1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đức Phật và nàng - Chương Xuân Di(tập 2 - full)

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 62: Kỉ niệm Turpan

      Đến Yanqi, Lữ Quang được quốc vương nước này đón tiếp rất long trọng. Khi đội quân Tây chinh của Lữ Quang tiến qua Yanqi, Quốc vương Niliu dẫn theo các tiểu quốc lân cận tới xin hàng. Lần này, Lữ Quang quay lại đây, Vua Yanqi tiếp đón hết sức chu đáo, nên Lữ Quang dừng lại ở Yanqi khoảng năm ngày, và nhận được rất nhiều lễ vật từ Vua nước này. Phong tục tập quán của người Yanqi rất giống với người Khâu Từ, nên trong năm ngày ở đây, chúng tôi như được trở về quê cũ. Cảm giác thân thuộc này khiến Rajiva vui mừng khôn xiết.

      Ra khỏi Yanqi, đoàn chúng tôi tiếp tục men theo hồ Bosten tiếp vài ngày nữa. Đây là hồ nước ngọt nằm sâu trong lục địa lớn nhất của Trung Quốc. Mặt hồ cuộn sóng mênh mông, nước xanh như ngọc, lau sậy và cỏ nến mọc um tùm ven hồ. Từng đàn cò, vịt trời là là bay mặt nước, tấp nập, rộn ràng. Thấp thoáng vài chiếc tuyền đánh cá của ngư dân Yanqi mặt hồ. Hàng ngày, sau khi dựng trại xong, rất nhiều binh sĩ xuống hồ bắt cá, cải thiện bữa tối của chúng tôi.

      Tháng năm, đoàn chúng tôi tiến vào trong những bồn địa thấp nhất thế giới – bồn địa Turpan. Turpan là tiếng Uygur và nó chưa xuất ở thời đại này. Vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều, bồn địa này thuộc địa phận của tiểu quốc Cheshi. Khí hậu khô hạn, oi bức, chưa bước vào mùa hạ nhưng Hỏa Châu – Turpan nóng lòng thị uy với chúng tôi. Nhiều ngày trôi qua, cảnh tượng duy nhất ra trước mắt chúng tôi là vùng khô cằn sỏi đá, vắng bóng sống trải rộng mênh mông. Chốc chốc lại nổi lên trận cuồng phong khiến cả đoàn người, ngựa, lạc đà liêu xiêu, lảo đảo. Mặt đất phủ đầy những hạt muối li ti, lớp vỏ ngoài của chúng như thể có khả năng hấp thụ ánh sáng, nhấp nháy, lấp lánh liên hồi. Phía chân trời thấp thoáng hình của hồ nước, rừng cây, hết sức kỳ quái, đó chính là nguyên nhân tạo ra ảo ảnh sa mạc.

      Chúng tôi tiến vào hoàng thành Cheshi. Thành phố này được xây dựng gò đất cao khoảng ba mươi mét, là nơi giao nhau của các dòng sông tương đối dốc và chỉ có con đường hẹp duy nhất dẫn đến cổng thành, địa hình rất độc đáo, thú vị. Ở thời đại, tôi từng tới đây, nhưng chỉ được chứng kiến khung cảnh thành quách hoang phế. Nơi đây chính là thành cổ Giao Hà nổi tiếng vào thế kỷ XXI, người ta đánh giá đây là thành cổ được xây dựng hoàn toàn bằng đất lớn nhất, lâu đời nhất và được bảo tồn tốt nhất.

      Sách “Hán thư”, phần Tây vực truyện chép như sau: “Nước Cheshi có hoàng thành Giao Hà. Tên gọi này bắt nguồn từ việc hoàng thành được xây dựng điểm giao nhau của các con sông”. Quốc gia Cheshi thống trị khu vực này được hơn năm trăm năm. Nhưng chưa đầy tám mươi năm nữa, khi vị vua Cheshi cuối cùng băng hà, tộc người Rouran lập Khanbozhou làm vua, Cheshi đổi tên nước thành Gaoxhang (Cao Xương), dời đô đến thành cổ Cao Xương, cách Giao Hà vài chục ki lô mét. Huyền Trang, đường Tây Thiên ngang qua nơi đây và kết nghĩa em với vua Cao Xương là Juwentai (Cúc Văn Thái), tên hiệu Ngự đệ của Huyền Trang trong “Tây Du Ký” bắt nguồn từ câu chuyện kết nghĩa này.

      Cheshi là trong số các tiểu quốc từng cử người đến Trường an thỉnh cầu Phù Kiên Tây chinh và cũng chính tiểu quốc này tình nguyệt làm “hoa tiêu” cho quên đội của Lữ Quang. Bởi vậy, họ tiếp đón Lữ Quang hết sức long trọng. Trong ánh hoàng hôn cuối ngày, chúng tôi tiến vào cổng thành Cao Xương giữa tiếng nhạc rộn vang và hoa tươi rực rỡ, nghi thức trọng thể ấy khiến tôi khỏi bất ngờ. Bởi vì, thành quách hoang phế tiêu điều mà cách đây lâu tôi được chứng kiến bỗng chốc biến thành thành phố phồn hoa đô hội, sống động trước mắt tôi. Làm sao tôi có thể xúc động trước nỗi thương hải tang điền diễn ra chỉ trong chớp mắt.

      Thành phố này vẫn tiếp tục phát triển cho đến cuối thế kỹ XIII, khi Haidu, quý tộc Mông Cổ làm phản và tiến hành cuộc chiến tranh tàn khốc, kéo dài nhiều năm, sau cùng chiếm được Cao Xương, Giao Hà, đồng thời cưỡng bức người dân khu vực này từ bỏ tín ngưỡng theo đạo Phật truyền thống, chuyển sang theo đạo Hồi. Khi cuộc chiến tranh kết thúc, người Cheshi dìm chết toàn bộ phụ nữ và trẻ em trong những giếng nước, để tránh cho họ khỏi bị làm nhục và bị nô dịch. Những giếng nước này vẫn tồn tại cho tới tận thế kỷ XXI. Và giờ đây, khi bước đường phố Giao Hà, tôi lại nhìn thấy chúng lần nữa. Sau khi công phá thành, người Mông Cổ thực chính sách đốt, cướp, giết tàn bạo mà họ vẫn thường sử dụng, thành phố hơn nghìn năm trăm năm lịch sử bị họ hủy hoại hoàn toàn. Nơi tôi đứng là ngôi chùa Đại Phật Tự nằm ở trung tâm thành phố, bên cạnh là hoàng cung được xây dựng hoàn toàn bằng đất, và những dãy nhà nghỉ dành cho quan lại. Đến thế kỷ XXI, tàn tích của vụ hỏa hoạn thảm khốc vẫn còn lưu lại dấu vết.

      Giao Hà là thành phố lớn cuối cùng trước khi chúng tôi đến Đôn Hoàng (Dunhuang), vì vậy Lữ Quang hạ lệnh nghỉ ngơi dăm bữa nửa tháng. Nhờ thân phận cao quý của Rajiva, chúng tôi phải sống trong nhà trọ, mà được đích thân vua Cheshi sắp xếp chỗ ở trong cung. Tối hôm đó, Nhà vua còn tổ chức buổi dạ tiệc lớn trong đại điện, Rajiva và tôi đều được mời tới dự. Trong buổi tiệc, Vua Cheshi ngỏ lời mời Rajiva đến chùa Đại Phật Tự thuyết giảng giáo lý Đại Thừa Bát Nhã, Lữ Quang dù muốn, nhưng vẫn phải đồng ý. Câu trả lời của Rajiva là chàng cần chuẩn bị ngày, hôm sau bắt đầu thuyết pháp.

      Tôi tròn xoe mắt nhìn chàng, thuyết pháp là công việc hàng ngày của chàng kia mà, có khi nào chàng phải chuẩn bị đâu! Chỉ cần với chàng, cần tìm kinh văn gì, cần giải thích giáo lý Phật pháp nào, là chàng thậm chí cần suy nghĩ, vẫn có thể trả lời trôi chảy, mạch lạc và hấp dẫn. Bộ não chàng, giống như tàng kinh các toàn diện. Tôi cảm thấy hồ nghi khi bắt gặp nụ cười đầy ý của chàng thầm hướng về phía mình. Kết thúc yến tiệc, trở về phòng, tôi nóng lòng muốn chàng giải đáp thắc mắc, nhưng chàng chỉ tủm tỉm cười, điệu bộ bí mật.

      Sáng hôm sau, tôi tỉnh lại thấy chàng đâu. Chàng thường dậy sớm hơn tôi, có lẽ tụng kinh ngoài kia, tôi lấy làm lạ. Và còn bởi vì, hôm nay tôi có việc quan trọng phải làm, công việc tôi chờ đợi rất lâu từ trước khi đến thành Giao Hà này. Đối với tôi, được khảo sát thực địa thành cổ Giao Hà vào thời kỳ rực rỡ nhất của thành phố này là công việc cực kỳ ý nghĩa. Mặc dù tôi định quay về thời đại, nhưng niềm đam mê khảo cổ và lịch sử ăn vào máu, tôi muốn bỏ cũng được. Bởi vậy, sau khi rửa mặt đánh răng xong, tôi hớn hở chuẩn bị ra phố. Nhưng vừa bước qua cửa cung, tôi bỗng sững người lại.

      người đàn ông cao gầy xoay lưng về phía tôi, người đó mặc chiếc áo màu ngà, mái tóc xoăn màu nâu thả ngang vai, từ người đàn ông đó toát ra khí chất thoát tục của bậc tiên nhân. Nhận ra động tĩnh phía sau, người đó quay lại, đôi mắt long lanh tựa dòng sông mùa xuân.

      Người đó ngắm nghía là trang phục của bản thân, đưa khuỷu tay về phía tôi, tươi cười rạng rỡ:

      - Hôm nay ta phải bậc cao tăng Kumarajiva, mà là người chồng bình thường, đưa vợ dạo phố.

      Tôi ngẩn ngơ, đắm đuối ngắm nhìn bậc tiên nhân trác tuyệt bằng đôi mắt mang hình trái tim, nghe chàng vậy, đâm ra bực bội:

      - Em làm việc chứ phải chơi đâu nhé!

      Chàng phì cười, lắc đầu:

      - Được rồi, vậy người chồng này xin được theo vợ làm việc, vợ cứ tùy ý sai khiến.

      Chả trách tối hôm qua chàng tỏ ra bí mật như vậy, ra có tính toán từ trước! Chàng để tâm đến cả sở thích, đam mê của tôi! Cứ nghĩ đến điều này, tôi lại vui sướng bật cười khúc khích. Lồng tay vào cánh tay chàng, cùng chàng bước . Đột nhiên nhớ tới chuyện cũ, tôi hỏi:

      - cho em biết, ngày cuối cùng của lễ hội Sumuzhe năm đó, chàng đến tìm em phải ?

      Chàng bỗng dừng chân, khuôn mặt ửng đỏ, giọng ấp úng lạ lùng:

      - Nàng… sao nàng biết được?

      - Bởi vì hơn mười năm rồi mà phong cách hóa trang của chàng vẫn hề thay đổi!

      Tôi bật cười sảng khoái, nhớ về chuyện xưa, khỏi xúc động, bồi hồi. Tôi ngừng lại, quay sang nhìn chàng:

      - Lần trước kịp với chàng, nhưng lần này em nhất định phải .

      Chàng hướng ánh mắt băn khoăn về phía tôi, bộ dạng sợ hãi ấy khiến tôi nhịn nổi, ôm bụng cười khoái trí:

      - Em muốn rằng, chàng ăn mặc như vậy trông rất đẹp trai!

      Thu lại tiếng cười, đón lấy ánh mắt ấm áp của chàng, trái tim tôi cất lời:

      - Rajiva, chàng là người đàn ổng điển trai và nam tính nhất mà em từng gặp.

      Chàng bất ngờ, nụ cười bẽn lẽn nở môi, nụ cười dung dị ấy khiến cả con người chàng tỏa sáng:

      - Ta chưa bao giờ để tâm đến vẻ ngoài của mình. Vả lại, ta ba mươi sáu tuổi rồi, còn điển trai gì nữa!

      Tôi lắc đầu:

      - Trước tuổi ba mươi, tướng mạo của con người là do cha mẹ ban tặng. Nhưng sau ba mươi, là do tự người đó tạo nên. Thành ngữ có câu: Tướng do tâm sinh. Khí chất, phong độ và từng trải của con người đều là kết quả của trải nghiệm tự thân. Diện mạo của người có thể phản ánh tâm hồn phóng khoáng, rộng mở của người đó. số nam giới quá ư ỷ lại vào vẻ ngoài trời phú, càng ngày họ càng trở nên tẻ nhạt. Bụng bia tròn trùng trục nhưng chịu ăn kiêng, chỉ biết kêu trời oán đất thiếu công bằng. Những người đàn ông đó, dù có đẹp trai đến mấy, chỉ vài năm sau bộ mặt đáng ghét của họ lộ tẩy. Nhưng có những người đàn ông giống như hơi men, càng ủ lâu càng thơm. Năm tháng phủ lên họ lớp hương thời gian nồng đượm, những nếp nhăn trán toát lên khí chất và sức hấp dẫn, vì nó đại diện cho lĩnh hội và trí tuệ trau dồi từ đời sống.

      Lẳng lặng ngắm nhìn khuôn mặt từng trải quyến rũ của chàng, tôi nhận xét:

      - Rajiva, chàng giống như vò rượu quý, dù chàng 50 tuổi, 60 tuổi hoặc già hơn nữa, em vẫn luôn dung mạo của chàng như thuở ban đầu.

      Tôi cúi xuống, quan sát bản thân, hít hơi sâu, tự động viên:

      - Còn em, em cũng cố gắng rèn luyện bản thân, tu tâm dưỡng tính, để ngày càng trở nên hấp dẫn, có như vậy mới xứng đáng bên cạnh chàng.

      - Nàng lúc nào cũng biết cách làm ta vui lòng.

      Đôi mắt chàng long lanh tươi sáng niềm hân hoan rạng rỡ, chàng cốc vào trán tôi:

      - Đói bụng chưa? Ta nghe mì vằn thắn của Giao Hà rất ngon…

      - Vậy ư? Chúng ta ăn thôi.

      Chẳng kịp xoa chỗ đau vừa bị cốc, tôi kéo tay chàng lôi :

      - Chàng mời em nhé!

      - Nàng là, sao phải vội thế…

      Chàng đưa tôi dạo phố, vì mặt thường phục nên tôi chẳng ngại ngùng nắm tay chàng trước bàn dân thiên hạ. Lúc đầu, chàng có vẻ được tự nhiên cho lắm, nhưng tôi kiên trì nắm tay chàng vài lần, dần dà, chàng đành chiều theo ý tôi. Chúng tôi thưởng thức món bánh bao nướng, vốn là đặc sản của vùng này. phải loại bánh bao thông thường, mà nhân thịt dê được bọc bằng lớp bột mì mỏng, sau đó đặt vào trong lò nướng bánh. Khi vỏ bánh vàng rượm mới nhấc ra, ăn ngay lúc nóng, vỏ giòn, thịt mềm, thơm mà ngấy. Tôi vừa nhảy tưng tưng vì nóng vừa cắn, nhai, nuốt liên hồi, chàng đứng bên lắc đầu, thở dài.

      Thịt xiên nướng cũng là món ăn vặt thể thiếu. Nhớ lại ngày trước, trong lễ hội Sumuzhe tôi từng mường tượng ra cảnh hai chúng tôi ngồi xổm bên vệ đường ăn thịt nướng, tôi mỉm cười nham hiểm quay ra nhìn chàng. Nhận ra điềm họa, chàng lùi lại, kéo tôi ăn mì vằn thắn, nhưng bị tôi giữ lại. Ha ha, cừu vào hang cọp, muốn chạy thoát ư, đừng hòng!

      Kết quả sau cùng là, bậc danh sư cao ngạo thoát tục, đỏ mặt ngồi cạnh tôi nơi góc phố, cắn thịt dê nướng. Cũng may chàng chưa từng đến Giao Hà, lại mặc thường phục, nên bị ai nhận ra. Nếu , chẳng đời nào chàng chịu để tôi hủy hoại hình ảnh của mình như thế!

      đến quán ăn , tôi ngồi xuống, gọi hai bát mì. Chàng chần chừ khi nhìn thấy những vết dầu mỡ bám bàn ghế. Tôi biết từ chàng quen với cuộc sống có kẻ hầu người hạ, nên rất sạch , tôi mỉm cười với chàng: muốn ăn món mì chính cống phải tìm đến những quán hàng như thế này. Tôi quen với việc lê la thưởng thức đồ ăn vặt trong các chuyến du lịch. Món mì của quán này quả rất ngon, mềm, dai, vừa miệng. Sau khi quan sát điệu bộ hoan hỉ của tôi, cuối cùng chàng cũng chịu động đũa và sau hồi tận hưởng, chàng cũng phải gật đầu đồng tình với quan điểm của tôi.

      Hôm đó, chúng tôi lang thang mọi ngóc ngách trong thành Giao Hà, đến tận khi sẩm tối mới ra về. Tôi quên sạch mục đích ban đầu là ra ngoài làm việc. Vì ăn nhiều quá, tôi ôm bụng suốt đường về. Trước đây, tôi cứ cho rằng, chơi phố phải cùng những người hài hước, ưa huyên náo như Pusyseda mới vui, nhưng hôm nay, quan điểm đó đổ vỡ triệt để. Bởi vì trước đây, tôi chưa từng được cùng người mình dạo phố. Cho dù chàng biết đùa, hài hước, cho dù trước lúc nắm tay tôi chàng phải đưa mắt quan sát xung quanh xem có ai nhìn thấy , cho dù chàng thích quản thúc tôi, cho tôi ăn quá nhiều và chạy lung tung, nhưng cảm giác hạnh phúc ngập tràn khi được bên chàng, Pusyseda thể mang lại cho tôi.

      Buổi tối, lúc ngủ, chàng vẫn ngả tay cho tôi gối đầu như thường lệ, rồi khẽ thủ thỉ bên tai tôi:

      - Ngải Tình, hôm nay ta rất vui.

      Tôi xoay người lại, ôm chàng, lòng mãn nguyện dâng đầy:

      - Cảm ơn chàng làm tất cả vì em.

      - Nếu nàng muốn, sau này ta thường xuyên đưa nàng chơi.

      - Chàng là nhà sư, thể làm vậy.

      Tôi vùi đầu vào ngực chàng, áp má lên má chàng:

      - Em mong cầu gì nhiều, chỉ cần mỗi năm, chàng chịu đưa em chơi ngày, cùng em tận hưởng cuộc sống của người thường như hôm là em mãn nguyện lắm rồi!

      nụ hôn êm ái đặt lên môi tôi, giọng ấm áp thoảng bên tai tôi:

      - Ừ.

      Những ngày sau đó, Rajiva ở miết trong chùa giảng kinh cho đến ngày trước khi chúng tôi lên đường. Còn tôi, giống như ở các điểm dừng chân khác, ra ngoài khảo sát, ghi chép. Chỉ có điều, mỗi khi qua cửa hàng bán bánh bao nướng, góc phố nơi chúng tôi từng đứng ăn thịt, và quầy hàng mì vằn thắn đó, tôi lại tủm tỉm cười. Lúc rời khỏi Giao Hà, tôi cứ ngoái đầu nhìn lại thành phố gò đất bên sống ấy dần khuất xa khỏi tầm nhìn. Thành phố này khiến tôi lưu luyến hơn bất cứ nơi nào tôi từng ở lại, bởi vì kỉ niệm đẹp của buổi rong chơi ấy.

      Dọc đường từ Giao Hà đến Shanshan (Thiện Thiện), những cánh đồng mênh mông, bà con dựng lên rất nhiều giàn nho, có lúc chúng tôi dưới những giàn nho ấy. Nhà nào nhà nấy đều bắc những giàn phơi nho. được nửa đường Hỏa Diệm Sơn xuất trước mắt chúng tôi. Nền trời xanh ngăn ngắt, mây trắng bồng bềnh trôi, dưới đất lại là màu đỏ quạch chì chiết. Mặc cho bạn có nhắm mắt lại để tránh nó, sắc đỏ gai góc ấy vẫn xuyên qua màng mắt bạn. Mồ hôi đầm đìa, chúng tôi ra khỏi bồn địa Turpan và đến Shanshan.

      Shanshan là quốc gia , thể sánh với Giao Hà. Chúng tôi chỉ dừng chân tại đây ba ngày rồi tiếp tục lên đường, để đến tiểu quốc cuối cùng của Tây vực – Yiwu. Tên của quốc gia này rất nổi tiếng vào thời đại, bởi vì nhờ có giống dưa vàng tuyệt hảo, cả thế giới đều biết đến vùng đất này với cái tên: Hami. Nhưng vào thời điểm tôi có mặt ở đây, Yiwu hề có chút tiếng tăm nào, chỉ là quốc gia bé, nhưng lại ở vào vị trí hiểm yếu con đường tơ lụa.

      Sở dĩ tiểu quốc này có thể tồn tại độc lập giữa kìm kẹp của các nước lớn đều nhờ ở may mắn và chính sách ngoại giao mềm mỏng. Bởi vậy, tuy Yiwu tham dự vào cuộc Tây chinh của Lữ Quang, nhưng vẫn đón tiếp đoàn chúng tôi rất chu đáo, nồng hậu. Chúng tôi nghỉ ngơi ở Yiwu nhiều ngày hơn ở Shanshan, vì đoàn quân cần chuẩn bị đầy đủ lượng nước và lương thực cần thiết để đối mặt với cơn ác mộng mang tên tám trăm dặm sa mạc Hạ Diên Tích[1]. Vào thời nhà Đường, Sa mạc Hạ Diên Tích gọi là Sa Hà, vốn là vùng đất mênh mông, hoang vu, có bóng dáng của sống. Muốn vượt qua sa mạc này, người xưa chỉ có thể men theo những bộ hài cốt của người trước và xương hóa thạch của động vật. đường có thể thường xuyên bắt gặp những bộ xương khô của cổ nhân. Nghe , có người cứ mãi, mãi, rồi ngã xuống và bỏ mạng. Qua nhiều năm tháng, thi thể người chết bị phong hóa, biến thành xác khô và vẫn giữ nguyên hình hài lúc chết.

      [1] Còn gọi là Sa Hà: tức dòng sông cát, hay sa mạc Gobi

      đường Tây chinh qua đây, trải qua hơn ba trăm dặm giọt nước, tướng sĩ của Lữ Quang ai nấy đều mặt mày biến sắc. Nhưng Lữ Quang rất may mắn vì đoàn quân của ông ta gặp được trận mưa hàng trăm năm mới có lần sa mạc này. Tuy nhiên, Lữ Quang hiểu rằng, ông ta thể lần nào cũng may mắn như thế, nên đích thân kiểm tra công tác chuẩn bị nước uống và lương thực, hẳn là trải nghiệm của lần vượt sa mạc thập tử nhất sinh trước đó khiến ông ta lo sợ và cảnh giác.

      Cuối tháng sáu, chúng tôi bắt đầu tiến vào sa mạc tử thần Hạ Diên Tích dài tám trăm dặm. Từ Yiwu đến Ngọc Môn Quan, có bất cứ điểm tiếp tế nào. Sư phụ Huyền Trang vô cùng vất vả khi phải vượt qua sa mạc này chỉ với mình ngựa. Ngài lại lỡ tay làm đổ túi nước, nên suốt bốn ngày năm đêm ngài phải chịu khát, chút nữa bỏ mạng. Chúng tôi may mắn hơn ngày rất nhiều, vì chúng tôi có người dẫn đường, lại được tiếp tế lương thực. Nhưng tiến vào sa mạc Hạ Diên Tích trong thời tiết oi bức, nắng như đổ lửa thế này vẫn hết sức gian khổ. Nhiệt độ buổi trưa có thể lên đến hơn 45oC, vô cùng khô hạn, mỗi người chỉ được chia lượng nước rất hạn chế, ai dám uống nhiều, vậy nên miệng môi ai nấy đều nhanh chóng bị nứt nẻ..

      Trong “Đại Đường Tây vực ký”, sư phụ Huyền Trang mô tả như sau: “Ban đêm, ma đốt lửa, những đốm sáng lập lòe ma mị, ban ngày gió cát mịt mù, vần vũ như mưa bão”. Những miêu tả sống động ấy, nếu đích thân đặt chân vào sa mạc này, chẳng thể có được trải nghiệm khắc cốt ghi tâm. Ban ngày, gợn gió, nhưng có thể ngay lập tức tối tăm mặt mày vì gió cát, bụi đá, với những thanh rú rít ghê rợn như tiếng ma quỷ. Bụi cát bị gió lốc cuốn tung, bay mù mịt khắp trời hệt như mưa rào, dù quấn khăn bịt mặt rất dày, vẫn có thể bị cát xâm nhập vào tận cuống họng.

      Ban đêm, bầu trời ngàn sao lấp lánh, mặt đất chập chờn những bóng ma trơi. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy “ma trơi”, hình ảnh đó phát ra từ hài cốt của con người và động vật chết trong điều kiện tự nhiên khắc nhiệt này từ hàng ngàn năm qua. Ở thế kỷ XXI, sa mạc Hạ Diên Tích còn đáng sợ như vậy nữa, đường sắt xuyên qua sa mạc, trước mặt hành khách chỉ là khoảng hoang vu, tẻ nhạt mà thôi. Ai có thể ngờ rằng, nghìn năm trước, nơi đây từng được xem là vùng đất chết kia chứ!

      Sau nửa tháng trời, khi phong hỏa đài của Ngọc Môn Quan ra trước mắt, ai nấy đều reo hò mừng rỡ, cuối cùng chúng tôi vượt qua tám trăm dặm sa mạc Hạ Diên Tích. Nhưng tôi biết, con đường phía trước hề thuận lợi như mọi người nghĩ. thứ khác đáng sợ hơn cả vùng đất chết chờ đợi chúng tôi.

      Chiến tranh sắp xảy ra…

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 63: Hành lang Hà Tây 1000 năm lịch sử

      Đoàn chúng tôi bị chặn lại ở cổng thành Ngọc Môn Quan. Tôi và Rajiva, cùng hàng vạn nghệ nhân Khâu Tử khác đều ở cuối đoàn, nên ngoài tôi ra, ai biết chuyện gì xảy ra. Hôm đó, chúng tôi được lệnh dựng trại ngoài thành Ngọc Môn Quan. ai có thể ngờ, hơn mười ngày sau, chúng tôi vẫn phải sống trong những lán trại bên ngoài thành đó.

      Thứ sử Lương Châu do Phù Kiên sắc phong – Lương Hy kiên quyết cho Lữ Quang qua ải Ngọc Môn và khiển trách Lữ Quang trái lệnh Phù Kiên, tự ý về kinh. thực là Lữ Quang trở về theo chiếu thư của Phù Kiên, nhưng có lẽ Lương Hy muốn thừa dịp Phù Kiên thất thế để đục nước béo cò, cát cứ phân tranh, nên mới viện ra cái cớ vô lý đó, hòng định tội Lữ Quang. Lương Hy phái con trai là Lương Dẫn cùng bộ tướng Diêu Hạo, dẫn theo năm vạn quân đến chặn đánh Lữ Quang.

      - Kết cục thế nào?

      Chúng tôi nằm ôm nhau tâm , tôi ngã đầu cánh tay chàng, cảm giác thoải mái, dễ chịu vô cùng.

      - Lữ Quang phải người tốt, nhưng ông ta khá có tài đánh trận, lại có trợ thủ đắc lực, giỏi phân tích và phán đoán tình hình là Đỗ Tấn.

      Cuộn tròn và vùi sâu mình trong lòng chàng, hít hà hơi thở đượm mùi đàn hương rất đặc biệt của chàng, cảm giác vô cùng khoan khoái.

      - Lương Hy vốn là thư sinh nho nhã, nhưng cơ trí, gian hùng, giỏi dụng binh, chịu nghe lời can gián. Đỗ Tấn hiến kế với Lữ Quang, lợi dụng mâu thuẫn trong quân đội của Lương Hy, tiến đánh bất ngờ. Đỗ Tấn thậm chí lấy đầu mình ra đảm bảo cho trận đánh này.

      Chúng tôi ở hậu phương, nhưng vẫn nghe tiếng gươm đao phía trước. Chỉ ngày, tin chiến thắng của Đỗ Tấn được loan báo khắp trong quân. Mấy ngày sau, cam tâm, Lương Dẫn lại kéo quân đến gây chiến, bị Đỗ Tấn đánh cho tan tác. Lương Dẫn cùng hàng trăm kỵ binh chạy trốn về hướng Đông, bị Đỗ Tấn truy đuổi và bắt sống. Tài chỉ huy hiệu quả trong biến cố tại hẻm núi lúc trước và chiến công đánh bại Lương Dẫn trong cả hai trận đánh vừa qua khiến uy danh của Đỗ Tấn nổi như cồn khắp toàn quân. Nhưng tôi nén nổi tiếng thở dài. Đỗ Tấn là người có đầu óc hơn Lữ Quang, nhưng phó tướng lập công lớn thường khiến chủ tướng lo sợ, lịch sử chứng minh, vì bị Lữ Quang ghen ghét đố kỵ nên chỉ mấy năm sau, Đỗ Tấn mất mạng.

      Vì Rajiva bao giờ chịu ngồi yên chỗ, nên mấy ngày nay cả hai chúng tôi đều rất bận rộn, Rajiva tụng kinh siêu độ cho các tử sĩ và chữa trị cho những người bị thương. Tôi trở thành trợ lý của chàng, những tri thức về vệ sinh dịch tễ ít ỏi của tôi ở thời đại phát huy tác dụng, chí ít nó giúp giảm đáng kể tỉ lệ lây nhiêm bệnh tật của các thương bệnh binh giữa mùa hè nóng bức này.

      - ngày nọ, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni dẫn theo các đệ tử xuất hành, bỗng đường Ngài trông thấy đống xương khô. Phật tổ cung kính vái lạy đống xương ấy, đệ tử A Nan lấy làm băn khoăn, Phật bảo rằng: “Xương cốt này biết đâu là xương cốt của tổ tiên hay cha mẹ ta trong nhiều đời trước. Bởi nhân duyên ấy mà ta nay lễ bái họ. A Nan, con hãy chia đống xương này làm hai phần. Nếu là xương cốt của đàn ông có màu trắng và nặng hơn. Nếu là phụ nữ, có màu đen và hơn.”

      Bốn năm mươi binh sĩ chen nhau trong lán trại của chúng tôi, còn chỗ ngồi, họ phải đứng nghe Rajiva giảng kinh. Ý tưởng ban đầu của Rajiva là giảng kinh để động viên các binh sĩ bị thương. Nhưng thông tin này truyền nhanh chóng trong đoàn quân, chỉ vài ngày sau có rất nhiều binh sĩ khẩn cầu Rajiva thuyết giảng kinh Phật. Và rồi mỗi tối, họ đều đến lán trại của chúng tôi nghe Rajiva giảng kinh nửa canh giờ.

      Rajiva có biệt tài dùng các câu chuyện để minh họa và diễn giải những giáo lý Phật pháp uyên thâm. Từ sau thảm biến tại hẻm núi kia, danh tiếng của Rajiva văng khắp toàn quân, các binh sĩ tôn kinh chàng như thần linh. Tín đồ của chàng ngày càng đông.

      Tôi đặt cốc nước trước mặt chàng. Bao nhiêu con người chen chúc trong lán trại chật hẹp, khí bí bách, nóng nực, oi nồng vô cùng. Nhưng các binh sĩ vẫn say mê nghe giảng, ai chịu ra ngoài. Mồ hôi đầm đìa, Rajiva đưa tay lên lau trán, tiếp tục giảng kinh:

      - Tôn giả A Nan khi ấy chắp tay bạch rằng, sau khi chết, xương cốt của đàn ông và phụ nữ đều như nhau, làm sao để phân biệt? Phật bảo với A Nan: “Người đàn ông lúc sinh thời, nếu họ chăm chỉ vào chùa nghe giảng kinh Phật, xương cốt của họ có màu trắng và nặng. Phụ nữ là những người nặng về tình cảm, họ phải sinh đẻ và nuôi nấng con cái và cho đó là bổn phận của mình. Mỗi em bé khi lọt lòng đều được nuôi sống nhờ sữa mẹ. Sữa đó là do máu chuyển biến thành. Vì nuôi con vất vả, người mẹ ngày héo hon, tiều tụy, xương cốt chuyển sang màu đen và trọng lượng cũng .

      Có ai đó khóc nấc lên thành tiếng:

      - Bây giờ, đệ tử mới biết, ơn mẹ như núi cao.

      Rajiva đưa mắt khắp lượt các binh sĩ ánh mắt thương cảm, chậm rãi :

      - chỉ có ơn cho con bú mớm, mẹ ta còn có mười ơn đức lớn sau: Thứ nhất, ơn hoài thai và dưỡng thai. Thứ hai, ơn chịu đau lúc sinh nở. Thứ ba, ơn quên sầu muộn khi con chào đời. Thứ tư, ơn ngậm cay nuốt đắng để mớm phần ngọt cho con. Thứ năm, ơn nằm chỗ ướt để dành chỗ khô cho con. Thứ sáu, ơn cho bú và nuôi dưỡng. Thứ bảy, ơn lau rửa sạch thân thể con. Thứ tám, ơn nhớ nhung khi con xa. Thứ chín, ơn hy sinh thân mình vì con. Thứ mười, ơn hết mực thương con… Nhưng chúng ta báo đáp ân đức của cha mẹ như thế nào?

      Chàng ngừng lại, buồn bã lắc đầu:

      - Vẫn có những người cha người mẹ phải sống cảnh già cả trong đơn, bị con cái ghẻ lạnh. Có kẻ chỉ biết chăm lo cho thê thiếp mà bỏ mặc cha mẹ. Có kẻ xa gửi về cho cha mẹ dòng thư, khiến cha mẹ ngày đêm mong nhớ, bồn chồn yên. Các vị ở đây, có ai từng mắc những tội này ?

      Có người giấu mặt rưng rức khóc, có kẻ đấm ngực tự trách, có kẻ gào lên thảm thiết:

      - Chúng con đều có tội, vì biết đến công ơn to lớn ấy của bậc sinh thành, chúng con là lũ con bất hiếu! Cúi xin pháp sư rủ lòng thương, vạch đường chỉ lối cho chúng con, làm thế nào để báo đáp ân đức của cha mẹ?

      Rajiva nhìn tôi, khẽ gật đầu, tôi bèn đưa cho chàng cuốn kinh chuẩn bị từ trước.

      - Hôm nay ta giảng kinh “Phật , cha mẹ ân trọng khó báo đáp”. Cuốn kinh này ta vừa dịch xong hôm qua, chỉ có quyền duy nhất. Nếu muốn báo ơn, hãy chép và tụng đọc kinh này thường xuyên để sám hối những tội lỗi của mình. Hãy vì cha mẹ mà cúng đường Tam Bảo. Hãy vì cha mẹ mà ăn chay và tuân thủ giới luật. Hãy vì cha mẹ mà làm việc thiện và tu dưỡng đạo đức. Tuy các vị đều xa nhà, xa cha mẹ, nhưng lòng hiếu thảo suy chuyển, các vị vẫn là những người con có hiếu.

      Mấy ngày trước đó, chúng tôi cùng thảo luận xem nên thuyết giảng cuốn kinh văn nào. Đa phần các binh sĩ đều là những người biết chữ, chỉ nên giảng giải những kinh văn đơn giản, dễ hiểu. Vậy nên, Rajiva chọn ra cuốn kinh văn về lòng hiếu thảo và chàng dành ra mấy ngày trời để dịch sang tiếng Hán. Cuốn kinh này tuy rất ngắn, nhưng chàng vẫn thận trọng, cùng tôi phân tích, soi xét tỉ mỉ từng chữ . Sau khi hoàn thành, tôi vui mừng khôn xiết, vì đây là tác phẩm đầu tay của dịch giả Kumarajiva nổi tiếng. Ngôn ngữ trau chuốt, dễ đọc dễ thuộc, những bài kệ với tiết tấu, vần luật nhịp nhàng, trôi chảy, đó là dấu hiệu của phong cách dịch thuật đỉnh cao, được thể toàn vẹn trong những năm tháng ở Trường An sau này.

      - Xin pháp sư hãy giao bộ kinh văn này cho đệ tử. Đệ tử từng đến trường, có biết chút ít chữ nghĩa. Đệ tử chép xong gửi lại pháp sư.

      Người đó là đội trưởng Trình Hùng, ngoài ba mươi tuổi, tuy xấu xí, cục mịch nhưng rất hiếu học và thành tâm, thường hay tìm gặp Rajiva để hỏi về kinh văn Phật pháp.

      Rajiva gật đầu, giao cho Trình Hùng thành quả suốt mấy buổi tối của chúng tôi. ta cung kính đón lấy cuốn kinh, chỉ lát sau bị vây bọc bởi rất nhiều người, đề nghị ta chép thêm cho mấy cuốn. Buổi giảng kinh kết thúc, mọi người ra về, tôi và Rajiva nhìn nhau mỉm cười. Tôi lấy khăn ướt, lau mồ hôi mặt chàng.

      Chàng cầm tay tôi, khẽ the dài:

      - biết cha mẹ ta ở trời có được bình an.

      Nhắc đến bố mẹ chồng, những ký ức về họ lại lên sống động trước mắt tôi. Tôi cũng thở dài, nắm lấy tay chàng:

      - Cả đời làm việc thiện, lại lòng thờ Phật. Phật tổ từ bi, chắc chắn tác hợp cho họ để họ được ở bên nhau. Em tin rằng họ dõi theo và phù hộ cho chúng ta…

      Chàng nhìn tôi, gật đầu đồng tình, yên lòng nở nụ cười rạng rỡ. Đúng lúc ấy, có ai đó xông vào trong lán, chúng tôi giật mình, vội vã tách nhau ra. ra là Trình Hùng, hiểu vì sao ta đột nhiên quay lại.

      Trình Hùng quỳ sụp xuống, khấu đầu:

      - Thưa pháp sư, những ngày qua được pháp sư giáo hóa, con nhận ra rằng con rất muốn được thờ phụng Phật tổ, cầu xin ngài nhận con làm đệ tử, xin hãy xuống tóc cho con.

      Rajiva lắc đầu:

      - có vợ có con, trong nhà lại còn cha mẹ già cả, thể xuất gia.

      ta vừa quỳ vừa lê đến bên chân Rajiva, van nài khẩn thiết:

      - Pháp sư, đệ tử lòng hướng Phật, nguyện từ bỏ vợ con và gia đình, chỉ mong được thành Phật.

      - Bỏ vợ bỏ con sao có thể thành Phật được! Làm con, làm chồng, làm cha là trọng trách trời ban, sao có thể bất hiếu, bất nghĩa như vậy!

      Rajiva chau mày:

      - có lòng hướng Phật là rất tốt, nhưng muốn được thành Phật nhất thiết phải xuất gia, có thể tu tại gia.

      Trình Hùng băn khoăn hiểu và chịu đứng lên:

      - Xin pháp sư chỉ dẫn cho con cách tu hành tại gia!

      Rajiva đỡ ta đứng dậy, nghiêm nghị hỏi:

      - Cư sĩ phải tuân thủ năm điều giới luật: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, dối, uống rượu. có thể nghiêm chỉnh tuân thủ giới luật, làm việc thiện và tu dưỡng đạo đức ?

      - Dạ thưa…

      ta ngập ngừng, ngẩng đầu nhìn Rajiva, vẻ mặt đầy ăn năn:

      - Bàn tay đệ tử nhuốm máu mấy chục mạng người, giết người gây tội ác, đệ tử tự thấy mình tội lỗi chất chồng. Từ nay về sau, xin hứa nghe theo lời thầy, tuân thủ nghiêm ngặt giới luật, làm việc thiện, cầu mong sao được giải thoát.

      - Trong tâm có Phật, đó mới là điều căn bản.

      Rajiva gật đầu:

      - Ta thọ giới, để làm cư sĩ tại gia.

      Sau khi thọ giới, Trình Hùng hoan hỉ ra về, đây là vị cư sĩ đầu tiên trong đoàn quân. Chờ khi chỉ còn lại hai chúng tôi, tôi hỏi Rajiva:

      - ta là quân nhân, giết người e là thể. Tội phá giới nghiêm khắc hơn nếu ta làm cư sĩ.

      Rajiva gật đầu, thở dài:

      - Nếu ta biết tuân thủ giới luật, trong lúc giao tranh, lấy mạng của đối thủ, như vậy lập công đức to lớn lắm rồi!

      Trình Hùng chép ra rất nhiều bản “Kinh Phật cha mẹ ơn trọng, khó báo đáp”, sau đó cuốn kinh này được truyền rất nhanh trong đoàn quân. Rất nhiều người đến thỉnh giáo Rajiva về Phật pháp, hoặc đến hỏi tôi những chữ đọc được. Cuốn kinh này giản dị, dễ hiểu, dễ thấm, nên chẳng mấy chốc, dấy lên lòng hướng thiện trong toàn quân.

      Mùa hè năm 385 sau Công nguyên, thời tiết oi bức dị thường, mấy tháng liền có lấy giọt mưa. Tháng Tám năm đó, khi chúng tôi tưởng chừng thở nổi với cái nắng nóng nơi đây, quân đội của Lữ Quang tiêu diệt hoàn toàn quân chủ lực của Lương Hy và tiến vào Ngọc Môn Quan.

      Hoàng hà, mây trắng liền nhau

      Thành côi mảnh, núi cao tiếp trời

      Thổi chi Chiết Liễu sáo ơi

      Gió xuân đâu lọt ra ngoài Ngọc Môn[1]

      [1] Bài thơ “Khúc Lương Châu” – Vương Chi Hoán, bản dịch của Tương Như. Khúc Chiết liễu thời xưa, phổ cho sáo, gợi nỗi buồn người chinh chiến hoặc kẻ xa nhà.

      Cửa ải liêu đứng sừng sững núi cao này được biết đến nhờ những chuyến hàng ngọc Khotan được chuyên chở qua đây để vào Trung Nguyên. Vào thời cổ đại, khái niệm biên giới quốc gia ràng như thời đại, cửa ải Ngọc Môn chỉ được hiểu là nơi phân chia ranh giới giữa Tây vực và Trung Nguyên, tiến vào Ngọc Môn Quan tức là đặt chân lên mảnh đất Trung Nguyên rộng lớn.

      “Mưa mai thấm bụi Vị Thành

      Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời.

      Khuyên hãy cạn chén mời

      Dương Quan ra khỏi ai người cố tri[2]”

      [2] Bài thơ “Tiễn bác Hai Nguyên sứ An Tây” – Vương Duy, bản dịch của Tương Như.

      Phải qua cửa ải Dương Quan, bạn mới có thể tiến vào thành phố phồn hoa nhất ở cực Tây – thành Đôn Hoàng. Hán Vũ Đế “lập bốn quận, dựng hai ải” hành lang Hà Tây. Bốn quận đó là Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, hai cửa ải là Ngọc Môn Quan và Dương Quan. Bốn quận nêu , đồng thời là bốn thành phố quan trọng nhất hành lang Hà Tây, cả bốn thành phố vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến tận thế kỷ XXI, ngay cả tên gọi cũng vẫn được giữ nguyên sau hơn hai nghìn năm.

      Hai cửa ải chiến lược Ngọc Môn Quan và Dương Quan, đến đời Tống còn thuộc lãnh thổ của nhà Tống nữa. Cùng với suy yếu của con đường tơ lụa, hai cửa ai này dẫn trở nên hoang phế, sau cùng bị vùi sâu trong gió cát. Đến thế kỷ XXI, nơi đây chỉ còn lại dấu tích của vài phong hỏa đài, đứng chơ vơ giữa sa mạc mênh mông, khiến hậu thế khỏi thổn thức khi ngâm ngợi những vần thơ đầy hào khí đời Đường, tưởng niệm những năm tháng huy hoàng, hào hùng.

      Tôi đặt chân đến thành Đôn Hoàng với lòng thành kính và ngưỡng vọng, đây là vùng thánh địa thiêng liêng mà mọi người ở thế kỷ XXI đều mong muốn được ngắm nhìn. “Đôn nghĩa là to lớn, Hoàng nghĩa là phồn thịnh”. Đối với con người thời đại, ý nghĩa của thành Đôn Hoàng nằm ở những bức bích họa những động đá kỳ vĩ trải qua hàng nghìn năm, là nỗi sỉ nhục khi Tàng kinh động bị bọn người Marc Aurel Stein cướp đoạt, là nỗi bi phẫn sau khi đọc bài viết “Tháp đạo sĩ” của Dư Thu Vũ.

      Hai mắt tôi sáng long lanh khi mô tả những bức bích hoạt tinh xảo trong thạch động ở Mạc Cao cho Rajiva nghe. Thạch động này được xây dựng vào đời Đường, nên thời điểm này tôi thể nhìn thấy, đó là điều nuối tiếc nhất trong hành trình con đường tơ lụa của tôi. Tôi khoa chân múa tay trong cỗ xe ngựa chật hẹp, trong khi chồng tôi chỉ mỉm cười hiền hòa, ngồi bên nghe tôi kể chuyện, chốc chốc lại đưa tay ra đỡ tôi khỏi ngã khi xe ngựa lắc lư. Trong lúc cao hứng, tôi hát vang ca khúc chính trong phim “Thành Đôn Hoàng”[3]. Hồi xem bộ phim truyền hình này, tôi mê say khúc ca bi tráng, thê lương ấy.

      [3] Phim được chiếu kênh VTV1 năm 2007.

      “Gió cuộn Đôn Hoàng vần vũ, lục lạc lanh canh, khuấy động giấc ngàn năm. thanh tụng niệm vọng khắp cõi luân hồi. Ta gọi tên em trong Đại tạng kinh, khẽ lay gọi vận mệnh thức tỉnh. Thạch động hoang tàn, nỗi nhục ngàn năm che khuất ánh bình minh. Mây trôi muôn dặm, bụi nhuốm đường trần. Ta trình diễn điệu vũ ly tán của ta và em trong kiếp này bằng tranh thuyết pháp của Bồ Tát”.

      Gió cát sa mạc vùi lấp phồn hoa Đôn Hoàng. ly trà giữa thời loạn, dốc cạn vào lòng. “Ta vẽ tóc em, vẽ gương mặt mà ta hằng nhung nhớ lên bức bích họa phi thiên. Ta ở Đôn Hoàng chép tranh Bồ Tát, mượn Phật pháp mà cười trông thiên hạ”. Vào thời đại tôi có mặt, sau mười năm nữa, Đôn Hoàng trải qua kiện lịch sử trọng đại. Năm 400 sau Công nguyên, Lý Cảo (người Hán) xưng vương ở Đôn Hoàng, lập ra nước Tây Lương, đây là lần đầu tiên Đôn Hoàng trở thành kinh đô của nhà nước. Lý Cảo chỉnh đốn triều chính, cắt giảm lao dịch, thuế má, coi trọng Nho học, chăm lo phát triển giáo dục. Bởi vậy, trong suốt hơn mười năm cai trị, Lý Cảo biến Lương Châu hỗn loạn thành khu vực tương đối ổn định, người Hán lũ lượt kéo về đây náu thân, văn hóa Đôn Hoàng phát triển rực rỡ, dẫn đầu Lương Châu về mọi mặt trong suốt thời kỳ dài. Nước Tây Lương tồn tại được hai mươi năm, sau đó bị nước Bắc Lương của Thư Cừ Mông Tốn – người Hung Nô tiêu diệt.

      Cuối tháng tám, chúng tôi đến Tửu Tuyền, dừng lại nơi đây tám ngày. kiện khiến Lữ Quang mở cờ trong bụng khi tới đây là đối thủ đáng gờm của ông ta là Lương Hy bị bắt. Lương Hy trốn đến Guzang, bị thái thú Vũ Uy là Bành Tế lập mưa bắt được, hiến cho Lữ Quang. Lữ Quang giết chết hai cha con Lương Hy ở Tửu Tuyền. Bước sang tháng chín, thời tiết vẫn mát mẻ hơn, mùa thu trốn đâu xa lắc. Trong cái nắng nóng, oi nồng, mồ hôi đầm đìa lưng áo, chúng tôi tiến vào Guzang – điểm đến sau cùng của chuyến này, đây cũng là thành phố quan trọng nhất ở Lương Châu.

      Guzang là quận thuộc Lương châu, đồng thời là căn cứ quân quan trọng hành lang Hà Tây. Guzang ban đầu do người Hung Nô xây dựng, sau trở thành nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau: người Hán, người Khương, người Hung Nô. Dân số trong thành khoảng hơn hai mươi vạn, vào thời Thập lục quốc, Guzang được xem là thành phố lớn. Ngoại thành có núi tuyết Kỳ Liên sơn, cỏ cây tươi tốt, là vùng đất màu mỡ, lại là ranh giới giữa vùng nông canh và vùng du mục. Nhà Tiền Lương của họ Trương khai phá và phát triển đất này được sáu mươi năm. Vì họ Trương là người Hán nên khi Trung Nguyên xảy ra chiến tranh, rất nhiều người tài và phú hộ rời khỏi Trung Nguyên, đến Lương Châu lánh nạn. Guzang trở thành nơi tập trung đông đảo nhân tài, kinh tế phát triển phồn thịnh, văn hóa Hán đóng vai trò chủ đạo.

      Xe ngựa lộc cộc lăn bánh vào thành phố, tôi kéo rèm cửa ra ngắm nhìn. Vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lương – Trương Quỹ là người có công mở rộng Guzang, ông cho xây dựng thêm bốn thành phố vệ tinh quanh thành trì ban đầu, nhờ vậy, diện tích của Guzang lớn hơn rất nhiều diện tích các tiểu quốc ở Tây vực. Kiến trúc mang phong cách Hán trải ra trước mắt tôi. lâu được thấy những mái nhà truyền thống của người Hán với mái chồng và chiếu nghỉ. Hai bên đường bày la liệt các sạp hàng, trung tân thành phố có lầu trống và lầu chuông, đó là quy hoạch thành phố điển hình của người Hán.

      Tuy vào giai đoạn thoái trào, nhà Tiền Lương tránh khỏi tình trạng tranh giành vương vị, triều chính rối loạn liên miên, giống như hầu hết các quốc gia thời Thập lục quốc, nhưng so với nhà Hậu Triệu của Thạch Lặc, Thạch Hộ ở Trung Nguyên, nhà Tiền Lương của họ Trương phát triển hơn rất nhiều. Vậy nên, khi Lương Châu rơi vào tay Lữ Quang, vùng đất này bị tổn hại gì nhiều, điều đó giúp Lữ Quang nhanh chóng xây dựng được bộ máy chính quyền. Có thể thấy, trong những yếu tố quan trọng nhất giúp Lữ Quang trở thành vua nước trong thời Thập lục quốc đó là may mắn.

      Năm 401 sau Công Nguyên, nhà Hậu Lương của họ Lữ đầu hàng nhà Hậu Tần, vài năm sau, vua Nam Lương là Thốc Phát Nục Đàn tiến vào Guzang. lâu sau đó, vua Bắc Lương là Thư Cừ Mông Tốn tấn công Guzang, đặt Guzang làm kinh đô, cho đến năm 439 sau Công nguyên, Bắc Lương bị nhà Bắc Ngụy tiêu diệt. Bắc Ngụy tiếp nhận hơn hai mươi vạn dân của Guzang, về sau, thành Guzang được gọi là thành Vũ Uy.

      cánh tay đặt lên vai tôi, quay lại, thấy chàng cũng nhìn ra bên ngoài, ánh mắt xa xăm, dường như suy ngẫm điều gì. Tôi nắm tay chàng, đây chính là nơi chúng tôi sinh sống trong suốt mười bảy năm trời. Bước vào thế kỷ XXI, nơi đây còn bất cứ dấu tích nào của thời kỳ Lữ Quang. Cũng chính tại đây, 1650 năm sau, ngôi chùa mang tên Kumarajiva được xây dựng, để tưởng niệm những năm tháng chờ đợi trong thầm, mòn mỏi của chàng.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 64: Lương Châu khói lửa

      Họ Trương được xem là gia tộc mở màn cho các cuộc chiến tranh cát cứ trong thời Thập lục quốc. Vì vua đầu tiên (được truy phong) – Trương Quỹ vốn là Thứ sử Lương Châu[1] thời kỳ Tấn Huệ Đế. Trương Quỹ là người tài giỏi, trọng người tài, coi trọng việc giữ vững trật tự trị an cho dân, lập nhiều công trạng. Nhưng phải đến đời thứ tư là Trương Tuấn, họ Trương mới xưng vương. danh nghĩa, họ Trương vẫn là bề tôi, chịu cai quản của nhà Tấn, nhưng thực tế cát cứ, thiết lập chính quyền riêng, sử gọi là nhà Tiền Lương. Họ Trương nhiều đời cai quản Lương Châu, tuy đôi lúc có xảy ra chiến tranh với nhà Tiền Triệu và Hậu Triệu, nhưng quy mô các cuộc chiến lớn. Bởi vậy, Lương Châu được xem là khu vực tương đối ổn định so với các khu vực khác ở phương Bắc Trung Quốc trong thời kỳ mà chiến tranh giết chóc xảy ra liên miên.

      [1] Tương đương với chức Chủ tịch tỉnh thời đại

      Cung điện của họ Trương lớn, thê thiếp cháu con của Lữ Quang lại đông, nên ông ta chỉ dành cho chúng tôi gian nhà nằm ở góc khuất. Nhưng tôi và Rajiva hề phật ý. Vừa ngắm nhìn cung điện đơn giản của họ Trương, vừa sắp xếp đồ đạc, tôi vừa giảng giải cho Rajiva về lịch sử của nhà Tiền Lương:

      - Có điều, các vị vua họ Trương chú trọng bồi dưỡng thế hệ kế cận, đời cha hùng lẫm liệt, nhưng đời con bất tài vô dụng. Người họ Trương lại thường đoản mệnh. Sau đời vua thứ năm là Trương Trọng Hoa, người trong dòng tộc bắt đầu tàn sát lẫn nhau. Mười năm mà đổi tới bốn lần vua. Vị vua cuối cùng là Trương Thiên Tích, tuy có tài ăn nhưng đam mê tửu sắc, màng chính . Chín năm trước, vị vua này làm việc hết sức hồ đồ, đó là giết chết sứ giả của Phù Kiên, khiến Phù Kiên nổi giận phái ba mươi vạn đại quân tiêu diệt nhà Lương, Trương Thiên Tích phải đầu hàng và bị áp giải về Trường An. Nhưng ông ta gặp may, khi cuộc chiến Phì Thủy xảy ra, Trương Thiên Tích đầu hàng nước Tấn, ông ta sống những năm tháng cuối đời ở Giang Nam.

      Rajiva giúp tôi dọn dẹp, vừa trầm ngâm:

      - Vậy là nhờ vận may mà Lữ Quang được làm vua Lương Châu. Khi ông ta tới đây, Lương Châu còn các thế lực đối địch lớn mạnh nữa. Nếu nhà Lương của họ Trương vẫn còn, chỉ e Lữ Quang khó lòng chiếm được vùng đất này.

      Tôi gật đầu đồng tình:

      - Tuy may mắn, nhưng Lữ Quang cũng dễ dàng chiếm được miếng thịt béo bở này. Lương Châu vốn là vùng rộng lớn, gồm tám quận, thiếu kẻ muốn xâu xé vùng đất này.

      Tôi mỉm cười đón lấy chồng y phục lộn xộn từ tay Rajiva, tự mình gấp lại phẳng phiu. ràng là chàng biết làm việc nhà.

      Lương Châu của Lữ Quang ở thời điểm này còn rộng lớn hơn cả tỉnh Cam Túc vào thế kỷ XXI, vì nó bao gồm phần diện tích của cả vùng Đông Bắc Thanh Hải, Ninh Hạ, Nội Mông và Tân Cương. Địa bàn rộng lớn như thế, chả trách khiến cho nhiều kẻ nóng mắt.

      - Vẫn còn chiến tranh ư?

      Chàng ngượng ngùng nhìn tôi gấp lại chồng quần áo, vừa rót cho tôi tách nước và lấy khăn tay lau mồ hôi lắm tấm trán tôi.

      - Vẫn tiếp tục và chỉ có trận. Thời Thập lục quốc, Lương Châu có đến năm vị vua của năm nhà Lương. Nhà Tiền Lương của Trương Quỹ người Hán bị Phù Kiên người Đê tiêu diệt. Nhà Hậu Lương của Lữ Quang người Đê bị nhà Hậu Tần của Diêu Trường, người Khương tiêu diệt. Nhà Nam Lương của Thốc Phát Ô , người Tiên Tì (Sienpi) bị nhà Tây Tần, cũng là người Tiên Tì tiêu diệt. Nước Tây Lương của Lý Cảo, người Hán bị nước Bắc Lương của Thư Cừ Mông Tốn, người Hung Nô tiêu diệt. Nước Bắc Lương của Mông Tốn lại bị người Bắc Ngụy của bộ tộc Thác Bạt, người Tiên Tì tiêu diệt. Ngũ Hồ trong cụm từ “Ngũ Hồ loạn Hoa” mà hậu thế thường nhắc vốn chỉ người Hung Nô, người Khương, người Đê, người Tiên Tì và người Hạt. tính người Hạt và người Khương, chỉ riêng đất Lương Châu có đến ba tiểu quốc của ba tộc người Hồ khác nhau, và chỉ vậy thôi cũng đủ loạn lắm rồi.

      Mười mấy hai mươi năm rối ren loạn lạc, các chính quyền hoặc thay thế nhau hoặc cùng tồn tại, tựa hồ diễn trò đèn kéo quân đất Lương Châu. Nếu vì Rajiva, dù học chuyên ngành lịch sử, tôi cũng thể nào ghi nhớ chi tiết về giai đoạn này. Trước khi vượt thời gian tới đây, tôi bỏ ra rất nhiều công sức để tìm hiểu và tập hợp toàn bộ tài liệu, đến nay, não bộ của tôi giống như kho tư liệu toàn vẹn về thời Thập lục quốc.

      Tôi khoan khoái tận hưởng chăm sóc của chàng, nhấp từng ngụm nước lấy giọng:

      - Nhưng trước mắt, Lữ Quang phải đối phó với Trương Đại Dự - con trai cả của vua Tiền Lương – Trương Thiên Tích. Trương Thiên Tích quy phục nhà Đông Tấn, nhưng con trai Trương Đại Dự chịu theo cha, lại sợ Phù Kiên, nên chạy đến chỗ Hiệu úy Trường Thủy là Vương Mục. Vương Mục đưa Trương Đại Dự lên ngôi vua Lương. Ít ngày nữa, Trương Đại Dự tiến đánh Guzang.

      Mười ngày sau, vào trung tuần tháng chín, quân đội của Trương Đại Dự và Vương Mục có mặt ngoài thành Guzang. Trước đó, Lữ Quang cử Đỗ Tấn đem quân chặn đánh, nhưng bị quân của Trương Đại Dự áp đảo, buộc phải rút lui. Đỗ Tấn chiến công hiển hách, dũng mưu lược là thế, nhưng lại bị thua bởi Trương Đại Dự. Ngay lập tức, bầu khí bất an bao trùm quân đội Lữ Quang. Lữ Quang hạ lệnh rút quân vào thành Guzang, đóng chặt cổng thành. Người dân trong thành lo sợ yên, nhà nào nhà nấy cửa đóng then cài, phố chỉ còn bóng dáng của lính tuần tra, bóng mây chiến tranh che phủ bầu trời xanh trong của mùa thu Lương Châu.

      - Pháp sư, công chúa!

      Quay lại, thấy Đỗ Tấn trong bộ giáp phục sải bước về phía chúng tôi, theo sau là toán quân, trong số đó có cả người quen – Đoàn Nghiệp.

      Chúng tôi cúi chào và khỏi ngạc nhiên về có mặt của Đỗ Tấn tại lán trại dành cho thương binh này. Lán trại này do Rajiva khởi xướng, dĩ nhiên đó là ý kiến của tôi. Tôi còn tuyển lựa số các các chị ở các gia đình nghèo khó đến đây làm y tá, hướng dẫn cho họ những kiến thức cơ bản về vệ sinh dịch tễ. Chỗ này tuy điều kiện còn nhiều thiếu thốn, nhưng tiến bộ hơn rất nhiều so với chế độ chăm sóc thương binh tại doanh trại quân đội của các tiểu quốc khác cùng thời.

      Tôi suy nghĩ thấu đáo về xuất của tôi trong lịch sử và tôi tin điều đó là có . Những việc xảy ra trước đó chứng minh, tồn tại và can thiệp của tôi hề ảnh hưởng đến vòng quay của lịch sử. Và biết đâu chính nhờ xuất của tôi, lịch sử mới có diện mạo như tôi biết ở thời đại. Tôi hành động theo suy nghĩ của mình và cần e ngại. Dù đóng góp của tôi là vô cùng bé, tôi cũng mong giúp chồng mình hoàn thành sứ mệnh.

      - Đỗ Tấn xuất quân đánh giặc, sau khi trở về nghe pháp sư lập ra doanh trại này. Pháp sư và công chúa như thánh thần hạ thế cứu giúp chúng sinh, xin hai vị nhận của Đỗ Tấn lạy.

      Đỗ Tấn chắp tay lại, gập người vái lạy, Rajiva vội đỡ ông ta dậy.

      Gương mặt Đỗ Tấn có những vết sưng tấy, có lẽ do Trương Đại Dự gây nên. Tôi đưa cho ông ta chai rượu thuốc, ông ta cảm ơn, đón lấy, hạ giọng:

      - Thưa pháp sư, thưa công chúa, Đỗ Tấn có việc muốn bàn bạc với hai vị.

      Cả tôi ư? Tôi bước vào phòng trống cùng họ mà lòng khỏi băn khoăn. Đoàn Nghiệp cũng theo vào, trong phòng có tất cả bốn người.

      Nhìn quanh còn ai khác, Đỗ Tấn buông tiếng thở dài nặng nề, cất tiếng:

      - Thốc Phát Tư Phục Kiện người Tiên Tì muốn trợ lực cho Trương Đại Dự, cử con trai là Thốc Phát Hề Vu dẫn theo hai vạn quân tới Guzang. Ba vạn quân của Vương Mục dựng trại ở ngoại thành phía Nam. Ba vạn quân của Trương Đại Dự ở cổng phía Tây. Thái Thú Kiến Khang là Lý Tập, Đô úy Kỳ Liên – Nghiêm Thuần, Diêm Tập đều điều quân tiếp ứng, đường tiến về Guzang. Tổng binh lực khoảng hơn 10 vạn quân, Lữ tướng quân khó lòng đối phó.

      Vào thời đại binh đao lạnh lùng, số lượng binh sĩ là nhân tố chính quyết định thắng bại của cuộc chiến. Giết được nghìn quân địch cũng phải tổn hao tám trăm binh sĩ. Bởi vậy, trong lịch sử, có rất ít những chiến thắng “lấy ít địch nhiều”. Điều lo lắng của Đỗ Tấn phải có lý. Những đội quân kia đều từng là thuộc cấp của họ Trương, họ giúp đỡ Trương Đại Dự cũng là dễ hiểu. Họ Trương cai quản Lương Châu suốt sáu mươi năm, dòng tộc của họ bắt rễ và phát triển rộng khắp đất này. Nhưng vì sao Đỗ Tấn lại với chúng tôi những thông tin cơ mật này?

      Băn khoăn của tôi được Rajiva chuyển thành câu hỏi:

      - Đỗ tướng quân, ta là nhà sư, hiểu việc quân cơ binh pháp, vì sao ngài lại những chuyện này với hai vợ chồng ta?

      Đỗ Tấn liếc sang Đoàn Nghiệp và cười:

      - Pháp sư thần cơ diệu toán, điều này ta được lĩnh giáo từ lâu. Nay tình thế nguy cấp, biết phải tính sao, nên mới đến đây xin pháp sư vạch đường chỉ lối.

      Nhìn Đoàn Nghiệp gật đầu với mình, tôi chợt hiểu ra. Chắc chắn Đoàn Nghiệp với Đỗ Tấn, rằng Rajiva tinh thông pháp tướng, giỏi bói toán và biết tiên đoán, nên Đỗ Tấn mới hi vọng được chàng đưa đường chỉ lối.

      Rajiva trầm tư lúc mới :

      - Xin Đỗ tướng quân chớ lo lắng. Lữ tướng quân có lương thực dồi dào, thành quách vững chắc, quân đội tinh nhuệ, dễ bị đánh bại.

      - Ta lo việc cố thủ trong thành, vì thành Guzang này cố thủ nửa năm năm cũng vấn đề gì. Mùi hạ năm nay, gặp phải hạn hán, lúa mạch hoa màu chết nhiều, tháng mười tới thu hoạch, có thể thất thu nửa. có lương thực cầm cự, đồ rằng Trương Đại Dự chẳng thể vây thành được lâu.

      Đỗ Tấn lại lại trong lán, chuyên tâm phân tích tình hình, sau đó nhíu mày, giọng đầy lo lắng:

      - Chỉ e Trương Đại Dự làm mưa làm gió ở vùng Lĩnh Tây, mài binh khí, trữ lương thực, sẵn sàng tiến về Đông. Lữ tướng quân vừa chân ướt chân ráo tới đây, căn cốt chưa vững, nếu đánh trận trường kỳ với Trương Đại Dự, e nguy khốn.

      Thầm thán phục Đỗ Tấn phân tích và phán đoán tình hình rất chuẩn. Đây chính là chiến lược do quân sư Vương Mục của Trương Đại Dự đề xuất, chỉ tiếc, Trương Đại Dự phải bậc hùng làm nên nghiệp lớn. Tôi sốt sắng:

      - Đỗ tướng quân, Trương Đại Dự chỉ là công tử thạo binh pháp. Lần đầu chiến thắng ắt sinh kiêu ngạo. Thốc Phát Hề Vu cũng vừa tới đây, lại hòa thuận với Vương Mục, đây chính là thời cơ để Lữ tướng quân phá vây.

      Ông ta đột nhiên dừng bước, quay lại quan sát tôi, ánh mắt sáng rực. Rajiva lạnh lùng bước đến, chắn trước mặt tôi, khẽ cúi đầu:

      - Đỗ tướng quân, phu nhân của ta năng tùy hứng, xin chớ cho là . Tướng quân nên quá lo lắng, trời cao phù hộ, tin tức tốt lành đến mau thôi.

      Đỗ Tấn ra về, mặt mày rạng rỡ, trước lúc cáo từ, Đoàn Nghiệp nhìn tôi với ánh mắt thành kính của tín đồ, khiến tôi gai người. Nhưng người khiến tôi sợ hãi nhất, phải ông ta, mà là người đứng cạnh tôi đây.

      - Ngải Tình…

      Chàng cố ý kéo dài giọng:

      - Nàng lại bỏ ngoài tai những lời ta !

      Tôi lè lưỡi, làm mặt quỷ trêu chọc chàng, rồi ba chân bốn cẳng tót ra khỏi phòng. Sở dĩ tôi những điều đó với Đỗ Tấn, thứ nhất là vì tôi tin tưởng con người này, nhưng điều quan trọng hơn, tôi luôn cảm thấy, việc ông ta tìm đến chúng tôi lúc này chính là ý trời. Lịch sử vẫn tiếp tục vòng quay biến đổi, tôi chỉ là nhân tố thúc đẩy mà thôi.

      Cuối tháng chín, Lữ Quang đột ngột xuất quân công phá vòng vây của Thốc Phát Hề Vu ở cổng thành phía Nam. Thốc Phát Hề Vu kịp trở tay, mất mạng đường tháo thân. Quân đội của Vương Mục cũng chịu ảnh hưởng và tan rã. Trương Đại Dữ mới nghe phong thanh đồng minh bại trận vội vã kéo theo nghìn người chạy trốn. Tàn quân mà ông ta bỏ lại, tan rã như núi lở, hầu hết đều cởi giáp xin hàng. Vòng vây tại Guzang bị phá bỏ như vậy đó.

      Tin chiến thắng đến doanh trại thương binh cùng lúc với tin tức kinh hoàng khác.

      - Pháp sư, nguy rồi! Lữ tướng quân nổi trận lôi đình, ra lệnh trói Trình Hùng, chém đầu theo quân pháp.

      - Vì sao?

      Rajiva quá đỗi kinh ngạc, nắm tay viên lính báo tin, gạn hỏi.

      - Trong trận đánh vừa qua, Trình Hùng chém được tên địch nào. ta thường ngày dũng mãnh, vậy mà trận này lại mềm lòng, chịu lấy đầu kẻ địch, nên Lữ tướng quân muốn trị tội để làm gương cho binh sĩ.

      Rajiva hỏi Trình Hùng ở nơi nào, sau đó vội vã chạy ra khỏi lán trại. Tôi theo sát bên chàng, cùng lao ra thao trường. Trình Hùng bị trói vào cây gỗ giữa bãi đất rộng, miệng bị nhét giẻ. ta nhìn Rajiva bằng ánh mắt tràn đầy hi vọng và khẩn cầu. Rajiva gật đầu động viên ta, rồi xông thẳng vào lán trại đầu tiên.

      - Lữ tướng quân, Trình Hùng chịu giết người vì ta thọ ngũ giới. Lữ tướng quân giành chiến thắng sao vẫn trừng phạt binh sĩ?

      Lữ Quang lạnh lùng liếc xéo Rajiva cái, hậm hực, bực tức, mặt mày sa sầm:

      - Pháp sư, lính để giết giặc hoặc bị giặc giết. Những kẻ biết giết giặc, ta cần để làm gì?

      Rajiva vẫn thở dốc, giọng kìm nổi, vút lên cao:

      - Trình Hùng nghe ta thuyết giảng mới chịu quy y cửa Phật. Lỗi là lỗi ở ta, Lữ tướng quân muốn giết hãy giết ta. Trình Hùng có tội!

      - Pháp sư, giết ngài để gây phẫn nộ trong quân ư?

      Lữ Quang cười nham hiểm, phần thịt thừa bên mép khẽ nhếch lên:

      - Pháp sư, nơi đây phải Tây vực, quân sỹ cần tín Phật. Pháp sư nên thận trọng, đừng làm những việc khiến binh sĩ dao động.

      Ánh mắt của Rajiva bỗng nhiên u tối:

      - Được, ta tiếp tục truyền đạo trong quân nữa, xin Lữ tướng quân hãy tha cho Trình Hùng.

      - Lữ tướng quân, đại thắng lần này là nhờ diệu kế của pháp sư, xin tướng quân xét đến công lao của ngài mà tha cho Trình Hùng.

      Đỗ Tấn bước tới, cúi gập người trước Lữ Quang:

      - Hơn nữa, giết binh sĩ trong ngày đại thắng gây bất mãn trong quân, xin tướng quân suy xét.

      Những người có mặt trong lán trại đều bước đến khuyên can. Vẻ mặt Lữ Quang hỉ nộ khó đoán, ông ta suy nghĩ hồi, hạ lệnh:

      - Tôi chết có thể tha, nhưng phải trừng phạt. Lôi ra ngoài đánh trăm trượng.

      Lữ Quang đứng lên, ném cuốn kinh “Phật phụ mẫu ơn trọng, khó báo đáp” xuống chân:

      - Còn việc nữa, pháp sư truyền giảng kinh Phật trong quân đội, khiến binh sĩ phân tâm, được phép tiếp tục. Hôm nay phải đem ra đốt bỏ tất cả, sau này xin pháp sư đừng làm việc đó nữa, nếu , chớ trách ta vô tình!

      Từng cuốn kinh mỏng bị quăng vào lửa, lửa bén vào từng trang giấy, cháy bùng lên, rất nhanh, thiêu rụi thành tàn tro. Gió thu cuốn bay những tàn lửa, thờ ơ quét qua gương mặt của các binh lính từng được nghe thuyết pháp, lơ lửng trong gian mênh mông thao trường. chứng kiến công sức bao đêm vất vả tan thành tro bụi, tôi chợt hiểu ra: Lữ Quang diễn trò “đánh chó để dằn mặt chủ” đây mà.

      Ông ta biết cách lợi dụng tôn giáo, chỉ biết đàn áp thô bạo. Ông ta sợ hãi sức mạnh tinh thần của Rajiva, nên mới dùng cách dọa giết người để cảnh cáo Rajiva được phép truyền pháp.

      Đưa mắt sang bên cạnh, thấy Rajiva thẫn thờ nhìn theo tàn tro trong đống lửa, vẻ u buồn thấm đẫm quầng mắt sâu hun hút. Gió cuốn theo mảnh tro, thả người chàng, chàng đưa tay đón lấy. Mảnh tro tan ra thành bụi khi chạm vào tay chàng. Trình Hùng được cởi trói, đứng cạnh các binh sĩ khác, dám khóc thành tiếng, chỉ cúi đầu chùi nước mắt.

      Từ hôm đó, Rajiva tiếp tục truyền pháp nữa, chàng trở nên thâm trầm hơn trước rất nhiều.

      Guzang bước vào tháng mười, trời còn oi bức nữa, sau vài trận mưa, thời tiết trở nên mát mẻ hơn nhiều. Trương Đại Dự bị bắt ở Quảng Võ và bị giải về Guzang. Lữ Quang xử tội và chém đầu ông ta trong thành Guzang. Cái chết của Trương Đại Dự là lời cáo chung cho Vương triều Tiền Lương của Trương Quỹ.

      kiện lớn nhất trong tháng mười là việc Lữ Quang nhận được tin từ Trường An, rằng Phù Kiên bị Diêu Trường sát hại hồi tháng năm. Ông ta kêu khóc thảm thiết, hạ lệnh cho tất cả quan lại và tướng sĩ phải mặc tang phục trong ba tháng, dân thường khóc tiễn ba ngày. Ông ta còn dựng đàn tế Phù Kiên ở ngoại thành phía Nam, lập tên thụy là Hoàng đế Văn Chiêu, cúng tế suốt ba ngày liền.

      Sau đó, trước khẩn cầu tha thiết của toàn bộ văn võ bá quan, ông ta quyết định ban lệnh ân xá khắp vùng. Lập nước, lấy niên hiệu Thái An, tự phong mình là Thứ sử Lương Châu, Hộ Khương hiệu úy, lâu sau, tự xưng là Lương Châu Mục, chính thức trở thành Vua phương. Luận công luận thưởng, Đỗ Tấn giữ công đầu, được phong làm Phò quốc tướng quân, Thái thú Vũ Uy, Võ thủy hầu. Những người khác cũng đều được sắc phong, Đoàn Nghiệp được phong làm Trước tác lang, chuyên phụ trách giấy tờ văn bản.

      Rajiva vẫn được Lữ Quang giữ bên mình, đóng vai mưu sĩ. Ông ta chỉ coi chàng như thầy bói, lúc hứng lên hỏi vài ba quẻ, có hứng lạnh nhạt, thờ ơ. Rajiva vốn là người ngay thẳng, chịu cúi luồn bợ đỡ, thấy việc chướng tai gai mắt chàng ngần ngại lên tiếng. Chàng và Lữ Quang nhiều phen xô xát vì bất đồng quan điểm. Chàng đề nghị được tới bất cứ chùa nào ở Guzang tụ tập, nhưng Lữ Quang vẫn mực từ chối.

      Thực ra, Lữ Quang giam lỏng Rajiva chỉ vì lo ngại chàng truyền pháp trong quân gây dựng được uy tín, hoàn toàn phải vì ông ta muốn lắng nghe ý kiến của chàng. Bởi vì bản thân ông ta là kẻ cố chấp, chịu nghe ai và luôn nghi ngờ quần thần, ưa dùng bạo lực. Tuy muốn can thiệp đến việc triều chính của Lữ Quang, nhưng mỗi khi ông ta đưa ra quyết sách sai lầm, Rajiva vẫn ra sức ngăn cản. Kết quả của những lời can gián này thế nào, cần đoán cũng có thể biết được. Lâu dần, Rajiva nguội lòng, màng đến nữa. Có điều, những tháng ngày vô vị theo Lữ Quang khiến Rajiva chán chường cực độ.

      Lúc rảnh rỗi, Rajiva thường tha thẩn hết ngôi miếu này đến ngôi chùa khác trong thành phố, và cảnh tượng chàng được chứng kiến khiến chàng ngao ngán lắc đầu. Nơi đây phân chia ràng các giáo phái. Trong chùa, người ta thờ chung cả Phật Thích Ca Mâu Ni và Thái Thượng Lão Quân, hòa thượng, đại sĩ phân biệt. Còn nhớ mẩu chuyện cười thời Thập lục quốc kể rằng. Vua nước Nam Yên là Mộ Dung Đức lúc băn khoăn biết nên tấn công thành nào, mời hòa thượng gieo quẻ bói bằng Chu dịch.

      Rajiva chỉ hỏi sơ vài câu biết những người này chẳng phải hòa thượng cũng phải đạo sĩ, đều là những kẻ giả danh, bọn họ hiểu gì về Phật pháp. Ngay cả đại danh của Rajiva cũng lờ mờ . Lại nhớ, đường đến Guzang, mỗi khi tiến vào tiểu quốc ở Tây vực, dân chúng lại chen nhau ra đường đón chào nhiều giờ liền, chỉ vì muốn được chiêm ngưỡng dung mạo của chàng. Quốc vương các nước đó cung kính tiếp đón vì muốn mời chàng thuyết giảng Phật pháp. Nhưng khi bước vào hành lang Hà Tây, cảnh tượng đó còn nữa. Danh tiếng của chàng bằng cả tiếng tăm của vài thầy bói chuyên đuổi ma dọa quỷ, dối gạt người khác để kiếm cơm. Lương Châu giống như hoang mạc của tín ngưỡng Phật giáo.

      Tôi rất mực dịu dàng, mô tả viễn cảnh tươi đẹp để động viên chàng. Tuy ra, nhưng tôi biết chàng rất hoang mang khi đứng trước “hoang mạc” này, chàng phải gắng gượng để kiềm chế nỗi thất vọng mãnh liệt. Rajiva bị ép phải sống đời sống thế tục, hàng ngày theo hầu Lữ Quang đúng giờ. Nhưng chàng kiên quyết để tóc, chàng vẫn mặc y phục của tăng lữ, vẫn thức giấc rất sớm tụng kinh buổi sáng, buổi tối vẫn chăm chỉ đọc sách để trau dồi trình độ tiếng Hán. Phần lớn văn võ bá quan của Lương Châu đều từng theo Lữ Quang Tây chinh, nên hiểu nguyên nhân cuộc hôn nhân của chàng. Bởi vậy ai tò mò hay thắc mắc về cuộc sống của chúng tôi. Khác với những ngày ở Subash, ở đây, chúng tôi còn bị người ta săm soi, dò xét nữa.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 65: hùng thời loạn

      Cuối tháng mười, thời tiết dịu mát. Tôi say sưa với công việc khảo sát thành Guzang trong làn gió thu nhè . Tôi chán ngán những ngày dài chỉ biết ăn và chơi. Rajiva cả ngày ở bên cạnh Lữ Quang, mình có việc gì để làm, tôi bèn nối lại “nghề cũ”. Kẻ vẽ chán chê, tôi ngẩng đầu, hé mắt nhìn trời. Bầu trời nơi đây xanh trong thuần thiết như ở Khâu Từ, nhưng đổi lại, có mây bồng bềnh, gió rì rào, rất khác lạ. Tôi vẽ chán lại nghỉ ngơi, nghỉ ngơi xong lại tiếp tục, cảm thấy đến nỗi nào.

      vẽ lầu chuông ở trung tâm thành Guzang, chợt nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng lại. Dân chúng bàng hoàng, dạt vào lề đường. Tôi băn khoăn ngẩng lên, thấy đoàn người ngựa tiến vào thành. Vội thu dọn đồ đạc, đeo chiếc ghế gỗ lên vai, nhưng chưa kịp rời khỏi đó, đoàn người ngựa đến trước mặt. Con ngựa dẫn đầu lao về phía tôi. Biết tránh kịp, theo phản xạ tự nhiên, tôi ra sức chạy lùi về phía sau. Con ngựa lồng qua, đẩy tôi ngã nhào xuống đất.

      Phản ứng đầu tiên của tôi khi ngồi dậy là: kiểm tra xem có bị thương . Khuỷu tay hơi đau, tôi kéo tay áo lên xem xét, cũng may, chỉ bị rách áo. Chưa kịp than thở, giọng trịch thượng dội lên đầu tôi:

      - To gan, dám chặn ngựa của ta!

      Ngẩng lên, tôi thấy lưng con tuấn mã có cái đầu to lớn màu mận chín là thanh niên khôi ngô, tráng kiện. ta nhiều nhất cũng chỉ hai mươi tuổi, khuôn mặt vuông vức, nếu tách bạch ngũ quan để đánh giá, có gì nổi bật. Hai hàng lông mày dài, rậm dường như dính liền với nhau, đôi môi dày, mím chặt, lạnh lùng. Đôi mắt hung dữ như mắt chim ưng, từ đôi mắt ấy chiếu ra những tia sáng sắc lạnh, khôn lường, khiến người ta phải sợ hãi. Ngũ quan lấy gì làm độc đáo, hấp dẫn, nhưng nhờ kết hợp với sức mạnh nội tại căng tràn phát tiết ra bên ngoài, như dây cung căng nỏ, nên cả gương mặt và con người ấy toát lên khí khái của bậc hào. Hai cánh tay dài lực lưỡng, động tác thanh thoát, chỉ nhìn cũng có thể khẳng định người này rất giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Cộng vào với tất cả đặc điểm là tuổi trẻ cường tráng, tràn đầy sức sống nên con người này, đứng từ xa, cũng có thể nhận ra vẻ oai hùng, khí phách xuất chúng của ta giữa đám đông, nhưng đồng thời cũng có thể “cảm” thấy nguy hiểm từ gương mặt...

      Tôi lục lọi kho tư liệu trong não bộ với tốc độ nhanh nhất. Thân thể cường tráng ấy, gương mặt cương nghị, có phần cục mịch ấy chắc chắn phải người Hán. Con ngựa ta cưỡi và cách phục trang quý tộc cho thấy, xuất thân của người này tầm thường. ta là người Tiên Tì, người Khương hay người Hung Nô? Sau khi Lữ Quang xưng vương “các quận huyện trong vùng Lũng Tây lần lượt quy phục”, trong đó, các dân tộc thiểu số quy phục Lữ Quang được chia thành hai nhánh. là Thốc Phát Ô , người Tiên Tìở Hà Tây, sau này cát cứ phía Đông Bắc Thanh Hải và lập ra nước Nam Lương. biết những người này thuộc nhánh nào?

      miên man suy nghĩ, bỗng tôi giật mình bởi tiếng cười sang sảng, phóng túng và ngỗ ngược:

      - Con người Hán ở Guzang này thú vị hơn các nơi khác rất nhiều, dám nhìn trân trân vào nam giới, và còn để lộ cả cánh tay trần nữa chứ.

      Tôi chợt nhớ ra cánh tay trần bất nhã của mình, vội thu về và đứng lên. Bất luận ta thuộc tộc người nào, tôi cũng nên đụng vào. Phủi sạch bụi sau lưng, tôi vội vã tìm đường tháo lui. Nhưng chưa kịp bước , người đó quay ngựa lại, chặn trước mặt tôi. Tôi ngước nhìn đôi mắt chim ưng bí ấy, ánh nắng mùa thu cũng chẳng đủ để khiến đôi mắt ấy bớt thâm u. Tôi bỗng chột dạ, biết đụng phải ai thế này?

      - Mông Tốn, nơi này phải Lô Thủy, chớ lỗ mãng.

      người đàn ông khác, chừng ba mươi tuổi, thúc ngựa tiến đến, giọng thâm trầm đầy uy lực, có ý trách móc.

      - Nam Thành, Guzang tuyệt hơn Lô Thủy nhiều, có bao nhiêu là mỹ nữ kiều, chuyến này lo đơn, buồn chán nữa rồi!

      ta hớn hở đáp lại người kia, tên gọi trong cuộc đối thoại của họ khiến tôi kinh ngạc. Tôi biết họ là ai, ra người đàn ông va vào tôi chính là Thư Cừ Mông Tốn!

      Sở dĩ có tên gọi Thư Cừ, bởi vì tổ tiên của tộc người này làm quan Tả thư cừ trong bộ lạc Hung Nô ở Lô Thủy, nên về sau con cháu lấy chức quan này làm tên gọi cho cả dòng tộc. Lữ Quang cát cứ Lương Châu, tộc trưởng Thư Cừ La Cừu dẫn theo toàn thể bộ tộc đến quy hàng. La Cừu được phong làm quan thượng thư. Cháu trai Thư Cừ Mông Tốn cũng là trong những nhân vật kiệt xuất của thời đại này. Mông Tốn nổi tiếng vì là vua Bắc Lương đời thứ hai và còn vì ta bán đứng trai mình để có được ngôi vị đó. Người cả mà Mông Tốn bán đứng, chính là người đàn ông buông lời trách móc ta vừa rồi – Thư Cừ Nam Thành.

      - em to gan, dám giương mắt nhìn chằm chằm vào ta!

      Tôi giật mình, thấy bên khoé môi ta treo nụ cười thích thú, ánh mắt nhìn tôi dò xét. Lúc này mới chợt nhớ ra, khi nãy tôi mải suy nghĩ, mắt rời khỏi ta. Căn bệnh nghề nghiệp này phát bệnh phải lúc rồi!

      Vội thu hồi đặc trưng của con đại, tôi cung kính tạ lỗi:

      - Xin tha tội tiểu nữ va phải ngựa của ngài. Xin ngài rộng lượng bỏ qua cho.

      ta vẫn ngồi lưng ngựa, dùng roi da nâng cầm tôi lên, nheo đôi mắt chim ưng lại, đong đưa:

      - Ta có thể bỏ qua. Ta thấy nàng trông cũng xinh đẹp, lại mạnh bạo, hãy theo ta, ta hứa chiều nàng.

      Trời đất, lẽ nào đây chính là Thư Cừ Mông Tốn mà sách sử miêu tả là người giỏi mưu lược, thạo kế sách, cả đội chinh chiến hầu như lần bại trận, am hiểu lịch sử, thông thiên văn dưới tường địa lý, người mà ngay cả Lữ Quang cũng phải kiêng nể vài phần? Nhân vật hàng đầu trong số các nhân vật kiệt xuất ở Lương Châu ấy ở trước mắt tôi, nhưng bộ dạng này, có khác nào tên công tử con nhà giàu ham chơi, phóng đãng đâu! Và tại sao, tình tiết thiếu nữ ra phố bị kẻ xấu trêu hoa ghẹo nguyệt mà bộ phim truyền hình nào bỏ qua ấy lại xảy ra với tôi thế này? là đen đủi!

      - Mông Tốn!

      Người kia tỏ vè khó chịu, bực dọc quát nạt.

      - Đệ còn định bày trò trăng hoa đến bao giờ nữa, đệ muốn họ tộc phải xấu mặt vì đệ à? Chớ quên, chúng ta còn phải đến yết kiến vua Lương đấy!

      Thư Cừ Mông Tốn thở dài, nhún vai với tôi vẻ tiếc nuối, đôi mày rướn lên, chọc ghẹo:

      - Người đẹp ơi, gặp mặt vua Lương ta được phong quan, đến lúc đó, ta quay lại tìm nàng. Hãy nhớ, tên ta là Thư Cừ Mông Tốn!

      ta đột ngột vươn cánh tay dài, đổ người xuống định tóm lấy tay tôi, tôi giật mình né tránh, nhưng kịp, khi tôi nhận ra mưu đồ của ta bàn tay lướt má tôi. ta chậc chậc, xuýt xoa:

      - Làn da mềm mượt quá! Con Hán hấp dẫn hơn con Hung Nô nhiều!

      Bực mình quá, đây là lần đầu tiên tôi bị sàm sỡ! Tôi đưa tay ôm má, bàn tay thô ráp của ta khiến tôi hơi đau. Vừa định nổi trận lôi đình, chợt bắt gặp ánh mắt ta truyền tín hiệu cho ai đó ở phía sau, tôi giật mình! Ánh mắt đó chắc chắn phải là ánh mắt của kẻ lãng tử, vì nó sắc lạnh, bí hiểm và thâm u. Chỉ trong nháy mắt, đôi mắt chim ưng ấy lại trở về trạng thái bỡn cợt, bông lơi lúc đầu. Trong đoàn người ngựa phía sau, người đàn ông ăn vận quý phái nhíu mày nhìn ta. Tôi chợt hiểu ra...

      Sách “Tấn thư” miêu tả Thư Cừ Mông Tốn là người “kiệt xuất, giỏi mưu lược, gian hùng và biết tuỳ cơ ứng biến”. Có thể chớp lấy thời cơ trong thời loạn này để lên ngôi làm vua, dũng mãnh chỉ là phần rất , điều quan trọng là ta phải có thủ đoạn tàn độc. Con người ấy chắc chắn thể là con người với bộ dạng như tôi thấy. ta cố tình diễn trò công tử ăn chơi, ra phố chọc ghẹo con nhà lành.

      Mới hai mươi tuổi biết đóng kịch, tự hạ thấp bản thân để nuôi dã tâm. biết ta diễn vở kịch này cho ai xem? Nam Thành, hay tộc trưởng La Cừu, hay là Lữ Quang?

      Rajiva nhắm nghiền mắt lại, thoải mái tận hưởng những phút thư giãn với đôi tay mát-xa của tôi. Mỗi tối, chàng thường trở về với vẻ mặt mệt mỏi, chán nản. Chỉ khi ở cạnh tôi, vẻ mệt mỏi ấy mới tan biến.

      - Dân lưu lạc đến thành Guzang này ngày đông.

      Chàng nằm giường, để tôi tẩm quất và mát-xa hai vai, tôi vừa thao tác, vừa .

      - Mùa hạ năm nay bị hạn hán, lúa mạch thất thu. Vùng Đôn Hoàng, Tửu Tuyền chịu thiên tai nặng nề nhất. Người dân thể tiếp tục sinh sống ở quê hương, lũ lượt kéo nhau tha hương cầu thực, rất nhiều người lưu lạc đến Guzang. Bây giờ phố có rất nhiều người ăn xin.

      Chàng giữ tay tôi lại, ngoảnh đầu nhìn tôi, gương mặt thanh tao nhuốm vẻ âu lo:

      - Ngày mai ta sẻ đề nghị Lữ Quang mở kho lương phát chẩn cứu đói.

      Suy nghĩ lát, chàng lại hỏi:

      - Chúng ta còn tiền ?

      Tôi gật đầu. Pusyseda chuẩn bị cho chúng tôi rất nhiều tiền bạc, bản thân tôi cũng mang theo từ thời đại ít ngân lượng, đường tới Guzang, chúng tôi hầu như dùng đến, nhưng mấy ngày vừa qua tôi cũng lấy ít trong số đó để bố thí cho người ăn xin khi tôi ra phố.

      - Ngải Tình, tiền bạc của cải chỉ là vật ngoài thân, cứu người mới quan trọng. Ngày mai, nàng hãy vào thành cứu tế.

      Tôi cười vì biết rằng chàng vậy.

      - Chàng yên tâm.

      Đặt ngón tay cái lên huyệt thái dương của chàng, hỏi chàng vừa độ chưa, chàng gật đầu, nhắm mắt thư giãn. Dưới ánh đèn, gương mặt chàng dịu dàng, đôn hậu, tôi say mê ngắm nhìn.

      - Rajiva... chàng hãy nghĩ ra cách gì đó để khuyên Lữ Quang, hiệu quả hơn.

      Chàng mở mắt, nhìn tôi băn khoăn:

      - Cách gì vậy?

      - Là... là... quẻ bói, lời tiên tri chẳng hạn.

      Tôi ấp úng, bàn tay ấn huyệt thái dương bỗng dừng lại.

      Chàng khẽ nhíu mày, tôi bèn nửa quỳ nửa ngồi bên cạnh chàng, giải thích:

      - Ví dụ như khi có gió lớn, chàng có thể với Lữ Quang rằng: đó là dấu hiệu tốt lành, chắc chắn xảy ra phản loạn. Nếu ông ta chịu mở kho lương phát chẩn cứu dân, cần động binh, phản loạn tức khắc ...

      - Ngải Tình!

      Chàng ngắt lời tôi, có vẻ vui, đôi mắt trong veo tựa hồ thu, gợn đục.

      - Ta muốn điều giả dối. Càng thể cúi mình bợ dỡ họ Lữ kia.

      Tôi biết chàng từ chối. Nếu chàng bằng lòng hạ mình, ngay khi còn ở Khâu Từ chàng làm việc đó rồi, nếu thế có lẽ chàng ít phải chịu giày vò. Tính cách cao ngạo, bất khuất của chàng khiến chàng phải chịu khổ ra sao suốt mười bảy năm sắp tới?

      Kể từ khi đặt chân đến Guzang, chàng rất ít khi cười. ai tín Phật, chàng lại chẳng thể ra ngoài truyền pháp, hàng ngày phải bó mình với công việc thế tục, áp lực tinh thần đè nặng lên chàng. Tôi đưa tay lướt hàng lông mày thanh tú của chàng, ngón tay chạm đến đôi mắt sâu hun hút của chàng, tôi ước gì có thể xoá tan những vết nhăn hằn đuôi mắt chàng. Chàng chớp mắt, nhìn sâu vào mắt tôi, niềm vui trong đáy mắt dần dần .

      Tôi đặt nụ hôn lên hàng mi dài của chàng, chàng nhắm mắt lại, tận hưởng. Trượt môi xuống dưới, chạm vào môi chàng, nhưng khi chàng muốn đáp lại, tôi vội rời ra, hôn lên cổ chàng, chàng rên lên khe khẽ. Tiếp tục trượt xuống dưới, ngón tay mân mê chạm vào chiếc nhẫn cưới được lồng vào sợi dây màu đỏ cổ chàng. Kể từ ngày chàng tặng nhẫn cho tôi, tôi ép chàng phải buộc nó vào y phục. Vì nhà sư mà đeo nhẫn cưới trông rất kỳ quặc, tôi sợ người ta cười nhạo chàng.

      Tôi khẽ tách chàng ra, nhàng cởi khuy áo của chàng:

      - Ngải Tình, nàng...

      Chàng ngạc nhiên, gương mặt đỏ như gấc chín, hơi thở gấp gáp:

      - Nàng làm gì vậy?

      Tôi ngẩng lên, nhìn vào đôi mắt tựa hai vực nước sâu hun hút của chàng, má nóng bừng, khẽ đáp:

      - Em muốn chàng được vui vẻ.

      Gương mặt chàng bỗng nhiên rạng rỡ, nụ cười xua vẻ băn khoăn, những ngón tay dài, gầy guộc đan vào làn tóc tôi, vuốt ve chiều. Khi ham muốn lên cao, chàng dường như kìm chế nổi, kéo tôi lên.

      - Chàng mệt rồi, để em.

      Tôi mỉm cười, ấn chàng nằm xuống gối, mãn nguyện khi thấy chàng nằm bên dưới tôi, nhắm nghiền mắt, đẩy đưa nhịp thở đều đặn. Sắc đỏ lan toả, đôi mắt khép hờ, làn sương mờ ảo bồng bềnh trôi trong đôi mắt chàng. Khoảnh khắc ngọt ngào đỉnh điểm, vẻ thoả mãn, cực khoái gương mặt chàng an ủi tôi. Tôi ước gì người đàn ông này bao giờ phải chau mày phiền muộn.

      - Ngải Tình, chúng ta hãy tính chuyện sinh con .

      Khi cao trào qua , chúng tôi nằm ôm nhau theo thói quen, chàng thảnh thơi lùa tay vờn nghịch mái tóc tôi, ánh mắt dịu dàng:

      - Chúng ta ổn định cuộc sống ở Guzang, nàng rằng chúng ta phải lưu lại nơi này mười bảy năm. Nếu sinh con, nàng có nhiều việc để quan tâm, còn buồn chán nữa.

      Máu trong huyết quản tôi như ngưng tụ lại trong giây lát, nhưng tôi kịp ậm ừ đáp lại chàng, tôi muốn chàng biết được nỗi bi ai tràn ra trong lòng tôi. Sử sách hề đề cập đến việc chàng có con trong khoảng thời gian này. Chỉ có sách “Tấn thư” ghi chép rất ngắn gọn kiện kinh thiên động địa, rằng chàng đòi hỏi được ban cho cung nữ trước mặt rất nhiều người và liền sau đó sinh hai con trai. Nhưng đó là kiện khi chàng năm mươi hai tuổi và đến Trường An, phải lúc này. Nếu những gì sử sách viết là đúng, chắc chắn chàng có con khi ở Lương Châu.

      Chất phóng xạ tích tụ qua nhiều lần vượt thời gian huỷ hoại cơ quan sinh sản của tôi ư? Nếu tôi thể sinh con, đến năm năm mươi hai tuổi, chàng đòi hỏi được ban cung nữ và trong lúc tiếp nhận mười người vợ nữa ư? Nhưng tình chàng dành cho tôi sâu đậm là thế, sao chàng có thể? Trước khi gặp chàng, tôi chỉ xem đoạn sử đó là câu chuyện ly kỳ. Gặp chàng thuở thiếu thời, sau khi biết thân phận thực của chàng, điều đầu tiên tôi nghĩ đến ( xấu hổ) cũng là về chuyện này. Nhưng sau khi chàng, tôi tin rằng đó chỉ là lời đồn đại. Bởi vì, đến từ thế kỷ XXI như tôi, sao có thể chấp nhận người chồng năm thê bảy thiếp kia chứ!

      - Rajiva, nếu như... nếu như...

      - Sao kia?

      Người đàn ông tuấn tú, thanh tao ấy ở gần tôi trong gang tấc, nhìn tôi với ánh mắt ngọt ngào, thương, ngập tràn hạnh phúc.Tôi thể tin vào những ghi chép tam sao thất bản mà nghi ngờ tình chàng dành cho tôi. Cuộn tròn trong vòng tay ấm áp của chàng, tôi cất giọng khe khẽ:

      - có gì...

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 66: Kim đao thái tử

      Tôi nhờ người làm công của tiệm bánh bao khiêng sọt bánh đến nơi tập trung đông dân chạy nạn nhất ở ngoại thành Guzang. Đó là ngọn đồi khuất gió với hơn chục hang động, bên trong tập trung hàng nghìn người từ khắp các vùng ở Lương Châu lưu lạc đến Guzang.

      Tôi cất cao giọng, hô hoán:

      - Xin mời bà con đến nhận bánh bao! Pháp sư Kumarajiva giàu lòng nhân ái, thương bà con phải chịu cảnh đói khổ, cử người đến viện trợ.

      Tôi cố ý gọi tên Rajiva, mong có thể gây dựng hình ảnh tốt đẹp của chàng trong lòng dân chúng.

      Những hình hài gầy guộc, những thân xác héo hon, áo quần rách rưới ùn ùn kéo ra cửa hang động, vẻ mặt còn băn khoăn hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng ánh mắt nhìn chằm chằm vào sọt bánh bao, miệng nuốt nước bọt.

      Tôi cầm chiếc bánh, đưa cho cậu bé đứng gần nhất, em đón lấy, nhai nuốt ngấu nghiến, chớp mắt, chiếc bánh nằm gọn trong bụng.

      Đám đông xôn xao, ánh mắt sáng rực đổ dồn về phía tôi, phải, đúng hơn là đổ dồn vào chiếc sọt bánh bao bên cạnh tôi. Tôi hô hào cầu mọi người xếp hàng, nhưng vô ích. Rồi tôi nhận ra, mình bị chen lấn và bị đẩy ra ngoài, tôi cố gào thét khản cả cổ cũng thể duy trì được trật tự. Sọt bánh bị lật đổ, những chiếc bánh lăn lông lốc mặt đất, tiếng phụ nữ và trẻ em gào khóc vì bị chen lấn xô đẩy, còn có cả những cuộc xô xát, ẩu đả vì tranh nhau bánh. Cảnh tượng nhốn nháo, hỗn loạn ấy khiến tôi sợ hãi. Lần đầu làm công việc cứu đói này, nên tôi chưa có kinh nghiệm cũng phải thôi. Sớm biết xảy ra tình trạng này, tôi thuê thêm vài người giúp việc rồi.

      Tôi tìm được gian miếu hoang, thực ra nên gọi là đạo quán[1] mới đúng, bởi vì tôi nhìn thấy tượng Thái Thượng Lão Quân phủ lớp bụi dày bàn thờ, tuy nhiên các ban bên cạnh lại là tượng Phật tổ, nhưng tất cả đều hoang tàn vỡ nát. Tôi vừa xem xét gian miếu hoang, vừa suy nghĩ xem có nên đặt “bộ chỉ huy” cứu trợ ở đây . Bỗng tôi nghe thấy tiếng khóc thút thít của trẻ em vẳng ra từ phía sau bàn thờ.

      [1] Điện thờ của đạo sỹ.

      Bước ra sau lưng tượng Thái Thượng Lão Quân, tôi nhìn thấy bé trai chừng ba, bốn tuổi, quần áo tả tơi, ôm gối khóc lóc. Dáng vóc gầy guộc đáng thương ấy cho thấy đứa trẻ này thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng. Thấy có tiếng động, đứa bé giật mình ngẩng lên, tuy mặt mũi lấm lem nhưng vẫn đôi mắt to, sáng long lanh. Tôi mủi lòng, lôi chiếc bánh nướng dành cho bữa trưa cất trong túi ra, chia cho chú nhóc nửa. Chú nhóc có vẻ do dự, mặc dù miệng nuốt nước bọt ừng ực, nhưng chỉ trong giây lát, vội vã đón lấy, vừa định cắn miếng, lại chần chừ, sau đó thận trọng giấu miếng bánh vào lòng.

      - Sao cháu ăn?

      Chú nhóc nhìn tôi, vừa nuốt nước bọt vừa ra sức kìm chế nỗi thèm thuồng:

      - Cháu muốn mang về cho tổ mẫu, mẫu thân và chị Tĩnh.

      Đứa bé này ngoan quá, em mới vài tuổi đầu. Nhưng tôi hơi băn khoăn, vì sao em gọi là bà nội và mẹ mà lại gọi cách trịnh trọng là “tổ mẫu” và “mẫu thân”. Em có phải trẻ lang thang cơ nhỡ ? Đưa nốt cho chú bé miếng bánh còn lại, tôi :

      - Để dành miếng kia cho họ, cháu ăn miếng này .

      Hai mắt chú bé rực sáng, nhìn chăm chăm vào miếng bánh, em nuốt nước bọt ừng ực khiến tôi buồn cười, nhưng em lại ngẩng đầu lên hỏi:

      - chỉ còn miếng này thôi, ăn sao?

      Tôi sững người! Đứa bé này đáng quá!

      - đói, cháu ăn .

      Lúc ấy, chú nhóc mới đón lấy miếng bánh, nhai nuốt ngấu nghiến, kết quả bị nghẹn và ho sặc sụa. Tôi vội vỗ lưng cho em, em gầy quá. Tôi đưa túi nước cho em uống, em vừa uống nước vừa chén sạch miếng bánh chỉ trong chốc lát. Sau khi lấy lại sức, chú nhóc đột ngột quỳ sụp xuống trước mặt tôi, khiến tôi được phen hốt hoảng.

      - Mẫu thân cháu dạy rằng, uống nước nhớ...

      Đôi mắt to đưa đưa lại, có vẻ như tìm kiếm trong kho từ vựng, rồi em tươi cười:

      - Đúng rồi, uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Mộ... Mục Siêu lạy tạ đại ân đại đức của . Ngày sau, cần sai bảo cháu lảm bất cứ việc gì, cháu cũng xin xả thân báo đáp.

      Nhìn điệu bộ nghiêm túc và lắng nghe ngôn ngữ văn hoa của chú nhóc, có thể khẳng định mẹ chú là người rất có cốt cách. Tôi thầm nghĩ, phải chăng là công tử con nhà may gặp nạn. Có điều chú nhóc gọi tôi là làm tôi buồn cười, vì nó khiến tôi liên tưởng tới Dương Quá và Tiểu Long Nữ. Tôi đỡ chú bé dậy, chưa kịp bên ngoài chợt có tiếng bước chân đến gần. Chú nhóc tỏ ra bối rối, chui tọt xuống dưới bàn thờ. Tôi hiểu đầu cua tai nheo ra sau, nhưng cũng chui vào theo.

      - Ai thế?

      - Suỵt!

      Chú bé ghé sát vào tai tôi, thào:

      - Là mẫu thân của cháu và chú Hô Diên Bình.

      Tôi thở phào tưởng là ai chứ! Định bước ra bàn tay nhắn giữ tôi lại. Tôi thấy vẻ khẩn cầu trong đôi mắt mở to của chú bé. Thế là lòng hiếu kỳ lại chiến thắng, tôi ngoan ngoãn ngồi yên dưới bàn thờ đầy bụi bẩn cùng chú nhóc.

      - Siêu ơi, con có trong đó ? Mau ra đây !

      Đó là giọng êm ái, dịu dàng của người phụ nữ, có lẽ là mẹ chú nhóc.

      - Chủ mẫu!

      Giọng thâm trầm của người đàn ông.

      - Cháu Siêu còn bé, nên hà khắc quá. Huống hồ, chỉ là chiếc bánh bao.

      - Hô Diên!

      Giọng của người phụ nữ đột ngột lên cao:

      - phải vì chuyện chiếc bánh bao, mà là hành vi ăn trộm của nó khiến tôi đau lòng. Lúc chỉ ăn trộm bánh bao, nhưng nếu có người quản thúc, dạy bảo, lớn lên thành tên trộm lành nghề. Nhà Mộ Dung sinh ra đứa con hư đốn như vậy, tôi biết ăn ra sao với người cha khuất của nó, với tổ tiên đây?

      Mộ Dung ư? Cái tên khiến tôi giật mình. Họ có quan hệ gì với nhà Mộ Dung, người Tiên Tì liên tiếp lập nên bốn nước Yên thời Thập lục quốc?

      - Vậy còn việc ngày hôm nay chủ mẫu đến Vạn hoa lầu sao, chị làm vậy cũng là có lỗi với tổ tiên nhà Mộ Dung!

      Người đàn ông dường như rất giận, nắm lấy cánh tay người phụ nữ, khiến giật mình.

      - ...

      Người phụ nữ nghẹn ngào, vẻ yếu đuối tội nghiệp của khiến người ta phải mềm lòng.

      - Sính Đình xứng được ghi tên trong gia phả nhà Mộ Dung, nhưng mong là sau khi bán thân, có đủ tiền nuôi dưỡng con trai, để ngày sau nó được gặp lại chú và bác nó. Rồi Sính Đình lấy cái chết để tạ tội!

      - Chủ mẫu...

      Người đàn ông nghẹn ngài, tiếng gọi ấy chứa chan bao ân tình.

      - Ngày mai tôi xin lính, chắc chắn đổi được ít lương thực...

      - được!

      Người phụ nữ hốt hoảng, giọng chứa đầy nỗi chua xót:

      - Vì chúng tôi mà cả nhà bị chém đầu, gia đình tan nát, chỉ còn con duy nhất là cháu Tĩnh. Bây giờ, lại muốn bỏ mấy người mẹ goá con côi chúng tôi ở lại ư? lính đồng nghĩa với việc chín phần chết phần sống, nếu có mệnh hệ gì, chúng tôi biết phải trả nợ gia đình ra sao?

      - Chủ mẫu...

      Người đàn ông cố kìm nén tiếng nức nở, nhưng ngăn được những giọt nước mắt.

      - Vậy chị hãy hứa với tôi, được nhắc đến việc bán thân nữa. Chị là tiểu thư con nhà trâm thiết phiệt, phải biết trân trọng bản thân chứ! Dù cuộc sống gian lao đến đâu, còn có tôi chống đỡ kia mà...

      Họ khóc, tôi dám thở mạnh vì sợ họ phát thấy có người nghe trộm khó xử. Sau khi họ khuất, tôi mới kéo chú nhóc từ gầm bàn thờ ra. Chúng tôi đến bên con suối bên ngoài miếu hoang, tôi vò sạch khăn, lau mặt cho đứa bé, vì mặt mũi nó lấm lem nhìn ra sao. Sau khi lau rửa sạch , gương mặt xinh xắn, đáng ra trước mắt tôi. Tôi thầm xuýt xoa trước làn da trắng mịn, chiếc cằm nhọn duyên dáng, đôi mắt hai mí thanh tú đen lay láy ấy. Quả nhiên là con cái của gia đình Mộ Dung vốn nổi tiếng là dòng tộc sinh ra toàn mỹ nam mỹ nữ.

      - Siêu ơi, mẫu thân cháu đúng đó. Dù chỉăn trộm chiếc bánh bao vẫn là ăn trộm. Người ta ai nấy đều khinh ghét những kẻ ngồi chơi ăn sẵn. Sau này, nhớ được làm những việc khiến mẫu thân cháu buồn lòng nữa!

      Chú nhóc gật đầu, gương mặt nhắn lộ vẻ ngượng ngùng, xấu hổ. Tôi mỉm cười, dắt tay chú nhóc:

      - Mộ Dung Siêu, nào, đưa đến gặp mẫu thân cháu và chú Hô Diên.

      - ... Sao biết cháu tên là Mộ Dung Siêu?

      Chú bé kinh ngạc, lùi lại phía sau, vẻ mặt cảnh giác nhìn ra bốn phía.

      - Nhóc con! Khi nãy mẹ cháu nhắc đến nhà Mộ Dung, lại gọi cháu là Siêu, vậy tên cháu chắc chắn phải là Mộ Dung Siêu.

      Tôi phì cười, trong lòng thầm nghĩ, ta những biết cháu tên là Mộ Dung Siêu, ta còn biết ông nội Mộ Dung Hoàng của cháu là vị vua đầu tiên của nước Tiền Yên, người bác Mộ Dung Thùy của cháu thừa lúc nhà Tiền Tần chia năm sẻ bảy khôi phục nước Yên, sử gọi là nhà Hậu Yên. Cháu còn có người họ từng làm mưa làm gió chốn hậu cung của Phù Kiên, là Mộ Dung Xung. Người chú Mộ Dung Đức của cháu xưng vương sau khi nhà Hậu Yên của Mộ Dung Thùy bị tiêu diệt, sử gọi là nhà Nam Yên. Chỉ có người cha Mộ Dung Nạp của cháu có tiếng tăm gì, vì bị Thái thú Trương Dịch nhà Tiền Tần giết chết.

      - Vậy ơi, có thể hứa là chỉ mình biết họ tên của cháu được ? Và nếu có mặt người khác, hãy gọi cháu là Mục Siêu được ?

      Chú nhóc ngẫm ngợi hồi, quay ra mặc cả với tôi. Điệu bộ ông cụ non ấy khiến tôi bất ngờ. Mới ba tuổi mà Mộ Dung Siêu già dặn và thận trọng nhường vậy! Người ta : trẻ sao già vậy. Liên tưởng tới ngày sau, vì muốn che mắt Diêu Hưng ở Tràng An, cậu ta giả điên suốt ba năm trời, mới thấy sức chịu đựng và nhẫn nhục ở con người này lớn đến mức nào. Những đứa trẻ ba tuổi trong thời đại mới khác làm sao, chúng là cục cưng của ông bà cha mẹ, lúc nào cũng được nâng niu chiều chuộng hết mức. Mộ Dung Siêu khác, từ khi ra đời, cậu ta phải nếm đủ mùi đói khát. Những năm tháng vì thiên tai địch hoạ mà phải lang bạt kỳ hồ khiến người ta trưởng thành sớm hơn trong bất cứ bối cảnh nào.

      Vị vua sau cùng của nhà Mộ Dung dắt tay tôi, dẫn vào hang động tối tăm, bên trong có rất nhiều người nằm co ro. Mộ Dung Siêu đưa tôi đến trước mặt người phụ nữ nhiều tuổi, cho người phụ nữ ấy uống nước. Mộ Dung Siêu lấy chiếc bánh giấu trong người ra, chia cho bà miếng, chia cho bé khoảng tám, chín tuổi kia miếng. Họ nhai nuốt ngấu nghiến. Ai có thể ngờ rằng người phụ nữ khốn khổ, trông khác gì người ăn xin, sống trong hang động tồi tàn này lại là Vương phi. Bé này hẳn là Hô Diên Tĩnh, con của Hô Diên Bình, người mà sau này trở thành vợ của Mộ Dung Siêu.

      Sau khi tiêu diệt Tiền Yên, Phù Kiên vẫn rất hậu đãi nhà Mộ Dung. Mộ Dung Đức được Phù Kiên phong làm Thái thú Trương Dịch, đưa mẹ là Công Tôn Thị và người trai Mộ Dung Nạp tới Trương Dịch. Trước ngày diễn ra trận Phi Thủy, Mộ Dung Đức lên đường ra trận, trước khi có để lại con dao nạm vàng. Con dao vàng này trở thành tín vật để sau này hai chú cháu Mộ Dung Siêu nhận nhau. Và cũng chính nó tạo nên cuộc đời đầy bi kịch, sóng gió, thăng trầm của vị vua cuối cùng của nước Yên, hệt như cuộc đời bi thương của “người con côi họ Triệu”[2].

      [2] Tên vở kịch lịch sử.

      Sau khi nghe Mộ Dung Siêu thuật lại, Công Tôn Thị gượng dậy lời cảm ơn, tôi vội đáp lễ. Thời trẻ hẳn là bà rất xinh đẹp. Tuy nay sa cơ thất thế, tóc bạc trắng đầu, mặt mày lấm lem, nhưng ở bà vẫn toát lên khí chất của quý tộc. Người phụ nữ này phải sống những năm tháng cuối đời khổ cực, con trai cả bị chém đầu, con trai út Mộ Dung Đức kể từ khi ly biệt cho đến lúc qua đời, bà được gặp mặt. Công Tôn Thị qua đời khi Mộ Dung Siêu tròn mười tuổi, bà trao lại con dao vàng cho Mộ Dung Siêu, đồng thời khoác lên vai đứa cháu khát vọng phục quốc cháy bỏng của dòng họ.

      Tôi ở lại trong hang đá chờ lúc mẹ của Mộ Dung Siêu và người ân nhân Hô Diên Bình trở về. Vừa gặp mặt, tôi muốn thốt lên: ấy đẹp quá! Cho dù quần áo rách rưới, cho dù sắc mặt vàng vọt, cũng làm lu mờ dung nhan kiều diễm của ấy. Có được người mẹ xinh đẹp nhường vậy, lại được di truyền bởi dòng dõi Mộ Dung, chả trách, sách “Tấn thư” miêu tả Mộ Dung Siêu: “Thân cao tám thước, đai buộc chín vòng, tóc dài thanh tú, dung mạo ưa nhìn?” Còn người ân nhân cứu cả gia đình họ, Hô Diên Bình, năm nay chừng ba mươi bảy, ba mười tám tuổi, cao lớn tráng kiện, tuy dung mạo có gì nổi bật, nhưng gương mặt trung hậu, đứng đắn.

      Mộ Dung Thùy khởi binh phản Tần, cả nhà Mộ Dung đều bị tội chém đầu. Thái thú Trương Dịch thời Tiền Tần bắt tất cả người thân của Mộ Dung Đức lôi ra xử trảm, trong số đó chỉ có hai người thoát nạn. Đó là Công Tôn Thị, vì tuổi cao, nên được miễn tội. Người kia là Đoàn Thị, vợ Mộ Dung Nạp, bây giờ tôi biết ấy tên là Đoàn Sính Đình. Khi ấy Đoàn Thị mang bầu nên bị xử ngay, mà bị giam vào nhà lao của quận. Quan cai ngục Hô Diên Bình từng là cấp dưới của Mộ Dung Đức. Sử sách ghi chép rằng, Hô Diên Bình từng phạm tội chết, nhưng được Mộ Dung Đức xá miễn. Để báo đáp ơn đức đó, Hô Diên Bình hy sinh cả gia đình, cứu mạng Đoàn Thị. Hô Diên Bình đưa Công Tôn Thị, Đoàn Thị và con út bỏ trốn đến bộ lạc của người Khương May thay khi ấy nhà Tiền Tần trong cơn đại loạn, ai quan tâm việc truy bắt họ, nên Đoàn Thị sinh hạ Mộ Dung Siêu thuận lợi ở bộ lạc của người Khương.

      Nhưng theo như những gì tôi nghe được từ cuộc đối thoại trong miếu hoang, tôi cảm thấy Hô Diên Bình liều mạng cứu giúp Đoàn Thị phải chỉ vì muốn trả ơn. Lý do quan trọng hơn, có lẽ là vì ta đem lòng người phụ nữ dịu hiền lại rất có cốt cách – Đoàn Sính Đình ấy. Tôi biết họ có nên vợ nên chồng hay , nhưng có thể thấy lòng biết ơn của Đoàn Sính Đình dành cho Hô Diên Bình qua việc Đoàn Thị tác hợp cho Mộ Dung Siêu và Hô Diên Tĩnh về sau này.

      Tôi cùng Hô Diên Bình và Đoàn Sính Đình đứng bên ngoài hang động trò chuyện. Tôi với họ ý định của mình khi đến đây:

      - Tôi là vợ của pháp sư Kumarajiva, người Khâu Từ. Pháp sư giàu lòng từ bi, muốn cứu giúp nạn dân[3]. Nhưng số lượng nạn dân quá đông, để tránh rối loạn, chúng tôi cần người giúp sức. biết đây có thể tìm giúp hơn chục thanh niên vạm vỡ khoẻ mạnh và chị đây có thể giúp tôi chia lương thực hay ? Tôi thể trả công nhưng có thể đảm bảo cho cả nhà các vị được no bữa.

      [3] Chúng tôi dùng tên gọi này để chỉ tất cả những người dân vương triều tại địch hoạ, phải bỏ xứ lưu lạc đến nơi khác.

      Họ nhìn nhau ngạc nhiên, rồi nhìn tôi đầy vẻ cảm kích. Hô Diên Bình chắp tay, quỳ bên gối xuống:

      - Tấm lòng của pháp sư và phu nhân rộng rãi, Hô... Nghiêm Bình vô cùng cảm kích. Tôi xin tận tâm tận lực, xin pháp sư và phu nhân cứ giao việc cho tôi.

      Vừa suy nghĩ về việc bố trí công việc cứu trợ của ngày mai, tôi vừa sải bước nhanh về phía hoàng cung. Giờ này, chắc Rajiva được nghỉ, tôi phải trở về trước chàng. Tôi bàn bạc xong xuôi với Hô Diên Bình, ta tìm người giúp sức, sáng sớm mai tất cả tập trung tại ngôi miếu hoang, sau đó chúng tôi đến tiệm bánh bao lấy bánh. Tôi đặt hàng bánh bao tại tất cả các tiệm bánh trong thành căn cứ vào số lượng nạn dân thống kê được, nên chỉ trong chớp mắt, khoản tiền tôi mang theo bên mình hết nhẵn. Mất mùa nên giá lương thực đội lên rất cao, có lẽ phải gấp đôi ngày thường. Và tôi biết, giá lương thực thời vẫn chưa phải mức giá đỉnh điểm mà sử sách chép lại. Lịch sử ghi chép về việc Lữ Quang có mở kho lương phát chẩn hay , với tài sản và năng lực hữu hạn của chúng tôi, thể giải quyết vấn đề.

      mải suy nghĩ, để ý phía trước, tại góc đường rẽ vào cửa cung, tôi đâm sầm vào người. Người đó mặc giáp sắt, nên đầu tôi bị trận va đập đau điếng. Tôi đưa tay xoa đầu, miệng suýt xoa đau đớn, khi ngẩng đầu lên nhìn cả tôi và người ấy đều sững lại.

      Khuôn mặt vuông vức, cục mịch ấy, đôi mắt chim ưng khó đoán ấy, của ai khác, chính là Thư Cừ Mông Tốn, ta dẫn theo toán lính, chuẩn bị xuất cung. Chưa kịp than thở vì vận xui này, cả người tôi đột ngột bị cánh tay thép kéo vào giữa bờ vai rộng lớn. ta thấp hơn Rajiva chút, nhưng khoẻ hơn và thô bạo hơn rất nhiều.

      - Người đẹp ơi, ngờ lại gặp nàng ở chốn này! Ta muốn tìm nàng đây!

      ta chỉ khống chế tôi bằng tay, nhưng những thớ thịt săn chắc cánh tay của ta tựa như gọng kìm, ghìm chặt tôi tới mức khiến tôi đau đớn. Tôi như thể con kiến đáng thương, dù ra sức giằng co, vùng vẫy cũng chỉ như gãi ngứa cho ta.

      - Thả tôi ra, tôi là người có chồng!

      - Hả? Vậy ư? Đáng tiếc quá nhỉ?

      Khoé môi ta lộ vẻ bỡn cợt, ta ngửa đầu cười vang:

      - Nhưng người Hung Nô chúng ta để bụng chuyện đó. Có chồng sao nào? Ta cướp lại là được chứ gì! Chồng nàng có giỏi đến đây mà cướp nàng về!

      ta vừa vừa kéo tôi , tôi cố vùng vẫy thế nào cũng ăn thua, ta kéo tôi đến cửa cung điện. Trong lúc cấp bách, tôi ghé sát tai ta, khẽ:

      - Vở kịch lần trước diễn xong rồi, lần này định diễn cho ai xem đây?

      Cả con người ta như đông cứng lại, bước chân dừng đột ngột, nhíu mày nhìn tôi, ánh mắt kinh ngạc. Tôi thể tỏ ra yếu thế trong lúc này được, thế nên tôi trừng mắt nhìn ta, hề sợ hãi. ta kéo tôi sát lại, vẻ mặt cười cợt, vờ như chuẩn bị hôn tôi, nhưng thực chất là kề miệng sát vào tai tôi, thào:

      - là ai?

      Giọng lạnh lùng khiến tôi gai người, đúng lúc ấy giọng trầm ấm từ phía sau vọng lại:

      - biết tướng quân Thư Cừ có điều gì muốn chỉ bảo phu nhân của ta?

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :