Tôi từng đọc nên biết rằng, dù chỉ vỏn vẹn năm nghìn chữ, nhưng cuốn kinh này vô cùng khó hiểu, bởi vậy chàng rất vất vả khi dịch. Tôi dám giúp chàng, phần vì tôi thuộc hết cuốn kinh, phần cũng vì tôi biết, chàng muốn tôi tiết lộ nội dung những kinh văn mà người đời sau đọc được, vì như thế, công sức chàng bỏ ra đâu còn ý nghĩa gì nữa.

      Thế nên, khi chàng đăm chiêu suy nghĩ, gạch xóa, chỉnh sửa liên tục bản dịch của mình, tôi lên tiếng, dù chỉ lời, chỉ lặng lẽ ngồi bên, rót nước pha trà, phục vụ chàng.

      Nửa tháng sau, chàng đặt vào tay tôi cuốn tập, cười rạng rỡ:

      - Ngải Tình, ta dịch xong rồi. Đây là món quà Rajiva dành tặng vợ, nàng là người đầu tiên được đọc nó.

      Tôi đón lấy bản thảo còn tươi màu mực và nồng đượm hơi ấm của cơ thể chàng. Tôi mỉm cười lật trang đầu tiên, nhẩm đọc từng chữ, rồi trang tiếp theo, tiếp theo nữa, càng đọc càng băn khoăn, khó hiểu. Chàng nghiêng đầu qua hỏi:

      - Thế nào?

      Tôi ngẩng đầu lên nhìn chàng, buồn rầu:

      - Rajiva, đây phải "Kinh kim cương" mà em được đọc.

      Chàng ngạc nhiên:

      - phải ư?

      Tôi suy nghĩ xem nên giải thích với chàng thế nào cho hợp lý:

      - Có chỗ giống, có chỗ giống. Em có cảm giác, bản dịch này của chàng khó hiểu hơn, trúc trắc hơn.

      Tôi do dự lát, rồi quyết định thẳng thắn bày tỏ quan điểm:

      - Rajiva, bản dịch này, em đọc hiểu.

      Chàng bị bất ngờ và hơi thất vọng. Tôi vội vàng an ủi:

      - "Kinh kim cương” vốn rất thâm thúy, khó nắm bắt. Em phải tín đồ Phật giáo nên hiểu cũng phải thôi.

      Chàng trầm ngâm giây lát, vẻ mặt nghiêm nghị:

      - "Kinh kim cương thuyết giảng về "trống rỗng, thực", thể thuyết lý, thể thành lời, thể diễn đạt bằng ngôn từ. Bởi vì nội dung của kinh văn này rất thâm thúy, sâu xa, huyền bí, nên khi dịch sang tiếng Hán ta rất khổ công, mong sao có thể truyền tải được trọn vẹn hàm ý sâu xa của nó.

      Truyền tải trọn vẹn ư? Vậy tức là chàng quá ư bám sát và trung thành với nguyên tác? Nhưng theo tôi được biết đó phải phong cách dịch thuật của chàng. Rajiva nổi tiếng với cách dịch nghiêng về ý tứ hơn là chữ nghĩa kia mà.

      - Rajiva, chàng muốn ai là người đọc cuốn kinh này?

      Tôi trả lại bản dịch cho chàng:

      - Là những vị cao tăng từng được đào tạo cách có hệ thống các giáo lý Phật pháp, là các văn nhân, trí sĩ có trình độ giáo dục cao, hay là các cư sĩ tu tại gia chỉ biết chút ít chữ nghĩa, hoặc thậm chí là quần chúng nhân dân phần nhiều chữ cũng biết?

      Chàng giật mình kinh ngạc, cúi nhìn bản dịch tay, lật mở từng trang đọc lại cách gấp gáp, sau đó bỗng nhiên ngửa đầu cười vang:

      - Ta hiểu rồi!

      Chàng nắm chặt tay tôi, xúc động :

      - Ngải Tình, ở thời đại này hiếm có người mà tầm vóc trí tuệ và khả năng lĩnh hội cao như nàng. Nhưng nếu ngay cả nàng đọc bản dịch này cũng hiểu, thử hỏi, bao nhiêu đệ tử nhà Phật có thể hiểu được?

      Chàng đặt cuốn tập lên bàn, chắp tay sau lưng, bước trong phòng, ngọn nến đung đưa, chiếu rọi bóng chàng trầm ngâm, suy tư:

      - Ta dịch kinh là để cho ai đọc?

      Chàng đến bên cửa sổ, dõi nhìn những bóng thông cao vút dưới ánh trăng sáng vằng vặc:

      - Những bản dịch trước kia rất trúc trắc, khó hiểu, ảnh hưởng đến việc truyền bá giáo lý Phật pháp ở Trung Nguyên. Nếu muốn phổ cập rộng rãi những kinh văn này, thể chỉ dựa vào giới quý tộc, hoàng thân quốc thích mà phải coi trọng đối tượng quần chúng. Nhưng số người biết chữ trong nhóm đối tượng này nhiều, vậy phải làm sao để họ lĩnh hội được ý nghĩa sâu xa, lớn lao của giáo lý Phật pháp? Chàng tiếp tục suy tư, tiếp tục phân tích:

      - Ngải Tình, câu của nàng thức tỉnh ta. Trước khi đặt bút dịch thuật, cần suy xét rất nhiều vấn đề. Kinh văn Phật pháp nhiều kể xiết, rốt cuộc, ta nên chọn dịch những cuốn nào? Khi bắt tay vào việc dịch thuật, ta nên chú trọng đến cách diễn đạt hay đảm bảo trọn vẹn của nguyên tác

      Chàng ngẩng đầu, trầm ngâm. Tôi lẳng lặng đến bên chàng, lồng tay vào tay chàng, tựa vai vào vai chàng. Lát sau, chàng cúi xuống nhìn tôi, mỉm cười rạng rỡ, mắt sáng lấp lánh:

      - Ta quyết định tập trung chuyển dịch những bộ kinh điển của phái tông - Đại Thừa. Tuy ta thông hiểu cả giáo lý Tiểu Thừa và Đại Thừa, nhưng lý tưởng của ta nghiêng nhiều hơn về giáo lý Đại Thừa, vả lại giáo lý này cũng phù hợp với đất Hán hơn. Vậy mà ở Trung Nguyên chưa từng có ai chuyển dịch kinh văn của các vụ thủy tổ phái Tông là Long Thụ và Đề Bà. "Trung luận", "Thập nhị môn luận" và "Bách luận" đều là những tác phẩm chứa đựng tinh hoa của giáo lý tông. Ta lần lượt chuyển dịch những cuốn kinh văn đó.

      Tôi gật đầu, tư liệu Phật giáo mà tôi đọc được viết rằng: vào khoảng thế kỷ thứ hai, thứ ba sau Công nguyên, hai em Long Thụ và Đề Bà, người Ấn Độ chấp bút viết "Trung luận", "Thập nhị môn luận" và "Bách luận" (người đời thường gọi là "Tam luận") dựa tư tưởng của "Bát Nhã", sáng lập ra giáo phái tông, là giáo phái Đại Thừa đầu tiên trong lịch sử Phật giáo. Trước Rajiva, từng có người chuyển dịch các tác phẩm của Long Thụ và Đề Bà. Rajiva là người đầu tiên chuyển dịch sang tiếng Hán cách đầy đủ, trọn vẹn những văn quan trọng của hai vị đại sư này. Cuốn "Tam luận" mà Rajiva chuyển dịch trở thành kinh văn kinh điển của phải Tam luận tông.

      - Khi dịch có thể lược bỏ những phần phức tạp, khó hiểu, nên lệ thuộc hoàn toàn vào nguyên tác, chỉ cần biểu đạt được ý nghĩa căn bản là được.

      Chàng quay lại nhìn tôi, mỉm cười và gật đầu, khuôn mặt thông tuệ của chàng trở nên hân hoan, rạng rỡ:

      - Dân thường khó mà lĩnh hội được những giáo lý uyên thâm của kinh văn Tam luận, vì vậy ta dành thời gian để dịch cho họ những cuốn kinh văn dễ hiểu, để chỉ cần nghe giảng lần, là có thể nắm bắt được ý nghĩa của kinh văn đó. Mọi chúng sinh đều nghe và đều hiểu được, Phật pháp mới có thể phát triển rộng rãi.

      Tôi lấy làm cảm phục. Có lẽ chỉ có chàng mới thấu suốt chân lý này. Thế nên, phương pháp dịch thuật kinh Phật của chàng nhấn mạnh dịch ý là chính, những đoạn uyên thâm khó hiểu, chàng đều lược bỏ hoặc rút ngắn lại. Chính điều này khiến ít học giả Phật học, thậm chí là các đệ tử của chàng cũng hoài nghi rằng, vì chàng là người Khâu Tử, nên tinh thông Hán văn, giỏi tiếng Hán cách toàn diện, sâu sắc. Lẽ nào, do trình độ tiếng Hán có hạn, nên chàng chỉ có thể dịch ý chứ thể dịch toàn văn nguyên tác?

      Những kinh văn do Rajiva chuyển dịch, được lưu truyền rộng rãi nhất gồm: "Kinh kim cương", "Kinh diệu pháp liên hoa", "Kinh Duy Ma Cật sở thuyết". ít người từng chuyển dịch những cuốn kinh này. Ví như "Kinh kim cương" có tới bảy bản dịch, trong đó có cả bản dịch của Huyền Trang. Trình độ tiếng Hán của ngài Huyển Trang chắc chắn cao hơn Rajiva, vậy tại sao, bản dịch của Rajiva lại có sức sống mãnh liệt hơn cả?

      Người đời sau bình xét về cuốn "Thực tưởng luận" mà chàng viết theo cầu của vua Diêu Hưng như sau: "Ngôn từ trau chuốt, cần sửa đổi, hành văn uyển chuyển, dễ hiểu, dễ cảm". Điều này vẫn chưa đủ để chứng minh trình độ Hán ngữ của chàng ư? Sở dĩ chàng chú trọng việc dịch lấy ý tứ, là vì chàng hiểu rằng đối tượng truyền pháp mà chàng hướng đến là đông đảo quần chúng nhân dân. Huyền Trang dịch kinh trong vòng hai mươi năm, tổng số kinh văn mà ngài chuyển dịch lên đến hơn ngàn ba trăm cuốn. Thời gian dịch thuật của Rajiva ngắn ngủi, số lượng kinh văn chàng dịch chỉ có hơn ba trăm cuốn. Nhưng những kinh văn Rajiva chuyển dịch đều được quảng đại quần chúng tìm đọc tại các ngôi chùa ở thế kỷ XXI, trong khi ngài Huyền Trang chỉ có bộ "Tâm kinh" là được nhiều người biết đến. Bởi vì, kinh văn mà Huyền Trang chuyển dịch đều là những kinh văn ở tầm lý luận rất cao, chỉ có những người chuyên ngành nghiên cứu về Phật giáo mới tìm đọc. Có câu: nhạc cao ít người họa, người ta thường ngại đọc những gì quá cao siêu, xưa nay đều vậy.

      Chàng hoàn toàn thấu suốt chân lý này, nên rất đỗi phấn chấn, lập tức ngồi vào bàn, cầm bút, bắt đầu chuốt lại những câu chữ khó hiểu. Tôi bóp vai cho chàng, bỗng nhiên nhớ đến mong muốn bấy lâu của mình.

      - Rajiva, em có thể nhìn đạo tràng dịch kinh của chàng ?

      Tôi chưa bao giờ đến nơi làm việc của chàng. Ở nhà sao, nhưng nếu công khai đến chùa Thảo Đường, tôi khó tránh khỏi rơi vào tình huống khó xử. Nhưng lòng hiếu kỳ như ngọn lửa cứ bùng lên khó cưỡng trong tôi. Đạo tràng dịch kinh của Rajiva có quy mô lớn nhất vào thời cổ đại, kể cả đạo tràng dịch kinh của Huyền Trang cũng thể sáng bằng. Vào thời điểm hưng thịnh nhất, hơn ba nghìn nhà sư đến đây tham gia dịch thuật. Là người nghiên cứu về lịch sử, nếu tôi được kiểm chứng khung cảnh huy hoàng ấy, điều đó có ý nghĩa vô cùng lớn lao.

      Chàng chấm bút lông vào nghiên mực, trầm ngâm giây lát:

      - Ừ, để ta sắp xếp.

      Mấy ngày sau, bản dịch mới của cuốn "Kinh kim cương được đặt trước mặt tôi. Đây chính là bản dịch mà tôi đọc được ở thế kỷ XXI. Tôi ngâm nga thưởng thức, dư vị lắng đọng. Rajiva ngẩng lên, nhìn tôi cười rạng rỡ.

      - Ngày mai, nàng có thể dậy sớm đến chùa Thảo Đường cùng ta ?

      Nỗi phấn khích khiến tôi tỉnh ngủ từ lúc bốn giờ sáng. Nhưng khi hấy tôi cố gắng đóng giả chú tiểu đồng, Rajiva cười ngất, bảo tôi mặc lại y phục của nữ giới, và khẳng khái với tôi rằng, tất cả mọi người đều biết tôi là vợ chàng, nên cần phải giấu giấu giếm giếm. Thực ra, tôi cũng hiểu, phụ nữ mãi là phụ nữ, dù cải trang thế nào cũng thể giống đàn ông. Những giả trai trong các bộ phim truyền hình cổ trang, khán giả chỉ nhìn qua cũng có thể nhận ra ngay, chỉ có nhân vật trong phim, vì cầu của kịch bản nên mới vờ như nhận ra mà thôi.

      Thế nên, tôi quyết định ăn mặc như thường ngày để đến chùa Thảo Đường cùng chàng. Các tăng nhân nhìn thấy tôi khỏi kinh ngạc, nhưng họ gây ồn ào. Chàng sắp xếp cho tôi vị trí tương đối khuất, nhưng có thể quan sát ràng mọi hoạt động diễn ra trong đại điện. Tôi cảm thấy hơi bồn chồn, xuất giữa bao nhiêu tăng nhân thế này, có gây điều tiếng gì ?

      Rajiva mỉm cười lắc đầu, ý rằng tôi cần phải lo lắng. Thời gian của buổi tụng kinh đến, các đệ tử lần lượt tiến vào đại điện. Chỗ ngồi của tôi tuy khá khuất dạng, nhưng vì là người phụ nữ duy nhất, nên thu hút nhiều chú ý.

      lâu sau, các nhà sư bắt đầu chụm đầu to , những lời bàn tán xôn xao. Tôi bối rối, liếc nhìn Rajiva, nhưng chàng vẫn bình thản, điềm tĩnh đối diện với hơn nghìn đệ tử.

      Tiếng chuông báo giờ tụng kinh bắt đầu vang lên, Rajiva đứng dậy, chắp tay vái các đệ tử:

      - Phu nhân ta hôm nay đến tham quan đạo tràng dịch kinh, xin các vị chớ ngạc nhiên... Rajiva hiểu rằng các vị lấy làm khó hiểu và bất mãn về chuyện này, nhưng ta muốn biện bạch gì nhiều. Ta và phu nhân trải qua mấy chục năm dâu bể, đến nay vẫn kề vai sát cánh bên nhau, ấy là do nghiệt duyên từ kiếp trước. Rajiva cảm thấy muôn phần hổ thẹn, ngày sau tất cùng phu nhân về nơi địa ngục, đặng trả món nợ trong kiếp này.

      Chàng ngẩng lên, đưa mắt nhìn khắp lượt chúng tăng, nở nụ cười an nhiên, cất giọng trầm bổng:

      - Tuy vậy, những tri thức mà Rajiva lĩnh hội và giác ngộ được trong suốt mấy mươi năm thờ phụng Phật tổ vẫn đáng để các tăng sĩ Trung Nguyên học tập. Giống như hoa sen trong bùn lầy, các vị hãy chuyên tâm hái hoa và chạm đến bùn nhơ là được.

      Những lời này của chàng khiến chúng tăng cảm động. Tăng Triệu cùng các đệ tử khác, bước lên, chắp tay, vái Rajiva, và đồng thanh:

      - Đệ tử xin nghe lời thầy dạy!

      Rajiva nhìn khắp lượt các đệ tử, cất cao giọng:

      - Gần đây, đông đảo các tăng nhân người Hán đến vườn Tiêu Dao xin được bái ta làm thầy. Hôm nay ta xin tuyên bố trước mặt các vị: Các vị đến đây xin học đạo, Rajiva dốc sức truyền dạy. Nhưng thân ta nặng nghiệp chướng, các vị cần thụ lễ cách chính thức. Ngoài tám người làm lễ bái sư là: Tăng Triệu, Trúc Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Duệ, Đạo Hằng, Đàm Ảnh, Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm, Rajiva thu nhận thêm đệ tử.

      Sư tăng đồng loạt kêu lên:

      - Thưa thầy!

      Rajiva khẽ lắc đầu:

      - Lòng ta quyết, đừng khuyên ngăn vô ích, chuẩn bị vào buổi tụng kinh.

      Rajiva đưa mắt về phía tôi, tôi nhìn chàng, mỉm cười thanh thản. Chàng khẽ gật đầu, hướng dẫn mọi người thực bài tụng kinh buổi sớm. Sau khi giờ tụng kinh kết thúc, mọi người cùng dùng bữa sáng, sau đó bắt đầu công việc dịch thuật.

      Trong số nghìn nhà sư người Hán có mặt trong đại điện phần lớn tham gia trực tiếp vào quá trình dịch kinh, mà chỉ đến để quan sát và học hỏi. Họ cũng là những tăng sĩ mà Rajiva từ chối nhận làm đệ tử. Họ ngồi xếp bằng phía dưới, ngóng lên phía , cả đại điện là biển áo cà sa màu vàng sẫm. Rajiva mặc áo cà sa màu đỏ, hở vai như khi còn ở Tây vực mà chuyển sang mặc áo cà sa màu vàng sẫm, là trang phục truyền thống của các nhà sư Trung Nguyên. Kiểu dáng của chiếc áo cà sa này vẫn được lưu truyền đến tận ngày nay, hầu như thay đổi. Chỉ có đại sư Buddhayassa là vẫn khoác áo cà sa Tây vực màu đỏ sẫm.

      Rajiva và Buddahayassa tọa chiếc giường thấp ngay dưới chân tượng Phật tổ, ở bục cao của đại điện. bên là các đệ tử Khâu Tử, phía bên kia là “Thập môn bát triết”: Tăng Triệu, Trúc Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Duệ, Đạo Hằng, Đàm Ảnh, Tuệ Quán và Tuệ Nghiêm. Họ ngồi xếp bằng những chiếc giường gỗ thấp, trước mặt mỗi người đều có chiếc bàn, bàn bày đủ đồ dùng dành cho việc viết lách.

      Những ngày này, họ tập trung phiên dịch cuốn “Kinh pháp hoa”. Rajiva đọc to kinh văn này bằng tiếng Phạn lần để các đệ tử Khâu Tử ghi chép lại. Đọc hết đoạn, chàng lại quay sang thảo luận với đại sư Buddhayassa. Kế đó, các đệ tử Khâu Tử đọc lại phần kinh văn họ vừa ghi chép, Rajiva kiểm tra và bổ sung nếu có thiếu sót.

      Sau đó, đoạn kinh văn bằng tiếng Phạn này được giao cho các đệ tử người Hán ở phía bên kia. Rajiva đọc câu kinh bằng tiếng Phạn, tự mình dịch sang tiếng Hán, các đệ tử người Hán chép lại câu dịch. Trước đó, Rajiva giảng giải cho tôi nghe về vị trí, vai trò của từng người trong toàn bộ chu trình dịch thuật.

      Người đảm nhiệm việc ghi chép kinh văn gọi là “chấp bút”, đó phải là người có trí nhớ tốt nên công việc này được giao cho Trúc Đạo Sinh. Người kiểm tra và so sánh bản dịch tiếng Hán với bản gốc tiếng Phạn được gọi là “chứng văn”, công việc này đòi hỏi người đảm nhiệm phải tinh thông cả tiếng Phạn và tiếng Hán, Rajiva tự mình gánh lấy trách nhiệm này, Tăng Triệu trợ giúp thêm cho chàng. Người chau chuốt lại bản dịch được gọi là “nhuận văn”, đó phải là người viết văn rất giỏi, công việc này được giao cho Tăng Triệu và Trúc Đạo Sinh. Ngoài ra còn có người kiểm tra và xác nhận độ chính xác về mặt ngữ nghĩa của bản dịch, gọi là “chứng nghĩa”, do Đạo Hằng và Đàm Ảnh đảm nhiệm công việc khảo đính, đối chiếu và sửa từng câu chữ trong bản dịch. Nhà vua cũng có lúc tham gia vào quá trình này, gọi là “xuyết văn”.[1]

      [1] Tham khảo cuốn “Mười lăm vấn đề của Phật giáo” của học giả Quý Tiễn Lâm, Trung Quốc.

      Từng câu chữ đều phải tuân thủ quy trình dịch thuật hết sức nghiêm ngặt và đầy trách nhiệm. Mùi hương trầm tỏa lan trong gian, ngay dưới bức tượng với gương mặt từ bi của Phật tổ, là thái độ làm việc hết sức cần mẫn, nghiêm túc của mỗi nhà sư. Họ tham gia vào công việc vĩ đại, mà thành quả của nó lưu truyền đến ngàn đời sau.

      - Thưa thầy!

      Trúc Đạo Sinh ghi chép, bỗng ngẩng lên, cung kính thưa:

      - Năm xưa, cao tăng Trúc Pháp Hộ cũng từng dịch cuốn kinh này, Đạo Sinh còn nhớ, ngài dịch đoạn kinh văn này là “Trời thấy người, người thấy trời”.

      Rajiva gật đầu:

      - “Trời thấy người, người thấy trời”, đoạn kinh văn này rất sát với ngữ nghĩa trong tiếng Tây vực, nhưng hơi khô cứng, thiếu trau chuốt.

      Chàng bước xuống, cất bước chậm rãi dạo qua các đệ tử, giọng chàng trầm ấm:

      - Người Thiên Trúc đặc biệt coi trọng vần điệu trong lời ăn tiếng hàng ngày, chốn cung đình lại càng chú trọng hơn đến vận, đề cao việc hợp với điệu đàn. Người ta thường ca ngợi công đức của các đấng quân vương thành tâm tín Phật bằng những câu hát. Các bài kệ trong kinh văn cũng đều được ngâm vịnh theo dạng thức xướng tụng của Thiên Trúc. Nhưng nếu chuyển dịch nguyên bản những câu kệ đó sang tiếng Hán, mặc dù có thể truyền đạt được đại ý nhưng chắc chắn làm mất vận, nhịp điệu, tính nhạc của nguyên tác. Điều này giống như việc, chúng ta nhai nát cơm rồi mà còn đem cho người khác ăn, những mất hương vị ban đầu mà còn khiến người ta ghê sợ.

      Chàng chầm chậm cất bước, lời chứa bao điều sâu xa:

      - Dịch kinh Phật phải chú trọng tới cân bằng giữa “thông tục” và “bay bổng”. Nếu cố bám sát nguyên nghĩa, văn dịch trở nên thông tục, khô khan. Nếu sa đà vào cách hành văn hay vần điệu mắc lỗi bay bổng, cầu kỳ. Cả hai lỗi này đều có thể khiến bản dịch trở nên lệch lạc. Phải làm sao để văn chương thông thuận, nghĩa lý trở nên tròn đầy, đó chính là trách nhiệm của người dịch kinh.

      Ai nấy đều lắng nghe rất chăm chú và trăn trở về mối quan hệ giữa phương pháp dịch ý và dịch nghĩa. Tăng Duệ đột nhiên giơ cao cánh tay phải vẫn cầm bút, :

      - Thưa thầy, dịch là: “Người với trời gặp gỡ trong thể giao hòa” có được ạ?

      Rajiva quay người lại, vui mừng nhìn Tăng Duệ:

      - Câu này dịch khá lắm, vẫn giữ được ý tứ nguyên tác lại vừa trôi chảy, thanh thoát.

      Sau đó, chàng quay sang Trúc Đạo Sinh:

      - Đạo Sinh, con hãy chép câu này lại.

      Chàng nhìn khắp lượt các nhà sư, cất giọng sang sảng:

      - Rajiva là người Tây vực, tuy sống ở đất Hán nhiều năm, nhưng thể thông thạo ngôn ngữ của người Hán như người gốc Hán, do vậy trong quá trình dịch thuật, khó tránh khỏi sai sót, các vị được thờ ơ với những sai sót ấy. Kinh văn có được chuyển dịch chính xác và thành công hay , thể chỉ dựa vào sức lực của mình ta.

      Tôi ngồi đệm cói, mỉm cười ngắm nhìn con người bận rộn ấy, hạnh phúc dâng tràn trong tim. Chồng tôi lúc nào cũng là con người khiêm tốn, hiếu học, nhiệt thành với học trò, khiêm cung và mẫu mực. Tuệ Giảo đánh giá chàng là người: “Thuần hậu, đức độ, nhân ái, bao dung, khiêm cung, hiếu học, cần mẫn, miệt mài”. Những lời khen ngợi này hề khoa trương chút nào.

      Kết thúc ngày, tôi trở về nơi ở cùng chàng sau giờ tụng kinh buổi tối, khi ấy, mặt trời ngả về tây, ánh hoàng hôn rực rỡ chiếu rọi thần thái an nhiên, tự tại của chàng. Tôi mê mải ngắm nhìn chàng, nụ cười đậu mãi môi. Chàng nhìn tôi cười, cũng cười theo. Gió thổi qua, mang theo hương hoa dìu dịu, tôi nắm tay chàng, cùng nhau bước về nhà…

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :