Đời ảo - Joseph Finder (Best seller)(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      43






      đường rời khỏi phòng vệ sinh nam ở tiền sảnh, nơi tôi cố hết sức để tẩy sạch vết loang cà phê, khiến quần kaki ẩm và nhàu nhĩ, tôi qua quầy báo trong tiền sảnh của Cánh A, tòa nhà chính, ở đó có bán báo địa phương cùng tờ Nước Mỹ Ngày nay, Thời báo New York, Thời báo Tài chính màu hồng cam và tờ Nhật báo. Đống Nhật báo phố Wall mọi khi vẫn chất chồng giờ vơi nửa, mà mới chỉ chớm bảy giờ sáng. ràng là mọi người ở Trion đều đọc nó. Tôi đoán các mẩu tin sao từ website của tờ Nhật báo giờ đến thư điện tử của tất cả mọi người. Tôi chào đại sứ hành lang và thang máy lên tầng bảy.


      Trưởng nhân viên hành chính của Goddard, Flo, gửi thư cho tôi thông tin chi tiết về văn phòng mới. Đúng vậy, phải khoang làm việc mà là văn phòng thứ thiệt, cùng cỡ với phòng của Jock Goddard (và nhân tiện luôn, cùng cỡ với phòng Nora và Tom Lundgren). Nó ở cuối hành lang từ văn phòng của Goddard, cũng tối như tất cả các văn phòng khác hành lang dành cho cấp điều hành. Tuy nhiên văn phòng của tôi sáng điện.


      Ngồi ở bàn bên ngoài văn phòng là trợ lý hành chính mới của tôi, Jocelyn Chang, phụ nữ Mỹ gốc Trung Quốc khoảng bốn mươi tuổi, trông độc đoán, mặc đồ thuần xanh. Chị ta có cặp lông mày cong hoàn hảo, tóc đen ngắn và đôi môi hình cánh cung xíu được tô son màu hồng đào ướt mọng. Chị dán nhãn bản sắp xếp thư từ. Khi tôi tới gần, chị mím môi nhìn lên và chìa tay ra. “ hẳn là Cassidy.”


      “Cứ gọi tôi là Adam,” tôi . Tôi biết nữa, liệu đó có phải lỗi đầu tiên của tôi ? Tôi có phải giữ khoảng cách, tỏ ra nghi thức? Như thế dường như nực cười và cần thiết. Rốt cuộc hầu hết tất cả mọi người ở đây có vẻ đều gọi Tổng Giám đốc Điều hành là “Jock”. Và tôi chỉ khoảng bằng nửa tuổi chị.


      “Tôi là Jocelyn,” chị . Chị kiểu giọng mũi đều đều của vùng Boston, làm tôi ngờ tới. “Rất vui được gặp .”


      “Tôi cũng vậy. Flo bảo chị ở đây rất lâu, tôi rất mừng nghe tin đó.” Ối. Phụ nữ thích bị thế đâu.


      “Mười lăm năm,” chị thận trọng. “Ba năm cuối là cho Michael Gilmore. Người tiền nhiệm của . Ông ấy được giao nhiệm vụ khác vài tuần trước, vậy nên tôi trống việc.”


      “Mười lăm năm. Tuyệt vời. Tôi cần mọi trợ giúp có thể được.”


      Chị gật đầu, cười, gì cả. Rồi chị có vẻ nhận ra tờ Nhật báo dưới cánh tay tôi. “ định kể nó với ông Goddard chứ?”


      ra tôi định bảo chị viền và đóng khung nó rồi gửi làm quà cho ông ấy. Cho văn phòng của ông ấy.”


      Chị trân trối nhìn tôi kinh hãi lúc lâu. Rồi chầm chậm cười. “Đấy là đùa,” chị . “Đúng ?”


      “Đúng vậy.”


      “Xin lỗi. Ông Gilmore cũng hẳn là có tính hài hước lắm.”


      sao. Tôi cũng thế.”


      Chị gật đầu, chắc phải phản ứng thế nào. “Được rồi.” Chị liếc mắt sang đồng hồ đeo tay. “ có cuộc họp lúc bảy giờ ba mươi với ông Goddard.”


      “Ông ấy vẫn chưa tới.”


      Chị lại nhìn đồng hồ. “Ông ấy tới. Thực ra tôi cá là ông ấy vừa mới đến. Ông ấy giữ thời gian biểu rất đều đặn. Ồ, chờ .” Chị trao cho tôi tài liệu nhìn rất hoành tráng, phải dài đến cả trăm trang, bọc trong da giả gì đó, đề BAIN & CÔNG TY. “Flo bảo ông Goddard muốn đọc cái này trước buổi họp.”


      “Buổi họp là... hai phút rưỡi nữa.”


      Chị nhún vai.




      Đây có phải bài kiểm tra đầu tiên cho tôi ? Tôi đời nào lại đọc được dù chỉ trang của cái mớ lảm nhảm thể hiểu nổi này trước khi họp, và tôi chắc chắn đến muộn. BAIN & CÔNG TY là hãng tư vấn quản lý toàn cầu cao giá, hay nhận những gã trạc tuổi tôi, những gã hiểu biết thậm chí còn ít hơn tôi, và vắt kiệt sức lao động của họ cho tới khi họ biến thành lũ ngu xuẩn chảy dãi, bắt họ tới các công ty và viết báo cáo, và thu hàng trăm nghìn đô cho thông thái giả tạo của mình. Tài liệu này có nhãn BÍ MẬT CỦA TRION. Tôi đọc lướt nó nhanh, và tất cả những câu rập khuôn và từ thông dụng nhảy ngay ra phía trước - “tổ chức lại quản trị tri thức”, “lợi thế cạnh tranh”, “tối ưu hóa hoạt động”, “chi phí hiệu quả”, “những điểm kinh tế về quy mô”, “giảm thiểu những việc -gia-tăng-giá-trị”, vân vân vân - và tôi biết tôi thậm chí cần phải đọc để biết chuyện gì xảy ra.


      Cắt giảm nhân . Gặt đầu người cánh đồng đầy những lô làm việc.


      Hấp dẫn ghê, tôi nghĩ. Hoan nghênh đến với cuộc sống ở tầng cao.



      44






      Goddard ngồi sẵn ở bàn tròn trong văn phòng phía sau của mình với Paul Camilletti và người khác khi Flo dẫn tôi vào. Người thứ ba vào khoảng nửa cuối ngũ tuần, hói chỉ còn dải tóc bạc, mặc bộ đồ vét, sơ mi, cà vạt xám đơn điệu hợp thời trang moi ra từ hiệu quần áo nam trong khu mua sắm nào đó, tay phải đeo cái nhẫn lớn đồ sộ. Tôi nhận ra ông ta: Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của Trion.


      Căn phòng này cùng cỡ với văn phòng phía trước của Goddard, mỗi bề ba mét, và chỉ có bốn người ở đây mà cái bàn tròn rộng thấy chật chội. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi họp ở phòng hội nghị nào đó, nơi lớn hơn đôi chút, phù hợp hơn cho những lãnh đạo quyền cao chức trọng này. Tôi chào, cười căng thẳng, ngồi vào ghế cạnh Goddard, đặt xuống văn bản của hãng Bain và tách cà phê in chữ Trion Flo đưa cho tôi. Tôi lấy ra tập giấy màu vàng và bút, sẵn sàng ghi chép. Goddard và Camilletti đều mặc mỗi sơ mi, áo khoác, - và áo cổ lọ đen. Goddard trông thậm chí còn già nua và mệt mỏi hơn lần trước tôi nhìn thấy ông ta. Ông đeo cặp kính gọng đen ngoắc vào sợi dây qua cổ. Trải bàn là vài bản sao chép bài báo tờ Nhật báo phố Wall, bài được đánh dấu bằng mực vàng và xanh.


      Camilletti cau có nhìn tôi khi tôi ngồi xuống. “Ai đây?” hỏi. hẳn là “Rất mừng có cùng tham gia.”


      vẫn nhớ Cassidy đây chứ?”


      .”


      “Từ buổi họp về Maestro? Chuyện về quân ấy?”


      “Trợ lý mới của ,” nhiệt tình. “Phải rồi. Xin chào đến với trung tâm kiểm soát thiệt hại, Cassidy.”


      “Jim, đây là Adam Cassidy,” Goddard . “Adam, còn đây là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành của chúng ta.”


      Colvin gật đầu. “Chào Adam. Chúng tôi vừa mới về cái bài chết tiệt tờ Nhật báo này, và làm thế nào để giải quyết nó.”


      “Chà,” tôi vẻ từng trải, “chỉ là bài báo thôi mà. Nó chóng qua trong vài ngày tới, chắc chắn vậy.”


      “Vớ vẩn,” Camilletti gắt, trừng mắt nhìn tôi với biểu cảm đáng sợ tới mức tôi nghĩ mình hóa đá. “Đây là tờ Nhật báo. Nó ở ngay trang đầu. Ai cũng đọc nó. Thành viên hội đồng, nhà đầu tư mang danh nghĩa tổ chức, các nhà phân tích, tất cả mọi người. Đây đúng là vụ lật tàu chết tiệt.”


      tốt chút nào,” tôi đồng ý. Tôi tự bảo mình từ giờ phải ngậm miệng lại.


      Goddard thở ra thành tiếng.


      “Điều rất nên làm là xoay quá đà,” Colvin lên tiếng. “Chúng ta muốn làm bốc lên tín hiệu khói hốt hoảng trong ngành.” Tôi thích từ “xoay quá đà”. Jim Colvin ràng là dân chơi gôn.


      “Tôi muốn có bộ phận Quan hệ Nhà đầu tư ở đây ngay, cả Truyền thông Tập đoàn nữa, và thảo phản hồi, lá thư cho biên tập viên,” Camilletti .


      “Quên tờ Nhật báo ,” Goddard bảo. “Tôi nghĩ tôi đề nghị bài phỏng vấn trực tiếp độc quyền với tờ Thời báo New York. cơ hội để đề cập những vấn đề quan ngại nổi cộm tới toàn ngành, tôi vậy. Họ cắn câu thôi.”


      “Thế nào cũng được,” Camilletti .


      “Dù thế nào chúng ta cũng đừng phản đối ầm ĩ quá. Chúng ta muốn buộc tờ Nhật báo viết bài tiếp theo, càng khuấy bùn đục thêm nữa.”


      “Tôi nghe cứ như là phóng viên tờ Nhật báo hẳn có chuyện với người ở trong nội bộ này,” tôi , quên mất là phải ngậm miệng lại. “Chúng ta có manh mối nào xem ai có thể để lộ thông tin ?”


      “Tôi có nhận được thư thoại từ tay phóng viên vài ngày trước, nhưng tôi ra nước ngoài,” Goddard . “Vì vậy tôi ‘ thể có ý kiến’.”


      “Tay này có thể gọi tôi - tôi biết nữa, tôi có thể kiểm tra hộp thư thoại của mình - nhưng tôi chắc chắn trả lời cuộc gọi của ta,” Camiletti .


      “Tôi thể tưởng tượng nổi có ai ở Trion lại cố ý có phần trong chuyện này,” Goddard .


      trong những đối thủ cạnh tranh của chúng ta,” Camilletti , “Wyatt, có thể lắm.”


      ai nhìn tôi. Tôi tự hỏi liệu hai người kia có biết tôi từ Wyatt đến .


      Camilletti tiếp tục. “Có rất nhiều đoạn ở đây trích dẫn lời những đại lý phân phối của chúng ta - British Tel, Vodafone, DoCoMo - về việc điện thoại di động mới bán chạy. Bụt chùa nhà thiêng. Vậy làm thế nào mà phóng viên với dòng ghi tên tác giả có địa chỉ ở New York lại biết mà gọi cho DoCoMo ở Nhật Bản? Hẳn Motorola, Wyatt hay Nokia chỉ điểm.”


      “Dù sao nữa,” Goddard , “đó cũng là chuyện qua rồi. Việc của tôi phải là quản lý báo chí, mà là quản lý cái công ty đáng nguyền rủa. Và mẩu tin ngu xuẩn này nữa, dù có xuyên tạc và đúng thế nào - chà, nó tệ được đến thế nào? Ngoại trừ dòng tít tử thần ra, trong này có bao nhiều điều mới mẻ chứ? Quý nào chúng ta cũng luôn đạt được đúng chỉ tiêu, bao giờ trượt cả, có lẽ còn vượt qua hai đồng gì đó. Chúng ta được phố Wall quý. Rồi, tăng trưởng doanh thu hơi lẹt đẹt, nhưng trời ạ, cả ngành này lao đao! Tôi thể phát ra chút cái cười nỗi đau khổ của người khác trong mẩu tin này. Ngài Homer vĩ đại gật đầu.”


      “Homer?” Colvin hỏi lại, bối rối.


      “Nhưng tất cả mớ nhảm nhí này về việc chúng ta có thể phải đối diện với quý thất thu đầu tiên trong mười lăm năm,” Goddard , “hoàn toàn là bịa đặt...”


      Camilletti lắc đầu. “,” khẽ. “Thậm chí còn tệ hơn nữa.”


      gì vậy?” Goddard hỏi. “Tôi vừa quay về từ hội nghị bán hàng của chúng ta ở Nhật, mọi chuyện đều tuyệt cú mèo!”


      “Đêm qua khi nhận được thư điện tử thông báo về bài viết này,” Camilletti , “tôi gửi thư tới Phó Chủ tịch Tài chính khu vực châu Âu và châu Á/Thái Bình Dương, bảo họ tôi muốn xem tất cả số liệu doanh thu cho tới tuần này, số liệu doanh thu bán hàng của quý này cho tới ngày tại, phân ra theo khách hàng.”


      “Và?” Goddard thúc.


      “Covington ở Brussels vừa trả lời tôi cách đây giờ, Brody ở Singapore vào nửa đêm, và các con số nhìn rất thảm hại. Con số bán hàng cho đại lý khá tốt, nhưng con số bán thực kinh khủng. Châu Á/Thái Bình Dương và châu Âu, Trung Đông, châu Phi, đó là sáu mươi phần trăm doanh thu của chúng ta, và chúng ta rơi khỏi vách núi. Jock, chúng ta đạt chỉ tiêu quý này, thậm chí còn cách khoảng rất lớn. Đây thực thảm họa.”


      Goddard liếc sang tôi. “ ràng là nghe số thông tin mật, được công bố, Adam, hãy ràng về chuyện đó, lời...”


      “Dĩ nhiên rồi.”


      “Chúng ta có,” Goddard lên tiếng, ngập ngừng rồi , “vì Chúa, chúng ta có AURORA...”


      “Phải vài quý nữa mới bắt đầu có doanh thu từ AURORA,” Camilletti . “Lúc này chúng ta phải xoay xở. Cho những hoạt động tại. Và tôi phải với ông là khi những con số này được công bố, cổ phiếu bị ảnh hưởng nặng nề,” Camilletti tiếp tục. . “Doanh thu của chúng ta trong quý bốn dưới chỉ tiêu vào khoảng hai mươi lăm phần trăm. Chúng ta phải chịu gánh nặng lớn vì hàng tồn kho.”


      Camilletti ngừng lời, nhìn Goddard đầy hàm ý. “Tôi ước tính lỗ trước thuế vào khoảng gần nửa tỷ đô.”


      Goddard nhăn mặt. “Chúa ơi.”


      Camilletti tiếp tục. “Tôi được biết ngân hàng CS First Boston muốn hạ chúng ta từ ‘mua nhiều hơn bình thường’ xuống ‘mua ở mức thị trường’ rồi. Thế là chuyển từ ‘mua’ về ‘giữ’. Và đó còn là trước khi có chuyện này xảy ra.”


      “Ôi Chúa ơi,” Goddard , rên lên và lắc đầu. “ lố bịch khi chúng ta biết mình có thứ gì chờ ra lò.”


      “Vì vậy chúng ta cần phải nhìn vào cái này,” Camilletti , trỏ ngón tay vào bản sao của tài liệu Bain màu xanh.


      Goddard gõ gõ ngón tay lên bản nghiên cứu của Bain. Tôi để ý thấy những ngón tay đó mập mạp, mu bàn tay đầy những đốm đồi mồi. “Và là bản báo cáo được bọc khá đẹp nữa,” ông . “ chưa bao giờ với tôi chúng ta phải tốn cho nó bao nhiêu.”


      “Ông biết tốt hơn,” Camilletti .


      “Tôi biết à?” ông nhăn mặt như thể đúng vấn đề. “Paul, tôi thề tôi bao giờ làm điều này. Tôi hứa.”


      “Trời ạ, Jock, nếu đây là về lòng tự trọng, hư danh của ông ...”


      “Đây là về việc giữ lời. Nó cũng là về tín nhiệm của tôi.”


      “Chà, ông lẽ ra bao giờ nên hứa như thế. bao giờ bao giờ. Dù sao nữa ông cũng về nền kinh tế khác - thời kỳ tiền sử. Đại Trung Sinh, vì Chúa. Tàu phản lực Trion, gia tăng với tốc độ nhanh hơn ánh sáng. Chúng ta là trong số ít các công ty công nghệ cao vẫn chưa đụng tới cắt giảm nhân .”


      “Adam,” Goddard , quay lại tôi và nhướn mắt nhìn gọng kính. “ có cơ hội cày qua mớ vô nghĩa này chưa?”


      Tôi lắc đầu. “Tôi chỉ vừa mới nhận được nó vài phút trước. Tôi đọc lướt.”


      “Tôi muốn nhìn kỹ vào những dự đoán về điện tử tiêu dùng. Trang tám mươi gì đó. có hiểu biết về nó.”


      “Ngay bây giờ?” tôi hỏi.


      “Ngay bây giờ. Và cho tôi biết có thấy chúng thực tế ?”


      “Jock,” Jim Colvin , “đơn thuần là thể lấy dự đoán trung thực từ bất cứ người lãnh đạo bộ phận nào. Họ đều bảo vệ số đầu nhân của họ, canh giữ địa phận của mình.”


      “Vì thế nên Adam ở đây,” Goddard trả lời. “Cậu ta có địa phận để canh giữ.”


      Tôi vội vã giở qua bản báo cáo của Bain, cố làm ra vẻ như tôi biết mình làm gì.


      “Paul,” Goddard , “chúng ta trải qua tất cả những điều này trước đây. bảo tôi chúng ta phải cắt giảm tám nghìn lao động nếu chúng ta muốn tinh gọn hiệu quả.”


      , Jock, nếu chúng ta muốn vẫn có khả năng thanh toán. Và là khoảng mười nghìn lao động đúng hơn.”


      “Phải rồi. Vậy cho tôi biết vài điều. đâu trong bản chuyên luận đáng nguyền rủa này cho biết công ty giảm hay điều chỉnh kích cỡ, hay muốn gọi nó như thế nào cũng được, còn khá hơn về lâu dài. Tất cả những gì được tới là ngắn hạn.” Camilletti trông như thể muốn đáp lại, nhưng Goddard cứ tiếp, “Ồ, tôi biết, ai cũng làm thế. Đó là phản ứng tự nhiên như gõ khớp gối. Kinh doanh sa sút? Loại bỏ vài người . Vứt vật nặng ra khỏi tàu. Nhưng cắt giảm nhân liệu có thể thực dẫn tới tăng trưởng bền vững về giá cổ phiếu hay thị phần ? Quỷ tha ma bắt, Paul, cả và tôi đều biết là ngay khi trời quang trở lại, chúng ta rồi tái tuyển dụng phần lớn bọn họ. Thực có đáng cả vụ hỗn độn chết tiệt này ?”


      “Jock,” Jim Colvin , “điều này được gọi là Luật Tám mươi - Hai mươi, hai mươi phần trăm người làm tám mươi phần trăm công việc. Chúng ta chỉ loại bỏ phần mỡ thừa thôi.”


      “Phần ‘mỡ thừa’ đó là những nhân viên Trion tận tụy,” Goddard phản bác. “Những người mà chúng ta trao những huy hiệu văn hóa nho về lòng trung thành và cống hiến. Chà, có có lại, phải sao? Chúng ta mong chờ trung thành ở họ, nhưng họ nhận được lại từ chúng ta sao? Theo tôi thấy, nếu các cứ tiếp tục xuống con đường này, các chỉ mất số đầu nhân đâu. Các để mất cốt lõi của lòng tin. Nếu các nhân viên của chúng ta làm trọn vẹn nửa hợp đồng của họ, sao chúng ta lại phải làm như vậy? Như thế là vi phạm niềm tin quá lắm.”


      “Jock,” Colvin , “ là ông làm cho nhiều nhân viên Trion trở nên giàu có trong mười năm qua.”


      Trong khi đó tôi phi nhanh qua những biểu đồ về doanh thu dự kiến, cố so sánh chúng với những con số tôi thấy trong vài tuần qua.


      “Đây phải là lúc để suy nghĩ cao thượng, Jock,” Camilletti . “Chúng ta xa xỉ đó.”


      “Ồ, tôi suy nghĩ cao thượng,” Goddard , lại gõ tiếp ngón tay lên mặt bàn. “Tôi thực tế đến thô bạo. Tôi khó khăn gì mà loại bỏ nổi những kẻ lười biếng, những kẻ xuống dốc hay nhẩn nhơ chờ nghỉ hưu sớm. Cứ thẳng tay với bọn họ . Nhưng cắt giảm nhân ở quy mô này chỉ dẫn tới tình trạng vắng mặt lý do chính đáng, nghỉ ốm, rồi người ta đứng quanh máy làm lạnh nước hỏi nhau về tin đồn mới nhất. Chứng tê liệt. Để tôi theo cách có thể hiểu được, Paul, đó gọi là giảm năng suất.”


      “Jock...” Colvin lên tiếng.


      “Tôi cho luật tám mươi - hai mươi,” Goddard . “Nếu chúng ta làm điều này, tám mươi phần trăm trong số những nhân viên còn ở lại thể tập trung quá hai mươi phần trăm tâm lực vào công việc. Adam, thấy các dự đoán như thế nào?”


      “Ông Goddard.”


      “Tôi sa thải người cuối cùng gọi tôi như thế.”


      Tôi cười. “Jock. Xem nào, tôi quanh co. Tôi biết phần lớn các số liệu, và tôi thiếu suy xét. phải về điều quan trọng như thế này. Nhưng tôi biết về số liệu của Maestro, và tôi có thể thẳng với ông là nó lạc quan quá mức. Cho tới khi chúng ta chuyển hàng tới Lầu Năm Góc - cứ cho là chúng ta nhận được vụ đó - những con số này vẫn còn quá cao.”


      “Cũng có nghĩa là tình huống thậm chí còn tồi tệ hơn những gì mà các nhà tư vấn trăm-nghìn-đô của chúng ta .”


      “Phải, thưa giám đốc. Ít nhất nếu như những con số Maestro lên điều gì.”


      Ông gật đầu.


      Camilletti , “Jock, để tôi với ông theo khái niệm của con người. Bố tôi chỉ là giáo viên khốn khổ, được chứ? Cho sáu đứa con học đại học bằng tiền lương của giáo viên, đừng hỏi tôi làm thế nào, nhưng ông ấy làm được. Giờ ông ấy và mẹ tôi sống bằng khoản tiết kiệm cả đời ít ỏi, phần lớn trong số đó đổ vào cổ phiếu của Trion, bởi tôi với ông ấy đây là công ty rất tuyệt vời. Theo chuẩn mực của chúng ta số tiền đó nhiều, nhưng ông ấy mất hai mươi sáu phần trăm tiền dự trữ, và ông ấy sắp mất còn nhiều hơn thế nhiều. Quên quỹ tài chính Fidelity và TIAACREF . Phần đông những cổ đông của chúng ta là những người như bố tôi, Tony Camilletti, và chúng ta phải gì với họ?”


      Bản năng mách bảo tôi rằng Camilletti dựng lên chuyện này, rằng thực tế ông bố chủ ngân hàng đầu tư của sống trong khu nhà có cổng gác ở Boca và rất hay chơi gôn, nhưng mắt Goddard dường như ngân ngấn.


      “Adam,” Goddard , “ hiểu quan điểm của tôi chứ, phải ?”


      Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy như con nai cứng người lại dưới ánh đèn pha. Điều Goddard muốn nghe được từ tôi ràng. Nhưng sau vài giây, tôi lắc đầu. “Theo tôi,” tôi chậm rãi , “tình hình có vẻ là nếu ông làm thế bây giờ, năm sau có thể ông phải cắt giảm thậm chí còn nhiều lao động hơn nữa. Vậy tôi phải là tôi đồng ý với ông... - à, với Paul.”


      Camilletti đưa tay ra vỗ vào vai tôi. Tôi hơi co người lại. Tôi muốn tỏ ra như tôi lựa chọn bên chống lại sếp của mình. phải cách hay để bắt đầu công việc mới.


      đề xuất những điều khoản như thế nào?” Goddard thở dài .


      Camilletti cười. “Bốn tuần trợ cấp mất việc.”


      “Dù họ có làm với chúng ta bao lâu chăng nữa? . Hai tuần trợ cấp mất việc cho mỗi năm làm với chúng ta, cộng với hai tuần phụ thêm cho mỗi năm sau mười năm.”


      “Như thế điên rồ, Jock! Trong vài trường hợp, chúng ta có thể trả năm trợ cấp mất việc, có thể là hơn.”


      “Đấy phải là bồi thường nữa,” Jim Colvin lẩm bẩm. “Đấy là phúc lợi.”


      Goddard nhún vai. “Hoặc chúng ta cắt giảm với những điều khoản đó, hoặc cắt giảm gì hết.” ông ta nhìn tôi buồn rầu. “Adam, nếu có bao giờ ra ngoài ăn tối với Paul, đừng để ta chọn rượu.” Rồi ông quay lại Giám đốc Tài chính của mình. “ muốn đợt cắt giảm này có hiệu lực vào mùng tháng Sáu đúng ?”


      Camilletti gật đầu thận trọng.


      “Đâu đó trong thâm tâm,” Goddard , “tôi lờ mờ nhớ là chúng ta hợp đồng thôi việc có thời hạn năm với bộ phận CableSign chúng ta mua được từ năm ngoái, nó hết hạn vào ba mươi mốt tháng Năm. ngày trước đó.”


      Camilletti nhún vai.


      “Chà, Paul, như vậy là gần nghìn nhân viên tháng lương cộng thêm tháng tiền trợ cấp cho mỗi năm làm việc - nếu chúng ta cho họ thôi việc ngày trước đó. gói trợ cấp mất việc tươm tất. ngày này làm nên cả khác biệt với những người đó. Giờ họ chỉ nhận được vẻn vẹn hai tuần.”


      “Mùng tháng Sáu là bắt đầu quý mới…”


      “Tôi làm như vậy. Xin lỗi. Đặt vào ngày ba mươi tháng Năm . Và với những người bị thiệt vì cổ phiếu họ có quyền chọn mua mất giá, chúng ta cho họ mười hai tháng để giải quyết. Và tôi tự nguyện giảm lương - xuống còn đô thôi. sao, Paul?”


      Camilletti cười căng thẳng, “Ông có nhiều quyền chọn cổ phiếu hơn tôi.”


      “Chúng ta làm điều này lần,” Goddard . “Làm lần, và làm cho đúng. Tôi cắt giảm hai lần đâu.”


      “Hiểu rồi,” Camilletti .


      “Được rồi,” Goddard thở dài. “Như tôi lúc nào cũng bảo các , đôi khi các phải vào xe, thực chương trình. Nhưng đầu tiên tôi muốn công bố điều này cho toàn bộ đội ngũ quản lý, tập trung họ vào hội nghị càng đông càng tốt. Tôi cũng muốn gọi điện thoại cho các ngân hàng đầu tư của chúng ta. Nếu chuyện này được chấp thuận, như tôi sợ rằng như vậy, tôi thu thông báo đăng web cho toàn công ty,” Goddard , “và chúng ta công bố nó vào ngày mai, sau khi đóng phiên giao dịch. Và thông báo với công chúng cùng lúc đó. Tôi muốn lời nào của chuyện này bị tiết lộ ra ngoài trước khi đó - nó gây mất tinh thần.”


      “Nếu ông thích, tôi thông báo,” Camilletti . “Như thế tay ông vẫn sạch .”


      Goddard trừng mắt nhìn Camilletti.


      “Tôi đổ chuyện này cho . Tôi làm thế. Đây là quyết định của tôi - tôi nhận công, nhận vinh quang, có mặt bìa tạp chí, và tôi cũng nhận cả lời trách móc. Cũng phải thôi.”


      “Tôi chỉ vậy vì ông tuyên bố quá nhiều điều trước đây. Ông hứng chịu mũi rìu...”


      Goddard nhún vai, nhưng trông khổ sở. “Giờ tôi đoán tất cả mọi người đều gọi tôi là Goddard Lưỡi Cưa hay gì đó.”


      “Tôi nghĩ ‘Jock Neutron’ nghe khá hơn.” Tôi , và lần đầu tiên Goddard thực mỉm cười.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      45






      Tôi rời văn phòng của Goddard vừa thấy nhõm, vừa thấy nặng nề.


      Tôi qua được cuộc họp đầu tiên với ông ta, tự biến mình thành trò hề. Nhưng tôi cũng biết được bí mật lớn của công ty, tin nội bộ xác thực làm thay đổi cuộc sống của nhiều người.


      Vấn đề là thế này: tôi quyết định rằng mình chuyển thông tin này cho Wyatt và công ty của lão. Nó nằm trong nhiệm vụ của tôi, ở trong mô tả công việc. Nó chẳng có liên quan gì tới dự án bí mật cả. Cứ để bọn họ biết về vụ cắt giảm nhân của Trion khi tất cả những người khác biết.


      Khi tôi vừa lơ đãng bước ra khỏi thang máy tầng ba của Cánh A để ăn trưa muộn trong phòng ăn tôi thấy khuôn mặt quen thuộc tới gần. gã thanh niên cao, gầy, gần ba mươi, tóc cắt xấu xí, gọi với lên, “Này, Adam!” khi bước vào thang máy.


      Thậm chí trong tích tắc trước khi tôi có thể nhớ ra cái tên của khuôn mặt đó, bụng tôi thắt lại. Não sau bản năng nhận thấy nguy hiểm khi não trước còn chưa kịp nhận ra.


      Tôi gật đầu, tiếp tục . Mặt đỏ bừng.


      Tên là Kevin Griffin, chàng nhã nhặn, nếu là trông ngốc nghếch, và là tay bóng rổ khá được. Tôi thường chơi bóng rổ với ở hãng Viễn thông Wyatt. là nhân viên bán hàng ở Bộ phận Kinh doanh, về thiết bị định tuyến. Tôi còn nhớ rất sắc sảo, rất tham vọng đằng sau cách hành xử thoải mái đó. luôn làm vượt doanh số của mình, và thường đùa với tôi, theo kiểu tử tế, về thái độ thiếu trách nhiệm của tôi trong công việc.


      cách khác, biết tôi thực là ai.


      “Adam!” kiên trì. “Adam Cassidy! Này, ông làm gì ở đây thế?”


      Tôi thể cứ tảng lờ mãi, nên tôi quay lại. để tay ở cánh cửa thang máy để giữ nó đóng lại.


      “Ồ, chào Kevin,” tôi . “Ông giờ làm ở đây à?”


      “Phải, về kinh doanh.” trông rất vui sướng, như thể đây là cuộc họp lớp trung học hay gì đó. hạ giọng. “ phải bọn họ đá ông khỏi Wyatt vì bữa tiệc đó à?” phát ra thanh như là cười thầm, phải tính xấu gì đâu, chỉ theo kiểu bí bí mật mật thôi.


      “Đâu có,” tôi , ấp úng giây, cố tỏ ra vô tư lự và vui vẻ. “Chỉ là hiểu lầm lớn thôi.”


      “Ờ,” với vẻ hoài nghi, “Ông làm chỗ nào ở đây?”


      “Vẫn như thế, vẫn như thế,” tôi . “Này, rất vui gặp ông. Xin lỗi, tôi phải chạy đây.”


      nhìn theo tôi tò mò khi cửa thang máy đóng lại.


      hay chút nào.



      PHẦN 5


      LỘ SÁNG




      Lộ sáng: bại lộ của cá nhân, hệ thống (như trạm an toàn) hay các yếu tố khác của hoạt động hay tổ chức bí mật. mật vụ bị lộ sáng là người mà địch nắm được danh tính.


      - Sách gián điệp: Bách khoa tình báo



      46






      Toi mất rồi.


      Kevin Griffin biết tôi vào dự án Lucid hồi còn ở Wyatt, biết rằng tôi cũng chẳng phải là siêu sao gì. biết câu chuyện thực . có lẽ trở lại khoang làm việc của mình và tra cứu về tôi mạng nội bộ của Trion, ngạc nhiên khi thấy tôi được ghi lên danh sách là Trợ lý Điều hành của Chủ tịch và Tổng Giám đốc Điều hành. được bao lâu trước khi bắt đầu lên tiếng, kể chuyện, hỏi xung quanh? Năm phút? Năm giây?


      Làm sao cái chuyện quái quỷ này lại xảy ra cơ chứ, sau tất cả kế hoạch cẩn thận, nền tảng vững chắc do những người ở Wyatt sắp đặt? Làm sao bọn họ lại có thể để Trion tuyển kẻ có thể phá hỏng tất cả mưu?


      Tôi nhìn quanh, mụ người , tiến về phía quầy của nhà ăn. Đột nhiên tôi còn bụng dạ nữa. Dù vậy tôi vẫn lấy chiếc sandwich giăm bông và pho mát, vì tôi cần chất đạm, và lon Diet Pepsi rồi quay lại văn phòng mới.


      Jock Goddard đứng ở hành lang gần văn phòng của tôi và chuyện với ai đó cũng thuộc cấp điều hành, ông bắt gặp ánh mắt tôi, giơ ngón trỏ lên cho tôi biết ông có việc muốn , và rồi tôi lúng túng đứng đó từ xa chờ ông kết thúc cuộc chuyện.


      Sau vài phút, Jock đặt tay lên vai người kia, trông nghiêm nghị, rồi trước vào văn phòng tôi.


      ,” ông khi ngồi xuống ghế dành cho khách. Nơi duy nhất còn lại để ngồi là đằng sau bàn tôi, khiến tôi cảm thấy đúng - ông là Tổng Giám đốc Điều hành kia mà! - nhưng tôi có lựa chọn. Tôi ngồi xuống, ngập ngừng cười với ông, biết phải trông chờ điều gì.


      “Tôi phải rằng vượt qua cách thành công mỹ mãn,” Goddard . “Chúc mừng.”


      sao? Tôi nghĩ mình làm hỏng chuyện,” tôi . “Tôi thực cảm thấy thoải mái khi đứng về phía người khác.”


      “Vì thế mà tôi tuyển . Ồ, phải để chọn bên chống lại tôi. Nhưng để lên trước quyền lực, như đúng bản chất của nó.”


      “Đó phải là . Đó chỉ là quan điểm của cá nhân.” Có thể thế là hơi quá xa.


      Goddard đưa bàn tay múp míp lên dụi mắt. “Điều dễ dàng nhất thế giới này - và cũng là nguy hiểm nhất - với Tổng Giám đốc Điều hành - là mất liên hệ với thực tế. ai thực tình muốn cho tôi tô vẽ. Ai cũng muốn quay tôi. Ai cũng có chương trình của riêng mình. thích lịch sử chứ?”


      Tôi chưa bao giờ nghĩ lịch sử là thứ mà bạn có thể “thích”. Tôi nhún vai. “Đôi chút.”


      “Trong Thế chiến thứ hai, Winston Churchill lập nên văn phòng nằm ngoài quản lý của hệ thống điều hành, có nhiệm vụ cho ông ta trung thực và thẳng thừng. Tôi nghĩ ông gọi nó là Văn phòng Thống kê gì đó. Dù sao vấn đề là ai thích đưa tin xấu cho ông, nhưng ông ta biết mình phải nghe chúng nếu thể làm việc được.”


      Tôi gật đầu.


      bắt đầu công ty, được vận may mỉm cười vài lần, và có thể gần như trở thành hình tượng được sùng bái giữa những kẻ kém cỏi hơn ,” Goddard tiếp tục. “Nhưng tôi cần được, ờ, hôn nhẫn. Tôi cần bộc trực. Giờ càng cần hơn bao giờ hết. Có chân lý trong cái ngành này là các công ty công nghệ tất yếu phát triển nhanh hơn người sáng lập của mình. Đó là chuyện với Rod Canion tại Compaq, AI Shugart tại Seagate. Công ty máy tính Apple thậm chí tống cổ Steve Jobs, nhớ chứ, cho tới khi ông ta cưỡi ngựa trắng quay lại và cứu lấy nơi đó. Vấn đề là có nhà sáng lập thâm niên và táo bạo nào. tin tưởng của Ban Điều hành với tôi như giếng sâu, nhưng tôi ngờ rằng những cái giếng đó bắt đầu cạn.”


      “Tại sao ông lại vậy, thưa Tổng Giám đốc?”


      “Thôi cái mớ ‘thưa Tổng Giám đốc’ đó ,” Goddard gắt. “Bài tờ Nhật báo là phát cảnh cáo. Tôi ngạc nhiên nếu nó đến từ những thành viên quản trị bất mãn, vài người nghĩ rằng đến lúc tôi nên bước xuống, về quê mà nghỉ hưu, và cứ cặm cụi sửa chữa ô tô cả ngày.”


      “Ông muốn vậy phải ?”


      Ông cau có. “Tôi làm bất cứ điều gì tốt nhất cho Trion. Cái công ty chết tiệt này là cả cuộc đời tôi. Dù sao ô tô cũng chỉ là sở thích - bỏ toàn thời gian cho sở thích của mình, thế là nó chẳng còn vui nữa.” Ông trao cho tôi cặp hồ sơ bìa cứng. “ nhận được qua thư điện tử bản sao dạng PDF của tài liệu này. Kế hoạch chiến lược của chúng ta cho mười tám tháng tới - sản phẩm mới, nâng cấp, toàn bộ tất cả. Tôi muốn cho tôi biết quan điểm trung thực, tô vẽ - bài thuyết trình, gọi nó như thế nào cũng được, cái nhìn tổng quan, chuyến trực thăng.”


      “Khi nào ông muốn có?”


      “Càng sớm càng tốt. Và nếu có dự án đặc biệt nào nghĩ mình muốn tham gia, với tư cách là phái viên của tôi, cứ tự nhiên. thấy có đủ loại thứ hay ho đợi ra lò. số được nắm giữ khá chặt. Trời ạ, có thứ được xây dựng, tên mã là Dự án AURORA, có thể hoàn toàn làm đảo lộn vận may của chúng ta.”


      “AURORA?” tôi hỏi, nuốt mạnh nước bọt. “Tôi nghĩ ông nhắc tới nó trong cuộc họp phải ?”


      “Tôi cho Paul quản lý nó. thứ thực khiến phải sững sờ. Vẫn còn số nút thắt trong vật mẫu cần phải được giải quyết, nhưng sắp có thể công bố nó rồi.”


      “Nghe hấp dẫn,” tôi , cố tỏ ra bình thản. “Tôi giúp gì được trong đó tốt quá.”


      “Ồ, làm thế, nghi ngờ gì cả. Nhưng rồi đến lúc. Giờ tôi chưa muốn làm sao nhãng khỏi mấy vấn đề như dọn dẹp nhà cửa, bởi khi sa vào AURORA... chà, tôi muốn cử quá nhiều hướng cùng lúc, ôm đồm quá nhiều việc.” Ông đứng lên, bắt hai tay vào nhau. “Giờ tôi phải tới phòng ghi để thu thông báo Web, phải là đấy phải công việc tôi chờ mong lắm.”


      Tôi cười thông cảm.


      “Dù sao,” Goddard , “cũng xin lỗi là lôi vào như thế, nhưng tôi cảm thấy ổn thôi.”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      47





      Tôi đến nhà Wyatt cùng lúc với Meacham, bông đùa đôi chút về chiếc Porsche của tôi. Chúng tôi được dẫn vào phòng tập tinh vi của Wyatt, nó nằm ở mức tầng hầm, nhưng do thế đất nên ở dưới nền. Wyatt nâng tạ ghế ngửa - bảy mươi lăm cân. Lão chỉ mặc quần thể dục ngắn cũn cỡn, mình trần, và trông càng đô con hơn bao giờ hết. Người này là chiếc xe Quadzilla.

      Đến khi kết thúc bài tập lão mới lên tiếng, rồi đứng dậy và lau mình.

      “Vậy mày bị đuổi chưa?” lão hỏi.

      “Chưa.”

      “Phải, Goddard có chuyện đau đầu. Như cái là công ty của tan rã.” Lão nhìn Meacham và cả hai cười như nắc nẻ. “Thế Thánh Augustine gì về điều đó?”

      Câu hỏi bất ngờ, nhưng nó đột ngột tới mức tôi chuẩn bị kịp. “ nhiều lắm,” tôi .

      láo,” Wyatt , tiến tới gần tôi hơn và trừng mắt, muốn đe dọa tôi bằng vóc dáng của mình. khí nóng ẩm ướt tỏa ra từ người lão, bốc mùi khó chịu như amoniac: mùi của những vận động viên cử tạ dùng quá nhiều protein.

      nhiều lắm khi có mặt tôi,” tôi sửa lại. “Ý tôi là tôi nghĩ bài báo đó thực làm họ kinh hãi - có nhiều hoạt động xôn xao cả lên. Náo động hơn thường lệ.”

      “Mày biết gì về ‘thường lệ’?” Meacham . “Đây là ngày đầu tiên của mày tầng bảy.”

      “Chỉ là theo quan sát của tôi thôi,” tôi yếu ớt.

      “Bài báo đúng đến bao nhiêu?” Wyatt hỏi.

      vậy là sếp dựng chuyện đó?”

      Wyatt nhìn tôi. “Quý này chúng đạt hay là đạt?”

      “Tôi chịu,” tôi dối. “Đâu phải tôi ở trong văn phòng của Goddard cả ngày.” Tôi biết tại sao mình lại nhất quyết muốn để lộ những con số tồi tệ trong quý, hay tin về vụ cắt giảm nhân sắp tới. Có lẽ tôi cảm thấy mình được Goddard tin tưởng trao cho bí mật, và sai trái khi phá vỡ tin cậy đó. Chúa ơi, tôi chỉ là gián điệp hai mang chết tiệt, tên do thám - từ lúc nào mà tôi lại thành ra cao thượng và hào hiệp như thế chứ? Tại sao tôi lại đột nhiên vạch ra các ranh giới: tôi cho ông biết chừng này, chừng này ? Khi tin về vụ cắt giảm được tung ra vào ngày mai, Wyatt phát điên phát rồ lên với tôi vì giữ lại thông tin. Lão tin tôi chưa nghe thấy tin đó. Vì vậy tôi quấy quá chút. “Nhưng có gì đó diễn ra,” tôi . “ chuyện lớn. Sắp có thông báo gì đó.”

      Tôi trao cho Wyatt cặp hồ sơ đựng bản sao của kế hoạch chiến lược mà Goddard đưa tôi xem xét.

      “Cái gì đây?” Wyatt . Lão đặt nó xuống ghế đẩy tạ, tròng áo ba lỗ qua đầu và rồi bắt đầu đọc lướt qua tài liệu.

      “Kế hoạch chiến lược của Trion cho mười tám tháng tới. Bao gồm mô tả chi tiết của tất cả các sản phẩm mới chuẩn bị ra lò.”

      “Kể cả AURORA?”

      Tôi lắc đầu. “Dù vậy Goddard nhắc tới nó.”

      “Như thế nào?”

      “Ông ta chỉ là có dự án lớn mã AURORA xoay chuyển cả công ty. Bảo rằng ông ta giao nó cho Camilletti điều hành.”

      “Hả. Camilletti chịu trách nhiệm về tất cả các vụ mua lại, và nguồn tin của tao cho biết AURORA được tạo nên từ tập hợp của các công ty Trion bí mật mua lại trong vài năm vừa qua. Goddard có nó là gì ?”

      .”

      “Mày hỏi à?”

      “Dĩ nhiên là có. Tôi bảo ông ta rằng mình rất hứng thú với việc tham gia vào thứ quan trọng như thế.”

      Wyatt im lặng giở qua tập kế hoạch chiến lược. Mắt lão đảo lia lịa qua những tờ giấy đầy hứng thú.

      Trong lúc đó, tôi trao cho Meacham mẩu giấy. “Số điện thoại di động cá nhân của Jock.”

      “Jock?” Meacham kêu lên ghê tởm.

      “Ai cũng gọi ông ấy thế. có nghĩa tôi và ông ấy là bạn chí cốt gì cả. Dù sao nó hẳn giúp sếp lần ra nhiều cuộc gọi quan trọng của ông ta.”

      Meacham nhận nó mà thèm cảm ơn.

      “Còn điều nữa,” tôi với Meacham khi Wyatt tiếp tục đọc như bị thôi miên. “Có vấn đề rắc rối.”

      Meacham trừng mắt với tôi. “Đừng đùa với bọn tao.”

      “Có người mới tuyển vào bộ phận Bán hàng của Trion, thằng nhóc tên là Kevin Griffin. Họ tuyển từ các sếp - từ Wyatt.”

      “Thế sao?”

      “Bọn tôi đại loại là bạn bè.”

      “Bạn bè?”

      “Kiểu kiểu thế. Cùng chơi bóng rổ.”

      “Nó biết mày ở công ty này?”

      “Đúng vậy.”

      “Chó ,” Meacham . “Đúng là rắc rối.”

      Wyatt ngước lên từ tập tài liệu. “Xử nó ,” lão .

      Meacham gật đầu.

      “Thế nghĩa là sao?” tôi hỏi.

      “Thế nghĩa là bọn tao giải quyết nó,” Meacham đáp.

      “Đây là thông tin đáng giá,” Wyatt cuối cùng lên tiếng. “Rất rất hữu dụng. muốn mày làm gì với nó?”

      “Ông ấy muốn tôi có ý kiến tổng quan về danh mục sản phẩm. Cái gì hứa hẹn, cái gì , cái gì có thể gặp phải rắc rối. Cái gì cũng được.”

      “Như thế cụ thể lắm.”

      “Ông ấy bảo muốn chuyến bay trực thăng nhìn tổng thể địa hình.”

      “Do Adam Cassidy, thiên tài tiếp thị, điều khiển,” Wyatt , thấy buồn cười. “Chà, lấy giấy bút ra đây và bắt đầu ghi chép . Tao biến mày thành ngôi sao.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      48





      Tôi thức gần cả đêm: may, tôi bắt đầu quen với chuyện này.

      Lão Nick Wyatt ghê tởm bỏ ra hơn tiếng đồng hồ cho tôi cái nhìn tổng quan của lão về dòng sản phẩm của Trion, bao gồm đủ loại thông tin nội bộ, những điều mà rất ít người biết được. Nó giống như nhận cái nhìn tổng quan của Đại Nguyên soái Rommel về Montgomery, Tổng Chỉ huy bên đối phương. ràng lão biết về thị trường, vì lão là trong những đối thủ chính của Trion, và lão có đủ loại thông tin đáng giá mà lão sẵn sàng nhả ra chỉ vì mục đích duy nhất là làm Goddard ấn tượng với tôi. Cái mất ngắn hạn mang tính chiến lược của lão là cái được dài hạn cũng mang tính chiến lược.

      Tôi phóng về Harbor Suites vào lúc nửa đêm và phải làm PowerPoint, xếp đặt các slide cho bài thuyết trình với Goddard. thực tôi khá gồng lên làm nó. Tôi biết mình thể trượt dốc; tôi phải giữ cho mình ở phong độ đỉnh cao. Miễn là có thông tin nội bộ từ Wyatt, tôi làm Goddard ấn tượng, nhưng điều gì xảy ra nếu tôi thể? Nếu như ông ta hỏi ý kiến tôi về điều gì đó, rồi tôi để lộ con người ngu dốt của mình? Rồi sao?

      Khi tôi tiếp tục làm nổi bài thuyết trình nữa, tôi nghỉ giải lao và kiểm tra thư điện tử cá nhân Yahoo, Hotmail và Hushmail. vẫn những thư rác như bình thường - “Viagra Trực tuyến MUA Ở ĐÂY VIAGRA CẦN ĐƠN THUỐC” và “SITE XXX HAY NHẤT!” và “Đồng ý thế chấp!” có thêm thư nào từ “Arthur”. Rồi tôi đăng nhập vào website của Trion.

      lá thư nhảy ra trước mặt tôi: Nó gửi từ [email protected]. Tôi ấn vào.



      TIÊU ĐỀ: Chào ông

      TỪ: KGriffin

      Đến: ACassidy!



      mừng gặp được ông! hay khi thấy ông ăn mặc bóng lộn và tiến tới như thế - hay ! Rất ấn tượng với công việc của ông ở đây đấy. Có điều gì bí mật ? Tiết lộ cho TÔI chút ít !



      Tôi làm quen với mọi người ở trong Trion này & rất vui nếu mời được ông ăn trưa gì đó. Trả lời nhé!



      Kev



      Tôi trả lời - tôi phải nghĩ xem cần đối phó như thế nào . Tay này ràng tra cứu về tôi, thấy chức danh mới và hiểu nổi. Dù là muốn gặp nhau vì tò mò, hay vì muốn chõ mũi vào đây cũng là rắc rối lớn.

      Meacham và Wyatt rằng chúng “xử” , dù nó có nghĩa là thế nào nữa, nhưng cho tới khi chúng làm bất cứ điều gì chúng định làm, tôi phải cẩn thận hơn nữa. Kevin Griffin là khẩu súng lắp đạn vứt lung tung, chỉ chờ bóp cò. Tôi muốn lại gần nó.

      Rồi tôi thoát ra và đăng nhập lại bằng tên tài khoản và mật mã của Nora. hai giờ sáng và tôi đoán mụ hẳn còn trực tuyến. Đây là thời điểm tốt để thử vào thư lưu trữ của mụ, lục lọi kỹ lưỡng, tải về bất cứ thứ gì liên quan tới AURORA, nếu có thứ gì như vậy.

      Tất cả những gì tôi nhận được là MẬT KHẨU HỢP LỆ, MỜI NHẬP LẠI.

      Tôi đánh lại mật khẩu của mụ, lần này cẩn thận hơn, và lại nhận được dòng MẬT KHẨU HỢP LỆ lần nữa. Lần này tôi chắc chắn mình đánh nhầm.

      Mật khẩu của mụ bị thay đổi.

      Tại sao?

      Đêm đó, khi cuối cùng tôi cũng đổ sầm xuống giường, đầu tôi ong ong lên, lướt qua đủ loại khả năng vì sao Nora lại thay đổi mật khẩu của mình. Có lẽ tay bảo vệ, Luther, đêm nào đó ghé qua khi Nora vô tình ở lại muộn hơn thường lệ, và nghĩ thấy tôi, chuyện về mấy cái xe Mustang gì đó, nhưng thay vì thế, lại thấy Nora. có thể tự hỏi mụ làm gì ở văn phòng đó, thậm chí có thể - hẳn là thể xảy ra - gặng hỏi mụ. Và rồi mô tả cho mụ, và mụ đoán cả ra; mụ chẳng mất lâu đâu.

      Nhưng nếu thực có chuyện đó , mụ chỉ thay đổi mật khẩu, phải ? Mụ làm nhiều hơn thế. Mụ muốn biết tại sao tôi lại ở trong văn phòng mụ, khi mụ chưa cho phép tôi làm điều đó. Rồi chuyện dẫn tới đâu, tôi muốn nghĩ tiếp nữa...

      Hay có thể hoàn toàn vô hại. Có lẽ mụ chỉ thay đổi mật khẩu định kỳ, cái kiểu như mỗi thành viên Trion cần phải làm sáu mươi ngày lần.

      Có lẽ mọi chuyện chỉ là như thế.

      Tôi ngủ ngon chút nào, và sau vài giờ trở mình qua lại, tôi quyết định dậy luôn, tắm rửa mặc quần áo, rồi làm. Việc cần cho Goddard xong; giờ là việc của Wyatt, vụ gián điệp, còn bề bộn lắm. Nếu tôi đến đủ sớm, có lẽ tôi có thể thử tìm ra cái gì đó về AURORA.

      Tôi liếc vào gương khi bước ra. Tôi trông... thảm hại.

      “Ông dậy rồi sao?” Carlos, người giữ cửa, khi chiếc Porsche của tôi được đưa lên lề trước. “Trời, ông thể tiếp tục thời gian biểu như thế được, ông Cassidy. Ông ốm mất thôi.”

      “Ôi dào,” tôi . “Như thế giữ cho tôi lương thiện.”


      49





      Vào khoảng hơn năm giờ sáng chút, nhà để xe của Trion gần như trống , ở đó khi nó vắng vẻ như vậy cảm giác kỳ lạ. Những bóng đèn huỳnh quang kêu vo vo và rửa sạch mọi thứ trong làn sáng như sương khói xanh cây, nơi này bốc mùi ga và dầu động cơ và bất cứ thứ gì khác chảy ra từ xe: dầu phanh, nước làm mát máy, và có thể là cả nước giải khát Mountain Dew bị đổ. Bước chân tôi vang lên.

      Tôi thang máy đằng sau lên tầng bảy, nó cũng vắng vẻ, rồi xuôi hành lang tối tăm của khu quản trị tới văn phòng mình, ngang qua văn phòng của Colvin, văn phòng của Camilletti, văn phòng của những người khác tôi vẫn chưa gặp, cho tới khi tới chỗ mình. Tất cả các văn phòng đều tối và đóng kín; chưa ai tới cả.

      Văn phòng của tôi đúng là đầy tiềm năng - có gì nhiều hơn bộ bàn ghế trần và máy tính để bàn, bàn để chuột có biểu trưng Trion, tủ hồ sơ rỗng, bàn credenza với vài cuốn sách. Nó giống như phòng làm việc của nhân viên lưu động, kẻ nay đây mai đó có thể đứng dậy và bỏ lúc nửa đêm. Nó rất cần chút gì mang tính cá nhân - những bức ảnh đóng khung, ít đồ sưu tập thể thao, cái gì đó bông đùa và hài hước, cái gì đó nghiêm túc và truyền cảm. Tôi cần phải tạo dấu ấn. Có lẽ khi ngủ bù đủ rồi, tôi làm cái gì đó.

      Tôi gõ mật khẩu của mình, đăng nhập, kiểm tra lại thư điện tử lần nữa. Vào lúc nào đó, trong khoảng vài giờ sau nửa đêm, bức thư phạm vi toàn công ty được gửi tới tất cả các nhân viên Trion toàn cầu bảo họ xem website của công ty trong hôm nay, vào năm giờ theo Giờ Chuẩn Miền Đông, để theo dõi “ thông báo quan trọng của Tổng Giám đốc Điều hành Augustine Goddard”. Chừng đó hẳn làm náo động những kẻ ngồi lê đôi mách. Thư điện tử bay tung tóe. Tôi tự hỏi bao nhiêu người chóp - nhóm giờ có cả tôi, kỳ dị - biết được . nhiều lắm, tôi cá là vậy.

      Goddard nhắc tới rằng AURORA, dự án khiến đầu óc phải sững sờ mà ông ta muốn kỹ, thuộc phạm vi của Paul Camilletti. Tôi tự hỏi liệu trong lý lịch chính thức của Camilletti có gì có thể làm sáng tỏ chút ít về AURORA hay , vì vậy tôi gõ tên vào danh bạ công ty.

      Ở đó có ảnh , lạnh lùng và gớm guốc, nhưng vẫn đẹp trai hơn nhìn tận mắt. tiểu sử ngắn: sinh tại Geneseo, New York, học ở trường công vùng phía Bắc New York - dịch nhé, có lẽ là lớn lên trong nhà có tiền - Cao đẳng Swarthmore, trường Kinh doanh Harvard, sáng chói như sao băng ở công ty điện tử tiêu dùng nào đó từng là đối thủ lớn của Trion, nhưng rồi sau này bị Trion mua lại. là Phó Giám đốc cấp cao ở Trion chưa đến năm trước khi được giao chức vụ Giám đốc Tài chính. người đà thăng tiến. Tôi nhấp chuột vào đường liên kết xem chuỗi báo cáo của , và sơ đồ hình cây bật lên, hiển thị tất cả các phòng ban và đơn vị dưới quyền .

      trong những đơn vị đó là Đơn vị Nghiên cứu Công nghệ Thay thế, báo cáo trực tiếp lên . Alana Jennings là giám đốc tiếp thị.

      Paul Camilletti trực tiếp giám sát dự án AURORA. Đột nhiên rất, rất quan trọng.



      Tôi ra văn phòng của , tim đập thình thịch, và dĩ nhiên là thấy bóng dáng . phải vào năm giờ mười lăm phút sáng. Tôi cũng để ý thấy đội lao công làm xong: có túi lót mới trong thùng rác chỗ nhân viên hành chính của , bạn có thể thấy những đường hút bụi còn nguyên thảm, và cả nơi này vẫn còn vương mùi dung dịch tẩy rửa.

      có ai hành lang, có lẽ có ai khắp cả tầng.

      Tôi sắp vượt qua ranh giới, làm việc mạo hiểm ở mức độ hoàn toàn mới.

      Tôi lo lắm về chuyện bảo vệ có thể tới. Tôi tôi là trợ lý mới của Camilletti - họ biết cái gì chứ?

      Nhưng nếu nhân viên hành chính của Camilletti tới sớm sao, để chuẩn bị trước cho ngày hôm nay? Hay, dễ xảy ra hơn, nếu như chính Camilletti muốn bắt đầu sớm? Với thông báo lớn kia, hẳn phải bắt đầu sắp đặt các cuộc gọi, viết thư điện tử, fax sang văn phòng của Trion ở Châu Âu, nơi thời gian nhanh hơn sáu hoặc bảy giờ. Vào năm giờ ba mươi sáng, ở châu Âu là buổi trưa. Chắc chắn rồi, có thể gửi thư từ nhà, nhưng tôi thể tính đến việc đến văn phòng mình sớm cách bất thường trong ngày hôm nay.

      Vì vậy tôi nhận ra là đột nhập vào văn phòng ngày hôm nay mạo hiểm điên cuồng.

      Nhưng hiểu sao tôi vẫn quyết định làm điều đó.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      50





      Chìa khóa vào văn phòng Camilletti mãi vẫn tìm thấy ở đâu.

      Tôi kiểm tra tất cả những nơi thông thường - mọi ngăn kéo bàn của nhân viên hành chính, trong chậu cây và hộp đựng ghim giấy, thậm chí cả tủ hồ sơ. Bàn của ta để mở ra hành lang, hoàn toàn lộ liễu, và tôi bắt đầu thấy căng thẳng khi cứ lục lọi quanh đó, ràng tôi thuộc về nơi này. Tôi tìm sau điện thoại, dưới bàn phím, dưới máy tính của ta. Có phải nó được giấu ở mặt dưới của ngăn bàn kéo bàn ? . Dưới bàn vậy? Cũng . Có khu vực phòng đợi gần bàn của ta - chỉ là chiếc ghế bành, bàn cà phê và vài cái ghế đẩu. Tôi tìm quanh đó, nhưng thấy gì cả. có chìa khóa.

      Vậy hẳn cũng phải quá vô lý khi giám đốc tài chính của công ty có thể thực áp dụng hai biện pháp an ninh đề phòng gì đó, khiến người ta khó đột nhập vào được văn phòng của mình. Phải khâm phục điều đó, đúng ?

      Sau mười phút căng thẳng đến nghẹt thở tìm đủ mọi nơi, tôi quyết định nhất định phải như thế, khi đột nhiên tôi nhớ ra chi tiết kỳ quặc về văn phòng mới của mình. Giống như tất cả các văn phòng khác tầng điều hành, nó được trang bị máy phát chuyển động, an ninh cao như tên nó gợi đến. Nó thực ra là thiết bị an toàn thông thường trong những văn phòng cấp cao - cách để chắc chắn là bao giờ có ai bị khóa lại trong văn phòng của chính mình. Chỉ cần còn có chuyển động trong phòng, cửa khóa lại. (Thêm bằng chứng là các văn phòng tầng bảy thực hơi nhiều bình đẳng hơn bình thường chút.)

      Nếu tôi nhanh tay, tôi có thể lợi dụng điều này...

      Cửa vào văn phòng của Camilletti làm bằng gỗ gụ cứng, bóng loáng, nặng nề. có khoảng trống giữa cửa và tấm thảm tuyết dày; tôi thậm chí thể đẩy mẩu giấy trượt vào dưới nó. Điều này khiến chuyện trở nên hơi phức tạp tí - nhưng phải là bất khả thi.

      Tôi cần cái ghế để đứng lên, phải ghế của nhân viên hành chính, nó có thể trượt bánh xe vững chắc. Tôi tìm thấy cái ghế có lưng ở khu vực phòng đợi và mang nó tới sát tường kính của văn phòng Camilletti. Rồi tôi quay lại khu vực phòng đợi. Trải ra bàn cà phê là đủ loại báo và tạp chí thông thường - tờ Thời báo Tài chính, tờ Tổ chức Đầu tư, CFO, Forbes, Fortune, Kinh doanh 2.0, Barron...

      Barron. Phải. Nó được đấy. Nó mang kích cỡ, hình dáng và trọng lượng của tờ báo khổ . Tôi cầm lấy nó, rồi - nhìn quanh lần nữa để chắc chắn rằng mình bị bắt gặp làm điều mà mình thậm chí thể bắt đầu giải thích nổi - tôi trèo lên ghế và đẩy tấm trần cách vuông lên.

      Tôi với vào khoảng trống phía trần, vào cái chỗ tối tăm bụi bặm đầy kẹt những dây, cáp và đủ thứ hổ lốn, tìm tấm trần tiếp theo, tấm nằm thẳng phía văn phòng của Camilletti, và nâng cả nó lên, đặt nó lên khung lưới sắt.

      Cầm lấy tờ Barron, tôi với ra, chầm chậm hạ nó xuống, huơ huơ. Tôi hạ nó thấp nhất có thể, vẫy mạnh thêm chút - nhưng có gì xảy ra. Có lẽ máy phát chuyển động với lên được cao đến thế. Cuối cùng, tôi đứng đầu ngón chân, gấp khuỷu tay lại càng chặt càng tốt, và xoay xở hạ được tờ báo thêm độ gang, vẫy loạn xạ cho tới khi tôi thực bắt đầu bị căng vài cơ bắp.

      Và tôi nghe thấy tiếng cách.

      tiếng cách , nhầm lẫn vào đâu được.

      Kéo tờ Barron về, tôi đặt lại tấm trần cách khít khao vào đúng chỗ. Rồi tôi leo xuống, đặt ghế về chỗ cũ.

      Và thử vặn núm cửa phòng Camilletti.

      Cửa mở ra.



      Trong túi làm, tôi mang theo vài dụng cụ, bao gồm cả đèn flash hiệu Mag-Lite. Tôi lập tức kéo mành cửa Venetian, đóng cửa lại, rồi bật luồng ánh sáng mạnh lên.

      Văn phòng của Camilletti cũng thiếu tính cá nhân như văn phòng của bất cứ ai khác - cũng những tấm ảnh gia đình trong khung như phổ biến, thẻ đồng và giải thưởng, cũng hàng sách kinh doanh cổ điển mà tất cả bọn họ đều giả vờ mình có đọc. Thực ra văn phòng này khá là đáng thất vọng. Đây phải là phòng ở góc, có cửa sổ từ trần tới sàn như ở hãng Truyền thông Wyatt. có quang cảnh gì cả. Tôi tự hỏi liệu Camilletti có ghét phải tiếp khách quan trọng ở trong văn phòng khiêm tốn như thế này . Đây có thể là phong cách của Goddard, nhưng nó chắc chắn phải là của Camilletti. Dù bủn xỉn hay , vẫn có vẻ phô trương. Tôi nghe là có khu tiếp khách xa hoa tầng mái của tòa nhà điều hành, Cánh A, nhưng tôi biết người nào từng được thấy nó. Có lẽ đó là nơi Camilletti tiếp các ông to.

      Máy tính của vẫn để mở, nhưng khi tôi gõ phím cách bàn phím màu đen đại, và màn hình sáng lên, tôi thấy dòng chữ NHẬP MẬT KHẨU, con trỏ nhấp nháy. có mật khẩu, dĩ nhiên, tôi thể vào các tập tin trong máy tính được.

      Nếu có viết mật khẩu xuống đâu đó, tôi rành rành tìm nổi nó - trong ngăn kéo, dưới bàn phím, dán vào đằng sau cái màn hình phẳng to đùng. nơi nào cả. Chỉ để cho có, tôi gõ tên tài khoản của ([email protected]) và rồi cũng mật khẩu đó, PCamilletti.

      được. thận trọng hơn thế, và sau vài nỗ lực, tôi bỏ cuộc.

      Tôi phải lấy mật khẩu của theo cách cũ: lén lút thôi. Tôi đoán là có lẽ để ý nếu tôi đổi dây cáp nối giữa bàn phím và đầu CPU với con KeyGhost. Và tôi làm vậy.

      Phải thừa nhận rằng ở trong văn phòng của Camilletti, tôi thậm chí còn căng thẳng hơn ở trong văn phòng của Nora. Bạn nghĩ đến giờ tôi hẳn phải là dân chuyên về đột nhập văn phòng, nhưng phải như vậy, và văn phòng của Camilletti có rung cảm khiến tôi sợ vãi tè ra quần. Bản thân con người này đáng sợ, và hậu quả nếu như bị bắt quả tang dám nghĩ tới. Hơn nữa tôi phải dự đoán rằng các biện pháp an ninh phòng ngừa trong các văn phòng ở mức điều hành tinh vi hơn phần còn lại của Trion. Họ phải làm như vậy. Dĩ nhiên tôi được đào tạo để đánh bại phần lớn các phương thức an ninh thông thường. Nhưng luôn có những hệ thống phát vô hình mà đổ chuông hay chớp đèn báo động. Khả năng đó khiến tôi sợ hãi nhất.

      Tôi nhìn quanh, mò mẫm tìm cảm hứng. Vì lý do nào đó văn phòng trông có vẻ ngăn nắp và rộng rãi hơn các văn phòng tôi từng vào ở Trion. Rồi tôi nhận ra vì sao: có các tủ hồ sơ trong này. Vì thế mà nó trông thoáng đãng như vậy. Chà, vậy các hồ sơ của ở đâu.

      Khi cuối cùng cũng đoán ra nơi chúng phải để, tôi cảm thấy như thằng ngốc. Dĩ nhiên. Chúng có ở đây, bởi vì có chỗ, và chúng có ở chỗ nhân viên hành chính của , bởi nó quá lộ liễu với mọi người, đủ bảo mật.

      Chúng phải ở trong phòng đằng sau. Giống như Goddard, mỗi điều hành viên cấp cao nhất ở Trion đều có văn phòng đôi, phòng họp đằng sau cùng cỡ với đằng trước. Đó là cách Trion lách qua vấn đề bình-đẳng-về--gian-văn-phòng. Đó, văn phòng của ai cũng cùng cỡ, chỉ có điều những gã đỉnh có hai cái mà thôi.

      Cửa vào phòng họp bị khóa. Tôi chiếu đèn Mag-Lite quanh phòng, thấy cái máy sao chép , để ý rằng mỗi mặt tường đều xếp những tủ hồ sơ gỗ gụ. Ở giữa là chiếc bàn tròn, như của Goddard nhưng hơn. Từng ngăn kéo được dán nhãn tỉ mỉ như dưới bàn tay của kiến trúc sư. Hầu hết đều đựng các bản ghi về tài chính và kế toán, có lẽ có thông tin hay miễn là tôi biết phải tìm ở đâu.

      Nhưng khi tôi thấy ngăn kéo dán nhãn PHÁT TRIỂN CỦA TẬP ĐOÀN TRION, tôi mất hết hứng thú với những thứ khác. phát triển của tập đoàn chỉ là từ chuyên ngành trong kinh doanh chỉ về sát nhập và mua lại. Trion khét tiếng vì việc nuốt trọn những công ty mới, hoặc cỡ và trung. Trong những năm tăng trưởng mạnh cuối thập niên chín mươi của thế kỷ hai mươi nhiều hơn bây giờ, nhưng họ vẫn mua lại vài công ty năm. Tôi đoán những hồ sơ này ở đây vì Camilletti giám sát các vụ mua lại, tập trung chủ yếu vào vấn đề chi phí, tiềm năng đầu tư, những chuyện như thế.

      Và nếu Wyatt đoán đúng rằng Dự án AURORA là tập hợp của loạt công ty Trion bí mật mua lại câu trả lời cho điều kỳ bí AURORA hẳn phải ở đây.

      Tủ cũng khóa, lại may mắn nữa. Tôi đoán đó là vì nếu bạn thể vào được văn phòng sau của Camilletti, bạn thậm chí đến gần được các tủ hồ sơ, vì vậy khóa chúng chỉ thêm phiền phức cần thiết.

      Có cả đống hồ sơ ở đây, về những công ty mà Trion hoặc mua lại cả gói, mua phần, hoặc tìm hiểu kỹ và quyết định dính líu vào. Tôi nhận ra số tên công ty, nhưng phần lớn . Tôi xem lướt qua tập hồ sơ về mỗi công ty để cố đoán ra chúng là về cái gì. Đây là công việc khá chậm chạp, và tôi thậm chí biết mình tìm gì, đấy. Làm thế quái nào mà tôi biết được liệu công ty mới thành lập nào đó có phải là phần của AURORA , khi tôi thậm chí còn biết AURORA là cái gì? Có vẻ bất khả thi.

      Nhưng rồi rắc rối của tôi được giải quyết.

      trong những ngăn kéo về phát triển của tập đoàn dán nhãn DỰ ÁN AURORA.

      Và nó đấy. Đơn giản như vậy thôi

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :