24 Nhà của Nick Wyatt nằm ở khu ngoại ô khá giả nhất, nơi mà ai cũng từng nghe đến, giàu có tới mức người ta biến nó thành chuyện cười. Nó thực là khu cao cấp thái quá nhất, hào nhoáng nhất và to nhất trong cái thành phố vốn nổi tiếng vì những dinh thự cao cấp thái quá, hào nhoáng và to tướng. là Wyatt coi trọng việc sống trong ngôi nhà mà ai cũng nhắc, ngôi nhà lên bìa tờ Tập san Kiến trúc, ngôi nhà mà cánh phóng viên địa phương lúc nào cũng cố tìm cớ để vào được đặng viết bài. Họ ưa há hốc miệng kinh ngạc trước mô hình San Simen bằng Silicon. Họ thích mấy thứ Nhật Bản, cảnh Thiền thanh bình giản dị cách giả tạo, đối lập đến kệch cỡm với cả đoàn ô tô Bentleymui trần và giọng the thé hoàn toàn chẳng Thiền tí nào của lão. Trong phòng Quan hệ Công chúng của hãng Viễn thông Wyatt có người chuyên lo quảng bá hình ảnh cá nhân cho Nick Wyatt, đặt tin tờ Nhân dân và Nước Mỹ Ngày nay hay bất cứ tờ nào khác. Thỉnh thoảng lại tung ra các câu chuyện về dinh thự của Wyatt, nhờ thế mà tôi biết rằng nó đáng giá năm mươi triệu đô, rằng nó to và phong lưu còn hơn cả căn nhà bên hồ ở gần Seattle của Bill Gates, rằng nó là bản sao của cung điện Nhật từ thế kỷ mười bốn mà Wyatt cho xây ở Osaka rồi chuyển từng phần về Mỹ. Bao quanh nó là bốn mươi mẫu vườn Nhật đầy các loại hoa cỏ quý hiếm, vườn đá, thác nước nhân tạo, hồ nhân tạo, cầu gỗ cổ đưa về từ Nhật. Thậm chí cả những viên đá to khác nhau lát đường lái xe vào cũng được chuyển về từ Nhật. Dĩ nhiên tôi thấy được điều đó khi lái xe lên lối vào dài bất tận. Tôi thấy chòi gác bằng đá và cửa sắt cao ngất tự động mở ra, rồi dường như hàng dặm tre, bãi đỗ xe với sáu xe Bentley mui trần đủ màu sắc xếp như thỏi kẹo Lifesavers sáu mầu (lão dùng xe cơ bắp Mỹ đâu), và ngôi nhà gỗ nền thấp có tường đá cao bao quanh. Tôi nhận được lệnh tới đây do Meacham gửi tới qua thư điện tử bảo mật - thông báo của “Arthur” tới tài khoản Hushmail, gửi bằng chương trình “vô danh” của Phần Lan, hệ tái gửi thư thể lần ra. Có cả đống ngôn từ mã hóa khiến bức thư giống như lời xác nhận đơn đặt hàng của tôi với người bán hàng nào đó mạng, nhưng thực ra nó cho tôi biết thời gian và địa điểm. Meacham cho tôi hướng dẫn chính xác phải đến đâu và bằng cách nào. Tôi phải đến bãi đỗ xe của nhà hàng Denny’s rồi đợi chiếc Lincoln xanh thẫm và theo nó tới nhà của Wyatt. Tôi nghĩ chuyện này nhằm xác định chắc chắn tôi bị theo đến đây. Họ có hơi hoang tưởng chút, tôi nghĩ, nhưng tôi là ai mà dám tranh cãi chứ? Rốt cuộc tôi mới là gã ghế nóng. Ngay khi tôi ra khỏi xe, chiếc Lincoln phóng . người Philippin ra mở cửa, bảo tôi cởi giày. dẫn tôi vào phòng đợi bày biện những tấm bình phong Nhật, chiếu tatami và bàn sơn mài thấp, rồi cái văng thấp vuông vắn màu trắng, trông như dùng nệm futon. thoải mái cho lắm. Tôi giở qua các tạp chí sắp hàng đầy nghệ thuật bàn cà phê màu đen - The Robb Report, Tạp chí Kiến trúc (hiển nhiên cả số có hình dinh thự của Wyatt ở bìa), và danh mục của nhà đấu giá Sotheby. Cuối cùng người trông nhà, gọi thế nào cũng được, lại xuất và gật đầu với tôi. Tôi theo xuống hành lang dài về phía căn phòng khác cũng gần như trống huơ trống hoác, tôi có thể thấy bên trong Wyatt ngồi ở đầu cái bàn ăn màu đen dài và thấp. Khi chúng tôi tiến đến cửa vào phòng ăn, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng chuông báo động chói tai, to kinh khủng. Tôi hoang mang nhìn quanh, nhưng trước khi kịp hiểu chuyện gì tôi bị gã người Philippin và tên khác bỗng dưng xuất tóm lấy và cả hai vật tôi xuống sàn. Tôi kêu lên, “Cái mẹ gì vậy?” và chống cự chút ít, nhưng hai tên này khỏe như lực sĩ sumo vậy. Rồi tên thứ hai giữ tôi trong khi gã người Philippin rà tôi từ xuống dưới. Chúng tìm gì chứ, vũ khí à? Gã người Philippin tìm thấy máy nghe nhạc iPod MP3 liền giật ra khỏi cặp làm của tôi. nhìn nó, gì đó bằng bất cứ cái ngôn ngữ nào mà người ta ở Philippin, rồi đưa nó cho tên còn lại, gã này soi mói, lật qua lật lại rồi lảm nhảm cộc cằn thể hiểu nổi. Tôi ngồi dậy. “Các lúc nào cũng đón chào khách của ông Wyatt như thế này à?” tôi . Người quản gia cầm lấy chiếc iPod, vào phòng ăn trao cho Wyatt, lão vẫn theo dõi vụ từ nãy giờ. Wyatt trả nó lại cho gã người Philipin mà thậm chí để mắt nhìn qua. Tôi đứng lên. “Trước giờ các chưa bao giờ thấy thứ gì như thế à? Hay là nhạc từ bên ngoài được mang vào chỗ này sao?” “Họ chỉ đề phòng thôi,” Wyatt . Lão mặc áo sơ mi bó dài tay màu đen, chắc bằng vải lanh và có lẽ là giá còn cao hơn số tiền tôi kiếm được trong tháng, thậm chí ngay cả bây giờ khi làm ở Trion. Dường như lão rám nắng hơn mọi khi. Tôi nghĩ chắc lão phải ngủ giường tắm nắng. “Sợ tôi giấu đồ gì đó sao?” tôi lên tiếng. “Tao chẳng ‘sợ’ cái gì cả, Cassidy. Tao thích ai cũng phải chơi đúng luật. Nếu mày khôn và định tỏ ra ranh mãnh mọi thứ vẫn tốt đẹp. Đừng có nghĩ đến việc thử làm cái ‘hợp đồng bảo hiểm’, bởi bọn tao trước mày nhiều rồi.” Khôi hài thay, ý nghĩ đó chưa bao giờ xuất trong đầu tôi cho tới khi lão nhắc đến. “Tôi hiểu.” “Tao muốn là nếu mày định làm gì đó ngu xuẩn kiểu như thu băng cuộc gặp của chúng ta hay bất cứ cuộc gọi nào từ tao hay bất cứ ai liên quan đến tao, chuyện hay cho mày đâu. Mày cần bảo hiểm, Adam. Tao chính là bảo hiểm của mày.” phụ nữ Nhật xinh đẹp mặc kimono xuất bê cái khay và trao cho lão cuộn khăn nóng với kẹp bằng bạc. Lão lau tay rồi đưa nó lại cho ta. Nhìn gần chắc chắn lão từng căng da mặt. Da quá căng, khiến mắt lão trông gần như mắt người Eskimo. “Điện thoại ở nhà mày an toàn,” lão tiếp tục. “Thư thoại ở nhà, máy tính hay điện thoại di động cũng vậy. Mày chỉ được chủ động liên lạc với bọn tao trong trường hợp khẩn cấp, ngoại trừ để phản hồi cầu của bọn tao. Trong các trường hợp khác, bọn tao liên hệ với mày bằng thư bảo đảm được mã hóa. Giờ mày cho tao thấy cái gì đây?” Tôi đưa lão đĩa CD về tất cả nhân được tuyển vào Trion gần đây mà tôi tải về từ website cùng với vài tờ giấy đầy chữ đánh máy. Trong khi lão đọc những ghi chép của tôi, người phụ nữ Nhật mang cái khay khác quay lại và bắt đầu xếp trước mặt Wyatt loạt những miếng sushi và sashimi , hoàn hảo trông như được chạm trổ, bày trong hộp sơn mài màu gụ, với những ụ cơm trắng , wasabi xanh nhạt và các lát gừng ngâm ửng hồng. Wyatt nhìn lên; quá nhập tâm vào những ghi chép tôi mang tới. Sau vài phút, nhấc cái điện thoại đen bàn lên, nãy giờ tôi để ý thấy nó, và hạ giọng gì đó. Tôi nghĩ là mình nghe thấy từ “fax”. Cuối cùng lão nhìn tôi. “Khá lắm,” lão . “Rất thú vị.” người phụ nữ khác xuất , trung tuổi, nghiêm nghị, mặt nhăn nheo, tóc bạc, kính đeo dây quanh cổ. Bà ta cười, nhận từ lão thếp giấy rồi mà gì. Lão có thư ký thường trực cả đêm ư? Wyatt cầm đũa và gắp miếng cá sống bỏ vào miệng, vừa trầm ngâm nhai vừa nhìn tôi. “Mày hiểu ưu việt của chế độ ăn Nhật Bản chứ?” lão hỏi. Tôi nhún vai. “Tôi cũng thích mấy thứ như món Tempura.” cười khẩy và lắc đầu. “Tao về món Tempura. Mày nghĩ tại sao Nhật lại dẫn đầu thế giới về tuổi thọ bình quân chứ? chế độ ăn ít chất béo, giàu protein, nhiều đồ ăn từ thực vật, nhiều chất chống ô xy hóa. Họ ăn đậu tương nhiều gấp bốn mươi lần chúng ta. Hàng thế kỷ nay họ ăn cái gì có bốn chân.” “Vâng,” tôi , rồi nghĩ: Và ý lão là...? Lão lại làm mồm đầy cá. “Mày thực nên nghiêm chỉnh nâng cao chất lượng cuộc sống . Mày bao nhiêu nhỉ, hai nhăm?” “Hai sáu.” “Mày còn vài chục năm phía trước. Hãy chăm sóc cơ thể mình. Hút thuốc, uống rượu, hăm bơ gơ Bic Macs và những thứ tạp nham đó - mày phải bỏ . Tao ngủ ba giờ mỗi đêm. cần nhiều hơn. Mày vui vẻ chứ, Adam?” “.” “Tốt. Mày đến đó để vui vẻ. Mày thoải mái ở Trion trong vai trò mới ?” “Tôi vẫn nghiên cứu đường nước bước, sếp tôi là hạng chó cái nghiêm chỉnh...” “Tao về vỏ bọc của mày. Tao về công việc của mày - vụ xâm nhập.” “Thoải mái? , chưa đâu.” “Nó khá rủi ro. Tao hiểu khổ cực của mày. Mày vẫn gặp bạn bè cũ chứ?” “Vẫn gặp.” “Tao mong mày vứt bỏ chúng. Như thế có thể gây nghi ngờ. Nhưng tốt hơn hết mày nên chắc chắn là câm cái miệng mắc dịch lại, nếu ngập trong phân đó.” “Tôi hiểu.” “Tao cho là tao phải nhắc nhở mày về hậu quả nếu như thất bại nữa.” “Tôi cần nhắc nhở.” “Tốt. Việc của mày khó đấy, nhưng thất bại còn tệ hơn nhiều.” “Thực ra là tôi cũng thinh thích làm ở Trion.” Tôi chỉ lòng, nhưng tôi biết với lão đó là cú quất. Lão ngước lên, vừa cười tự mãn vừa nhai. “Nghe thế tao rất mừng.” “Đội của tôi chuẩn bị thuyết trình cho Augustine Goddard, cũng sắp rồi.” “ bạn già Jock Goddard hả. Ờ, mày sớm nhận ra lão là thằng khùng lảm nhảm lên mặt đạo đức và giả tạo. Tao nghĩ lão thực tin vào mấy mẩu tin nịnh bợ đó, món rác rưởi ‘lương tâm công nghệ cao’ thường thấy trong tờ Fortune. Tin sái cổ là phân mình thối.” Tôi gật đầu; tôi biết gì chứ? Tôi biết Goddard, nên chẳng thể đồng ý hay , nhưng ghen tị của Wyatt lù lù ra. “Khi nào mày thuyết trình cho lão thối tha đó?” “Trong vài tuần tới.” “Có lẽ tao giúp được cái gì đó.” “ trợ giúp nào tôi cũng cần hết.” Điện thoại đổ chuông và lão nhấc nó lên ngay. “Đây?” Lão nghe vài phút. “Được rồi,” lão và dập máy. “Mày đánh trúng cái gì đó. Trong hai tuần tới, mày nhận được lai lịch đầy đủ về nàng Alana Jennings này.” “Chắc chắn rồi, như những gì tôi có về Lundgren và Sommers.” “, đây là mức độ chi tiết khác hẳn.” “Tại sao?” “Vì mày muốn nối bước ả. Ả là đường vào cho mày. Và giờ mày có cái mã, tao muốn có tên của tất cả những ai có liên hệ với AURORA về bất cứ mặt nào. Tất cả, từ giám đốc dự án xuống đến cả lao công.” “Làm thế nào?” Tôi hối hận ngay khi vừa cất lời. “Tự đoán . Đó là việc của mày, trời ạ. Và tao muốn ngay ngày mai.” “Ngày mai?” “Đúng.” “Được rồi,” tôi , chỉ có chút xíu phản kháng len vào giọng. “Và rồi sếp có cái mình cần, đúng ? Và thế là chúng ta xong chuyện.” “Ồ ,” . nhăn nhở những cái răng to trắng bóc. “Đây chỉ là bắt đầu, bạn. Chúng ta chỉ mới hơi chạm tới bề mặt mà thôi.”
25 Tới giờ tôi làm việc như điên, và lúc nào cũng mệt nhoài. Ngoài giờ hành chính làm ở Trion, tôi bỏ ra nhiều giờ làm muộn tới đêm, hàng đêm, nghiên cứu bằng Internet hoặc đọc các tài liệu tình báo cạnh tranh do Meacham và Wyatt gửi tới, những tài liệu khiến tôi có vẻ rất thông minh. Đôi lần tôi suýt ngủ gục vô lăng khi lái xe quãng đường tắc nghẽn dài dằng dặc để về nhà. Rồi tôi mở choàng mắt, bừng tỉnh và ngừng lại trong giây cuối để kịp tránh nguy cơ chệch sang làn đường ngược chiều hay đâm vào xe phía trước. Sau bữa trưa tôi thường bắt đầu lả , và phải dùng lượng lớn cafein để giữ mình khoanh tay lại và mê luôn trong khoang làm việc. Tôi mơ tưởng tới chuyện về nhà sớm và chui vào chăn trong cái lỗ tối tăm của mình rồi đánh giấc say sưa ngay giữa chiều. Tôi sống bằng cà phê, Diet Pepsi và Red Bull. Bạn có thể thấy mắt tôi thâm quầng, ít nhất bọn mê công việc còn tìm được cảm giác phấn chấn bệnh hoạn; còn tôi chỉ thấy đuối, như con ngựa thồ hàng trong cuốn tiểu thuyết Nga nào đó. Nhưng thậm chí làm bằng niềm tin vẫn phải chuyện tệ nhất của tôi. Vấn đề là tôi dần quên mất công việc “thực ” của tôi là gì và công việc “vỏ bọc” của tôi là gì. Tôi bận bù đầu chỉ để qua được hết buổi họp này đến buổi họp khác, cố gắng kiểm soát mọi việc đủ để Nora ngửi thấy mùi máu trong nước và bám theo tôi, tôi chỉ xoay xở được chút xíu thời gian để lén lút mò quanh và thu thập thông tin về AURORA. Thỉnh thoảng tôi lại gặp Mordden, trong các buổi họp hay ở phòng ăn cho nhân viên, và gã vẫn dừng lại chuyện. Nhưng gã bao giờ nhắc lại cái đêm gã hoặc có hoặc thấy tôi bước ra khỏi văn phòng của Nora. Có lẽ gã thấy tôi trong văn phòng mụ. Hoặc có lẽ gã thấy và có lý do để mở miệng ra. Và cứ cách vài đêm tôi lại nhận được thư từ “Arthur”, hỏi tôi tìm hiểu tới đâu, chuyện diễn biến thế nào, làm cái quái gì mà tôi lại lâu đến vậy. Hầu như đêm nào tôi cũng về muộn, và hiếm khi có mặt ở nhà. Seth để lại cả đống tin nhắn điện thoại, và sau khoảng tuần gì đấy bỏ cuộc. Phần lớn bạn bè tôi cũng chịu thua rồi. Tôi cố gắng xoay được nửa tiếng đồng hồ đây đó tới căn hộ của bố để thăm ông, nhưng bất cứ lúc nào tôi xuất , ông đều giận tôi vì tránh mặt ông đến nỗi chẳng thèm nhìn tôi nữa. Giữa bố tôi và Antwoine lắng xuống thành loại thỏa hiệp tạm đình chiến, kiểu như chiến tranh lạnh vậy. Chí ít Antwoine dọa nghỉ việc. Chưa dọa. đêm nọ tôi quay lại văn phòng của Nora và tháo thiết bị bé ghi phím gõ, nhanh chóng và vô . bạn bảo-vệ--xe-Mustang của tôi thường tuần vào khoảng từ mười giờ tới mười giờ hai mươi, vì vậy tôi làm trước khi ta xuất . Chỉ tốn chưa đến phút, và chẳng thấy Noah Mordden đâu. Đoạn cáp xíu này giờ chứa hàng trăm ngàn phím gõ của Nora, bao gồm tất cả các mật mã. Chỉ còn là việc cắm thiết bị vào máy tính và tải khối chữ về. Nhưng tôi dám làm thế ngay ở lô của mình. Ai mà biết được hệ thống mạng của Trion có cài chương trình quét nào chứ? Rủi ro đáng nhận. Thay vì thế, tôi đăng nhập vào Website của tập đoàn. Trong hộp tìm kiếm, tôi gõ vào AURORA, nhưng thấy kết quả gì. Ngạc nhiên chưa, ngạc nhiên chưa. Nhưng tôi còn ý tưởng khác, tôi gõ tên của Alana Jennings và lấy được trang về ta. có ảnh - phần lớn mọi người đều có ảnh đưa lên, dù vài người - nhưng có thông tin cơ bản như số điện thoại nội bộ, chức danh (Giám đốc Tiếp thị, Bộ phận Nghiên cứu Công nghệ Thay thế), số bộ phận, cũng chính là số hòm thư của ta. Tôi biết con số bé này là thông tin cực kỳ hữu dụng. Ở Trion cũng giống như ở Wyatt, bạn có số bộ phận trùng với tất cả mọi người làm việc cùng chỗ với mình. Tất cả những gì tôi phải làm là đánh số đó vào cơ sở dữ liệu của tập đoàn và tôi có danh sách của tất cả mọi người trực tiếp làm cùng Alana Jennings - cũng có nghĩa là tất cả bọn họ đều làm trong Dự án AURORA. Điều đó có nghĩa là tôi có danh sách nhân viên đầy đủ của AURORA, có thể còn có người cùng tầng đó nhưng làm ở những bộ phận khác, nhưng ít nhất tôi có phần tương đối: bốn mươi bảy cái tên. Tôi in trang web của từng người ra và cho chúng vào cặp giấy trong túi làm. Tôi đoán là chúng làm bọn người của Wyatt hài lòng được ít lâu. Tôi về nhà khoảng mười giờ tối hôm đó, và khi định ngồi xuống máy tính để tải về tất cả các phím gõ từ máy của Nora, tôi để ý thấy có gì đó khác. Ngay ở giữa bàn “bếp” của tôi - thứ đồ dán formica tôi mua mất bốn mươi lăm đô tại chỗ bán đồ đạc qua sử dụng - là chiếc phong bì màu nâu dày cộp, mới cứng và được dán kín. Nó có ở đó vào buổi sáng. Lại lần nữa ai đó từ bên Wyatt lẻn vào căn hộ của tôi, cứ như thể họ định chứng minh rằng mình muốn vào đâu cũng được. Rồi, biết rồi. Có lẽ họ đoán rằng đây là cách an toàn nhất để đưa đồ cho tôi mà bị trông thấy. Nhưng với tôi nó gần như là lời đe dọa vậy. Phong bì chứa hồ sơ dày về Alana Jennings, đúng như Nick Wyatt hứa. Tôi mở nó ra và thấy cả đống ảnh của ta, và đột nhiên mất hứng thú với các phím mà Nora Sommers gõ. nàng Alana Jennings này, trắng ra đúng là nóng bỏng. Tôi ngồi xuống ghế đọc sách và nghiền ngẫm hồ sơ. là có khối thời gian, công sức và tiền bạc được bỏ ra cho nó. Thám tử tư bám sát ta, ghi chép cẩn thận nhất cử nhất động, thói quen và những việc lặt vặt ta làm. Có ảnh ta vào tòa nhà Trion, ở hàng ăn với vài người bạn , ở câu lạc bộ quần vợt nào đó, tập thể dục ở trong những câu lạc bộ sức khỏe dành cho nữ giới, bước ra khỏi chiếc xe Mazda Miata màu xanh của mình. ta có tóc đen bóng và mắt xanh, thân hình mảnh mai (nhìn nhờ bộ đồ tập hiệu Lycra). Đôi khi ta đeo kính gọng đen dày, loại mà phụ nữ đẹp vẫn đeo để tỏ ra là họ thông minh và nghiêm túc mà vẫn đẹp đến mức có thể đeo kính xấu xí. Chúng thực ra còn làm ta trông quyến rũ hơn. Có lẽ đấy mới là mục đích. Sau giờ đọc hồ sơ, tôi biết về ta nhiều hơn về bất cứ bạn nào của mình. ta chỉ xinh đẹp mà còn giàu có - mối đe dọa kép. ta lớn lên ở Darien, bang Connecticut, học ở trường Miss Porter ở Farmington, rồi tới Yale theo ngành tiếng , chuyên về văn học Mỹ. ta cũng từng theo vài khóa công nghệ máy tính và kỹ thuật điện. Theo bản sao học bạ, ta hầu như toàn đạt điểm A và A trừ, và được chọn tới Phi Beta Kappa[10] trong những năm đầu đại học. Được rồi, vậy ta cũng thông minh nữa; thế là mối đe dọa gấp ba. Người của Meacham moi ra được đủ loại thông tin tài chính về ta và gia đình. ta có quỹ ủy thác vài triệu đô, nhưng bố ta, Giám đốc Điều hành công ty sản xuất ở Stamford còn có danh mục đầu tư đáng giá hơn thế nhiều. ta có hai em , người vẫn học ở Wesleyan, người còn lại làm cho Sotheby ở Manhattan. Vì ta gần như ngày nào cũng gọi cho bố mẹ, có thể dễ đoán là ta thân thiết với họ. (Hồ sơ có đính kèm bản hóa đơn điện thoại của năm, và may là có người làm nó dễ hiểu cho tôi, tóm tắt xem ta thường gọi cho ai nhất). ta độc thân và dường như hẹn hò ai đều đặn, và đứng tên sở hữu căn hộ cao cấp ở khu rất khá giả xa trụ sở Trion lắm. ta mua đồ vào mỗi Chủ nhật ở siêu thị bán thức ăn chưa chế biến, và có vẻ là người ăn chay, vì ta bao giờ mua thịt, thậm chí là thịt gà hay cá. ta ăn như con chim, con chim của rừng mưa nhiệt đới - rất nhiều hoa quả, dâu, quả hạch. ta tới quán bar hay bù khú, nhưng thỉnh thoảng cũng gọi cửa hàng rượu gần nhà mang đồ tới. Vodka hay uống ở nhà chắc là Grey Goose; rượu gin là Tanqueray Malacca. Cứ hai lần tuần ta lại ăn nhà hàng, và phải mấy quán như Denny’s hay Applebee’s hay Hooters đâu; dường như ta thích chỗ hạng sang với những cái tên như Chakra, Alto, Buzz và Om. ta cũng hay tới các nhà hàng của Thái. ta xem phim ít nhất lần tuần và thường mua vé trước ở Fandago; đôi khi cũng xem những phim cho phái nữ thường thấy, nhưng hầu như là phim nước ngoài. ràng đây là người phụ nữ ưa xem phim kinh điển Cây guốc gỗ hơn là xem phim hài Porky. Ôi dà. ta mua nhiều sách mạng, từ trang Amazon, Barnes và Noble, thường là các tiểu thuyết nghiêm túc thời thượng, ít là Mỹ Latin và kha khá cuốn về phim ảnh. Gần đây cũng mua vài cuốn về đạo Phật và thông thái phương Tây, và những thứ vớ vẩn kiểu đó. Alana cũng mua vài DVD phim, gồm cả bộ Bố già cũng như các phim đen thập kỷ bốn mươi như Bồi thường gấp đôi. ra ta mua Bồi thường gấp đôi hai lần, lần là băng video vài năm trước, lần sau là đĩa DVD mua gần đây. Dễ thấy ta chỉ mới mua đầu DVD trong vòng hai năm qua; và là ta thích nhất phim Fred MacMurray/Barbara Stanwyck cũ kỹ. ta mua hầu như mọi đĩa nhạc của Ani DiFranco và Alanis Morissette. Tôi ghi nhớ những thông tin đó. Tôi bắt đầu có hình dung về Alana Jennings. Và tôi bắt đầu vạch ra kế hoạch.
26 Chiều thứ Bảy, tôi mặc đồ quần vợt trắng (tôi vừa mua buổi sáng - thường tôi mặc quần lửng tả tơi và áo phông mà chơi), đeo đồng hồ Ý đắt đến lố bịch mà tôi vừa vung tiền mua gần đây, và đến nơi rất phô trương và riêng biệt có tên là Câu lạc bộ Tennis và Quần vợt sân tường. Alana Jennings là thành viên của câu lạc bộ này, và theo hồ sơ hầu như thứ Bảy nào ta cũng chơi ở đây. Tôi xác nhận lại thời gian ra sân của ta bằng cách gọi tới đây ngày hôm qua và bảo mình đáng lẽ ra có trận đấu ngày mai với ta, nhưng quên giờ và liên lạc được, biết là mấy giờ nữa? dễ dàng. ta có trận đấu đôi vào lúc bốn giờ ba mươi. Nửa tiếng trước khi đến trận đấu của ta, tôi gặp người quản lý thành viên của câu lạc bộ và được dẫn xem qua nơi này. Cũng phải mất ít công sức, bởi đây là câu lạc bộ kín; bạn thể cứ thế từ ngoài đường bước vào được. Tôi bảo Arnold Meacham nhờ Wyatt sắp xếp cho gã giàu có nào đó là thành viên câu lạc bộ - người bạn của người bạn của người bạn, lùi lại vài mức độ như thế từ Wyatt - liên hệ với câu lạc bộ và bảo lãnh cho tôi. Gã đó nằm trong Ban Hội viên, và ràng là tên tuổi của cũng có trọng lượng trong câu lạc bộ, bởi vì Josh, tay Giám đốc Hội viên, xem ra rất vui được dẫn tôi xem. thậm chí còn cho tôi vé vào cửa trong ngày dành cho khách để tôi có thể xem các sân đấu (sân đất nện nhé, cả trong nhà và bên ngoài), có thể vào trận đấu nào đó nữa. Chỗ này là ngôi nhà theo phong cách kiến trúc Shingle trải dài, trông giống như “biệt thự nông thôn” ở Newport. Nó nằm giữa bãi cỏ được cắt xén hoàn hảo như mặt biển màu lục bảo. Tôi cuối cùng cũng dứt được Josh ra ở quán cà phê nhờ giả vờ vẫy tay với ai đó tôi quen. bảo sắp xếp cho tôi séc đấu, nhưng tôi bảo cần, tôi quen mọi người ở đây, tôi ổn thôi. Vài phút sau tôi thấy ta. Bạn thể thấy em này được. ta mặc áo hãng Fred Perry, và có bộ ngực đầy đặn (chả biết tại sao mà mấy bức ảnh theo dõi thể được điều đó lắm). Đôi mắt xanh lấp lánh. ta vào quán cà phê với người phụ nữ khác trạc tuổi mình và gọi Pellegrino cho cả hai. Tôi lấy bàn gần ta, nhưng quá sát và ở đằng sau ngoài tầm mắt. Cái tôi cần là quan sát, nhìn kỹ, lắng nghe và quan trọng nhất là bị thấy. Nếu Alana để ý tôi lần sau muốn la cà xung quanh là mệt đấy. Tôi chẳng phải là Brad Pitt, nhưng cũng chẳng xấu xí lắm; phụ nữ thường hay để ý đến tôi. Tôi phải cẩn thận. Tôi được người phụ nữ Alana Jennings cùng là hàng xóm hay bạn đại học hay gì nữa, nhưng họ ràng chuyện công việc với nhau. Dễ đoán được rằng họ làm cùng nhau trong đội AURORA. may mắn - tôi nghe được cái gì hay ho cả. Nhưng rồi điện thoại di động của ta đổ chuông. “Alana nghe đây,” ta . Giọng mượt như nhung, êm dịu như ở trường tư, có học thức mà giả tạo. “ à?” Alana . “Chà, có vẻ giải quyết được nó rồi.” Tai tôi dỏng lên. “Keith, vừa cắt giảm thời gian được phân nửa đấy, tuyệt vời.” Chắc chắn ta chuyện công việc. Tôi dịch đến gần hơn chút để nghe hơn. Phòng ồn ào tiếng cười, tiếng đĩa leng keng và tiếng bóng tennis thịch thịch, làm cho phần lớn những gì ta rất khó nghe. Ai đó va vào bàn tôi, gã to con béo bụng, làm ly Coke của tôi rung lên. cười to, làm mất phần lớn cuộc chuyện của Alana. Biến , thằng khốn. núng nính mất, và tôi lại nghe được thêm chút ít nữa. Giờ ta thầm, và chỉ vài mẩu ngẫu nhiên lọt về phía tôi. Tôi nghe thấy ta : “... ờ, đó là câu hỏi sáu-mươi-tư-tỷ-đô, phải nào? Giá mà tôi biết được.” Rồi to hơn chút. “Cảm ơn cho tôi biết nhé - nghe hay đấy.” tiếng bíp và cuộc gọi kết thúc. “Công việc,” ta phân trần với người phụ nữ kia. “Xin lỗi nhé. Tớ ước gì tắt nó được, nhưng mấy ngày nay tớ phải giữ điện thoại bật liên tục. Drew kia rồi!” thằng cao to đến chỗ họ - khoảng ba mươi, da màu đồng, cơ thể to bè như người chèo thuyền - và hôn lên má ta. Tôi để ý thấy hôn người phụ nữ còn lại. “Chào em,” . Hay , tôi nghĩ. Bọn người của Wyatt bỏ qua chi tiết Alana rốt cuộc cũng hẹn hò ai đó. “Chào Drew,” ta đáp. “George đâu?” “Cậu ấy gọi em à?” Drew hỏi. “Cái thằng lơ đễnh. Cậu ta quên là mình phải với con cuối tuần này.” “Thế chúng ta có người thứ tư à?” người phụ nữ kia . “Tìm ai đó vào vậy,” Drew bảo. “ tin nổi cậu ta gọi cho em. Đúng là thằng nhút nhát.” bóng đèn bừng sáng trong đầu tôi. Đột nhiên vứt bỏ kế hoạch làm người quan sát vô danh mà tôi lên cách cẩn thận, tôi ra quyết định táo bạo chỉ trong nửa giây. Tôi đứng lên và lên tiếng. “Xin lỗi.” Họ nhìn về phía tôi. “Các chị cần người thứ tư đúng ?” tôi . Tôi giới thiệu mình bằng tên , bảo họ tôi xem qua nơi này. Tôi nhắc tới Trion. Họ có vẻ người vì tìm được tôi. Tôi nghĩ họ nhìn cái vợt ti tan chuyên nghiệp hiệu Yonex của tôi và nghĩ là tôi rất khá, dù tôi bảo họ rằng mình chỉ tầm tầm thôi, và lâu rồi tôi chưa chơi. Căn bản đúng thế. Chúng tôi chọn sân ở ngoài trời. Ngày hôm nay nắng đẹp và ấm áp, hơi có chút gió. Alana và Drew ở đội, tôi cùng người phụ nữ kia ở đội, tên ta là Jody. Jody và Alana khả năng ngang nhau, nhưng Alana có dáng chơi uyển chuyển hơn. ta hẳn là tấn công dữ dội, nhưng có cú đánh trái tay tốt, liên tục trả bóng, liên tục đón bóng, có di chuyển nào thừa. Giao bóng đơn giản và chính xác: luôn luôn qua lưới. Kiểu chơi của ta tự nhiên, cứ như là hít thở vậy. may, tôi lại đánh giá thấp Ngài Đẹp Trai. chơi rất tốt. Ban đầu tôi chơi vững, khá gượng gạo, và hai lần giao hỏng quả đầu, khiến Jody khó chịu ra mặt. Dù vậy, tôi lấy lại phong độ khá nhanh. Trong khi đó, Drew chơi như thể mình chơi trong giải quần vợt Wimbledon của vậy. Tôi càng lấy lại phong độ, càng chơi tấn công, tới mức nó trở nên lố bịch. bắt đầu tiến đến sát lưới, lấn lên phía trước sân để đón những quả đáng lẽ dành cho Alana, đúng là bám dính lấy bóng. Bạn có thể thấy ta nhăn mặt với . Tôi bắt đầu cảm nhận được giữa họ có chuyện gì đó - căng thẳng dâng cao. diễn ra ở đây là cả chuyện khác - trận đấu của hai con đầu đàn. Drew bắt đầu giao bóng thẳng vào tôi, đánh rất mạnh, đôi khi quá xa. Dù giao bóng nhanh dữ dội, lại điều khiển bóng tốt, rồi và Alana dần thua. Lúc sau tôi cũng tóm được đuôi , đoán được lấn sân, tôi ngụy trang cú đánh bóng của mình và đánh về phía sau . Ngài Đẹp Trai bấm phải cái nút ganh đua cũ trong tôi. Tôi muốn đặt về đúng vị trí. Tôi muốn người đàn bà của gã nguyên thủy đó. Chẳng mấy chốc tôi đổ mồ hôi. Tôi nhận ra mình chơi quá hăng say, quá công kích trong cuộc đấu chủ yếu là xã giao này; hợp lý lắm. Vì vậy tôi chùng xuống và chơi kiên nhẫn hơn, giữ bóng , để Drew tự mắc phải sai lầm. Drew tới lưới và bắt tay tôi khi hết trận. Rồi vỗ vào lưng tôi. “ chơi cơ bản giỏi lắm,” bằng giọng điệu thân mật giả tạo. “ cũng vậy,” tôi . nhún vai. “Tôi phải lo phần lớn sân.” Alana nghe được và đôi mắt xanh ánh lên vẻ khó chịu. ta quay sang tôi. “ có thời gian uống chút gì đó ?” Chỉ có Alana và tôi ở dưới “mái hiên”, cách họ gọi khu sàn gỗ lớn nhìn ra các sân chơi. Jody kiếm cớ bảo mình phải , nhận ra trong cách bóng gió gì đó của phụ nữ là Alana muốn cả nhóm. Rồi Drew thấy chuyện gì diễn ra và cũng tìm cớ nốt, dù hòa nhã được như thế. phục vụ đến và Alana bảo tôi chọn trước, ta còn chưa quyết định được mình muốn gì. Tôi gọi ly Tanqueray Malacca G & T. ta giật mình liếc nhìn tôi, chỉ trong giây ngắn ngủi rồi lấy lại bình tĩnh ngay. “Tôi cũng gọi như thế,” Alana . “Em xem bọn em có loại đó ,” bé phục vụ, học sinh trung học tóc vàng cột kiểu đuôi ngựa, . vài phút sau bé mang đồ uống quay lại. Chúng tôi chuyện lúc, về câu lạc bộ, về các thành viên ( ta gọi họ là “hợm hĩnh”), về sân chơi (“những sân tốt nhất quanh đây từ trước tới giờ”), nhưng ta quá sành điệu để hỏi han chuyện buồn chán -làm-nghề-gì. Alana nhắc tới Trion, và tôi cũng vậy. Tôi bắt đầu thấy sợ đến phần đó của cuộc chuyện, biết tôi phải làm thế nào để lấp liếm trùng hợp kỳ lạ rằng chúng tôi đều làm việc ở Trion, và này, em từng làm đúng cái việc tôi làm đấy nhé! Tôi thể tin nổi mình lại tự nguyện chơi cùng với họ, tự nhảy đúng vào quỹ đạo của ta thay vì mình gây chú ý. tốt là chúng tôi chưa bao giờ thấy nhau ở nơi làm việc. Tôi tự hỏi có phải những người trong AURORA bằng cổng riêng . Dù sao rượu gin bốc lên đầu rất nhanh, và hôm nay là ngày nắng đẹp, và cuộc chuyện trôi chảy. “Tôi xin lỗi vì Drew lại quá khích như thế,” Alana . “Cậu ta chơi tốt lắm.” “ ấy cũng quá đáng quá. là mối đe dọa. Hẳn mấy chuyện đàn ông. Chiến đấu bằng vợt.” Tôi cười. “Giống như trong câu của Ani DiFranco, biết em biết ? ‘Vì tất cả mọi công cụ đều là vũ khí nếu bạn biết dùng nó đúng cách.’ ” Mắt ta sáng bừng lên. “Chính xác! cũng nghe Ani à?” Tôi nhún vai. “ ‘Khoa học đuổi bắt tiền bạc, và tiền bạc đuổi bắt chính mình...’ ” “ ‘Và những trí óc ưu tú nhất của thế hệ tôi thể bảo lãnh’,” ta đọc nốt. “Nam giới nhiều người thích Ani.” “Vậy chắc tôi là chàng nhạy cảm.” Tôi tỏ vẻ thản nhiên. “Chắc vậy. Chúng ta thỉnh thoảng đâu chơi ,” Alana . Tôi nghe đúng vậy? Có phải ta vừa mời tôi chơi ? “Hay đấy,” tôi . “Thế em thích đồ ăn Thái ?”
27 Tôi tới nhà bố trong tâm trạng vui vẻ sau cuộc hẹn hò nho với Alana Jennings đến mức tôi tưởng như mình mặc áo giáp. Giờ chẳng có gì ông hay làm có thể khiến tôi bận tâm được. Vừa bước lên nền gỗ nứt nẻ của bậc thềm, tôi nghe tiếng họ cãi nhau - giọng the thé, oang oác nghèn nghẹn của bố tôi, càng lúc càng giống chim hơn, và giọng trả lời ầm ầm, trầm và vang của Antwoine. Tôi thấy họ trong phòng tắm ở tầng , căn phòng tràn đầy hơi nước cuồn cuộn bốc lên từ máy hóa hơi. Bố tôi nằm sấp mặt xuống ghế dài, cả đống gối dưới đầu và ngực đỡ ông lên. Antwoine xoa bóp tấm lưng trần của ông bằng đôi bàn tay to bè, áo y tá xanh nhạt sũng nước. ngước lên khi tôi mở cửa phòng. “Chào Adam.” “Thằng chó đẻ này cố giết tao,” bố rít lên. “Đây là cách làm đờm trong phổi ông lỏng ra,” Antwoine . “Thứ của nợ đó đóng nhờn nhợt lại vì chỗ lông mao bị hỏng đấy.” tiếp tục công việc, gây ra tiếng đập . Lưng bố nhợt nhạt ốm yếu, trắng như tờ giấy, chùng và rũ xuống. Dường như có tí cơ bắp nào. Tôi vẫn còn nhớ lưng bố từng trông như thế nào lúc tôi còn : cơ bắp, gân guốc, trông đến phát sợ. Đây là da dẻ của ông già, và tôi ước là mình chưa trông thấy. “Thằng khốn này dối tao,” bố , giọng nghẹn vì đống gối. “Nó bảo tao chỉ tắm hơi thôi. Nó nó đập tao nứt cả đống xương sườn chết tiệt. Chúa ạ, tao phải uống steroid, xương tao giòn tan, thằng da đen khốn kiếp!” “Này bố,” tôi hét lên, “đủ rồi!” “Tao phải là con chó cái trong tù của mày, thằng da đen!” Antwoine phản ứng. tiếp tục vỗ lên lưng bố tôi, đều đều và nhịp nhàng. “Bố,” tôi , “người này to con và khỏe hơn bố nhiều. Con nghĩ làm cậu ấy điên lên là hay đâu.” Antwoine ngước lên nhìn tôi với đôi mắt ngái ngủ và thích thú. “Này, ngày nào trong tù tôi cũng phải xoay xở với bọn phân biệt chủng tộc Aryan Nation. Cứ tin tôi , lão què lắm miệng chẳng là gì đâu.” Tôi nhăn mặt. “Thằng chó đẻ khốn kiếp!” bố rít lên. Tôi để ý thấy ông dùng từ “thằng da đen” nữa. Lúc sau, bố lại được đặt ngồi trước ti vi, nối với máy sục khí, ống thông vào mũi. “Vụ này nên cơm cháo gì cả,” ông , cáu kỉnh với cái ti vi. “Mày thấy đống đồ ăn cho thỏ nó cho tao chưa?” “Chúng gọi là rau dưa hoa quả,” Antwoine . ngồi ghế cách đó vài bước. “Tôi biết ông ấy thích ăn gì - tôi thấy trong chạn rồi. Thịt bò hầm của Dinty Moore trong hộp to, xúc xích Viên, xúc xích gan. Chà, tôi còn ở đây đâu. Ông cần ăn đồ ăn có lợi cho sức khỏe, Frank ạ, tăng cường sức đề kháng cho ông. Ông bị cảm, ông mắc viêm phổi, phải vào bệnh viện, rồi tôi biết làm gì bây giờ? Ông cần đến tôi khi ở trong bệnh viện.” “Trời ạ.” “Thêm nữa là uống ca. Phải bỏ thứ của nợ đó . Ông cần nước, làm giảm nước nhầy , có cafein. Ông cần kali, can xi vì dùng steroid.” chọc chọc ngón tay trỏ vào lòng bàn tay, cứ như thể mình là huấn luyện viên cho nhà vô địch quyền thế giới hạng nặng vậy. “Nếu muốn cứ mà làm thức ăn cho thỏ, nhưng tao ăn đâu,” bố . “Thế ông chỉ tự giết mình thôi. Ông tốn năng lượng để thở gấp mười lần người bình thường, vậy nên ông phải ăn, lấy sức lực, thêm chút cơ bắp, đại loại thế. Ông mà tiêu tùng khi tôi chăm sóc, tôi chịu trách nhiệm đâu.” “Làm như mày thực quan tâm vậy,” bố . “Ông nghĩ tôi đến đây giúp ông chết à?” “Tao nhìn có vẻ như thế đấy.” “Nếu tôi muốn giết ông, sao tôi phải chậm rãi mà làm chứ?” Antwoine . “Trừ phi ông nghĩ tôi thấy chuyện này vui vẻ. Như là tôi thích chuyện chết tiệt này vậy.” “ là bùng nổ ha?” tôi lên tiếng. “Ồ này, xem cái đồng hồ tay cậu ấy kìa?” Antwoine đột nhiên . Tôi quên tháo chiếc Panerai ra. Có lẽ trong tiềm thức tôi nghĩ rằng nó thậm chí bắt mắt ta hay bố tôi. “Cho tôi xem với nào.” bước tới chỗ tôi, kinh ngạc xem nó. “Trời, cái đồng hồ này phải đáng giá năm ngàn đô la ấy chứ.” ta đoán gần đúng giá rồi. Tôi thấy xấu hổ - nó nhiều hơn số tiền ta kiếm được trong hai tháng. “Đây là đồng hồ lặn của Ý hả?” “Ờ,” tôi vội vã đáp. “Ôi trời, mày giỡn tao đấy à,” bố tôi , giọng như cái bản lề kẹt gỉ. “Khốn kiếp, tao tin nổi.” Giờ ông cũng trân trân nhìn cái đồng hồ của tôi. “Mày bỏ ra năm nghìn đô cho cái đồng hồ chết tiệt? Đồ tồi! Mày biết tao phải mửa mật ra thế nào mới kiếm được năm nghìn đô khi tao cho mày học ? Mày bỏ ra chừng ấy cho cái đồng hồ khốn kiếp?” “Đó là tiền của con, bố à.” Rồi tôi yếu ớt thêm, “Đó là đầu tư.” “Thôi , vì Chúa, mày nghĩ tao là thằng ngu à? Đầu tư gì chứ?” “Bố à, là thế này, con vừa được thăng tiến lớn. Giờ con làm ở Hệ thống Trion và kiếm được gấp đôi mức lương làm ở Wyatt, thế được rồi chứ?” Ông nhìn tôi buốt giá. “Chúng cho mày bao nhiêu tiền mà mày vứt năm nghìn chứ - Chúa ạ, tao nổi nữa.” “Họ trả cho con rất nhiều, bố ạ. Và nếu con muốn vứt tiền của mình , con vứt . Là con kiếm được cơ mà.” “Mày kiếm được,” ông mỉa mai nhại lại. “Cứ tự nhiên nếu có bất cứ khi nào mày muốn trả lại tao số...” - ông lấy hơi - “Tao biết tao đổ bao nhiêu vạn đô cho mày rồi nữa.” Tôi suýt thẳng ra tôi bỏ bao nhiêu tiền cho ông, nhưng tôi ngừng lại kịp thời. thoáng thắng lợi đáng. Thay vì thế tôi lại với mình rằng, đây phải là bố của mày đâu. Đây chỉ là phiên bản tranh biếm họa xấu xa của bố, được Hanna-Barbera chuyển thành hoạt hình, bị thuốc prednisone và cả tá chất biến đổi tinh thần làm méo mó nhận ra nổi. Nhưng dĩ nhiên tôi biết điều đó đúng lắm, và đây ra vẫn là cùng lão già khốn nạn, chỉ có điều được vặn to lên vài nấc. “Mày sống trong thế giới tưởng tượng,” bố tiếp tục , rồi thở mạnh. “Mày nghĩ chỉ cần mày mua bộ comlê hai nghìn đô, giày năm trăm đô và đồng hồ năm nghìn đô là mày trở thành đứa trong bọn chúng phải ?” Ông lại hít hơi. “Được rồi, tao cho mày biết. Mày mặc bộ đồ Halloween chết tiệt, thế thôi. Mày hóa trang. Tao thế với mày vì mày là con tao và ai khác thẳng vào mặt mày. Mày chẳng hơn gì con khỉ đột mặc vét tuxedo.” “Thế nghĩa là sao?” tôi lẩm bẩm. Tôi để ý thấy Antwoine ý tứ bước ra khỏi phòng. Mặt tôi đỏ lựng lên. Ông ấy chỉ là người bệnh thôi, tôi tự nhủ. Ông bị khí thũng ở giai đoạn cuối. Ông chết dần. Ông biết mình gì đâu. “Mày nghĩ có lúc mày trở thành trong số chúng? Con ạ, mày thích nghĩ thế phải ? Mày nghĩ rằng chúng nhận mày và cho mày tham gia những câu lạc bộ kín, thịt con chúng và chơi pô lô với chúng.” Ông hít vào cả phổi khí. “Nhưng chúng biết mày là ai và mày đến từ đâu, con trai ạ. Có thể chúng cho mày chơi trong hộp cát ít lâu, nhưng ngay khi mày bắt đầu quên mất mày thực ra là ai, mẹ kiếp, có người nhắc cho mày nhớ thôi.” Tôi thể nhịn thêm nữa. Ông làm tôi phát điên. “Thương trường như thế đâu bố,” tôi kiên nhẫn . “Đó phải câu lạc bộ. Đây là chuyện kiếm tiền. Nếu bố giúp họ kiếm tiền, bố thỏa mãn nhu cầu. Con ở chỗ đó vì họ cần con.” “Ờ, chúng cần mày,” bố tôi nhại lại, nhả ra từng chữ, gật đầu. “Hay đấy. Chúng cần mày như kẻ muốn ị cần giấy vệ sinh thôi, mày hiểu chứ? Rồi khi chúng lau đít xong, chúng xả nước. Tao bảo mày thế này, tất cả những gì chúng quan tâm là kẻ thắng, và chúng biết mày là đồ thua cuộc thôi, chúng cho mày quên điều đó đâu.” Tôi đảo mắt, lắc đầu và gì. mạch máu đập ở thái dương. Ông lại lấy hơi. “Và mày quá ngu xuẩn và tự mãn nên biết được điều đó. Mày cứ sống trong cái thế giới tưởng tượng chết tiệt, y như mẹ của mày. Nó lúc nào cũng nghĩ mình quá tốt đối với tao, nhưng nó chẳng là cái đinh gì. Nó chỉ mơ tưởng. Và mày cũng chẳng là cái đinh gì. Mày học trường dự bị đại học hào nhoáng trong vài năm, và mày có bằng đại học vô dụng và đắt giá, nhưng mày vẫn chẳng là cái đinh gì.” Ông thở sâu, và giọng dường như dịu đôi chút. “Tao bảo mày điều này vì tao muốn mày bị xéo qua như cách mà chúng xéo qua tao, con ạ. Giống như cái trường dự bị đại học chết dẫm đó, cách mà lũ phụ huynh giàu có coi thường tao, như tao phải trong bọn chúng. Mà, biết , tao mất ít lâu mới nhận ra điều đó, nhưng chúng đúng. Tao phải trong bọn chúng. Mày cũng vậy, và mày càng sớm đoán ra điều đó, mày càng khá khẩm hơn.” “Khá khẩm như bố chứ gì,” tôi . Nó cứ trượt ra khỏi miệng. Ông trừng trừng nhìn tôi, mắt sáng rực. “Ít nhất tao biết tao là ai,” ông . “Mẹ kiếp, mày chẳng biết mày là ai.”
28 Buổi sáng hôm sau là Chủ nhật, cơ hội duy nhất để tôi ngủ dậy muộn, vì vậy dĩ nhiên Arnold Meacham nhất định phải gặp tôi từ sớm. Tôi trả lời hòm thư dùng hàng ngày, lấy tên “Donnie”, có nghĩa là tôi có điều để báo cáo. phản hồi lại ngay, bảo tôi đến bãi đỗ xe ở gần nhà kho vật liệu xây dựng cụ thể vào đúng chín giờ sáng. Lúc này có nhiều người ở đây - phải ai cũng ngủ dậy muộn vào Chủ nhật - họ mua gỗ, gạch lát sàn, đồ điện, các túi hạt cỏ và phân bón. Tôi ngồi trong chiếc Audi đợi cả nửa tiếng đồng hồ. Rồi chiếc BMW 745i màu đen lùi vào chỗ trống bên cạnh tôi, nhìn hơi lạc lõng giữa các xe bán tải và xe SUV. Arnold Meacham mặc áo len đan xanh dương và trông như thể đâu đó chơi gôn. ra hiệu bảo tôi vào xe, tôi làm theo và đưa cho chiếc đĩa CD và cặp tài liệu. “Và ở đây có gì?” hỏi. “Danh sách nhân viên của Dự án AURORA,” tôi . “Tất cả?” “Tôi biết. Chí ít cũng là số người.” “Sao phải là tất cả?” “Đây có bốn mươi bảy cái tên,” tôi . “Khởi đầu như thế cũng tươm tất.” “Chúng ta cần danh sách đầy đủ.” Tôi thở dài. “Tôi xem mình làm được gì.” Tôi dừng vài giây, do dự vừa muốn cho gã này biết bất cứ thứ gì tôi phải - tôi càng cho biết nhiều, càng lấn tới - vừa muốn khoe khoang tôi tiến xa như thế nào. “Tôi có mật khẩu của sếp tôi.” Cuối cùng tôi . “Sếp nào? Lundgren à?” “Nora Sommers.” gật đầu. “Mày dùng phần mềm đó?” “, là con Keyghost.” “Mày làm gì với chúng?” “Tìm trong đống thư điện tử lưu trữ. Có lẽ là vào lịch họp của bà ta và tìm hiểu xem bà ta gặp gỡ những ai.” “ nhặt quá,” Meacham . “Tao nghĩ tới lúc thâm nhập vào AURORA.” “Giờ quá mạo hiểm,” tôi lắc đầu. “Tại sao?” người đẩy xe hàng đầy túi phân bón Scott màu xanh ngang qua cửa sổ xe Meacham. Bốn năm thằng nhóc chạy loăng quăng đằng sau ta. Meacham nhìn sang, bật cho cửa sổ kéo lên rồi quay lại tôi. “Tại sao?” lặp lại. “Thẻ vào cửa được làm riêng.” “Trời ạ, bám theo ai đó, trộm cái thẻ, thế nào cũng được. Tao phải quẳng mày vào lại khóa tập huấn cơ bản à?” “Họ ghi nhận tất cả lượt vào cửa, và mỗi cổng đều có cửa xoay, vì vậy thể cứ thế mà lẻn vào được.” “Còn nhân viên quét dọn sao?” “Cũng có máy quay truyền hình mạch kín ở từng cổng vào. dễ như vậy đâu. Ông muốn tôi bị bắt, phải lúc này chứ.” đành nhân nhượng. “Trời, chỗ đó bảo mật ghê .” “Chắc ông phải học được hai mánh đấy.” “Im mẹ ,” gắt. “Còn hồ sơ nhân sao?” “Bên nhân cũng được bảo mật rất kỹ,” tôi . “Chỗ đó giống như AURORA. Nó hẳn phải tương đối dễ dàng. Lấy cho bọn tao hồ sơ nhân của bất cứ ai có liên hệ với AURORA về bất cứ mặt nào. Ít nhất là hồ sơ của những người trong danh sách này.” giơ đĩa CD lên. “Tôi thử vào tuần tới.” “Tối nay . Tối Chủ nhật rất hợp để thực điều đó.” “Ngày mai là ngày quan trọng. Chúng tôi thuyết trình trước Goddard.” tỏ ra ghê tởm. “Cái gì chứ, mày quá bận rộn với công việc vỏ bọc à? Tao mong là mày chưa quên mày thực ra làm việc cho ai.” “Tôi phải bắt kịp với mọi người. Điều đó quan trọng lắm.” “Càng có lý do để mày làm việc tại văn phòng tối nay,” , và quay chìa khóa khởi động xe. 29 Đầu buổi tối hôm đó tôi lái xe tới trụ sở Trion. Bãi đỗ xe gần như trống , ở đó có lẽ chỉ còn là bảo vệ, nhân viên ở các trung tâm 24/7 và vài người mê việc như tôi giả bộ lúc này. Tôi nhận ra đại sứ tiền sảnh, phụ nữ gốc Tây Ban Nha trông có vẻ vui sướng vì phải ngồi ở đó lắm. Bà ta chẳng thèm nhìn tôi khi tôi vào, nhưng tôi vẫn chào, làm bộ như ưu tư, hay ngượng ngùng gì đó. Tôi tới lô của mình ngồi làm lát, bảng tính doanh số Maestro theo từng khu vực họ gọi là EMEA, chia ra thành Châu Âu/Trung Đông/Châu Á. Đường đồ thị tốt, nhưng Nora muốn tôi nắn bóp các con số để lôi ra bất cứ điểm khả quan nào tôi có thể tìm được. Gần như cả tầng đều tối đen. Tôi thậm chí phải bật đèn ở khu của mình lên. căng thẳng. Meacham và Wyatt muốn có hồ sơ nhân của mọi người trong AURORA. Bọn chúng muốn biết quá trình công tác của từng người , xem họ được tuyển từ những công ty nào và công việc trước của họ là gì. Đó là cách hay để tìm hiểu AURORA rốt cuộc là như thế nào. Nhưng đâu phải tôi có thể cứ thế ung dung vào bộ phận Nhân , mở vài ngăn kéo ra và giật lên bất cứ hồ sơ nào tôi thích. Bộ phận Nhân ở Trion khác với phần lớn các bộ phận khác trong công ty, thực áp dụng biện pháp an ninh ngăn ngừa. Dễ thấy nhất là thể truy cập được vào máy tính của họ thông qua cơ sở dữ liệu chính của tập đoàn; chúng nằm trong mạng riêng biệt. Âu cũng phải thôi - hồ sơ nhân chứa đủ loại thông tin cá nhân như bản đánh giá hiệu quả công tác, giá trị tài khoản tiết kiệm cho nghỉ hưu hay quyền chọn cổ phiếu, đại loại thế. Có lẽ bộ phận Nhân sợ là phần đông nhân viên phát ra rằng bộ máy điều hành cấp cao của Trion kiếm được nhiều hơn tất cả như thế nào và rồi náo loạn bùng nổ ở các khu làm việc theo lô. Bộ phận Tài nguyên Nhân nằm ở tầng ba của Cánh E, cách bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới cả quãng dài. đường tới đó có nhiều cửa khóa, nhưng thẻ của tôi có lẽ cái nào cũng mở được. Rồi tôi nhớ ra rằng đâu đó có ghi lại ai vào tại điểm nào, vào lúc nào. Thông tin được lưu trữ, nhất thiết có nghĩa là ai đó xem hay lấy nó làm chuyện gì. Nhưng nếu sau này vạn nhất xảy ra rắc rối, hay rằng đêm Chủ nhật, vì lý do nào đó tôi lại từ bộ phận Sản phẩm mới tới bộ phận Nhân , rắc sau lưng mẩu vụn bánh mì điện tử suốt cả đường . Vì vậy tôi ra khỏi tòa nhà, bằng thang máy xuống và ra bằng cổng hậu. Mấy hệ thống an ninh này chỉ theo dõi lượt vào chứ theo dõi lượt ra. Khi ra phải dùng thẻ. Có lẽ đây là nguyên tắc an toàn cháy nổ gì đó, tôi chẳng biết. Nhưng như thế có nghĩa là tôi có thể rời khỏi tòa nhà mà ai biết. Lúc này ngoài trời tối. Tòa nhà Trion bừng lên, lớp vỏ crôm mài của nó sáng lấp lánh, các khung cửa kính thẫm màu xanh. Ngoài này khá yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng có tiếng ô tô vụt qua đường cao tốc. Tôi sang Cánh E, nơi này dường như có nhiều chức năng hành chính - bộ phận Mua sắm Trung tâm, Quản lý Hệ thống, đại loại như thế - và tôi thấy ai đó bước ra khỏi cửa phục vụ. “Này, giữ cửa cho tôi với!” tôi hét lên. Tôi vẫy thẻ Trion cho xem, nom như lao công. “Cái thẻ chết tiệt này hoạt động được.” để cửa cho tôi, liếc tôi lấy cái, và tôi bước ngay vào trong. bị ghi lại. Cứ theo hệ thống trung tâm tôi vẫn còn ngồi tầng ở lô của mình. Tôi cầu thang bộ lên tầng ba. Cửa vào tầng ba khóa. Đây cũng có lẽ là nguyên tắc an toàn cháy nổ gì đó: ở các tòa nhà cao mức nhất định nào đó, bạn phải có thể từ tầng này sang tầng kia bằng thang bộ, phòng trường hợp khẩn cấp. Có lẽ có tầng đặt trạm đọc thẻ ngay trong lối ra thang bộ. Nhưng tầng ba . Tôi bước thẳng vào khu vực tiếp tân bên ngoài bộ phận nhân . Phòng đợi nhìn đúng kiểu bên nhân - cả đống đồ gỗ gụ đắt giá để rằng chúng tôi rất nghiêm túc và nơi đây người ta chăm lo về nghiệp của , và những cái ghế nhiều màu, trông thoải mái và chào đón. Chúng bảo rằng bất cứ khi nào bạn tới bộ phận nhân , bạn phải hạ mông ngồi đó lâu là lâu. Tôi nhìn quanh tìm máy quay truyền hình mạch kín và thấy cái nào. Cũng phải tôi nghĩ có; nơi này đâu phải ngân hàng - hay dự án bí mật - nhưng tôi vẫn muốn đoán chắc. Hay ít nhất cũng là chắc chắn hết mức có thể. Đèn hơi tối, khiến nơi này trông càng trang nghiêm. Hay là ma quái, tôi biết nữa. Tôi đứng đó vài giây, nghĩ ngợi. có lao công nào quanh đó để cho tôi vào trong; có lẽ họ tới vào tối muộn hoặc sáng sớm. Đấy hẳn là cách lọt vào tốt nhất. Thay vì thế, tôi đành phải dùng trò cũ thẻ-của-tôi--hoạt-động vậy, nó giúp tôi vào được tận đây rồi. Tôi quay ngược xuống thang bộ và ra tiền sảnh bằng lối hậu, đại sứ tiền sảnh với mái tóc dày màu đỏ đồng ngồi đó xem tập chiếu lại của phim truyền hình Người độc thân qua màn hình an ninh. “Thế mà tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất phải làm việc vào Chủ nhật chứ,” tôi với ta. ta ngước lên, lịch cười rồi lại quay lại bộ phim. Tôi trông giống như thuộc về nơi này, tôi có thẻ cặp vào thắt lưng và tôi tới từ bên trong tòa nhà, nên hẳn là tôi có lý do để ở trong , phải ? ta phải mẫu người nhiều, nhưng như thế cũng tốt - ta chỉ muốn ở mình để xem Người độc thân. ta làm bất cứ cái gì để thoát được tôi. “Này,” tôi . “Xin lỗi làm phiền chị, nhưng chị có máy chữa thẻ ? phải tôi muốn vào văn phòng của mình đâu, nhưng tôi buộc phải vào nếu mất việc mất, thế mà cái máy đọc thẻ chết tiệt cho tôi vào. Cứ như thể nó biết tôi lẽ ra nên ở nhà xem bóng bầu dục, chị biết đấy.” ta mỉm cười. Có lẽ là ta quen bị nhân viên Trion để ý. “Tôi hiểu ý ,” ta . “Nhưng xin lỗi , chữa thẻ mai mới tới cơ.” “Ôi trời. Thế tôi làm thế nào vào được đây? Tôi đợi đến mai được. Chết mất rồi.” ta gật đầu, nhấc tai nghe lên. “Stan,” ta . “ ra đây giúp chúng tôi được ?” Stan, nhân viên bảo vệ, tới vài phút sau. khoảng năm mươi, con, rắn chắc, ngăm đen với mái tóc đen bóng thấy là giả, rìa là tóc ngả bạc. Tôi bao giờ hiểu nổi tại sao lại chuốc phiền đội tóc giả làm gì nếu bạn chịu thỉnh thoảng sửa sang lần cho nó chí ít cũng hơi hơi giống . Chúng tôi thang máy lên tầng ba. Tôi huyên thuyên với mấy chuyện nghe phức tạp về hệ thống thẻ có cấp bậc riêng của bộ phận Nhân , nhưng quan tâm lắm. muốn chuyện thể thao, cái này tôi làm được, khó gì. thất vọng với đội Denver Broncos, và tôi giả vờ như tôi cũng thế. Khi chúng tôi lên tới bộ phận Nhân , lấy thẻ của mình ra, có lẽ nó cho phép vào bất cứ đâu làm việc trong phần này của tòa nhà. vẫy nó trước máy đọc thẻ. “Đừng làm việc quá sức nhé,” . “Cảm ơn ông ,” tôi . nhìn sang tôi. “ nên chữa cái thẻ đó .” Và tôi vào trong. 30