Chương 5: Lý tưởng và đường song song Lục lạc lanh canh, đoàn người chậm rãi rong ruổi sa mạc ngút ngàn cát trắng. Vậy là tám ngày trôi qua. Tôi quấn chặt khăn trùm đầu, quay lại phía sau, đưa bốn ngón tay lên xếp hình ống kính máy ảnh, di chuyển qua các góc độ để lấy nét. Trong khung cảnh tưởng tượng của tôi ra cảnh tượng tuyệt đẹp: nắng vàng rực rỡ chiếu rọi lên hàng dài nối tiếp nhau đến vô tận những dấu chân lạc đà in biển cát sáng lấp lóa. trận gió quét qua, hệt như biển khơi dội trào từng đợt sóng , làm cho những dấu chân trở nên mờ ảo trong gió cát. - Tách! Tôi muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi. - làm gì vậy? - có gì. Tôi thu tay lại, thể với tiểu hòa thượng rằng tôi nuối tiếc như thế nào khi mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn: - Những viết chân cát nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời ngắn ngủi của con người vậy. Tôi ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy đầu, lắc hông, phải vận động chút mới được, nếu gân cốt tôi tê dại mất. Ngước lên thấy Kumalajiba lưng lạc đà chăm chú nhìn mình, tôi cười: - Nhưng dù vậy tôi vẫn kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đến đích cuối cùng. Tôi nắm dây cương, dắt lạc đà và rảo bước cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn của tôi sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn, cũng nhảy xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà được những người hầu cận dắt . Được đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in cát, kéo dài thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu hòa thượng: - Cậu hãy lên phía trước. Tiểu hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi theo sau, đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta được đoạn chợt dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước sang bên, nếu chắc đâm sầm vào cậu ta mất. - Lẽ ra chúng ta là hai đường thẳng song song, dù bao xa cũng bao giờ gặp nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song hợp lại thành . Tám ngày trước tôi ở nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian. - Bởi vậy, duyên số kỳ lạ! - Tôi nghĩ, tôi được gặp , đó là ý của Phật tổ. Tôi quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn suối, đó là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba năm qua. Vừa định đáp lời, tôi bỗng thấy bóng người từ phía xa tới. Lúc người đó lại gần, tôi nhận ra đó là hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ hạnh, khuôn mặt dính đầy bụi cát, dắt bên mình con ngựa gầy gò như chủ nhân của nó. Kumalajiba vội vàng bước đến, ni xinh đẹp cũng nhảy xuống, ra lệnh cho đoàn người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào đón lão hòa thượng. Họ mang nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng nhận lấy và đặt vào chiếc túi tả tơi khoác lưng, sau đó ba người bắt đầu cuộc chuyện. Lão hòa thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, với cậu đôi câu, sắc mặt trầm buồn. Rồi quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa chuyện vừa ngắm nhìn Kumalajiba, vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu. lát, hòa thượng lời từ biệt, về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể từ lúc đó, mẹ con ni có vẻ rầu rĩ hơn trước. Chúng tôi leo lên lưng lạc đà tiếp. Tôi lặng lẽ thúc lạc đà đến bên Kumalajiba hỏi chuyện: - Này tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy gì với cậu thế? Kumalajiba suy nghĩ lát rồi đáp: - Thầy , mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi thành công trong việc chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công đức lớn lao kém Upagupta. - Upagupta là ai? - Là vị cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ. - Đại sư đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi cũng tin như vậy, chắc chắn cậu trở thành vị cao tăng được nhiều người sùng kính. Niềm tin đó là , với trí tuệ siêu phàm như nay, Kumalajiba chắc chắn nổi danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực, tôi đoán ra được cậu là nhân vật nổi tiếng nào. Nghe tôi tán dương mà Kumalajiba hề tỏ ra vui sướng chút nào. Tôi có cảm giác, lão hòa thượng kia chỉ với cậu bấy nhiêu. - Sao thế, sao cậu gì? Tiểu hòa thượng dõi mắt về phía hàng dương xa xa, vẻ mặt uể oải in đậm sắc mặt. - Đại sư còn , nếu tuân thủ giới luật cách nghiêm khắc, rồi đây tôi chỉ là pháp sư thông minh sáng láng hơn kém. - tuân thủ giới luật? Làm gì có chuyện đó! Ngón tay tiểu hòa thượng nắm chặt dây cương đến tím tái, đầu cúi thấp, thanh bẫng: - Đại sư , nếu trước năm ba mươi lăm tuổi… Tiểu hòa thượng ngập ngừng, hai má bỗng chốc ửng đỏ, ánh mắt chấp chới nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhưng chỉ thoáng qua , vẻ bình thản trở lại khuôn mặt. - Trước năm ba mươi lăm tuổi làm sao? Biểu cảm của Kumalajiba cho tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng. Tiểu hòa thượng trầm ngâm hồi lâu, thả lỏng dây cương, từ tốn đáp: - Tôi biết diễn đạt như thế nào bằng tiếng Hán. Câu trả lời chỉ khiến tôi càng thêm tò mò. Tiểu hòa thượng đột ngột vung dây cương, thúc lạc đà chạy lên phía trước, giữ khoảng cách với tôi. Thân hình mảnh khảnh, lớp áo choàng bay bay trong gió, ánh nắng chếch nghiêng, cắt xuống nền cát bóng hình sẩm đỏ, liêu. Tôi băn khoăn biết có phải mình làm gì sai hay ? Cách đó xa là khu rừng . Người mặc chiếc áo nâu sòng của giới tu hành dừng lại, ngoảnh đầu ngóng đợi, chờ tôi bắt kịp, rồi cùng tôi thong dong tiến về phía trước. Thoáng chút áy náy nét mặt, hòa thượng hắng giọng, quay sang hỏi tôi: - Ngải Tình, vì sao gọi Bhikkhu[4] là lão hòa thượng còn gọi tôi là tiểu hòa thượng? Tôi biết cậu ta muốn chuyển đề tài. bởi vì tôi hiểu tiếng Phạn chứ sao. Bhikkhu nghĩa là gì? Mà tên cậu ta cũng rất khó nhớ, gọi là tiểu hòa thượng có sao đâu. Tôi hỏi ngược lại Kumalajiba: - Trong tiếng Phạn có tôn xưng dành riêng để gọi nhà sư , có từ nào phát giống “hòa thượng” ? Cậu ta lắc đầu: - Trong tiếng Phạn hình như có, nhưng ở Điền Quốc, người ta gọi các đại sư truyền giới là Khosha, tên gọi này nghe có vẻ giống từ “hòa thượng”. Thú vị quá, ra từ “hòa thượng” được dịch từ ngôn ngữ của Điền Quốc. - Nhưng hòa thượng là các đại sư truyền giới có mười năm thọ đại giới, thông tỏ đại luật đủ tư cách để xuống tóc và thọ giới cho người khác. Tôi nào đến được cảnh giới đó, xứng với tôn xưng hòa thượng. Vả lại, tôi cũng chưa thọ đại giới, cứ gọi tôi là Sramanera . Lại là tiếng Phạn. Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta vội giải thích: Sramanera chỉ những người mới xuất gia tuổi từ bảy đến hai mươi, thọ thập giới, nhưng chưa thọ đại giới. Sau khi thọ đại giới, họ được gọi là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian. Tôi hiểu rồi, chả trách những đọc này rất quen tai. Sramanera là Sa di, Bhikkhu là Tỷ khâu, cả hai đều là dịch. ra nhà sư cũng được phân chia giới bậc khi gọi tên. Nhưng ở Trung Quốc, người ta gọi sư cụ là lão hòa thượng, gọi chú tiểu là tiểu hòa thượng, thậm chí những em bé còi cọc chịu lớn người ta cũng gọi là hòa thượng. Chẳng ngờ, từ “hòa thượng” lại có ý nghĩa tôn quý như vậy. Tôi cười thích thú, chàng trai thiên tài, tính tình trầm lặng này trau dồi cho tôi ít kiến thức về Phật giáo. Vì vậy, dù hơn cậu ta khá nhiều tuổi, nhưng trưởng thành của cậu ta khiến tôi có cảm giác chúng tôi là những người đồng niên. Và cũng nhờ cậu, hành trình gian nan của tôi ngày càng có thêm nhiều niềm vui. Như thường lệ, sau khi kết thúc giờ học buổi tối, tôi ngồi ghi chép bên đống lửa. Mặc dù đèn dầu trong lều trại cũng đủ sáng, nhưng tôi thích gian khoáng đạt bên ngoài hơn. Ngắm nhìn bầu trời đầy sao giữa sa mạc hoang vu luôn khiến tôi được đắm chìm trong những cảm xúc mơ hồ trong gian thuộc về quá khứ miên viễn này. Gió đêm nay như đổi tính, êm ái ru qua, chòng ghẹo những đốm lửa hồng bập bùng, tí tách. Nhắm mắt lại, hít hơi sâu, tâm hồn trở nên thanh tịnh và lắng đọng tựa khung cảnh này. - Tối nào cũng thấy ghi chép, ghi gì vậy? Tiếng Hán của Kumalajiba vẫn hơi gượng gạo. Nhưng trong tám ngày qua, vốn từ vựng của cậu phong phú hơn rất nhiều. - Có gì đâu, tôi viết thư. Định che , nhưng tôi nghĩ cậu ta đọc được cũng hiểu, nên cứ để mở cuốn sổ tay. - Tôi đọc mà hiểu. Lòng hiếu kỳ của tuổi trẻ mãnh liệt. Tiểu hòa thượng nở nụ cười háo hức: - Vốn tiếng Hán của tôi chưa nhiều, nhưng tôi chăm chỉ, để có thể đọc được những gì viết. Chưa chắc đâu. Tôi viết bằng chữ giản thể kia mà! Tôi chỉ tay sang bên cạnh: - Có muốn ngồi xuống ? Tiểu hòa thượng do dự lát rồi ngồi xuống, nhưng cố ý giữ khoảng cách với tôi, đôi tay khẳng khiu đưa về phía trước sưởi ấm. - Vì sao cậu muốn học tiếng Hán? - Người Hán có rất nhiều điểm ưu việt, y dược, nhạc luật, lịch pháp, kỹ nghệ đều vượt xa người Khâu Từ. Trong nhà tôi có rất nhiều kinh văn tiếng Hán, tôi muốn nghiên cứu những thư tịch đó. Cậu ta lúc nào cũng ham học hỏi. Ngập ngừng giây lát, tôi quyết định hỏi: - Cậu còn trẻ như vậy, vì sao lại xuất gia? Tôi biết câu hỏi có chút mạo phạm, nhưng cậu ta chẳng hề tỏ ra phật ý, ánh mắt đăm chiêu rời ngọn lửa: - Tôi tu năm bảy tuổi, nay được sáu năm và tôi chưa từng suy nghĩ về vấn đề này cho tới mấy ngày gần đây… - Khoan ! Ra hiệu cho cậu ta ngừng lại, rồi ra vẻ nghiêm trọng, tôi hỏi: - Năm nay cậu bao nhiêu tuổi? - Mười ba. Vậy mà tôi cứ đinh ninh cậu ta ít nhất cũng mười lăm, mười sáu tuổi. Dáng người cao lớn, khuôn mặt lại luôn giữ vẻ đĩnh đạc, trầm tĩnh của lứa tuổi trưởng thành. Trời ơi, vậy là cậu ta bắt đầu học tiếng Hán từ năm tám tuổi chứ phải mười . Sau năm năm, vẫn có thể giao tiếp, rốt cuộc, cậu ta có bao nhiêu tế bào não kia chứ! - Ngải Tình, vì tôi cao lớn nên rất nhiều người tưởng tôi mười sáu tuổi. Cậu ta cười thẹn thùng. - đừng chê tôi ít tuổi, tôi hứa nỗ lực học giỏi tiếng Hán! - Sao tôi lại chê cậu, cậu là ân nhân cứu mạng của tôi mà. Tôi giả bộ hề gì, nhưng trong lòng hơi buồn bực. Lẽ nào tôi hơn cậu ta những mười tuổi? đúng đúng, dù sao, cậu ta cũng nhiều hơn tôi hai nghìn tuổi. Đâu là tuổi tác tương đối và đâu là tuổi tác tuyệt đối của hai chúng tôi? Càng nghĩ càng mơ hồ, tôi nghĩ nữa. Tôi chuyển chủ đề: - Cậu nghĩ ra chưa, vì sao lại xuất gia? Cậu ta mở miệng định rồi lại lắc đầu. Đôi mắt vẫn đăm chiêu ủ dột: - Tôi vẫn chưa thể diễn đạt trọn vẹn bằng tiếng Hán. Khi nào trình độ Hán ngữ của tôi đủ để thấu suốt đạo lý này, tôi cho hay. Có thể cậu ta phải chịu đựng điều gì đó. Tôi dám bàn luận về Phật pháp, nhưng tôi rất muốn động viên cậu ta. Ngước nhìn nền trời xanh thẫm được dát bạc bởi ngàn vạn vì tinh tú, tôi khảng khái bày tỏ suy nghĩ của người đến từ thế kỷ XXI: - Nơi tôi sống có vĩ nhân, ông chia nhu cầu của con người ra làm năm cấp bậc. Cơ bản nhất là nhu cầu sinh lý, gồm những việc như lại, ăn ở. Khi thỏa mãn nhu cầu này con người nảy sinh nhu cầu được an toàn. Người ta muốn sống và tài sản của mình được đảm bảo. Sau khi nhu cầu này cũng được thỏa mãn tương đối, con người nảy sinh nhu cầu tình cảm: tình thân, tình , tình bạn. Sau đó mới đến nhu cầu được tôn trọng: bao gồm lòng tự tôn và kính trọng của người khác. Đó là bốn loại nhu cầu trong lí luận của Maslow. Quay sang bên và bắt gặp đôi mắt lấp lánh nhìn mình, tôi chậm rãi tiếp: - Nhưng đó chưa phải là nhu cầu cao nhất. Con người chỉ cảm nhận được niềm vui tột độ khi lí tưởng được thực , ấy là khi năng lực của họ được phát huy đến mức tối đa vì họ có thể làm được mọi việc tương ứng với khả năng vốn có của mình. Đôi mắt xúc động ngước nhìn tôi, giọng như nghẹn lại: - Lí tưởng? Tôi gật đầu quyết liệt và bổ sung thêm: - Lí tưởng là thứ mà cậu theo đuổi suốt đời, là mục tiêu phấn đấu của cuộc đời cậu. Tiểu hòa thượng trầm tư hồi lâu, rồi hướng đôi mắt hút hồn vào tôi: - Ngải Tình, có lý tưởng chứ? - Tất nhiên rồi! Tôi đằng hắng dọn giọng, rồi tiếp: - Muốn biết lí tưởng của tôi là gì ? Quả là cậu ta rất hiếu kỳ, ánh mắt háo hức thôi thúc tôi. Tôi đứng lên, giơ tay về phía bầu trời bao la, cất cao giọng: - Tôi muốn được trải nghiệm lịch sử, tôi muốn viết cuốn sách sử lưu danh thiên cổ giống như “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Tôi dõng dạc bộc bạch ước mơ bấy lâu nay của mình. Nếu ở thế kỷ XXI mà như vậy, hẳn nhiều người giễu cười tôi. Nhưng đứng trước tiểu hòa thượng hồn hậu này, tôi chẳng có gì phải e dè. Chợt nhận ra cậu ta cứ len lén nhìn tôi, tôi mỉm cười: - Mơ ước quá xa vời, đúng ? Cậu ta cũng đứng lên, gật đầu rất quyết liệt, thanh tuy cao, nhưng dứt khoát: - làm được! Đôi mắt trong sáng của tiểu hòa thượng khiến tôi cảm động hết sức. ngờ lời động viên của cậu thiếu niên này lại khiến tôi vui sướng đến thế. Tâm trạng trở nên vô cùng thoải mái, dễ chịu. Tôi dang rộng cánh tay, tưởng tượng mình là chim ưng, vỗ cánh bay xung quanh đống lửa, lúc đến trước mặt tiểu hòa thượng, tôi dừng lại thở hổn hển, cười tươi: - Cậu hãy suy nghĩ xem lí tưởng của cậu là gì . Sống đời phải có lí tưởng cuộc sống mới có ý nghĩa. - Ngải Tình, tôi vẫn chưa hiểu hết những điều . Nhưng thấy vui vẻ vì có lí tưởng như vậy, tôi rất cảm động! Tôi cũng muốn được giống như , đặt ra mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình. Ánh lửa bập bùng phản chiếu khuôn mặt như tạc tượng của tiểu hòa thượng, gió thổi đến, cuốn lên cao những tàn lửa li ti, trời ngàn vì sao đua nhau lấp lánh, dướt đất bóng lửa lập lòe nhảy múa và nụ cười ấm áp của chàng trai trẻ bên cạnh, phút chốc, thời gian như ngưng đọng, thêm cảnh tượng tuyệt đẹp nữa tôi muốn lưu giữ trong tim. Trở về lán trại, xoay mình hết bên này sang bên kia tôi vẫn sao dỗ được nỗi hưng phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ nhà hằng đêm đâu mất. Cứ nghĩ đến câu : “ làm được” trong lòng lại dâng trào niềm vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu làm được! Lúc chuẩn bị thiếp tôi chợt nhớ ra “Sử ký” của Tư Mã Thiên phải đến tận thời Hán mới xuất , vậy là tôi làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi bất cẩn. Cầu mong sao cậu ta để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng khắp nơi tìm kiếm cuốn sách này.
Chương 6: Buổi giảng kinh đầu tiên Vào buổi trưa của ba ngày sau đó, ốc đảo xanh mướt xuất trước mắt tôi. Bao nhiêu ngày qua, tôi chán ngán với sắc vàng đơn điệu của mênh mông cồn cát, hôm nay, được nhìn thấy sắc xanh ngút ngàn thế này, tôi hưng phấn đến độ nhảy cẫng lên gào thét. Chứng kiến điệu bộ “hoang dại” ấy của tôi, Kumalajiba chỉ biết lắc đầu thở dài rồi cười và cho tôi biết, nơi đây chính là Wensu. Wensu, địa danh này cậu ta nhắc đến trong ngày đầu gặp tôi. Nghe khá quen, chắc chắn phải có tiếng Hán tương đương, nhưng tôi nhớ ra. Mải mê lục tìm dữ kiện bộ nhớ, đoàn người đến cổng thành lúc nào mà tôi hay. gian tưng bừng nhạc đặc trưng vùng Tây Vực, những khúc điệu tươi vui rộn rã. đội ngũ hùng hậu chỉnh tề nghênh đón chúng tôi. Hai bên đường có rất nhiều lán trại. Bên trong có người, chỉ đặt số tượng Phật. Dựa trình độ điêu khắc mà tôi quan sát được, đó đều là những pho tượng quý giá. Dân chúng ở hai bên đường đều đứng lên chào đón, từng chậu hoa tươi được cung kính dâng lên đến trước mặt hai mẹ con tiểu hòa thượng. Hai người chắp tay lễ tạ, đón hoa tươi mang đến rắc lên mình các bức tượng phật[5]. Trong chuỗi nghi thức kỳ lạ đó, tôi chú ý đến người đàn ông dẫn đầu: khoảng bốn mươi tuổi, thân hình cường tráng vạm vỡ, đầu để mái lửng, nhưng phía sau gáy lại tết thành những lọn dài, rồi búi ngược lên đỉnh đầu và được quấn lại bởi mảnh khăn thêu kim tuyến. Người đó đội chiếc mũ miện bằng vàng khắc hình long phụng, khoác áo choàng đỏ có viền thêu hình thoi, đính châu báu, phía trước là những hình tròn thêu chỉ vàng lấp lánh, ống chân ... Đấy, tôi lại mắc bệnh nghề nghiệp rồi, lúc nào cũng quan sát chi tiết những người đối diện như quan sát vật nghiên cứu. Tuy hiểu họ gì, nhưng tôi đoán đó là đoàn người ra nghênh đón khách quý, gồm các thành viên của hoàng thất và người đàn ông khoác mình trang phục quyền quý kia chính là nhà vua. Tuy ni xinh đẹp Jiba cũng được chào đón nồng hậu và cung kính, nhưng ràng đối tượng của nghi thức nghênh tiếp hết sức long trọng này ai khác, chính là Kumalajiba. Từ lâu tôi nghĩ rằng Kumalajiba phải nhà sư tầm thường, nhưng cậu ta mới mười ba tuổi, làm sao có thành tựu gì xuất chúng. Chắc hẳn cậu ta còn có thân phận gì khác ngoài là nhà sư, ví như là con cháu nhà vua chẳng hạn. lẽ cậu ấy là hoàng tử? Trước khi đắc đạo, Phật Thích Ca cũng từng là hoàng tử đấy thôi. Chúng tôi được sắp xếp ở lại trong cung điện hoa lệ (mà phải tại ngôi chùa nào đó như tôi nghĩ). Tuy là hoa lệ, nhưng thể so sánh với cung điện ở Trung Nguyên được. Tây Vực vốn là vùng khô hạn, nhà ở được xây cất rất đơn sơ với vật liệu chính là gỗ và đất sét và mái nhà là kiểu mái bằng. Nhưng ở đây, tường nhà làm bằng đất sét được coi là xa hoa rồi. Thông thường chỉ có quan lại, đền chùa miếu mạo và hoàng cung mới được xây dựng như vậy. Nơi chúng tôi nghỉ ngơi là dinh cơ rộng lớn với năm gian phòng. Vị quốc vương kia còn cử thêm mười người hầu đến phục vụ chúng tôi. Tôi được ở riêng phòng, Jiba cũng dành cho tôi người hầu nữ. cầu đầu tiên mà tôi đưa ra là: tôi muốn tắm rửa. Những thứ mà các cuốn tiểu thuyết thường nhắc đến như: suối nước nóng, hoa thơm, chậu tắm cỡ lớn, ở đây đều có. Có thể là điều kiện sinh hoạt khá nghèo nàn, xà bông ở đây còn lâu mới thơm bằng xà bông của thế kỷ XXI. Nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng sảng khoái, vì sau hơn mười ngày ròng rã dầm mình trong gió cát sa mạc, cuối cùng tôi được tắm gội sạch . Giờ học buổi tối, kìm được tò mò, tôi lại gợi ý tiểu hòa thượng kể về xuất thân của cậu, nhưng Kumalajiba bình thản đến mức lạnh lùng, trả lời rằng: - Những thứ như mắt, mũi, tai, miệng, lưỡi, thân thể hay ý thức đều tồn tại thực , huống hồ là tên tuổi và xuất thân. Lại là thuyết duy tâm của đạo Phật, trả lời như vậy cũng bằng . Tôi giận dỗi: - Vâng vâng vâng, tứ đại giai , mọi thứ đều tồn tại. Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp, tỉnh lại biết rốt cuộc là mình mơ hóa thành hồ điệp hay hồ điệp hóa thành mình, thế được chưa! Điển cố Trương Sinh nằm mơ hóa thành hồ điệp mà tôi vô tình thốt ra khơi gợi hứng thú đặc biệt đối với tiểu hòa thượng, cậu nằng nặc đòi tôi kể câu chuyện đó. Đành vậy: - Thời Xuân Thu ở Trung Nguyên có triết gia tên Trương Châu. hôm, ông nằm mơ thấy mình hóa thành bươm bướm, bươm bướm bay lượn hết sức sinh động. Ông vô cùng vui sướng, đến mức quên cả mình là Trương Châu. Khi tỉnh lại, ông khỏi kinh ngạc khi nhận ra mình chính là Trương Châu. Đời người như giấc mơ, vì vậy Trương Châu biết rốt cuộc là ông nằm mơ thấy mình hóa thành hồ điệp hay hồ điệp nằm mơ thấy mình hóa thành ông. Tiểu hòa thượng trầm tư lát, rồi : - Ở Ấn Độ, người ta tin rằng: Mọi thứ đời đều là giấc mộng của Brahma, khi Brahma tỉnh lại, thế gian này biến mất, tồn tại bất cứ thứ gì. Tôi thở dài, suy nghĩ như vậy là bi quan. muốn tiếp tục chủ đề duy tâm ấy nữa, tôi hỏi: - Brahma có phải là Phạm Thiên (đấng sáng tạo theo quan điểm Bà La Môn) ? Brahma, cách phát này rất quen thuộc. Theo trí nhớ của tôi đó là trong ba đấng sáng tạo của Ấn Độ giáo, gồm: Brahma, Shiva và Vishnu. Tôi từng đến Ấn Độ và cũng từng viết số bài nghiên cứu về Ấn Độ giáo, nên cũng có chút hiểu biết. - Phạm Thiên ư? Kumalajiba dùng bút chì viết hai chữ đó lên tập giấy nháp của tôi rồi nghiêng đầu suy nghĩ: - có lần rằng “Phạm” nghĩa là thanh tịnh, tránh xa mọi ham muốn. Brahma là đấng sáng tạo ra thế giới và vạn vật, gọi Brahma bằng tên “Phạm Thiên” quả là cách dịch thông thái. Ngải Tình, tôi nghe đạo Phật chưa phát triển ở Trung Nguyên, nhưng ở đó có người thông minh, kiến thức uyên thâm như thế này, ngày xa, Phật giáo Trung Nguyên chắc chắn hưng thịnh. Tôi ấp úng biết trả lời ra sao. Thế là lôi lại vô tình đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác rồi! Xin tạ lỗi với ngài Kumarajiva, ngài Huyền Trang, Nghĩa Tịnh và nhiều dịch giả kinh Phật khác, tôi hề cố ý! Buổi tối trước khi ngủ, câu hỏi cứ quẩn quanh trong đầu tôi. Tôi vượt qua giới hạn gian và thời gian hàng ngàn năm để đến trước mặt Kumalajiba, tôi có tồn tại ? Lẽ nào ư? Phải chăng tôi cũng nằm mơ mà biết? Lần đầu tiên tôi nghĩ về xuất của mình ở nơi đây và thấy buồn ảo não. Chúng tôi ở lại Wensu. Tôi có hỏi Kumalajiba khi nào khởi hành Kucha, tôi hứng thú với quốc gia rộng lớn đó hơn là tiểu quốc bé này. Nhưng cậu ta bảo được mời đến đăng đàn thuyết giảng về Phật pháp tại ngôi chùa lớn của hoàng gia trong vòng bảy bảy bốn mươi chín ngày. Và cậu ta cũng dành cho tôi vị trí khách mời trong những ngày đó. Vậy nên, lúc này, tôi ngồi bên Jiva, đưa ánh mắt hiếu kỳ quan sát bốn phía. Chúng tôi ngồi giữa đại điện to rộng trong ngôi chùa lớn của hoàng gia. Tượng Thích Ca mâu Ni cao khoảng hai mét, mạ vàng, được đặt bệ đỡ ở chính giữa. Bốn phía là những lối hẹp dành cho Phật tử và khách thập phương đến dâng hương, cúng lễ. Đại điện được dựng lên với trụ gỗ và các bức tường bằng đất sét, ánh sáng chỉ có thể lọt vào qua cửa chính, vì vậy khắp nơi trong đại điện đều thắp đèn dầu. Đó là kiến trúc của ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa điển hình, có nhiều điểm khác so với những ngôi chùa Phật giáo Đại Thừa phát triển rầm rộ ở Trung Nguyên thời gian sau này. Sáng sớm, Kumalajiba cùng các tăng sĩ ngồi xếp bằng tụng kinh. Hơn trăm nhà sư tọa thiền chật kín đại điện vốn lấy gì làm rộng rãi này. Phía bên phải chỗ ngồi dành cho khách quý có quốc vương và hơn mười đại thần, những người hôm qua ra tận cổng thành nghênh đón mẹ con Kumalajiba. Phía bên này là nhóm phụ nữ, trong đó có tôi và Jiva, nhìn trang phục của họ có lẽ là hoàng hậu và các phu nhân. Kumalajiba ngồi bục cao nhất phía trước tượng Phật, mình khoác áo cà sa thêu kim tuyến lấp lánh, vẻ mặt thành kính, pháp tướng trang nghiêm. Khi tiếng tụng kinh vang lên, ngay cả nhà vua và hoàng hậu cũng lầm rầm tụng niệm theo, chỉ mình tôi ngượng ngùng, đầu cúi thấp để ai chú ý đến. Tất cả những câu kinh Phật mà tôi biết là: Úm ma ni bát ni hồng và Nam mô a di đà Phật. Thế là tôi cứ nhẩm nhẩm lại những câu đó khoảng năm trăm lần thời gian tụng kinh kết thúc. Sau đó, Kumalajiba bắt đầu thuyết giảng. Tôi nhớ lần du lịch Ai Cập và đến tham quan ngôi đền Muhammad Ali, tôi đến đúng vào lúc vị giáo sĩ thuyết giảng kinh Coran, dưới sảnh là hàng trăm tín đồ. Tôi quấn khăn đầu, mặc áo dài, quần dài (đó là quy định khi vào đền đối với nữ giới), ngồi xuống giữa đám đông và bắt chước họ hành lễ. Tôi phải tín đồ Hồi giáo, tôi chỉ muốn xem những người theo đạo Hồi hành lễ ra sao thôi. Vị giáo sĩ miệt mài thuyết giảng, chốc chốc lại làm động tác tay dứt khoát. Tôi vốn biết tiếng Ả rập, nghe hiểu gì, nên chỉ được lúc, tôi bắt đầu chán nản. Nhưng nhìn vẻ mặt thành kính của những người xung quanh và khí yên lặng tuyệt đối trong điện thờ, tôi dám đứng dậy ra về, vì tôi sợ làm thế giống như hành vi xúc phạm đối với những tín đồ sùng đạo này. Bàn chân tôi tê dại sau hơn tiếng ngồi nghe thuyết giảng. Từ đó về sau, tôi tự nhủ lòng, bao giờ cúng khấn hành lễ gì hết. Thế mà giờ đây tôi lại rơi vào tình cảnh đó. Nhưng bù lại, Kumalajiba điển trai hơn nhiều so với vị giáo sĩ Hồi giáo và giọng của cậu ta lại rất ấm áp, truyền cảm. Có điều, vấn đề gay go nhất vẫn là: tôi nghe hiểu. Phải tiếp nhận những giáo lý Phật pháp uyên thâm bằng tiếng Phạn thế này chẳng khác nào ngày xưa tôi phải nghe vị giáo sĩ nọ thuyết giảng kinh Coran bằng tiếng Ả rập. Nhưng hàng trăm nhà sư, rồi cả quốc vương và hoàng hậu đều lắng nghe say sưa, làm sao tôi có thể đứng lên và ra về được. Tôi cũng dám ghi chép vẽ vời gì, sợ gây chú ý. Vì vậy, sau khi lặp lặp lại năm lần phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách đặt tên, cơn buồn ngủ bắt đầu tấn công tôi, đó là kết quả tất yếu của việc thức giấc vào lúc bốn giờ sáng. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu lúc năm giờ, tôi khâm phục nghị lực của các hòa thượng. Buồn ngủ quá mà thể gục xuống làm giấc giữa đám đông tăng ni Phật tử này, tôi đành ngọ ngoạy tay chân tấm đệm, cố gắng vận động khẽ khàng để gây ra chú ý. Cảm giác có ai đó nhìn mình, là Kumalajiba. Tôi chu mỏ lè lưỡi chọc cậu ta, rồi đưa tay xoa phần mông tê dại. Cậu ta khẽ mím môi, cố nhịn cười, thêm vài câu, rồi dừng hẳn. Tôi bắt chước những người khác đứng lên chắp tay, hành lễ với Kumalajiba. Nhà vua phát biểu tổng kết đôi ba câu, rồi ngài vỗ tay, các cung nữ tiến vào, mỗi người bưng tay chiếc bàn xếp đầy đồ ăn, lần lượt đặt trước mặt từng thượng khách. Những người còn lại được phát đồ ăn đến tận tay, mỗi người phần. Tôi nhìn thức ăn bàn, mắt hoa . Có các loại quả vốn là đặc sản của Tân Cương như nho và dưa gang. Và tất nhiên thể thiếu bánh nướng Tây Vực. Nhưng còn gì nữa thế kia? Béo ngậy và thơm phức, thịt nướng ư? Nhìn có vẻ giống thịt dê nướng. Thịt dê nướng Tân Cương vốn nổi tiếng cả nước. Tôi nuốt nước bọt ừng ực vì gần mười ngày được ăn mặn. Nhưng điều lạ lùng là, chỉ tôi, quốc vương và số vị khách khứa của thế giới trần tục khác, tất cả các nhà sư đều được chia phần ăn mặn. Cả đại điện bỗng chốc tỏa đầy mùi thơm của thịt nướng. Nhà vua hạ chỉ dùng bữa và những thanh nhai nuốt giòn giã bắt đầu vang lên. Tôi đưa mắt quan sát Kumalajiba và thấy cậu ta cũng ăn thịt, tuy động tác từ tốn, nho nhã, nhưng vẫn khiến thị giác của tôi chấn động dữ dội. Chợt nhớ ra, những tăng sĩ này theo giáo phái Phật pháp Tiểu Thừa và hình như giới luật của giáo phái này cho phép các nhà sư ăn thịt. Nhưng như thế vẫn chưa đủ ràng, tối nay phải hỏi lại Kumalajiba mới được. Tôi cắn thử miếng, ngon lắm, những muối là muối, có ớt, có rau thơm, ngon bằng thịt nướng ở quán đồ ăn vặt trước cổng trường tôi học. Sau khi đánh chén no nê, tôi buồn tiểu. Nghĩ về bốn mươi tám ngày dài đằng đẵng tiếp theo mà thấy ngán ngẩm. Lúc tôi quay lại, Kumalajiba đứng chờ sẵn ở cửa, ánh nắng buổi sớm phủ lên người tiểu hòa thượng những tia sáng lấp lánh. Cậu ta chớp mắt, nhìn tôi khẽ cười: - Ngải Tình, tôi biết nghe hiểu, nếu bắt tiếp tục ngồi như thế rất khó chịu. Tôi xin phép hoàng thượng để phải tham gia những buổi giảng kinh tiếp theo nữa. Tuyệt vời! Tôi nhảy lên sung sướng, định lao đến ôm lấy cậu ta, nhưng kịp nhớ ra cậu là là hòa thượng, nên thôi. Tôi vội vàng cảm ơn rồi ba chân bốn cẳng chạy biến, tiếng cậu ta gọi với từ phía sau: - về phòng ôn tập bài học hôm qua , tối nay kiểm tra mà thuộc, tôi phạt vụt vào tay đó! Buổi tối, cậu ta đến phòng tôi đúng giờ quy định. Lúc chiều trở về tôi đánh giấc no nê, công việc tiếp theo là vẽ lại toàn bộ kiến trúc ngôi chùa, đại điện và khung cảnh buổi giảng kinh mà tôi được tận mắt chứng kiến sáng nay. Xong xuôi, tôi háo hức ngồi chờ Kumalajiba tới. Kết quả buổi kiểm tra tiếng Tochari của tôi rất tốt đẹp. Đến lượt tôi dạy cậu ta tiếng Hán. Nỗi băn khoăn hành hạ tôi cả buổi chiều khiến tôi kiềm chế được, tôi hỏi ngay: - Vì sao tăng sĩ các cậu lại ăn thịt? Cậu ta có vẻ ngạc nhiên: - Chúng tôi theo tín ngưỡng Hinayana, tất nhiên có thể ăn thịt. Nhưng chỉ được phép ăn “tam tịnh nhục”[6]. Tam tịnh nhục? Chắc là loại thịt mà tăng sĩ giáo phái Tiểu Thừa được phép ăn. - Thế nào là “Tam tịnh nhục”? - Thứ nhất: nhìn thấy người giết thịt, tức là tận mắt chứng kiến thảm cảnh trước khi chết của loài vật đó. Thứ hai: nghe thấy tiếng người giết thịt, tức là tai nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của loài vật đó. Thứ ba, loài vật đó vì mình mà chết, tức là phải vì mình muốn ăn mà chúng bị giết thịt. Giả như ra chợ nhìn thấy người bán hàng mổ gà mổ cá, hoặc người bán hàng rằng đây là thịt tươi vừa mới mổ được phép ăn. Hoặc đến nhà người khác chơi, được chủ nhà mổ gà mổ vịt thiết đãi, tức là chúng sinh vì mình mà chết, cũng được xếp vào loại “thịt thanh tịnh”. Tóm lại, tam tịnh nhục là loại “thịt thanh sạch” phù hợp với các điều kiện: bản thân nhìn thấy, nghe thấy và phải vì mình mà chúng sinh bị sát hại. Sau khi được truyền bá vào Trung Nguyên, giới luật của giáo phái Đại Thừa có phần nghiêm khắc hơn, giáo phái này nghiêm cấm sát sinh, tăng sĩ được phép ăn thịt. Vì vậy, trong tiềm thức của chúng ta, phàm là nhà sư đều được ăn thịt. Trong “Đại Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng đề cập đến vấn đề này. Đại sư viết rằng, trong hành trình Tây Trúc thỉnh kinh của mình, khi ngang qua Tây Vực, ngài thể thích ứng với giới luật cho phép nhà sư ăn thịt ở nơi đây. - Nhưng vì sao trong những ngày qua, chúng ta hề ăn thịt đường ? Tôi nghĩ rằng họ được phép ăn thịt, bởi vì nhiều ngày qua, tôi thấy họ ăn thịt đường . - Bởi vì trước khi gặp , chúng tôi ăn hết rồi. Tôi gật gù, cuối cùng tôi hiểu. biết nhìn thấy họ ăn thịt thế này, các nhà sư ở Trung Nguyên ghen tỵ hay chê trách họ? - Khi nãy cậu đến Hinayana, từ này nghe rất quen, nghĩa là gì vậy? Cậu ta suy nghĩ lát rồi giải thích bằng tràng dài những thanh lạ lùng. Tôi biết đó phải là tiếng Tochari, vậy hẳn là tiếng Phạn rồi, thứ ngôn ngữ phổ thông được sử dụng khắp vùng Trung Á thời kỳ Trung thế kỷ. Và đó cũng là thứ tiếng mà Kumalajiba dùng để thuyết giảng kinh Phật sáng nay, nên tôi nghe mà hiểu gì cả. Tôi lại nghe thấy cậu ta đọc khác: Mahayana. Hồi Ấn Độ, tôi có mang theo cuốn sách hướng dẫn du lịch nhiếp ảnh phổ biến nhất thế giới “Lonely Planet” bản tiếng . Tôi nhớ rằng, tên gọi này thường xuyên xuất trong sách khi giới thiệu về các thắng cảnh du lịch của Ấn Độ. Chắc chắn có liên quan đến Phật giáo, mà cậu ta vừa bảo cậu ta theo tín ngưỡng Hinayana, nên được phép ăn “thịt thanh tịnh”. A, tôi nhớ ra rồi: - Hai từ đó là Phật giáo Đại Thừa và Phật giáo Tiểu Thừa, đúng ? Mahayana là Đại Thừa, còn Hinayana là Tiểu Thừa. Cậu ta có vẻ chưa hiểu, tôi viết chữ Đại Thừa và Tiểu Thừa ra giấy nháp: - “Thừa” là từ chỉ công cụ vận chuyển, ở đây có nghĩa là Phật pháp tế độ, cứu rỗi chúng sinh, giống như con thuyền hay cỗ xe chuyên chở con người từ nơi này đến nơi khác. Hinayana đề cao việc cứu độ bản thân, tìm kiếm giải thoát cho cá nhân, vì vậy tiếng Hán gọi là Tiểu Thừa. Mahayana đề cao việc cứu rỗi người khác, phổ độ chúng sinh, vì vậy tiếng Hán gọi là Đại Thừa. Tôi sướng phổng cả mũi, tiếng Phạn tôi cũng tỏ tường chả kém đâu nhé! Bắt gặp đôi mắt mở to, sáng long lanh và nụ cười đầy hàm ý của tiểu hòa thượng, tôi bỗng giật mình. - Ngải Tình, tôi đâu có sai, rất thông minh! Tôi, tôi, tôi... lại lần nữa đánh cắp thành quả dịch thuật của người khác rồi. Hình như là Kumarajiva dịch phải. Xin lỗi ngài, tôi cố ý...
Chương 7: Luận chiến Vì phải tham gia những buổi thuyết giảng nữa, nên tôi cần dậy sớm. Khi no giấc, tôi tự động mở mắt, ra khỏi giường, rửa mặt chải đầu, ăn sáng rồi ra phố. Tôi thong dong dạo đâu nhé, tôi khảo sát thực tế đó. Thành phố này trải hai nghìn năm tuổi, tuy diện tích lớn, tráng lệ, dân số thưa thớt và đời sống còn khá lạc hậu, nhưng dù sao cũng là thành phố cổ đại đầu tiên tôi đặt chân đến. Cứ coi như hôm nay là đợt tập dượt công tác thực địa đầu tiên của tôi ! Tôi khoác lên vai chiếc ba lô nhét đủ các thứ: sổ ghi chép, thước dây, bút viết, xẻng ... Tôi bắt đầu xắn tay đo đạc tường thành, kiểm tra chiều dày lớp đất, xem xét vị trí cổng thành, vẽ lại toàn bộ mặt cắt ngang, mặt cắt dọc của tòa thành. bận bịu với công việc, bỗng nhóm người đột ngột xuất ngay sau lưng, lăm lăm chĩa mũi giáo về phía tôi. Tôi vội vàng đưa hai tay lên cao, ra hiệu đầu hàng, nộp vũ khí và xin tha mạng. Chiếc thước dây lăn tròn đất, kéo lê thành vệt dài. Tôi bị tống vào nhà lao với tội danh gian tế của người Hán. Tôi dở khóc dở cười, làm gì có tên gián điệp nào lại ngang nhiên giữa phố như tôi chứ! Cố vắt óc lôi ra bằng hết vốn từ vựng Tochari và ra sức giải thích với họ rằng tôi là người quen của đại pháp sư Kumalajiba. Rằng hôm qua tôi được diện kiến nhà vua và hoàng hậu của họ. Rằng tôi còn được mời tham dự yến tiệc trong cung nữa. Tôi nài nỉ họ đến tìm Kumalajiba. Nhưng sau nhiều giờ vẫn thấy có ai đến bảo lãnh, tôi đành tiếp tục công tác khoa học của mình trong nhà ngục. Vì vậy, khi Kumalajiba xuất ở cửa nhà lao với vẻ mặt lo lắng tột độ, trước mắt cậu ta là vẫn say sưa tác nghiệp, mải mê đo đo đạc đạc, vẽ vẽ xóa xóa trong buồng giam. Trời nhá nhem tối khi tôi cùng Kumalajiba bước ra khỏi nhà ngục. Chắc hẳn cậu vừa kết thúc giờ tụng kinh buổi chiều phải vội vã đến nơi đây đón tôi về. Nghĩ vậy, tôi thấy hơi áy náy. Cậu ta với đám cai ngục rằng tôi là giáo viên tiếng Hán của cậu, thế là những người đó ngay lập tức thay đổi thái độ, tỏ ra cung kính đối với tôi, khiến tôi được phen cáo mượn oai hùm, phổng cả mũi. Đúng như dự đoán, buổi tối lên lớp, Kumalajiba hỏi về những việc tôi làm? Có chuẩn bị từ trước nên tôi trả lời rất trôi chảy: Còn nhớ tôi từng về lý tưởng của mình ? Tôi muốn viết cuốn sách lịch sử lưu truyền hậu thế. Và, để người đời sau có thể hiểu được quá khứ huy hoàng của Tây Vực, tôi phải thu thập mọi tư liệu liên quan. Sau hồi lắng nghe tôi thao thao bất tuyệt, Kumalajiba hứa rằng cậu giải thích với quốc vương, nhưng cũng quên dặn dò tôi phải thận trọng hơn. Mấy ngày sau đó tôi đành giam chân trong phòng, chỉnh sửa bản vẽ và ra sức học tiếng Tochari. Nhưng đến ngày thứ năm tôi chịu được nữa. Lần thực tiễn này, tôi rút ra kinh nghiệm và hành động thận trọng hơn. Tôi quan sát mọi thứ tỉ mỉ sau đó mới trở về phòng và vẽ lại. thể làm vậy, trừ phi tôi muốn vẽ tranh trong ngục lần nữa. Mười ngày có lẻ cứ thế trôi qua, những tập giấy đầy hình vẽ của tôi ngày dày lên. buổi tối nọ, tôi bỗng nhận thấy Kumalajiba tập trung vào bài học như mọi ngày, hình như cậu ta mải suy nghĩ điều gì đó. Tôi hỏi được biết ngày mai có người thách đấu Kumalajiba luận chiến và điều đó khiến cậu rất lo lắng. Tôi hỏi hai người tranh luận về nội dung gì, cậu ngày mai mới công bố chủ đề. Tôi hỏi tiếp cậu tranh luận với ai, cậu ta bảo đó là đại sư luận kinh rất nổi tiếng, khắp vùng Tây Vực ai là đối thủ. Ông cho rằng, đời này ai thắng nổi mình, nên tuyên bố hùng hồn rằng, nếu có người thắng ông, ông lấy đầu mình xuống để tạ tội. - có muốn đến xem ? Cậu ta hơi ngập ngừng, có lẽ vì thái độ đáng phê phán của tôi tại buổi giảng kinh trước đó. Tôi gật đầu lia lịa: - Có chứ, tôi nhất định ! cuộc thi hấp dẫn với cái giá là trừng phạt đáng sợ như thế, với đại ngông cuồng như thế, làm sao tôi có thể bỏ lỡ được! - Cậu có biết chỗ nào đặt cược ? Tỉ lệ ăn thua bao nhiêu? 5- 5 hay 4- 6? Kumalajiba chau mày, tôi vội vàng im bặt. Vì muốn cậu ta tập trung tinh thần cho buổi quyết đấu ngày mai nên tôi kết thúc giờ học sớm hơn thường lệ. Nhận thấy vẻ đăm chiêu ưu phiền của cậu ta trước lúc ra về, tôi kêu cậu ta lại, rồi bắt chước động tác cổ vũ tinh thần thường thấy trong các bộ phim kinh điển của Hàn Quốc, tôi giơ tay phải lên và hô: - AZA, AZA, FIGHTING! Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Kumalajiba, tôi phì cười, gào to: - Đó là phương ngôn bán đảo ở phía đông bắc. Có nghĩa là: Pháp sư trẻ của chúng ta nhất định chiến thắng! Kumalajiba cười rạng rỡ, dường như những ưu phiền khi nãy bị xua , cậu nhìn tôi gật đầu quả quyết và cũng học theo tôi giơ tay phải lên. Động tác hơi gượng gạo, nhưng tràn đầy tự tin, phong thái ung dung, đĩnh đạc thường thấy trở lại với cậu. Đó là nụ cười đầu tiên của cậu trong buổi tối hôm nay, ánh sáng của tự tin trong nụ cười ấy tỏa khắp căn phòng, phả vào gian quanh tôi dư vị của ấm áp. lạ lùng là buổi sáng hôm sau tôi ngủ nướng như mọi ngày mà từ tờ mờ sớm chờ sẵn ở cổng. Buổi luận chiến diễn ra tại chính điện trong hoàng cung. Đây là lần thứ ba tôi bước vào nơi này, hai lần trước, tất nhiên là dự tiệc cùng mẹ con ni có xuất thân bí . Bởi vậy, cảm giác háo hức còn nữa. Tranh vẽ xong, tên gọi cũng đặt rồi. Cung điện này chẳng lớn lắm, kiến trúc và trang trí họa tiết đều hết sức đơn giản. Nhưng, gian của buổi luận chiến lại rất lớn. Chỉ có người tham gia tranh luận và nhà vua, hoàng hậu được phép ngồi, những người còn lại đều phải đứng nghe. Vì vậy, chỉ trong chốc lát, toàn bộ đại điện chật kín người. Theo tôi biết, luận chiến là cách thức chủ yếu để thu hút tín đồ của các giáo phái thời kỳ đầu. Ở Ấn Độ, các buổi biện kinh diễn ra rất bi thảm, người thua thường phải mai danh tích, vĩnh viễn biến mất. Có người còn tự cắt lưỡi, thậm chí tự vẫn. hơn đóng cửa giáo phái, tôn người thắng làm thầy. Trái lại, người chiến thắng chỉ dựa vào lần biện kinh, tiếng tăm nổi như cồn, được mọi người sùng kính, có đông đảo tín đồ đến bái sư, người đó được quốc vương trọng vọng và ban thưởng hậu hĩnh, trở thành đại sư quyền lực. Trần Huyền Trang cũng từng nhiều lần giành chiến thắng trong các buổi biện kinh tại Tây Vực và Ấn Độ, danh tiếng lan xa khắp nơi. Từ đó, có thể thấy, cuộc tranh biện này có ý nghĩa to lớn dường nào đối với nhà sư trẻ tuổi như Kumalajiba. Chả trách người thường ngày trầm tĩnh như cậu vậy mà tối qua khỏi lo lắng và bối rối. Nhân vật chính xuất . Bên này là pháp sư trẻ tuổi Kumalajiba, thiếu niên tài trí cao rộng, phong độ ngời ngời, phong thái đĩnh đạc, mình khoác áo choàng màu nâu sòng giản dị. Đối thủ là người đàn ông trung tuổi, đạo sĩ ra đạo sĩ, hòa thượng phải hòa thượng, mình khoác áo nhung màu xanh da trời. thể tin được, tuổi tác của hai người chênh lệch quá xa. Đối phương có lẽ cũng nhận biết được điều này, nên ông ta hếch mũi vênh vang nhìn cậu thiếu niên tuy dáng người cao ráo nhưng thân hình mảnh khảnh ở phía đối diện. Hai người được trao đến tay tấm thẻ , họ đọc tấm thẻ vài giây rồi bắt đầu trầm tư suy ngẫm. Sau tuần hương, tiếng trống vang lên. Đôi bên bắt đầu đặt câu hỏi dồn dập cho đối thủ, có vẻ như Kumalajiba chiếm ưu thế. Tuổi trẻ có lợi thế là phản ứng rất nhanh nhạy. Tốc độ biện luận của cả hai đều khá nhanh, người này vừa kết thúc câu, người kia trực tiếp trả lời. Khán thính giả bên dưới tưởng như nín thở lắng nghe, chốc chốc lại “ồ” lên hoặc “à” lên tiếng, với những trạng thái biểu cảm hết sức phong phú. Tôi chú ý đến khu vực quần chúng bởi vì tôi hiểu chữ nào. Khi họ bắt đầu luận chiến tôi biết mình thể hiểu được, vì họ sử dụng tiếng Phạn. Vậy là tôi chỉ có thể vừa quan sát sắc mặt của đám đông, vừa lục tìm trong trí nhớ những thông tin lịch sử liên quan đến các kỳ biện kinh. Biện kinh biến mất hoàn toàn tại các ngôi chùa ở Trung Nguyên, ở Nhật Bản, Hàn Quốc và khu vực Đông Nam Á thời đại. Phật giáo Ấn Độ vốn suy yếu từ lâu, chỉ có Phật giáo Tây Tạng vẫn bảo lưu và duy trì truyền thống này. Tôi được chứng kiến những buổi biện kinh tại ngôi đền Sera Monastery và đền Drepung Monastery ở Lahsa. Hoạt động này thường được diễn ra ngoài trời vào khoảng ba đến bốn giờ chiều. Lạt Ma của các đền chùa khác cũng cử người đến tham dự, sau khi buổi biện kinh kết thúc, có người nghi chép lại kết quả biện luận[7]. Khác với những cuộc thi hùng biện, tranh biện mà chúng ta từng biết, biện kinh là hoạt động tập thể. Mỗi buổi biện kinh có thể có đến vài trăm Lạt Ma tham gia, họ chia thành những nhóm từ hai đến bốn người, trong đó, người biện luận chính, những người khác đóng vai trò hỗ trợ. Mỗi khi đưa ra câu hỏi cho đối phương, người biện kinh thực những động tác hết sức khoa trương, như: vỗ tay mạnh, sau đó thi triển thế thủ giống hệt Lý Tiểu Long lúc đấu võ, tay tung vạt áo, lắc tràng hạt, chân giậm mạnh, điệu bộ dữ dằn. Bên phản biện ngồi xếp bằng đất, tay giơ lên phản ứng dữ dội. Toàn bộ khu vực diễn ra hoạt động biện kinh vang động tiếng vỗ tay, tiếng áo cà sa của Lạt Ma tung bay loạt soạt và tiếng người huyên náo. Những người ngoại đạo, hiểu tiếng Tạng như tôi, chỉ biết quay qua quay lại quan sát biểu cảm của nét mặt và những động tác tay chân phong phú của những người tham gia biện kinh, thực chất hiểu họ gì. Trước mắt tôi lúc này chỉ có hai người, tuy hoa chân múa tay, tạo các thế võ, nhưng biểu cảm gương mặt họ vẫn hết sức phong phú. Có thể dễ dàng nhận thấy, pháp sư trẻ tuổi của chúng ta càng vào cuộc càng say sưa, dáng người rướn cao, áp đảo đối phương, giọng càng ngày càng hào sảng, vang dội. Đối phương trái lại, càng lúc càng mặt ủ mày chau, vẻ hung hăng mất dần, giọng cũng dần, sau cùng gương mặt biến sắc, thần trí hỗn loạn, mồ hôi đầm đìa trán, ngã bổ nhào về phía trước, quỳ gối xin thua. Đám đông hoan hô dậy sóng. Quốc vương và hoàng hậu cũng nén nổi xúc động, lập tức đứng lên kính cẩn hành lễ chúc mừng Kumalajiba. Sau tiếng vỗ tay của nhà vua, biết bao nhiêu hòm to hòm được khiêng vào, hẳn nhiên đó là phần thưởng dành cho người chiến thắng. Trời ơi, tôi ngưỡng mộ pháp sư trẻ tuổi này quá, mới mười ba tuổi mà cậu ta đánh bại vị tiền bối hơn ba mươi tuổi, biết sau này trưởng thành hơn cậu ta còn tài giỏi đến mức nào nữa? Sau khi kết thúc buổi luận chiến, Kumalajiba tiếp tục giảng kinh, cậu được hộ tống ra ngoài cung giữa vây bọc của đám đông người hâm mộ. chú voi lực lưỡng được trang trí rất bắt mắt và đặt lưng chiếc ghế sang trọng chờ sẵn bên ngoài. Kumalajiba trèo lên lưng voi, quốc vương trước dẫn đường, đoàn người bắt đầu diễu hành. Quốc vương chính thức công bố thắng lợi của đại sư Kumalajiba cho toàn thể dân chúng trong thành được biết. Hoa tươi từ khắp mọi nơi được bà con tung lên người pháp sư trẻ, kèm theo những tiếng hoan hô vang dội, ngớt. Đoàn diễu hành dọc theo các con phố chính, và cả những ngõ suốt buổi chiều. Ngày hôm đó, Kumalajiba được tôn vinh, ca ngợi hết mức, có lẽ cậu còn được hâm mộ hơn cả các minh tinh màn bạc thế kỷ XXI. Khuôn mặt an nhiên, trầm lặng thường ngày hôm nay sáng lên bởi nụ cười mãn nguyện nhưng khá dè dặt nơi khóe môi, cho đến tận khi cậu bước chân vào phòng tôi vào buổi tối. Chờ cậu ta yên vị, tôi lập tức đặt câu hỏi: - Cậu và người đó tranh luận chủ đề gì vậy? - Có và . Tức là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm ư? - Ông ta luận về “có” còn cậu luận về “”? Cậu ta gật đầu, tôi lại hỏi tiếp: - Cậu thắng như thế nào? - Rất khó diễn đạt. Tôi khẳng định là có hay , mà đặt ra giả thuyết “nếu như có”. là “nếu như có” thể là “” được. Có có , phải có cũng phải . Tôi nghe mà ù cả tai, những là có có , có có. - Ông ấy có đồng ý với giả thuyết của cậu ? - Có. Sau đó tôi lại hỏi, bóng trăng dưới nước là có hay ? Ông ấy thể ngoa ngôn trả lời là có. Như thế, cái chính mắt ta nhìn thấy mà vẫn là tồn tại, vậy mọi thứ đời này phải chăng cũng chỉ là ảo ảnh, giống như bóng trăng dưới nước. “Nếu như có” tức là , là có mà cũng là , vậy tất cả chỉ là cõi tịch mịch. - Vậy có cái gì là “có” ? Tên ranh mãnh, lập luận lắt léo như thế làm gì vị sư già kia chẳng thua. Nếu là ở thời đại như thế được gọi là “phép lập luận chủ quan vô căn cứ”. - Mọi thứ đời đều tồn tại, chỉ có Nirvana là vĩnh hằng. - Nirvana là gì vậy? - Tức là thông qua con đường tu hành, có thể dứt bỏ triệt để mọi phiền não, tích thêm nhiều công đức, thoát ly khỏi vòng sinh tử luân hồi và bước vào cõi bất sinh bất diệt. Cậu ta đưa đôi mắt sáng long lanh về phía tôi: - Ngải Tình, chắc chắn biết phải giải nghĩa từ này như thế nào bằng tiếng Hán, đúng ? - Ngôn ngữ đạo Phật có các từ: diệt độ, tịch diệt, giải thoát, viên tịch, Niết Bàn, tất cả đều có nghĩa là chết. Cậu ta vỗ tay tán thưởng: - Hay quá! Diệt độ tức là “diệt” trừ mọi phiền não và thoát ra khỏi sống chết. Tịch diệt tức là giữ cho tâm tĩnh và rũ bỏ mọi ưu phiền. Tôi thở dài. Tôi phải xin lỗi các vị đại sư dịch giả biết bao nhiêu lần về cái tội đánh cắp bản quyền này rồi! Mà cái tên ranh này, trình độ Hán ngữ của càng ngày càng tiến bộ, nào là nào là có, mà học thuyết duy tâm của khiến tôi giờ đây cũng trở nên tiêu cực vài phần rồi! - Vị đại sư đó từng tuyên bố rằng, nếu có người thắng ông ấy, ông ấy sẵn sàng lấy đầu mình xuống để tạ tội. nụ cười nơi khóe miệng, hình như cậu ta rất đắc ý: - Tôi cần đầu của ông ấy để làm gì kia chứ! - Đúng thế, vì vậy cậu buộc ông ta tôn cậu làm thầy, theo cậu học Phật pháp. Tôi nhớ lại màn thu nhận đệ tử sáng nay. Đúng là tâm tính của những người trẻ tuổi, bước vào cửa thiền, sắc sắc rồi mà vẫn còn nguyên tính hiếu thắng. Tôi thở dài: - Theo cậu, ông ta có lòng quy phục ? Rồi chợt nhớ ra chuyện, chờ cậu ta trả lời câu hỏi kia, tôi thích thú đề nghị: - Nào, chúng ta hãy thử thi tài. Nếu thua, tôi tôn cậu làm sư phụ. Đằng nào cậu ta cũng là thầy dạy tiếng Tochari của tôi rồi, có thua tôi cũng sợ thiệt. - Thi như thế nào? Biện luận nội dung gì? Cậu ta có vẻ bị bất ngờ. - Chúng ta biện luận thế nào là thua, thế nào là thắng. chờ cậu ta đáp lời, tôi vội vàng trổ tài trước: - Nếu tôi và cậu luận chiến và cậu thắng tôi, có chắc là cậu đúng còn tôi sai ? Nếu tôi thắng, có chắc là tôi đúng còn cậu sai ? Có chắc người này đúng còn người kia sai ? Hay cả hai đều sai hoặc đều đúng? Hai chúng ta thể định đoạt ai đúng ai sai, vậy ai đứng ra quyết định? Nếu chúng ta nhờ người thứ ba đứng ra phân xử, người đó cũng thể đưa ra quyết định chính xác. Bởi vì, nếu như cậu mời người có đồng quan điểm với cậu đứng ra phân xử, người đó có chung lập trường với cậu làm sao phán xét công bằng được? Nếu người đó đồng quan điểm với tôi, cũng tương tự, cũng chẳng thể đưa ra phán xét công bằng. Vì vậy, cả tôi, cả cậu và người thứ ba kia đều thể quyết định ai đúng ai sai. Nếu tôi cứ kiên trì quan điểm của mình và chịu thua, vậy ai đúng ai sai là câu hỏi vĩnh viễn có lời giải. Tôi ba hoa chích chòe hồi bằng tốc độ biện luận của Đường Tăng, sau đó mỉm cười liếc nhìn Kumalajiba. Cậu ta nhìn tôi chớp mắt, miệng khẽ mở, sững sờ mất chừng nửa phút. Lắc lắc đầu định gì đó lại thôi. Sau đó chắp hai tay lại, cung kính: - Tôi thua rồi. Tôi bật cười nhìn điệu bộ thua trong thỏa mãn, thua tâm phục khẩu phục của cậu ta. - Cậu còn nhớ câu chuyện Trương Châu nằm mơ hóa hồ điệp mà tôi từng kể ? Cậu ta gật đầu. - Rốt cuộc là mơ hay thực, là Trương Châu hay hồ điệp, chúng ta chẳng cần nhọc lòng truy xét. Bởi vì, tiêu chuẩn nhận thức của con người chỉ là tương đối. Người ta chỉ có thể nhận biết phần trong khoảng thời gian hữu hạn, ai dám khẳng định mình nắm vững chân lý tuyệt đối. Bởi vậy, các cuộc luận chiến của các giáo phái đều là đem cái phi lý của mình ra để phủ nhận cái có lý của đối phương. Làm thế thể phân biệt giả, đúng sai. Cậu ta nhìn tôi bằng ánh mắt khâm phục. Vậy là tôi vớt vát được chút thể diện của người làm thầy trước mặt chàng trai trí tuệ siêu phàm này rồi! Ngày hôm sau, cậu ta đến gặp và vài câu với người đàn ông trung tuổi vô cùng tủi hổ và sợ hãi kia bằng thái độ cung kính đáng ngạc nhiên. Người đàn ông kinh ngạc nhìn Kumalajiba. Cậu phải nhắc lại lần nữa, lúc ấy, người đàn ông mới tin vào những gì mình vừa nghe và liền sau đó là những lời cảm ơn rối rít. Rồi ông ta vội vã về phòng mình. Tôi biết ông ta muốn nhanh chóng thu dọn hành lý rời khỏi nơi này. Tôi đưa mắt nhìn Kumalajiba đúng lúc cậu ta quay đầu về phía tôi, đôi mắt trong như nước hồ thu. Tôi ngước lên nhìn trời, hôm nay là ngày oi ả, sao mới sáng sớm mà ánh nắng làm tôi choáng váng thế này!
Chương 8: Hòa thượng vĩ đại Sau cuộc luận chiến, tiếng tăm của Kumalajiba lan truyền khắp nơi, đến đâu cậu ta cũng được người dân vây quanh, tung hoa chúc tụng và chỉ cần được chạm tay vào vạt áo của cậu là ai nấy mặt mày hớn hở, ý chừng rất thỏa nguyện. Ngay cả giáo viên bé như tôi cũng được thơm lây. Lúc ra phố, dân chúng trong kinh thành đều đặt vào tay tôi đủ thứ lễ vật nào là dầu thơm, các loại thịt, hoa quả... Đám lính tráng từng bắt giam tôi, nay gặp mặt là kính cẩn cúi chào. Và đặc biệt, chiến thắng của Kumalajiba giúp cho công việc khảo sát của tôi được tiến hành hết sức thuận lợi, tôi gặp phải đề phòng hay ngăn cản nào cả. Hơn mười ngày nữa trôi qua, tôi bấm ngón tay, vậy là chỉ còn khoảng chục ngày nữa, Kumalajiba kết thúc thời gian thuyết giảng Phật pháp ở đây, sau đó chúng tôi lên đường Khâu Từ. Hơn tháng ở lại Wensu, chỗ nào tôi chưa từng lại lại ba lần, vì vậy tôi thực mong mỏi ngày khởi hành Khâu Từ. Khi được hỏi: “Nếu có kiếp sau, ông muốn được sinh ra ở đâu”, nhà nghiên cứu lịch sử người Arnold Joseph Toynbee trả lời rằng: “Tôi muốn được sinh ra ở Khâu Từ, vùng đất thuộc Tân Cương ấy, hai nghìn năm về trước từng là nơi giao thoa của rất nhiều nền văn hóa và dân tộc”. Sau khi đọc câu trả lời này, tôi rất khao khát được tìm hiểu về Khâu Từ: nhạc Khâu Từ, Thiên Phật động Kizil, sách của H.Bower, di chỉ Subash và cả nhân vật nổi tiếng nhất nhất Khâu Từ - hòa thượng Kumarajiva! biết ngài Toiynbee nghĩ gì nếu biết rằng ước mơ của ngài sắp được tôi biến thành thực? Thế là tôi kết thúc buổi lên lớp tiếp theo với tâm trạng đặc biệt phấn chấn. Tôi giảng cho Kumalajiba về “Luận ngữ”. Những cuốn nhập môn như “Tam tự kinh” tôi có sách trong tay, mà cũng chưa thuộc hết và điều đáng ngại hơn cả là, tôi nhớ “Tam tự kinh” ra đời vào thời đại nào. Để đảm bảo tính an toàn của trật tự lịch sử, tôi quyết định chỉ giảng những cuốn ra đời trước thời Hán. Và cuốn đầu tiên, tất nhiên là “Luận ngữ”, sau đó đến “Kinh thi”, rồi đến “Tả truyện” và “Chiến quốc sách”. Tôi hy vọng tiền học phí từ nay đến khi khởi hành Tràng An đủ để tôi chi tiêu đường. Vừa ra khỏi cửa, Kumalajiba bỗng nhiên quay lại: - Ngày mai quốc vương đến, chúng ta phải ra đón ngài, cùng nhé! Tôi vẫn chưa hết hưng phấn với kế hoạch Khâu Từ, nên hơi bất ngờ: - Quốc vương đến đây làm gì vậy? - Đến đón mẹ con tôi. Sao kia? Vua của nước mà phải đến tận nước khác đón mẹ con họ, thể tin nổi! Tôi vội túm lấy tay cậu ta kéo lại: - Cậu , rốt cuộc cậu là ai? Vua Khâu Từ là cha cậu phải ? Cậu là thái tử? Nếu phải vậy vì sao nhà vua lại phải vượt ngàn dặm xa xôi đến tận đây đón cậu.? Kumalajiba kéo lại tay áo bị tôi nắm chặt, lắc đầu: - đừng như vậy, tôi phải thái tử. Vả lại, Khâu Từ cách đây có ba trăm dặm, đâu phải ngàn dặm xa xôi gì, hơn nữa, danh tiếng và xuất thân... - Đều tồn tại chứ gì? Tôi biết cậu vậy mà! Tôi ngắt lời Kumalajiba. Cậu càng tôi càng tò mò. cậu ta có người khác . Khả năng tiếng Tochari của tôi còn a, b, c, i, t như trước nữa đâu nhé! Tôi cười tinh nghịch, chắn trước bậc cửa: - Chúng ta hãy ôn tập lại tiếng Tochari. Mẹ tôi tên là... ba tôi tên là..., trai tôi tên là... Cậu ta thở dài thườn thượt: - Thôi được, giấu nữa, để phải tìm hiểu bên ngoài, chi bằng tôi cho biết. Kumalajiba chớp chớp đôi mắt tinh nhìn tôi, chậm rãi : - Tôi phải thái tử. Đức vua Khâu Từ là cậu ruột của tôi, mẹ tôi vốn là công chúa, bà là em của ngài. Vậy ra họ đúng là hoàng thân quốc thích, dòng dõi cao quý, chả trách lúc nào người họ cũng toát lên nét vương giả. - Vậy còn cha cậu? - Ông là người Thiên Trúc (Ấn Độ), lẽ ra ông là người kế thừa ngôi vị, nhưng ông từ bỏ để xuất gia. Ông vượt qua dãy núi phía đông và tìm đến Khâu Từ. Đức vua mời ông làm quốc sư, rồi gả em , tức mẹ tôi cho ông. Khoan , sao tôi nghe câu chuyện này quen quá! Chắc chắn tôi đọc ở đâu đó rồi. tia sáng vụt lên trong đầu tôi: - Cậu còn có người em trai, đúng ? Cậu ta gật đầu: - Kém tôi ba tuổi. - Mẹ của cậu vốn biết tiếng Phạn, nhưng khi mang thai cậu, bà đột nhiên biết thứ ngôn ngữ này, đúng ? - Đó chỉ là tin đồn. Mẹ tôi học tiếng Phạn từ cha tôi. - Vậy, có phải, bảy tuổi cậu theo mẹ xuất gia, chín tuổi đến Kashmir và gì nữa, Gandhara và Ka.. gì đó. này khó viết quá! Tôi nhớ lại từng địa danh cách khó nhọc. - Kabul? - Đúng rồi! - Lên chín tuổi, tôi cùng mẹ đến Kabul, tại đó tôi theo học Phật giáo Tiểu Thừa. - Vậy, cậu... cậu... cậu là... Tôi tiếp được nữa, tôi biết cậu ta là ai! Tôi gõ mạnh vào đầu, sao tôi có thể phạm sai lầm lớn như vậy chứ! Các bạn, sau nhà Tần đến nhà Hán, đúng ? Cậu ta từng , Trung Nguyên do vua nhà Tần/Thanh cai quản, nhưng lại luôn với tôi về người Hán, tiếng Hán. Nếu lúc này là thời đại nhà Tần trong chữ Tần Thủy Hoàng, vì sao cậu ta lại gọi tôi là người Hán? Cậu ta vừa nhắc đến chữ: “Tần” tôi lập tức mặc định đó là triều đại nhà Tần hiển hách trong lịch sử. Hơn nữa, xưa nay chúng tôi quen với việc tự nhận mình là người Hán, nên tôi hoàn toàn quên mất rằng, cách gọi đó xuất phát từ thời kỳ thịnh trị của vương triều nhà Hán trong lịch sử? Thế nên, nghiên cứu sinh chuyên ngành lịch sử là tôi đây phạm phải sai lầm thể tha thứ. Tất nhiên, thể là đời nhà Thanh, vì khi đó Khâu Từ trở thành quá vãng hơn nghìn năm. Nếu vậy, trong lịch sử Trung Quốc, còn triều đại nào được gọi là nhà Tần ? Có đấy! Nhà Tiền Tần của Phú Kiên Kiến và nhà Hậu Tần của Diêu Trưởng Kiến, thực ra tiền tố “Tiền” và “Hậu” là do người đời sau thêm vào để phân chia hai giai đoạn, còn tại thời điểm lúc bấy giờ, người ta chỉ gọi là nhà Tần. Điều đó cho thấy, là tôi có mặt ở thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc. Tức là tôi trở về thời đại lịch sử sớm hơn năm trăm năm so với dự tính ban đầu, kết quả là, ở bên nhân vật lịch sử vĩ đại suốt mấy chục ngày mà tôi hề hay biết. Người đó chính là cháu ngoại của vua Khâu Từ ở Tây Vực thời Thập lục quốc, thần đồng với chỉ số IQ 200, hòa thượng với huyết thống cao quý được mọi người sùng kính, thanh niên tuấn tú với dung mạo thoát tục, người được đám sinh viên ký túc xá khoa lịch sử chúng tôi mệnh danh là hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử, còn có thể là ai khác nữa? Sách “Tấn thư” chép rằng: “Có lần ngài thuyết giảng kinh Phật tại chùa Thảo Đường, nhà vua, triều thần cùng với hơn ngàn cao tăng cung kính lắng nghe, Kumarajiva đột nhiên bước xuống, đến gần vùa Diêu Hưng và : Có hai đứa bé cứ nhảy múa vai ta, hãy ban cho ta thiếu nữ. Diêu Hưng lập tức ban cho Kumarajiva mười cung nữ, ngay sau đó, trong số các cung nữ hạ sinh hai con trai”. Tôi vô cùng ngỡ ngàng khi đọc đoạn sử này. Quả là có hai. trong lịch sử, ít hòa thượng bị lên án bởi có liên quan đến chuyện tình ái. Hòa thượng Biện Cơ - trợ thủ dịch thuật kinh Phật đắc lực nhất của Huyền Trang từng có quan hệ tình ái nhiều năm với công chúa Cao Dương - người mà vua Đường Thái Tông sủng ái nhất. Nhưng mối quan hệ đó chỉ diễn ra lén lút, giấu giếm. Sau khi vua Đường phát ra, Biện Cơ bị chém làm đôi. Nhưng đối với câu chuyện của Kumarajiva, với việc ngài công khai đòi hỏi sắc dục trong bối cảnh trang nghiêm như vậy, dù ở góc độ tôn giáo hay luận thường đạo lý, đều khiến người ta cảm thấy khiếp sợ. Đó là thái độ bất chấp giới luật, ngang nhiên thể dục vọng của mình, xưa nay chưa ai dám làm như vậy. Diêu Hưng tặng ngài cả mười cung nữ và ngài vui vẻ tiếp nhận. Ngài sống trong thiền viện như các tăng sĩ khác mà ở nhà riêng và có người cung phụng. Ngài sống sung túc với vợ con như những người bình thường khác. Vậy mà lòng tôn kính của người đời đối với ngài hề giảm . Thậm chí, hậu thế còn hết lời ca ngợi ngài, tiếng tăm của ngài truyền ra tận nước ngoài. hòa thượng như vậy, chẳng phải là nhân vật vĩ đại trong lịch sử hay sao? Nhớ lại cuộc bình xét ở ký túc xá, khi đó sáu bạn nhất trí bầu chọn Kumarajiva, dịch giả kinh phật nổi tiếng thời Thập lục quốc là “hòa thượng vĩ đại nhất trong lịch sử”. - Cậu... cậu... cậu chính là Kumarajiva! Cậu là Kumarajiva ư? Trời ơi, cậu chính là Kumarajiva! Cậu chính là nhân vật lịch sử lừng lẫy đó! Tôi bối rối đến thốt được lên lời, đầu óc choáng váng, tâm trí rối bời. Giống như là đột nhiên bạn gặp được thần tượng của mình vậy! Chuyến này quả tồi chút nào, tôi lại có cớ để tự hào với chúng bạn khi trở về rồi! cốc nước đặt ngay trước mặt tôi, mảnh khăn ướt thấm trán. Tôi ngẩng lên và bắt gặp trong đôi mắt như hồ nước thu ấy vẻ lo lắng giấu giếm: - Trán hơi nóng, hình như bị cảm lạnh. Ngày mai tôi căn dặn người làm sắc thuốc cho . Tôi nhìn thấy hình ảnh tay chân mình run rẩy phản chiếu trong đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy. Sau khi uống nước, tôi trở nên bình tĩnh hơn. Ngượng ngùng nở nụ cười ngây ngô: - Tôi vô ý quá! Cậu ta cũng cười: - Tôi chưa từng thấy Ngải Tình như vậy bao giờ. Mà luôn miệng gọi tôi là Kumarajiva, đó có phải tên tiếng Hán của tôi ? Tôi gật đầu. Kumalajiba là tên tiếng Phạn của cậu ta, Kumala chính là Kumara. Nhưng còn Jiba sao lại biến thành Jiva được nhỉ? biết ai dịch tên của Kumarajiva sang tiếng Hán, nhưng ràng nghe hay hơn tên Kumalajiba mà lâu nay tôi thường gọi. Sở dĩ tôi nhận ra cậu ta chính là pháp sư lừng danh Kumarajiva, là vì tôi nhầm lẫn thời đại lịch sử. Thêm nữa là vì, phát của từ “Jiba” và từ “Jiva” rất khác nhau. Nên tôi biết người ngày ngày ở bên mình chính là dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc, người được xếp ngang hàng với sư phụ Huyền Trang. Tôi hỏi cậu ta về ý nghĩa của tên gọi Kumarajiva trong tiếng Phạn, được trả lời rằng, Kumara là họ của cha cậu, nghĩa là “đồng tử” (cậu bé). Jiva là tên mẹ cậu, nghĩa là “thọ” (nhiều tuổi). Bởi vậy ý nghĩa tên gọi của cậu trong tiếng Hán là “đồng thọ” (cậu bé già dặn). Đặt tên con cái bằng cách ghép họ của người cha và tên của người mẹ vốn là phong tục của người Ấn Độ xưa, cũng có lúc tên gọi còn được đưa thêm vào số ý nghĩa khác nữa, do đó, tên của người Ấn Độ thời xưa rất dài. Chả trách khi đọc sách lịch sử Phật giáo, tôi thể nào nhớ nổi tên của các vị cao tăng Tây Vực và Ấn Độ. Thực là rất dài và rất khó đọc. Tôi biết cha cậu là Kumarayana, còn mẹ cậu là Jiva, những tên gọi vốn rất quen thuộc đối với người Hán. Tăng sĩ Tây Vực và Ấn Độ đều dùng tên gọi thông thường, khác với cách dùng pháp hiệu của các nhà sư Trung Nguyên. Kumarajiva đặt tập giấy nháp trước mặt tôi và đề nghị: - có thể viết tên gọi tiếng Hán của tôi vào đây được ? Tôi nắn nót từng nét : Ku- ma- ra- ji- va. Cậu ta ngắm nghía tỉ mỉ, đọc lại lượt, rồi ngước lên nhìn tôi, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui: - Hay! Kumarajiva. Nếu là tên gọi do Ngải Tình đặt, từ nay về sau tên tiếng Hán của tôi là Kumarajiva! Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt trong sáng tràn ngập ánh cười nhìn mình. Tôi bỗng hốt hoảng, thần trí mất tập trung, cứ bay bay tận đâu đâu. có tài liệu nào ghi lại thông tin về người đặt tên tiếng Hán cho cậu ta, lẽ người đó là tôi? Tên gọi mà tôi đọc được ở thế kỷ XXI hoàn toàn trùng khớp với tên gọi mà tôi đặt cho cậu ta 1650 năm về trước. Điều đó có nghĩa là, việc tôi vượt thời gian đến đây và gặp gỡ Kumarajiva đều là tất nhiên ư? Điều này có mối liên quan, logic gì? Tôi chỉ là du khách bên lề lịch sử, hay tôi gia nhập vào thời đại này cách hoàn toàn tình cờ?
Chương 9: Tôi muốn xin thôi việc Tôi cùng mẹ con Kumarajiva, nhà vua và đại thần Wensu đến trước cổng thành nghênh đón đức vua Khâu Từ. Vì giờ đây tôi biết cậu là là Kumarajiva, nên tất nhiên tôi hiểu vì sao cái tên Wensu nghe quen đến vậy, ra là Wensu, huyện bên cạnh Aksu, thuộc tỉnh Tân Cương. Hai nghìn năm trước, Wensu chỉ là quốc gia , lệ thuộc vào Khâu Từ. Sở dĩ quốc gia bé này có trong trí nhớ của tôi là vì Kumarajiva. Cuộc luận chiến nổi tiếng đó sử sách gọi là cuộc luận chiến ở Wensu, nó được xem như bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời đầy thăng trầm nhưng lẫy lừng của Kumarajiva. Sách sử chép rằng, chính nhờ cuộc luận chiến này mà tiếng tăm của Kumarajiva “vang khắp vùng Pamirs, chấn động hải ngoại”, “được quốc vương nhiều nước trọng vọng”. Bởi vậy, đức vua Khâu Từ phải đích thân đến đón Kumarajiva, để các nước khác tranh giành hiền tài. Nghi thức đón tiếp diễn ra rất long trọng, thảm đỏ được trải đến tận hoàng cung, nhạc rộn ràng dứt, hoa thơm vương ngập lối . Tôi nhớ vị vua này tên Bạch Thuần, vương triều nhà Bạch vốn do Ban Siêu dựng lên, Tây Vực đô hộ phủ của Ban Siêu đặt tại Khâu Từ. Từ thời Ban Siêu cho đến cuối đời Đường, rồi sau đó Khâu Từ bị người Hồi Hột (Ujur) tiêu diệt, trong suốt tám trăm năm, vương quốc Khâu Từ đều do nhà Bạch nắm quyền cai quản. Vị vua Khâu Từ này rất giống Jiva, cũng da trắng, mũi cao, mắt to và sâu, lông mày dày và rậm. Có lẽ Bạch Thuần chưa đến bốn mươi tuổi, thời trẻ chắc hẳn rất tuấn tú. Nhà vua cắt tóc ngang vai như những người đàn ông khác, phía trước để mái lửng, phía sau quấn búi lên đỉnh đầu, rồi buộc gọn lại bằng mảnh vải nhiều màu, thả xuống sau gáy. Điều thú vị là trán của nhà vua cũng được nén dẹt xuống. Trong “Đại Đường Tây Vực ký”, Huyền Trang từng viết về tập tục nén đầu ở Khâu Từ. Họ dùng tấm gỗ ép chặt phần đầu phía trước của đứa trẻ. Nhưng tập tục này chỉ được phép áp dụng đối với thành viên của hoàng thất. mừng là Kumarajiva xuất gia từ , nếu vẻ điển trai mê hồn của cậu chắc chắn bị tập tục này hủy hoại. Tôi tiếp tục quan sát trang phục của quốc vương. Cũng là áo choàng ngắn, cổ bẻ, ống tay hẹp, thắt eo, ủng cao đến đầu gối, nhưng bên ngoài còn khoác thêm chiếc áo tay lỡ với những hoa văn thêu kim tuyến cầu kỳ. thanh kiếm dài đeo bên hông, tay còn có thêm thanh đoản kiếm. Có vẻ như nhà vua rất thích dùng kiếm. Thoáng thấy mẹ con Kumarajiva, nhà vua vội sải những bước dài về phía trước, dang rộng tay ôm chầm lấy hai người. Hai mẹ con Kumarajiva dường như rất xúc động, họ xa nhà những bốn năm trời kia mà. Tôi nghe được bập bõm đoạn đối thoại của họ. Đức vua chúc mừng thành tích học tập và cuộc luận chiến thành công của Kumarajiva. Ông rằng chuẩn bị mọi thứ ở Khâu Từ để chờ đón hai người trở về... Khi đức vua Khâu Từ đưa mắt nhìn sang người con đứng cạnh Jiva, ngài có vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi căng tai luyện nghe tiếng Tochari, để ý đến ánh nhìn đột ngột đó, nên kịp phản ứng, bất giác nở nụ cười ngờ nghệch. Nụ cười chưa kịp tắt, trong tôi chợt nhen lên cảm giác bất an, thôi thế là xong, tôi mất điểm hoàn toàn rồi, những nghi lễ mà tối qua tôi được học biến mất khỏi đầu tôi, để lại dấu vết. Đức vua Khâu Từ cũng ở lại trong cung, nhưng ngài ngự tại cung điện khác. Yến tiệc buổi tối vẫn như thường lệ, được tổ chức đại điện, tôi cũng được tham dự. Nhưng vì mẹ con Kumarajiva ăn tối nên chúng tôi chỉ được uống nước suông. Đôi mắt mở to của tôi dán chặt vào món thịt nướng bàn của hai vị quốc vương, miệng nuốt nước bọt ừng ực. có ca nhạc, có hát múa, buổi tiệc chỉ là bữa cơm thân mật trong gia đình nhân dịp đoàn tụ. Tôi cảm thấy lạc lõng, nên chẳng bao lâu, tôi bắt đầu giở trò ngọ ngoạy chỗ ngồi của mình. Đột nhiên tôi bắt gặp ánh mắt quen thuộc chiếu về phía mình, là Kumarajiva. Cậu ta mím chặt môi, cố nhịn cười. Tôi liếc nhìn xung quanh để chắc chắn có ai chú ý, sau đó bóp mũi, lè lưỡi ra chọc cậu ta, Kumarajiva khổ sở mím chặt môi hơn nữa. Cậu quay người sang với hai vị quốc vương, rằng đêm khuya, đức vua Khâu Từ đường thấm mệt, ngài nên về nghỉ ngơi sớm. Sau đó, mọi người cùng nâng cốc (chúng tôi chỉ được phép uống nước) chúc tụng lần cuối, rồi kết thúc bữa tiệc. Tôi trở về với cái bụng rỗng , mắt mờ vì đói, vội vàng hạ lệnh cho hầu nữ nấu chút gì đó lót dạ. Trong thời gian chờ đợi đồ ăn, tôi nằm im giường cố gắng hạn chế tiêu hao năng lượng. Trong cơn mê man, mùi hương ngào ngạt bất chợt bốc lên, tôi bật dậy và nhìn thấy đôi mắt sâu như hai vực nước long lanh ánh cười đứng bên giường, tay là đĩa thịt nướng, thơm chết người! Tôi kéo vai cậu ta xuống, cảm động : - Rajiva, cậu tốt bụng! Thực ra tôi suy nghĩ rất nhiều về cách xưng hô với Kumarajiva. Tên tiếng Phạn của cậu ta rất khó đọc, tên tiếng Hán nghe có vẻ khách sáo. Trong các tài liệu liên quan, tên cậu ta có lúc là Rajiva, có lúc là “Jiva”. Sách cổ thường gọi cậu ta là Jiva, còn trong văn bản đại đều viết là Rajiva. Nếu phân tích rạch ròi, Kumara là họ, Jiva mới là tên. Nhưng nếu chỉ gọi là Jiva, nghe ổn lắm. Bởi vậy, sau khi suy tính lại, tôi quyết định gọi cậu ta bằng cách của những người đại, Rajiva. cậu ta cũng vui vẻ chấp nhận. Lúc buông tay ra tôi mới nhận thấy khuôn mặt cậu ta đỏ như gấc chín, ánh mắt ra sức tránh né, dám nhìn thẳng vào tôi. Bộ dạng ngượng ngùng, xấu hổ ngây thơ đó đáng ! Trời đất, tôi vừa làm gì thế này! Lại vỗ cái mạnh vào đầu tự trừng phạt. Cậu ta giật mình, lo lắng hỏi: - Ngải Tình, sao vậy? Nhìn khuôn mặt đỏ bừng vì thẹn thùng của cậu ta, tôi bỗng bối rối. Đón đĩa đồ ăn từ tay Kumarajiva, tôi giả đói giả khát cắm đầu gặm món thịt nướng để che nỗi xấu hổ dâng đầy. Làm sao có thể để cậu ta hiểu tôi áy náy về hành động mất kiểm soát khi nãy của mình đến thế nào. Dù cậu ta vẫn ít tuổi, tôi cũng thể có những cử chỉ thân mật cách tự nhiên như ở thời đại của tôi được. Vì dù sao có thân phận hết sức đặc biệt và điều đó bao giờ có thể thay đổi. lúc sau, sắc mặt Kumarajiva mới trở lại trạng thái bình thường, cậu lấy giọng vu vơ hỏi tôi: - Hôm nay chúng ta học bài gì? Tôi thở dài, ngừng nhai thịt: - Cậu mời người khác dạy , tôi dạy cậu nữa đâu. Kumarajiva tỏ ra hết sức kinh ngạc, khuôn mặt vừa tan sắc đỏ chuyển sang tái nhợt: - Vì sao? Tôi làm gì sai ư? - Cậu làm gì sai cả. Chỉ tại tôi đủ trình độ để dạy cậu nữa. Cậu là Kumarajiva kia mà! Khi giảng “Luận ngữ” tôi có sách, cũng thuộc hết. Tôi chỉ giảng cho cậu ta những phần tôi thuộc và tất nhiên là trật tự các bài bị đảo lộn, số chỗ tôi còn nhớ chính xác. Cậu ta vốn thông minh tuyệt đỉnh, chỉ đọc lần là nhớ ngay. Nếu tôi tiếp tục dạy học như vậy, trong đầu cậu ta đầy ắp những lỗi sai. Làm sao cậu ta trở thành dịch giả kinh Phật hàng đầu Trung Quốc được? Tôi cũng gánh nổi tội lỗi tày trời đó. nghiệp phát triển Phật giáo tại Trung Nguyên vẫn trông chờ cậu ta kia mà! - Nhưng, nhưng mà, là giáo viên rất giỏi! Có chút run rẩy trong giọng của Kumarajiva. - giảng bài rất hay, nên tôi chỉ nghe lần là nhớ. - Đó là vì cậu thông minh, phải do tôi dạy giỏi. Tôi nhìn thẳng vào hai vực nước trong vắt ấy, nghiêm nghị: - Rajiva, cậu là người thông minh nhất mà tôi từng gặp. Giọng của cậu ta êm dịu và lôi cuốn như vò rượu ngon được ủ nhiều năm, nhưng khẩu khí chắc nịch: - Ngải Tình, cũng là thông minh nhất mà tôi từng gặp. Vốn hiểu biết của rất phong phú và điều quan trọng hơn là, am hiểu sâu sắc Phật pháp. Vì có người thầy như , Rajiva cảm thấy rất hứng thú với Trung Nguyên. Tôi rất mong được đặt chân đến đó, để có thể tận mắt chứng kiến mảnh đất, bầu trời và gian như thế nào mà có thể khai sinh ra người con thông minh, xinh đẹp như Ngải Tình. Những câu ấm áp được thốt lên bằng chân thành, giúp tôi cảm thấy tự tin hơn. Bất giác câu hỏi ra trong đầu: lẽ cảm tình dành cho vùng đất Trung Nguyên của Kumarajiva bắt nguồn từ tôi ư? Nhưng thực là tôi thông minh, tôi đánh cắp kiến thức của người khác, kể cả thành quả dịch thuật của Kumarajiva. Vậy mà cậu ta vẫn khen ngợi tôi có tuệ căn. Nếu ở vào thời đại, chắc chắn tôi bị kết tội vi phạm bản quyền. Thế nên, tôi cứ cúi gằm mặt xuống, dám ngẩng đầu. - Nhưng mà... Kumarajiva cố nhịn cười khi tôi ngước bộ mặt âu sầu lên nhìn cậu ta: - Nhưng nếu có vẻ mặt ngây ngô kia càng thông minh hơn... Tên ranh, dám trêu cả giáo! Tôi bật dậy định vít cổ cậu ta xuống, nhưng cậu ta nhanh như chớp, cười ngất và né sang bên. Tôi đuổi cậu ta chạy vòng vòng. Rajiva tuổi trẻ chân dài, tôi già cả bắt kịp. Nhưng tôi tin mình tóm được cậu, nếu thế tôi ra đời trước cậu ta mười năm oan uổng quá! Tôi kêu lên tiếng “ui da”, rồi ngã sõng soài ra đất. Quả nhiên cậu ta vội chạy đến, vẻ mặt lo lắng hỏi tôi có sao . Nhân lúc cậu ta đề phòng, tôi lập tức giơ tay tóm lấy cổ cậu ta. - Tên ranh, từ nay về sau cấm chê giáo ngây ngô nhé! Như thế gọi là ngây ngô mà là thà, nhớ chưa? Tôi là giáo của cậu, cậu phải tôn trọng tôi, biết chưa? Dù cậu có là Kumarajiva nữa, trước mặt tôi cũng phải tỏ ra ngoan ngoãn! Tôi lắc mạnh chiếc cổ dài thanh tao và nhìn vào khuôn mặt ngày càng ửng đỏ của cậu ta. Hình như tôi xiết tay hơi mạnh. Vội vàng buông cậu ta ra, tôi sát lại, ghé mắt nhìn: - Này, tôi có mạnh tay quá ? Cậu có đau lắm ? Xin lỗi nhé! Ánh mắt khuôn mặt đỏ như gấc chín ấy lại tìm cách lẩn trốn. Cậu ta quay mặt , tách tôi ra đoạn, miệng lí nhí: - Ngải Tình, tiếp tục dạy tôi, được ? Tôi lại thở dài, tay túm cằm suy nghĩ: - Nhưng tôi có giáo trình, tài liệu gì cả. “Luận ngữ” mà tôi dạy cậu đều là dựa vào trí nhớ, mắc ít lỗi sai. Người xưa có câu: dạy sai kiến thức chi bằng dạy, chớ làm hỏng học trò. Vẫn khuôn mặt đỏ lựng nhìn tôi, nhưng ánh mắt trở nên long lanh và khóe môi hé điệu cười rạng rỡ: - lo lắng điều này ư? Có khó gì đâu! “To teach or not to teach, this is a question”. Tôi có cách nào từ chối, nhưng lại sợ truyền đạt sai kiến thức cho cậu ấy. Lẽ ra tôi nên xuất trong cuộc đời cậu ấy. có tôi, cậu ấy vẫn có thể trở thành vị pháp sư lừng danh trong lịch sử. Nhưng nếu ngược lại sao? Rốt cuộc, tôi đóng vai trò gì trong hành trình cuộc đời Kumarajiva? Liệu tôi có tác động xấu đến cậu ấy, để rồi làm sai khác lịch sử? hiển nhiên là cậu ấy vốn biết dù chỉ câu tiếng Hán đại. Thấy tôi trầm ngâm hồi lâu, Kumarajiva đặt hai tay lên tay tôi, hơi ấm từ lòng bàn tay cậu lan tỏa khắp người tôi. - Ngải Tình, chính Phật tổ an bài để tôi được gặp , tôi thực trân trọng mối duyên này. Tôi lòng muốn học tiếng Hán, nhưng nếu muốn dạy, cũng sao, hãy đến Khâu Từ cùng tôi, rồi mới trở về Trung Nguyên, được ? Trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ngấn nước phản chiếu khuôn mặt ủ dột của tôi. Tôi chỉ là người khách qua đường, sớm muộn tôi cũng phải trở về thế giới của mình, dù cho chiếc đồng hồ vượt thời gian tạm thời gặp cố. Nhưng việc tôi vượt thời gian và gặp gỡ Kumarajiva thời niên thiếu, nếu dùng chữ “cơ duyên” còn có cách giải thích nào khác nữa? Hai hàng dấu chân cát của chúng tôi chỉ là tình cờ hợp thành , khi hành trình ngắn ngủi đó qua , còn bất cứ gặp gỡ nào nữa. Vậy , việc gì tôi phải suy nghĩ nhiều đến vậy? Chỉ cần từ nay về sau tôi thận trọng hơn trong mọi ứng xử, thể ra bất cứ dấu hiệu mang nét đặc trưng của thời đại mình, tôi tác động và làm thay đổi lịch sử. Nhưng, điều quan trọng hơn hết thảy đó là, tôi thực mong muốn được ở bên chàng trai thiên tài này mỗi ngày, để được đón nhận và cảm nhận tình cảm nồng ấm từ cậu ấy. - Nếu vậy, ta đồng ý tiếp tục dạy trò. Tôi lồm cồm bò dậy, phủi sạch bụi mông: - Thầy trò ta cùng ôn lại kiến thức của buổi học trước. Tôi phải nhanh chóng sửa đổi phương thức giao tiếp bằng tiếng Hán đại của cậu ta mới được. Cậu ta vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, có vẻ chưa thích ứng với lối văn ngôn trang trọng đó của tôi, nhưng cũng thắc mắc, vội vàng đứng lên tìm tập giấy nháp. Tối hôm sau, cậu ta xuất ở cửa phòng tôi với cuốn “Luận ngữ” tay.