Chương 20: Tiếp tục công việc gia sư Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ăn chốn ở, tôi bắt đầu công việc khảo sát, đo đạc, vẽ tranh ở chùa Cakra mỗi ngày. Rajiva căn dặn các sư sãi trong chùa, từ người giữ công, người trông coi Phật điện, đến người quản lý tàng kinh các để tôi được tự do tiến hành công việc của mình. Khách thập phương đến chùa Cakra, ngôi chùa lớn nhất Tây vực thời đó bắt gặp cảnh này: người Hán trong trang phục Khâu Từ tay cầm cuốn tập, dùng thứ bút kì lạ tô tô vẽ vẽ cuốn tập đó. Chốc chốc lại lôi từ trong túi ra chiếc thước cuộn hình thù kì dị đo chỗ này, ướm chỗ kia. Và vị sư trụ trì chùa, đại pháp sư Kumarajiva nổi danh khắp Tây vực cầu tất cả hòa thượng sư tăng trong chùa tạo mọi điều kiện và gây trở ngại cho công việc của đó. Khi tôi đo đạc, khi tôi vẽ tranh, tôi thường xuyên nhìn thấy Rajiva. Đây là lần đầu tiên tôi được quan sát công việc thường ngày của cậu ấy ở trong chùa. Lúc trò chuyện, đàm đạo với các đệ tử về kinh Phật, lúc bận rộn tiếp đón các tăng sĩ, hòa thượng đến xin học đạo từ các quốc gia lân cận, thậm chí từ các khu vực thuộc Trung Nguyên xa xôi. Rajiva cũng thường xuyên ra ngoài, thâm nhập vào đời sống của quần chúng để thuyết giảng và truyền bá những giáo lý kinh văn Đại Thừa. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu khi tôi còn say trong giấc ngủ, nhưng bù lại tôi được quan sát trọn vẹn giờ tụng kinh buổi chiều của cậu ấy từ bốn giờ đến năm giờ. Khi tiếng chuông ngân vang, tất cả sư tăng trong chùa đều đến tập trung đại điện. Rajiva khoác áo cà sa, cùng chư tăng hành lễ, dâng hương trước tượng Phật tổ, sau đó cậu ngồi vào vị trí cao nhất, bắt đầu tụng kinh cầu nguyện. thanh tiếng tụng niệm kinh văn của hàng trăm nhà sư ấy ngân nga trầm bổng tựa sóng biển, vang vọng khắp đại điện, xen với tiếng chuông tiếng mõ thanh thoát, trong veo. Linh hồn như được tắm gội trong biển thanh thanh khiết, thoát tục ấy. Chiếc ba lô Northface thân thuộc của tôi trở về. Đồ đạc bên trong thiếu thứ gì, kể cả chiếc khăn lụa Atala. Nhớ đến ngày Rajiva tặng quà sinh nhật cho tôi, nhớ đến khuôn mặt đỏ lựng vì xấu hổ ấy, tôi tủm tỉm cười và bất giác hứng khởi quàng ngay chiếc khăn vào cổ. vài vật dụng thất thoát, như cuốn tập mới tôi chưa dùng đến, hay vài cây bút chì và vài cục tẩy. Nhưng những bức vẽ của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi cũng vì thế mà âu sầu, tôi đoán Pusyseda lấy ra nghịch và làm gãy hoặc làm mất rồi. Sau mười năm mà vẫn có thể tìm lại được bao nhiêu kỷ vật và chúng lại được giữ gìn cẩn thận như vậy, tôi mong cầu gì hơn. Buổi tối, Rajiva vẫn đến và chăm sóc vết thương cho tôi. Thấy tôi quàng chiếc khăn lụa, cậu ấy thoáng ngạc nhiên, khóe môi nét cười. Rajiva đề nghị tôi tiếp tục làm giáo viên tiếng Hán của cậu ấy. Cuốn sách đầu tiên mà cậu ấy muốn tôi giảng là cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Thế là tôi bắt đầu khởi động chương trình “Trăm nhà thuyết giảng” với những câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, những tích về Tam Hoàng Ngũ Đế. Tôi vốn là người rất thích công việc giảng dạy. Vì học chuyên ngành lịch sử, tôi thường đến các Viện bảo tàng xin làm hướng dẫn viên du lịch “ lương”. Tôi cảm thấy rất phấn chấn mỗi khi du khách say mê lắng nghe những câu chuyện tôi kể. Trước mặt tôi lúc này tuy chỉ có thính giả, nhưng trình độ học thức của vị thình giả này lại rất cao. Vị thính giả ấy tập trung tinh thần cao độ để lắng nghe và liên tục gật đầu tán thưởng. Tôi cảm thấy như mình trở lại khoảng thời gian làm gia sư mấy tháng trước đó, chỉ khác là, tuy học trò thay đổi, nhưng thời gian trải qua mười năm đằng đẵng. Giờ đây, tôi thể cốc vào đầu cậu ấy, cũng thể làm bộ nghiêm khắc, lên lớp với cậu ấy được nữa. Tình hình trở nên tệ hơn, vì giáo thường xuyên nhìn trộm gương mặt điển trai hệt như bức tượng điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp của học sinh, sức lôi cuốn của vẻ đẹp ấy khiến giáo mất tập trung, ánh mắt cứ vân du tận chốn nao và giọng trở nên đến mơ hồ. Mất lúc mới kịp lấy lại tinh thần, mặt đỏ như gấc chín, vờ uống nước, vờ hắng giọng, vờ tìm quạt, vờ vệ sinh, vân vân và vân vân các phương thức chữa thẹn. Ở chùa Cakra, tôi từng được chứng kiến Rajiva chủ trì ngày hội cầu nguyện Phật Quan . Tên gọi Quan Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ ra phải dịch thành Quan Tự Tại, nhưng sau khi truyền vào Trung Nguyên, người Hán đọc sai thành Quan Thế m. Thời nhà Đường, vì muốn phạm húy khi có đọc trùng với tên vua Lý Thế Dân, triều đình hạ lệnh lược bỏ chữ “Thế”, nên tên Bồ Tát chỉ còn là Quan . Tôi vốn hề biết đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan Bồ Tát mà sau này được truyền bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng Phạn của Quan rất khó nhớ. Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan tôi hiểu ra. Vào thời kỳ này, Quan Bồ Tát phải là hình tượng vị Phật nữ giàu lòng từ bi mà chúng ta thường gặp, mà là vị Phật nam uy nghiêm với hai vành râu rất đẹp, giống hệt hình ảnh những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn Hoàng và hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà Đường, Phật Quan mang hình tượng của vị Phật nam. Nhưng vì Quan chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật khéo léo tài tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ hình tượng Phật nữ phù hợp với ngài hơn chăng? Lễ hội kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai cũng có thể tham gia. Phật tử viết tên người thân qua đời của mình lên thẻ gỗ, rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban thờ Phật. Rajiva cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan , sau đó chắp tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ tốn, nho nhã, thanh thoát. Rồi cậu ngồi bục cao, khẽ lắc chiếc chuông đồng tay, thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện trở nên yên ắng lạ thường. Rajiva đưa mắt quan sát lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và gương mặt đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình ảnh của Rajiva tựa như vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, thanh như có sức mạnh thấu suốt, vang động mãi trong gian thánh khiết. Tự giác ngộ và giải thoát là biểu của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác ngộ và giải thoát là biểu của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Bồ Tát với trí tuệ sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban phát những lời răn và giúp đỡ dựa năng lực, phẩm hạnh và mong muốn giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống khổ, giúp niềm hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do tự tại, phiền muộn, ưu sầu. Chúng tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những người dân đứng bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo. Tiếp đó, Rajiva đọc câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo, biển thanh thành kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả trời xanh. Ngày hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa. Rajiva đích thân chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến tận cổng chính của chùa. Tôi len lỏi từng chút để nhích dần lên phía trước và ngừng nghển cổ ngóng trông. Rajiva miệng niệm A di đà Phật, tay chắp lại kính cẩn, phân phát từng phần lộc được gói bọc cẩn thận cho từng người, tay cầm cây trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ lên đầu mỗi người cầu phúc cho họ. Ai nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng mới đến lượt tôi, bụng đói cồn cào. Nhìn thấy tôi, Rajiva thoáng vẻ ngạc nhiên, đáy mắt gợn ánh cười, quay sang với đệ tử bên cạnh đôi câu. Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu phúc. vật gì đó chạm đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp gian, ngẩng đầu nhìn Rajiva, gương mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất thanh tao thuộc về thế giới trần tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh. định rảo bước vị sư khi nãy chạy tới trao cho Rajiva chùm nho. Rajiva tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi. Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy ai có phản ứng bất mãn nào với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh chân bước . Chùm nho ấy tôi nỡ ăn, tôi lấy tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất vào trong ba lô. Buổi tối khi trở về, Rajiva có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất phấn chấn và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc và cầu phúc cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ trong ba lô chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết phục cậu ấy như thế nào. Rajiva chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc và chìa chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. chờ tôi mở lời, cậu đón lấy, ngắt quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười: - Ngọt lắm! Tôi sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt quả thưởng thức, đúng là rất ngọt, ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn… Chúng tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ đến câu vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó![9] Tôi phì cười, muốn dạy lại cho Rajiva. Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu Khâu Từ nên phát chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. khí vui vẻ ấy khiến tôi bồi hồi, giá như, giá như thời gian ngưng đọng trong giây phút này… Những ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Rajiva rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên trì đến chỗ tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ ngơi, thư giãn. Đôi lúc rất muốn massage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám nghĩ trong đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. tay mỗi người đều có cây đèn . Rajiva đến trước tượng Phật tổ, khấu đầu vái lạy, rồi thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư sắp xếp theo phẩm giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ ngọn đèn của người phía trước để thắp sáng ngọn đèn tay mình. Phút chốc, cả đại điện lung linh rực rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn của mình, cảm giác như ánh sáng ấy có thể chiếu rọi cả cõi tâm linh. Trong khí linh thiêng ấy, Rajiva tựa như vị thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên những người khuất vào trong đống lửa. thanh tụng niệm vang vọng, bay lượn trong gian và rót vào tai tôi. Khung cảnh này, cảm xúc này khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc. Lễ hội kết thúc nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn ngừng hồi tưởng về bầu khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm lần nữa tôi lĩnh hội được sức mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ khi loài người xuất , tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với tồn tại của con người và chỉ biến mất khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là giai đoạn lịch sử thảm khốc. Khi tôi với Rajiva về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều thuộc, tôi chỉ có thể thảo luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi lúc, cậu ấy lí giải nổi những điều tôi , nhưng chỉ trong giây lát, tư duy thần tốc cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gian ngắn ngủi mỗi buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đến giờ cậu ấy phải về chùa, tôi khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Einstein lại đúng tuyệt đối kia chứ! Tôi tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi ngồi xếp bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, cậu ấy bước vào trong trò chuyện với các đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ tường, cậu ấy dẫn theo số hòa thượng vào điện thuyết pháp, quên ra hiệu cho tôi tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên đo chiều cao của ngôi tháp, có bóng người cao gầy bước đến cầm lấy chiếc thước cuộn, che đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức có chú tiểu mang nước đến cho tôi, sau đó thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng thân thuộc lướt qua bậc cửa… thể tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Rajiva, trái tim tôi lại đập rộn ràng cách khó hiểu. Ngày nào thấy cậu ấy, tôi như người mất hồn, thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu chiếc gối của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, niềm vui bất trị cứ trào dâng trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi ngừng dõi theo từng bước chân của cậu ấy, cho đến khi Rajiva ngước lên và mỉm cười với tôi. Tôi biết rất những biểu ấy có nghĩa là gì. Nếu tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng của của cậu ấy, tôi sa vào “vòng trầm luân”, thoát ra được và cũng muốn thoát ra. Nhưng, Ngài Tình ơi, có thể có tình cảm với bất cứ ai, nhưng được có tình cảm với cậu ấy. Cậu ấy phải là tách trà uống mỗi ngày. Giữa và cậu ấy là khoảng cách 1650 năm thời gian. Và điều quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi là hòa thượng, còn , sớm muộn cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình. Vậy nên, sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi thể kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định với cậu ấy về dự định của mình vào buổi học tiếp theo. Hôm đó, tôi giảng giải cho Rajiva quyển thứ sáu mươi mốt trong tập “Sử ký” của Tư Mã Thiên có tên gọi – Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước mất làm xấu hổ, thề ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua bữa, nhưng rau dại thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông bị chết đói tại núi Thú Dương. Dưới ngòi bút của Thái Sử Công Tư Mã Thiên, lòng trung thành và phẩm hạnh cao khiết lẫm liệt ấy được đánh giá rất cao. Phần truyện kể về Bá Di, Thúc Tề rất ngắn gọn súc tích, nhưng nội dung chính lại nằm trong đoạn Thái Sử Công bày tỏ những suy cảm của riêng mình. - Thế nhưng, chúng ta có nên học theo hành động “ngu trung” đó của Bá Di và Thúc Tề hay ? Khi ấy, thiên hạ thuộc về nhà Chu, họ thề ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại, nhưng rau dại ấy vẫn là rau dại của nhà Chu, họ sống núi Thú Dương thuộc lãnh thổ của nhà Chu và sau khi họ chết, chính người nhà Chu an táng cho họ. Tôi thở dài: - Ai rồi cũng phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc đời và trước mỗi khó khăn thử thách ấy, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn và quyết định của riêng mình. nhẫn nhục tiếp tục sống hay học theo Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ nhất định chịu nhục. Nếu là tôi, tôi chọn cách tiếp tục sống. Bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thực được lý tưởng của mình. Vậy còn những lời phán xét của người đời sau sao? Tôi thành người thiên cổ rồi còn để tâm đến điều đó làm gì nữa! Tôi lặng ngắm Rajiva và bâng khuâng nghĩ đến khúc ngoặt hành trình số mệnh của cậu ấy mười năm sau. Khi ấy, chắc hẳn cậu ấy phải chịu những nỗi dằn vặt đau đớn đến đứt từng khúc ruột? - Vì vậy, Rajiva ạ, nếu sau này gặp phải khó khăn hay trở ngại, cậu hãy nghĩ đến lý tưởng lớn lao của mình, lấy đó làm động lực tiếp tục sống. Mười năm sau, tôi xuất , nên chỉ có thể đưa ra lời khuyên như vậy với cậu ấy. - Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng khốn dùng để truyền đạt chí hướng và suy cảm của mình. Xưa Tây Bá (tức Chu Văn Vương) bị tù ở Dũ Lí nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Sài nên viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm Quốc Ngữ; Tôn Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lăm; Hàn Phi bị tù ở Tần làm nên những thiên Thuyết Nan, Phẫn; ba trăm bài ở “Kinh thi” phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi bày nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức biểu lộ ra được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau. Rajiva nhìn tôi, mượn lời của Thái Sử Công đáp lời tôi. Chúng tôi cứ thế nhìn sâu vào mắt nhau, mặc cho gian xung quanh trở nên tĩnh lặng thất thường, giữa chúng tôi là bầu khí khó đặt tên. Gương mặt Rajiva dần sắc đỏ, cậu đột nhiên quay . Vẻ mặt mà tôi nhìn thấy là đan xen của rất nhiều xúc cảm: chút khó xử, chút buồn và chút… hối hận. Rajiva, thực ra cậu đâu cần tôi dạy. Đoạn sử “Thái Sử Công tự thuật” cậu vừa đọc nằm trong chương cuối của bộ Sử ký. Tôi tin rằng, nếu cầu cậu đọc thuộc cả bộ Sử ký này, cậu cũng có thể làm được. Vậy vì sao cậu vẫn muốn tôi lên lớp? Trái tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, tưởng như có thể nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi có thể suy luận ra được, là vì cậu muốn được gặp tôi mỗi ngày, nên mới vờ như chưa từng đọc “Sử ký”, đúng ? Nhưng mà… nhưng mà… Tôi nhắm nghiền mắt lại, cố sức kìm chế nhịp đập gấp gáp, vất vả của trái tim và với cậu ấy bằng bình tĩnh lớn nhất mà tôi có được: - Ngày mai tôi đến chùa Cakra nữa, tôi vẽ xong rồi. Cậu biết phải tìm đoàn thương nhân Trường An ở đâu ? Nếu cậu biết, tôi tự tìm hiểu cũng được. Trầm tư trong giây lát, Rajiva hỏi tôi: - Lúc này Trung Nguyên trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên, người Hán và người Hồ ra sức tàn sát lẫn nhau. mình thân dặm trường, vì sao cứ nhất định phải đến nơi nguy hiểm ấy? Khâu Từ tuy chỉ là quốc gia bé , nhưng dù sao vẫn an toàn hơn nơi đó rất nhiều. Chi bằng… - Rajiva… Tôi khẽ ngắt lời cậu ấy. - Lý tưởng của cậu là cứu độ cho mọi chúng sinh thoát khổ. Để hoàn thành lý tưởng này, cậu sẵn sàng đến Trung Nguyên, dấn thân vào chốn binh đao khói lửa đó chứ? - Tất nhiên là tôi sẵn sàng. - Tôi cũng vậy. Tôi ngắm nhìn cuốn “Sử ký” vốn là tâm huyết đời của Thái Sử Công. - Tôi cũng có lý tưởng của mình. Tôi từng với cậu, ước nguyện của tôi là viết nên cuốn sách sử, ghi lại những kiện lịch sử chân thực, trả lại cho lịch sử tính xác thực vốn có. Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời đại lịch sử bi thảm nhất của người Hán. Cha con Thạch Hổ nước Hậu Triệu lấy việc giết hại người Hán làm thú vui, chỉ trong vòng hai mươi năm giết hại mấy mươi vạn người. Nhiễm Mẫn diệt Triệu, ban lệnh tàn sát người Hồ, phàm những người có dung mạo giống người Hồ là thẳng tay giết chết tha. Chỉ trong năm, giết hại hơn hai mươi vạn người Hồ. Phương bắc Trung Quốc, trong vòng hơn hai mươi năm, xương trắng đầy đồng, xác người chất cao thành núi, tiếng than khóc dậy trời. Nếu là thời đại đó, có cho tôi đem theo vũ khí hạt nhân, tôi cũng dám . May thay đó là giai đoạn khi Rajiva vừa chào đời. Tình hình Trung Nguyên nay, nhà Tiền Tần lấy được vùng Lương Châu và Liêu Đông, cơ bản thống nhất được phương bắc. Và Phù Kiên là vị vua mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Tôi rất mong muốn được đến tham quan nước Tiền Tần do ngài cai trị nay, bởi vì sau mười năm nữa, với thất bại thảm hại ở trận Phì Thủy, nhà Tiền Tần của ngài nhanh chóng suy yếu và tan rã, phương bắc lại tiếp tục rơi vào cuộc tranh đoạt thảm khốc của các thế lực ly khai. Tôi nhìn Rajiva, thầm hy vọng ánh mắt kiên định của mình lên điều gì đó. Cậu ấy nhìn tôi, rồi lại ngoảnh mặt hướng khác, ánh mắt lạc lõng thả ngọn đèn dầu lập lòa, giọng như hơi thở: - Tôi sắp xếp cho . Tôi tiếp tục giảng bài, Rajiva tiếp tục lắng nghe. Cứ xem như tôi hiểu tâm trạng của cậu ấy. Cứ vờ như thế , tiếp tục làm ngơ … Kết thúc buổi học, như thường ngày, Rajiva lặng lẽ ra về. Tôi định thở phào tiếng, chợt cánh cửa phòng lại mở ra. - còn nhớ Thiên Phật động Kizil ? Vẫn dáng vẻ bình thản thường thấy đó. - Sau mười năm kể từ ngày ở đó có ngôi chùa hang đá, đến nay có hơn mười hang động lớn được xây dựng rồi đó. - Bảy ngày sau tôi tới đó lễ Phật. Rajiva nhìn tôi, mắt sáng long lanh. - có muốn ? Tôi… tôi… tôi muốn chứ! Cậu ấy hiểu điều gì có thể hấp dẫn tôi. Nếu đến đó, tôi xác định thời gian và trình tự xây dựng các hang đá của ngôi chùa vĩ đại ấy và còn có thể phác họa lại những bức vẽ tuyệt đẹp tường mà về sau bị phá hoại nặng nề. Những tài liệu này là những tài liệu lịch sử vô cùng quý giá. Tôi kháng cự nổi sức hấp dẫn này. Trì hoãn thêm vài ngày có lẽ vấn đề gì. Có lẽ tôi vẫn còn đủ thời gian. Thấy tôi gật đầu, Rajiva tươi cười. - Bảy ngày sau chúng ta lên đường.
Chương 21: Thiên phật động Kizil Bảy ngày sao đó, vào sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện dụng của Rajiva, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươi dặm, xe ngựa của Rajiva lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi. Có điều, phải ngồi chung với Rajiva trong khoảng gian hẹp như vậy, thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy: Rajiva lúc điềm nhiên, Rajiva lúc mỉm cười, Rajiva nho nhã, lịch thiệp, Rajiva với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pixel, liên tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được bức ảnh của Rajiva tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi có kỷ vật để mà hồi tưởng lại. Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừng lãng phí và tình cảm thêm nữa. Nào hãy tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của "Chàng đẹp trai" và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình. Quyết tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay chìa ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tự phục vụ bản thân, kiên quyết để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước, ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lau sạch những vụn bánh vương vấn mép, kiên quyết nhận lấy mảnh khăn từ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe, có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức, buồn ngủ cũng kiên quyết gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy tay cậu ấy làm gối Có phải là ảo giác của tôi hay ? tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến tai tôi. Trái tim tôi như thắt lại… Cuối cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục kiên cường của bản thân, suốt hai ngày trong gian riêng biệt chỉ có hai người, cái gian hẹp khỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiên quyết để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếp trước mỗi lần tôi vượt thời gian: Phải luôn ghi nhớ, em là người đại, em phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinh tình cảm nam nữ, lịch rất có thể vì em mà thay đổi… Nhưng khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ tắm gội dưới ráng chiều huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếc thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí len lỏi qua các hang đá, những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, trôi tuồn tuột ra khỏi đầu tự lúc nào hay. Tối hôm đó, tôi được sắp xếp ở lại trong quán trọ ven sông Muzat. Nghe họ dành cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh ổn cho lắm, may mà tôi chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, khí trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. gian tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu đặc biệt. Tôi vốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi, lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi khỏi xao động. biết phải làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng. Ngày hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Rajiva. Chùa Kizil thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá dành cho các tăng sư tọa thiền kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Rajiva với ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. , thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Rajiva chứ! Chắc chắn tôi nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Rajiva rất nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến căn phòng thiền đặc biệt, được dọn dẹp sạch . Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Rajiva và sôi nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy, tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm chỗ, cả ngày bước chân ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình hiểu sâu những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại cho cùng , thứ thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đẩy mọi nghi hoặc ra khỏi đầu. Thiên Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ tường. Phần lớn hang đá là những căn phòng ngồi thiền của nhà sư theo tông phái Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi từng khảo sát di tích này. Trong các phòng thiền có tranh vẽ, chỉ có chiếc giường đá rất lạnh, và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gian nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gian đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi có mắt ở đây, ngôi chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn tất bật với công việc vẽ tranh của mình. Hấp dẫn quá! Đây là đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra trong số các công đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu chuyện Phật giáo các bức vẽ, bạn có được bài luận xuất sắp với giá trị học thuật cao. dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc vùng Nagari (nay là huện Zanda, Nagari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp tổ chức từ thiện của Liên Hợp Quốc trong ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa được sáp xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với nghẹ nhân nữ người Thụy Sĩ quỳ giá đỡ ở cao. cho tôi xem bộ đồ nghề của mình: Những chiếc bút lớn đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp , nhiều vô kể và dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát ấy vẽ tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa lụa. Những bức họa sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi được tận mắt chứng kiến quá trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên từ nhựa thông, những nghệ nhân này sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao. Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ tranh của họ, phác họa những bức vẽ hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được bận rộn và vui sướng đến thế. Họ sử dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếp giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa thấy những hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi màu xanh da trời. trải qua bào mòn của thời gian và mưa nắng, sắc đỏ bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc khác cũng giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở Afghanistan, cách Khâu Từ nghìn năm trăm kilomet, với màu xanh lam quyến rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng trọng lượng. trong gian động đá, giao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là tài sản lớn. Về sau, khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình tượng, họ tâm cạo sạch lớp bột vàng mình tượng Phật, để lộ lớp đất đá cằn cỗi tới tận đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cười với thời gian, vẻ đẹp của nó khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI phải thổn thức, ngậm ngùi. Sau khi phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong vòng vài trăm năm, Phật giáo hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến tham quan hang đá Ajanta ở Ấn Độ, hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu chân Phật và ban thờ Phật. thế kỷ sau Công nguyên, cùng với phát triển của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới bắt đầu xuất những tác phẩm tượng Phật. Alexander đại đế từng chinh chiến ngang qua Gandhara[10] và mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gandhara trở thành trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật. Các bức bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Gandhara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó bị hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Gandhara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc lượn sóng, búi gọn lên đỉnh đầu. mình khoác áo choàng dài, lộ bên vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên các bức bích họa phần lớn đều để trần nửa thân , dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động. Tôi phác thảo lại bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa (Siddartha)”. Bức họa này kể câu chuyện khi Phật tổ vẫn còn là thái tử, ngài nhìn thấu những phiền não, khổ sở của cuộc đời và từ đó quyết định tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn (Suddhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên ra sức kiến tạo đời sống xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi say sưa phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Rajiva chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi phác thọa hình ảnh cung nữ áp sát thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là hình ảnh rất trong hàng nghìn hình ảnh các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi vẽ lại và phóng to lên, chắc ai để tâm đến những nét tinh tế ấy. Thân hình và tư thế của cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Rajiva đến, tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người hết mà hay biết. còn cách nào khác, tôi đành ăn cùng cậu ấy. Mấy ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, lúc nào rời bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng pho tượng Phật khổng lồ. Tôi nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gandhara giai đoạn sau, hay còn gọi là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan” Nghệ thuật Gandhara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết, nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời đại của đế quốc Kushan (hoặc Kusana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan bị Talian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật này. Thời niên thiếu, Rajiva từng theo mẹ đến Kabul, thuộc Kashmir để học đạo, đây mà khu vực trung tâm Gnandhara, chắc chắn cậu ấy được chiêm ngưỡng những pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên trong dựng tượng Phật khổng lồ. công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và trí tuệ của bậc cao tăng như Rajiva, khó mà có thể hoàn thành. Nhưng Rajiva biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra những pho tượng Phật trong hang đá của Rajiva tại công trình Thiên Phật động Kizil chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân Cương hay ở Long Môn. thể khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng này, trong khi Rajiva làm việc nghỉ ngơi các sư tăng khác chỉ ngồi yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng ra ngoài, thường có chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này kỳ quặc, phải chăng họ thực nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi đem thắc mắc đó ra hỏi Rajiva cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ ngồi thiền, có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Rajiva muốn , nên tôi tranh thủ thời gian buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽ tranh. - Họ ngồi thiền mùa hạ[11] Ngồi thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong "Pháp Hiển truyện" ngài Pháp Hiển có viết rằng hành trình Tây Trúc, ngài nhiều lần phải dừng lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ. - Hàng năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, bước ra ngoài. - Đúng vậy, họ được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụ trì rồi mới được ra ngoài. - Đúng vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng ngồi thiền liền ba tháng. Cuộc thảo luận sôi nổi còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi cay cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vì đây là khoảng thời gian vạn vật sinh sôi nảy nở, họ ra ngoài để tránh sát sinh. ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Rajiva là có . Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, cậu ấy lại ngang nhiên ra ngoài cùng . Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượng Phật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gian ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấy bất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư? Buổi tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở góc khuất cách đó xa, cậu ấy yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Rajiva có vẻ ngạc nhiên, chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự trong giây lát rồi từ từ ngồi xuống. - Rajiva, là thời gian ngồi thiền mùa hạ, cậu nên ra ngoài mới phải… Cậu ấy hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc, giọng bình thản: - Tôi đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối với Phật tổ, vì sao được? - Nếu vậy, sao cậu chờ tháng sau hãy đến? Rajiva đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấy như cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm. Cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi dám nhìn vào mắt cậu ấy: - Rajiva, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây. Rajiva im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, chút biểu cảm. Tôi cắn chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể: - Rajiva, tôi thuộc về nơi này. - Tôi biết. Bỗng nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Rajiva quả thực rất cao, tôi ngước lên nhìn cậu ấy chỉ lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ phải chỉ vì cậu ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như rơi, sắp rơi xuống rồi… - Ngày mai chúng ta rời khỏi đây. Tôi gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng di chuyển gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc biến mất trong ngõ hẻm quanh co, vắng lặng. Đêm đó, qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc, bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mong manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóng người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt nhạt nhòa mặt, lao ra khỏi phòng. gian buổi đêm tịch mịch, quạnh quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông bóng người. Đêm đó, tôi hầu như ngủ, chống mắt nhìn trời sáng. đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất những quầng thâm rệt. Rajiva hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôi đều trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì thể, nên níu kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trở về thế kỷ XXI, tôi có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi tìm được người để . chàng cùng khoa, học tôi khóa có ý với tôi lâu rồi, tôi suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay . Cho dù ta đẹp trai bằng cậu ấy, thông minh bằng cậu ấy, dịu dàng bằng cậu ấy, .. Tôi biết chứ, chàng khóa chẳng có điểm nào có thể so sánh với cậu ấy, nhưng ta là con người của thực. Còn Rajiva, đối với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đống sách cũ nát mà thôi… Chúng tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà trong thành cổ Subash. Trước lúc quay về chùa, Rajiva nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắt khó hiểu, sau cùng là tiếng thờ dài: - Tôi sắp xếp đội thương nhân cho . Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi tối về đây nữa. lúc lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi cất bước. - Mười ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. từng muốn xem lễ hội này. Hay là… Cậu ấy ngập ngừng. - Để sau khi lễ hội kết thúc hãy … Tôi ngẩng đầu, thấy nhìn như trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, có cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên tiếng: - Ừ. Vành môi của cậu ấy như được kéo lên, rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôi ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Rajiva. Tôi muốn tham dự ngày hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là học sinh hiếu học, tôi là con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối phải là … người lí tưởng…
Chương 22: Ra ngoài dạo Những buổi tối sau đó, Rajiva đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng mỗi ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa, cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng ngày, cầm cuốn tập tay lang thang trong thành Subash, mãi mãi, rồi hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể có bàn tay ai đó nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét vẽ lại dần hình ảnh của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại ra sức xóa . Chỉ còn hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn thấy bóng dáng Rajiva đâu. Khi lễ hội kết thúc tôi rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra , liệu tôi có còn được gặp cậu ấy lần cuối hay ? Mặc dù vẫn biết rằng, gặp là cách tốt nhất để khi ra , tôi có thể quên tất cả… Buổi tối, tôi nằm co giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng” cánh cửa, suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn bày ta trước mắt, nhưng thể khơi dậy dù chỉ là chút cảm hứng trong tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài, vậy là lại đêm nữa trôi nữa qua. Bỗng tôi nghe có tiếng gõ cửa, ồn ào, nhưng rất ràng. Rồi tiếng trò chuyện của Mavasu với ai đó vang lên trong sân. Họ chuyện bằng tiếng Phạn! Là cậu ấy! Tim đập liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Rajiva đứng trò chuyện với Mavasu giữa sân, trong bóng tối tôi thấy biểu cảm khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu có việc gì hệ trọng, cậu ấy đến vào giờ này. Có lẽ xảy ra chuyện gì đó. Mavasu buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Rajiva chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi bước của cậu ấy là nỗ lực vô cùng lớn lao. - Khuya thế này, lẽ ra Rajiva nên đến…. Giọng trở nên run rẩy. - Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Rajiva ra ngoài dạo, hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Rajiva đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu, mới quyết tâm gõ cửa. Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn trong phòng chiếu lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì khiến người luôn điềm tĩnh, an nhiên như Rajiva trở nên tội nghiệp thế? Cậu ấy đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng: - Rajiva, chúng ta ra ngoài dạo lát nhé! Rajiva nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thào: - mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh… Thành cổ Subash chìm trong yên tĩnh, đường phố tắt đèn từ lâu, nhưng ánh trăng vằng vặc vẫn soi tỏ đường dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ bên nhau. Đây là lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Rajiva hẳn cũng có chút e ngại và thận trọng. Subash là thành phố có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân , bởi vậy thành phố này có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng tôi vài bước ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của đêm vắng. Chúng tôi tìm thấy phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy. - Sư phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kabul của tôi vừa tới đây. - Đại sư Bandhudatta ư? Truyện kể về Rajiva viết rằng, cậu ấy bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo lý Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là Bandhudatta nghe. - Vì sao biết tên của sư phụ? - Tôi… Tôi giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được. - Đúng rồi, tôi từng với . ngờ, mười năm rồi vẫn còn nhớ. Rajiva từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi nhớ gì cả? Tôi ngượng ngùng chuyển chủ đề: - Cậu luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa? Rajiva gật đầu - Mấy ngày qua, Rajiva cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật giáo Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của giáo phái này và được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Rajiva làm sư phụ Đại Thừa của mình, công nhận học thuyết mới của Rajiva, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi. Tôi gật đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi người sáng lập ra luận thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, điều quan trọng nhất là luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này chứng tỏ, Rajiva chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Bandhuatta tôn Rajiva làm thầy, nhưng đại sư hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay cách khác, Banduatta chịu từ bỏ thân phận là "sư phụ Tiểu Thừa" của Rajiva. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến Rajiva buồn phiền như vậy? - Rajiva, ai cũng có lập trường riêng. Cậu thuyết phục được đại sư chấp nhận luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều đó là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu Thừa? Rajiva nhìn tôi kinh ngạc. - Rajiva nào dám ngông cuồng như thế! - Vậy vì sao cậu lại buồn phiền? Rajiva đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi lâu. - Mẹ tôi… Rajiva cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu. - Hôm nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ), mẹ tôi … đăng tam quả. Tôi hiểu - Đăng tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao? Rajiva thở dài, rồi hít hơi sâu, chậm rãi : - Tam quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng mà những người xuất gia muốn đạt đến. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Rajiva tiếp tục giải thích: - Anagamin có thể dịch thành " trở lại". Nghĩa là, các tu sĩ đạt đến cấp độ này, sau khi viên tịch, hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp tục thiền định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc[12], tức là được giải thoát hoàn toàn và trở lại cõi phàm trần này nữa Rajiva nghẹn ngào, hít hơi sâu, nhưng giọng càng lúc càng trở nên run rẩy: - Mẹ tôi đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được cõi cực lạc rồi… Cuối cùng tôi hiểu, Rajiva dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Jiva, Jiva qua đời tại Thiên Trúc. Các tài liệu lịch sử chỉ viết rằng Jiva mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng sau đó có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà mất tại Ấn Độ. Và hung tin này, Rajiva mới nhận được từ sư phụ Banduatta.. Tôi bàng hoàng nhìn Rajiva, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Jiva là người có sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Rajiva, hơn bất cứ ai. Bà đưa Rajiva đến cửa Phật, dắt Rajiva đến Kabul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Rajiva theo học giáo thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Rajiva đều do mẹ cậu ấy bày đặt. Với Kumarayana, Jiva có thể phải là người vợ hiền, nhưng với Rajiva, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn đường của cậu. - Rajiva, nếu cậu buồn hãy… - ! Rajiva xúc động, hơi thở gấp gáp: - Tôi buồn. Mẹ chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người thành thực. Người đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải đau buồn, tôi nên đau buồn! Rajiva bị chấn động mạnh, ràng trái tim cậu ấy đập dữ dội và hơi thở trở lên gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời dối gắng gượng của cậu ấy. - Rajiva. Tôi nhàng vỗ vai Rajiva. - Trong hoàn cảnh này, ai cũng đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có tình , cậu mẹ cậu. Vậy vì sao cậu phải kìm chế, thể ra những cảm xúc đó? - Tình ư? Rajiva khẽ nhẩm lại từ này, tiếng "" mà như có sức nặng ngàn cân, khiến cậu ấy đọc thành tiếng, chỉ có những hưởng run rẩy. - Đức Phật rằng, mọi thứ cõi đời này đều tồn tại. Rajiva là người tu hành, đâu có thể có "tình "? - Giáo lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất phát từ tình . Chỉ cần "diệt" được "", lên cõi Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ có tình ? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn "diệt ái dục". vì ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do thương mang lại? Nhưng nếu thực có thể "diệt ái dục", vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được giải thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly hệ, giải thoát… tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với cái chết mà thôi. Chỉ khi chết người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải chăng chính vì thấu tỏ điều này, nên Phật tổ mới vẽ ra viễn cảnh, thế giới tây phương cực lạc sau khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà người tu hành phải chịu đựng khi quyết tâm diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì sao, nhất định phải… - Ngải Tình! Rajiva gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ cùng cực. - Đừng nữa… Rajiva xoay đầu qua bên, để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi vai rung rung dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi đứng lên, bước sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Rajiva, nhàng ôm cậu ấy vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Rajiva đẩy tôi ra, nhưng dường như cố nín thở. - Hãy khóc , cậu là con người phải thánh thần. Người ta khóc thương người thân của mình, có gì phải đâu. Muốn khóc hãy khóc cho thỏa, như thế cậu thấy dễ chịu hơn… Tôi nhàng vỗ về cậu ấy, Rajiva trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao lớn, nhưng thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi ước mình có thể hóa thân thành Jiva đẻ an ủi cậu ấy. Sau rất nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Rajiva rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động tác ấy khẽ khàng, như thể ôm người bằng giấy và sợ người đó tan biến . - Ngải Tình! Tôi cảm thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh tay tăng dần, càng lúc càng xiết chặt hơn. - Ngải Tình! Rajiva khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm vai áo tôi, làn gió lướt qua làm nguội hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt nóng ấm liên tục rớt xuống. Cuối cùng Rajiva cũng được khóc như con người bình thường. Cậu ấy khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy. Khóc như thể cạn nước mắt của cả đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy. Chúng tôi cứ thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi cả đất trời cũng mòn tan thành nước mắt… biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao giờ khóc nhiều như vậy, mệt mỏi rã rời, tôi tựa vào cậu ấy để gục xuống. Rajiva cũng thôi khóc, nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim tôi. Tôi muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi thậm chí dám thốt lên nên lời nào vì sợ làm hỏng khí này. Sau cùng, Rajiva là người chủ động buông tay, ánh mắt giấu rất xa, tôi nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ nghe thấy giọng chậm rãi: - Mẹ biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại Thừa, nên trước khi rời Khâu Từ, người từng với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn đến được Đông Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề này hề có lợi cho cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào? Tôi vẫn còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng nhìn cậu ấy. Rajiva ngừng lại lát, rồi tiếp tục: - Tôi trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ phải chỉ cho bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp chúng sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, dù có phải nhảy vào chốn dầu sôi lửa bỏng, Rajiva cũng quyết từ nan. Khi Jiva còn ở bên cạnh, Rajiva giống như thần đồng được bảo bọc và chăm sóc chu đáo. Rajiva tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài hoa trong nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Jiva ra , Rajiva phải dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí tưởng của cậu, phải chăng được hình thành từ khi còn ? Nhưng Rajiva đâu biết rằng, những lo lắng của Jiva trở thành thực trong tương lai. Cái giá mà Rajiva phải trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là những lời chỉ trích gay gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình biết trước tương lai của cậu. - Rajiva, tuy mẹ cậu ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim cậu. Bất cứ khi nào gặp khó khăn, cậu nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu vượt qua tất cả, đúng ? Rajiva gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy vơi đau buồn. - Rajiva, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi của cậu, những chuyện mà tôi biết ấy. rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực tò mò về tuổi thơ của cậu ấy. Chúng tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Rajiva hồi : nghiêm khắc và tình của Jiva dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư phụ và các sư huynh của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở Tây vực của cậu. Chuyện nào cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. ra người có chỉ số IQ 200 như Kumarajiva, hồi cũng từng trêu chọc các sư huynh, cũng từng bị mẹ trách phạt vì học thuộc các bài kệ. ra Rajiva cũng có tuổi thơ, tôi cứ nghĩ, ngay từ khi còn cậu ấy là người thông tuệ và già dặn rồi. Tôi muốn Rajiva tạm quên nỗi đau mất mát kia và vui lên chút, nên kể cho cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về sếp của tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng qua. Tất nhiên là tôi lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh để lộ "thiên cơ". Phía xa xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt lên nền trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây lặn mất tự lúc nào. Tôi xem đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi ngồi suốt đêm. Tôi ngước nhìn Rajiva. - Rajiva, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi. Rajiva như vừa tỉnh cơn mơ. - Chúng ta ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt ? Tôi lắc đầu. Tuy tôi mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác mỏng manh đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai. Rajiva cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng ấm hơn, những ngón tay dài vuốt bàn tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi ấm. Rajiva ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu tiếp tục chà tay nữa, mà cầm hai bàn tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có cơn lũ vừa quét qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa.. Chúng tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt khuôn mặt có chút hơi ấm của Rajiva. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, ra là những đốm râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có luồng điện lan truyền khắp cơ thể, khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi hoàn toàn hiểu ra điều này. Tôi Rajiva. Đúng vậy, tôi cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu ấy. Cũng có gì lạ, chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút hồn như cậu ấy có thể khiến bất cứ nào đời này xiêu lòng. Tôi do dự, cự tuyệt nữa. cứ thôi, làm sao tôi có thể phủ nhận cái thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là người bình thường. Tôi thể diệt được ái dục, nên tôi cần phải tranh đấu, dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân để phủ nhận tình cảm này, bởi tôi nhìn nhận tình bằng lí trí chủ quan cứng nhắc của con người đại. Tôi muốn tình phải được đáp lại. Tôi luôn viện cớ công việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo lắng, nếu Rajiva, tôi có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi quay về sao? Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy sao? Nếu tôi cần tương lai sao? Có ai nếu cậu ấy tôi thể tiếp tục công việc của mình đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là Rajiva và tôi cậu ấy theo cách của mình. Tôi cũng có thể để cậu ấy biết được tình cảm của mình. Tôi cũng có thể tiếp tục thầm nhớ, thầm sau khi trở về thế kỷ XXI. Chỉ cần được cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về sau. Việc gì phải lí trí, việc gì phải suy xét thiện hơn mọi đường cơ chứ? - Ngày kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay hãy lên đường đến thành cổ Khâu Từ . Giọng ấm áp lướt qua bên tai tôi. - Hãy về nghỉ ngơi , tôi dặn dò Kaodura đưa đến thành cổ Khâu Từ, tôi sắp xếp nhà trọ cho . Hay là về phủ quốc sư? vẫn muốn gặp Pusyeda kia mà! Kaodura ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Rajiva. - Tôi ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư khiến mọi người hoảng sợ. Còn Pusyeda, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi đến gặp cậu ấy. Sau khi lễ hội kết thúc, tôi tìm cách gặp Pusyeda. Mười năm trước, cậu bé rất quý mến tôi, nhưng giờ cậu là chàng trai trưởng thành, có cuộc sống riêng, tôi muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được nhìn thấy Pusyeda là tôi có thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất, thực ra là… - Cậu… cậu… Chần chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ. - Cậu… có đến ? Rajiva thoáng giật mình, nhàng thả tay tôi ra. - Sư phụ vẫn còn đây, hơn nữa… - Tôi biết rồi, giới luật quy định, cậu được đến nơi hội hè ca múa. Nén lại nỗi thất vọng nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ: - Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Cậu… cần phải đến, cũng thể đến… Rajiva thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo cà sa màu nâu sòng, làm gió lật bay nhè những nếp áo. Cậu ấy đứng đó, đẹp tựa pho tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình.
Chương 23: Lễ hội Sumuzhe Tôi đến thành Khâu Từ bằng xe ngựa của Rajiva. Đường sá gập ghềnh, xe ngựa lắc lư, bình thường, trong trạng thái ấy, tôi ríu mắt lại hồi lâu, nhưng hôm nay hiểu sao, tôi vẫn tỉnh như sáo. chẳng hề buồn ngủ. Có lẽ vì, tôi vẫn đắm chìm trong nỗi phấn khích lúc trước, hai mắt vẫn chăm chú mở to nhìn đôi tay. Kể từ lúc đôi tay này chạm vào khuôn mặt của cậu ấy, tôi thậm chí nỡ rửa tay. Tôi đưa lên, nhắm mắt lại, cố hình dung ra từng đường nét và tưởng tượng ra những ngón tay mình khám phá khuôn mặt của Rajiva. Tôi vẫn nhớ cảm giác gai gai ấm áp khi chạm vào gò má gầy gầy, xương xương, lốm đốm râu và làm da mịn màng của cậu ấy. Cảm giác đó khiến tôi, dù rất cố gắng, cũng kìm chế được nụ cười hạnh phúc nở tràn môi. Tôi cứ tủm tỉm cười như vậy suốt dọc đường , cho đến xe ngựa dừng lại giữa thành phố Khâu Từ tắm mình trong ráng chiều. Phòng trọ mà Rajiva đặt trước cho tôi là căn phòng "hạng sang". Tôi thầm cảm ơn chu đáo của Rajiva, vì nhờ cậu ấy, tôi có chỗ nghỉ ngơi thoải mái trong thành cổ và dịp lễ, khi mà tất cả các nhà trọ đều kín người. Ăn uống qua loa xong xuôi, tôi bắt đầu ngáp ngủ, rất lâu rồi tôi mới thức khuya như hôm nay. Tôi nhớ là chỉ vào những dịp thi cử, tôi mới phải thức trắng đêm trong phòng học tự học ở trường. Thế nên, tôi quyết định dành tất cả khoảnh thời gian còn lại… để ngủ. Hi vọng là lúc mê mệt, tôi ngáy to, nếu có ngáy, mong là khiến phòng bên cạnh mất ngủ. Sumuzhe, hay còn gọi là lễ hội cầu lạnh, được tổ chức vào tháng bảy lịch hàng năm. Lễ hội được tổ chức nhằm cầu nguyện mùa đông lạnh hơn, tuyết rơi nhiều hơn, để năm tới Khâu Từ có được nguồn nước dồi dào phục vụ việc trồng cấy. Lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên vào thời nhà Đường, khiến kinh thành của người Hán trở nên náo động hơn bao giờ. Có rất nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng viết về lễ hội Sumuzhe ra đời trong thời kỳ này, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Di, Lý Hạ… đều từng chấp bút về đề tài này. Đến đời Tống, Sumuzhe trở thành tiêu điểm của rất nhiều bài tử, trong đó, nổi tiếng nhất phải kể đến bài tử của Phạm Trọng Yêm: Biếc mây trời Vàng lá đất Sóng lẫn sắc thu Khói sóng xanh lặng ngắt Nước lên trời, núi chiều nắng bắt Đám cỏ trêu ngươi Mơn mởn trong nắng nhạt não hồn quê Buồn đất khách vì được bằng đêm Mộng đẹp ru ngon giấc Trăng sáng chớ mình tựa gác Rượu ngấm ruột sầu Nỗi nhớ đẫm nước mắt[13] Khi ngang qua Khâu Từ, Huyền Trang cũng từng được chứng kiến và ghi chép lại khí náo nhiệt của ngày hội này. Đức vua Khâu Từ mời nhà sư cùng dự lễ. Đến tiết mục nhảy múa, đức vua còn khẩn khoản mời sư phụ cởi áo cà sa và giày tất, cùng tham gia vào điệu múa cầu lạnh. Huyền Trang cũng xem múa hát đó thôi, vì sao Rajiva thể? Nhưng thôi, Huyền Trang là du khách từ nơi xa đến, nhập gia phải tùy tục là theo lẽ thường tình. Tôi đeo chiếc mặt nạ mua ở Subash, lang thang ngắm nghía phố phường. Những con phố chính chật kín người, ai nấy đều đeo mặt nạ, mọi người niềm nởi chào hỏi lẫn nhau, bất kể người quen hay người lại. khí cởi mở, vui tươi ấy bù đắp nỗi trống trải và xua tan ưu phiền trong lòng tôi. Tôi náo nức hòa vào dòng người phố. lát sau, đoàn diễn hành bắt đầu diễn qua. Đầu tiên là đội trống với dàn trống Hạt khổng lồ dẫn đầu[14], các tay trống ngồi xe ngựa, đồng loạt đánh lên những thanh sôi động đầu tiên, mở màn cho lễ hội Sumuzhe. Theo sau là đoàn nghệ sỹ cầm tay nhiều loại trống lớn khác nhau, vừa đánh trống vừa nhảy múa, phối hợp nhịp nhàng với đội trống Hạt đầu. Cách đoạn là đến đội hình múa đôi nam nữ. Họ mặc những trang phục chỉnh tề, nghiêm trang, mảnh khăn lụa dài được căng rộng hai sải tay, biểu cảm trang trọng, điệu múa truyền thống. đậm màu sắc cổ điển. Điệu múa này có nét gì đó rất giống với vũ điệu “ương ca[15]” của các bà người Hán vào mỗi dịp năm hết Tết đến. Tiếp đó là đội hình biểu diễn múa dây, các trẻ, đầu đội mũ miện đính hoa tươi, sải bước những sợi dây thừng được trang trí hoa văn rực rỡ, ký thuật điêu luyện, động tác uyển chuyển, nét mặt rạng rỡ như hoa. Kế đó là các đội hình múa dải lụa, xiếc khỉ, vân vân. Mắt tôi được dịp no căng với bao nhiêu loại hình vũ đạo độc đáo. Mỗi điệu múa có đội hình riêng, với những cỗ xe được trang trí hoa tươi muôn hình muôn vẻ và rất nhiều các loại nhạc cụ khác nhau, kèn thất lật[16], đàn [17], tỳ bà, ống sáo làm bằng sừng động vật,... tất cả những nhạc cụ đặc sắc này tạo nên biểu thanh rộn rã, vui tai. Năm 1903, có hai người Nhật tìm được chiếc hộp, bên trong đựng xá lợi của vị cao tăng ở thành cổ Subash. Họ lẳng lặng đem chiếc hộp về Nhật Bản và giấu . Đến tận năm 1957, người Nhật Bản mới phát ra, dưới lớp màu sắc được phủ phía thấp thoáng dấu ấn của hội họa. Lúc đó, họ mới cạo bỏ lớp màu bề mặt, những hình vẽ nguyên sơ ra, đó là bức họa về các vũ điệu Sumuzhe, sống động và tinh tế khiến người ta phải kinh ngạc. Bức họa vễ rất nhiều ngưới, tay cầm những nhạc cụ đặc sắc của Tây vực, họ đeo mặt nạ và trình diễn những vũ đạo giống nhau. Đến nay, chiếc hộp vẫn ở Nhật Bản. Chúng tôi phải cất công sang tận đó để chụp hình mang về nghiên cứu. Còn bây giờ, lễ hội từng được mệnh danh là “ngày hội sôi động của phương Đông” diễn ra sống động trước mắt tôi, có thể rằng, niềm phấn khích trong tôi bút nào tả xiêt. Lễ hội Sumuzhe diễn ra liên tục trong bảy ngày, bất kể ngày đêm. Nếu như khi quay về, tôi có thể góp sức khôi phục lại ngày lễ cổ truyền long trọng này công tác nghiên cứu tính kế thừa lịch sử của các loại hình nghệ thuật ca múa dân gian chắc chắn được ủng hộ và phát triển rộng rãi. Và điều đó, chắc chắn khiến ít đồng nghiệp của tôi phải đỏ mắt ghen tị. Ha ha, chỉ nghĩ đến đó tôi sung sướng cười ngất. Bây giờ là buổi trưa, đoàn ca vũ vẫn tiếp tục diễu hành qua các con phố, bên đường, những quán ăn vặt bày sẵn lúc nào. Mùi thơm của thịt dê nướng khiến tôi khỏi nuốt nước miếng ừng ực. Tháo mặt nạ, tôi đến bên sạp hàng , hỏi mua ba xiên thịt. Xiên thịt nướng ở thời đại này sao mà vĩ đại! Miếng nào miếng ấy to bằng cả quả trứng gà. Khi du lịch ở Tân Cương, tôi phát ra điều này, rằng kích thước của xiên thịt cứ dần từ nam Tân Cương lên bắc Tân Cương, từ Tân Cương đến đại lục, đến các thành phố ven biển. Ở nam Tân Cương (gồm các huyện Kashgar, Khotan, Kucha), kích thước xiên thịt nướng thay đổi sau 1650 năm, vẫn to như quả trứng gà và thường chỉ có hai đồng xiên. Còn ở quán ăn trước cổng trường tôi học, họ bán những xiên thịt nướng nhất mà tôi từng thấy, đồng xiên, nhưng đám con chúng tôi phải ăn hai mươi xiên may ra mới có cảm giác “lót dạ”. Kéo mạch suy nghĩ lan man từ thời đại trở về với lễ hội cổ truyền trước mắt, tôi vừa thưởng thức thịt dê nướng vừa ngắm nhìn dòng người qua lại phố. Vừa “tiếp lương thực” vào bụng vừa được ngắm các chàng trai đẹp là tuyệt nhất, nhưng có vẻ như nhiều chàng trai đẹp ở đây cho lắm, vì hầu hết mọi người đều đeo mặt nạ. Nhưng đột nhiên, tôi há hốc miệng, bỏ dở miếng thịt dê thơm phức tay. Có ai đó tách ra khỏi đám đông, bước về phía tôi, dáng người cao lớn, mình là bộ trang phục truyền thống của giới quý tộc Khâu Từ: áo rộng màu vàng nhạt, thắt eo. Lối trang phục này nhìn qua rất giống trang phục của các kỵ sĩ châu u thời kỳ trung thế kỷ. Những chàng trai vóc dáng khỏe khoắn, khoác thêm bộ trang phục này càng nam tính và cuốn hút. Người đàn ông đó, dáng vẻ tự tin, thân hình cao lớn vạm vỡ, hoàn toàn nổi bật giữa đám đông, Tuy nhìn khuôn mặt, nhưng có thể dễ dàng đoán ra đó là chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vì sao ta lại đến gần tôi? Và vì sao dáng dấp ấy lại quen thuộc đến vậy? ta đeo chiếc mặt nạ hình ma quỷ, ánh mắt lúc lại gần, lộ vẻ kinh ngạc và nghi hoặc. Tôi chớp mắt liên tục, chăm chú quan sát và đoán định. Đôi mắt xanh nhạt ấy quá đỗi quen thuộc. Trái tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Là cậu ấy ư, cậu ấy bảo đến kia mà? - Ngải Tình, có phải chị ? Giọng xúc động. - Là tôi chứ ai. Tôi xoay xoay chiếc mặt nạ vắt vẻo cổ tay và nhận ra “bi kịch” này: bên tay tôi vẫn cầm ba xiên thịt nướng vĩ đại (có thể khiến bất cứ ai phải hoảng). Thôi thế hỏng hết! Mồm miệng nhồm nhoàm. dầu mỡ dính đầy mặt và cái vẻ ngớ ngẩn trợn tròn mắt nhìn cậu ta của tôi nữa, toàn bộ cái bộ dáng kỳ cục, đáng xấu hổ này lọt vào mắt cậu ta rồi! đau khổ và tủi hổ bất tận, tôi bỗng ngã vào vòng tay ấm áp. Nhịp tim tôi mỗi lúc dữ dội hơn, tư duy hỗn loạn: vì sao, vì sao cậu ấy lại… Tuy tôi vẫn giơ cao xiên thịt nướng, toàn thân như bị điểm huyệt, tôi để mặc người đàn ông cao lớn đó nhấc bổng mình lên xoay mấy vòng liền. - Ngải Tình, chị trở về rồi ư! Giọng có vẻ giống, nhưng chắc chắn phải giọng của cậu ấy! Cậu ấy chưa bao giờ ôm chặt tôi như vậy, cũng bao giờ cười lớn như vậy và càng bao giờ nhấc bổng tôi lên xoay mấy vòng liền giữa chốn đông người như vậy. lúc lâu sau người đó mới thả tôi xuống, hơi nghiêng người, tháo mặt nạ. Sống mũi cao thanh tú, mát sáng long lanh, hàng mi dày và rậm, đồng tử màu xám nhạt, giống cậu ấy qua! Chiều cao và vóc dáng cũng giống hệt cậu ấy. Nhưng khuôn mặt gầy guộc như cậu ấy, làn da có màu bánh mật như cậu ấy và vành môi cậu ấy bao giờ nhấc lên tinh nghịch như vậy. Thoáng chút thất vọng, nhưng ngay lập tức được thay thế bởi niềm vui mới tràn ngập. - Pusyseda! Bây giờ đến lượt tôi ôm chầm lấy cậu ta. Nhưng sao cậu ta lại cao lớn đến vậy? Cậu ta suốt từ lúc nhìn thấy tôi đến giờ, lúc tôi buông tay ra cậu ta làm vẻ mặt giận dỗi: - Ngải Tình, dầu mỡ miệng chị dính hết lên quần áo tôi Tôi hơi ngượng ngùng khi ôm “chú nhóc Pusyseda trưởng thành” ấy, nhưng câu chút kiêng nể kia khiến cảm giác ngượng ngùng ấy lập tức tan biến! Tên ranh này, chẳng thay đổi gì cả! - Bù lại, chị phải thiết đãi tôi bữa đấy! Tôi kịp phản ứng gì, bị cậu ta giằng lấy xiên thịt nướng, trả lại người bán hàng, sau đó, lôi tôi , cho tôi thời gian cằn nhằn vì lẵng phí đồ ăn! Cái tên hoang toàng này! Tôi tròn mắt nhìn từng đĩa sơn hào hải vị bày la liệt bàn ăn trước mắt. bao lâu rồi tôi được ăn đồ ăn Trung Quốc? bao lâu rồi tôi chưa nhìn thấy cơm trắng? Ở thời đại này, gạo được vẫn chuyển tới đây từ Trung Nguyên. Ăn bữa cơm gạo trắng ở Tây vực là cả khoản chi tiêu xa xỉ. Hãy nhìn xem cách bài trí ở quán hàng này, trời ơi, còn cả ghế lô nữa. Miệng nhai cơm, lòng thầm làu bàu: Đúng là tên phá gia chi tử! Pusyseda ngồi bên ghế đối diện, hầu như nhấc đũa, chỉ chăm chú nhìn tôi, nụ cười ngang tàn khóe môi chưa chịu tắt. Tôi cảm thấy hơi lo lắng, nên cắm đầu nhai nuốt. người Hán mang đồ ăn vào, cậu ta đón lấy và cảm ơn bằng nụ cười quyến rũ ấy. Tôi thấy bước ra ngoài với đôi má ửng đỏ và cuống quít đến mức cụng đầu vào cánh cửa. Tôi thở dài: - Pusyseda, cậu có biết điệu bộ tươi cười lả lơi của cậu có thể khiến mọi đời này nghiêng ngả ? Cậu ta nhướn mày, nhổm dậy, toàn thân vươn qua bàn, sáp lại gần tôi: - Còn chị sao, Ngải Tình? Tên ranh, dám ăn với tôi như thế đấy! Tôi nhìn khuôn mặt điển trai rạng rỡ của cậu ta, nuốt nước bọt: - Cho tôi xin, tôi già cả rồi, cậu làm ơn cho tôi sống thêm vài năm nữa ! Cậu ta cười vang. Nụ cười đó hoàn toàn khác nụ cười của Rajiva. Pusyseda cười sảng khoái, chút e ngại. Rajiva khác, lúc nào cũng điềm đạm, nho nhã. - Ngải Tình, chị là tiên nữ, chị đâu có già ! Cậu ta đột nhiên thôi cười, đổi sang giọng điệu nghiêm túc. Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào. Chính tôi với cậu ấy điều đó và cậu ta cũng được chứng kiến cảnh tôi biến mất. Nếu biết có ngày quay lại, tôi nên gieo vào tâm hồn thơ ngây của Pusyseda cái lý do ngớ ngẩn ấy. Giờ đây, tâm hồn ngây thơ bị tôi bẻ cong suốt mười năm, liệu có thể nắn cho thẳng lại được ? - Ngải Tình, chị về khi nào vậy? - Tôi… Tôi ấp úng, thần kinh căng như dây đàn - Hôm qua. Tôi muốn Pusyseda biết mình ở đây gần ba tháng. Tôi muốn cậu ta biết mình ở cùng Rajiva. Rajiva của tôi, tôi muốn bảo vệ cậu ấy và cậu ấy theo cách của mình… Sau đó, Pusyseda hỏi tôi ở đâu, tôi tên nhà trọ của mình. Thấy tôi vẫn tiếp tục ăn cơm, cậu ta tỏ ra hết kiên nhẫn: - Chị định ăn đến bao giờ mới thôi hả? Tôi giật mình. - Cậu bận à, sao gấp thế? - Tất nhiên là bận rồi! Cậu ta nhìn tôi nghiêm túc. - Tôi phải dọn giúp chị. - Để đâu? - Về phủ quốc sư chứ còn đâu nữa! Pusyseda theo tôi về nhà trọ trả lại phòng. Lúc tôi thu dọn đồ đạc, sơ ý để cậu ta nhìn thấy chiếc áo ngực của mình. Cậu ta còn nhấc chiếc áo lên và hỏi tôi đây là thứ gì với vẻ mặt rất hiếu kỳ, tôi xấu hổ biết giấu mặt vào đâu. Sau đó cậu ta chẳng chẳng rằng, khoác chiếc ba lô Northace của tôi lên vai, ném cho chủ quán xâu tiền, khoát tay hách dịch: - cần trả lại! Đúng là đồ hoang toàng! Gần đến phủ quốc sư, tôi ngập ngừng kéo tay Pusyseda lại: - Cậu định thế nào với mọi người? Mười năm qua, tôi hề thay đổi. Cậu ta dừng lại, mắt ra chiều suy nghĩ: - chị là cháu của Ngải Tình, gọi chị là Tiểu Ngải Tình nhé! Tôi đứng tim, em ruột có khác, đến cách nghĩ cũng giống hệt nhau. - Nhưng tôi giấu cha. Vẻ mặt cậu ta bỗng trở lên nghiêm trang. - Tôi chưa bao giờ dối cha điều gì. Kumarayana, con người thông tuệ, nho nhã ấy, hẳn chấp nhận xuất kỳ quặc của tôi Tôi giương mắt lên quan sát mọi thứ trước mặt. Vẫn căn phòng năm xưa, cách bài trí này, mười năm rồi hề thay đổi. Thậm chí bức tường phía đầu giường vẫn còn nguyên những chữ Hán mà tôi bắt Pusyseda tập viết. Khi ấy cậu nhóc nằng nặc đòi dán lên chỗ đó. Tôi chiều theo, cậu nhóc viết xong trang nào tôi dán lên tường trang ấy. Chữ viết xiêu vẹo ngả nghiêng, lúc trước nhìn chỉ muốn phát cáu, nhưng bây giờ lại cảm thấy vô cùng thân thuộc - Ngày nào cũng có người dọn dẹp, chờ ngày chị trở về. Giọng nhàng lướt qua vai, rơi vào vành tai tôi, cảm giác gai gai nhưng trong lòng thấy ấm áp lạ thường. - nào, cho chị xem thứ này. Còn chưa hết ngỡ ngàng bị cậu ta lôi . Tên ranh này tính nết vẫn như ngày nào. Cậu ta kéo tôi đến phòng mình. Căn phòng đổi khác rất nhiều. tường treo rất nhiều thanh kiếm dài, nhìn những hoa văn tinh xảo bao kiếm là biết đó toàn là kiếm quý. tủ sách nho , tôi lướt qua và nhận thấy hều hết đều là sách kinh Phật. Sách tiếng Tochari đều là sách về binh pháp và chiến tranh. Chỉ có vài cuốn sách tiếng Hán, "Binh pháp Tôn tử". "Hàn Phi Tử", "Chiến quốc sách"… mải mê ngắm căn phòng của Pusyseda. Chợt thấy cậu ta thận trọng lôi từ trong ngăn tủ ra vật gì đó rất giống khung ảnh, rồi nhàng cởi lớp vải lụa bọc bên ngoài.Tôi há hốc miệng, đó là bức họa Doremon mà tôi tặng cho cậu nhóc nhân dịp năm mới! ngờ, cậu ta vẫn giữ gìn nó như giữ báu vật vậy! Tôi ngẩng đầu lên nhìn Pusyseda, xúc động: - Pusyseda …! - Đừng sụt sịt vội, vẫn còn nữa đó. Cậu ta rút cuốn sách bên dưới gối, đặt vào lòng tôi, đó là cuốn "Kinh thi", mép sách nhàu nhì, chắc chắn được chủ nhân lật mở rất nhiều lần. - Chị có thể chọn trang bất kì để kiểm tra. Tôi cần mở sách, suy nghĩ trong giây lát: - Thiên "kích cổ" (Gióng trống) trong phần "Bội Phong - Quốc Phong", cậu thuộc chứ? Pusyseda nhếch mép cười, hai tay chắp sau lưng, bước vài bước, quay quay đầu, cất giọng trầm bổng, ngâm ngợi: Trống đánh thùy thuỳnh Gươm giáo tập tành Những ai đắp đất xây thành Xa nhà xa nước riêng mình sang nam … Tử sinh cách trở đôi nơi Cùng em nặng lời từ xưa Đôi ta những nguyện cùng giá, Cầm tay thủa ấy, bây giờ chưa quên Cùng nhau thôi cách xa, Sống đâu còn đến thân ta hỡi mình, Thề xưa còn đó rành rành, Nay thôi phụ tình cùng em[18] Đây là bài thơ tôi thích nhất trong "Kinh Thi". Khi giảng bài cho Pusyseda, tôi dùng tiếng Tochari, giống khi lên lớp bằng tiếng Hán cho Rajiva. Nghe cậu ta phát tiếng Hán trọ trẹ, tôi muốn bật cười, nhưng hiểu sao sống mũi cay cay, chừng như muốn khóc. - Còn nhớ , chị từng , nếu tôi đọc thuộc "Kinh thi" chị trở lại? Tôi gật đầu. ngờ, những lời buột miệng ra khi ấy, Pusyseda đều cho là . - Năm đầu tiên, tôi đọc thuộc toàn bộ cuốn "Kinh thi", nhưng chị quay lại. Tôi nghĩ rằng tại mình chưa đọc tốt, nên năm thứ hai, tôi đọc thuộc lại lần nữa, nhưng chị vẫn bặt vô tín. Mỗi năm vào đúng ngày mùng mười tháng lịch, tôi đều đến phòng chị và đọc hết lượt cuốn 'Kinh thi" này. Tôi đọc mười lần chị trở về… - Pusyseda… - Cảm động lắm phải ? Tôi gật đầu, nước mắt trực trào ra, tôi sắp kìm chế được nữa rồi! - Vậy, cho tôi ôm cái! Tên sói nham hiểm chuẩn bị lao vào bé quàng khăn đỏ, nhưng bị khổ chủ cho cái bạt tai. Những giọt nước mắt khi nãy trực trào ra được nuốt ngược trở lại vào trong bụng. Hôm đó, tôi đến thăm Kumarayana. Mười năm qua , hai người con trai của ông trưởng thành và tận hưởng những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người, còn với ông, mười năm thời gian giống như lưỡi dao vô hình cắt từng vết hằn học thân thể ông. Khuôn mặt vốn gầy guộc, khổ hạnh, nay càng thêm hốc hác, xanh xao, tóc ông bạc trắng, hình như năm nay ông mới ngoài năm mươi tuổi. Nhưng ông có vẻ rất yếu, những tiếng ho khan bật lên liên hồi. Nhưng đôi mắt màu xám nhạt khảm giữa hai hốc mắt như hai vực sâu hun hút ấy, đôi mắt sáng rực vẻ thông tuệ và từng trải ấy như nhìn thấu tâm cam con người. Tôi bỗng run rẩy, đôi mắt Rajiva rất giống mắt cha. Bộ dạng bông đùa, cười cợt thường ngày của Pusyseda biến mất, cậu tỏ ra rất mực cung kính đối với cha, chuyện trò từ tốn với ông rất lâu bằng tiếng Phạn. Kumarayana ngừng đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía tôi, khiến tôi khỏi lo lắng, Nhưng sau đó, ông hề tỏ ra thắc mắc về lai lịch kỳ lạ của tôi. Ông chỉ nhàng bảo tôi hãy yên tâm ở lại và rằng người của phủ quốc sư đối đãi với tôi như vị khách quý. Tôi đoán đúng, người thông tuệ như Kumarayana, dù ông thể biết thân phận của tôi, nhưng ông xem tôi như ma quỷ quái để rồi trói tôi lại và đem thiêu sống. Có lẽ vì thế, ông mới sinh ra hai người con trai xuất sắc như vậy và cả hai đều kính ông như vậy! Đêm đó, tôi được ngủ giấc say sưa trong căn phòng mà trước kia tôi từng gắn bó suốt ba tháng trời. Tôi băn khoăn tự hỏi, biết Rajiva nghĩ gì nếu biết tôi quay về phủ quốc sư. biết giờ này cậu ấy làm gì? Và, biết cậu ấy có nhớ tôi ?
Chương 24: Rong chơi Mở mắt thấy bên giường có bóng người. Tôi thót tim, sau đó giận sôi người. Lại là tên ranh ấy! Hồi chưa hiểu chuyện làm tôi hết hồn bao phen, tôi có thể bỏ qua, nhưng bây giờ là người lớn rồi, mà sao hiểu thế nào là "nam nữ thụ thụ bất thân"? - Chị ngủ giỏi đấy, tôi ngồi nhìn chị từ suốt từ nãy đến giờ mà chị hay biết! Tôi giận dữ thu người vào trong chăn. Lúc này, tôi chỉ mặc chiếc váy ngủ mỏng, biết khi nãy, chân thò ra ngoài có bị nhìn thấy ? - phải giấu, có gì đáng xem đâu! Tôi phi chiếc gối vào người , nhưng tên ranh nhanh nhẹn né được. cười vang, mon men lại gần giường tôi: - Mau dậy , lễ hội Sumuzhe hôm nay có nhiều trò hay lắm! - Cậu ra ngoài để tôi thay quần áo! Pusyseda cợt nhả nữa, ngoan ngoãn bước ra ngoài. Nhưng vừa ra khỏi cửa, lại thò chân vào, nháy mắt với tôi: - Chị mặc chiếc váy ấy cũng đẹp mà, nhưng tiếc là chỉ được mặc trong phòng cho tôi ngắm thôi. Tôi nổi đóa, lùng sục khắp phòng tìm vũ khí, nhưng chưa tìm ra cười ha hả chạy biến tận đâu rồi. Người qua lại phố đông như mắc cửi, Pusyseda che chắn cho tôi, để bị chen lấn. Nhưng tôi thích kiểu bảo vệ ấy. Cậu ta cứ ôm chặt lấy tôi dìu , ai nhìn thấy cũng tưởng chúng tôi là cặp tình nhân. Mà cậu ta, hình như được rất nhiều người quý mến, ai gặp cũng tươi cười chào hỏi. Đàn ông liếc thấy bàn tay như gọng kìm của cậu ta bám chặt lấy vai tôi cười nham hiểm. Còn phụ nữ phức tạp hơn nhiều, phần lớn là những ánh mắt hình mũi tên, khiến tôi lạnh cả người. Nhưng tên ranh ấy hình như thèm quan tâm, bộ dạng bất cần của đáng giận! Tôi cố sức vùng vẫy khỏi “vuốt sắc” của , nhưng càng vùng vẫy càng xiết chặt. - Đừng ồn, đội múa sư tử sắp bắt đầu rồi đấy. Các tay trống Hạt đồng loạt gióng trống, khí thế hào hùng. Năm chú sư tử đủ các màu: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, từ năm hướng tiến vào khu vực trung tâm. Mỗi chú sư tử được điều khiển bởi mười hai nghệ sĩ, đầu đội đai đỏ, có hai người trước phe phẩy cây phất trần màu đỏ, biểu diễn những động tác hài hước gây cười. Bên cạnh đội sư tử là dàn hợp xướng gồm hơn trăm người, họ hát vang những bài ca ca ngợi đức vua Khâu Từ, thanh tiếng trống tiếng nhạc tiếng hát ngân vang, bay cao lên chín tầng mây. Sư tử là loài vật linh được hoàng tộc Khâu Từ sùng bái, đức vua Khâu Từ thường tự xưng là vua Sư Tử. Người Khâu Từ còn sáng tạo ra câu chuyện vị vua dũng mãnh của họ hàng phục được loài sư tử. Điệu múa sư tử ra đời dựa câu chuyện ấy. Sau khi chiếm được Khâu Từ, Lư Quang đưa Kumarajiva cùng hàng vạn nghệ sĩ, nghệ nhân của Khâu Từ đến Lương Châu (nay là huyện Vũ Uy, Cam Túc), kể từ đó, múa sư tử gia nhập vào đời sống văn hóa của người Hán, được cải biên trở thành điệu "múa sư tử năm hướng" lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên cho đến tận ngày nay. Phía trước quảng trường là dãy lán trại được trang hoàng lộng lẫy, đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc ngồi bên trong. Tôi hỏi Pusyseda: - Sao cậu đến ngồi cùng họ? - theo mấy ông bà già ấy có gì hay ho chứ! Tôi thích chơi với chị hơn. Tiếng ồn ào khiến tôi nghe cậu ta gì. Pusyseda ghé sát vào tai tôi, gào to: - Nhìn bộ dạng lúc cáu giận và điệu cười ngớ ngẩn của chị rất là thích thú! Tên ranh hỗn hào! Tôi điên tiết hất tay ra, nhưng chỉ lát sau lại sáp đến, mặc tôi gườm gườm nhìn đe dọa, chẳng biết sợ là gì, cũng chẳng để tâm tức giận của tôi. mặt vẫn nhăn nhở cười đùa, cợt nhả. thích chọc tôi thế ư? ngày trôi qua rất nhanh với các tiết mục biểu diễn, với các món ăn vặt của Khâu Từ, với việc cãi lộn, cáu gắt với Pusyseda. Buổi tối, tôi thận trọng cài then cửa chính lẫn cửa sổ, đề phòng trộm cắp và đề phòng Pusyseda. Sáng hôm sau khi thức dậy, phải giật thót tim vì Pusyseda nữa, nhưng cái giá phải trả là toàn thân ngứa ngáy vì đêm nóng bức, ngột ngạt. Lúc mở cửa, thấy cậu ta đứng tựa lưng ở bên ngoài, điệu bộ cợt nhả, đẩy về phía tôi chiếc lọ . Tôi tò mò đón lấy, hỏi là thứ gì. Tên ranh thản nhiên đó là hộp phấn rôm, còn lên giọng tuyên bố, giáo huấn hồi, rằng mùa hè nóng nực, trong phòng phải mở cửa cho thoáng gió, thoáng khí. Tôi tiện tay vơ lấy cây chổi dựng ở góc nhà, đuổi theo chạy vòng vòng khắp phủ quốc sư, miệng ngừng gào to phải trị tội . Tất nhiên là tôi đuổi kịp , hồi mười tuổi tôi phải là đối thủ của rồi. Mới chạy được vài vòng tôi thở dốc, phủ phục xuống đất, hai tay giơ cao cán chổi, giọng thều thào: - Tôi xin hàng, xin đại tướng quân tha mạng! Vừa dứt lời tôi cảm thấy bất an, sao tôi có thể thốt ra những lời mà hồi bé Pusyseda nài ép tôi đóng kịch cùng nhỉ? thành phản xạ có điều kiện rồi, thành phản xạ có điều kiện rồi! Pusyseda ôm bụng cười nghiêng ngả giữa sân. Người trong phủ qua lại, nhìn chúng tôi với vẻ mặt ngạc nhiên khó hiểu. Tôi thấy mình còn chút thể diện nào… Ngày thứ ba của kễ hội Sumuzhe, vẫn rộn ràng những màn biểu diễn múa hát. Nghệ nhân từ khắp các quốc gia Tây vực đều tập trung về Khâu Từ, ngày nào cũng nhộn nhịp tưng bừng, ngày nào cũng hân hoan, náo nức. Pusyseda rất ham vui, hễ thấy chỗ nào đông người là kéo bằng được tôi đến đó. Lúc này, chúng tôi đứng ở góc quảng trường lớn, sân khấu được dựng lên ở khu vực trung tâm, giữa khán đài có trụ sắt khổng lồ, phía là đài hoa sen. Khi ba tiếng trống vang lên dồn dập, đài sen mở ra, xuất , đeo khăn che mặt bằng chất liệu voan mỏng, mặc chiếc váy dài, tay rộng màu mận chín, mình đeo những chiếc chuông được gắn vào những dải lụa mềm mại, chân đôi giày vải màu đỏ rất xinh xắn. nhạc nổi lên, bắt đầu nhảy múa, tiếng chuông lanh canh, réo rắt, vui tai vang lên theo mỗi chuyển động của cơ thể . - Đây là điệu múa Chaj[19] Pusyseda ghé vào tai tôi thầm: - Lát nữa đừng xấu hổ đấy nhé! Hơi thở của cậu ấy khiến vành tai tôi ngứa ngáy, tôi nghiêng đầu né tránh. Cứ chuyện bình thường, việc gì phải ghé sát như vậy chứ! Tiếng trống ngày càng rộn rã, dồn dập. Toàn thân rung lắc, uốn lượn mềm mại như dải lụa. Rồi tiếng trống đột ngột dừng lại, kéo chiếc áo choàng rộng thùng thình ra khỏi người và tung lên đài sen. Giờ người chỉ còn lớp áo voan mỏng màu mận chín bó sát người, chiếc áo khoác ngắn tay và chiếc váy dài thướt tha cùng màu. Tiếng trống tiếp tục vang lên với tốc độ ngày nhanh hơn, chiếc váy tung bay lả lướt, chuyển động của uyển chuyển, thanh toát tựa như nàng tiên. Tiếng trống lại dừng đột ngột, trút bỏ chiếc áo ngắn bên ngoài, để lộ cánh tay trần và thân hình quyến rũ sau lớp vải voan mỏng. Đám đông hò reo ngớt, ai nấy đều phấn khích rạng rỡ, tôi cũng ngoại lệ. Tiếng trống tiếp tục dội lên, bắt đầu xoay người, cơ thể chuyển thanh toát, sức hấp dẫn ngày đẩy lên cao qua mỗi điệu bộ lơi lả. Bàn tay nhàng giật tung chiếc váy dài thướt tha, để lộ chiếc quần thắt ống màu hồng phấn xinh xắn. Rồi sau đó, thắt lưng cùng chiếc áo voan mỏng bó sát đều được trút bỏ hết, mình chỉ còn lại chiếc áo ngực (giống kiểu áo Bra thời đại) và chiếc quần thắt ống (Kiểu quần Alibaba, với rất nhiều tư thế khêu gợi, quyến rũ khiến người xem phải nín thở. - Trời đất ơi, đây ràng là điệu múa thoát y mà! Hai mắt tôi được dịp co giãn hết cỡ, cổ họng cũng được hoạt động liên tục với việc điều tiết nước bọt. thể tin được, 1650 năm về trước, tư tưởng của người Tây vực đại đến mức này rồi ư? Ở thế kỷ XXI, muốn xem thoát y vũ với nhiều cấp độ khác nhau, bạn phải tìm đến quán bar hay các vũ trường, làm gì có chuyện được phép biểu diễn công khai ở giữa chốn đông người như thế này? Có ai đó vừa quệt tay rất mạnh lên mũi tôi. - Lạ , tôi cứ nghĩ con Trung Nguyên xem màn biểu diễn phải xấu hổ, thẹn thùng chứ nhỉ, nào ngờ, chị còn phấn khích hơn cả tôi! Tôi che kín chiếc mũi tội nghiệp của mình. So với người Khâu Từ, sống mũi tôi vốn được thẳng rồi, giờ lại bị tên đáng ghét kia làm cho lệch hơn nữa. - Chị hứng thứ như vậy, hay là... Tên háo sắc sáp lại gần tôi. - Tối nay về phủ chị biểu diễn cho tôi xem nhé. Mũi nhận được cú đấm trả hận đích đáng. ôm lấy mũi, mặt nhăn nhó kêu đau, nhưng vẫn cố vớt vát thêm câu: - Thôi, thôi, chị cởi ra cũng chẳng có gì hay ho xem đâu… Có vẻ như muốn sống mũi của mình bao giờ đứng thẳng lên được! Buổi sáng, vừa tỉnh dậy lại thấy đôi mắt màu xám nhạt chăm chú quan sát tôi ở khoảng cách gần đến choáng váng, khiến tôi thót tim, tôi sớm mắc bệnh đau tim vì mất, Tôi tự trấn an bản thân, rồi quen, rồi quen. Biện pháp đối phó lần này của tôi là thay váy ngủ, tôi lên giường và mặc nguyên bộ quần áo lúc chơi. Thế nên tôi tự tin mở toang cửa sổ và ngủ ngon lành cho tới sáng. Vẻ thất vọng lộ gương mặt Pusyseda: - Cái váy hôm trước đâu rồi, sao chị mặc? là đồ háo sắc! Tôi tươi cười đắc ý: - Cậu bảo chẳng có gì hay ho để nhìn kia mà! - đúng là như thế! gật gù nghĩ ngợi: - Ngải Tình, chị phải chịu khó ăn nhiều thịt vào. - Để làm gì? - Thế cái chỗ này mới to lên được. - Chị gầy quá chạm vào chỗ đó chẳng mang lại cảm giác gì cả. Tôi chịu nổi nữa! Ai có thể giúp tôi tiêu diệt tên háo sắc này ? Lại ngày rong chơi phố. Tôi hầu như quên bẵng công việc, ngày ngày chỉ biết vui chơi và ngủ nghỉ. Pusyseda là bạn chơi rất tuyệt, vì cậu ta luôn nghĩ ra những trò vui mới. Mỗi ngày cậu ta đưa tôi đến nơi để thưởng thức những món ăn khác nhau, món ăn Ấn Độ, món ăn Trung Á, món ăn Ba Tư, món ăn Trung Quốc, từ các món sơn hào hải vị đến các món ăn vặt đủ hương vị đặc sắc khác nhau. Vòng eo của tôi phình ra đáng kể. Bảy ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe ấy, tôi được vui chơi thỏa thích nhiều hơn bất cứ dịp Quốc tế lao động hay Quốc khánh nào ở thế kỷ XXI. Những màn biểu diễn nghệ thuật đường phố đều rất đặc sắc, là nguồn tài liệu thực tiễn vô cùng quý giá, tính chất đại chúng của các loại hình biểu diễn đó cũng đáng ngưỡng mộ. Mỗi khi nhạc vang lên, tất cả mọi người, phân biệt giới tính, tuổi tác đều cùng nhau nhảy múa ca hát. Ngày thứ tư của lễ hội Sumuzhe, tôi được tận mắt chiêm ngưỡng điệu múa tròn xoay (Hồ hoàn vũ) của người Hồ mà tôi hâm mộ từ lâu. Điệu múa này có nguồn gốc từ quốc gia Kangqu ở Trung Á[20], sau khi du nhập vào Trung Nguyên, nó trở lên thịnh thành. Thời nhà Đường có rất nhiều thi nhân chấp bút họa thơ về đề tài này. Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến bài thơ của Bạch Cư Di: " Hồ múa điệu xoay tròn, tâm hồn hòa vào tiếng đàn, cánh tay đưa theo nhịp trống". Có tài liệu còn ghi chép rằng, Dương Quý Phi múa điệu Hồ hoàn vũ này rất điêu luyện, đến mức Bạch Cư Di từng phê phán "người đẹp": "Quý phi mê hoặc quân vương bằng điệu múa xoay tròn". Giờ đây, được tận mắt chiêm ngưỡng, quả là rất đẹp! Đây là điệu múa tập thể. Hơn mười thân hình mềm mại, dáng điệu thướt ta, với những động tác xoay người rất điệu nghệ, thanh toát. Các nhà thơ miêu tả họ "nhanh như sao băng", "rực rỡ như mặt trời" quá lời chút nào! Hồi Ai Cập, tôi từng được xem người dân bản địa múa điệu Sufi, cũng là động tác xoay liên tục nghỉ ngơi, nhưng do nam giới biểu diễn. Các nghệ sĩ cũng khoác lên mình những chiếc váy dài sặc sỡ, khi họ xoay tròn, sắc màu chiếc váy biến đổi kỳ ảo, tôi vừa ngưỡng mộ lại vừa lo lắng, biết họ có chóng mặt hay . Buổi tối, tôi dỗ giấc ngủ bằng nỗi nhớ Rajiva, bằng những kỉ niệm ngọt ngào giữa chúng tôi. Những điều nhặt nhất liên quan đến cậu ấy cũng có thể khiến tôi ngơ ngẩn hồi lâu. Mấy ngày qua tôi được vui chơi hết mình, tôi chưa bao giờ vui chơi thảo sức như thế, lại trong nhiều ngày liên tục như thế. Giá như có Rajiva bên cạnh… Thôi, nghĩ đến nữa. Cậu ấy chẳng thể ngồi xổm bên đường gặm thịt xiên với tôi như Pusyseda được. Nhắc đến Pusyseda mới nhớ, ngày mai nhất định phải với cậu ta, nên mới sáng sớm tinh mơ chạy đến phòng tôi như thế! Chương 25: Lãng tử - Sao hôm nào mới sáng sớm tinh mơ chạy đến phòng tôi như thế này? Tôi trùm chăn, than vắn thở dài. - sao. Ngày xưa tôi vẫn thường xuyên như thế mà. Chị quên tôi từng ngủ cùng chị à? Tức chết mất! - Khi ấy cậu mới mười tuổi. Hồi bé quấn lấy tôi, tôi trách, nhưng bây giờ là người lớn rồi, cứ quẩn quanh bên tôi thế này, ngày sau kết hôn, làm sao vợ cậu ta có thể chấp nhận được! - Cậu có biết là cậu trưởng thành rồi ? Pusyseda gật đầu, đôi mắt mở to chớp chớp, long lanh, tỏ vẻ vô tội. Lại cái chiêu cũ rích hồi vẫn thường dùng để lấy lòng tôi đây mà! - Nam nữ phải giữ khoảng cách chứ, cậu em! Tôi ôm đầu, chỉ muốn lao vào bức tường kia cho xong! Bỗng nhiên, tôi bị kéo vào vòng tay rất chặt và mạnh mẽ, giộng xúc động thoảng qua đầu: - Ngải Tình, xin đừng như lúc trước, tỉnh dậy thấy bóng dáng chị đâu cả, báo hại tôi lang thang tìm kiếm khắp nơi… Tôi cảm động, những chiếc lông nhím chưa kịp xù lên mềm nhũn ra. ra, mỗi sáng cậu ta chạy đến phòng tôi là để chắc chắn rằng tôi vẫn ở đây. Nhớ năm đó cậu ta mới mười tuổi, vậy mà phải chứng kiến cảnh người , việc biến mất vào khoảng chỉ trong nháy mắt, hệt như diễn kịch vậy. người trưởng thành và tâm lý vững vàng, nếu phải chứng kiến cảnh đó, có lẽ cũng thể chịu nổi, đừng là cậu nhóc. biết khi ấy Pusyseda hụt hẫng và hoảng sợ nhường nào! Chỉ e, suốt đời, cậu ta cũng thể xóa được ám ảnh tâm lý này. Tất cả là lỗi ở tôi… - Xin lỗi Pusyseda… Thực ra, lần này tôi lại biến mất, nhưng tôi hứa với lòng mình, để Pusyseda phải chứng kiến cảnh tượng đó thêm lần nào nưa. Thời đại này, kiếm đâu ra bác sĩ tâm lý để điều trị cho cậu ta? - Ngải Tình, tôi có phải là người đàn ông đầu tiên mà chị ngủ cùng ? Trời đất ơi! Tên trăng hoa này mà gặp trở ngại về tâm lý ư? Tôi gào lên thảm thiết. Ai giúp tôi xé xác ra với! Tâm điểm của lễ hội Sumuzhe trong ngày thứ năm này là vũ điệu "Hồ đằng" (điệu múa bay lên). Điệu múa này do nam giới biểu diễn và chú trọng đến các kỹ thuật: bay cao, trụ vững, sải dài, đá chân quay vòng, xoay tay chống eo, thu cằm nhún vai. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tương đồng giữa vũ điệu này với các điệu múa của người Uyghur thời đại. Tiếng nhạc hào hùng sôi nổi, xúc cảm dâng chào cuồng nhiệt, hơn mười chàng trai vừa hô vang, vừa bay nhảy, reo hò cỗ vũ nghỉ ngơi. - Ngải Tình, chị thích điệu múa này lắm hả? Pusyseda ghé tai hỏi lớn, tôi chẳng thèm suy nghĩ, gật đầu lấy lệ, ánh mắt rời khỏi các nghệ sĩ đẹp trai ngời ngời biểu diễn sân khấu. Pusyseda tháo mặt nạ đặt vào tay tôi, chạy biến. Chưa kịp hỏi xem cậu ta đâu thấy lãng tử rẽ đám đông, lao vào giữa đội múa. Tôi há hốc miệng khi thấy Pusyseda nhanh chóng hòa nhập với đội múa và thực những động tác bay nhảy như diễn viên chuyên nghiệp. Pusyseda nổi bật giữa sân khấu, chỉ bởi chiều cao mét tám mươi lăm và thân hình hoàn hảo, mà còn bởi khuôn mặt điển trai, quyến rũ. Cậu ta vừa bước lên sân khấu, tiếng reo hò cổ động của các khán giả nữ vang lên áp đảo. Pusyseda gập người làm tư thế ngồi, nhưng nhanh như cắt, bước chân biến chuyển tựa như chim bay, các động tác di chuyển vị trí, dứt khoát, nhịp nhàng, mềm mại, vừa thể được sức mạnh, vừa thể được khéo léo. Những bước nhảy điêu luyện của Pusyseda khiến tôi, lần đầu tiên cảm nhận được kiểu hấp dẫn khác của nam giới, tôi gào thét cổ vũ cùng các dưới khán đài. Nhưng như thế hình như vẫn chưa sảng khoái, tôi tháo mặt nạ, chụm tay quanh miệng làm thành hình cái loa, hướng về Pusyseda gào to: - Pusyseda, cậu khá lắm, tôi cậu! Nghe thấy tiếng kêu của tôi, cậu ta nháy mắt truyền tín hiệu, nhếch môi cười đắc ý, điệu bộ ấy có thể hớp hồn bất cứ nào! nhạc càng lúc càng sôi động. Động tác nhảy của Pusyseda càng lúc càng nhanh thoăn thoắt, tiếng reo hò cổ vũ của khán giả càng lúc càng bùng nổ, mọi người vỗ tay theo nhịp trống. Rồi nhạc đột ngột tắt lịm, Pusyseda đột ngột lộn vòng rất cao , khi tiếp đất, đầu gối ở tư thế quỳ xuống sàn diễn, vẽ đường trượt dài về phía tôi. Lúc dừng lại trước mặt tôi, cậu ta làm động tác dang rộng hai tay, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, nụ cười rạng rỡ, hấp dẫn bút nào tả xiết. Tôi cảm nhận rất những ánh mắt hình mũi tên chĩa về phía mình, vội vàng đưa tay kéo cậu ta dậy. Pusyseda mồ hôi nhễ nhại, vài lọn tóc xoăn màu nâu dính trán, quần áo cũng đầm đìa. Phản xạ đầu tiên của tôi là đút tay vào túi, nhưng chẳng có cái khăn nào cả. biết bao nhiêu năm rồi tôi mang theo khăn mùi xoa bên người, vì quen dùng khăn ướt, mặc dù tôi biết dùng khăn ướt vệ sinh chút nào… Thấy tôi tiu nghỉu rút đôi tay trống từ trong túi áo ra, Pusyseda cười : sao, rồi kéo vạt áo của tôi lên lau mồ hôi. Tôi sững sờ, cậu ta tự nhiên vô đối… Nhìn chiếc áo nhàu nhì, ướt mèm, tôi chỉ muốn khóc. Toàn mồ hôi là mồ hôi, mà hình như có mùi rất là khó chịu. Tôi bực mình càu nhàu: - Này, cậu làm thế, tôi mặc làm sao được nữa? Cậu… cậu… cậu là quá đáng - Sao thế? Tiếc gì cái áo ấy, tôi thấy vui là được! Lòng bàn tay cậu ta nhớp nháp mồ hôi, hỏng rồi, tay tôi cũng sạch nữa! - mua quần áo. Pusyseda quay đầu nhìn tôi, vẻ bực dọc. - Chị tiếc làm gì bộ quần áo cũ rích ấy, chị khoác thứ đó lên người cùng tôi ra phố làm mất mặt tôi quá! - Pusyseda! Chúng tôi giật mình dừng bước, nhìn lên. làm da trắng trẻo mịn màng dừng trước mặt chúng tôi, vẻ mặt giận dữ cuồng nộ. Pusyseda nghiêng mắt nhìn , điệu bộ thách thức. Đây ràng là màn kịch tình , nhưng tôi phải là vai chính, tôi phải rút lui thôi. Tôi lẳng lặng bứt ra khỏi bàn tay rặt mồ hôi của Pusyseda, định bụng thân vào góc khuất ở con phố bên cạnh. Nhưng được nửa bước bị kéo trở lại. Nguy quá, quàng tay lên cổ tôi. Tôi rùng mình, mùi mồ hôi nồng nặc.. - Pusyseda, .. sao làm vậy? đó chừng sắp khóc, ánh mắt nhìn tôi đằng đằng sát khí. - nhìn thấy cả rồi đấy. Pusyseda quàng vai tôi, áp sát đầu vào cổ tôi. Chú em ơi, cậu thích người ta cũng đừng nên lấy tôi làm lá chắn cho cậu chứ. Huống hồ người chú em đầm đìa mồ hôi thế này… - Nhưng là… - gì? Tôi hứa hẹn gì với ? tự mình dấn thân đấy chứ? - ơi, hiểu nhầm rồi… - Tôi và cậu ấy phải như nghĩ đâu.. "Chụt!"- tiếng động lạ, ràng, dứt khoát phát ra má trái của tôi. Thê thảm quá, hết tay chân, quần áo, đến cả mặt cũng bị vấy bẩn rồi! giận dữ giậm chân, nước mắt như mưa gió, chạy như bay. Tôi thở dài. Chỉ chú sơ ý, tôi trở thành vai chính của vở kịch này. - Pusyseda, sao lại đối xử với người mến cậu như thế? - Bọn họ cứ bám riết lấy tôi đấy chứ. Đôi bên vui vẻ chút sao, nhưng đằng này, chỉ vài ngày sau là họ lại đòi tương lai này nọ. Đúng là đồ lăng nhăng! Chả trách trai cậu ta từng trách: Suốt ngày trêu hoa ghẹo nguyệt. Nghĩ đến Rajiva, trong lòng chợt thấy ấm áp lạ thường. Rajiva chắc chắn bao giờ như vậy. Tuy rằng mười năm sau… Thôi, nghĩ đến nữa! Kể từ giây phút quyết định Rajiva theo cách riêng của mình, tôi quyết tâm nghĩ đến chuyện sau này cậu ấy kết hôn và sinh con. Tôi muốn nghĩ xa xôi đến thế. Tôi chỉ cần được Rajiva trong tại, thế là đủ… - Pusyseda, lẽ nào cậu chưa từng ai? - Đúng vậy. Câu trả lời mới dứt khoát làm sao! Gặp lại Pusyseda sau mười năm, tôi nhận thấy cậu ta trở thành lãng tử đa tình, cả ngày lông bông rong chơi. Cậu ta trở nên ranh mãnh hơn, biết chọc giận tôi, có lúc còn khiến tôi đỏ mặt vì xấu hổ. Lúc đầu, ngỡ rằng cậu ta có ý gì với mình, tôi ra sức đề phòng. Nhưng qua vài ngày tiếp xúc, mới biết đó là bản tính cợt nhả, bông lơi của cậu ta. Thực ra, Pusyseda chưa từng có hành vi hay cử chỉ gì phải với tôi, mặc dù đôi lúc vẫn bắt nạt tôi và những lời lẽ trăng hoa của cậu ấy khiến tôi nổi giận. Ra phố, gặp những cậu ta quen biết, thấy ai nấy đều niềm nở chào hỏi, những quen ngẩn ngơ ngó theo. Với bất kì nào cậu ta cũng liếc mắt đá lông nheo trêu đùa, chọc ghẹo. Mở miệng là thốt những lời có cánh. Cậu ta giống hệt "người tình của đại chúng". Thế nên, tôi quen và còn khó chịu với những cử chỉ thân mật của cậu ta nữa. Đôi lúc, tôi càu nhàu, gắt gỏng, nhưng dần chấp nhận con người mới của cậu ta, vì dù sao đó cũng là bản tính trời sinh. Nhưng tôi phải thừa nhận rằng, những lúc ở bên Pusyseda, tôi rất vui. Cậu ta thông minh, lanh lợi, hoạt bát, lại hài hước, phóng khoáng, cậu ta nghĩ ra rất nhiều thứ khiến tôi vui và còn đẹp trai nữa. Chả trách biết bao chết mê chết mệt, bám theo cậu ta, chả trách những bị cậu ta bỏ rơi đều đau khổ tuyệt vọng đến như thế. May mà tôi cứng cỏi, kiên cường, sức hấp dẫn "chết người" của Rajiva, tôi còn có thể kháng cự trong thời gian dài nữa là! Và cũng mừng là trái tim rất bé, Rajiva "chiếm giữ" toàn bộ rồi. Nếu có lẽ tôi cũng giống như người phụ nữ đáng thương kia, khóc hết nước mắt khi phải chứng kiến Pusyseda thay người như thay áo. Buổi tối, tắm rửa xong xuôi, vừa bước đến cửa phòng thấy gã "lãng tử" "nhàn cư vi bất thiện", vẽ vời lung tung cuốn tập của tôi. Thói xấu này mười năm qua vẫn thay đổi. Mấy cuốn tập tôi quên mang theo hồi đó, chắc chắn bị cậu ta xé ít Vừa thấy tôi, gã lãng tử liền quẳng ngay chiếc bút xuống, vẻ mặt cau có: - Chị tắm rửa gì mà lâu thế! Này mặc vào ! Pusyseda đẩy chiếc váy mới ra trước mặt tôi, đó là chiếc váy lụa mềm, màu lục, trang nhã, thêu những bông lựu vàng tươi tăn, chất liệu vải cao cấp, thủ công tinh xảo, chắc chắc người mua phải bỏ ra khoản khổng lồ. Tôi tấm tắc khen ngợi: - Pusyseda, cậu đúng là cao thủ tình trường. Chiếc váy đẹp thế này, nào đành lòng từ chối kia chứ! - Đây là lần đầu tiên tôi tặng quà cho phụ nữ đấy. Xưa nay, đều là đám phụ nữ ấy tặng quà cho tôi, họ tặng quà mà chưa chắc tôi nhận đâu. Cậu ta rướn cằm, vênh mặt lên trời. - Rốt cuộc là chị có nhận hả, thích để tôi trả lại - Ấy, đừng đừng. Tôi vội vàng đón lấy - Tôi cũng là phụ nữ, tôi nỡ từ chối. Khi còn ở thế kỷ XXI, vì thích du lịch, thích tìm hiểu, nghiên cứu mọi thứ, nên trang phục thường xuyên của tôi là quần bò, áo phông, giày thể thao. Sếp thường lắc đầu nhìn tôi bảo rằng tôi chẳng nữ tính chút nào. Trở về thời cổ đại, lại càng có nhu cầu thu hút chú ý của người khác, quần áo người mặc lại càng giản tiện hơn. Nhưng dù thế nào tôi cũng là phụ nữ, phụ nữ ai cũng giống ai, ai cũng bị quần áo đẹp chinh phục. - Thích ? Tôi gật đầu, sung sướng ướm thử chiếc váy lên người. Giọng rủ rỉ của Pusyseda bay đầu tôi: - Chị định trả công tôi thế nào đây? - Tôi giật mình - Cậu muốn thế nào? - Hay là, tối nay tôi ở lại đây nhé? Lại là nụ cười quyến rũ và những cái liếc mắt đưa tình làm người khác ngộp thở, lại là chiêu bài đong đưa mang thương hiệu ấy. Mặt tôi nóng bừng. Tôi quen nghe những lời tán tỉnh ve vãn ấy. là sao? Cậu ta muốn gì chứ? - Ha ha, tôi đùa thôi. Pusyseda cười giòn giã. - Tôi chưa thèm khát đến mức ấy đâu. Nhưng mà… Cậu ta đột ngột ghé mặt sát tôi, ánh mắt phong tình gợi cảm, cố ý kéo dài giọng: - Ngải Tình, chị chưa từng có gì với đàn ông đúng ? Tôi mới thế mà chị đỏ mặt rồi. Mặt tôi lại càng đỏ lên dữ dội, tôi lừ mắt đe dọa tên ranh ấy. - Việc gì đến cậu! Nếu có cũng phải với cậu! Cậu ta được dịp cười lăn lộn - Chị hoàn toàn khác những mà tôi từng gặp. Gã lãng tử tiếp tục cười nữa. - Tôi mà muốn ôm đám phụ nữ đó vào lòng, chắc họ phải run lên vì vui sướng. Chị khác, mới đụng chạm tí thôi mà chị tránh né, sợ sệt như có ai sắp cắt da xẻ thịt của chị bằng. Đám phụ nữ kia gặp tôi ba ngày nài nỉ tôi lên giường với họ. Vậy mà chị, bao nhiêu ngày rồi vẫn dửng dưng như . - Họ nài nỉ cậu ư? Trời đất ơi, ngờ 1650 năm về trước Khâu Từ đại đến vậy, quan hệ nam nữ có thể tùy tiện đến vậy! Nhưng nghĩ kỹ lại cũng có gì đáng ngạc nhiên cả. Điệu múa thoát y đường phố trong lễ hội Sumuzhe, đến những bức họa bán khỏa thân và hoàn toàn khỏa thân vách đá ở Kizil, tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nồng nhiệt của người dân nơi đây. Với lối sống đó của họ, nữ giới chủ động theo đuổi nam giới chắc chắn có gì là lạ. Vả lại, Pusyseda hội tụ đủ những điều kiện để các phải chết mê chết mệt - Đúng vậy, tôi chưa bao giờ nài nỉ bất cứ nào. Nhưng điều đó có nghĩa là tôi tùy tiện. Muốn được lọt vào mắt cậu chủ Pusyseda dễ đâu nhé. Cậu ta đổ người lên chiếc giường của tôi, hai tay gập lại làm gối, rung đùi tự mãn, đúng là dáng vẻ điển hình của tên trăng hoa. - Nhưng phụ nữ người Hán các chị có vẻ thẹn thùng, e lệ rất nữ tính và đáng . Đây là lần đầu tiên trong đời tôi chuyện về vấn đề giới tính với người con trai vào lúc nửa đêm thế này. Tôi cảm thấy rất mất tự nhiên. Tôi là phụ nữ thế kỷ XXI, lại hơn cậu ta ba tuổi, mà sao tôi hề tự tin khi chuyện với cậu ta nhỉ? - Ngải Tình, chị là đầu tiên mà tôi chưa nỡ "ra tay" sau thời gian dài như vậy đấy. Tôi chịu nổi vấn đề nhạy cảm này nữa! Vì sao cậu ta cứ mở miệng là thốt ra những lời lẽ đong đưa ong bướm như vậy? Còn tình sao, tình xếp ở vị trí nào? - Những lên giường với cậu, cậu có họ ? - hề! Tôi chỉ thấy vui thích thôi. Nhưng được vài ngày là họ đòi này đòi nọ. Họ đòi tôi phải hứa hẹn, đòi tôi lòng dạ, đòi tôi kết hôn, họ khiến tôi mệt mỏi và ngán ngẩm. - Họ muốn cậu hứa hẹn bởi vì họ lòng cậu. Trái tim tôi như thắt lại khi nghĩ đến con người mà ngay cả lời cũng dám thốt ra ấy. Đàn ông và phụ nữ tình cờ gặp gỡ, nảy sinh tình cảm, giai đoạn đó người ta gọi cuốn hút. Cuốn hút là sức hấp dẫn nhục dục, nó tan rất nhanh. Nhưng là thứ tình cảm chứa đựng cả rung động của tâm hồn và khát khao nhục cảm. Khi người ta , lý trí trở lên bất lực, mọi buồn vui, hạnh phúc và đau khổ đều nảy sinh từ đó. Rồi người ta muốn được có nhau, muốn được hãnh diện về nhau, đón nhận nhau, thương nhớ nhau, tha thứ cho nhau, hạnh phúc vì nhau. Nhưng đó chưa phải là giới hạn cao nhất của tình , giới hạn cao nhất là sống bên nhau. Tình cuồng nhiệt đến đâu rồi nước chảy hoa trôi, cũng trở lên bình lặng. Hai con người nương tựa vào nhau, sống bên nhau cho tới khi đầu bạc răng long, đó mới là gắn kết bền chặt, mãi mãi. Tôi lặng ngắm bầu trời bên ngoài cửa sổ. Rajiva ở nơi cách tôi bốn mươi dặm. Có phải cậu ấy cũng hướng lên bầu trời ngàn vì tinh tú kia giống như tôi ? - Từ tình cảm đến chân tình rồi trao nhau ân tình, đó mới là những cung bậc trọn vẹn của tình . Tôi và Rajiva, chẳng bao giờ có cơ hội để trao nhau ân tình. Tình cảm của chúng tôi, rồi cũng hoang phế. - Ngải Tình, chị ai rồi phải ? Tôi thót tim! Pusyseda ở rất gần tôi, đôi mắt sâu thẳm chiếu vào tôi như muốn soi tâm tư. Ánh mắt ấy giống Rajiva đến kì lạ! - , , phải. Tôi vội vàng thanh minh. Tôi thể để Pusyseda hay bất cứ ai đời này biết được tình cảm của mình dành cho Rajiva. - Tôi chỉ hơi xúc động thôi! Giá mà tôi có được tình như thế tuyệt biết bao… Pusyseda xoay vai tôi lại, ngón tay nhè nâng cằm tôi lên để khiến tôi đối diện với đôi mắt thường khiến tôi gặp ảo giác ấy. - Tử sinh cách trở đôi nơi Cùng em nặng lời từ xưa Đôi ta những nguyện cùng già, Cầm tay thuở ấy, bây giờ chưa quên[21] Ngải Tình, chị muốn có tình như vậy, đúng ? Tôi chưa từng nghĩ về điều này. Tôi chưa bao giờ dám mơ đến ngày nào đó được bình thản nắm tay Rajiva, cùng nhau đến cuối chặng đường đời. Mỗi người trong chúng tôi phải gánh vai rất nhiều trách nhiệm… - Ngải Tình, hay chúng ta thử xem. Khi làn môi gợi cảm của tên lãng tử chực đổ xuống, tôi kịp dùng chiếc váy mới che trước mặt, sau đó đá ra khỏi phòng.