1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đức Phật và nàng - Chương Xuân Di(tập 2 - full)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 67: Vua Tây Lương

      Rajiva đứng cách đó xa, vạt áo cà sa phất phơ bay, vẻ điềm nhiên, tự tại. Thư Cừ Mông Tốn nhìn tôi, rồi lại nhìn Rajiva, chau mày kinh ngạc. Thừa lúc ta lơ đễnh, tôi vùng thoát, chạy đến bên Rajiva.

      Thư Cừ Mông Tốn há miệng, ấp úng:

      - Hiểu bản thân, làm chủ bản thân, mọi suy nghĩ và hành động mang tính Phật. Mọi đời đều do nhân duyên tạo nên. Rajiva và vợ chính là kết quả của nhân duyên đó.

      Mông Tốn cười nhạo, ánh mắt lộ vẻ coi thường giấu giếm:

      - Chỉ viện vào hai chữ “nhân duyên” mà cho phép mình đắm chìm trong thế giới lưu ly kỳ ảo, pháp sư làm vậy sao khiến chúng sinh tin phục được!

      Rajiva hiền hoà cất giọng:

      - Nhìn thẳng vào cái “” và cái “có”, thấu hiểu nó nhưng lệ thuộc vào nó, cũng như bận lòng vì nó. Vạn vật trong trời đất đều do nhân duyên mà ra và đều tồn tại hai mặt “có” và “”, “thực” và “ thực”, đó là bản chất và là hình tướng của hết thảy vật, tượng. Nếu có thể thấu suốt mọi “có” và “”, sẻ như sen kia trong bùn lầy, sống giữa thế nhân thường tục mà vẫn giữ được đạo hạnh thanh cao, điềm tĩnh trước sống chết, thản nhiên trước nỗi nhục vinh.

      Gương mặt lạnh lùng, đầy vẻ khinh khi của Mông Tốn phần nào thay đổi, trầm tư lát, ta đẩy ánh mắt dò xét về phía tôi, gật gù:

      - Sống giữa thế nhân thường tục mà vẫn giữ được đạo hạnh thanh cao, điềm nhiên trước sống chết, bàng quan trước nỗi nhục vinh. Pháp sư quả là người uyên bác, thâm thuý, chả trách ngài sống giữa thế tục mà vẫn giữ được Phật tâm, Mông Tốn hôm nay được mở mang rất nhiều!

      Tôi khá bất ngờ. Mông Tốn quả nhiên là người tinh thông văn sử, nhạy bén, linh hoạt, khác hẳn những người Hung Nô vốn ưa dùng vũ lực để trấn áp kẻ khác. Có lẽ vì vậy mà Nam Thành, Đoàn Nghiệp và cả Lữ Quang đều kiêng nể ta.

      Chuyện trò đãi bôi thêm đôi câu, Rajiva bèn cáo từ Mông Tốn. Đôi mắt sắc lạnh của Mông Tốn buông tha cho tôi, vẻ thăm dò, xét nét chiếu ra từ đó khiến tôi cảm thấy khó chịu. Rajiva đưa tôi về nơi ở, quan sát xung quanh có ai mới làm mặt nặng với tôi:

      - Ngải Tình, đừng gây với những người đàn ông như thế nữa!

      - Em có gây đâu...

      Tôi ấm ức, cả hai lần đều phải do lỗi ở tôi kia mà! Mông Tốn cũng chỉ muốn đóng kịch, chỉ là may đối tượng lại là tôi mà thôi.

      Sắc mặt Rajiva rất khó coi, chợt nhớ tới màn thân mật mà Mông Tốn cố ý diễn khi nãy, tôi bỗng chột dạ:

      - Rajiva... việc phải như chàng thấy đâu. Em và người đó hoàn toàn có...

      - Ngải Tình!

      Chàng nhàng ngắt lời tôi.

      - Nàng là vợ ta, sao ta có thể nghi ngờ nàng được!

      Trong lòng khỏi lo lắng, tôi làu bàu:

      - Nhưng sao chàng vẫn khó đăm đăm như vậy?...

      Rajiva khó nhọc ngồi xuống, vẻ mặt mỏi mệt, đưa tay với ấm trà:

      - Ngải Tình, Lữ Quang chịu mở kho phát lương thực.

      ra là vì chuyện này. Tôi thở phào, rót trà cho chàng:

      - Vì sao? Lẽ nào ông ta hiểu rằng, người dân đói khát cùng cực gây loạn ư? Nếu chuyện đó xảy ra có lợi gì cho ông ta?

      - Ông ta hiểu chứ.

      Chàng thở dài nặng nề, hai hàng lông mày xô lại, giọng buồn bã:

      - Thái thú Tửu Tuyền là Tống Hạo, Thái thú Nam Đô là Sách Phán, Thái thú Tây Bình là Khang Ninh và còn cả kẻ từng trốn chạy trước đây là Vương Mục, đều dấy binh làm phản. Lữ Quang xưng vương chưa đầy hai tháng mà quân phản loạn nổi dậy khắp nơi, ông ta muốn trữ lương thực dành cho đánh trận. Bộ lạc Thốc Phát, người Tiên Tì ở Hà Tây, bộ lạc Thư Cừ, người Hung Nô ở Lô Thủy dẫn theo mấy vạn bộ tộc đến xin hàng Lữ Quang, trong những điều kiện mà họ đưa ra là lương thực. Lữ Quang đồng ý cấp lương thực để vỗ về họ. Trong mắt ông ta, nạn dân đáng để quan tâm.

      Vẻ mặt chàng nhuốm màu u ám, khuôn ngực căng đầy nỗi bi phẫn.Với tính khí của chàng, chắc rằng trong buổi chầu hôm nay, lại căng thẳng với Lữ Quang. Tôi vừa nhàng mát-xa huyệt thái dương cho chàng, vừa rủ rỉ:

      - Lữ Quang chịu cấp lương thực chúng ta tự giải quyết vậy. Tạm thời hãy sử dụng tiền bạc mà chúng ta có để cứu trợ cho nạn dân, sau đó nghĩ cách thuyết phục các hộ giàu có trong thành quyên góp ủng hộ.

      Chàng gật đầu, quay lại nhìn tôi:

      - Ngày mai ta gắng thuyết phục văn võ bá quan trong triều.

      Chàng nắm tay tôi, ánh mắt rạng rỡ:

      - Ngải Tình, đừng để bất cứ nạn dân nào phải chết đói.

      Tôi sững sờ, điều này là thể. Nhưng mà...

      Tôi gắng gượng ngẩng đầu, trong lòng như có tảng đá đè lên.

      Sau khi dọn dẹp tinh tươm, ngôi miếu hoang trở thành điểm cứu đói lâm thời của tôi. Hàng ngày, Hô Diên Bình và Đoàn Sính Đình đều đến giúp tôi tay. Hô Diên Bình lo tổ chức đám thanh niên để đảm bảo nạn dân duy trì trật tự. ta từng làm quan, nên chỉ đạo đâu ra đấy. Mộ Dung Siêu ngày ngày bám rịt lấy tôi, giúp tôi chia thực phẩm cho đám đông nạn dân. Lúc rảnh rỗi, chú nhóc đòi tôi cho chơi trò oẳn tù tì hoặc kể chuyện Lưu Bang và Hạng Vũ. Bài hát “Ngủ ngoan, bé ” lại được dịp phát huy tác dụng.

      Tôi thấy mình rất có duyên với trẻ con, có lẽ vì tôi bao giờ áp đặt hoặc ra uy với chúng, tôi lại biết nhiều trò chơi mà chúng thích. Tuy mới ba tuổi, nhưng vì phải trải qua quá nhiều khổ nạn dọc đường lưu lạc, biểu cảm gương mặt của cậu nhóc nom già dặn hơn con trai Cầu Tư của Pusyseda rất nhiều. Nhưng dù sao nó vẫn chỉ là đứa trẻ, ham chơi, ham vui. Hô Diên Tĩnh hơn Mộ Dung Siêu khoảng năm tuổi, nhưng giống như tên gọi của mình, bé lúc nào cũng bẽn lẽn, trầm tính, ngày ngày lẳng lặng đứng nhìn tôi và Mộ Dung Siêu chơi đùa cùng nhau, rất ít khi tham gia.

      Thời gian đầu, mỗi ngày chúng tôi phát thực phẩm lần, mỗi nạn dân được nhận bánh bao. Mấy ngày sau, tôi mới nhận thấy cần phải tiết kiệm, thể tiếp tục tiêu tiền như nước, tôi quyết địnhh mua gạo kê và cao lương về nấu. Đoàn Sính Đình cùng vài chị em bắc bếp trong miếu hoang nấu cháo kê, cháo cao lương, bỏ thêm ít rau và muối trắng vào làm gia vị. Tuy ngon miệng nhưng có thể no bụng. Mục tiêu của tôi là để ai phải chết đói.

      Nhưng tôi lo lắng biết chúng tôi phải dùng tiền của mình để chống đỡ đến khi nào. Mùa đông đến gần, dân chạy nạn ngày đông, tính sơ sơ cũng phải hàng vạn người. Cũng may Rajiva thuyết phục được số quan chức quyên góp ủng hộ, tuy được nhiều, nhưng cũng giúp cầm cự được thời gian. Có điều, đến nay vẫn chưa có “Mạnh Thường Quân” tiền của dồi dào nào chịu đứng ra chống đỡ. Tôi nghĩ tới người. Sau khi bàn bạc với Rajiva, tôi xuất trước cổng dinh cơ bề thế nhất thành Guzang.

      tường nhà treo những bức tranh thuỷ mặc vẽ cảnh sơn thuỷ hữu tình, tấm bình phong độc đáo, bàn ghế chạm khắc tinh xảo, phòng khách được sắp đặt và trưng bày rất mực tinh tế, trang nhã, quả hổ danh là gia đình phú hộ số ở Lương Chân. Điều khiến tôi chú ý chính là bộ bàn ghế của gia đình này. Nếp sống của con người thời đại này cũng giống thời Hán, thường ngồi xếp bằng chiếu. Nhưng Lương Châu nằm ở mạn Tây Bắc của Trung Nguyên, chịu ảnh hưởng của văn hoá Tây vực, nên nơi đây bắt đầu lưu hành các đồ dùng có chân cao như bàn, ghế tựa, ghế băng.

      Tôi mải quan sát bằng con mắt nhà nghề người đàn ông trung niên dáng vẻ nho nhã bước vào, ánh mắt sắc bén quét qua tôi, lịch thiệp cúi chào:

      - Tại hạ chính là Lý Cảo, phu nhân đây hẳn là vợ của đại pháp sư lừng danh Tây vực – Kumarajiva? biết phu nhân tìm ta có việc gì?

      Giọng thâm trầm, trang phục kiểu cách, bộ ria tỉa tót khá cầu kỳ. Gương mặt sáng sủa, chính trực, cử chỉ lời nho nhã, lịch duyệt. Người đàn ông này cũng ở độ tuổi của Rajiava, cơ thể săn chắc vạm vỡ, có thể thấy, ta rất chăm chỉ tập luyện võ nghệ.

      - Thiếp tôi mời mà đến, xin Lý công tử thứ lỗi.

      Tôi cúi người chào hỏi, sau đó thẳng vào vấn đề:

      - Thiếp tôi đến đây để thương lượng với Lý công tử về việc cứu trợ nạn dân.

      ta trả lời ngay, mà mời tôi ngồi, rồi sai người hầu rót trà. ta từ tốn nhấp ngụm trà, rồi mới quay sang tôi, :

      - Nhiều ngày qua, pháp sư và phu nhân dốc toàn bộ của cải, tài sản, bỏ công lập ra điểm phát chẩn cứu đói, công đức của pháp sư lan truyền khắp nơi trong thành Guzang, tại hạ biết tiếng lâu, trong lòng muôn phần cảm phục. Tại hạ tài hèn sức mọn, nhưng cũng muốn tận tâm tận lực cứu giúp bà con nạn dân. Có điều, chỉ với mình sức lực của tại hạ chỉ như muối bỏ bể. Vả lại, vua Lương lo dẹp quân phản loạn, chẳng màng chuyện cứu đói cho dân, dù tại hạ có ra sức cống hiến, cũng chẳng ai biết đến mà tán thưởng...

      ta ngừng lại, nhấp thêm ngụm trà, vậy là tôi hiểu. Đối với ta, việc cứu đói này chẳng qua chỉ là cách bỏ vốn để kinh doanh lợi ích chính trị, ta là thương gia kiêm chính trị gia điển hình, luôn đặt tiền vốn và lợi nhuận lên bàn cân để đong đo, tính toán. Tôi mỉm cười, chậm rãi :

      - Nếu thiếp tôi nhớ nhầm, Lý công tử chính là hậu thế của Phi tướng quân Lý Quảng đời Hán, người mà dân Hung Nô chỉ nghe tiếng kinh hồn bạt vía?

      Tôi biết ta chỉ có vị tổ tiên lừng danh thiên cổ - Lý Quảng. Ông nội của ta từng là tướng quân, là hầu tước của Trương Quỹ, nhà Tiền Lương. Cha ta cũng rất nổi tiếng, tiếc là mất sớm, Lý Cảo mồ côi cha từ khi còn trong bụng mẹ. Nhưng cũng thể so sánh với hậu thế của ta. Bởi vì hậu thế nhà họ Lý, mấy trăm năm sau gây dựng nên triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc – nhà Đại Đường[1]. Nhắc đến tổ tiên, Lý Cảo ngăn nổi nụ cười tự hào:

      [1] Vua Lý Uyên, người lập ra triều đại nhà Đường vốn tự xưng là cháu đích tôn đời thứ 7 của Lý Cảo. Tuy nhiên giới học thuật đến nay vẫn chưa khẳng định được điều này.

      - Tại hạ chính là cháu đích tôn đời thứ mười sáu của Phi tướng quân Lý Quảng. Vào đầu đời Hán, tổ tiên ta nhận lệnh chinh phạt người Khương ở Lũng Tây, may tử trận. Con cháu cùng nhau kéo về Lũng Tây chịu tang và an táng người tại Lũng Tây. Sau đó, cả gia đình di cư đến đây, tính đến nay được hơn bốn trăm năm.

      Tôi gật đầu, tiếp lời:

      - Tướng quân Lý Quảng chinh chiến cả đời nhưng thoả nguyện, vì ngài được phong hầu. Sau cuộc bại trận năm sáu mươi, vì muốn phải chịu nỗi nhục xét xử, ngài tự vẫn, xót xa. Có điều...

      Tôi ngừng lại, ta trở nên hiếu kỳ, hai tay chắp lại:

      - Tại hạ xin được rửa tai lắng nghe ý kiến của phu nhân.

      - Thiếp tôi lời thẳng thắn, có phần mạo phạm, xin công tử bỏ quá cho!

      Tôi khẽ cúi người.

      Xét thấy ta có phản ứng gì gay gắt, tôi liền tiếp tục:

      - Tướng quân Lý Quảng lính như con, luôn gương mẫu đầu trong mọi trận đánh, khiến binh sĩ tâm phục mà xả thân vì ngài, uy danh của ngài lẫy lừng trong quân đội. Tiếc thay, ngài quá ư tự mãn, giỏi mưu lược, tuy ngài là bậc hùng, dũng mãnh, nhưng phải là vị chỉ huy tài ba. Ngài lại có khuyết điểm là lòng dạ hẹp hòi, thường lấy việc công trả thù riêng, ngài lại là người liều lĩnh, ưa mạo hiểm.tính cách ấy tuy có thể giúp ngài lập nên kỳ công, nhưng cũng dễ khiến ngài thảm bại. Và điều đáng trách nhất ở ngài là cố chấp, tuân theo mệnh lệnh, nên được lòng thượng cấp, đặc biệt ngài bị đại tướng quân Vệ Thanh và Hán Vũ Đế ghét bỏ. Lý Quảng được phong hầu phần vì số phận trêu ngươi, nhưng phần cũng do những sai lầm của bản thân ngài.

      Tôi vừa vừa quan sát. ta chứng như nhẫn nhịn nổi, mặt mày sa sầm, định lên tiếng, nhưng lại thôi. Nhấp thêm ngụm trà, chỉ lát, vẻ mặt ta trở lại trạng thái bình thường, khẽ gật đầu:

      - Phu nhân phân tích rất sâu sắc, tại hạ được mở mang rất nhiều!

      Tôi thầm thán phục con người này, ta quả nhiên là người làm nên nghiệp lớn, trầm tĩnh, sâu xa khó đoán, nhưng cũng rất thức thời, ứng xử đúng mực, khôn khéo. Sử sách mô tả ta là người văn võ song toàn, kết giao rộng rãi với những người nổi tiếng, tính tình hiền hoà, sâu sắc. Khi Lý Cảo còn rất trẻ, nhiều người khẳng định, ngày sau ta thành tài. Trong giai đoạn mà nhà Tiền Tần vẫn còn thống trị của Lữ Quang, Lý Cảo buộc phải ngậm ngùi chôn vùi tuổi thanh xuân trong suốt nhiều năm tháng bất đắc dĩ, đối với ta, chịu đựng đó hẳn rất đau khổ.

      - Lý công tử vì những lời ngoa ngôn của thiếp tôi mà nổi trận lôi đình, công tử quả là người đại lượng, chả trách danh tiếng của công tử nổi như cồn, chỉ tiếc là...

      Tôi liếc nhìn ta. Tôi thể hù doạ người có tham vọng và thận trọng như ta bằng những quẻ bói giống như với Đoàn Nghiệp. Nếu muốn ta tình nguyện rút tiền cứu trợ nạn dân, tôi phải phân tích thiệt hơn, phải thuyết phục ta bằng lí lẽ về hướng phát triển của lịch sử và tâm nguyện của người dân.

      - Chỉ tiếc điều gì vậy?

      ta nhướng mày, giọng vẫn giữ nguyên độ trầm tĩnh. Tôi mỉm cười, dõng dạc:

      - Cuộc đời bi kịch của tướng quân Lý Quảng khỏi khiến người ta ngậm ngùi tiếc nuối, nhưng Lý công tử hoàn toàn có thể rút kinh nghiệm từ bài học của người trước để chuẩn bị cho tương lai của mình. Công tử là người sáng suốt, giàu tham vọng lại giỏi mưu lược, nếu nhà Tiền Lương của họ Trương vẫn tồn tại, với xuất thân danh gia vọng tộc, chắc chắn công tử được phong hầu phong tước giống các bậc tiên tổ. Tiếc thay, họ Lữ kia thừa cơ nhà Tần đại loạn, chiếm lấy Lương Châu. Nhà họ Lý lại chưa từng có công lao gì với họ Lữ, nên cha con Lữ Quang đương nhiên xếp họ Lý vào hàng tâm phúc. Văn ôn võ luyện, mong thành tài để được giúp sức cho bậc đế vương, đó vốn là khát vọng của các đấng nam nhi. Có điều...

      Tôi cố ý ngừng lại, thong thả thưởng trà. Đến lúc này Lý Cảo dường như hết kiên nhẫn, đổ người về phía trước, giọng thành khẩn:

      - Xin phu nhân chỉ giáo!

      Tôi nhìn thẳng vào mắt ta, hạ thấp giọng:

      - Có điều, nếu bậc đế vương ấy tài hèn đức mọn, sớm muộn cũng làm mất lòng dân. Lữ Quang là kẻ đa nghi, bạo ngược, đám con cháu của ông ta lại càng ngỗ nghịch, hung hãn. Nếu công tử nuôi hy vọng ngày kia họ Lữ thu dụng nhân tài, e là công tử phải thất vọng. Công tử gần bốn mươi tuổi, tuy sở hữu khối tài sản khổng lồ, nhưng lại biết tận dụng thời kỳ loạn lạc này mà gây dựng cơ nghiệp, công tử thấy đáng tiếc hay sao?

      Ánh mắt ta lộ vẻ kinh ngạc, nhìn tôi trân trân, nhưng sắc mặt vẫn hề biến đổi. Tôi khẽ sáp lại gần ta, hạ thấp giọng hơn nữa:

      - Công tử cứu trợ nạn dân, cần chi tính toán chuyện có được tiếng tốt, lọt vào mắt xanh của ai đó . Quyên góp làm từ thiện chẳng phải là cách thu phục lòng dân, đặng phục vụ cho việc gây dựng nghiệp lớn sau này đó sao?

      Mười năm sau, Lý Cảo hưởng ứng cuộc nổi dậy chống lại Lữ Quang của Đoàn Nghiệp và Thư Cừ Mông Tốn, với mục đích tìm kiếm cơ hội. ta được Đoàn Nghiệp phong tước Thái thú Đôn Hoàng. Nhưng Đoàn Nghiệp tài mỏng, khống chế nổi Lý Cảo, để cho thế lực của họ Lý ở Đôn Hoàng ngày càng lớn mạnh. Và rồi vào năm 400 sau Công nguyên, Lý Cảo tự lập mình làm Lương công, sử gọi là nhà Tây Lương, trong mười sáu nước thời Thập lục quốc. Khi ấy Lý Cảo năm mươi tuổi.

      ta đứng phắt dậy, nhìn tôi trừng trừng, khuôn ngực phập phồng. Tôi nâng tách trà lên, nhấp ngụm, điềm tĩnh đón lấy ánh mắt khó đoán của ta:

      - Đây chỉ là nội dung câu chuyện phiếm của pháp sư và tôi, có chỗ nào phải, xin công tử bỏ quá cho!

      Lý Cảo nhìn tôi hồi lâu, trịnh trọng thi lễ:

      - Chả trách phu nhân có thể bỏ ngoài tai những định kiến của người đời, kết duyên cùng vị cao tăng. Trí tuệ và hiểu biết của pháp sư sâu sắc. Nơi này tai vách mạch rừng, nếu phu nhân tin tưởng tại hạ, xin mời theo tại hạ vào nhà trong bàn chuyện.

      Tôi hân hoan rời khỏi phủ họ Lý, thẳng tới điểm xuất phát cháo cứu đói. Nạn dân phần lớn đến từ Đôn Hoàng. Tửu Tuyền, chính là vùng đất mà ngày sau Lý Cảo cát cứ, xưng vương. Cha con Lữ Quang là những kẻ vô đạo, có bất cứ động thái nào cứu trợ nạn dân, sớm muộn cũng mất tín nhiệm của nhân dân. Lúc này dốc sức làm việc thiện dịp tốt để mua chuộc lòng dân, chuẩn bị cho cuộc phản loạn ngày sau. Lý Cảo hiểu điều này, nên tôi chỉ vài câu, ta gật đầu đồng ý cấp lương thực cứu trợ. Sau khi bàn bạc các công việc cụ thể liên quan đến việc phát chẩn, ta yên tâm giao phó toàn quyền cho tôi.

      bước hoan hỉ, bỗng tôi nghe thấy tiếng gọi từ phía sau:

      - Công chúa!

      Kể từ lúc đến Guzang, trừ những người cùng với chúng tôi, ai gọi tôi là công chúa. Quay đầu lại, tôi nhận ra Đỗ Tấn trong bộ áo giáp sắt, cùng toán tuỳ tùng rảo bước về phía mình. Có vẻ như ông ta lại chuẩn bị xuất chinh.

      - Tôi tìm công chúa, ngờ gặp được ở đây. Tôi mời công chúa tách trà được ?

      Đỗ Tấn lịch cúi chào tôi, bộ giáp sắt hắt lên những tia sáng lạnh sắc.

      Chúng tôi cùng bước vào quán trà. thời kỳ thiên tai, nên khách khứa vắng vẻ, chúng tôi chọn buồng dành cho thượng khách và ngồi xuống chiếc bàn kê cạnh cửa sổ. Bộ râu quai nón rậm rạp gương mặt thân thiện, giọng của Đỗ Tấn rất mực chân thành:

      - Được biết pháp sư và công chúa dốc toàn bộ tài sản cứu trợ thiên tai, tôi vô cùng khâm phục và lấy làm hổ thẹn.

      Tôi khiêm tốn đáp lời, trong lòng khỏi băn khoăn, vì sao Đỗ Tấn lại muốn gặp riêng tôi. Ông ta tươi cười đôn hậu, lấy ra túi đặt vào tay tôi:

      - Đây là chút lòng thành của tôi, mong rằng có thể giúp được pháp sư.

      Tôi nhanh nhẹn cảm tạ và đón lấy túi ngân lượng nặng trình trịch.

      - Còn đây là chìa khoá căn nhà mà tôi mua được ở khu phía Tây thành Guzang. Tuy rộng lắm, nhưng đồ đạc trong nhà đầy đủ cả.

      Ông ta rút ra chùm chìa khoá, đặt trước mặt tôi.

      - Tôi chuẩn bị lên đường chiến đấu, biết ngày nào trở về. Nếu pháp sư và công chúa chê, tôi xin giao căn nhà cho hai vị quản lý giùm.

      Tôi lấy làm khó hiểu, Lữ Quang buộc chúng tôi phải sống trong cung kia mà, vì sao ông ta lại tặng căn hộ cho chúng tôi?

      Như thể đọc thấy những băn khoăn trong mắt tôi, Đỗ Tấn thở dài:

      - Trong buổi chầu hôm nay, nhà vua ban lệnh phân phối lương thực cho trận đánh dẹp quân phản loạn lần này, viên quan phụ trách kho lương báo cáo rằng, trong kho vẫn còn lượng lương thực dư thừa. Pháp sư nghe vậy cầu nhà vua phát chẩn cứu trợ thiên tai. Nhưng nhà vua chịu, nên hai người xảy ra tranh chấp kịch liệt. Trong lúc tức giận, nhà vua đuổi pháp sư ra khỏi cung.

      Tôi hoảng hốt:

      - Pháp sư có sao ? Ngài bây giờ ở đâu?

      - Nhà vua nổi trận lôi đình, nhưng sau khi nghe lời khuyên giải của bá quan văn võ, ngài chỉ ra lệnh cho pháp sư dọn ra khỏi cung, từ nay được can dự việc triều chính nữa. Có lẽ lúc này pháp sư quay về nơi ở để thu dọn đồ đạc.

      Tôi thở phào, nhìn chùm chìa khoá đặt bàn, do dự.

      Đỗ Tấn chắp tay cung kính, giọng thành khẩn:

      - Đỗ Tấn được pháp sư và phu nhân giúp đỡ nhiều lần, từ lâu muốn được báo đáp. Nhưng nếu giao chìa khóa trực tiếp cho pháp sư, với tính cách của ngài, e là ngài chịu nhận, nên tôi đành đến tìm công chúa.

      Ông ta đẩy chùm chìa khoá về gần phía tôi hơn nữa, chòm râu rung rung:

      - Phật pháp ở Guzang mấy phát triển, trong thành chỉ có vài ngôi miếu . Với thân phận cao quý như pháp sư, thể sống ở những nơi như vậy. Tiền bạc của hai vị, xin hãy dành để cứu trợ cho nạn dân.

      Ngẫm nghĩ lát, tôi nhận lấy chùm chìa khoá, quên bày tỏ lòng biết ơn. Đỗ Tấn đúng, với tính cách cao ngạo của mình, Rajiva chịu nhận món quà này. Nhưng chúng tôi phải dành tiền để làm việc quan trọng khác, thể bỏ ra khoản lớn để mua nhà được.

      Hôm đó, sau khi gặp Đỗ Tấn, tôi đến thẳng điểm phát chẩn, giao việc cho Hô Diên Bình và Đoàn Sính Đình, đồng thời thông báo với họ tôi tìm được nguồn tài trợ dồi dào, ngày mai có nhiều lương thực cho nạn dân. Sau đó tôi vội vã trở về.

      Rajiva thu dọn hành lý, y phục được trút từ tủ quần áo xuống và bày la liệt giường. Chàng chau mày căng thẳng, chắc là suy nghĩ điều gì lung lắm. Những bộ áo quần gấp lần, lại tháo tung ra, cứ thế hồi lâu mà vẫn món nào ra món nào. Tôi bước tới, đỡ việc thay chàng. Chàng quen làm việc nhà, để chàng đụng vào, chỉ càng thêm rối.

      Tôi kể qua loa với chàng về căn nhà mà Đỗ Tấn giao cho chúng tôi, và rằng, chỉ cần mang theo đồ dùng thiết yếu là chúng tôi có thể dọn đến đó ở được. Tôi vừa thu dọn, vừa động viên chàng, rời khỏi hoàng cung cũng là chuyện đáng mừng. Lữ Quang phải lo đối phó với quân phản loạn, có thời giờ để mắt đến chàng nữa, chàng có thể tự do làm những việc chàng thích.

      Chờ khi tôi sắp xếp mọi thứ ổn thoả, tâm trạng chàng cũng khá hơn, sắc mặt tươi tắn hơn nhiều. Chúng tôi ra khỏi cung, ngồi lên chiếc ngựa mà Đỗ Tấn chuẩn bị sẵn, lên đường đến nhà mới của chúng tôi.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 68: sống mong manh

      Chỗ ở mới của chúng tôi là căn hộ quá rộng gồm hai dãy nhà, mỗi dãy có bốn gian và phòng khách ở giữa có năm cửa chia về năm hướng. Nếu chỉ hai chúng tôi sống ở đây quá ư rộng rãi. Đồ đạc trong nhà đều được sắm sửa đầy đủ, cho thấy Đỗ Tấn tận tình nhường nào. Nhờ ông ấy mà chúng tôi có ngay nơi ở mới, phải vất vả tìm nhà trọ nữa.

      Tôi và Rajiva bàn bạc và thống nhất đón cả gia đình Mộ Dung Siêu về đây ở cùng. Hô Diên Bình là người đàn ông chí tình chí nghĩa, cảm kích trước lòng tốt của chúng tôi, ta nhận cáng đáng mọi công việc vất vả trong nhà. Công Tôn Thị lo việc cơm nước và giặt giũ. Hằng ngày, Hô Diên Bình và Đoàn Sính Đình cùng tôi nấu cháo kê và cháo cao lương phát cho nạn dân. Buổi tối, lúc rảnh rỗi tôi dạy Mộ Dung Siêu và Hô Diên Tĩnh học bài. Cả nhà họ vẫn giấu giếm thân phận thực , nhưng tôi truy xét.

      Còn Rajiva, bây giờ phải theo hầu Lữ Quang nữa nên hàng ngày, chàng cùng tôi đến điểm tập trung nạn dân, khám bệnh và thuyết giảng kinh Phật cho họ. Con người gặp lúc thiên tai địch hoạ, trải bao cay đắng tủi cực, mang trong lòng nỗi tuyệt vọng với cuộc đời tại, nên họ rất dễ tiếp nhận Phật giáo, vì họ gửi gắm niềm hi vọng vào kiếp sau. Tín đồ của Rajiva ngày đông. Và chàng dường như cũng thoải mái với cuộc sống này hơn, vì từ nay chàng có thể truyền bá đạo Phật cho dân chúng. Ngày nào cũng bận rộn, nhưng gương mặt chàng luôn rạng rỡ, còn vẻ ủ dột, u tối như thời gian trước nữa.

      Hô Diên Bình mình sống trong nhà kho, ta ít , chỉ lặng lẽ chăm sóc và bảo vệ cả nhà Mộ Dung Siêu. Thi thoảng mới bắt gặp ánh mắt âu yếm của ta dành cho Đoàn Sính Đình. Tôi tin rằng Sính Đình cũng có tình cảm với Hô Diên Bình. Nhưng giữa họ là ngăn trở về thân phận, nên đành kìm nén tình cảm. Nhiều lần muốn tác thành cho họ, nhưng tôi biết phải mở lời ra sao. có tài liệu nào ghi chép về việc Đoàn Thị tái giá. Có lẽ họ kìm nén tình cảm của mình suốt đời. Tôi thầm thanh thở, trong thời loạn lạc này, đảm bảo sinh tồn còn quan trọng hơn cả tình .

      Giữa tháng mười , hai mươi tư nhà sư Khâu Từ mặt mũi lem nhem bụi cát tìm đến nơi ở của chúng tôi. Họ bất chấp hiểm nguy, vượt qua sa mạc, suốt nửa năm trời để đến được đất Guzang này, tìm gặp sư phụ Kumarajiva của họ. Rajiva gặp lại họ trong nỗi xúc động dâng trào, nước mắt lưng tròng. Ngay cả tôi, cũng cảm động sâu sắc trước ý chí và quyết tâm của các nhà sư này.

      Đệ tữ của Rajiva mang đến rất nhiều vật phẩm khiến chúng tôi ngạc nhiên. Ngoài ngân lượng, quần áo mới, còn có cả đặc sản của Khâu Từ, tất cả đều do Pusyseda chuẩn bị. ra chính Pusyseda tài trợ toàn bộ kinh phí cho họ. Ngoài tiền bạc, chúng tôi còn nhận được hai bức thư. của Pusyseda, cậu ấy báo tin gia đình ở Khâu Từ đều bình an, Cầu Tư, Vĩnh Tư ngoan ngoãn, đáng . Cậu ấy căn dặn chúng tôi giữ gìn sức khoẻ, nếu có dịp, hãy về thăm quê hương. bức thư khác là của người thầy và cũng là người bạn Buddhayassa của Rajiva viết. Thuở thiếu thời, Rajiva từng theo học giáo lý Đại Thừa từ người thầy này ở Salaq. Buddhayasa biết chuyện Rajiva phá giới, kết hôn, nên bày tỏ niềm nuối tiếc vô hạn, nhưng khiển trách chàng nghiêm khắc. Được thầy thấu hiểu, Rajiva vô cùng cảm kích.

      Guzang có chùa chiền đúng nghĩa, thời điểm này chúng tôi cũng dư dả để tìm chỗ ở khác cho họ. Bởi vậy nhà chúng tôi, trong lúc có thêm hai mươi tư thành viên mới. Đôi khi, tôi cảm thấy rất kỳ lạ về gia đình này. Từ góc độ xuất thân, chúng tôi có nhà sư, vợ nhà sư, còn có cả quốc vương, hoàng hậu và thái hậu tương lai nữa. Tất cả họp lại thành gia đình kỳ lạ và công việc hàng ngày của đại gia đình đó là đến khu vực tập trung đông dân chạy nạn. Giờ đây, Rajiva có thể giao việc giảng kinh thuyết đạo cho các đệ tử, chàng chịu trách nhiệm phần việc khác: khám chữa bệnh.

      Theo như tài liệu tôi đọc được, giá cả lương thực còn tiếp tục tăng cao. Bởi vậy, tôi thuyết phục Lý Cảo, xuất tiền mua lương thực tích trữ. Riêng tôi, bỏ ra phần lớn số tiền mà chúng tôi có để mua hai trăm đấu cao lương, trăm đấu gạo kê và năm mươi đấu tiểu mạch, chất đầy gian nhà kho. Tôi cứ nghĩ, với trợ giúp của Lý Cảo và chuẩn bị của chúng tôi, việc cứu tế được duy trì trong thời gian. Nào ngờ, tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi mùa đông đến.

      Cuối tháng mười , trời bỗng chuyển rét đột ngột, gió lạnh căm căm, tuyết ào ạt đổ xuống như trút. Nạn dân ngày đông. Vùng Nam Quận, Tây Bình vốn chịu thiên tai nghiêm trọng, nhưng vì Lữ Quang tiến đánh quân phản loạn do hai Thái thú nhà Tiền Tần cầm đầu, nên người dân ở hai vùng này ồ ạt chạy đến Guzang lánh nạn. Hàng ngày có khoảng bảy, tám vạn con người nước da vàng vọt đứng xếp hàng trước điểm phát cháo của chúng tôi. Tuyết trắng rơi vai, chờ đến lượt mình được phát đồ ăn, ai nấy đều biến thành người tuyết, những cánh tay phủ đầy vết lở loét do giá rét gây nên, lẩy bẩy chìa ra. Liên tục có người ngã xuống trong lúc xếp hàng và bao giờ đứng lên được nữa. Rajiva muốn nạn dân nào chết đói. Nhưng chỉ e là họ chưa chết đói nhưng bị chết rét rồi.

      Tôi thuyết phục Lý Cảo quyên tặng nghìn bộ áo bông, nhưng chỉ đủ chia cho những người già cả, bệnh tật. Chúng tôi cũng bỏ tiền ra mua thêm vài trăm bộ nữa, song hàng ngày vẫn có những chiếc xe ba gác chở những xác người chết cóng ra ngoại thành. Lương thực dự trữ cạn kiệt nhanh chóng. Mỗi ngày, sau khi phát hết cháo, vẫn còn hàng dài nạn dân nhìn chúng tôi trân trối. Nồi cháo cứu đói ngày loãng, vậy mà vẫn đủ để chia cho mỗi người bát. Tôi mua thêm gạo và phải chịu mức giá cao gấp đôi lúc trước.

      Lý Cảo là người bỏ ra khoản tiền quyên góp nhiều nhất. Mặc dù nồi cháo của chúng tôi đủ chia cho tất cả mọi người, nhưng tôi thể cầu ta mua thêm gạo. Rajiva cầu tôi bổ sung lương thực cứu trợ bằng chính nguồn lương thực dự trữ dành cho nhà chúng tôi. Bởi vậy, gạo trong nhà kho của chúng tôi cũng nhanh chóng vơi dần. Tình cảnh của chúng tôi cũng lấy gì làm khá hơn. Bởi vì chúng tôi có bất cứ nguồn thu nhập nào, trong khi hàng ngày lại phải lo ăn từng bữa cho cả núi người. Khoản tiền Pusyseda gửi cho chúng tôi thể đủ để duy trì cả đại gia đình như thế này. Tôi là người quản lý về tài chính, nên nỗi trăn trở mỗi ngày của tôi là đến khi nào chúng tôi phải rao bán đồ đạc để mua lương thực?

      Rajiva hầu như có bất cứ ý niệm nào về tiền bạc, vì theo giới luật, chàng được mang tiền trong người, bất kể đưa cho chàng bao nhiêu, chàng cũng tiêu hết sạch. Nếu bố thí cho ăn mày dùng để mua sách. Nhiều năm sống cuộc đời thượng lưu hình thành nên căn bệnh quý tộc điển hình ở chàng. Đơn cử như việc ăn uống chẳng hạn, “cơm càng trắng tinh càng thích, thịt thái càng càng ngon”[1], chàng thích màu sắc tinh tế. Tuy chàng ra, nhưng tôi biết chàng thích cháo cao lương. Thực ra, có ai thích ăn đâu! Cháo kê còn có chút hương thơm, cháo cao lương có vị chát và rất khó nuốt.

      [1] Sách “Luận ngữ”, thiên 10 “Hương Đằng” - Khổng Tử.

      Tôi là người Giang Nam, từ quen ăn lúa gạo. Sống ở Khâu Từ lâu ngày cũng làm quen được với bột mì. Đến Guzang, lần đầu tiên nếm thử cao lương, tôi mới biết cao lương khó ăn thế nào. Hơn nữa, ăn bánh cao lương hấp đễ khiến bụng phình ra. Nhưng cao lương lại có khả năng chịu khô hạn tốt. Vào đợt hạn hán mùa hè, khi mà lúa mì lúa mạch đều cháy khô, chỉ còn cao lương là cho thu hoạch, nên giá cao lương rẻ nhất. Chúng tôi chủ yếu cứu trợ nạn dân bằng cao lương và gạo kê. Còn riêng với đại gia đình chúng tôi, Công Tôn Thị và Đoàn Sính Đình làm sẵn bánh bột mì rán, bánh bao và bánh nướng, mang tới điểm phát chẩn cho chúng tôi ăn. Tôi vĩ đại đến mức, nạn dân ăn gì chúng tôi ăn nấy. Điều kiện kinh tế tại của chúng tôi, kể cả chắt bóp tiết kiệm cũng chưa đến mức phải như vậy.

      Về khoản phục trang Rajiva rất thoải mái, bởi vì trang phục của chàng luôn luôn là áo cà sa, nếu có khéo vá vài ba chỗ chàng vẫn chịu mặc. Tuy nhiên chàng cầu phải phẳng phiu, gọn ghẽ, căn bệnh ưa sạch của chàng đôi lúc hơi thái quá. Những ngày qua bận rộn giữa đám đông nạn dân, chàng tỏ ra ngần ngại, nhưng mỗi khi về tới nhà, chàng lập tức trút bỏ y phục, và ngày hôm sau, chàng mặc bộ quần áo sạch , thơm tho khác.

      Nhưng Rajiva có khoản chi tiêu tốn kém khác: mua sách. Khi tới đây, chàng chỉ mang theo những cuốn quan trọng trong kho tài liệu thư tịch của chàng ở Khâu Từ, nhưng chỉ thế thôi, số sách ấy cũng là hành lý nặng nhất của chúng tôi đường . Đến Guzang, thư tịch, tài liệu tiếng Hán bày bán khắp nơi, chàng ra sức tiếp nhận nguồn văn hoá Hán dồi dào như thể bọt biển thấm nước. Đọc sách trở thành sở thích lớn nhất của chàng lúc rảnh rỗi. Đọc sách giúp gây dựng nên nền tảng văn hoá và ngôn ngữ Hán cho công việc dịch thuật kinh Phật của chàng ngày sau, bởi vậy lúc đầu tôi hề có ý định hạn chế chàng mua sách. Nhưng phương pháp in chữ rời bằng hợp kim chưa ra đời, giấy in lại đắt đỏ, nên vào thời đại này, sách vở, thư tịch đắt hơn vật dụng hàng ngày hàng mấy chục lần. Rajiva có thói quen là khi thấy ưng ý cuốn sách nào, chàng mua ngay mà quan tâm đến giá cả, tôi luôn là người ngậm ngùi dốc hầu bao ra thanh toán.

      Người đàn ông này chỉ giỏi làm lãnh tụ tinh thần, chàng hoàn toàn hiểu những thứ liên quan đến đồng tiền bát gạo. Cũng may, ngay từ khi còn ở Khâu Từ, tôi ý thức được rằng cần phải rèn luyện bản thân để thích nghi với đời sống cổ đại, nên khi lâm vào hoàn cảnh khó khăn như nay, tôi cũng đến mức bế tắc.

      Bước sang tháng mười hai, số lượng nạn dân tăng vọt lên con số khổng lồ hơn trăm nghìn người, đúng bằng dân số thành Guzang. Guzang lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế nghiệm trọng, mọi thứ đều trượt giá, ngoại trừ lương thực. Nhiều người phải treo biển rao bán tài sản, nhưng đến cuối ngày vẫn đủ tiền để đong đấu gạo.

      Cây cối ngọn núi bên ngoài thành Guzang, nơi tập trung đông nạn dân đều bị vặt trụi lá, các loại cỏ dại tuyết phủ trắng xoá đều bị nhổ trụi gốc. Gốc cao lương, gốc rạ, gốc lúa mạch, thậm chí cả chăn bông đều trở thành lương thực cứu mạng. Nạn dân giã những thứ đó, đổ nước vào ninh cả ngày trời, cốt để lắng chút tinh bột. Ngày nào cũng có người trúng độc vì ăn phải cây cỏ có độc. Và thường là đa số khi biết tin, Rajiva lập tức đến cứu chữa, nhưng đa số người bệnh sùi bọt mép, mặt mày tái dại, biến dạng và tử vong.

      Trong số họ có người bắt đầu bị bệnh phù thũng, chỉ ấn là chất dịch màu vàng chảy ra, lại lắc lư khó khăn. Có người đói quá, ăn cám, ăn đất sét trắng bị táo bón, người gầy da bọc xương, nhưng vác cái bụng ỏng to tướng. Tôi tận mắt chứng kiến cảnh họ lột bỏ quần áo, chổng mông lên giời, giúp nhau đào phân bằng cành cây, máu chảy ròng ròng. Người bị đào kêu la, rên rỉ, dù tôi có chạy bao xa, những tiếng kêu thảm thiết ấy vẫn văng vẳng bên tai, ám ảnh tôi.

      Cuộc chiến chống quân phản loạn của Lữ Quang thuận lợi, phố xuất những cáo thị kêu gọi tòng quân, độ tuổi từ mười lăm đến năm mươi. Cáo thị nêu , gia nhập quân đội được ăn no mặc ấm. Chỉ mấy chữ ấy thôi, khiến hầu hết nam giới trong đám đông nạn dân, dù chỉ còn chút sức mỏng cũng đăng ký xung quân. Họ xếp thành hàng dài trước lầu trống.

      Tôi, Rajiva, Hô Diên Bình, Đoàn Sính Đình cùng hơn hai mươi đệ tử của Rajiva ngang qua lầu trống. Con trai thứ của Lữ Quang là Lữ Hoằng phụ trách thu dụng binh sĩ, nhìn thấy chúng tôi, ta ngoảnh mặt làm ngơ. Tôi lấy làm bực mình, để xem ngươi đắc ý được bao lâu! Sau khi Lữ Soạn hại chết Lữ Thiệu, cũng muốn xưng vương xưng bá, nhưng bị Lữ Soạn đánh bại và giết chết. Con cháu của Lữ Quang, ngoài việc tàn sát lẫn nhau chẳng kẻ nào có tài cán gì!

      - Thưa quan, xin hãy cho con bánh bao, con xung quân cũng chỉ vì muốn đổi bánh bao cho mẹ con thôi.

      Giọng khàn khàn vỡ tiếng thu hút chú ý của chúng tôi. Mặt búng ra hơi sữa, chú bé này nhiều nhất cũng chỉ mười ba tuổi, vẫn còn chảy nước mũi, hai má tím tái vì cóng, chân chú xỏ đôi giày rách bươm, ngón chân thò cả ra ngoài, két bẩn đen sì, nhìn đầu ngón chân đâu nữa.

      - Khi nào vào doanh trại mới phát bánh bao, bây giờ chưa có.

      Viên quan nọ mải ghi chép danh sách, gắt lên.

      - Vậy phải đợi đến khi nào?

      - Nhiều chuyện, có đăng ký bảo? Người tiếp theo!

      - Con có, con có ạ.

      Chú bé ấn ngón tay cái chấm mực lên tờ giấy. mạng người được bán rẻ như vậy đó! Chú bé vẫn còn là trẻ con kia mà!

      - Thuận ơi, đừng xung quân con ơi, con mới mười ba tuổi thôi mà.

      người phụ nữ lảo đảo chạy đến, vừa kéo tay chú bé vừa gào khóc.

      - Thưa quan, con mười lăm tuổi rồi, mẹ con muốn con nên mới vậy.

      Chú bé vội vàng giải thích khi thấy viên quan chau mày lại. Mấy tên lính xô lại, kéo tay người mẹ ra và dẫn chú bé về hướng doanh trại.

      Chú bé quay đầu, gào lên gọi mẹ:

      - Mẹ ơi, lát nữa được phát bánh bao, con mang về cho mẹ.

      Chứng kiến cảnh tượng đáng thương ấy, ai mủi lòng. Chú bé ngây thơ quá, vào doanh trại quân đội, em làm sao có thể ra ngoài được nữa. Tôi quay sang Rajiva, thấy chàng đưa tay vào trong ngực áo lần tìm, nhưng còn gì cả, chàng ghé vào tai tôi:

      - Nàng còn tiền ?

      Tôi gật đầu, rút ra vài đồng, bước đến bên người mẹ vẫn thôi than khóc, đưa tiền cho chị. Chị ta ngẩng đầu, khuôn mặt lấm lem nhìn màu da nữa. Chị nhận tiền mà quỳ sụp xuống trước mặt Rajiva:

      - Tôi cần tiền! Pháp sư, làm ơn tụng kinh cầu cho con trai tôi được bình an trở về.

      Rajiva cảm động, muốn đỡ người phụ nữ lên, tôi vội kéo chị ta dậy.

      - Pháp sư, xin hãy tụng kinh cầu cho con trai tôi nữa.

      - Pháp sư, cả cháu nữa, cháu là trẻ mồ côi, xin hãy tụng kinh cho cháu.

      - Pháp sư...

      Những tiếng nghẹn ngào thống thiết lan khắp hàng ngũ, Rajiva đưa mắt nhìn khắp lượt, hàng nghìn con người áo quần rách nát, chỉ vì bữa ăn no, họ sẵn sàng rời bỏ người thân, lao mình ra nơi chiến trường sống chết khôn lường. Khoé môi Rajiva run run, ánh mắt chàng ngập nỗi bi thương vô hạn. Chàng quay đầu căn dặn đệ tử vài câu, các đệ tử của ngài liền đến bên những người dân gặp nạn, tụng kinh cầu an cho họ. Hầu hết mọi người trong hàng ngũ đều chắp tay, nhắm mắt, cung kính đón nhận lời ban phúc của Phật tổ.

      Những bông tuyết lớn bắt đầu đổ xuống ào ạt xen lẫn giữa tiếng tụng niệm rì rầm, tiếng nức nở than khóc, những trang giấy tiếp tục được đóng dấu đỏ và chồng lên chất ngất bàn đăng ký.

      Đêm đó, Rajiva trằn trọc mãi ngủ được, sắc trắng thê lương của tuyết lạnh ngoài trời đông hắt qua cửa sổ, dội lên thần sắc u buồn thăm thẳm của chàng.

      - Ngải Tình, chúng sinh sống trong cuộc đời này phải chịu bao khổ nạn, mà ta bất tài vô dụng, ngăn được thiên tai, càng chặn nổi địch hoạ. Vậy ta có thể làm gì để giúp họ?

      Tâm trạng của tôi lúc này cũng nặng nề kém chàng. Tôi lặng lẽ khoác áo bông cho chàng, nắm lấy tay chàng và dựa vào vai chàng

      - Chàng có thể làm được rất nhiều việc. Phật giáo vốn được sinh ra trong khổ nạn. Đức Phật thấu tỏ cuộc đời này chỉ toàn khổ đau, nên khai sáng ra Phật giáo. Đó là niềm an ủi của chúng sinh trong khổ nạn và là ước vọng về tương lai tốt đẹp hơn. nhà triết học phương Tây từng rằng: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức là trái tim của thế giới có trái tim”.[2]

      [2] Câu của Kart Marx.

      Xoay người lại, đối diện với chàng, tôi nắm chặt bàn tay chàng:

      - Rajiva, hãy làm những gì chàng có thể làm để an ủi tâm linh những con người khốn khổ ấy. Có thể họ sao thoát khỏi số mệnh phải chết đói chết cóng, nhưng chí ít, hãy giúp họ nuôi dưỡng niềm tin vào kiếp sau, để họ được yên lòng khi nhắm mắt xuôi tay.

      Chàng quay đầu nhìn tôi. Chúng tôi đốt tiền để tiết kiệm tiền, màu trắng của tuyết phản chiếu vẻ bi ai trầm lặng trong vòm mắt sâu hun hút của chàng. Kéo tôi vào lòng, chàng khe khẽ gọi tên tôi. Tôi để mặc nước mắt mình thấm đẫm ngực áo chàng. Những cảnh tượng mà tôi phải chứng kiến nhiều ngày qua, đối với tôi, , mãi là những vết thương trong tâm hồn.

      Kế hoạch chiêu dụng binh sĩ của Lữ Hoằng kết thúc sau năm ngày, tổng số binh sĩ xung quân khoảng hơn ba mươi nghìn người. Ngoài người già, người bệnh, tôi còn thấy bóng dáng của thanh niên trong đám đông dân chúng bị thiên tai nữa. Ba ngày sau, Lữ Hoằng dẫn theo đoàn quân mới, cùng rất nhiều lương thực, lên đường viện trợ cho Lữ Quang. Trước giờ hành quân, Rajiva cùng các đệ tử đến tiễn biệt và cầu phúc cho họ. Dù sao các nạn dân xung quân được mặc áo bông, họ thắt sợi dây ngang eo, lưng áo in đậm chữ “lính”. Những đôi tay mưng mủ nắm chặt cung, khiên, ánh mắt thẫn thờ. Họ phải lấy mạng những người xa lạ chỉ vì cái bánh bao. Thậm chí, trong hỗn loạn của chiến tranh, kẻ địch mà họ phải đối đầu rất có thể là người thân của họ.

      Ngày hôm đó, khắp thành Guzang đều vang lên tiếng khóc thương ai oán, người ta ngửa mặt lên trời kêu than, mặc cho gió tuyết lộng hành. Tôi chợt nhớ bài dân ca “Hẻm núi chia cắt” thời Bắc triều, miêu tả thảm cảnh em nhà chém giết lẫn nhau:

      ở trong thành, em ở ngoài thành Cung dây, tên móc, giặc đói hoành hành, làm sao sống?

      Đến cứu , đến cứu em!”

      Nếu có cuộc thí nghiệm vượt thời gian này, tôi mãi mãi thể thấu hiểu thế nào là mong manh của mạng sống con người.

      Những ngày tháng bận rộn cứ thế trôi qua, và lần đầu tiên trong đời, chân tay tôi xuất vết lở loét do giá lạnh, vừa buốt vừa ngứa, bôi bao nhiêu gừng cũng ăn thua. Nhưng điều này cũng thấm tháp vào đâu so với tin dữ chúng tôi nhận được.

      Theo tài liệu tôi đọc được, giữa tháng mười hai lịch, giá lương thực lên đến đỉnh điểm năm trăm quan tiền đấu gạo, đó là mức giá lương thực cao nhất trong giai đoạn lịch sử này. Lý Cảo mặt ủ mày chau thông báo với chúng tôi rằng ta thể chống chịu thêm được nữa.Toàn bộ sản nghiệp của ta, từ nhà trọ, quán ăn, tiệm thuốc đều bị đình trệ. Nông dân bỏ ruộng vười tha hương cầu thực, nên ta cũng thu được điền tô. Đây là khoảng thời gian tồi tệ nhất của ta từ xưa đến nay. Phần lương thực còn lại trong kho, ta phải dành để nuôi sống đại gia đình họ Lý qua mùa đông giá lạnh này.

      Thông tin này tựa như tiếng sấm bên tai. Mất ủng hộ của Lý Cảo, chúng tôi còn có thể duy trì đến khi nào? Tôi và Rajiva hết lời cầu cạnh, nhưng ăn thua. ta áy náy trả lời rằng: chỉ vì bất đắc dĩ mới phải làm vậy, và rằng ngoài việc cứu đói, ta sẵn sàng giúp đỡ.

      Tối hôm đó, Rajiva lặng lẽ thu dọn đồ đạc, chàng lọc ra số thư tịch, trang phục dùng đến và tất cả những gì có thể bán được, giao cho tôi. Chàng nhìn tôi mỉm cười, giọng chắc nịch:

      - Ngải Tình, ta mua sách nữa, cũng cần mỗi ngày thay bộ y phục, càng cần cứ cách hơn mười ngày phải có bữa mặn nữa. Người dân vùng thiên tai ăn gì ta ăn nấy. Thứ gì có thể tiết kiệm, ta ra sức tiết kiệm, dù phải khuynh gia bại sản, ta cũng cứu trợ nạn dân.

      Tôi thất kinh, số sách tay rơi xuống đất.

      - Rajiva, trừ những người xung quân, những nạn dân còn lại cũng phải bảy mươi, tám mươi nghìn người. Chỉ dựa vào số lương thực dự trữ của chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ có thể duy trì hai đến ba ngày, sau đó, chúng ta phải làm sao?

      Chàng lẳng lặng nhặt mấy cuốn sách đặt lên bàn, hướng ánh mắt đăm chiêu vào ngọn đèn dầu bập bùng, ánh sáng hiu hắt rọi gương mặt buồn thảm, bất lực của chàng. Tôi biết chàng đành lòng, nhưng tôi buộc phải .

      Tôi nhàng kéo cánh tay chàng, lựa lời khuyên nhủ:

      - Rajiva, từ bỏ , chúng ta cố hết sức rồi. Chúng ta phải dựa vào số lương thực này để sống qua mùa đông...

      - được!

      Chàng ngắt lời tôi, từ ánh mắt trong veo ấy hắt ra thứ ánh sáng lạ thường của quyết tâm cố gắng đến cùng:

      - Chúng ta hãy rao bán đồ đạc. Ta đến nhà từng vị quan để kêu gọi quyên góp. Chưa đến bước đường cùng, ta quyết từ bỏ.

      Chợt nhớ đến mấy câu mô tả ngắn ngủi trong sách “Tấn thư”, tôi thấy lòng buồn vô hạn:

      - Nhưng, trận đói này, vốn dĩ...

      - Ngày mai, ta gặp Lữ Thiệu.

      Chàng để tâm những lời tôi , mắt chàng rực lửa, dưới ngọn đèn dầu vàng vọt, cả con người ấy toát lên thần thái kỳ lạ. Trong khoảnh khắc này, chàng giống hệt pho tượng Phật tổ từ bi, thánh thiện, là nguồn sáng duy nhất giữa màn đêm tăm tối.

      Tôi đặt tay chàng lên ngực mình, nhìn sâu vào đôi mắt trong suốt như dòng suối ấy, hít hơi sâu:

      - Vâng, đó là lựa chọn của chàng. Em là vợ chàng, em nguyện cùng chàng đồng cam cộng khổ.

      Chàng vuốt ve gương mặt tôi, đặt nụ hôn nồng ấm lên má tôi:

      - Ngải Tình, nàng gầy nhiều...

      Chàng vén tóc tôi sang bên, đáy mắt long lanh. Giọng chàng nghẹn ngào:

      - Thời đại của nàng mới tốt đẹp làm sao, có thiên tai, có những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Nhưng nàng chọn đến bên ta, cùng ta chịu khổ...

      Tôi ra lắc đầu, nỗi xúc động trào dâng, tôi ngả vào ngực chàng, bật khóc. Đúng là tôi chưa bao giờ phải chịu kham khổ như thế này, tôi đến từ thế kỷ XXI và quen với cuộc sống hoà bình, ổn định, vật chất dồi dào. Nhưng, thời đại của tôi phải có những khổ nạn này. Nạn đói ở châu Phi, chiến ở Trung Đông, những cuộc chiến sắc tộc đẫm máu. Chỉ có điều, chúng ở cách tôi rất xa, và nhiều nhất tôi cũng chỉ có thể phát biểu đôi ba câu bình luận xuýt xoa mà thôi. trở về thời kỳ Thập lục quốc của hơn nghìn năm trước, làm sao tôi tưởng tượng được, sau ba ngày nữa, tôi cũng bắt đầu phải chịu cảnh đói khổ.

      Nhưng tôi khóc vì sợ hãi những ngày thiếu đói sắp tới, cũng khóc vì ngày ngày phải chứng kiến cảnh tượng chết chóc la liệt, mà bởi vì tôi biết kết cục của trận đói này. Nhiều lần tôi muốn với chàng, nhưng sao mở lời được. Những ghi chép thê thảm ấy, nên để chàng biết sớm. Tôi chịu đựng nó mình, làm theo tâm nguyện của chàng, dốc sức ủng hộ chàng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 69: Doanh trại nạn dân

      Hôm sau, Rajiva đứng bên ngoài cửa cung chờ đợi suốt ngày. Lữ Thiệu, khi ấy là Thế tử, được Lữ Quang giao nhiệm vụ cai quản Guzang, xuất đầu lộ diện. Vì đứng quá lâu trong tuyết, bàn chân Rajiva xuất vệt lở loét dài do lạnh cóng. Buổi tối, phải ngâm chân trong nước nóng, vừa ngứa vừa xót, đổ cả mồ hôi. Tôi bôi gừng cho chàng mà lòng xót xa, nhưng chàng vẫn gượng cười, với tôi rằng chàng sao.

      Như thường lệ, hôm đó chúng tôi về hướng cổng thành phía Nam để đến quả đồi ngoài thành Guzang, nơi tập trung đông dân chạy nạn nhất. Hô Diên Bình và các đệ tử của Rajiva khoác lên vai hơn chục tải lương thực. Sau hôm nay, Rajiva khoác lên vai hơn chục tải lương thực. Sau hôm nay, chúng tôi tiếp tục cứu đói được nữa. Trong nhà kho chỉ còn năm tải gạo kê, là những tải lương thực cuối cùng mà tôi phải tranh đấu với Rajiva để giữ lại.

      Chúng tôi đến cổng thành và khỏi ngạc nhiên khi thấy cánh cổng đóng chặt, hàng trăm binh lính tuần, cổng dán cáo thị, rất nhiều người chen chân đứng dọc, nên tôi nhìn họ viết gì. Chợt thấy người từ đám đông bước ra, tôi vội vàng đến hỏi.

      - Họ dân chạy nạn gây mất ổn định trật tự, kể từ hôm nay đóng kín cổng thành, đuổi tất cả nạn dân ra ngoài.

      Ông lão chống gậy, lắc đầu thở dài:

      - Trời đông giá buốt, quan nha ban bố lệnh này khác nào muốn lấy mạng những người dân khốn khổ ấy. Nhưng ai còn tâm trạng đâu mà nghĩ cho họ nữa, ngay cả bản thân chúng ta cũng biết khi nào chết đói nữa là…

      Tôi sững sờ, mệnh lệnh này chắc chắn do Lữ Thiệu ban bố. Sao có thể vô lương tâm đến vậy! Bảy, tám vạn mạng người, lại đều là người già, phụ nữ và trẻ em, lẽ nào bỏ mặc họ chết đói chết rét ngoài kia? Trong cơn phẫn uất, tôi thấy Rajiva bước về phía cổng thành, lớn tiếng cầu bọn họ mở cổng. Mấy tên lính tỏ vẻ cung kính với chàng, nhưng tên nào dám trái lệnh mà tự ý mở cổng. Tôi bước tới, kéo tay áo Rajiva, lắc đầu ra hiệu cho chàng. Chàng giận dữ lùi lại. Sau lưng chúng tôi, những tiếng kêu la ai oán vang lên. Hàng trăm nạn dân bị xua đuổi, bước thấp bước cao, lảo đảo, liêu xiêu.

      Cánh cổng kèn kẹt nặng nhọc mở ra, cầu treo hạ xuống, nạn dân bị quan binh dùng roi da xua ra ngoài cổng thành. Cảnh tượng thảm thương ấy khiến cư dân của Guzang cũng phải ngoảnh mặt vì xót xa.

      - Thí chủ, vì sao nỡ nhẫn tâm như vậy?

      Rajiva lao đến giữ lấy chiếc roi da quất lên mình người phụ nữ của viên lính nọ, nỗi bi phẫn dâng lên trong giọng phê phán quyết liệt.

      - Thí chủ cũng có mẹ cha kia mà, nếu cha mẹ thí chủ bị người ta hành hạ như vậy, thí chủ có chịu nổi ?

      Tên linh ngơ ngác, sau đó hậm hực rụt tay về. Tôi và Rajiva cùng nhìn nhau, thở dài. Chàng hiểu ý tôi, nên gật đầu tán đồng. Trong tình hình này, thể nặng lời với đám quân lính. Cách duy nhất là thuyết phục Lữ Thiệu hủy bỏ mệnh lệnh .

      Đúng lúc ấy, có người đặt vào tay tôi thứ gì đó. Sau phút ngỡ ngàng, tôi nhận đó là em bé chỉ chừng , hai tuổi. Em được bọc trong những miếng vải rách nát bốc mùi, đôi mắt thẫn thờ, em như chiếc lá, dường như còn sức để khóc nữa. Tôi vội đưa mắt kiếm tìm và thấy trong đám nạn dân bị lùa ra ngoài thành, người phụ nữ trẻ, ngoái đầu lại nhìn tôi, gào khóc:

      - Xin phu nhân mở lượng hải hà, cứu lấy “cún con”[1] nhà tôi.

      [1] Tên gọi thân mật ở nhà của trẻ em.

      Tôi ôm đứa bé, đuổi theo người phụ nữ:

      - Được, tôi nuôi cháu giúp chị. Tôi sống ở con phố chính gần cổng phía Tây, chị cứ hỏi nhà của pháp sư Kumarajiva.

      Người phụ nữ chỉ biết khóc lóc, nhìn đứa bé lưu luyến. Tôi bị ngăn lại trước cổng thành, đành với ra hỏi lớn:

      - Chị tên là gì? Khi nào cổng thành được mở, tôi đến tìm chị.

      - Tôi tên Tần Tố Nga, chồng tôi xung quân, tên là Ngụy Trường Hỷ. Chúng tôi là người Liễu Viên ở Đôn Hoàng.

      Đó là những gắng gượng sau cùng của người phụ nữ. Chị nhìn con lần cuối, những tiếng gào thét cuối cùng lọt qua khe cổng tối tăm. Tôi kiễng chân, gắng đón lấy lời chị:

      - Nếu tôi và cha “cún con” đều chết cả, xin phu nhân với pháp sư hãy nhận nuôi con tôi…

      Cổng thành rầm rầm đóng lại, cắt đứt lời của người phụ nữ. Bên ngoài, tiếng kêu khóc thảm thiết bắt đầu dậy lên, vượt qua bức tường cao dày, xuyên vào màng nhĩ tôi. Đứa bé bị đánh thức, hai mắt mở to, khe khẽ khóc. Hai cánh tay xíu chới với trong trung, bắt được mấy sợi tóc lòa xòa của tôi, liền đút vào trong miệng, cái miệng xinh như phát ra tiếng kêu mơ hồ: đói…

      Chúng tôi trở về, ai nấy đều lặng lẽ. Về đến nơi ở, Rajiva rằng chàng phải đến gặp Lữ Thiệu, dặn dò chúng tôi ở nhà chờ chàng. Tôi gật đầu, mặc dù biết rằng khả năng Rajiva thuyết phục được Lữ Thiệu hủy lệnh là rất mong manh. Nhưng tôi biết, Rajiva bao giờ chịu từ bỏ khi mà chàng chưa thử. Tôi giao đứa bé cho Đoàn Sinh Đình để chị ta cho bé ăn.

      Tiễn Rajiva ra ngoài cổng, tôi nghe thấy tiếng gào khóc kêu la vẳng đến bên tai. Khoảng mấy trăm nạn dân bị đám lính lùng bắt được, bị áp giải về phía cổng thành.

      Nghe thấy những tiếng kêu la thảm thiết ấy, đôi mắt Rajiva như có lửa, chàng nắm chặt tay, khuôn ngực phập phồng dữ dội. Sau đó chàng quyết liệt bước ra giữa đường, chặn đám người đó lại.

      Tuyết bắt đầu trút xuống sau buổi sáng tạm nghỉ. Những bông tuyết trắng xóa bay là là chiếc áo bông sờn bạc của chàng, tan ra, thấm vào lớp áo màu nâu sòng ấy. Chàng quàng chiếc khăn liền mũ mà tôi đan cho chàng, đứng giữa lớp tuyết dày tích tụ hơn mười ngày qua, bóng chàng ngạo nghễ giữa gian.

      Tôi biết chàng định làm gì, nhưng bất luận chàng muốn làm gì, tôi là vợ chàng, tôi phải đứng cạnh chàng. Nghĩ vậy, tôi vượt qua những tầng tuyết, đến bên chàng, cùng chàng lấy thân mình chặn những kẻ coi mạng người như con sâu cái kiến kia lại.

      - Pháp sư, hạ quan làm việc theo lệnh, xin ngài đừng làm khó hạ quan.

      Tên lính dẫn đầu bước ra, cúi chào Rajiva.

      - Thí chủ định đưa họ đâu?

      Rajiva chắp tay lại, khẽ cúi người, dáng vẻ cung kính nhưng giọng sắc nét.

      - Thế tử ra lệnh đuổi tất cả đám dân lưu lạc ra ngoài thành, tránh gây nhiễu .

      Rajiva nghiêm nghị nhìn tên lính kia, cố ý kéo dài giọng:

      - Vì sao thí chủ biết họ là dân lưu lạc?

      Bối rối trước ánh mắt uy nghiêm của Rajiva, tên lính ấp úng:

      - Thưa… pháp sư đùa chăng? Bọn họ có hộ tịch, lại phải cư dân Guzang, nên tất nhiên là dân lưu lạc rồi!

      Rajiva tiếp tục truy hỏi:

      - Tướng quân Lữ Quang mới đến thành Guzang được bốn tháng, trong thời gian đó, ngài bận việc dẹp yên quân phản loạn, còn chưa kịp ổn định và phát triển thành phố ngày. Tất cả những người theo ngài đến đây đều chưa có hộ tịch. Ta đến từ Tây vực, phải người Guzang, lẽ nào ta cũng là dân lưu lạc?

      - Điều này …

      Tên lính ngắc ngứ biết sao, cũng dám nhìn thẳng Rajiva, vẻ kiêu căng xẹp hẳn xuống.

      - Pháp sư đương nhiên phải, ngài chỉ tạm thời chưa có hộ tịch thôi. Nhưng pháp sư có nơi cư trú, còn những người này có.

      Rajiva bước lên phía trước, tiếp tục bắt bẻ:

      - Vậy nếu có chỗ ở họ còn là dân lưu lạc nữa đúng ?

      - Có lẽ vậy…

      Tên lính bắt đầu ngơ ngác ngó về phía sau, giọng yếu ớt.

      Rajiva nhìn tôi, hiểu ý chàng, tôi liền về và mở rộng cánh cổng nhà chúng tôi ra.

      Rajiva chắp hai tay lại, khóe môi nở nụ cười:

      - Thí chủ, họ đều là khách mời của ta, nơi ở của họ trong thành Guzang, chính là chỗ này.

      Tên lính dẫn đầu há hốc miệng, nhìn Rajiva chằm chằm nhưng được câu gì. Nhân lúc còn ngỡ ngàng, tôi bảo tất cả những người dân lưu lạc kia vào trong nhà. Họ tỏ ra ngạc nhiên hết sức, nhưng lát sau chen nhau ùa vào, căn nhà của chúng tôi chật kín người.

      - Thưa… thưa… pháp sư, ngài làm vậy, hạ quan biết ăn sao với quan ?

      Tên lính bối rối, đứng ngây ra như phỗng.

      Tôi ra hiệu cho Hô Diên Bình đóng cổng lại, rồi đứng canh bên ngoài. Rajiva bước lại, đứng bên tôi.

      Giữa lúc căng thẳng ấy, bỗng có tiếng vó ngựa vang lên, toán người ngựa hướng về phía chúng tôi. Khi họ đến gần, tôi nhận ra tên đầu chính là Thế tử Lữ Thiệu. vốn chẳng có tài cán gì, nhưng vì là con trưởng, nên được lập làm Thế tử. Lữ Quang vừa qua đời, bị Lữ Soạn ép phải tự vẫn. Nhưng lúc này đứng trước mặt chúng tôi, vẻ dương dương tự đắc vì vừa được lập làm Thế tử.

      Nhìn thấy kẻ bên cạnh Lữ Thiệu, tôi bỗng giật mình. Người thanh niên cao lớn cưỡi con ngựa màu mận chín ấy chính là Thư Cừ Mông Tốn. ta theo bác họ và họ ra chiến trường, mà ở lại Guzang.

      Tên lính ban nãy nhác thấy bóng Lữ Thiệu, vội vã bước tới bẩm báo, kể lể tình. Sau vài câu hỏi, Lữ Thiệu chau mày, nhảy xuống ngựa, bước đến trước mặt chúng tôi.

      - Pháp sư, ta biết ngài có tấm lòng từ bi hỉ xả, nhưng đám dân xấu xa này lo làm ăn, ngày ngày chỉ biết ăn xin đầu đướng xó chợ. Thành Guzang đào đâu ra nhiều lương thực đến thế mà bố thí cho bọn chúng? Giữ bọn chúng lại trong thành, nạn trộm cắp ắt hoành hành. Ta ban lệnh này, là vì nghĩ đến yên ổn của cư dân thành phố.

      - Thế tử, xin hỏi ngài, những người già, phụ nữ và trẻ em này đứng còn đứng nổi, làm sao có thể ăn trộm ăn cắp, làm điều xằng bậy như ngài ?

      Rajiva lạnh lùng nhìn thẳng vào mắt Lữ Thiệu, cằm rướn cao, giọng đầy phẫn uất:

      - Thế tử chớ quên, những người cha, người con của những người này xung quân và chiến đấu chống lại quân phản loạn. Thế tử màng việc cứu đói, lại muốn xua đuổi người thân của những người liều mạng sống nơi sa trường, để mặc họ tự sinh tự diệt. Lẽ nào Thế tử có thể nhẫn tâm chứng kiến cảnh xác chết đầy đường?

      - Ta…

      Lữ Thiệu mặt mày đằng đằng sát khí, giơ cao roi ngựa.

      - Pháp sư ngang nhiên chống đối mệnh lệnh của ta. Lẽ nào ngài muốn…

      - Thế tử!

      Thư Cừ Mông Tốn ngắt lời Lữ Thiệu, cũng nhảy xuống ngựa.

      ta bước đến bên cạnh Lữ Thiệu, chắp tay cung kình chào Rajiva, sau đó quay sang với Lữ Thiệu:

      - Xin Thế tử bớt giận! Sao Thế tử hỏi pháp sư, xem ngài có thể nuôi sống ngần này con người ?

      - Ta có thể!

      Giọng của chàng trầm hùng, quyết liệt.

      - Đại sư Duy Ma Cật từng , chúng sinh đau ốm cũng giống như ta đau ốm. Chúng sinh vì bệnh tật mà qua đời cũng giống như ta vì bệnh tật mà qua đời. Ta nguyện học theo ngài Duy Ma Cật, còn sống ngày nào cứu giúp họ ngày ấy.

      khí yên lặng bao trùm tất thảy. Gió buốt như dao cắt, thổi bay nếp áo sờn bạc của chàng. Những bông tuyết theo gió đông ào ạt đổ xuống vai áo chàng. Rajiva ngẩng cao đầu, gò má chàng tím tái vì giá rét, nhưng giữa vầng trán cao vẫn toát lên vẻ nghiêm nghị, lẫm liệt. Chàng tựa như đóa tuyết liên thánh thiện, ra sức bảo vệ kiên trinh của tâm hồn.

      Lữ Thiệu hắng giọng phá vỡ khí trầm lặng:

      - Pháp sư là đần độn! Những kẻ già cả, yếu ớt này rất vô dụng, để bọn chúng sống chỉ tốn cơm gạo. Lương thực lúc này là quan trọng nhất, chúng chết càng nhiều, lương thực tốn càng ít.

      Những lời thiếu tính người ấy khiến tôi thể nhẫn nhịn thêm nữa. Tên súc sinh này chết bởi tay em ruột thịt cũng đáng lắm. Bước lên phía trước, định phản kháng, Rajiva vội giữ tôi lại, khẽ lắc đầu. Nỗi phẫn uất như sóng cuộn dâng trong mắt chàng, nhưng chàng kìm chế và giữ được bình tĩnh hơn tôi.

      Mông Tốn đưa mắt với tôi đầy ý, ta ho khẽ tiếng, kéo tay Lữ Thiệu, can gián:

      - Pháp sư vậy, Thế tử còn bận tâm làm gì nữa, đằng nào tốn lương thực của Thế tử. Chúng ta còn nhiều nơi chưa tuần tra hết, Thế tử nên lãng phí thời gian ở đây.

      Lữ Thiệu vẫn còn hậm hực, nhưng Mông Tốn ra sức kéo ra . Lữ Thiệu lên ngựa, thu quân, trừng mắt đe dọa chúng tôi, rồi tiếp tục tiến về phía trước. Mông Tốn cũng lên ngựa, trước khi quay , ta còn cố nhìn về phía tôi. hiểu sao, tôi cứ có cảm giác, ánh mắt ta nhìn mình có điều gì rất lạ lùng. Đến lúc này tôi vẫn Mông Tốn là con người thế nào. Hôm nay có vẻ như ta giúp chúng tôi nhưng tôi biết ta làm vậy chắc chắn phải vì lòng tốt bỗng dưng trỗi dậy.

      Cuộc xung đột kịch liệt ấy kéo theo hệ lụy, đó là chúng tôi chẳng thể thuyết phục Lữ Thiệu thu hồi mệnh lệnh. Hơn hai trăm ba mươi con người cùng trú ngụ dưới mái nhà của chúng tôi. Hôm đó, vấn đề phải giải quyết đầu tiên là chỗ ngủ. có đủ chăn đệm, chúng tôi đem toàn bộ y phục định đem bán chia cho những người quần áo rách nát. Mỗi phòng phải trải mười mấy tấm thảm dưới đất, nhà bếp cũng biến thành phòng ngủ. Những người khỏe mạnh hơn được bố trí nằm ngoài hành lang. Ngay cả phòng của tôi và Rajiva cũng có rất nhiều người nằm. Tôi giữ ý, kéo màn giáo che chắn trước giường của mình.

      “Doanh trại nạn dân” với mật độ quá dày ấy, nếu ở vào thời đại, chắc chắn đạt tiêu chuẩn vệ sinh. khí trong nhà nồng nạc mùi hôi, nhưng điều khiến tôi lo lắng nhất là căn bệnh truyền nhiễm. Nếu có ai đó mắc bệnh truyền nhiễm, rất dễ lây lan trong môi trường này và khó lòng điều trị. Thường sau thiên tai, ôn dịch hoành hành, thời đại này lại có vắc-xin phòng bệnh và thuốc kháng sinh. Tôi lại những suy nghĩ đó với Rajiva, chàng bảo tôi đừng lo lắng, mùa thu mới là mùa dịch bệnh lây lan. Bây giờ là mùa đông, lại giá rét nhường này, khó xảy ra nguy cơ truyền nhiễm. Chờ mùa xuân đến, nghĩ cách xử lý. Tuy vậy, tôi vẫn kêu gọi những người phụ nữ đem toàn bộ y phục ra giặt giũ sạch và dọn dẹp tinh tươm nơi ăn chốn ở.

      Giờ đây được ra khỏi thành, nên thể kiếm củi, chúng tôi phải dựa vào số củi dự trữ trong nhà kho. Để tiết kiệm, chúng tôi chỉ đốt lửa khi nấu cơm. Bao nhiêu con người chen chúc, vậy mà khiến cho căn nhà ấm áp thêm chút nào. Trong kho vẫn còn hơn mười tải lương thực, tôi sắp xếp để Hô Diên Bình và cả nhà Mộ Dung ngủ ở đó. Hô Diên Bình hiểu ý tôi, nên hàng ngày đều mang theo chìa khóa nhà kho bên mình, hễ ra khỏi cửa là khóa lại. phải tôi thiếu lòng tin vào những người dân chạy nạn kia, tôi chỉ lo, lúc đói khát cực độ, người ta làm những việc mà bình thường họ bao giờ làm. Nhưng, số lương thực này cũng chỉ đủ cung cấp cho ngần ấy con người trong vòng chưa đầy mười ngày, sau đó sao? Còn ít nhất tháng nữa mới hết mùa đông.

      Tôi tìm cách rao bán tất cả những gì có thể bán được: sách của Rajiva, ngọc bội sư tử mà Bạch Chấn ban tặng, chiếc vòng vàng của Hoàng hậu Khâu Từ. Tôi thậm chí còn định đem những vật dụng thời đại của tôi ra bán, nhưng Rajiva đồng ý, vì chàng muốn thân thế của tôi bị lộ. Tôi lén đem cuốn sổ ghi tốc ký và bút chì bán, nhưng ai thèm ngó ngàng đến. Vì có quá nhiều người rao bán tài sản, những đồ đạc bằng vàng, bằng bạc hữu dụng hơn mấy thứ dụng cụ thủ công tinh xảo kia. Tôi cười buồn nhìn mấy món đồ của 1650 năm sau, chúng chẳng giúp ích được gì lúc đói kém.

      Dù cho nồi cháo của chúng tôi có loãng đến đâu, mười ngày sau, số lương thực trong kho vẫn cạn kiệt. Rajiva bắt đầu dẫn theo các đệ tử ra phố khất thực. Tôi là người Hán, nên trong quan niệm của tôi, ăn xin tức là đem lòng tự tôn ném xuống đất và giẫm đạp lên, bởi vậy tôi thể nuốt những thực phẩm có được từ việc khất thực.

      Rajiva khác, chàng rằng chàng là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian[2]. Năm xưa Phật tổ cũng ngày ngày mặc áo cà sa, tay mang bát sành vào thành Xá Vệ khất thực. Lòng tôi thắt lại khi thấy chàng và các đệ tử mang số thực phẩm ít ỏi về nhà vào cuối mỗi ngày. Tôi chia thức ăn này cho những người ốm đau bệnh tật, riêng tôi, bao giờ đụng đến.

      [2] Đức Phật và nàng, tập 1, trang 41.

      Nạn dân cũng muốn ra phố xin ăn, nhưng Rajiva ngăn cản. Vì chỉ cần bước ra khỏi cánh cổng này, họ bị đuổi ra ngoài thành. Rajiva và các đệ tử vốn là nhà sư, nên ít nhiều họ vẫn được người ta tôn trọng. Mỗi khi trong thành có người qua đời, Rajiva lại cử đệ tử của chàng đến tụng kinh siêu độ, mỗi lần như thế cũng được bố thí vài chiếc bánh bao. Đệ tử của Rajiva giống hệt chàng ở cao ngạo, dù cho họ gầy đói đến mức chỉ còn da bọc xương, nhưng bao giờ tham lam. Kể cả khi chỉ được bố thí chiếc bánh bao, họ cũng đem về chia đều cho mọi người.

      - Sư tôn, sư mẫu!

      Tôi và Rajiva sắp xếp lại các tấm thảm, để có thêm chỗ nằm trong phòng cho những người phải ngủ ngoài hành lang. Nghe tiếng gọi, chúng tôi đều ngẩng lên, đó là ba đệ tử của Rajiva. Hôm nay họ đến siêu độ cho lão phu nhân nhà họ Vương vừa qua đời ở phía Đông thành Guzang. Họ thận trọng trao cho tôi gói đồ ăn bọc vải lụa. Tôi mở ra thấy bên trong là mấy miếng bánh cao lương thâm đen.

      - Thưa thấy, trong tang lễ của lão phu nhân nhà họ Vương, chúng con nghe

      Vị sư trẻ mới mười tám tuổi, Badyetara nhìn chúng tôi ngập ngừng.

      - Có chuyện gì vậy?

      Rajiva gạn hỏi.

      - Theo lệ nếu trong nội thành có người qua đời, quan binh cho phép đưa ra ngoại thành an táng. Nhưng nhà họ Vương dám đưa lão phu nhân ra ngoại thành, mà an táng ngay trong vườn nhà.

      Tôi băn khoăn:

      - Vì sao?

      Gương mặt của vị sư trẻ tuổi lên vẻ bi ai, Badyetara cúi đầu khẽ đáp:

      - Con nghe , ở ngoại thành, người chết vừa mới chôn xuống đất bị đào lên.

      Tôi thốt lên tiếng thất kinh, rồi vội vàng bịt chặt miệng lại. Badyetara tiếp tục kể:

      - Nạn dân ngoài ngoại thành bắt đầu ăn thịt người chết…

      Rajiva khép mắt, quay , muốn nghe tiếp. Đôi mày của chàng chau lại, lúc lâu sau mới nghe thấy tiếng thở dài u buồn của chàng.

      Vào thời điểm giá buốt nhất, giọt nước xuống lập tức đóng thành băng, giữa đêm thâu, tiếng kêu thương ai oán của những con người sắp chết vẳng đến bên tai, tựa như những mũi kim đâm vào tim, khiến trái tim co thắt dữ dội. Cứ nghĩ đến câu của Badyetara tôi lại mường tượng ra cảnh, bốn bề là những con mắt nhấp nháy như bầy dã thú, chờ đợi người sắp chết trút hơi thở cuối cùng. Đói khát khiến người ta mất nhân tính, chỉ còn lại bản năng thú vật. Thời đại này mới tăm tối làm sao, sống mới đáng sợ làm sao!

      Những tiếng gào khóc lúc to lúc vang vọng suốt đêm, kìm nổi cảm giác run sợ, tôi cứ chống mắt nằm nghe cho tới sáng. Bên cạnh, Rajiva vòng tay ôm lấy tôi, nhưng chàng cũng run rẩy. Gối đầu lên cánh tay chàng tôi nghĩ, giá như có thể thiếp , phải nghe những tiếng kêu thương nhức nhối, có thể phá nát thần kinh của con người ở ngoài kia, và cũng phải nghe thanh réo rắt của cái bụng rỗng nữa. Trải qua nhiều đêm thức trắng, cuối cùng tôi cũng học được cách dỗ giấc ngủ giữa những thanh thê thảm của chết chóc.

      Rajiva kéo tôi vào ngõ cạnh nhà, nhìn ra xung quanh thấy ai, chàng cầm bàn tay loang lổ vết lở loét do giá rét của tôi đưa lên miệng hà hơi sưởi ấm. Lát sau, đặt tay tôi xuống, chàng vuốt ve gương mặt tôi, ánh mắt đầy lưu luyến.

      Tôi ngạc nhiên, định hỏi thấy chàng hít hơi sâu, như thể phải hạ quyết tâm lắm:

      - Ngải Tình, nàng hãy trở về .

      Tôi giật mình, hốt hoảng:

      - Chàng, chàng bảo em về đâu?

      - Quay về thời đại của nàng, đừng tiếp tục ở đây chịu đói cùng ta nữa.

      Những làn hơi trắng phả ra từ miệng chàng, cùng nét cười ảm đạm.

      - , em về!

      Tôi gào lên, chàng vội che miệng tôi lại. Bàn tay chàng giá lạnh, mấy vết lở loét mu bàn tay bắt đầu sưng tấy.

      Chàng ghé sát vào tai tôi, cất giọng dịu dàng:

      - Hãy nghe lời ta, nàng tạm thời trở về đó, khi nào trận đói qua , nàng lại về đây.

      Chàng nghĩ vượt thời gian là chuyến du lịch đơn giản ư? Chàng đâu biết tôi phải trả giá ra sao? Nước mắt tuôn trào, miệng vẫn bị giữ chặt, tôi chỉ còn cách ra sức lắc đầu. Tôi vòng tay qua eo chàng, ngả người vào lòng chàng:

      - Ngải Tình, có phải chia ly vĩnh viễn đâu mà nàng buồn đến vậy?

      Chàng dịu dàng ôm lấy tôi, vuốt ve mái tóc tôi.

      Tôi vùi đầu vào lòng chàng, chàng gầy rất nhiều, những đốt xương vai lộ ra, tôi nhìn mà xót xa.

      - Rajiva, em thể , nếu ra , em quay về được nữa…

      - Vì sao? Nàng rằng, có cỗ máy gì đó có thể đưa nàng trở về bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời ta kia mà?

      Chàng ôm lấy hai vai tôi, đôi mắt như hai luồng điện chiếu thẳng vào nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn tôi:

      - Ngải Tình, nàng giấu ta điều gì phải ?

      Lòng buồn rã rời, toàn thân như đóng băng. Nhưng tôi thể để chàng biết nguyên nhân thực , tôi ấp úng:

      - … cỗ máy đó vẫn trong giai đoạn thí nghiệm, lịch sử trải dài mấy nghìn năm, rất có thể trong lần vượt thời gian tiếp theo, em gặp được chàng.

      Tôi kéo tay chàng, nhìn sâu vào đôi mắt trong suốt của chàng, khóe môi run rẩy:

      - Em muốn mạo hiểm, em thể xa chàng. Chàng hãy tin em, chúng ta vượt qua được giai đoạn khó khăn này, nhất định như vậy!

      Chàng thở dài, lau nước mắt cho tôi bằng nụ hôn mềm ấm, rồi kéo tôi vào lòng. đầu tôi vang lên tiếng thở dài xen trong giọng trầm ấm:

      - Ta đâu nỡ xa nàng…

      Trong vòng tay chàng, tôi ngước mắt nhìn trời, mây đen vần vũ, tuyết lại bắt đầu rơi. Giữa nền trời tăm tối, những bóng tuyết trắng biến thành màu xám xịt, thờ ơ rơi đôi vai gầy guộc của chàng. Giữa đất trời này, ngoài vòng tay của chàng, chẳng còn nơi nào ấm áp…

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 70: “Thỏa thuận” đêm giao thừa

      Tết năm 386 trước Công nguyên là cái Tết bi thảm nhất trong đời tôi. Thành Guzang mảy may chút khí đón năm mới, chỉ có mấy chiếc đèn lồng treo trước cổng chính cung điện là bắt mắt. Phố xá vắng lặng, thưa thớt, ai nấy đều buồn bã, ủ dột khi thấy lớp tuyết đường lại dày đến đầu gối.

      Mấy ngày trước, Lữ Thiệu sai quân dán cáo thị thông báo cho các hộ dân trong thành mang theo hộ tịch đến nhận hai đấu gạo, “động thái” này nhằm vỗ về thị dân Guzang. Phải xếp hàng rất lâu mới đến lượt, nhưng khi nhận ra chúng tôi, Lữ Thiệu kiên quyết cho phát gạo. Lúc ấy, tôi chỉ muốn nguyền rủa bằng ngôn ngữ đại. Mừng thay Lý Cảo cho người mang biếu mười đấu gạo, nhưng cũng chỉ như muối bỏ bể, hai ngày sau hết nhẵn.

      Ngày cuối năm, tôi tần ngần đứng trước cửa hàng cầm đồ. Vào thời đại này, hiệu cầm đồ đúng nghĩa vẫn chưa ra đời, mà chỉ có vài cửa hàng kinh doanh hàng hóa cầm cố. Chần chừ mãi vẫn phải cắn răng bước vào, vì đến hôm nay, trong nhà còn hạt gạo nào.

      Tôi gói bọc và cất giữ cẩn thận năm nghìn quan tiền. Miếng ngọc bội và cây trâm ngọc tinh xảo, cầu kỳ là thế, màu sắc thượng hạng là thế cũng chỉ đổi được năm nghìn quan tiền, đủ mua mười đấu lương thực. Xin lỗi, Pusyseda, tôi hứa giữ gìn đồ lưu niệm của cậu, vậy mà… Qua mùa đông khó khăn này, tôi nhất định đến chuộc lại bằng mọi giá. Ra khỏi hiệu cầm đồ, tôi khẽ chạm tay vào chiếc nhẫn cưới đeo cổ. Dù lâm vào hoàn cảnh nào, tôi cũng quyết bán chiếc nhẫn này. Nhưng, liệu rằng tôi có thể cầm cự trong bao lâu? Sống mũi cay xè, mắt ngấn nước, tôi thở dài não ruột.

      - Thế nào, sắp cầm cự nổi rồi, phải ?

      gương mặt thanh niên vuông vức, chăm chú quan sát tôi đầy vẻ giễu cợt. Đó là Mông Tốn! Tôi kéo tay áo lau mặt, cúi chào khách sáo, định bụng bỏ .

      - Năm hết Tết đến, sao lại ra nông nỗi này? tươi tắn, đáng là thế, sao lại trở nên vàng vọt, xanh xao thế này? khiến người ta đau lòng!

      ta chặn tôi lại, diễn vẻ thương hoa tiếc ngọc.

      - Theo ta được ăn no, đồng ý ?

      Tôi trả lời, chỉ lẳng lặng ngó nghiêng xung quanh bốn phía bóng người.

      - Nhìn gì thế?

      - Nhìn xem có ai ở quanh đây làm khán giả cho màn kịch của ngài ?

      Tôi bực mình đáp.

      ta có vẻ ngạc nhiên, sau đó bật cười ha hả:

      - Ngải Tình, rất thú vị!

      Đến lượt tôi ngạc nhiên:

      - Vì sao ngài biết tên tôi?

      Sau khi chúng tôi rời khỏi Khâu Từ, chỉ có Rajiva mới gọi tôi như vậy.

      - Trước tác lang Đoàn Nghiệp với ta.

      ta tủm tỉm cười:

      - Ông ta còn kể cho ta nghe rất nhiều chuyện thú vị của ở Khâu Từ.

      Đoàn Nghiệp theo Đỗ Tấn ra chiến trường, như vậy, ông ta chỉ có thể với Mông Tồn trước khi , thời điểm đó là khoảng hai tháng trước. Sau khi chạm mặt tôi ở Hoàng cung, ta lập tức tìm hiểu mọi thứ về tôi, lẽ nào chỉ vì câu đó? Con người này mới nguy hiểm làm sao! biết ta tìm hiểu về tôi để làm gì?

      ta xoa tay, cất giọng nhõm:

      - Trời lạnh quá, cùng ta uống ly rượu cho ấm bụng nhé!

      Tôi ngước nhìn, lặng im .

      - Đừng lo, là phu nhân của đại pháp sư, đâu phải con dân quèn để thích cướp lúc nào cướp. Huống hồ, ta đây bao giờ ép buộc phụ nữ. Uống với ta ly rượu, được ăn thịt dê. Chắc lâu lắm rồi được ăn nhỉ? Đêm giao thừa được ăn thịt dê, thử hỏi ở thành Guzang này có mấy hộ được sung túc thế? Thế nào, chứ?

      nhịn nổi, tôi phì cười. Vì tôi chợt nhớ đến câu thoại kinh điển của Jang Dong Gun trong phim “Vô cực”: “ theo ngài, có thịt ăn”. Càng nghĩ càng buồn cười, tôi cười nghiêng ngả, cười chảy cả nước mắt. Mùa đông này tôi chưa được cười đời lần nào. Sau trận cười no nê, tôi đưa tay làm cử chỉ “xin mời” với người hết sức băn khoăn trước thái độ kỳ lạ của tôi này. Dĩ nhiên là tôi hề lo lắng về việc ta giở trò với mình, vì như ta , điều đó là cần thiết. Trực giác mách bảo với tôi rằng, ta có điều gì đó muốn với tôi. Nếu ta cũng tin vào bói toán giống Đoàn Nghiệp, chưa biết chừng tôi có thể áp dụng vài chiêu để đổi lấy lương thực.

      Nghĩ vậy, tôi tự tin bước thấp bước cao lớp tuyết dày đến đầu gối, để đến dinh thự xa hoa của Mông Tốn.

      - Thế nào, phủ đệ của ta bắt mắt đấy chứ?

      ta vừa nhìn khắp lượt cơ ngơi của mình vừa cười đắc ý:

      - Dinh cơ này do Thế tử ban tặng. Người trong họ tộc đều theo vua Lương xuất chinh, chỉ còn mình ta ở nhà tha hồ ăn chơi hưởng lạc!

      Tôi thấy nóng mắt khi ta cứ diễn kịch hoài với mình, bật cười châm biếm:

      - Ông bác của ngài muốn ngài lập công vượt mặt người họ của ngài, nên mới cho ngài cùng chứ gì?

      Mông Tốn lập tức ngoảnh đầu lại, thôi cười, nhìn tôi thăm dò. Tự trách mình mau mồm mau miệng, tôi cười trừ. Đột nhiên, tôi ngửi thấy mùi thơm mà bấy lâu nay bị quên lãng: thịt dê rang cháy cạnh. Trời đất ơi, bao lâu tôi mới lại ngửi thấy hương vị này? Ánh mắt tôi như bị thôi miên, kể từ lúc người hầu đặt đĩa thịt dê cùng bát đũa lên bàn. Hương thơm nhức mũi, vị giác bị kích thích mạnh mẽ, nước bọt tuôn ra ào ạt. muốn bị coi khinh, tôi quay mặt sang hướng khác, cố tỏ vẻ thờ ơ.

      Mông Tốn như đọc được suy nghĩ của tôi, tủm tỉm cười, đẩy đĩa thịt dê ra trước mặt tôi. Tôi kìm hãm nỗi thèm thuồng, cồn cào trong dạ, nuốt nước bọt ừng ực, với ta:

      - Tướng quân Thư Cừ, tôi có thể mang đồ ăn về nhà ?

      - Đừng khách sáo như thế, cứ gọi ta là Mông Tốn. có vẻ đói lắm rồi, hãy ăn , lát nữa ta sai người nấu đĩa khác cho mang về.

      kẻ khó đoán, khó lường bỗng nhiên trở nên phóng khoáng, đại lượng, điều đó hề khiến tôi cảm thấy thoải mái. Của biếu là của lo, của cho là của nợ, tốt nhất cứ nên hỏi điều kiện trao đổi trước .

      - Tướng quân Thư Cừ, ngài tặng thịt dê quý giá như vậy cho tôi, chắc chắn phải chỉ để trả công tôi uống rượu cùng ngài phải ? Phiền ngài thẳng điều kiện là gì?

      ta cười vang, ngửa đầu uống cạn ly rượu.

      - Có cần ta nhắc lại với , hãy gọi ta là Mông Tốn ? Ta ngờ, trò chuyện với lại thú vị đến thế! Hay lắm, ta thích những người khẳng khái. Đúng là ta tìm , mục đích, rất đơn giản…

      ta đặt ly rượu lên bàn, nhìn tôi chăm chú, ánh mắt lộ ra những vằn sáng háo hức của kẻ săn khi hướng về con mồi:

      - Ta muốn trở thành vợ ta!

      Lúc đó tôi vừa nhấp ngụm trà, với ý đồ dùng nước trà đè nén cơn đói quằn quại, nhưng nghe ta vậy, tôi suýt nữa phun trà ra ngoài. Nước lọt vào khí quản, tôi vừa đưa tay đấm ngực chữa sặc nước, vừa ra sức tìm kiếm giải pháp. Chắc chắn có chuyện chỉ sau mấy lần gặp gỡ, ta mê tôi. hào trong thời loạn, tham vọng luôn lớn hơn tình cảm nam nữ. Nghĩ vậy, tôi bèn hỏi thẳng:

      - Vì sao ngài muốn lấy tôi?

      Lại trận cười sảng khoái nữa, sau đó ta lấy vẻ nghiêm túc, với tôi:

      - Bởi vì khác thường. Lần đầu tiên gặp , bị ngựa húc ngã mà hề tỏ ra sợ hãi. Cử chỉ, lời dứt khoát, dõng dạc, giống bất cứ người con nào ta từng gặp. Lần thứ hai gặp ở Hoàng cung, khi ấy ta định bắt cóc , nhưng câu của khiến ta kinh ngạc. chỉ gặp ta có lần, sao lại biết ta diễn kịch phố? Sau đó, ta mới biết là vợ của nhà sư. Người con như thế nào mà dám kết hôn với vị cao tăng! Ta băn khoăn, ta nghe ngóng, ta tìm hiểu, mất rất nhiều công sức mới tìm được Đoàn Nghiệp, ông ta kể cho ta nghe chuyện của hai người ở Khâu Từ. Đoàn Nghiệp vô cùng ngưỡng mộ , điều đó khiến ta tò mò. Nạn đói xảy ra, dân chạy nạn đến Guzang ngày đông, ra sức cứu trợ. Thân phận người vợ của nhà sư lẽ ra khiến khó xử, khốn đốn, nhưng nhờ việc quyên góp cứu trợ, được người dân rất mực kính trọng. Những người phụ nữ bình thường chắc chắn thể nghĩ ra cách mua chuộc lòng người như thế. Đáng nể hơn, còn thuyết phục được Lý Cảo tình nguyện dốc hầu bao ra cứu đói. Lý Cảo đâu phải kẻ ngu muội, biết thuyết phục ông ta bằng cách nào.

      ta ngừng lại, đưa mắt dò xét tôi:

      - Ngải Tình, có biết đôi mắt của như thể thấu suốt tâm can người khác ? Mỗi lần nhìn vào đôi mắt ấy, ta lại có cảm giác mọi suy nghĩ của mình đều bị thấy hết. Mỗi lời ra, đều sai li. Chắc rằng, Lý Cảo cũng bị thuyết phục theo cách ấy. Từ đó, ta khẳng định, chính là người phụ nữ mà ta tìm kiếm, là người trợ giúp ta hoàn thành đại nghiệp.

      ta rót ly rượu khác, uống cạn, ánh mắt sắc lạnh, long lanh:

      - Mông Tốn ta phải kẻ phàm phu tục tử, thời thế loạn lạc chính là cơ hội tốt để bậc đại trượng phu lập nên nghiệp lớn. Với tài năng của mình, ta tin ngày kia ta thành công. Nay ta mới chỉ có vài người thiếp, chưa có ai là vợ cả. Nếu đồng ý sát cánh cùng ta giành lấy thiên hạ, ta lập làm chính thất. Còn về việc từng là vợ pháp sư Rajia, người đời vốn đồng tình với cuộc hôn nhân của hai người, bỏ đại sư, giúp ngài được tĩnh tâm tu hành. Người Hung Nô giống người Hán, dù trước đây có bao nhiêu người chồng, ta cũng thấy phiền lòng.

      xong, ta chăm chú quan sát phản ứng của tôi. Tôi thở dài, cầm đũa lên, gắp miếng thịt. Thịt dê rang kĩ, vừa mềm vừa thơm, tôi nhắm mắt thưởng thức. Mặc kệ ánh mắt chờ đợi của ta, tôi phải no bụng trước . Phải ăn no, mới có thể đối phó với con người này.

      Ăn hết nửa đĩa bụng tôi mới có chút cảm giác. lâu lắm mới lại được có cảm giác no nê này. Nhìn vào ánh mắt sắc lạnh của ta, tôi chậm rãi đáp:

      - Tôi biết ngài cần gì. Vị trí vợ cả ấy, ngài hãy dành cho người xứng đáng hơn. Còn về phần tôi, ngài cần phải lấy tôi đâu, tôi có đề nghị này hay hơn, biết ngài có muốn nghe ?

      ta có vẻ kinh ngạc, khẽ gật đầu ra hiệu cho tôi tiếp tục:

      - Tướng quân Thư Cừ, ngài là người tài trí, lại nhiều tham vọng, ngày sau chắc chắn lập nên nghiệp lớn. Nhưng muốn đạt được mục đích, ngài phải làm hai việc: là chờ đợi thời cơ, hai là trau dồi tri thức. Tôi biết ngài thông kim bác cổ, làu thông kinh sử, biết tướng quân có hứng thú với “thuật trị dân” hay ?

      ta quả nhiên bị thu hút bởi đề tài này, ánh mắt chợt lóe lên tia khao khát. Tôi mỉm cười:

      - Nước Đại Tần ở cực Tây có vĩ nhân, ông ta viết cuốn sách về thuật trị dân. Tôi biết chút tiếng phương Tây, vinh hạnh được đọc cuốn sách đó và cảm thấy muôn phần thán phục. Tiếc thay, hào giữa thời loạn này tuy nhiều nhưng chưa có ai xứng đáng để tôi truyền giảng cuốn sách kỳ diệu ấy. biết tướng quân đây có cái duyên đó ?

      Tôi ngừng lại, ngước nhìn đôi mắt lanh lợi, cơ trí của Mông Tốn. ta đón ánh nhìn của tôi, khóe môi khẽ nhếch lên, hỏi:

      - cần gì?

      - Mười đấu gạo mỗi ngày.

      ta trừng mắt hồi lâu, rồi đột nhiên cười lớn.

      - Ngải Tình ơi Ngải Tình, mỗi ngày mười đấu gạo, mười ngày trăm đấu. Muốn cầm cự qua được mùa đông này, ít nhất phải cần đến hai trăm đấu gạo, việc này còn khó hơn cả việc làm vợ cả của ta. bảo ta đâu kiếm cho được ngần ấy lương thực?

      - Ngài có đấy.

      Tôi gắp tiếp miếng thịt nữa, chậm rãi nhai, rồi nuốt. Uống ngụm trà, từ tốn :

      - trong những điều kiện mà bộ tộc Thư Cừ đưa ra khi xin hàng Lữ Quang đó là lương thực. cả bộ tộc của ngài đều ra trận. Ông bác La Cừu của ngài là người thông minh, cơ trí, đời nào đem toàn bộ lương thực theo Lữ Quang chinh chiến. Trong số những người thuộc bộ tộc Thư Cừ ở lại thành Guzang, ngài có vai vế cao nhất, số lương thực kia, chắc chắn do ngài cai quản.

      Nụ cười biến mất, ánh mắt Mông Tốn lộ vẻ tán thưởng:

      - lợi hại!

      ta vừa đưa tay vuốt cằm, đăm chiêu suy ngẫm, vừa nhìn tôi chăm chú:

      - Nhưng dù là như vậy, cũng phải xem thứ mà có có xứng đáng để ta đem lương thực ra trao đổi chứ.

      Hồi học đại học, tôi đặc biệt thích César Borgia, công tước xứ Valentinois của nước Ý, người từng rất nổi tiếng trong thời kỳ Phục Hưng. Vì vậy, tôi nghiên cứu rất kỹ cuốn sách “Quân vương”[1], còn viết cả luận văn về cuốn sách này, và được Sếp gửi đăng tạp chí chuyên ngành. Cuốn “Quân vương” rất mỏng, nên tôi có thể nhớ trọn vẹn nội dung cuốn sách.

      [1] Dịch giả Phan Huy Chiêm chuyển dịch cuốn sách này sang tiếng Việt với tiêu đề “Thuật trị dân”, Nxb Quán Văn, 1971.

      Tôi tự tin cười, hỏi:

      - Xin hỏi tướng quân, ngài cho rằng, đấng quân vương nhận được mến của quần chúng tốt hơn, hay khiến quần chúng sợ hãi tốt hơn?

      - Điều này…

      ta nhìn tôi, do dự:

      - Đương nhiên là được quần chúng mến tốt hơn.

      Tôi lắc đầu:

      - Quan điểm của vị vĩ nhân kia là: nếu có được cả hai là lý tưởng nhất, nhưng nếu phải lựa chọn, hãy chọn cách khiến cho quần chúng sợ hãi. Dựa vào vũ lực và trừng phạt để duy trì thể chế hiệu quả hơn dựa vào ban phát ân huệ, bởi vì, người ta thường dễ dàng đắc tội với người mà họ mến hơn người mà họ sợ hãi.

      - Đúng vậy.

      Hai hàng lông mày rậm, dày rướn cao, Thư Cừ Mông Tốn vừa ngẫm ngợi vừa gật gù:

      - Phù Kiên là người nhân đức, đại lượng, ai nấy đều hay. Ông ta những giết tù binh, ngược lại còn rất mực hậu đãi. Nhưng ngay khi gặp cơn nguy khốn, ông ta bị kẻ khác thừa dịp giậu đổ bìm leo, cuối cùng, chịu chết trong tay nghịch thần. Nếu ngay lúc đầu ông ta tiêu diệt toàn bộ Hoàng thất của người Tiên Tì, người Khương, thu nạp các bộ tộc đó, khiến bọn họ kinh sợ, phải chịu kết cục thảm bại như vậy. Điều đó cho thấy, uy nghiêm quan trọng hơn đức độ.

      Tôi cảm thấy lạnh người.

      - Chỉ mấy câu này thôi sao?

      ta mân mê ly rượu, đẩy ánh mắt sắc lẻm về phía tôi:

      - Nếu chỉ vậy đủ để ta đem lương thực ra trao đổi.

      Tôi sững người, ta xảo quyệt, muốn ép tôi “dốc” thêm ra đây mà. Nhớ lại những câu của Machiavelli trong cuốn “Quân vương”, tôi ngước nhìn Mông Tốn, :

      - Ông ấy còn rằng bậc quân vương phải dũng mãnh như sư tử, xảo quyệt như loài sói, đối với kẻ phản bội mình phải tàn độc như rắn rết, bọ cạp. Bậc quân chủ phải tỏ ra là người từ bi, rộng lượng, biết giữ lời hứa, chân thành, đáng tin, sùng bái thần linh. Nhưng khi cần thiết, phải biết vứt bỏ tất cả những phẩm chất đạo đức cao quý đó và thay đổi hoàn toàn thái độ. Tức là, bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích, mục đích luôn là cái cớ để biện hộ cho thủ đoạn. Nhưng tuyệt đối được để mất lòng dân. Bởi vậy, bậc quân vương phải vừa là kẻ ngụy quân tử và là tên lừa đảo chuyên nghiệp.

      ta yên lặng hồi lâu, đồng tử chim ưng đảo liên tục. lúc sau, ngẩng đầu nhìn tôi, nét cười treo khóe môi:

      - Ta đồng ý, nhưng ta chỉ có thể trao cho năm đấu gạo mỗi ngày, vì ta còn phải ứng phó với ông bác của ta nữa.

      Tôi vác năm đấu gạo về nhà, giao cho Hồ Diên Bình. Số lương thực này chia cho hơn hai trăm ba mươi người, cũng chỉ được mỗi ngày bữa. Nhưng tôi cố gắng hết sức. Ngoài cách này ra, tôi nghĩ ra cách gì hay hơn để có được lương thực.

      Tôi kéo Rajiva ra khỏi nhà khi chàng bắt mạch cho nạn dân. Đến góc phố, ngó xung quanh thấy bóng người, tôi lôi ra gói đồ bọc rất cẩn thận. Từng lớp giấy rơi ra, miếng thịt dê xuất .

      - Cái này… ở đâu mà có?

      Rajiva trợn tròn mắt nhìn miếng thịt đẫm mỡ, tuy nguội ngắt, nhưng mùi thơm vẫn ngào ngạt. Dù cố kìm chế, nhưng chàng vẫn phải nuốt nước bọt ừng ực.

      - Em mua đấy, em đem ngọc bội sư tử và cây trâm mà Pusyseda tặng cầm cố.

      dám nhìn thẳng vào mắt chàng, tôi ấp úng trả lời.

      Suốt đường về, tôi nghĩ nát óc, phải giải thích với Rajiva thế nào về nguồn gốc số lương thực này. Bao nhiêu lí do đều bị tôi loại hết, lừa được Rajiva đâu có dễ. Nhưng lẽ nào với chàng, rằng tôi dùng cuốn “Quân vương” để đổi lấy lương thực? Học thuyết của Machiavelli vẫn còn gây tranh cãi hết sức gay gắt ở thế kỷ XXI, người thuần khiết, thanh cao như Rajiva, sao có thể chấp nhận nó?

      - Ngải Tình…

      Chàng nhìn tôi với ánh mắt áy náy và xót xa.

      - Chờ khi qua được giai đoạn khó khăn này, ta nhất định chuộc về cho nàng.

      Chàng quay sang miếng thịt dê, ngẫm ngợi lúc, chịu ăn, mà hỏi tôi:

      - Vì sao mua lương thực? Thịt đắt hơn lương thực rất nhiều…

      - Chàng đừng lo, hai món đồ quý giá đó cầm được rất nhiều tiền. Em mua gạo, Sính Đình và bà Công Tôn nấu cháo. Miếng thịt này, em mua cho riêng chàng…

      Tôi xót xa khi ngắm nhìn gương mặt gầy guộc, xanh xao, chiếc cằm lún phún râu của chàng, cả con người héo hon, gầy mòn của chàng.

      - Hôm nay là Giao thừa, em muốn chàng được ăn ngon hơn chút.

      Chàng mỉm cười hồn hậu, cầm tay tôi:

      - Chúng ta đem về, bỏ vào nồi cháo cho mọi người cùng ăn nhé!

      - Rajiva!

      Tôi bực mình:

      - Miếng thịt bé xíu này chỉ đủ người ăn, nhà có hơn hai trăm người, nếu có thái ra, bỏ vào nồi, mỗi người cũng chẳng được hạt.

      - Ngải Tình, ta biết nàng thương chồng, nhưng ta thể ích kỷ như vậy!

      Tôi ngoảnh đầu hướng khác, sống mũi cay cay vì tủi thân:

      - Vâng, em là người ích kỷ, hẹp hòi. Em đem cầm cố quà tặng của Pusyseda, chỉ vì muốn chồng em được bữa ăn trong đêm Giao thừa!

      Tôi bật khóc tấm tức. Tuy thịt và lương thực đều của Mông Tốn, nhưng tôi vẫn chưa chuộc hai món đồ kia về, vì tôi sợ nếu có chuyện xảy ra mà trong người còn đồng nào nguy. Có điều, tôi tiếc lắm chứ. Nếu đồ vật thời đại của tôi có thể bán được, tôi chẳng đời nào chịu bán hai món quà ấy. Đối với tôi, chúng giống như sợi dây kết nối với Pusyseda. Trong những đêm dài trằn trọc, tôi vẫn thường mân mê miếng ngọc bội sư tử ấy, và thầm nhủ: Pusyseda, chúng tôi rất hạnh phúc…

      - Ngải Tình…

      Chàng cuống cuồng lau nước mắt cho tôi, sau đó cầm miếng thịt lên, bỏ vào miệng, vừa chậm rãi thưởng thức, vừa tươi cười:

      - Ngon quá! Nàng cũng ăn

      Tôi lắc đầu, dám với chàng, rằng tôi ăn khá nhiều lúc ở nhà Mông Tốn.

      Bị tôi o ép bằng lời lẽ và nước mắt, chàng cũng chỉ ăn ba miếng thịt , phần còn lại, chàng kiên quyết đem về nấu cháo. Tôi buồn bã nghĩ rằng, tôi chính là con người điển hình của thế kỷ XXI, trong cảnh đói khát, khổ sở, tôi ích kỷ hơn chàng rất nhiều.

      Đó là bữa ăn đặc biệt của chúng tôi trong đêm Giao thừa. Hôm đó, ai nấy đều hít hà mùi hương của thịt dê lẫn trong cháo, mặc dù miếng thịt dê đó hầu như tạo ra vị ngon gì. Nhân lúc Rajiva để ý, tôi trút cháo trong bát mình sang bát chàng.

      pháo hoa, tiếng cười đùa, chúng tôi nghỉ từ rất sớm. Trong vòng tay chàng, tiếng kêu khóc ai oán vẫn vẳng đến bên tai tôi. Điều khác biệt duy nhất trong đêm Giao thừa so với những ngày trước đó là, sau gần mười mấy ngày, dạ dày của tôi, lần đầu tiên còn trống rỗng nữa. Tôi thở dài, được no bụng tốt biết bao!

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 71: Đấng quân vương

      - Đấng quân vương thành công là người biết lấy lòng dân chúng, biết cách vỗ về quần chúng, biết cách nuôi dưỡng và lợi dụng tôn giáo, khiến cho người dân chấp nhận thực tại. Như thế, quần chúng đặt niềm hy vọng vào kiếp sau, vì những bất mãn trong kiếp này mà phản kháng, nổi loạn nhằm thay đổi vận mệnh.

      “Quân vương” chỉ là cuốn sách mỏng, nội dung ngắn gọn, đủ dài để tôi có thể “lên lớp giảng bài” cho đến khi nạn đói kết thúc. Nên tôi kết hợp và tiến hành giảng đồng thời cuốn “Quân vương” với cuốn “Phản kinh” của tác giả Triệu Nhụy đời Đường[1], vì cuốn sách này mang đậm màu sắc Trung Quốc và vì làm vậy, tôi có thể kéo dài thời gian, Mông Tốn còn diễn vai công tử ăn chơi trước mặt tôi nữa, ta nghe giảng rất chăm chú. Mỗi khi nghe được luận thuyết mới, hấp dẫn, ta lại tấm tắc ca ngợi, và liên tục bày tỏ quan điểm của mình.

      [1] Cuốn sách được dịch giả Nguyễn Thụy Ứng chuyển dịch sang tiếng Việt.

      - Lòng dân quan trọng thế ư? Nhưng cha con Lữ Quang chưa bao giờ xem trọng điều này.

      Trầm tư lát, ta ngẩng đầu hỏi tôi.

      Tôi đáp:

      - Do vậy cha con Lữ Quang thất bại, bởi vì kẻ nào coi thường quần chúng, kẻ đó bị quần chúng ruồng bỏ. Dân là nước, vua là thuyền, nước có thể đẩy thuyền, cũng có thể lật thuyền. Dù cho đằng sau bậc đế vương có sử dụng thủ đoạn bỉ ổi gì chăng nữa, trước mặt quần chúng, bằng mọi giá phải giữ gìn hình ảnh đẹp đẽ của mình.

      Ngẫm nghĩ hồi lâu, như hiểu ra được điều gì, Mông Tốn gật đầu:

      - Lợi dụng tôn giáo vỗ về quần chúng, xoa dịu chống đối, đó đúng là phương cách đơn giản mà hữu hiệu.

      ta đứng lên, ánh mắt lộ vẻ giễu cợt, cười :

      - Lữ Quang có pháp sư Rajiva ở bên mà biết cách tận dụng, quả là quá ư ngu xuẩn.

      ta chắp tay sau lưng, lại trong phòng, mỉm cười nhìn tôi đầy ý:

      - Nếu ta làm vua, phong pháp sư làm quốc sư, ra sức truyền bá Phật pháp.

      Tôi chỉ cười đáp. Sau khi chiếm được Guzang, Mông Tốn hết lòng tin Phật và ra sức phát triển Phật giáo, nhưng khi ấy Rajiva đến Trường An từ lâu. Mông Tốn phong nhà sư Tây vực Dharmakema làm quốc sư, đồng thời học theo Diêu Hưng, lập ra trương dịch thuật ở Guzang, và trường dịch thuật này hoàn thành hơn mười bộ kinh Phật kinh điển, tiêu biểu là cuốn “Đại bát Niết Bàn kinh” (gọi tắt là Kinh Niết Bàn).

      Mông Tốn chầm chậm dạo bước, hai tay chắp ngang hông, thả lỏng gân cốt. Khí chất và phong thái của bậc quân vương toát ra từ con người này rất rệt. Đất Lương Châu trong tay họ Lữ, chiến tranh xảy ra liên miên, thiên tai, nạn đói như tôi phải đối mặt chỉ diễn ra lần. Nhưng khi Mông Tốn tiếp quản Lương Châu, dân số thành Guzang tăng lên hơn hai mươi vạn, và trong sử sách thấy có ghi chép về nạn đói trong giai đoạn này. Con trai của Mông Tốn – Thư Cừ Mục Kiên là người học rộng, luôn biệt đãi các bậc danh nho người Hán. Khi Bắc Ngụy của tộc người Thốc Phát tiêu diệt Bắc Lương, kho báu mà họ chiếm được chính là những nho sĩ này. Sử sách chép rằng, kể từ thời Ngụy, phong trào Nho học bắt đầu phát triển rực rỡ. Điều đó cho thấy, nền kinh tế, văn hóa của Lương Châu dưới cai trị của Mông Tốn phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều so với thời của cha con họ Lữ. Ngoài ra, Thư Cừ Mông Tốn cũng là trong số ít các quân vương trong thời Thập lục quốc biết chăm lo bồi đắp cho thế hệ tương lai.

      Sách “Tấn thư” đánh giá về Mông Tốn như sau: “Mông Tốn xuất thân dân tộc thiểu số, hùng cứ chốn biên ải… Dấy binh ở Bạch Giản, cầu hòa với Nam Lương. Xưng hùng ở Đan Lĩnh, thu phục Bắc Khấu. Nhưng là kẻ thấy lợi quên nghĩa, hãm hại người thân. Tuy có thể thống trị cõi nhưng vẫn cần trau dồi đức hạnh”.

      “Thấy lợi quên nghĩa, hãm hại người thân”, câu văn này định hình phẩm cách của Mông Tốn. Người đời thường nhắc đến Thư Cừ Mông Tốn với chân dung kẻ xảo trá, bội tín, mượn dao giết người, lợi dụng Đoàn Nghiệp để tiêu diệt Nam Thành, sau đó giết Đoàn Nghiệp để cướp đoạt vương vị. Nhưng thử nghĩ xem, cứ cho là đám hùng thời loạn ấy sử dụng thủ đoạn bỉ ổi để tranh giành ngôi đoạt vị, nhưng điều đó đâu có quan trọng gì đối với người dân Lương Châu?

      Tôi cõng lưng mấy đấu lương thực, rời khỏi nhà Mông Tốn. Ngước nhìn lên, vẫn thấy màu u, xám xịt. Tuy tuyết ngừng rơi, nhưng gió vẫn lạnh căm căm, tựa như những nhát dao, cứa vào lòng người từng vết tuyệt vọng. Khi nào mùa đông căm giá rét này mới chịu kết thúc? Tôi muốn hét lên lớn, nhưng đâu còn đủ sức!

      Thở dài tiếng, xốc lại túi lương thực, cất bước về nhà. Dù sao, chúng tôi vẫn còn lương thực, tức là vẫn còn hy vọng sống tiếp.

      Bỗng giữa phố xá vắng tanh, xuất đứa trẻ chừng mười tuổi lao về phía tôi, nó cầm thứ gì đó đen sì, đầy lông lá tay, vừa chạy vừa ngoảnh lại phía sau, chút nữa đâm sầm vào tôi. Có ai đó đuổi theo nó, tôi nghe thấy tiếng chửi rủa của đứa hơn.

      Khi đứa rượt đuổi đứa lớn, chạy đến trước tôi, tôi gọi to:

      - Siêu ơi, cháu làm gì vậy?

      Mộ Dung Siêu giật mình dừng lại, mất đà, ngã lăn ra. Tôi vội vã bước đến, đặt tải lương thực xuống, đỡ chú nhóc dậy. Mặt mũi lấm lem, vệt máu khô đét trán, chiếc áo bông người chú nhóc bị kéo rách vài chỗ, tay dính đầy những sợi lông đen loang lổ máu, là thứ gì. Tay còn lại vẫn nắm chặt chiếc lồng méo mó.

      - ơi!

      Nhìn thấy tôi, chú nhóc tủi thân òa khóc.

      - Cháu làm sao vậy?

      Tôi rút khăn tay lau nước mắt, rồi lau vết thương mặt, tay cho chú nhóc.

      - Sao lại chảy máu thế này? Cháu đánh nhau với ai phải ?

      - Nó cướp chuột của cháu.

      Chú nhóc chỉ tay về hướng đứa trẻ khi nãy. Tôi nhìn lên, thấy bóng dáng đứa kia đâu nữa.

      Tôi rùng mình, chau mày:

      - Chuột ư?

      để ý đến biểu cảm của tôi, Mộ Dung Siêu gật đầu, ấm ức:

      - Hôm qua cháu để dành cơm, vo tròn thành mồi nhử. Hôm nay cháu chờ mãi bên cống nước mới dụ được con chuột cắn câu.

      ra chiếc lồng kia dùng để bắt chuột, chú nhóc lắm trò! Tôi nhàng phủi những hạt bụi má chú nhóc, dịu dàng hỏi:

      - Sau đó thế nào?

      - Con chuột cống này rất to, rất khỏe, cháu phải mất rất nhiều công sức mới đập chết được nó. Nhưng khi cháu định rửa sạch để mang về bị người ta cướp mất.

      Chú nhóc vùi đầu vào lòng tôi, bật khóc nức nở. Nước mắt trào ra từ đôi mắt to, đen láy, xối sạch đám bụi đất, để lộ làn da trắng bóc. Gương mặt hình trái tim bé, xinh xắn khiến tôi mủi lòng. Tết vừa rồi cậu bé mới tròn bốn tuổi, cả ngày ăn uống, lại phải vật lộn với con chuột cống như thế, mất sức, lại bị đứa trẻ lớn hơn đánh đập.

      Tôi thở dài, ôm vai cậu bé, động viên:

      - Nín Siêu, theo về nhà, chúng ta nấu cơm ăn nhé.

      Quay đầu lại, định bụng vác lương thực về nhà, chợt tôi nhận thấy phía bên kia đường người đàn ông trung niên nhìn chằm chằm vào tải gạo của tôi, vừa nhìn vừa nuốt nước bọt. Tôi lo lắng thót tim, vội giấu tải gạo vào trong lòng, ba chân bốn cẳng kéo Mộ Dung Siêu chạy . Gã đàn ông lao đến, túm cổ áo tôi kéo giật về phía sau. Cổ họng bị thắt chặt, tôi cuống cuồng khoa chân múa tay đánh trả, nhưng ăn thua.

      Vừa định đưa tay vào trong áo, chợt tôi nghe thấy gã kia kêu gào thảm thiết. Cổ áo vừa được thả lỏng, tôi lại nghe thấy tiếng kêu gào đau đớn khác, đó là tiếng của Mộ Dung Siêu.

      Tôi ôm cổ thở hổn hển, thấy gã kia vừa nhảy lồm cồm vừa xoa chân. Chú nhóc nằm dưới đất, vài giọt máu còn đọng khóe môi, ra Mộ Dung Siêu cắn vào chân người đàn ông kia. Tôi lao đến, đỡ chú nhóc dậy, lòng trào dâng nỗi xót xa. Tức giận, tôi rút súng gây mê, định hạ gục gã kia, nhưng chợt thấy từ xa bóng dáng cao lớn lao về phía mình. Tôi lập tức nhận ra Mông Tốn qua trang phục của ta.

      Tôi vội cất súng gây mê . Mông Tốn xuất , chắc chắn ra cứu nguy, tôi thể để ta nhìn thấy vũ khí tiên tiến của mình. Thừa lúc tôi còn lưỡng lự, gã kia vác tải gạo lên định chạy. Tôi lao đến giữ tay gã lại, cố gắng kéo dài thời gian để chờ Mông Tốn.

      Gã nọ ra sức giằng giật, đấm cú vào trán, khiến tôi hoa mắt chao đảo. Vừa buông tay, cơn đau buốt toàn thân ập đến dữ dội, túm tóc tôi giật mạnh, có còn là đàn ông nữa ? Tôi hối hận muôn phần vì khi nãy bắn .

      - Dừng tay!

      Cánh ta túm chặt tóc tôi lập tức buông ra. Tôi lảo đảo ngã sóng soài xuống lớp tuyết giá lạnh, lúc này mới cảm nhận được cơn đau buốt da đầu. Bên tai văng vẳng tiếng đấm đá huỳnh huỵch, gã đàn ông nọ rú lên đau đớn.

      - Cút!

      Giọng sắc lạnh, hung hãn:

      - Để ta gặp ngươi lần nữa, ngươi chết chắc đó!

      Tôi lồm cồm chống người lên, thấy gã kia hai tay ôm bụng, sợ hãi đến nỗi mặt cắt còn giọt máu, cà nhắc cà nhắc chạy biến. khuôn mặt vuông vức, nộ khí vẫn còn hừng hực sáp lại gần tôi, cúi xuống nhấc bổng tôi lên.

      - Bỏ tôi xuống!

      Tôi vừa dốc hết sức tàn gào thét, vừa đưa mắt ra xung quanh xem có ai nhìn thấy hành động khiếm nhã của ta .

      Mông Tốn cứ thế thẳng bước, vẻ mặt lạnh lùng:

      - Yên nào, ta đưa về phủ xử lý vết thương.

      Thấy tôi vẫn chưa thôi giẫy giụa, ta cúi thấp đầu, cười mỉa mai:

      - Hay muốn để pháp sư thấy cảnh tượng thê thảm này!

      Tôi im bặt, dám nhìn vào đôi mắt chim ưng ác bá của ta, nhưng vẫn kiên quyết:

      - Ngài hãy thả tôi xuống, tôi tự .

      ta nhìn tôi, thở dài, lắc đầu:

      - Thế mà người ta bảo con Hán rất dịu dàng, nhu mì.

      Đặt tôi xuống đất, sau khi xác định tôi có thể tự được, ta lại than thở:

      - yếu đuối là thế mà ngang ngạnh, bướng bỉnh hơn cả phụ nữ Hung Nô.

      Tôi bỏ ngoài tai lời xỏ xiên ấy, điều quan trọng nhất là giữ được lương thực. Đưa tay ôm vết thương trán, định bước tới nhấc tải gạo lên, ta liền sải bước lên trước, tay túm lấy tải gạo, tôi định ra đỡ Mộ Dung Siêu dậy, ta lại sải bước đến trước, tay ôm Mộ Dung Siêu lên, chu mỏ giục tôi:

      - nào…

      Về đến phủ đệ của Mông Tốn, ta sai người hầu chuẩn bị nước nóng và mang thuốc bôi vết thương ra. Tôi ngoảnh mặt , từ chối cánh tay ta giơ ra đầy thành ý, đồng thời trịnh trọng cảm ơn:

      - Tạ ơn cứu mạng của tướng quân!

      ta thu tay về, có chút hậm hực, lạnh lùng đẩy lọ thuốc ra trước mặt tôi. Tôi đón lấy, gọi Mộ Dung Siêu tới, rửa sạch vết thương và bôi thuốc cho chú nhóc.

      - Xin hỏi, vì sao tướng quân lại đến đó?

      Vừa bôi thuốc cho Mộ Dung Siêu tôi vừa gạn hỏi.

      - Đến khi nào mới chịu gọi ta là Mông Tốn?

      ta hỏi ngược lại tôi.

      Tôi sững người:

      - Điều đó có quan trọng ?

      - , tùy thôi.

      ta hậm hực, nghiêng đầu, :

      - phụ nữ yếu đuối như , cõng lưng ngần ấy lương thực, bị người ta cướp mới lạ.

      Tôi lặng im . phải tôi chưa nghĩ đến nguy cơ ấy, nhưng tôi nào dám với Rajiva về nguồn gốc số lương thực này. Hôm nay là buổi lên lớp thứ hai, nhân lúc Rajiva cùng các đệ tử ra phố khất thực, tôi lên đến nhà Mông Tốn. Tôi cũng chỉ dám giảng bài trong vòng tiếng, vì tôi phải về nhà trước khi Rajiva về. tiếp tục tình trạng này trong bao lâu ư? tôi chỉ nghĩ ra cách giải thích duy nhất là mua lương thực bằng khoản tiền bán miếng ngọc bội và chiếc trâm ngọc kia. Lòng rối như tơ vò, chắc chắn tôi thể tiếp tục dối chàng, thêm nữa, đúng như Mông Tốn , số lương thực này đủ khiến người ta nổi điên đến mức có thể giết người để cướp đoạt.

      Thấy tôi yên lặng hồi lâu, Mông Tốn khịt khịt mũi, hắng giọng:

      - hãy đem thuốc về và nhớ bôi đều đặn mỗi ngày. Hôm nay tôi đưa về.

      Tôi giật bắn cả người, nhận thấy vẻ lạnh lùng thường ngày biến đâu mất, ánh mắt nhìn tôi chứa đựng quan tâm, lo lắng lạ lùng. Ánh mắt hiền hòa ấy, tôi chưa bao giờ bắt gặp ở ta. Tim đập dữ dội, tôi vội cúi đầu, chăm chú lau rửa vết thương.

      Thuốc trị thương rất quý, nhưng còn…

      - Cảm ơn tướng quân tặng thuốc, nhưng ngài cần đưa tôi về nhà đâu… Siêu ơi, cháu gọi chú Nghiêm đến đây nhé!

      Tôi ngồi xuống bên cạnh Mộ Dung Siêu, căn dặn:

      - Nhớ đừng cho pháp sư biết.

      Mộ Dung Siêu gật đầu và biến mất nhanh chóng. Tôi soi gương kiểm tra vết thương, cũng may chỉ bị túm tóc, bây giờ da đầu còn đau nữa. Nhưng vết thương trán sưng tấy, tôi tự bôi thuốc cho mình, vừa bôi vừa mừng thầm: may mà để lại sẹo.

      Xử lý xong vết thương, tôi trịnh trọng cúi đầu, cảm tạ Mông Tốn:

      - Tôi biết lấy gì để báo đáp ơn cứu mạng của tướng quân, vậy trước khi người nhà của tôi đến, tôi có thể giảng chương tiếp theo hầu tướng quân được ? Chương này có tên gọi “Làm thế nào giành được vùng lãnh thổ bằng quân đội và năng lực của cá nhân nhà lãnh đạo?”.

      ta hậm hức vài tiếng, nhìn thẳng vào tôi bằng vẻ lạnh lùng:

      - Rất công bằng, sòng phẳng! Cứu lần đổi được chương trong cuốn sách quý.

      Tôi nghiêng đầu, gắng gượng ổn định nhịp thở, cố xua vết đau trán và cái bụng rỗng gõ trống.

      - Quan điểm của vĩ nhân trong cuốn sách này là: người dựa dẫm vào vận may là người có thể duy trì được địa vị của mình cách vững chắc. Ông…

      - Vì sao cho pháp sư biết?

      Tôi sững người, ta ngắt lời tôi vì chuyện này ư? Tôi cười buồn, Rajiva cao ngạo là thế, sao chàng có thể để tôi đổi lấy lương thực bằng cách này?

      - Pháp sư cũng là đàn ông, nếu biết ngày nào cũng đến nhà kẻ háo sắc…

      ta đến bên tôi, đảo qua đảo lại vòng, ánh mắt hỗn hào dồn vào ngực tôi, sáp lại bên tai tôi, buông giọng lẳng lơ:

      - Ngài nghĩ gì về giá trị của năm đấu gạo mỗi ngày?

      Tôi trừng mắt nhìn ta, càng nhìn điệu cười bông lơi của ta càng bực mình, tôi gằn giọng:

      - Tướng quân, cuốn sách quý này quan trọng hơn việc làm vẩn đục mối quan hệ của chúng ta chứ?

      ta ngửa cổ cười lớn:

      - Rất bình tĩnh! Bị đe dọa mà hề hoang mang.

      Sau đó, ta thôi cười, đổi giọng nghiêm túc:

      - Đúng như , ta biết điều gì mới là quan trọng. Hôm nay cần giảng bài thêm nữa, ngất vì đói đấy!

      Được thế còn gì bằng, tôi thả người xuống ghế, cố gắng giảm thiểu tối đa năng lượng tiêu hao của cơ thể. Chúng tôi ngồi đối diện nhau, ai gì, chỉ có đôi mắt chim ưng của ta là chịu ở yên chỗ mà liên tục đảo quanh người tôi.

      Tôi chỉ còn cách nhắm mắt lại để khỏi phải bực mình. Tôi nghe thấy tiếng cười khe khẽ bên phía đối diện. Lát sau, ta ra ngoài lúc rồi quay lại, với tôi:

      - ăn chút gì đó rồi hãy về.

      Giọng , và hình như pha chút dịu dàng, nhưng điều đó càng khiến tôi lo sợ. Đúng lúc người hầu bưng lên đĩa thịt dê Hô Diên Bình đến. Tôi cưỡng lại thứ hương vị thơm ngon nhất trần đời ấy bằng toàn bộ sức lực, kiên quyết đứng lên, xin phép ra về, mặc cho gương mặt của Mông Tốn bỗng trở nên u ám.

      Từ chối đĩa thịt dê ấy phải vì tôi kiêu kỳ, sĩ diện, mà vì tôi… dám. Nếu tỉnh táo, tôi vẫn còn súng gây mê để tự vệ. Nhưng khi ăn phải đồ ăn bị tẩm thuốc mê chẳng hạn, dù có nhảy xuống sông Hoàng Hà tôi cũng gột sạch được oan ức. Chỉ e ta nảy sinh ý đồ đó. Con người này khiến người khác phải khiếp sợ.

      Hô Diên Bình đưa tôi về nhà. đường , chúng tôi bàn bạc và thống nhất rằng, hàng ngày ta đến nhà Mông Tốn đón tôi và được cho Rajiva biết. Rajiva cùng đệ tử cũng trở về ngay sau đó, họ cũng mang lương thực về. Nhưng điều khiến tôi kinh ngạc phải số lương thực mà là vết thương khô máu tay Rajiva.

      Tôi vội vã lau rửa sạch vết thương cho chàng rồi bôi thuốc trị thương lấy từ nhà Mông Tốn về. Vết thương này chắc chắn do vật sắc nhọn gây ra. Hỏi chàng, chàng chỉ trả lời qua loa rằng do cẩn thận nên bị đứt tay. Mới được vài câu, chàng chuyển đề tài sang vết thương trán tôi. Tôi bắt chước chàng, cũng trả lời lấp liếm rằng do bất cẩn nên bị va đập, rồi lại tiếp tục chuyển hướng câu hỏi sang việc: chàng có được số lương thực đó từ đâu?

      Chàng vui vẻ cho tôi biết đó là quà biếu của quan Trung thư giám[2] Trương Tư. Trương Tư tính tình nho nhã, hiền hòa, chưa bao giờ làm mất lòng Lữ Quang nên rất được ông ta mến, tin dùng. Nhưng vì sức khỏe tốt, nên lần này Lữ Quang đưa ông ta ra trận cùng. Trương Tư bệnh tật ốm yếu nhiều ngày, Rajiva tụng kinh giúp ông ta nguôi ngoai, Trương Tư cảm kích nên biếu chàng năm đấu gạo.

      [2] Chức quan ra đời bắt đầu từ thời Tam quốc, chức vụ tương đương với Trung thư lệnh, nhưng thứ bậc cao hơn chút.

      Tôi hớn hở giao lương thực cho Hô Diên Bình, căn dặn ta hôm nay nấu thêm nửa đấu gạo, phần còn lại đưa vào nhà kho khóa kỹ. Đồng thời, tiết lộ với Rajiva, bệnh tình của Trương Tư chẳng thể thuyên giảm, chưa đầy mấy năm nữa ông ấy qua đời.

      - Trước đó, Lữ Quang ra sức chữa chạy cho Trương Tư. đạo sĩ ngoại quốc tên gọi Racha bảo rằng có thể chữa lành cho Trương Tư, được Lữ Quang thưởng cho rất nhiều vàng bạc châu báu. Biết Racha là kẻ lừa đảo, nên trước mặt Trương Tư và Lữ Quang, chàng tết sợi chỉ ngũ sắc, đốt cháy thành tro, thả vào trong nước. Tro nổi lên mặt nước và kết tụ thành hình sợi chỉ. Đó là điềm báo bệnh của Trương Tư thể hồi phục. Quả nhiên, mấy ngày sau, ông ấy qua đời.

      Rajiva băn khoăn hỏi tôi:

      - Tro chỉ làm sao mà kết tụ thành hình được?

      - Em biết.

      Mùi thơm thanh thanh của gạo từ nhà bếp đưa lại, bữa cơm hôm nay thịnh soạn hơn hôm qua. Tôi nuốt nước bọt, tươi cười trêu chọc chàng:

      - Chàng thông minh hơn em nghĩ nhiều, còn những mấy năm nữa, chàng cứ từ từ mà nghĩ.

      - Ngải Tình, gạo của nàng từ đâu mà có?

      Biết chàng hỏi mà! Tôi chột dạ, trả lời qua quýt:

      - em mua bằng tiền bán ngọc.

      Sau đó, tôi vội vàng đứng lên, xuống bếp:

      - Em xuống phụ bà Công Tôn tay.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :