Đời ảo - Joseph Finder (Best seller)(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      63




      Goddard và Camilletti ngồi quanh cái bàn tròn cùng Giám đốc Điều hành Jim Colvin, còn Jim nữa, Giám đốc Nhân Jim Sperling, và vài phụ nữ tôi nhận ra. Sperling, người da đen với râu cạo sát và kính gọng dây quá cỡ, về “đối tượng cơ hội”, tôi đoán ông ta muốn các nhân viên họ có thể cắt bỏ. Jim Sperling mặc áo cổ lọ như Jock Goddard, nhưng cũng gần như thế - áo-khoác-thể-thao-và-áo-phông-cổ-bẻ-sẫm-màu. Chỉ có Jim Colvin mặc com lê cà vạt công sở truyền thống.

      Cậu trợ lý tóc vàng trẻ tuổi của Sperling dúi cho tôi vài tờ giấy liệt kê các phòng ban và những cá nhân khờ khạo tội nghiệp là ứng cử viên cho chiếc rìu. Tôi đọc lướt nhanh qua và thấy đội Maestro đó. Rốt cuộc vẫn là tôi cứu được công việc cho họ.

      Rồi tôi để ý danh sách tên của bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, trong đó có Phil Bohjalian. Nhân viên có thâm niên này bị cắt giảm, cả Chad và Nora đều ở trong danh sách, nhưng Phil bị nhắm vào. Vì Nora, hẳn là vậy. Mỗi giám đốc và phó giám đốc được cầu xếp hạng cấp dưới của mình và cắt bỏ ít nhất phần mười. Nora ràng chọn xử tử Phil.

      Buổi họp gần gần giống phiên đóng dấu. Sperling lên danh sách, làm “tình huống kinh doanh” cho những “vị trí” ông ta muốn loại bỏ, và ít có thảo luận. Goddard trông ủ rũ; Camilletti trông hăng hái, thậm chí hơi sôi nổi.

      Khi Sperling nhắc tới bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, Goddard quay sang tôi, im lặng chờ ý kiến của tôi. “Tôi có thể chút được ?” tôi chen vào.

      “Ừm, dĩ nhiên,” Sperling .

      “Ở đây có cái tên, Phil Bohjalian. Ông ta cùng công ty phải hai mươi, hai mươi mốt năm rồi.”

      “Ông ta cũng xếp hạng thấp nhất,” Camilletti . Tôi tự hỏi liệu Goddard gì với về vụ rò rỉ tin cho tờ Nhật báo Phố Wall chưa. Tôi thể đoán được từ thái độ của Camilletti, vì xử với tôi cũng chẳng khó chịu nhiều hơn hay ít so với thường lệ. “Hơn nữa với thâm niên của ông ta ở công ty, phúc lợi cho ông ta tốn của chúng ta rất nhiều tiền.”

      “Chậc, tôi muốn hỏi về xếp hạng của ông ấy,” tôi . “Tôi biết cách làm việc của ông ấy, và tôi nghĩ điểm của ông ấy có lẽ nghiêng về lề lối quan hệ cá nhân hơn.”

      “Lề lối,” Camilletti .

      “Nora Sommers thích tính cách của ông ấy.” Công nhận vậy, Phil hẳn là bạn bè thân thiết với tôi, nhưng ông ta thể gây hại gì cho tôi, và tôi thấy tệ cho ông ấy.

      “Chà, nếu đây chỉ là vấn đề xung đột về tính cách, đó là lạm dụng hệ thống xếp hạng,” Jim Sperling . “ muốn rằng Nora Sommers lạm dụng hệ thống?”

      Tôi thấy chuyện có thể đến đâu. Tôi có thể giữ việc cho Phil Bohjalian, đồng thời vứt bỏ Nora. cám dỗ nếu có thể cứ thế lên tiếng và cắt cổ Nora. ai trong phòng này đặc biệt quan tâm, dù về khía cạnh nào nữa. Tin xuống tới Tom Lundgren, có lẽ chống đối để giữ lại bà ta. Thực ra, nếu Goddard dứt tôi ra khỏi nanh vuốt của Nora, chắc chắn danh sách là tên tôi chứ phải Phil.

      Goddard sắc sảo nhìn tôi, Sperling cũng vậy. Những người khác quanh bàn ghi chép.

      ,” cuối cùng tôi . “Tôi nghĩ chị ấy lạm dụng hệ thống. Đó chỉ là chuyện hợp nhau giữa hai người thôi. Tôi nghĩ cả hai đều làm được việc của mình.”

      “Rồi,” Sperling . “Chúng ta tiếp tục được chứ?”

      “Nghe này,” Camilletti : “Chúng ta cắt giảm bốn nghìn nhân . Chúng ta thể xét kỹ từng người được.”

      Tôi gật đầu. “Dĩ nhiên.”

      “Adam,” Goddard . “Giúp tôi chuyện. Tôi cho Flo nghỉ sáng nay - phiền lấy cho tôi, ừm, thiết bị cầm tay trong văn phòng chứ? Tôi để quên.” Mắt ông như lấp lánh. Ông muốn tới cuốn sổ ghi hẹn màu đen của mình, và tôi đoán câu đùa là dành cho tôi.

      “Chắc chắn rồi,” tôi và nuốt mạnh. “Quay trở lại ngay.”

      Cửa văn phòng Goddard đóng nhưng khóa. Cuốn sổ đen nằm mặt bàn trống, ngăn nắp, cạnh máy tính.

      Tôi ngồi xuống ghế và nhìn quanh các vật dụng, những khung ảnh Margaret vợ ông, tóc bạc, trông như bà ngoại; bức ảnh ngôi nhà ven hồ. Tôi để ý thấy có ảnh con trai ông, Elijah: có lẽ quá đau đớn khi gợi nhớ lại.

      Tôi mình trong văn phòng của Jock Goddard, và Flo nghỉ buổi sáng. Tôi có thể ở đây bao lâu mà khiến Goddard nghi ngờ? Liệu có thời gian tìm cách vào máy tính của ông ta ? Nếu như Flo xuất khi tôi làm thế sao...?

      . Mạo hiểm điên rồ. Đây là văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành, và có lẽ lúc nào cũng có người ra người vào. Và tôi thể liều lĩnh mất hơn hai hay ba phút cho việc vặt này: Goddard tự hỏi tôi ở đâu. Có lẽ tôi vệ sinh trước khi lấy cho ông cuốn sổ: như thế hẳn giải thích được năm phút, hơn.

      Nhưng có lẽ tôi bao giờ có được cơ hội này nữa.

      Tôi vội vã giở cuốn sổ cũ ra và thấy các số điện thoại, ghi chép nguệch ngoạc các ô lịch... và trang bên trong bìa sau là dòng chữ hoa được viết cẩn thận, “GODDARD” và bên dưới nó là “62858”.

      Đó phải là mật khẩu của ông.

      Bên năm con số đó, bị gạch là “THANGSAU 2858.” Tôi nhìn hai dãy số và đoán nó đều là ngày tháng, và chúng đều là cùng ngày: Ngày 28 tháng Sáu năm 1958. ràng ngày quan trọng với Goddard. Tôi biết ngày gì. Có lẽ là ngày cưới. Và cả hai cách viết ràng đều là mật khẩu.

      Tôi vớ lấy cái bút và mẩu giấy chép lại mã và mật khẩu.

      Nhưng tại sao sao chép cả cuốn sổ? Rất có thể có những thông tin quan trọng khác ở đây.

      Đóng cửa văn phòng Goddard lại sau lưng tôi, tôi tới máy sao chép sau bàn Flo.

      định giành việc của tôi à, Adam?” giọng Flo cất lên.

      Tôi quay lại và thấy Flo cầm cái túi Saks Đại lộ số năm. ta nhìn tôi dữ dằn.

      “Chào buổi sáng, Flo,” tôi cách tự nhiên. “, đừng lo. Tôi chỉ lấy đồ cho Jock thôi.”

      “Thế là tốt. Bởi vì tôi ở đây lâu hơn, và tôi ghét phải chèn ép đấy.” Ánh mắt ta dịu , và nụ cười ngọt ngào nở khuôn mặt.

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      64






      Khi buổi họp kết thúc, Goddard lách tới chỗ tôi và quàng tay qua vai tôi. “Tôi thích điều làm trong đó,” ông .


      “Nghĩa là sao?”


      Chúng tôi bước dọc hành lang tới văn phòng của ông. “Tôi muốn về kiềm chế của trong trường hợp Nora Sommers. Tôi biết cảm thấy thế nào về chị ta. Tôi biết chị ta thấy thế nào về . Với loại bỏ chị ta hẳn là điều dễ dàng nhất thế giới. Và thẳng thắn tôi phản đối lắm đâu.”


      Tôi hơi thấy thoải mái trước cảm tình của Goddard, nhưng tôi cười, cúi đầu. “Đó là điều đúng đắn phải làm,” tôi .


      “ ‘Ai có đủ quyền hành và cái ác - Mà chẳng bắt ai đau đớn ngày’,” Goddard , “ ‘Người ấy đáng được Chúa trời ban phước.’ Shakespeare. Trong tiếng đại: Khi có quyền lực để giày xéo lên người khác và làm thế - chà, đó là khi chứng tỏ được thực là ai.”


      “Tôi cho là vậy.”


      “Và người lớn tuổi hơn mà muốn giúp giữ việc là ai?”


      “Chỉ là nhân viên làm tiếp thị.”


      “Bạn bè?”


      . Tôi cũng nghĩ ông ấy đặc biệt quý mến gì tôi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy là nhân viên trung thành.”


      “Tốt cho đấy.” Goddard siết mạnh vai tôi. ông dẫn tôi vào văn phòng, dừng lại lúc trước bàn của Flo. “Chào cưng,” ông . “Tôi muốn xem váy để xác nhận cho chắc nào.”


      Flo tươi cười rạng rỡ, mở túi Saks, lấy ra chiếc váy bé bằng lụa trắng và tự hào giơ lên.


      “Tuyệt diệu,” ông . “Đúng là tuyệt diệu.”


      Rồi chúng tôi vào văn phòng và ông đóng cửa lại.


      “Tôi vẫn chưa lời nào với Paul,” Goddard , ngồi xuống đằng sau bàn. “Và tôi cũng chưa quyết định liệu tôi có . vẫn chưa bảo ai khác, đúng ? Về chuyện tờ Nhật báo đó?”


      “Đúng vậy.”


      “Cứ để như thế . Nghe này, Paul và tôi có vài quan điểm khác nhau, và có lẽ đây là cách cậu ấy đốt lửa dưới chân tôi. Có lẽ cậu ấy nghĩ mình giúp công ty. Tôi biết nữa.” tiếng thở dài sườn sượt. “Nếu tôi thực nhắc tới chuyện này với cậu ấy - chà, tôi muốn tin lan ra xung quanh. Tôi muốn bất cứ điều khó chịu nào. Những ngày này chúng ta có chuyện quan trọng hơn nhiều nhiều lần.”


      “Được rồi.”


      Ông liếc xéo tôi. “Tôi chưa bao giờ tới nhà hàng Auberge, nhưng tôi nghe nó rất tuyệt. nghĩ sao?”


      Bụng tôi ọc ạch. Mặt nóng bừng lên. Camilletti ở đó tối hôm qua, tồi tệ đến thế là cùng.


      “Tôi chỉ - thực ra tôi chỉ uống ly rượu.”


      bao giờ đoán nổi ai tối qua cũng ăn ở đó đâu,” Goddard . Biểu cảm của ông thể đọc nổi. “Nicholas Wyatt.”


      ràng Camilletti hỏi dò xung quanh, cố phủ nhận rằng tôi ngồi với Wyatt là tự sát. “Ồ, chuyện đó,” tôi , cố tỏ ra chán chường. “Từ khi tôi nhận việc ở Trion, Wyatt theo tôi...”


      “Ồ, vậy à?” Goddard ngắt lời. “Vậy dĩ nhiên còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận lời mời ăn tối với ông ta, hử?”


      , giám đốc, phải như vậy,” tôi , nuốt khan.


      thay đổi công việc có nghĩa là từ bỏ bạn bè cũ, chắc vậy.”


      Tôi lắc đầu, nhíu mày. Mặt tôi cảm giác đỏ bừng lên y như mặt Nora. “Thực ra phải chuyện bạn bè gì...”


      “Ồ, tôi biết chuyện như thế nào,” Goddard . “Người kia khiến thấy tội lỗi và phải gặp ông ta chỉ vì chuyện ngày xưa, còn muốn thô lỗ, và rồi ông ta đề nghị mật ngọt chết ruồi...”


      “Ông biết tôi có ý định...”


      “Dĩ nhiên là , dĩ nhiên là ,” Goddard lẩm bẩm. “ phải là loại người đó. Thôi tôi xin. Tôi biết nhìn người. Tôi thích nghĩ đó là trong những điểm mạnh của mình.”




      Khi về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn, run rẩy.


      việc Camilletti báo cáo cho Goddard biết thấy tôi ở Auberge cùng lúc với Wyatt có nghĩa là Camilletti ít nhất cũng nghi ngờ động cơ của tôi. hẳn phải nghĩ tối thiểu cũng là tôi để mặc ông chủ cũ nài nỉ, níu kéo mình. Nhưng là Camilletti, có lẽ có ý tưởng đen tối hơn thế nữa.


      đúng là tai họa chết tiệt. Tôi cũng tự hỏi liệu Goddard có thực nghĩ tất cả chuyện này là vô hại . “Tôi biết nhìn người,” ông ta vậy. Ông ta ngờ nghệch đến thế sao? Tôi biết phải nghĩ gì. Nhưng ràng từ giờ trở tôi phải rất cẩn thận dè chừng.


      Tôi hít thở sâu, ấn mạnh đầu ngón tay lên đôi mắt nhắm. Dù thế nào nữa, tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì thôi.


      Vài phút sau, tôi tìm kiếm nhanh website của Trion và thấy tên người điều hành đơn vị sở hữu Trí tuệ trong bộ phận Pháp lý của Trion. tên là Bob Frankenheimer, bốn mươi tư tuổi, làm cho Trion được tám năm. Trước đó là Tổng Cố vấn ở Oracle, và trước đó nữa làm ở Wilson, Sonsini, công ty luật lớn ở Thung lũng Silicon. Nhìn ảnh, béo phì quá mức, với tóc quăn đen, râu mọc lún phún, kính dày. Nhìn như gã mọt sách hoàn hảo.


      Tôi gọi từ bàn mình, vì tôi muốn thấy mã gọi và biết tôi gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc. trả lời điện thoại, với giọng êm dịu đến ngạc nhiên, như giọng ca sĩ sóng đêm khuya của đài rock .


      Frankenheimer, tôi là Adam Cassidy tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành.”


      “Tôi giúp gì được ?” hỏi, nghe thực hợp tác.


      “Chúng tôi muốn xem lại tất cả bằng sáng chế của bộ phận số ba trăm hai mươi.”


      Đó là nước táo bạo, và chắc chắn mạo hiểm. Nếu như lại đề cập chuyện này với Goddard sao? đại thể là vô phương giải thích.


      quãng lặng dài. “Dự án AURORA.”


      “Đúng vậy,” tôi tự nhiên. “Tôi biết lẽ ra chúng tôi cần phải có tất cả các bản sao hồ sơ ở đây, nhưng tôi vừa bỏ hai giờ đồng hồ qua tìm khắp mọi nơi, nhưng tôi thể tìm được, làm Jock thực bực tức về chuyện này.” Tôi hạ giọng, “Tôi là người mới ở đây - tôi chỉ vừa mới bắt đầu - và tôi muốn làm hỏng việc này.”


      Lại khoảng lặng, giọng Frankenheimer đột nhiên trở nên lạnh hơn, ít hợp tác hơn, như thể tôi vừa bấm nhầm nút. “Tại sao lại gọi tôi?”


      Tôi biết ý là gì, nhưng ràng tôi vừa dẫm chân vào. “Vì tôi đoán là người có thể giúp tôi giữ được việc,” tôi , hơi cười châm chọc.


      nghĩ tôi có các bản sao ở đây?” sẵng giọng.


      “Chậc, vậy có biết các bản sao hồ sơ ở đâu ?”


      Cassidy, tôi có đội gồm sáu luật sư hàng đầu về lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong này có thể xử lý hầu hết tất cả mọi chuyện. Nhưng hồ sơ của AURORA? Ồ, . Chúng phải do các luật sư bên ngoài xử lý. Tại sao? Được vin vào cớ ‘an ninh tập đoàn’.” Giọng cứ to dần lên, và nghe thực phẫn nộ. “ ‘An ninh tập đoàn.’ Bởi vì có lẽ là những luật sư bên ngoài thực được loại an ninh tốt hơn người của chính Trion. Vậy tôi hỏi : thông điệp như thế nên hiểu như thế nào?” còn nghe êm dịu nữa.


      phải,” tôi . “Vậy ai xử lý các hồ sơ.”


      Frankenheimer thở hắt ra. chua chát, giận dữ, có thể làm ứng cử viên sáng giá cho bệnh đau tim. “Tôi ước mình giúp được . Nhưng ràng người ta cũng thể tin cậy trao cho chúng tôi thông tin đó. Các biểu trưng văn hóa của chúng ta gì chứ, ‘Truyền Thông Mở’? Tôi thích nó quá mất. Tôi nghĩ chắc mình phải in nó lên áo phông mặc trong Giải đấu Tập đoàn mất thôi.”


      Sau khi dập máy, tôi ngang qua văn phòng của Camilletti đường tới nhà vệ sinh nam, và rồi tôi lộn ngược lại.


      Ngồi trong văn phòng của Paul Camilletti với vẻ mặt nghiêm trọng, là bạn cũ của tôi.


      Chad Pierson.


      Tôi rảo bước nhanh hơn, muốn bị ai trong hai người đó nhìn thấy qua tường kính văn phòng của Camilletti. Dù tại sao tôi muốn bị thấy tôi chẳng . Giờ tôi chạy theo bản năng.


      Chúa ơi, Chad mà biết Camilletti ư? chưa bao giờ quen, và cứ xét thái độ nhún nhường và khiêm tốn của Chad, điều đó chính là loại chuyện mà hẳn huênh hoang với tôi. Tôi nghĩ ra được bất cứ lý do hợp lý - hay ít nhất là vô hại - nào giải thích được việc hai người đó có thể chuyện. Và chắc chắn phải chuyện bạn bè: Camilletti phí thời gian với hạng sâu bọ như Chad.


      Lý do hợp lý duy nhất là lý do tôi sợ nhất: Chad đem nghi ngờ về tôi thẳng lên cấp cao nhất, hay cao nhất mà có thể với tới. Nhưng tại sao lại là Camilletti?


      nghi ngờ gì rằng Chad muốn làm hại tôi, và khi nghe được về người mới được tuyển từ Viễn thông Wyatt, có lẽ lựa Kevin Griffin ra để tìm thông tin bôi nhọ tôi. Và gặp may.


      Nhưng có hay ?


      Ý tôi là, Kevin Griffin thực biết được bao nhiêu về tôi? biết các tin đồn, chuyện ngồi lê đôi mách; có thể bảo biết gì đó về quá khứ của tôi ở Wyatt. Nhưng đây là kẻ mà thanh danh của chính mình còn phải xem xét. Dù bộ phận An ninh của Wyatt gì với Trion, ràng người ở Trion tin điều đó - nếu họ đá nhanh như thế.


      Vậy liệu Camilletti có thực tin vào những lời buộc tội gián tiếp từ nguồn tin có vấn đề, rất có thể là đống rác rưởi, như Kevin Griffin ?


      Mặt khác... giờ thấy tôi ăn với Wyatt, trong nhà hàng kín đáo, có lẽ tin.


      Bụng tôi bắt đầu đau quặn. Tôi tự hỏi liệu mình có bị loét dạ dày .


      Thậm chí nếu như đúng vậy, cũng chỉ là rắc rối bé nhất mà thôi.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      65





      Ngày hôm sau, thứ Bảy, là bữa tiệc ngoài trời của Goddard. Tôi mất tiếng rưỡi để đến ngôi nhà ven hồ của Goddard, phải qua nhiều đoạn đường làng hẹp. đường , tôi gọi cho bố bằng điện thoại di động, sai lầm. Tôi vài câu với Antwoine, rồi bố chen vào, hổn hển cáu gắt, vẫn con người lôi cuốn như mọi khi, và đòi tôi tới ngay lập tức.

      thể đâu, bố ạ,” tôi . “Con có công chuyện cần phải làm.” Tôi muốn mình phải tới bữa tiệc ngoài trời ở ngôi nhà nông thôn của Tổng Giám đốc Điều hành. Đầu tôi lướt qua tất các phản ứng mà ông có thể có và bị quá tải. Nào là bài diễn văn về các Tổng Giám đốc Điều hành thối nát, nào là bài diễn văn về Adam-thằng-liếm-gót-thảm-hại, rồi bài mày--biết-mày-là-ai, bài bọn-nhà-giàu-bắt-mày-nhớ-là-chúng-giàu-có, bài cái-gì-chứ- mày--muốn-bỏ-thời-gian-ở-với-thằng-bố--chết-dần-của- mày-à...

      “Bố cần gì ?” tôi thêm, biết ông bao giờ thừa nhận mình cần gì.

      “Tao cần gì cả,” ông gắt gỏng. “ cần nếu mày quá bận.”

      “Sáng mai con đến, được chứ?”

      Bố im lặng, cho tôi biết mình chọc giận ông, rồi để Antwoine chuyện, ông lại biến thành con người khó chịu thường lệ.

      Tôi chấm dứt cuộc gọi khi tới ngôi nhà. Nơi này được cắm biển gỗ đơn giản cọc, chỉ có chữ GODDARD và con số. Rồi con đường đất dài đầy vết xe qua đám cây cối rậm rạp, đột ngột mở rộng vào đường lái xe vòng tròn đầy vỏ sò vỡ. thằng nhóc mặc áo xanh tạm thời đóng vai trò người phục vụ. Tôi miễn cưỡng đưa cho nó chìa khóa chiếc Porsche.

      Ngôi nhà nằm trải dài, ấm cúng, ván lợp màu xám, trông giống như xây từ cuối thế kỷ mười chín gì đó. Nó tọa lạc mũi đất nhìn ra hồ, với bốn ống khói đá lớn và cây thường xuân leo các tấm ván lợp. Mặt trước là bãi cỏ mênh mông, tỏa mùi như vừa được cắt, và đây đó là những cây sồi già khổng lồ và cây thông khẳng khiu.

      Hai ba mươi người đứng khắp bãi cỏ, mặc quần ngắn áo phông và tay cầm đồ uống. đám trẻ con chạy qua lại, la hét và ném bóng, chơi đùa. bé tóc vàng xinh xắn ngồi tại bàn phát thẻ trước hiên nhà. bé cười, tìm thẻ tên và đưa cho tôi.

      Hoạt động chính có lẽ ở mặt bên kia nhà, bãi cỏ đằng sau thoai thoải xuống cầu tàu bằng gỗ mặt nước, ở đó mọi người đông đúc hơn. Tôi nhìn quanh tìm gương mặt quen thuộc, nhưng thấy ai. người phụ nữ mập mạp khoảng sáu mươi mặc áo captan đỏ tía, da nhăn nheo và tóc bạc trắng, tiến đến chỗ tôi.

      lạc đường phải,” bà ta tử tế . Giọng bà trầm và khàn, và mặt cũng dãi dầu sương gió và gây ấn tượng mạnh như ngôi nhà.

      Tôi biết ngay lập tức bà hẳn phải là vợ của Goddard. Bà trông thô kệch y như được quảng cáo. Mordden đúng: bà thực trông giống như chú chó nhăn.

      “Tôi là Margaret Goddard. chắc là Adam.”

      Tôi chìa tay ra, hãnh diện biết vì sao bà lại nhận được tôi, rồi nhớ ra tên mình nằm ở trước ngực áo. “Rất vui được gặp bà, bà Goddard,” tôi .

      chỉnh lại tôi, bảo tôi gọi mình là Margaret. “Jock kể với tôi khá nhiều về .” Bà bắt tay tôi rất lâu và gật đầu. Đôi mắt nâu mở rộng. Bà trông kinh ngạc, trừ phi tôi tưởng tượng ra điều đó. Bà lại gần hơn. “Chồng tôi là ông già lẩm cẩm hay hoài nghi, và dễ gây được ấn tượng với ông ấy. Vậy nên hẳn phải giỏi lắm.”

      hành lang dưới mái hiên ôm lấy phía sau ngôi nhà. Tôi qua vài vỉ nướng Cajun lớn màu đen với hàng cuộn khói bốc lên từ than hồng. Vài mặc đồng phục trắng đứng trông đống bánh kẹp, thịt nướng và thịt gà cháy xèo xèo. quầy dài được đặt gần đó với khăn trải bàn vải lanh trắng, số thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng ở đó, rót đồ uống thập cẩm, nước ngọt và bia vào các cốc nhựa trong. Tại bàn khác, người mở vỏ hàu và trải chúng ra lớp đá lạnh.

      Khi tiến đến mái hiên, tôi bắt đầu nhận ra mọi người, phần lớn họ là các lãnh đạo cấp khá cao ở Trion, cùng vợ con. Nancy Schwartz, phó giám đốc cao cấp của bộ phận Giải pháp Kinh doanh, người phụ nữ bé, tóc sẫm màu, dáng vẻ lo lắng, mặc áo phông Day Glo màu vàng của Trion được may trong Giải đấu Tập đoàn năm ngoái, chơi bóng vồ với Rick Durant, Giám đốc Tiếp thị, cao, mảnh khảnh, rám nắng với mái tóc sấy tạo kiểu, cả hai đều trông u sầu. Nhân viên hành chính của Goddard, Flo, mặc váy Hawaii bằng lụa, đầy hoa và rất ấn tượng, lượn quanh như thể chính mình là bà chủ nhà.

      Rồi tôi thấy Alana, cặp chân dài rám nắng nổi bật nền cái quần lửng trắng. cũng thấy tôi đúng lúc đó, và mắt như sáng bừng lên. có vẻ ngạc nhiên. ngấm ngầm vẫy tay nhanh và cười với tôi rồi quay . Tôi hiểu như thế nghĩa là gì, nếu nó có nghĩa. Có lẽ muốn kín đáo về quan hệ giữa chúng tôi, chuyện đừng-mang-quan-hệ-cá- nhân-vào-công-ty cũ rích.

      Tôi qua sếp cũ của mình, Tom Lundgren, mặc chiếc áo sơ mi chơi gôn xấu xí với các dải xám và hồng tươi. vừa cầm chai nước và căng thẳng xé lớp vỏ nhãn thành dải dài hoàn hảo vừa cười gượng gạo nghe người phụ nữ da đen hấp dẫn , có lẽ là Audrey Bethune, Phó Giám đốc và người đứng đầu đội Guru. Đứng hơi lùi về đằng sau là người phụ nữ tôi cho là vợ của Lundgren, mặc đồ chơi gôn giống hệt, mặt cũng gần như đỏ ửng và bực bội hệt ông ta. cậu nhóc cao gầy nắm lấy khuỷu tay bà ta và léo nhéo nài nỉ gì đó.

      Cách đấy khoảng mươi mười lăm mét, Goddard cười phá lên giữa đám người trông quen thuộc. Ông uống chai bia và mặc áo sơ mi xanh mở khuy, ống tay áo cuộn lên, quần kaki gấp nếp phẳng lì, thắt lưng vải xanh hải quân với hình cá voi mặt, và giày da nâu cũ kỹ. vị nam tước miền quê vừa lập dị vừa kiểu cách điển hình. bé chạy ra chỗ ông, thế là ông cúi người rồi như ma thuật lấy ra đồng xu từ sau tai nó. Nó kêu ré lên ngạc nhiên. Ông đưa cho bé đồng tiền và nó chạy , la hét vui sướng.

      Ông gì đó, và người nghe cười phá lên như thể ông là Jay Leno, Eddie Murphy và Rodney Dangerfield đồng thời nhập lại thành . Paul Camilletti đứng ở bên cạnh, mặc quần jean phẳng phiu, bạc mầu và áo sơ mi trắng mở khuy, tay áo cũng xắn lên. chọn đúng bản ghi nhớ cách ăn mặc, dù tôi - tôi mặc quần kaki ngắn và áo phông cổ bẻ.

      Đối diện là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành, hai cẳng chân trắng nhợt lẻo khẻo như chim chích lộ ra phía dưới cái quần ngắn hiệu Bermuda màu xám giản dị. Đúng là cuộc trình diễn thời trang thực thụ. Goddard ngước lên, bắt gặp ánh mắt tôi và ra hiệu bảo tôi tới.

      Khi tôi bắt đầu bước đến, người tự dưng từ đâu xuất và bắt lấy cánh tay tôi. Nora Sommers, mặc áo đan màu hồng với cổ đứng và quần kaki rộng cỡ, trông sướng rơn khi gặp tôi. “Adam!” Mụ kêu lên. “Tôi mừng thấy ở đây quá! Chỗ này tuyệt sao?”

      Tôi gật đầu, cười lịch . “Con chị có đến ?”

      Trông mụ đột nhiên thoải mái. “Megan trải qua thời kỳ khó khăn, con bé tội nghiệp. Nó chẳng bao giờ muốn dành thời gian với tôi.” buồn cười, tôi nghĩ, tôi cũng trải qua đúng thời kỳ như thế đấy. “Nó thích cưỡi ngựa với bố nó còn hơn lãng phí buổi chiều với mẹ và hội bạn buồn chán ở chỗ làm của mẹ.”

      Tôi gật đầu. “Xin phép...”

      bao giờ có dịp thấy bộ sưu tập xe của Jock chưa? Nó ở trong nhà để xe đằng kia.” Mụ chỉ về ngôi nhà trông giống như kho thóc cách khoảng trăm mét bên kia bãi cỏ. “ phải thấy những chiếc xe đó. Chúng lộng lẫy!”

      “Tôi xem, cảm ơn,” tôi , rồi bước bước về phía nhóm của Goddard.

      Nora tóm chặt cánh tay tôi hơn. “Adam, tôi luôn muốn với , tôi rất vui trước thành công của . Nó thực lên rằng Jock sẵn lòng đánh cược vào , đúng ? Đặt niềm tin vào ? Tôi mừng cho !” Tôi nồng nhiệt cảm ơn mụ và gỡ cánh tay tôi ra khỏi móng vuốt mụ.

      Tôi tới chỗ Goddard và lịch đứng sang bên cho tới khi ông thấy tôi và vẫy tôi lại. Ông giới thiệu tôi với Stuart Lurie, người lãnh đạo bộ phận Giải pháp Doanh nghiệp, ông ta bảo, “Chuyện thế nào, bạn?” và siết chặt tay tôi. Ông ta trông khá điển trai, khoảng bốn mươi tuổi, sớm hói và cạo sát ở hai bên nên trông vừa kỹ tính vừa hay ho.

      “Adam là tương lai của Trion,” Goddard .

      “Chà, này, rất vui được gặp tương lai!” Lurie với thoáng châm chọc. “ rút đồng xu nào ra từ tai cậu ấy chứ, Jock?”

      cần làm thế,” Jock . “Adam luôn lấy thỏ ra khỏi mũ, đúng , Adam?” Goddard quàng tay qua vai tôi, hành động lúng túng vì tôi cao hơn ông nhiều. “ với tôi,” ông khẽ khàng .

      Ông dẫn tôi tới hành lang dưới mái hiên. “ chút nữa tôi thực nghi lễ truyền thống nho ,” Ông trong khi chúng tôi leo lên những bậc thang gỗ. Tôi giữ cửa che mở cho ông. “Tôi đem tặng những món quà , những vật be bé ngốc nghếch - quà đùa giỡn thôi, đấy.” Tôi cười, tự hỏi tại sao ông lại kể cho tôi điều này.

      Chúng tôi qua hành lang dưới mái hiên, với đồ đạc cũ kỹ làm bằng liễu gai, vào tiền phòng, rồi vào phần chính của ngôi nhà. Sàn làm bằng gỗ thông bản rộng cũ, nó kêu cót két khi chúng tôi bước qua. Tường đều được sơn màu trắng sữa, và mọi thứ đều toát lên vẻ sáng sủa, vui vẻ và ấm cúng. Nó tỏa ra thứ mùi thể miêu tả nổi của các ngôi nhà cũ. Tất cả đều thoải mái, gần gũi và sống động. Đây là ngôi nhà của người giàu có tự phụ, tôi nghĩ. Chúng tôi xuống hành lang rộng, qua phòng khách có lò sưởi bằng đá lớn, rồi quành ở góc vào hành lang hẹp lát gạch. Cúp và đồ trưng bày xếp giá hai bên hành lang. Rồi chúng tôi vào phòng sách với bàn đọc dài ở chính giữa, đặt máy tính và máy in, cùng vài hộp các tông lớn. Đây ràng là phòng làm việc của Goddard.

      “Bệnh viêm xương khớp cũ lại tái phát,” ông xin lỗi, chỉ những hộp các tông lớn bàn đọc, đầy quà được gói sẵn. “ là thanh niên lực lưỡng. Nếu phiền mang những thứ này ra chỗ dãy ghế, gần quầy...”

      phiền chút nào,” tôi , thất vọng nhưng để lộ ra. Tôi nâng cái hộp to tướng lên, nó chỉ nặng mà còn kềnh càng, sức nặng cân và cồng kềnh đến mức tôi gần như thấy nổi đường phía trước khi bước .

      “Tôi dẫn ra khỏi đây,” Goddard . Tôi theo ông ta vào hành lang hẹp. Cái hộp cọ xát vào giá hai bên, và tôi phải quay nó hơi nghiêng lên để luồn kéo nó qua. Tôi cảm thấy cái hộp huých phải gì đó. Rồi tiếng loảng xoảng lớn, tiếng kính vỡ.

      “Thôi chết,” tôi thốt lên.

      Tôi quay cái hộp để thấy được chuyện gì vừa xảy ra. Tôi trân trối nhìn: tôi hẳn gạt cái cúp rơi khỏi giá. Giờ nó biến thành chục mảnh vỡ màu vàng rải rác sàn gạch. Đó là loại cúp trông như bằng vàng ròng nhưng thực ra là đồ gốm được mạ vàng gì đó.

      “Chúa ơi, tôi xin lỗi,” tôi , đặt cái hộp xuống và cúi mình nhặt các mảnh vỡ. Tôi rất thận trọng với cái hộp, thế mà hiểu sao tôi lại va phải nó, tôi biết sao lại thế nữa.

      Goddard quay chỗ khác, mặt trắng bệch. “Quên nó ,” ông gượng gạo.

      Tôi cố nhặt hết những mảnh vỡ mình nhặt được. Nó là - nó từng là - bức tượng của cầu thủ bóng bầu dục. Có mảnh mũ, mảnh nắm tay, quả bóng . Bệ bằng gỗ có tấm biển đồng ghi VÔ ĐỊCH NĂM 1995 - TRƯỜNG LAKEWOOD - ELIJAH GODDARD - VỊ TRÍ CHỦ CÔNG.

      Elijah Goddard, theo lời Judtih Bolton, là người con trai mất của Goddard.

      “Jock,” tôi . “Tôi rất xin lỗi.” mảnh lởm chởm khía vào tay tôi đau đớn.

      “Tôi quên chuyện đó ,” Goddard , giọng cứng rắn. “ sao đâu. Giờ thôi nào, ta thôi.”

      Tôi biết phải làm gì, tôi thấy tệ vì phá hủy kỷ vật của cậu con trai mất. Tôi muốn dọn dẹp đống đổ vỡ, nhưng tôi cũng muốn làm ông tức giận thêm. Quá nhiều chuyện cho tất cả mớ thiện ý tôi xây dựng được với người đàn ông già này. Vết rách trong lòng bàn tay tôi giờ ứa máu.

      “Bà Walsh dọn chỗ này,” ông , giọng có phần gay gắt. “ nào, hãy mang các món quà này ra.” Ông xuống hành lang và biến mất đâu đó. Trong lúc ấy, tôi nâng cái hộp lên mang nó , cực kỳ cẩn thận, qua hành lang hẹp ra khỏi ngôi nhà. Tôi để lại dấu tay dính máu hộp các tông.

      Khi quay lại lấy hộp thứ hai, tôi thấy Goddard ngồi ghế trong góc phòng làm việc, ông ngồi khom vai, đầu chìm trong bóng tối, và ông cầm cái đế cúp gỗ bằng cả hai tay. Tôi do dự, chắc mình nên làm gì, liệu tôi nên rời khỏi đây, bỏ ông lại mình, hay tôi nên tiếp tục chuyển mấy cái hộp và giả bộ như thấy ông.

      “Nó là thằng nhóc dễ chịu,” Goddard đột nhiên lên tiếng, giọng đến nỗi đầu tiên tôi cứ ngỡ mình tưởng tượng. Tôi dừng bước. Giọng ông trầm, khàn khàn và bé, to hơn tiếng thầm. “ vận động viên thể thao, cao lớn, ngực vạm vỡ, cũng như . Và nó có... có tài mang lại hạnh phúc. Khi nó bước vào phòng, thấy tâm trạng khá hẳn lên. Nó khiến người ta cảm thấy tốt đẹp. Nó điển trai, và tử tế, và có - có ánh lấp lánh trong mắt nó.” Ông chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn xa xăm. “Thậm chí khi nó chỉ là đứa bé, nó hầu như bao giờ khóc hay nhặng xị lên hay...”

      Goddard dứt giọng, và tôi đứng đó giữa phòng, cứng người lại, chỉ lắng nghe. Tôi vo cái khăn ăn vào trong bàn tay để thấm máu, và tôi cảm thấy nó bắt đầu ướt. “ hẳn thích nó,” Goddard . Ông nhìn về phía tôi, nhưng hẳn vào tôi, như thể ông thấy con trai mình tại chỗ tôi đứng. “Đúng vậy. với nó hẳn trở thành bạn.”

      “Tôi rất tiếc gặp được cậu ấy.”

      “Ai cũng nó. Đây là thằng bé được đặt vào thế gian này để làm mọi người hạnh phúc - nó có tia sáng, nó có nụ...” Giọng ông vỡ ra. “Nụ cười-đẹp nhất...” Goddard cúi đầu xuống, và vai ông rung lên. phút sau ông , “Rồi ngày ở công ty, tôi nhận được cuộc gọi từ Margaret. Bà ấy hét lên... Bà ấy thấy nó trong phòng ngủ. Tôi lái xe về, tôi suy nghĩ minh mẫn được nữa... Elijah bỏ trường Haverford vào năm thứ ba - ra là, họ tống cổ nó, điểm số nó sụt thảm hại, nó tới trường nữa. Nhưng tôi thể bắt nó về chuyện đó được. Tôi ngờ là nó dùng thuốc, dĩ nhiên, và tôi cố chuyện với nó, nhưng giống như với bức tường vậy. Nó chuyển về nhà, hầu hết thời gian ở lì trong phòng hay ra ngoài với bọn nhóc mà tôi biết. Sau này tôi nghe được từ người bạn của nó là nó hút heroin vào đầu năm thứ ba. Nó phải bọn thanh niên phạm pháp, nó là chàng tài năng, tính dễ chịu, đứa con ngoan... Nhưng rồi đến lúc nó bắt đầu... từ đó là gì nhỉ, tiêm chích? Và điều đó làm nó thay đổi. còn ánh sáng trong mắt nó nữa. Nó bắt đầu suốt ngày dối. Cứ như thể nó cố xóa bỏ tất cả con người cũ của nó. hiểu tôi ?”

      Goddard ngước lên. Nước mắt giờ chảy xuống mặt ông.

      Tôi gật đầu.

      vài giây chậm chạp trôi qua, rồi ông tiếp tục. “Nó tìm kiếm gì đó, tôi đoán vậy. Nó cần thứ mà thế giới này thể cho nó. Hoặc có lẽ nó quá đa cảm và nó quyết định mình cần loại bỏ phần đó trong mình.”

      Giọng ông lại trở nên nặng nề. “Và sau đó là phần còn lại.”

      “Jock,” tôi lên tiếng, muốn ông dừng lời.

      “Nhân viên điều tra y tế kết luận đó là dùng thuốc quá liều, ông ta bảo nghi ngờ gì chuyện đó là có chủ ý, rằng Elijah biết mình làm gì.” Bàn tay múp míp áp lên mắt. “Tôi tự hỏi mình, liệu tôi có thể làm gì khác ? Tôi làm hỏng nó như thế nào? Tôi thậm chí từng dọa để nó bị bắt. Chúng tôi cố đưa nó cai nghiện. Tôi chuẩn bị đẩy nó tới đó, bắt nó phải , nhưng tôi bao giờ có cơ hội. Và tôi tự hỏi mình hết lần này đến lần khác: Tôi có quá cứng rắn, quá nghiêm khắc với nó ? Hay đủ cứng rắn? Tôi có quá bù đầu vào công việc của mình ? - Tôi nghĩ là tôi có như vậy đấy. Hồi đó tôi quá tham vọng. Tôi quá bận rộn xây dựng Trion đến nỗi chẳng thể cho nó người cha thực .”

      Giờ ông nhìn thẳng vào tôi, và tôi thấy được nỗi đau khổ trong mắt ông. Nó như lưỡi dao đâm vào bụng tôi. Mắt tôi ươn ướt.

      làm và xây dựng vương quốc nho của mình,” ông , “rồi quên mất điều gì thực đáng giá.” Ông chớp mắt liên hồi. “Tôi muốn quên mất, Adam. bao giờ.”

      Goddard trông càng hơn, héo hon hơn, và như trăm tuổi. “Nó nằm giường dính đầy dãi và nước tiểu như trẻ , và tôi ôm nó trong tay như đứa bé sơ sinh. biết nhìn thấy con mình nằm trong quan tài là như thế nào ?” ông thầm. Tôi nổi da gà, phải quay đầu . “Tôi nghĩ mình bao giờ quay lại làm việc nổi. Tôi cứ ngỡ mình thể vượt qua điều đó. Margaret tôi chưa bao giờ vượt qua được. Trong gần hai tháng liền tôi ở nhà. Tôi thể tìm ra lý do để sống nữa. chuyện như thể này xảy ra và - nghi ngờ giá trị của mọi thứ.”

      Ông dường như nhớ ra mình có khăn tay trong túi, và ông lấy nó lau mặt. “Ôi chao, nhìn tôi xem,” ông với tiếng thở dài sườn sượt, và bất ngờ ông cười. “Nhìn lão già ngu xuẩn này xem. Khi tôi ở tuổi , tôi tưởng tượng khi mình già như bây giờ tôi hẳn tìm ra ý nghĩa của cuộc đời.” Ông cười buồn bã. “Và giờ tôi đến được gần ý nghĩa cuộc đời hơn bất cứ khi nào trước kia. Ồ, tôi biết nó phải là cái gì. Bằng quá trình loại bỏ. Tôi phải mất đứa con để biết được điều đó. có nhà to xe đẹp, và có lẽ họ đưa lên trang bìa tờ tạp chí Fortune, và cho rằng mình hiểu được hết tất cả, phải ? Cho tới khi Chúa gửi cho bức điện tín nho , ‘Ồ, quên nhắc, chẳng thứ nào trong số đó có ý nghĩa. Và tất cả mọi người ngươi quý thế gian này, thực ra chỉ là ta cho ngươi mượn họ thôi, hiểu chưa. Và tốt nhất là ngươi nên thương họ khi còn có thể.’ ” giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống má ông. “Tới ngày hôm nay tôi vẫn hỏi mình, tôi bao giờ hiểu Elijah chưa? Có lẽ chưa. Tôi từng nghĩ mình hiểu. Tôi biết mình nó, hơn tôi nghĩ mình có thể bất cứ ai. Nhưng tôi có thực hiểu con trai mình ? Tôi thể chắc.” Ông lắc đầu chậm rãi, và tôi thấy ông bắt đầu bình tĩnh lại. “Bố rất may mắn, dù ông ấy là ai, vô cùng may mắn, và ông bao giờ hiểu đâu. Ông ấy có được người con như , người con vẫn còn ở bên ông ấy. Tôi biết ông ấy hẳn phải tự hào vì .”

      “Tôi chắc điều đó lắm,” tôi .

      “Ồ, tôi chắc đấy,” Goddard . “Vì tôi biết tôi hẳn tự hào.”


      PHẦN 7

      KHỐNG CHẾ



      Khống chế: Quyền lực áp dụng lên điệp viên hay điệp viên nhị trùng để ngăn chặn ta ly khai hay tái nhị trùng (còn được gọi là “tam trùng”).

      - Từ điển tình báo quốc tế

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      66





      Sáng hôm sau tôi kiểm tra thư tại nhà và thấy tin từ “Arthur”:



      Sếp rất hài lòng với bài thuyết trình của và muốn xem thêm ngay lập tức.



      Tôi nhìn nó phút, rồi quyết định trả lời.



      lúc sau, tôi xuất báo trước ở căn hộ của bố tôi, với hộp bánh rán hiệu Kripsy Kreme. Tôi đỗ ở khoảng trống ngay trước khu nhà ba tầng của ông. Tôi biết khi xem ti vi, bố thích ngồi nhìn chăm chăm ra cửa sổ cả ngày. Ông bỏ lỡ bất cứ điều gì xảy ra bên ngoài.

      Tôi vừa đến sau khi đem xe rửa, và chiếc Porsche là khối đá vỏ chai lấp lánh, vật đẹp đẽ. Tôi nóng cả người. Bố tôi vẫn chưa thấy nó. Thằng con trai “thua cuộc” của ông, còn là kẻ thua cuộc nữa, đến cách hào nhoáng - trong cỗ chiến xa ba trăm hai mươi mã lực.

      Bố tôi vẫn ngồi tại chỗ cũ trước ti vi, xem chương trình điều tra rẻ tiền nào đó về những vụ bê bối ở các tập đoàn. Antwoine ngồi cạnh ông chiếc ghế ít thoải mái hơn, đọc trong những tờ báo khổ bán ở siêu thị trông giống y chang nhau; tôi nghĩ đó là tờ Ngôi Sao.

      Bố tôi ngước lên, thấy hộp các tông bánh rán tôi vẫy với ông, nhưng lại lắc đầu. “Thôi,” ông .

      “Con dám chắc có sô la đông trong này. Món bố thích nhất.”

      “Tao ăn nổi thứ của nợ đấy nữa. Gã da đen Mandingo này chĩa súng vào đầu tao. Sao mày mời cái?”

      Antwoine cũng lắc đầu. “, cảm ơn. Tôi cố giảm hai cân. Ông đúng là ác quá.”

      “Cái gì thế này, trụ sở của chuyên gia giảm cân Jenny Craig à?” Tôi đặt hộp bánh rán xuống bàn cà phê mặt gỗ thích cạnh Antwoine. Bố vẫn chưa gì về cái xe, nhưng tôi đoán có lẽ ông quá chăm chú vào chương trình ti vi. Hơn nữa thị lực của ông cũng tốt như thế.

      “Ngay khi mày , gã này bắt đầu quất roi, bắt tao chạy quanh phòng,” bố .

      ấy dừng lại nhỉ?” tôi với ông.

      Mặt ông có vẻ thấy buồn cười hơn là giận dữ. “Bất cứ điều gì khiến thấy hài lòng,” ông bảo. “Dù có chuyện gì khiến thấy hứng chí hơn là ngăn tao hút.”

      căng thẳng giữa bọn họ dường như giảm xuống thành thế cam chịu. “Này, bố trông khá hơn nhiều rồi, bố ạ,” tôi dối.

      “Vớ vẩn,” ông , mắt tập trung vào cuộc điều tra giả ti vi. “Mày vẫn làm ở chỗ mới đó à?”

      “Phải,” tôi . Tôi cười rụt rè, đoán đến lúc cho ông biết tin mới quan trọng. “Thực ra...”

      “Tao cho mày biết điều,” ông , cuối cùng cũng dứt mắt ra khỏi ti vi và nhìn tôi với ánh mắt toét nhèm, ông chỉ về phía ti vi mà nhìn nó. “Bọn chó đẻ đó - bọn khốn đó - chúng lừa mày đến đồng năm xu cuối cùng nếu mày để mặc chúng.”

      “Ai, các tập đoàn?”

      “Các tập đoàn, bọn Tổng Giám đốc, với quyền lựa chọn cổ phiếu và khoản lương hưu hậu hĩnh và các chính sách ngọt ngào của chúng. Chúng đều chỉ vì chính mình mà thôi, từng thằng , và mày đừng quên điều đó.”

      Tôi nhìn xuống thảm. “Chậc,” tôi khẽ, “ phải tất cả.”

      “Ôi dào, đừng tự lừa chính mình.”

      “Nghe bố ,” Antwoine , ngẩng lên khỏi tờ Ngôi Sao. Giọng dường như đượm chút trìu mến. “Ông ấy là kho hiểu biết đấy.”

      “Thực ra, bố, con biết được chút ít về các Tổng Giám đốc. Con vừa được thăng chức lớn - con vừa được giao làm Trợ lý Điều hành cho Tổng Giám đốc của Trion.”

      Chỉ có im lặng. Tôi nghĩ ông nghe tôi . Ông trân trối nhìn ti vi. Tôi nghĩ như thế có thể hơi cao ngạo, nên tôi dịu giọng chút. “Thực là chuyện lớn, bố ạ.”

      Lại thêm im lặng.

      Tôi vừa định lặp lại ông lên tiếng, “Trợ lý Điều hành? Nó là cái gì, giống như thư ký à?”

      , . Nó là, giống như là, những thứ đẳng cấp cao. Động não suy nghĩ và mọi thứ như thế.”

      “Vậy chính xác mày làm gì cả ngày?”

      Ông mắc bệnh khí thũng, nhưng ông vẫn biết chính xác cách làm tôi xẹp lép. “Thôi cần quan tâm, bố,” tôi . “Con xin lỗi nhắc tới việc này.” Tôi thực hối tiếc. Tại sao tôi lại quan tâm ông nghĩ cái quái gì chứ?

      , tao . Tao tò mò mày làm cái gì mà có được bộ vành bóng bẩy ngoài đó.”

      Vậy rốt cuộc ông cũng để ý. Tôi cười. “Khá đẹp nhỉ?”

      “Mày tốn bao nhiêu cho cái xe đó?”

      “Chà, thực ra ...”

      “Tao muốn là hàng tháng.” Ông hít thở sâu luồng ô xy.

      mất tí nào.”

      mất tí nào,” ông lặp lại, như thể hiểu nổi.

      mất xu. Trion trả toàn bộ phí thuê. Đó là món bổng lộc cho công việc mới.”

      Ông lại hít vào. “Bổng lộc.”

      “Cũng như căn hộ mới của con.”

      “Mày chuyển nhà?”

      “Con tưởng con bảo bố rồi. Bảy trăm mét vuông ở tòa nhà Harbor Suites mới đó. Và Trion trả tiền cho nó.”

      Lại hít vào. “Mày tự hào chứ?” ông .

      Tôi ngớ cả người. Trước nay tôi chưa bao giờ nghe ông từ đó, tôi nghĩ nghe. “Vâng,” tôi , đỏ mặt.

      “Tự hào vì rằng giờ chúng sở hữu mày?”

      Lẽ ra tôi phải thấy lưỡi dao cạo cắm trong quả táo. “ ai sở hữu con, bố ạ,” tôi cộc lốc. “Con nghĩ nó được gọi là ‘ăn nên làm ra’. Bố tra thử mà xem. Bố thấy nó ở trong từ điển đồng nghĩa bên cạnh ‘cuộc sống ở đỉnh cao’, ‘ban điều hành’, và ‘những cá nhân cao giá’.” Tôi tin nổi những gì tuôn ra khỏi miệng mình. Suốt từ trước tới giờ tôi luôn bị xỉ vả vì sống vô nghĩa như con khỉ leo que. Bây giờ tôi lại thực huênh hoang về những chuyện xa hoa thế này đây. Thấy ông bắt tôi phải làm gì chưa?

      Antwoine biết ý đặt báo xuống xin phép ra ngoài, giả vờ làm gì đó trong bếp.

      Bố tôi cười cay nghiệt và quay lại nhìn tôi. “Vậy để tao chuyện này.” Ông hít vào thêm chút ô xy. “Mày sở hữu cái xe hay căn hộ, đúng ? Mày gọi đó là bổng lộc?” Ngừng hơi. “Tao cho mày biết thế nghĩa là gì. Mọi thứ chúng cho mày chúng đều có thể lấy , và chúng cũng lấy . Mày lái xe hơi của công ty, mày sống trong nhà của công ty, mày mặc đồng phục của công ty, và thứ nào là của mày. Cả cuộc đời mày thuộc về mày.”

      Tôi cắn môi. Bùng phát cũng chẳng có ích gì cho tôi. Người đàn ông già nua này chết dần, tôi tự với mình phải đến lần thứ triệu. Ông phải dùng steroid. Ông là người bất hạnh, cay độc. Nhưng nó cứ thế tuôn ra. “Bố biết , có những người cha thực ra thấy tự hào trước thành công của con mình, bố biết ?”

      Ông hớp hớp khí, đôi mắt tí xíu lóe lên. “Thành công, đó là cách mày gọi chuyện đó hử? Thấy , Adam, mày càng lúc càng khiến tao nhớ tới mẹ mày.”

      “Ồ, thế à?” Tôi tự bảo mình: nuốt xuống, kiềm chế cơn giận, đừng nổi cáu, nếu ông ta thắng.

      “Đúng vậy. Mày giống như bà ta. Cũng có cùng tính cách hướng ngoại đó, ai cũng thích bà ta, bà ta hòa nhập được ở mọi nơi, bà ta hẳn có thể lấy gã giàu có hơn, bà ta hẳn có thể sống tốt hơn nhiều. Và đừng nghĩ là bà ta cho tao biết thế. Tất cả các đêm phụ huynh ở Bartholomew Browning, mày thấy bà ta thân mật với bọn khốn giàu có đó, chưng diện, gần như ốp ngực vào mặt bọn nó. Nghĩ tao thấy sao?”

      “Ồ, hay lắm, bố. Đúng là hay lắm. Rất tiếc con giống bố hơn, bố biết mà.”

      Ông chỉ nhìn tôi.

      “Bố biết mà - cay đắng, cáu kỉnh. Tức giận với cả thế giới. Bố muốn con lớn lên giống y như bố chứ gì?”

      Ông thở phù phù, mặt đỏ lựng lên.

      Tôi tiếp tục . Tim đập cả trăm nhịp phút, giọng cứ to dần, và tôi gần như hét lên. “Khi con rỗng túi và lúc nào cũng đàn đúm bố coi con là thằng bỏ . Được rồi, vậy giờ con cũng thành công như trong định nghĩa của bất cứ ai, và bố chẳng có gì hơn ngoài khinh rẻ. Có lẽ có lý do nên bố mới thể tự hào vì con dù con có làm gì, bố ạ.”

      Ông trừng mắt, hổn hển , “Thế à?”

      “Nhìn bố . Nhìn cuộc đời bố .” Trong tôi như có con tàu chở hàng lồng lên, thể dừng lại, mất điều khiển. “Bố luôn thế giới này chia ra thành người thắng và kẻ thua. Vậy con muốn hỏi bố điều này, bố. Vậy bố là gì? Bố là gì?”

      Ông hớp khí ô xy, mắt đỏ ngầu và trông như sắp bật ra khỏi đầu. Dường như ông lẩm bẩm mình. Tôi nghe được “chết tiệt” và “mẹ kiếp” và “chó má ”.

      “Phải rồi, bố,” tôi , quay . “Con muốn giống y như bố đấy.” Tôi lao ra cửa như luồng gió chứa đầy cơn tức giận dồn nén của chính mình. Lời ra rồi thể lấy lại được nữa, và tôi thấy khổ sở hơn bao giờ hết. Tôi rời khỏi căn hộ của ông trước khi có thể gây ra thêm tàn phá nào nữa. Điều cuối cùng tôi thấy, hình ảnh chia tay với ông, là gương mặt đỏ bừng, thở hồng hộc và lẩm bẩm, mắt đờ đẫn và trân trối như tin nổi, hay giận dữ hoặc đau đớn, tôi biết nữa.

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      67





      “Vậy thực làm cho chính Jock Goddard à?” Alana . “Trời, em hy vọng em chưa bao giờ với điều gì tiêu cực về Goddard. Đúng ?”

      Chúng tôi thang máy lên căn hộ của tôi. Em về qua nhà sau khi làm để thay đồ, và em trông tuyệt - áo cổ thuyền đen, quần đen, giày đen đế cao. Em cũng xịt đúng mùi hương hoa ngọt ngào dùng trong cuộc hẹn trước của chúng tôi. Tóc em đen dài và bóng mượt, và nó tương phản tuyệt vời với đôi mắt xanh rực rỡ.

      “Đúng rồi, em thực ông ấy như cặn bã, và lập tức báo cáo ngay.”

      Em cười, thoáng bóng hàm răng hoàn hảo. “Thang máy này phải cùng cỡ căn hộ của em.”

      Tôi biết điều đó đúng, nhưng tôi vẫn phá lên cười. “Thang máy này đúng là to hơn cả chỗ cũ của ,” tôi . Khi tôi bảo mình vừa mới chuyển tới Harbor Suites, em bảo mình nghe về các căn hộ ở đó và có vẻ tò mò, nên tôi mời em ghé qua để xem nhà. Chúng tôi có thể ăn tối ở nhà hàng khách sạn bên dưới, nơi tôi vẫn chưa có cơ hội đến ăn.

      “Chà, quang cảnh đúng là tuyệt,” em khi vừa bước chân vào căn hộ. đĩa nhạc của Alanis Morissette bật nhàng. “ tuyệt diệu.” Em nhìn quanh và thấy vải nhựa bọc vẫn còn ở chiếc ghế bành và ghế đẩu, và hóm hỉnh bảo, “Thế bao giờ mới chuyển tới đây?”

      “Ngay khi hai tiếng rỗi. lấy gì cho em uống nhé?”

      “Hừmm. Chắc chắn rồi, thế tốt quá.”

      ly Cosmopolitan nhé? cũng pha được cocktail gin-tonic rất ngon.”

      “Gin-tonic hay đấy, cảm ơn . Vậy chỉ vừa làm cho ông ấy, đúng ?”

      Dĩ nhiên em tìm hiểu về tôi, tôi ra tủ rượu vừa được chất đầy trong hốc tường cạnh bếp và lấy chai rượu gin Tanqueray Malacca.

      “Vừa tuần này thôi.” Em theo tôi vào bếp. Tôi lấy nắm chanh từ trong cái tủ lạnh gần-như-trống-rỗng và bắt đầu cắt làm đôi.

      “Nhưng ở Trion khoảng tháng rồi.” Em nghiêng đầu, cố hiểu được thăng chức đột ngột của tôi. “Bếp đẹp lắm. có tự nấu ăn ?”

      “Dụng cụ chỉ để trưng bày thôi,” tôi . Tôi bắt đầu ấn các nửa quả chanh vào máy vắt điện. “Dù sao đúng vậy, được tuyển vào bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, nhưng rồi đại khái là Goddard liên quan tới dự án làm, và đoán ông ấy thích cách tiếp cận của , hay ý tưởng gì gì đó.”

      “Đúng là may mắn,” em , lên giọng át tiếng ro ro điện của máy vắt.

      Tôi nhún vai. “Để xem xem có đúng là may mắn .” Tôi cho đá vào hai cốc vại thường dùng kiểu trong quán Pháp, rót ít rượu gin, rồi đổ đầy nước tonic lấy từ trong tủ lạnh và phần nước chanh vừa phải. Tôi đưa em cốc đồ uống.

      “Vậy Tom Lundgren hẳn tuyển cho đội của Nora. Ô này, là ngon. Chỗ chanh đó làm nên vị khác biệt đấy.”

      “Cảm ơn em. Đúng vậy, Tom Lundgren tuyển ,” tôi , giả vờ ngạc nhiên vì em biết.

      có biết mình được tuyển để lấp vị trí của em ?”

      “Là sao?”

      “Vị trí để khuyết khi em chuyển tới AURORA.”

      “Thế à?” tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.

      Em gật đầu. “ thể tin được.”

      “Chà, thế giới . Nhưng ‘AURORA’ là gì?”

      “Ồ, em tưởng biết.” Em liếc nhìn tôi từ phía gọng kính, ánh mắt dường như hơi quá bất chợt.

      Tôi lắc đầu ngây thơ. “...?”

      “Em đoán có lẽ cũng tìm hiểu về em. Em được phân làm tiếp thị cho nhóm Công nghệ Thay thế.”

      “Nó được gọi là AURORA à?”

      , AURORA là dự án cụ thể em được phân vào.” Em do dự giây. “Em tưởng làm cho Goddard, hẳn nhúng tay vào được mọi thứ.”

      Sơ suất chiến thuật ở phần tôi. Tôi muốn em nghĩ chúng tôi có thể thoải mái về bất cứ điều gì em làm. “Về lý thuyết có thể tiếp cận mọi thứ. Nhưng vẫn còn đoán xem máy sao chép ở đâu.”

      Em gật đầu. “ quý Goddard ?”

      Tôi gì được chứ, phải ? “Ông ấy rất đáng nể.”

      “Ở bữa tiệc ngoài trời của ông ấy, hai người dường như khá thân. Em thấy ông ấy gọi ra gặp bạn bè mình, và mang đồ cho ông ấy hay gì đó.”

      “Ờ, thân ,” tôi , châm biếm. “ là tên sai vặt. Là cơ bắp của ông ấy. Em thích bữa tiệc đó ?”

      “Ở quanh tất cả những người quyền thế đó cũng thấy hơi là lạ, nhưng sau vài cốc bia chuyện dễ dàng hơn. Chính là lần đầu tiên em tới đó.” Vì em được phân vào dự án cưng của ông ta, AURORA, tôi nghĩ. Nhưng tôi muốn tế nhị về nó, nên giờ tôi tạm buông ra. “Để gọi xuống nhà hàng bảo họ chuẩn bị bàn sẵn cho chúng ta.”



      biết , em nghĩ Trion tuyển từ bên ngoài đâu,” em , nhìn vào thực đơn. “Họ hẳn thực muốn , nên mới lách luật như thế.”

      nghĩ họ cho rằng họ cuỗm được . có gì đặc biệt cả.” Chúng tôi chuyển từ gin-tonic sang rượu Sancerre mà tôi gọi vì theo tôi thấy từ các hóa đơn rượu của em đây là loại rượu em ưa thích nhất. Em tỏ ra ngạc nhiên và hài lòng khi tôi gọi nó. Đó là phản ứng tôi bắt đầu quen.

      “Em nghi ngờ điều đó đấy,” em . “ làm gì ở Wyatt?”

      Tôi cho em phiên bản phỏng-vấn-xin-việc tôi còn nhớ, nhưng như thế chưa đủ. Em muốn biết chi tiết về dự án Lucid. “ thực được về những gì làm ở Wyatt, nếu em phiền,” tôi , cố tỏ vẻ quá lên mặt ta đây.

      Em ngượng nghịu, “Ồ, Chúa ơi, dĩ nhiên rồi, em hoàn toàn hiểu mà.”

      Bồi bàn tới. “ chị sẵn sàng gọi món chưa?”

      Alana , “ trước ,” và xem xét thực đơn thêm chút trong khi tôi gọi cơm thập cẩm.

      “Em nghĩ gọi món đó,” em . Được rồi, vậy em phải là người ăn chay.

      “Chúng ta được phép gọi cùng món mà,” tôi bảo.

      “Tôi cũng gọi cơm thập cẩm,” em với bồi bàn. “Nhưng nếu có thịt trong đó, như xúc xích chẳng hạn, loại ra được ?”

      “Dĩ nhiên rồi,” bồi bàn và ghi chép lại.

      “Em thích cơm thập cẩm,” em . “Em hầu như bao giờ ăn cá hay hải sản ở nhà. Đây đúng là món thú vị.”

      “Em vẫn muốn giữ nguyên rượu Sancerre chứ?” tôi bảo.

      “Chắc chắn rồi.”

      Khi bồi bàn quay , tôi đột nhiên nhớ ra Alana bị dị ứng tôm và lên tiếng. “Đợi chút, có tôm trong cơm thập cẩm ?”

      “Ừm, có đấy,” bồi bàn trả lời.

      “Đó có thể là vấn đề đấy,” tôi .

      Alana trân trối nhìn tôi. “Làm sao biết...” Em nheo mắt cất tiếng.

      khoảnh khắc căng thẳng đến khổ sở dài là dài trong khi tôi vắt óc ra nghĩ. Tôi tin nổi mình lại hớ như thế. Tôi nuốt mạnh và máu như cạn khỏi mặt. Cuối cùng tôi , “Ý em là em cũng dị ứng với nó?”

      khoảng lặng. “Đúng vậy. Xin lỗi. Buồn cười .” Đám mây nghi ngờ dường như tan . Chúng tôi đều đổi sang sò khô.

      “Dù sao,” tôi . “ về thế là đủ rồi. muốn nghe về AURORA.”

      “Chậc, chuyện đó cần phải giữ bí mật,” em xin lỗi.

      Tôi cười toe toét.

      , đây phải là ăn miếng trả miếng, em thề đấy,” em phản đối. “ đấy!”

      “Được rồi,” tôi với vẻ hoài nghi. “Nhưng giờ em làm tò mò rồi, em thực bắt phải mò mẫm và tự tìm hiểu chứ?”

      thú vị đến thế đâu.”

      tin. Ít nhất em cho biết vắn tắt được sao?”

      Em ngước lên và thở dài. “Chậc, như thế này này. bao giờ nghe về công ty Haloid chưa?”

      “Chưa,” tôi chậm rãi .

      “Dĩ nhiên là chưa. Chẳng có lý do gì phải nghe về nó. Nhưng công ty Haloid này là công ty giấy ảnh vào cuối những năm 1940 mua quyền sở hữu công nghệ mới mà tất cả các công ty lớn đều từ chối - IBM, RCA, GE. Phát minh đó là thứ có tên sao chụp khô, rồi chứ? Và trong mười hay mười lăm năm, công ty Haloid đổi thành Tập đoàn Xerox, và nó từ công ty gia đình trở thành tập đoàn khổng lồ. Tất cả bởi vì họ chấp nhận cơ hội với công nghệ ai mong muốn.”

      “Được rồi.”

      “Hay cách Tập đoàn sản xuất Galvin ở Chicago, chế tạo máy thu thanh hiệu Motorola cho ô tô, cuối cùng tiến vào lĩnh vực chất bán dẫn và điện thoại di động. Hay công ty thăm dò dầu khí gọi là Dịch vụ Địa Vật lý bắt đầu mở rộng sang bóng bán dẫn, rồi mạch tích hợp và trở thành Dụng cụ Texas. Vậy hiểu ý em rồi đó. Lịch sử công nghệ đầy những minh họa về các công ty chuyển mình nhờ nắm bắt đúng công nghệ vào đúng thời điểm, và bỏ các đối thủ cạnh tranh của mình lại đằng sau hít bụi. Đó là điều mà Jock Goddard cố làm với AURORA. Ông nghĩ AURORA thay đổi thế giới, và bộ mặt của nền thương mại Mỹ, cũng cái cách mà bóng bán dẫn, chất bán dẫn hay công nghệ sao chép từng làm được.”

      “Công nghệ Thay thế.”

      “Chính xác.”

      “Nhưng tờ Nhật báo Phố Wall nghĩ Jock bị gạt bỏ rồi.”

      “Cả hai chúng ta đều biết nhiều hơn thế. Ông ấy chỉ tiến nhanh hơn khỏi chỗ ngoặt mà thôi. Nhìn vào lịch sử công ty mà xem. Có ba hay bốn điểm mà ai cũng nghĩ Trion sắp lao xuống vực, bờ phá sản, và rồi đột nhiên nó làm mọi người sửng sốt và hồi phục mạnh mẽ hơn bao giờ hết.”

      “Em nghĩ đây là trong những điểm bước ngoặt đó hả?”

      “Khi AURORA sẵn sàng được công bố, ông ấy công bố. Và rồi để xem tờ Nhật báo Phố Wall được gì. AURORA khiến những rắc rối gần đây nhất hầu như chẳng là gì cả.”

      kinh ngạc.” Tôi nhìn vào ly rượu của mình và ôi--là-tự-nhiên, “Thế công nghệ đó là gì?”

      Em cười và lắc đầu. “Em có lẽ nên nhiều như thế.” Nghiêng đầu sang bên, em vừa đùa vừa , “ điều tra em hay sao thế?”

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :