Đồng Đạo - John Grisham(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 35

      T ay bác sĩ tâm thần là bạn của bác sĩ Hayani. Cuộc gặp thứ hai của Patrick với ông ta kéo dài trong hai tiếng và cũng có kết quả gì giống như lần trước. Đó là cuộc gặp cuối cùng.

      Patrick xin phép ra ngoài, và trở về phòng vào giờ ăn tối. ăn bao nhiêu trong khi mải theo dõi bản tin tối. Tên được nhắc tới. lại lại và thỉnh thoảng lại chuyện với những người gác. Sandy gọi suốt buổi chiều với những thông tin mới nhất, thế nhưng muốn được thấy các văn bản. cố đọc cuốn tiểu thuyết dày cộp. Vào lúc suýt soát tám giờ nghe thấy tiếng Sandy với người gác và hỏi thăm về tình hình người tù ra sao. Sandy khoái được nhắc tới với cái từ “người tù."

      Patrick đón bạn ở cửa. Người luật sư của mệt rũ, nhưng vẫn cười tươi. “Tất cả đều xong,” và trao cho Patrick xấp giấy tờ.

      “Còn những tài liệu và những cuộn băng kia sao?”

      “Chúng ta trao cho họ cách đây giờ. Phải có đến hơn chục nhân viên FBI vây xung quanh. Jaynes với tôi là họ làm việc suốt đêm đấy.”

      Patrick cầm các văn bản thỏa thuận và ngồi vào chiếc bàn làm việc kê bên dưới cái TV. đọc từng chữ cách thận trọng. Bữa chiều của Sandy là thứ đồ ăn nhanh được để sẵn trong cái túi, và đứng bên cạnh chiếc giường, vừa ăn vừa xem trận bóng bầu dục được ESPN truyền trực tiếp từ Australia, nhưng để tiếng.

      “Họ có kêu ca gì về khoản nửa triệu này ?" Patrick hỏi, mà nhìn lên.

      hề. có ai kêu ca gì cả.”

      “Có khi chúng ta có thể đòi thêm.”

      “Tôi nghĩ có đủ rồi.”

      Patrick lật trang, rồi ký tên vào đó. “Làm tốt lắm, Sandy. việc hoàn hảo.”

      “Chúng ta có ngày vui. Các cáo buộc của Liên bang được từ bỏ, các vụ kiện tụng dân được giải quyết. Khoản tiền trả cho luật sư được lo liệu. Tương lai của đứa trẻ được bảo đảm. Ngày mai chúng ta dứt điểm với Trudy. Mọi chuyện đâu vào đấy, Patrick. Có điều quá tệ là còn cái xác chết kia nữa.”

      Patrick để đám giấy tờ lại bàn và bước ra phía cửa sổ, lưng quay vào trong phòng. Tấm rèm được để mở và cánh cửa cũng được hé ra chừng chục phân.

      Sandy vẫn tiếp tục ăn và nhìn . “Lúc nào đó phải cho tôi biết thêm nữa, Patrick.”

      “Cho biết chuyện gì ?”

      “Rồi, để xem nào. Tại sao chúng ta lại bắt đầu với Pepper nhỉ ?"

      “Được thôi. Tôi giết Pepper.”

      “Vậy ai đó giết Pepper chăng ?”

      “Cái đó tôi biết.”

      “Pepper tự sát chăng ?”

      “Cái đó tôi cũng biết.”

      “Pepper có còn sống khi biến mất ?”

      "Tôi nghĩ vậy.”

      “Mẹ kiếp, Patrick! Mệt cả ngày rồi! Tôi muốn cái trò mèo đuổi chuột nữa đâu.”

      Patrick quay lại và nhàng . “Xin đừng có quát tướng lên. Ngoài kia còn có đám cảnh sát căng tai ra để nghe mọi chuyện đấy. Cứ ngồi xuống xem nào.”

      “Tôi muốn ngồi."

      “Nào.”

      “Tốt hơn là tôi cứ đứng thế này. Tôi nghe đây.”

      Patrick đóng cánh cửa sổ lại, kéo rèm, kiểm tra lại chốt cửa ra vào và tắt TV. trở lại vị trí quen thuộc của giường, ngồi, với tấm chăn kéo tới ngang hông. Sau khi yên vị, ôn tồn , “Tôi biết Pepper. hôm, cậu ta tới ngôi nhà săn để xin đồ ăn. Lúc đó là vào hôm trước lễ Giáng sinh năm 91. Pepper kể với tôi là sống ở trong rừng hầu hết thời gian. Tôi nướng thịt hun khói và làm trứng cho cậu ta và cậu ta ăn như kẻ chết đói vậy. Cậu ta lắp, rất nhút nhát và thoải mái khi ở bên tôi. Tất nhiên là tôi cũng tò mò. đứa trẻ như vậy, là mười bảy tuổi nhưng trông trẻ hơn thế, khá sạch , ăn mặc tử tế và có gia đình ở cách đó hai mươi dặm, nhưng lại sống trong rừng. Tôi làm cho cậu ta phải chuyện. Tôi hỏi về gia đình cậu ta, và được nghe câu chuyện buồn. Khi ăn xong, cậu ta muốn . Tôi mời ngủ lại, nhưng cậu ta dứt khoát đòi trở về chỗ cậu ta dựng lều.

      “Ngày hôm sau, tôi săn hươu, mình, và Pepper lần tìm được tôi. Cậu ta cho tôi xem cái lều xíu của mình, cùng cái túi ngủ. Cậu ta có dụng cụ nấu ăn, phích đá, cái đèn bão, và khẩu súng săn. Cậu ta hai tuần về nhà. rằng mẹ cậu ta có người bạn trai mới, người tồi tệ nhất trong nhiều năm qua. Tôi theo cậu ta vào sâu trong rừng để tới chỗ đàn hươu mà cậu ta phát . giờ sau, tôi bắn được con hươu đực lớn nhất mà tôi hạ được từ trước tới nay. Cậu ta khoe là thuộc cánh rừng đó như lòng bàn tay, và ngỏ ý cho tôi biết những bãi săn tốt nhất.

      vài tuần lễ sau, tôi trở lại ngôi nhà săn. Cuộc sống với Trudy là thể chịu nổi. Cả ta và tôi đều cần những ngày nghỉ cuối tuần. Pepper xuất bao lâu sau khi tôi tới. Tôi làm món thịt hầm và chúng tôi ăn ngon lành - thời gian đó tôi vẫn ăn dữ lắm. Cậu ta là vừa về nhà trong ba ngày, và lại bỏ sau trận cãi cọ với người mẹ. Cậu ta càng càng bớt cà lăm. Tôi bảo mình là luật sư và mấy chốc Pepper kể cho tôi nghe về những rắc rối pháp luật của cậu ta. Công việc gần đó nhất của Pepper là bơm xăng tại cây xăng ở Lucedale. khoản tiền bị mất so với sổ sách. Do mọi người đều nghĩ là Pepper chậm phát triển về đầu óc nên cứ đổ riệt cho cậu ta. Dĩ nhiên, cậu ta có liên quan gì tới chuyện tiền nong cả. Đó lại là lý do nữa để cậu ta vào sống ở trong rừng. Tôi hứa là tìm hiểu về vấn đề đó.”

      “Và bởi vậy ván bài bắt đầu.” Sandy .

      “Đại loại là thế. Chúng tôi còn gặp nhau ít lần nữa ở trong rừng.”

      “Lúc đó là gần tới ngày 9 tháng Hai.”

      “Đúng vậy. Tôi với Pepper rằng cảnh sát sắp sửa bắt cậu ta. Đó là chuyện dối trá. Tôi gọi cú điện thoại nào. thể. Nhưng càng chuyện trò tôi càng tin rằng cậu ta có biết điều gì đó về vụ mất tiền. Cậu ta sợ hãi và chỉ còn biết trông vào tôi. Chúng tôi bàn tính các khả năng cho cậu ta, và trong số đó là biến .”

      “Nghe có vẻ quen thuộc lắm.”

      “Cậu ta ưa người mẹ. Cảnh sát lùng bắt. Cậu ta sợ hãi và cũng thể sống suốt đời trong rừng. Cậu ta nghĩ tới chuyện sang miền Tây và làm chân hướng dẫn săn bắn trong các vùng núi. Chúng tôi lập kế hoạch. Tôi theo dõi báo chí cho tới khi thấy cái tin kinh khủng về học sinh trung học bị chết trong tai nạn xe lửa bên ngoài New Orleans. Tên cậu bé đó là Joey Palmer, nghe rất hay. Tôi bèn gọi cho tay chuyên làm giấy tờ giả ở Miami, người kiếm ra số thẻ bảo hiểm xã hội của Joey, và xong ! Trong vòng bốn ngày tôi bộ giấy tờ ngon lành cho Pepper. Bằng lái xe Louisiana, cùng với tấm ảnh rất giống, số thẻ bảo hiểm xã hội, giấy khai sinh, và cả tấm hộ chiếu.”

      nghe có vẻ dễ dàng.”

      “Đúng, còn dễ hơn cả những gì tôi . Chỉ tốn có chút tiền mặt và chút trí tưởng tượng. Pepper thích bộ giấy tờ mới của cậu ta lắm, và khoái cái cảnh được ngồi xe buýt, tới vùng núi kia. đấy, Sandy, thằng bé đó ngần ngại gì với chuyện bỏ mẹ nó lại đằng sau. hề có mảy may quan tâm nào.”

      “Cũng giống kiểu của .”

      “ Thôi được rồi. Dù sao vào hôm Chủ nhật, ngày 9 tháng Hai … ”

      “Ngày chết.”

      “Phải, để tôi nhớ lại nào. Tôi lái xe đưa Pepper tới bến xe buýt Greyhound ở Jackson. Tôi cho cậu ta mọi cơ hội quay trở lại, nhưng cậu ta hoàn toàn quyẽt tâm. những thế, mà còn phấn chấn nữa ấy chứ. Thằng bé tội nghiêp đó chưa bao giờ ra khỏi bang Mississippi. Chỉ chuyến tới Jackson cũng đủ làm cho nó sung sướng. Tôi rằng cậu ta còn bao giờ có thể quay trở lại, cho dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cậu ta hề nhắc gì đến mẹ cả. Suốt ba tiếng ngồi trong xe, lần.”

      “Cậu ta về đâu vậy ?”

      “Tôi phát được khu trại lâm trường ở phía bắc Eugene, bang Oregon, và tôi kiểm tra các tuyến xe buýt và lịch trình. Tôi viết lại tất cả cho cậu ta, và chúng tôi dượt lại cả chục lần đường ra bến xe buýt. Tôi cho cậu ta hai nghìn đôla tiền mặt và thả cậu ta xuống cách bến xe buýt hai khúc phố. Lúc đó là gần giờ chiều, và tôi có thể quay trở lại mà có nguy cơ bị ai nhìn thấy. Lần chót tôi nhìn Pepper cậu ta nhảy chân sáo, nụ cười rạng rỡ mặt, với cái túi ba lô lủng lẳng vai.”

      “Khẩu súng săn và bộ đồ cắm trại của thằng bé được tìm thấy trong ngôi nhà săn?”

      nó còn để đâu được nữa hả ?”

      “Lại là câu đố khác.”

      “Tất nhiên. Tôi muốn họ nghĩ rằng Pepper bị chết cháy trong chiếc xe.”

      “Giờ đây cậu ta ở đâu ?”

      “Tôi biết, và điều đó chẳng có gì quan trọng.”

      “Đó phải là điều tôi muốn hỏi, Patrick.”

      " quan trọng mà.”

      “Mẹ kiếp, đừng diễn trò với tôi nữa. Nếu tôi đưa ra câu hỏi tôi phải được nhận câu trả lời.”

      “Tôi trả lời khi nào tôi cảm thấy muốn.”

      “Sao cứ lảng tránh với tôi vậy ?"

      Giọng Sandy to lên, và gay gắt hơn, nhưng Patrick ngừng lại chút để bạn dịu xuống, cả hai đều thở chậm và cùng cố bình tĩnh.

      "Tôi lảng tránh, Sandy,” Patrick bình thản .

      “Mẹ kiếp, lại còn . Tôi phải rất cố để hiểu được điều bí , và trước mặt lại còn cả chục điều khác. Tại sao thể với tôi mọi chuyện hả ?"

      “Bởi vì cần phải biết tất cả.”

      “Hay lắm.”

      ư ? Lần cuối cùng mà bị cáo hình với tất cả mọi chuyện là khi nào vậy ?”

      " tức cười. Tôi nghĩ tên tội phạm hình .”

      “Vậy tôi là cái gì hả ?”

      người bạn, có lẽ thế.”

      “Công việc của dễ dàng hơn nhiều nếu nghĩ tôi là tên tội phạm đấy.”

      Sandy cầm những văn bản thỏa thuận từ mặt bàn lên và dợm bước ra cửa. “Tôi mệt và muốn nghỉ. Tôi trở lại vào ngày mai, và với tôi tất cả.”

      ra.

      oOo

      Cái đuôi bám theo bị Guy phát lần đầu hai ngày trước đó, khi họ rời khỏi sòng bạc. gương mặt quen quen quay vội hơi nhanh chút. Thế rồi, chiếc xe sau họ hơi quá lâu. Guy có kinh nghiệm trong những chuyện này, và ta báo lại với Benny, người cũng thường xuyên lái xe. “Chắc phải là tụi Liên bang,” Guy . “Còn ai vào đấy được chứ ?”

      Họ lập kế hoạch rút khỏi Biloxi. Các đường điện thoại đến ngôi nhà thuê kia được cắt bỏ. Những người khác được cho rút . Họ chờ đến lúc trời tối. Guy lên đường trong chiếc xe, chạy theo hướng đông để tới Mobile, nơi ta ngủ lại đêm đó để quan sát các động tĩnh phía sau và rồi lên chuyến bay vào sáng hôm sau. Benny về phía tây, dọc theo xa lộ 90 bờ biển, rồi băng ngang qua vùng Hồ Ponchartrain để vào New Orleans, thành phố mà ông ta rất rành. Ông ta quan sát thận trọng nhưng phát gì ở phía sau. Ung dung, Benny xơi món sò tươi ở khu phố Pháp, sau đó lên chiếc tăcxi ra sân bay. Ông ta bay Memphis, rồi tới O’Hare và ở suốt đêm tại sân bay. Rồi lên tiếp chuyến bay New York vào lúc tảng sáng.

      FBI vẫn có mặt ở Boca Raton, giám sát ngôi nhà của ông ta. Thụy Điển vẫn còn ở đó. Họ đồ rằng ả sắp bỏ trốn đến nơi, và việc bám theo là quá dễ dàng.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 36

      C hưa có vụ thả người nào lại diễn ra êm ả đến thế. Eva bước ra khỏi trung tâm giam giữ của Liên bang, và trở thành người tự do, vào lúc tám rưỡi sáng, cũng vẫn trong bộ quần áo mà nàng mặc khi bị đưa vào đó. Những người gác có thái độ nhã nhặn; các nhân viên văn phòng làm việc chóng vánh đến ngạc nhiên; và tay giám thị thậm chí còn chúc nàng khỏe. Mark Birck đưa nàng ra xe của ông ta, chiếc Jaguar cũ song còn khá đẹp mà ông ta cho cọ rửa tử tế nhân dịp này, và gật đầu chào hai người hộ tống của họ. “Đó là các nhân viên FBI,” ông ta với nàng, hất hàm về phía hai người đàn ông chờ trong chiếc xe đậu gần đó.

      “Tôi nghĩ là chúng ta xong việc với họ rồi đấy,” nàng .

      hẳn thế.”

      “Tôi phải vẫy chào hay làm gì chăng ?”

      . Cứ vào xe thôi.” Ông ta mở cửa xe cho nàng, nhàng đóng lại, và trong giây ngẩn người trước cái mui xe bóng loáng, rồi bước nhanh vòng sang bên ghế lái.

      “Đây có bức thư của Sandy McDermott gửi bằng fax đến cho tôi,” ông ta trong khi cho xe nổ máy và chuyển bánh. “Hãy xem .”

      “Chúng ta đâu thế này ?” Nàng hỏi.

      “Ra sân bay, nhà ga chính. Có chiếc phản lực chờ ở đó.”

      “Để đưa tôi đâu ?”

      “New York.”

      “Và rồi đâu ?”

      “Luân Đôn, chuyến Concorde.”

      Họ đường phố đông đúc, với các nhân viên FBI bám theo đằng sau. “Sao họ lại theo chúng ta hả ?" Nàng hỏi.

      “Để bảo vệ.”

      Nàng nhắm mắt lại và đưa tay lên trán, nghĩ tới Patrick ở trong căn phòng bé của ở bệnh viện, chán chường, chẳng còn biết làm gì ngoài việc nghĩ tới những nơi phải đưa nàng đến. Thế rồi, nàng chợt nhìn thấy chiếc điện thoại gắn trong xe. “Tôi có thể dùng được ?” Nàng hỏi và đưa tay nhấc máy.

      “Tất nhiên.” Birck chạy rất thận trọng, quan sát các gương tử tế như thể lái xe cho Tổng thống.

      Eva gọi về Braxin, dùng tiếng mẹ đẻ, và có cuộc tái đoàn tụ cảm động với cha nàng, qua vệ tinh. Ông hoàn toàn khỏe mạnh, và nàng cũng vậy. Cả hai đều được tự do, tuy rằng nàng với ông về việc nàng ở đâu trong mấy ngày qua. Ông thậm chí còn đùa rằng sau cùng trò bắt cóc cũng đến nỗi khủng khiếp lắm. Ông được đối xử tử tế; mình mẩy vết thâm tím nào. Nàng hứa là sớm trở về. Công việc của nàng ở Mỹ gần xong, và nàng rất nhớ nhà.

      Birck nghe thấy hết, mặc dù muốn, nhưng lại chẳng hiểu nổi từ nào. Khi nàng gác máy và lau nước mắt, ông ta , “Trong bức thư đó có mấy số máy điện thoại, ngừa trường hợp lại bị nhân viên hải quan giữ lại. FBI rút lệnh tìm kiếm của họ, và họ cũng đồng ý để lại với tấm hộ chiếu đó trong bảy ngày tới.”

      Nàng nghe nhưng gì.

      '“Cũng còn có số máy ở Luân Đôn, nếu như có chuyện gì đó xảy ra ở sân bay Heathrow.”

      Sau cùng nàng mở bức thư ra. Đó là thư của Sandy, giấy có tiêu đề của . Mọi việc diễn ra tốt đẹp, và nhanh chóng, ở Biloxi. Gọi cho ta ở căn hộ tại khách sạn khi nàng tới sân bay JFK. có những chỉ dẫn thêm. cách khác, với nàng những điều mà ông Birck đây nên biết.

      Họ đến cái nhà ga chính rất bận rộn ở mặt bắc của sân bay quốc tế Miami. Hai nhân viên FBI ở lại xe của họ trong khi Birck đưa nàng vào bên trong. Các phi công chờ sẵn. Họ chỉ tay về phía chiếc máy bay phản lực , rất đẹp, đậu ngay bên ngoài, sẵn sàng đưa nàng tới bất kỳ đâu mà nàng muốn. “Đưa tôi tới Rio,” nàng suýt buột miệng.

      Nàng bắt tay Birck, cảm ơn ông ta về tất cả, và lên máy bay. có hành lý gì. cả cái áo để thay. Patrick phải trả giá đắt về việc này. Cứ để tới Luân Đôn ; để nàng có ngày ở Bond và Oxford. Nàng số lượng quần áo mà cái máy bay này cũng chở nổi cho mà xem.

      oOo

      Vào lúc còn sớm như thế này mà trông J.Murray rất mệt mỏi và nhếch nhác. Ông ta cố gượng chào thư ký ra mở cửa và nhận lời dùng ]y cà phê đen, đặc. Sandy chào hỏi, giúp ông ta cởi cái áo khoác nhầu nhĩ và mời ông ta vào trong phòng khách, nơi họ cùng ngồi xem lại văn bản thỏa thuận về tài sản.

      “Như thế này tốt hơn nhiều,” Sandy sau khi đọc xong. Trudy ký thỏa thuận. J.Murray thể chịu nổi chuyến viếng thăm nữa của ả và cái gã đĩ đực kia. Ngày hôm trước, ả và Lance cãi lộn tại văn phòng của ông ta. J.Murray lo những vụ ly hôn bẩn thỉu trong nhiều năm, và ông ta dám đánh cá rằng Lance còn lại được mấy ngày nữa bên Trudy. căng thẳng về tài chính giày vò ả.

      “Chúng tôi ký,” Sandy .

      “Lại còn sao ? Các ông được mọi điều các ông muốn.”

      "Đó là giải pháp công bằng, với hoàn cảnh cụ thể.”

      "Phải, phải.”

      “Này, Murray, có diễn biến quan trọng liên quan đến thân chủ của ông và vụ kiện của ta với Northern Case Mutual.”

      ."

      “Đuợc rồi, có nhiều chuyện xung quanh nhưng liên quan tới thân chủ của ông, nhưng điểm mấu chốt là thế này: Northern Case Mutual đồng ý bãi nại đối với Trudy.”

      J.Murray ngồi lặng mất mấy giây, rồi mới mấp máy môi. “Chuyện đùa chăng ?”

      Sandy với lấy bản sao văn bản thỏa thuận với Northern Case Mutual. bôi đen những đoạn nhạy cảm, nhưng quá đủ cho J.Murray.

      “ Ông đùa đây ư,” ông ta lẩm bẩm trong khi đưa tay cầm lấy tờ giấy, nhìn lướt qua những hàng chữ bị bôi đen mà mảy may tò mò gì, và dừng lại ở trọng tâm của vấn đề, hai đoạn được kẻ kiểm duyệt kia giữ nguyên lại. Ông ta đọc ràng và chính xác phần nội dung tuyên bố từ bỏ ngay lập tức vụ kiện chống lại thân chủ của mình. Ông ta thèm biết vì sao lại có chuyện đó. bức màn bí dường như thể chọc thủng được bao bọc lấy Patrick, và ông ta có ý định hỏi gì nữa.

      bất ngờ thú vị,” ông ta .

      "Tôi nghĩ là ông thích nó.”

      ta được giữ lại tất cả ư ?"

      “Tất cả những gì mà ta còn lại.”

      J.Murray từ từ đọc lại lần nữa. “Tôi có thể giữ tờ này được ?" Ông ta hỏi.

      . Đó là chuyện bí mật. Nhưng đơn xin bãi nại được trình tòa ngày hôm nay, và tôi fax cho ông bản sao.”

      “Xin cảm ơn.”

      “Còn mục nữa,” Sandy . đưa cho J.Murray bản sao văn bản thỏa thuận với Monarch-Sierra, cũng được kiểm duyệt tương tự. “Hãy nhìn vào trang bốn, đoạn thứ ba.”

      J.Murray đọc đoạn về việc lập quỹ ủy thác hai trăm năm mươi nghìn đôla cho bé Ashley Nicole Lanigan. Sandy McDermott là người quản lý quỹ này. Tiền trong đó chỉ được dùng cho việc chăm sóc con bé về sức khỏe và học hành, và phần dùng hết được trả thẳng cho con bé vào ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của nó.

      “Tôi còn biết gì.” Miệng vậy, thế nhưng, đầu ông ta nghĩ tới việc thông báo lại chuyện này như thế nào tại văn phòng của mình.

      Sandy phẩy tay, ra vẻ chuyện có gì.

      “Còn gì nữa ?” J.Murray hỏi với nụ cười rạng rỡ.

      "Có thế thôi. Vụ ly hôn được giải quyết. là dễ chịu.”

      Họ bắt tay và J.Murray ra về, với những bước chân nhanh nhẹn hẳn. mình trong thang máy, đầu ông ta cứ rộn lên về việc với Trudy, rằng ông ta phải quyết liệt với bọn bất lương đó như thế nào, tức đến tận cổ với những đòi hỏi vô lối của họ, xông vào giữa cuộc họp của họ và đe dọa phiên tòa gay gắt ra làm sao, trừ phi họ chịu có những nhượng bộ. Ông ta lo nhiều vụ như vậy - và có tiếng là kẻ to mồm trong tòa án. Mặc những lời tố cáo về chuyện ngoại tình! Mặc những tấm ảnh khỏa thân! Thân chủ của ông ta có sai trái nhưng vẫn có quyền được hưởng công bằng. Còn có đứa trẻ tội nghiệp cần được bảo vệ ở đây!

      Ông ta họ phải chịu thua và chạy dài như thế nào. Ông ta đòi lập quỹ ủy thác cho con bé, và Patrick suy sụp trước những tội lỗi của chính . Rồi họ phải nài nỉ để được nộp ra hai trăm năm mươi nghìn đôla.

      Và ông ta chiến đấu quyết liệt để bảo vệ tài sản cho thân chủ của mình, người làm gì sai trái khi nhận hai triệu rưỡi đôla kia. Do lo sợ, họ phải co lại và tìm cách nào đó để khỏi động đến tiền của Trudy. Vào lúc này những chi tiết cụ thể còn chưa ràng, nhưng mà ông ta bỏ ra tiếng để lo về chuyện này. Đến lúc ông ta trở lại văn phòng, đó thắng lợi tuyệt vời.

      oOo

      Những cặp lông mày nhướng lên tại quầy vé Concorde ở sân bay JFK chỉ bởi vì nàng có hành lý gì. giám sát viên được gọi đến và tiếp theo đó là cuộc hội ý trong lúc Eva phải cố gắng lắm để giữ bình tĩnh. Nàng thể nào chịu được vụ bắt giữ nữa. Nàng Patrick, nhưng đương gì thế này cũng là quá đáng lắm rồi. Mới chẳng bao xa, nàng nghề nghiệp đầy triển vọng với tư cách là luật sư ngay trong cái thành phố mà nàng quý. Thế rồi, Patrick xuất .

      Bỗng nhiên, ở đâu cũng thấy những nụ cười nồng nhiệt của những người . Nàng được đưa vào phòng đợi của chuyến bay Concorde, nơi nàng dùng ly cà phê, và gọi cho Sandy ở Biloxi.

      khỏe ?” hỏi khi nhận ra giọng nàng.

      “Tôi khỏe, Sandy. ở JFK, đường di Luân Đôn. Patrick thế nào ?”

      “Tuyệt vời. Chúng tôi thỏa thuận xong với bên Liên bang.”

      “Bao nhiêu ?”

      trăm mười ba triệu,” đáp, và chờ phản ứng của nàng. Patrick hoàn toàn hờ hững khi được biết về số tiền phải trả lại này. Và nàng cũng vậy.

      “Bao giờ ?” Nàng chỉ hỏi có vậy.

      “Tôi có những chỉ dẫn sau khi tới Luân Đôn. Có phòng được đặt sẵn ở khách sạn Four Seasons với tên Leah Pires.”

      “Vậy là tôi lại được mang cái tên đó."

      “Gọi cho tôi khi đến nơi nhé.”

      với Patrick rằng tôi vẫn ấy, ngay cả sau khi bị tống vào tù.”

      “Tôi gặp ta tối nay. Cẩn thận đấy.”

      “Chào.”

      oOo

      Với những nhân vật quan trọng như vậy có mặt trong thành phố, Mast thể nào cưỡng lại được cơ hội gây ấn tượng với họ. Tối hôm trước, sau khi nhận được những tài liệu và những cuộn băng kia, ông ta cho các nhân viên của mình gọi tới tất cả các thành viên của đoàn đại bồi thẩm và báo với họ về cuộc họp khẩn cấp. Với năm phụ tá, ông ta cùng với FBI phân loại và sắp xếp các tài liệu, rời văn phòng vào lúc ba giờ sáng, và trở lại đó sau năm tiếng đồng hồ.

      Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm diễn ra vào buổi trưa, với bữa ăn được phục vụ. Hamilton Jaynes quyết định quanh quẩn ở lại đủ lâu để dự cuộc họp đó, Sprawling của Bộ Tư pháp cũng vậy. Patrick là nhân chứng duy nhất.

      Theo thỏa thuận giữa họ, được đưa đến, vẫn bị khóa tay, trong chiếc xe có phù hiệu của FBI và vào theo lối cổng phụ của tòa nhà Tòa án Liên bang tại Biloxi. Sandy ngồi cùng xe. Patrick mặc chiếc quần kaki rộng thùng, áo ngắn tay, chân mang giầy thể thao; tất cả là do Sandy mua cho . Trông xanh và gầy, nhưng thấy tập tễnh gì lúc bước . Thực là Patrick cảm thấy rất khỏe khoắn.

      Mười sáu vị bồi thẩm ngồi quanh chiếc bàn dài, bởi vậy có tới nửa quay lưng ra cửa khi Patrick bước vào với nụ cười miệng. Những người nhìn trực diện được vào lập tức quay cả lại. Jaynes và Sprawling ngồi trong góc phòng, cũng tò mò khi lần đầu tiên nhìn thấy Patrick Lanigan.

      Patrick ngồi ở cuối bàn, chiếc ghế dành cho nhân chứng, và tất cả đều đổ dồn mắt về phía . cần chờ Mast thúc giục nhiều để bắt đầu kể lại câu chuyện của mình, hay ít nhất cũng là phần của câu chuyện đó. cảm thấy thoải mái và thư thái, phần nào là vì cái đoàn đại bồi thẩm này còn thể nào động được tới . tự giải phóng mình ra khỏi bàn tay của luật pháp Liên bang.

      bắt đầu với Hãng luật, các cổ đông của Hãng, nhân thân của họ, các thân chủ, lề thói công việc, và dần dần dẫn dắt câu chuyện tới với Aricia.

      Mast ngắt lời Patrick, và trao tài liệu mà xác nhận là bản hợp đồng giữa Hãng luật và Aricia. Bản hợp đồng đó dài bốn trang, nhưng có thể tóm tắt lại là thỏa thuận cơ bản về việc Hãng luật được phần ba của bất kỳ khoản tiền nào mà Aricia có được nhờ việc nộp đơn tố giác Hãng Platt & Rockland Industries.

      “Và làm sao mà ông có được văn bản này ?” Mast hỏi.

      “Thư ký của ông Bogan đánh máy nó. Các máy tính của chúng tôi nối với nhau, và tôi chỉ việc lấy nó ra.”

      “Có phải vì vậy mà bản này có chữ ký ?"

      “Đúng vậy. Bản gốc có thể nằm trong hồ sơ của ông Bogan.”

      “ Ông có ra vào phòng làm việc của ông Bogan ?”

      “Hãn hữu,” Patrick đáp, và giải thích về thói giữ bí mật của ông ta. Rồi tới chuyện ra vào các phòng làm việc khác, rồi câu chuyện đầy hấp dẫn về những phiêu lưu của Patrick vào trong thế giới của những hoạt động gián điệp đại. Bởi lẽ rất nghi ngờ Aricia, bắt đầu việc thu thập thông tin càng nhiều càng tốt. tự học về hoạt động gián điệp điện tử. giám sát các máy tính cá nhân trong Hãng. lắng nghe những lời bàn tán xầm xì. căn vặn các thư ký và các trợ lý. sục sạo cả cái sọt rác trong phòng đặt máy photocopy. làm việc trong cả những giờ nghỉ với hy vọng bắt gặp những cánh cửa phòng để ngỏ.

      Sau hai giờ, Patrick xin chai nước ngọt. Mast tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Thời gian trôi quá nhanh bởi lẽ tất cả những người nghe đều bị cuốn hút.

      Khi nhân chứng từ phòng vệ sinh trở ra, họ nhanh chóng ngồi vào trở lại, nôn nóng muốn được nghe tiếp Mast hỏi số câu về tố giác chống lại Platt & Rockland, và Patrick mô tả lại cách khái quát. “Ông Aricia rất khéo léo. Ông ta làm trò tính tiền hai lần, thế nhưng vẫn đẩy trách nhiệm sang được cho những người ở văn phòng Hãng. Ông ta chính là cái động lực ngầm đằng sau những chi phí quá mức.”

      Mast đặt xấp tài liệu bên cạnh Patrick. nhấc trong số đó lên và chỉ liếc mắt biết mọi nội dung trong đó. “Đây là ví dụ về việc trả tiền cho những lao động ma ở Xưởng đóng tàu New Coastal. Nó là báo cáo được làm máy tính về lao động trong tuần của tháng sáu năm 1988. Nó liệt kê danh sách bốn mươi tám nhân viên, tất cả đều là những cái tên ma, và chi trả lương tuần cho số này. Tổng cộng là bảy mươi mốt nghìn đôla.”

      “Những cái tên đó được lựa chọn như thế nào ?" Mast hỏi.

      “Vào thời điểm đó, có tám nghìn lao động ở New Coastal. Họ chọn những cái tên họ , loại phổ thông - Jones, Johnson, Miller, Green, Young - và đổi tên đầu.”

      “Bao nhiêu tiền công lao động được báo cáo giả mạo ?"

      “Theo hồ sơ của Aricia, con số đó là mười chín triệu trong thời gian bốn năm.”

      “ Ông Aricia có biết việc giả mạo này ?”

      “Có, chính ông ta thực trò này.”

      “Và làm sao mà ông biết được vậy ?"

      “Những cuộn băng kia đâu ?”

      Mast đưa cho tờ giấy đó có danh mục những cuộn băng ghi lại hơn sáu mươi cuộc chuyện. Patrick xem chừng phút. “Tôi nghĩ rằng đó là cuộn băng số mười bảy,” . phụ tá của Mast lấy ra cuộn băng đó, nhét nó vào máy ghi để giữa bàn.

      Patrick , “Đây là Doug Vitrano chuyện với Jimmy Havarac, hai trong số các cổ đông ở Hãng luật, trong phòng làm việc của Vitrano, vào ngày 3 tháng Năm năm 1991.”

      Cái máy ghi được bật lên, và họ chờ nghe những tiếng .

      Tiếng đầu tiên: Làm sao mà người ta có thể tống thêm vào đó tới mười chín triệu đôla tiền lương ma hả ?

      “Đó là Jimmy Havarac,” Patrick .

      Tiếng thứ hai: Điều đó khó.

      “Và đó là Doug Vitrano,” Patrick .

      Vitrano: Tiền lao động phải chi trả ở mức năm mươi triệu đôla năm. Trong bốn năm, con số đó là hơn hai trăm triệu. Vậy họ cũng chỉ cộng thêm vào đó có mười phần trăm. Con số đó lẫn vào trong hàng đống giấy tờ thôi mà.

      Havarac: Và Aricia biết điều đó chứ ?

      Vitrano: Biết ư ? Mẹ kiếp, chính ông ta làm trò đó mà.

      Havarac: tiếp xem nào, Doug.

      Vitrano: Tất cả đều là trò ma. Jimmy. tố giác này của lão ta, xét từ mọi khía cạnh, đều là trò ma hết. Tiền lao động, những hóa đơn được khai khống lén, những trò tính tiền gấp đôi, gấp ba đối với các thiết bị đắt giá. Tất cả. Aricia tính toán chuyện này ngay từ đầu, và chẳng qua là tình cờ lão ta lại làm việc cho cái Hãng có tiền sử lâu dài trong việc đánh cắp của chính phủ. Lão ta biết Hãng đó hoạt động như thế nào. Lão ta biết Lầu Năm Góc hoạt động như thế nào. Và lão ta đủ xảo quyệt để bày đặt mưu này.

      Havarac: Ai với ông chuyện này ?

      Vilrano: Bogan. Aricia với Bogan tất tần tật. Bogan lại lại với ông Thượng nghị sĩ tất tần tật. Chúng ta cứ ngậm miệng làm theo, và tất cả chúng ta trở thành triệu phú.

      Những tiếng im hẳn và cuộn băng, được Patrick biên tập lại đâu vào đấy từ mấy năm trước, kết thúc.

      Các vị bồi thẩm chỉ còn biết nhìn chòng chọc vào chiếc máy. “Chúng tôi có thể nghe thêm nữa ?” trong số họ hỏi.

      Mast nhún vai và nhìn vào Patrick. , “Tôi nghĩ đó là ý kiến rất tuyệt.”

      Với những bình luận của Patrick và thỉnh thoảng lại còn những phân tích rất phong phú, họ mất gần ba giờ để nghe lại những cuộn băng. Cuộn băng ghi lại cuộc chuyện trong phòng để đồ được để dành lại cuối cùng, và được nghe nghe lại tới bốn lần trước khi các vị bồi thẩm chịu dừng lại. Vào lúc sáu giờ, họ gọi tiệm ăn gần đó mang bữa chiều tới.

      Vào lúc bảy giờ Patrick được phép ra về.

      Trong lúc ăn uống, Mast bàn thêm tới vài cuộn băng đáng chú ý nhất, ông ta về dính dáng tới nhiều đạo luật Liên bang. Và rằng với những tiếng của những kẻ bất lương kia bị ghi lại sống dộng băng, vụ đồng lõa lừa đảo này bị vạch trần.

      Vào lúc tám giờ rưỡi, đoàn đại bồi thẩm bỏ phiếu nhất trí truy tố Benny Aricia, Charles Bogan, Doug Vitrano, Jimmy Havarac, và Ethan Rapley về tội lợi dụng luật pháp để mưu toan lừa đảo. Nếu bị kết tội, mỗi người có thể phải chịu án mười năm tù, và bị phạt tiền tới năm trăm nghìn đôla.

      Thượng nghị sĩ Harris Nye được đề cập đến như kẻ đồng lõa bị truy tố, mệnh danh tạm thời hoàn toàn có khả năng được thay đổi theo hướng nghiêm khắc hơn. Sprawling, Jaynes, và Maurice Mast đề ra chiến lược trước tiên truy tố những con cá , rồi gây sức ép để dàn xếp các thỏa thuận nhằm chộp con cá lớn. Họ quyết săn đuổi Vitrano, Rapley và Havarac bởi vì họ căm ghét Charles Bogan.

      Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm ngừng lại vào lúc chín giờ tối. Mast làm việc với cảnh sát Liên bang và dự kiến các vụ bắt giữ vào sáng sớm ngày hôm sau. Jaynes và Sprawling bay chuyến muộn từ New Orleans trở về D.C..

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 37

      T ôi có lần xử lý vụ tai nạn xe, ngay sau khi tôi vào làm cho Hãng. Vụ tai nạn xảy ra ở đường 40, quận Stone, gần Wiggins. Các thân chủ của chúng tôi về hướng bắc khi chiếc xe tải từ đường nhánh chạy ra, ngay phía trước mặt họ. vụ khủng khiếp. Có ba người trong chiếc xe của phía chúng tôi, người lái xe bị chết, vợ ta bị thương nặng, đứa trẻ ngồi ở ghế sau gẫy chân. Chiếc xe tải kia là của công ty giấy, được bảo hiểm khá nhiều tiền, và bởi vậy vụ đó có khả năng được đền bù lớn. Họ giao cho tôi, và tôi rất hăng hái vào cuộc bởi mình là người mới. Chiếc xe tải kia có lỗi là điều có gì phải nghi ngờ, nhưng người lái nó, hề bị thương, cho rằng chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy quá tốc độ. Điều đó trở thành vấn đề lớn - chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy với tốc độ bao nhiêu ? Tay chuyên gia dựng lại trường của tôi ước tính khoảng sáu mươi dặm giờ, đến nỗi quá đáng lắm. Tốc độ cho đường cao tốc là năm mươi lăm; và mọi người đều chạy ít nhất là sáu mươi. Các thân chủ của tôi đường đến Jackson để thăm gia đình, và có gì phải vội vàng.

      “Tay chuyên gia dựng lại trường do Hãng bảo hiểm của chiếc xe tải kia thuê lại ước tính là bảy mươi lăm, và tất nhiên, điều này gây khó khăn lớn cho vụ kiện của chúng tôi. Bất kỳ hội thẩm đoàn nào cũng cau mày với việc vượt quá tốc độ cho phép tới hai mươi dặm. Chúng tôi tìm được nhân chứng, ông già trong số hai hay ba người gì đó có mặt tại trường lúc đó. Tên ông ta là Clovis Goodman, tám mươi mốt tuổi, mù mắt và chỉ nhìn được bằng mắt kia.”

      "Thế cơ à ?” Sandy hỏi.

      “Phải, nhưng thị lực của ông ta chỉ giảm ở mức nào đó. Ông ta vẫn lái được xe, và vào hôm đó, khi chạy xa lộ với chiếc xe thùng Chevolet đời 1968 chiếc xe của thân chủ chúng tôi vượt qua. Thế rồi, mới chỉ qua mỏm đồi tiếp theo đó ông thấy vụ tai nạn. Clovis là ông già rất đôn hậu, sống có mình, có người thân, bị lãng quên, và rất xúc động trước vụ tai nạn khủng khiếp này. Ông ta cố gắng giúp đỡ cho các nạn nhân, và quanh quẩn ở đó lúc rồi mới . Ông ta hề chuyện gì với bất kỳ ai. Ông ta quá buồn. Sau này, ông ta với tôi là mất ngủ tuần.

      “Đại khái là chúng tôi được tin là trong những nhân chứng đến sau đó quay video lại trường vụ tai nạn trong khi xe cứu thương, xe cảnh sát và xe cứu hỏa còn ở đó. Giao thông bị chặn lại, người ta chán nản và có trời mà biết, họ quay video những thứ gì. Vậy là chúng tôi mượn cuộn băng. trợ lý xem kỹ và ghi lại tất cả các biển số xe. Rồi ta tìm các chủ xe, cố kiếm các nhân chứng. Vì thế mà chúng tôi tìm được Clovis. Ông ta rằng thực nhìn thấy vụ tai nạn, nhưng quá buồn nên muốn gì với ai. Tôi xin được đến thăm, và ông ta đồng ý.

      “Clovis sống trong vùng nông thôn, bên ngoài Wiggins, trong ngôi nhà gỗ mà ông ta và vợ làm từ thời trước chiến tranh. Bà vợ chết từ nhiều năm. Người con duy nhất, lại hư hỏng, của ông ta cũng vậy. Ông ta có hai cháu nội: sống ở Califorrnia và sống ở gần Hattiesburg, và gặp mặt trong nhiều năm. Tôi được nghe tất cả những điều đó trong vòng tiếng đồng hồ đầu tiên. Clovis là ông già độc, thoạt đầu cộc cằn bởi lẽ dường như tin vào các luật sư và muốn mất thời gian, nhưng chẳng bao lâu sau lại đun nước sôi để pha cà phê và ngồi kể lể những chuyện kín trong gia đình. Chúng tôi ngồi ngoài hiên, những cái ghế đu với hơn chục con mèo quây dưới chân, và về mọi chuyện, chỉ trừ cái vụ tai nạn kia. Cũng may hôm ấy là thứ bẩy nên tôi có thời gian rảnh và phải lo về chuyện ở Hãng. Ông ta là người có tài kể chuyện. Cuộc “Suy thoái kinh tế" là đề tài ưa thích, cùng với cuộc chiến tranh. Sau vài tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng nhắc tới vụ tai nạn kia, và ông ta trở nên trầm lặng, trông đầy đau đớn và khẽ khàng với tôi rằng mình chưa thể nào tới chuyện đó. Ông ta bảo có biết vài điều quan trọng, nhưng chưa phải lúc ra được.

      Tôi hỏi ông ta chạy với tốc độ bao nhiêu khi chiếc xe của thân chủ chúng tôi vượt qua. Ông ta là chưa bao giờ chạy quá năm mươi. Song khi tôi liệu ông ta có thể áng chừng được tốc độ chiếc xe của thân chủ chúng tôi ông ta chỉ lắc đầu.

      “Hai ngày sau, tôi ghé lại vào lúc chiều muộn, và chúng tôi lại ngồi ngoài hiên trò chuyện về đề tài chiến tranh. Vào lúc sáu giờ, Clovis kêu đói bụng, rằng thích món cá trê, và hỏi tôi có muốn cùng ăn tối . Lúc đó tôi chưa lấy vợ, và bởi vậy sẵn sàng ngay. Tất nhiên là tôi lái xe còn ông ta chuyện. Chúng tôi được ăn món cá trê béo ngậy với giá sáu đôla suất no nê. Clovis ăn rất chậm, cằm chỉ cách đĩa thức ăn có dăm bảy phân. bồi bàn để hóa đơn thanh toán lên bàn và Clovis hề để mắt tới. Nó nằm đấy có tới mười phút. Ông ta vẫn vừa ăn vừa nhồm nhoàm. Tôi tính rằng chi tiền cho bữa ăn tối đó cũng đáng nếu như Clovis lại những gì ông ta biết. Sau cùng, chúng tôi rời khỏi đó và đường trở về ngôi nhà của mình, ông ta là muốn uống lon bia, chỉ thôi là đủ, và đó là lúc mà chúng tôi tới gần cửa hàng. Tôi dừng xe. Ông ta nhúc nhích, và bởi vậy lại tôi là người mua bia. Chúng tôi vừa đường vừa uống, và ông ta muốn giới thiệu với tôi nơi ông ta lớn lên. xa lắm, ông ta vậy. Hết con đường này tới con đường kia, và sau hai mươi phút tôi còn biết là mình ở đâu nữa. Clovis nhìn được lắm. Ông ta muốn lon bia nữa. Tôi hỏi người bán hàng phương hướng rồi Clovis và tôi lại lên đường. Ông ta chỉ lối này lối kia, và sau cùng chúng tôi tới thị trấn Necaise Crossing ở quận Hancock. Vừa đến đó, ông ta lập tức bảo là có thể quay về được rồi. Ông ta quên chuyện về ngôi nhà tuổi thơ của mình. Lại bia nữa. Lại phải hỏi đường từ những người bán hàng.

      “Khi về gần tới ngôi nhà của ông ta, tôi nhận ra chúng tôi ở đâu, và tôi bắt đầu hỏi về vụ tai nạn. Ông ta vẫn còn quá đau thương để có thể nhắc lại. Tôi đưa ông ta vào nhà và ông ta nằm vật xuống chiếc xôpha, ngáy khò khò. Lúc đó gần nửa đêm. Chuyện cứ như vậy gần tháng trời. Ngồi ngoài hiên. ăn món cá trê vào các ngày thứ ba. uống bia. Khoản tiền bảo hiểm có giới hạn là hai triệu đôla. Trường hợp của thân chủ chúng tôi đáng được hưởng tất cả, và lời chứng của Clovis ngày càng trở nên quan trọng mặc dù ông ta hề biết điều đó. Clovis bảo đảm với tôi rằng chưa hề có ai khác liên hệ với ông ta về vụ tai nạn, bởi thế điều cốt lõi là tôi phải tóm được những lời xác nhận của ông ta trước khi người của Hãng bảo hiểm mò tới.”

      bao nhiêu thời gian trôi qua kể từ khi vụ tai nạn xảy ra ?” Sandy hỏi.

      “Bốn hay năm tháng gì đó. Sau cùng, hôm tôi bức bách Clovis. Tôi bảo ông ta rằng chúng tôi tới thời điểm quan trọng trong vụ kiện đó, và đến lúc ông ta phải trả lời vài câu hỏi. Ông ta là sẵn sàng. Tôi hỏi chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy với tốc độ bao nhiêu khi vượt qua ông ta. Ông ta chắc chắn là phải nhanh lắm, với những người bị thương đến mức độ như vậy, gẫy xương và chảy máu, đặc biệt là thằng bé ngồi đằng sau. Ông già tội nghiệp đó ngân ngấn nước mắt. Vài phút sau đó, tôi lại hỏi, Clovis, ông có thể ước chừng chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy với tốc độ bao nhiêu khi vượt qua ông ? Ông ta tất nhiên là rất muốn giúp cho gia đình đó. Tôi chắc chắn là họ đánh giá cao điều này. Và rồi, ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi, và hỏi, muốn nó chạy với tốc độ bao nhiêu ?

      “Tôi rằng theo ý kiến tôi nó chạy vào chừng khoảng năm mươi lăm dặm giờ. Clovis , Vậy đúng là thế. Năm mươi lăm dặm giờ. Tôi chạy năm mươi, và họ chỉ nhanh hơn tôi chút thôi.

      “Chúng tôi ra tòa, và Clovis Goodman là nhân chứng tuyệt vời nhất mà tôi từng thấy. Ông ta già, nhún nhường, nhưng khôn ngoan và tuyệt đối đáng tin cậy. Đoàn hội thẩm phớt lờ tất cả những thêu dệt của đám tái dựng trường và chỉ dựa vào Clovis để đưa ra phán quyết của họ. Họ cho thân chủ chúng tôi hưởng hai triệu ba trăm nghìn đôla.

      “Chúng tôi giữ liên hệ. Tôi làm di chúc cho Clovis. Ông ta chẳng có gì nhiều; chỉ độc ngôi nhà và sáu mẫu đất, bảy nghìn đôla trong nhà băng. Khi chết, ông ta muốn bán tất cả và trao tiền cho hội Những người con của Liên bang miền Nam. thân nhân nào được nhắc tới trong di chúc. Cậu cháu trai ở California biệt tăm biệt tích từ hai mươi năm qua. cháu ở Hattiesburg liên lạc gì kể từ lần ông ta nhận được lời mời dự lễ tốt nghiệp trung học phổ thông vào năm 1968. Ông ta dự và cũng gửi quà. Hiếm khi ông ta nhắc đến họ, nhưng tôi biết Clovis thèm được có chút liên hệ với gia đình lắm.

      “ Ông ta trở nên ốm đau và thể nào sống mình được nữa, bởi vậy tôi đưa ông ta đến nhà dưỡng lão ở Wiggins. Tôi bán ngôi nhà và trang trại của ông ta , và lo hộ mọi chuyện về tài chính. Lúc bấy giờ, tôi là người bạn duy nhất của ông ta. Tôi gửi thiệp, gửi quà, và mỗi khi Hattiesburg hay Jackson tôi đều ghé thăm ông ta với thời gian lâu nhất có thể được. Chí ít cũng mỗi tháng lần, tôi đến kiếm và đưa ông ta ăn món cá trê. Rồi lại lòng vòng đường. Sau hay hai lon bia gì đó ông ta lại bắt đầu kể chuyện. Có hôm, tôi đưa ông ta câu cá, chĩ có tôi và Clovis cái thuyền trong tám tiếng đồng hồ, và chưa bao giờ trong đời tôi lại được bữa cười vỡ bụng đến thế.

      “ Ông ta bị viêm phổi vào tháng Mười năm 91, suýt chết. Trận ốm đó làm ông ta sợ. Chúng tôi sửa lại bản di chúc. Ông ta muốn để lại chút tiền cho nhà thờ xứ của mình, phần còn lại mới là cho những người còn sống sót của Liên bang miền Nam. Ông ta chọn đất đặt mộ, dàn xếp chuyện lễ tang. Tôi còn nêu vấn đề di chúc sống, để ông ta khỏi phải sống nhờ vào những cái máy. Ông ấy rất thích và khăng khăng đòi tôi phải được lập làm người ngắt công tắc, tất nhiên là có tham khảo với các bác sĩ. Clovis chán nhà dưỡng lão, chán độc, chán sống. Ông ta là trái tim ông ta về với Chúa, và rằng ông ta sắp ra rồi.

      “Căn bệnh viêm phổi tái phát dữ dội vào đầu tháng Giêng năm 92. Tôi cho đưa ông ta tới bệnh viện Biloxi để có thể trông chừng được. Ngày nào tôi cũng ghé, và tôi là người duy nhất đến thăm Clovis. còn bạn bè nào khác. người thân thích. mục sư. ai cả ngoài tôi. Tình trạng của ông ta từ từ xấu , và thấy là ông ta bao giờ ra viện được. Ông ta rơi vào tinh trạng hôn mê, hề tỉnh lại. Họ đưa ông ta lên máy cứu sinh, và sau chừng tuần các bác sĩ là não của ông ta chết. Chúng tôi, tôi và các bác sĩ, cùng đọc bản di chúc sống của ông ta, rồi ngắt máy.”

      “Vào ngày nào ?” Sandy hỏi.

      “Ngày 6 tháng Hai năm 1992.”

      Sandy thở dài, mắt nhắm chặt lại, và chậm rãi lắc đầu.

      “Ông ta muốn được làm lễ ở nhà thờ bởi biết chẳng có ai đến. Chúng tôi chôn cất ông ta trong nghĩa địa bên ngoài Wiggins. Tôi có mặt ở đó, làm người hộ tang. Thêm ba bà góa già trong giáo xứ cũng có mặt, than khóc, nhưng người ta có ấn tượng rằng họ khóc như vậy với bất cứ đám chôn cất nào ở Wiggins trong cả năm chục năm qua. Ông mục sư có mặt, cùng với năm người trợ tế già nua để hộ tang. Ngoài ra còn có hai người khác, tổng cộng là mười hai người. Sau buổi lễ chóng vánh, Clovis được an táng.”

      “Hẳn là cái quan tài rất phải ?’ Sandy hỏi.

      “Đúng vậy.”

      “Clovis đâu ?”

      “Linh hồn ông ta hân hoan bên các vị thánh rồi.”

      “Thi hài của ông ta ở đâu ?

      “Ngoài hiên ngôi nhà săn của tôi, trong cái thùng lạnh.”

      kẻ bệnh hoạn.”

      "Tôi hề giết ai, Sandy. Ông già Clovis ấy ca hát với các thiên thần khi thi hài của ông ta được hỏa thiêu. Tôi nghĩ rằng ông ta cũng chẳng bận lòng.”

      luôn có lý do cho mọi chuyện, phải . Patrick ?”

      Patrick để chân thõng ra ngoài giường. trả lời.

      Sandy lại lại chút, rồi đứng dựa người vào tường. nhõm bao nhiêu khi biết người bạn của mình hề giết ai dường như lại ghê tởm bấy nhiêu khi nghĩ tới cái việc đốt cái xác người kia.

      “Hãy cho tôi nghe nốt nào,” Sandy . “Tôi chắc là sắp xếp trước mọi thứ.”

      “Phải, tôi có thời giờ để nghĩ tới chuyện đó.”

      “Tôi nghe đây.”

      “Mississippi có điều luật hình về tội đào mộ, nhưng áp dụng đối với tôi được. Tôi đánh cắp thi hài Clovis từ mộ. Tôi chỉ lấy ông ta ra từ quan tài. Có điều luật khác liên quan tới việc làm tổn thương tới thi hài, đó là điều luật duy nhất mà Parrish có thể dùng đối với tôi. Đó là tội có khung hình phạt cao nhất là năm tù. Tôi cho rằng đó là tất cả những gì mà họ có thể làm được, bởi vậy Parrish rất cố gắng để có được cái án năm đó.”

      “ Ông ta thể nào cho phủi tay được.”

      “Đúng là ông ta thể. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ này. Ông ta biết gì về Clovis trừ phi tôi cho ông ta biết, nhưng tôi phải với ông ta trước khi ông ta chịu từ bỏ những cáo buộc về tội giết người. Lúc này, với ông ta về Clovis là chuyện, còn cung khai trước tòa lại là chuyện khác. Ông ta thể buộc tôi phải cung khai trước tòa nếu như ông ta truy tố tôi về tội làm tổn thương thi hài. Ông ta chịu sức ép buộc phải truy tố tôi về tội gì đó, bởi lẽ, như , ông ta thể nào chịu để cho tôi phủi tay cách dễ dàng, ông ta có thể truy tố tôi, nhưng thể kết tội tôi được bởi lẽ tôi là nhân chứng duy nhất và có cách nào có thể chứng minh được rằng cái thi hài bị hỏa thiêu đó là của Clovis.”

      “Parrish là người rất xảo quyệt đấy.”

      “Đúng thế. còn các cáo buộc của Liên bang nữa, và khi chúng ta ném quả bom này Parrish điên cuồng muốn buộc được tôi vào tội gì đó. Nếu tôi được tự do.”

      “Vậy kế hoạch là thế nào ?”

      “Đơn giản thôi. Chúng ta giải tỏa sức ép cho Parrish và để ông ta giữ được chút thể diện. gặp các cháu của Clovis, với họ , hứa cho họ số tiền. Chắc chắn là họ có quyền kiện tôi khi được biết , và có thể giả thiết rằng họ làm điều đó. Vụ kiện của họ đáng bao nhiêu bởi vì họ bỏ rơi ông già kia trong phần lớn cuộc đời họ, nhưng cầm chắc là dù sao họ cũng vẫn kiện. Chúng ta can thiệp giữa chừng. Chúng ta lặng lẽ giải quyết với họ, và đổi lại việc nhận được tiền họ phải đồng ý đòi Parrish thôi truy tố gì nữa.”

      quỷ quyệt quá lắm.”

      “Cảm ơn. Như vậy phải được chứ ?”

      “Parrish có thể truy tố bất chấp mong muốn của gia đình kia.”

      “Nhưng ông ta làm thế bởi vì ông ta thể nào kết tội được tôi. Kịch bản xấu nhất cho Parrish là việc mang tôi ra xử, và thất bại. Với ông ta là an toàn hơn nhiều nếu lối cửa sau lúc này, lấy gia đình kia làm cớ, và tránh phải mất mặt bởi thua cuộc trong vụ án được dư luận để ý.”

      “Có phải đây là điều nghiền ngẫm trong suốt bốn năm qua đấy ?”

      “Có thế .”

      Sandy bắt đầu lại dọc nơi chân giường, trầm ngâm, đầu óc cố bám theo dòng suy nghĩ của Patrick. “Chúng ta phải trao cho Parrish thứ gì đó,” gần như lẩm bẩm với chính mình, chân vẫn bước.

      “Tôi quan tâm tới bản thân mình nhiều hơn là tới Parrish,” Patrick .

      chỉ là Parrish. Đó là vấn đề về hệ thống, Patrick. Nếu như phủi tay dễ dàng, vậy cũng có nghĩa là đồng tiền giúp tránh được cảnh tù tội. Điều đó tạo ra hình ảnh xấu cho tất cả mọi người, trừ ra mà thôi.”

      “Có lẽ là tôi mới chỉ quan tâm đến chính mình."

      “Tôi cũng vậy. Nhưng thể xúc phạm cả hệ thống và rồi nghĩ tới chuyện quay lưng như có chuyện gì xảy ra.”

      có ai buộc Parrish phải vội vã lo bản cáo trạng về tội cố sát. Ông ta có thể chờ đợi hoặc hai tuần lễ. ai buộc ông ta phải loan báo bản cáo trạng đó với báo chí. Tôi thể thông cảm với ông ta.”

      “Tôi cũng . Nhưng chuyện này khó đấy, Patrick.”

      “Vậy tôi làm cho nó trở nên dễ dàng hơn chút vậy. Tôi nhận tội gây tổn thương thi hài, nhưng chấp nhận vào tù. ngày cũng . Tôi ra trước tòa, nhận tội, nộp phạt, để Parrish được tiếng nhưng tôi được ra khỏi đây.”

      người có tiền án.”

      , tôi là người tự do. Ma nào ở Braxin quan tâm tới chuyện tôi có từng bị xích tay hay hả ?”

      Sandy thôi lại và ngồi xuống giường cạnh . “Vậy là trở lại Braxin ư ?”

      “Nơi đó là nhà tôi, Sandy ạ.”

      “Và kia ?”

      “Chúng tôi có mười hoặc mười đứa con. Chúng tôi còn chưa quyết định chắc chắn về con số đó.”

      còn có bao nhiêu tiền ?”

      “Hàng triệu. phải đưa tôi ra khỏi đây, Sandy. Tôi còn phải sống cuộc đời khác.”

      y tá ngó vào, bật công tắc đèn và , “Mười giờ rồi. Patty (1). Hết giờ thăm.” ta đặt tay lên vai . “ sao chứ, ?”

      “Tôi sao.”

      có cần gì ?”

      . Cảm ơn.”

      Cũng như khi vào, ta ra rất nhanh. Sandy cầm cái cặp lên. “Patty cơ à ?” .

      Patrick nhún vai.

      “Lại còn nữa ?”

      Thêm môt cái nhún vai.

      Đầu óc Sandy nghĩ tới điều khác trong khi bước ra cửa. “ câu hỏi nhanh. Khi lái xe lao ra khỏi mặt đường, lúc đó Clovis ở đâu hả ?”

      “Vẫn ở đó thôi. Được buộc ghế sau. Tôi còn để lon bia vào giữa hai đầu gối ông ta và chúc ông ta thượng lộ bình an. mặt ông ta lúc đó như có nụ cười.”

      ____________

      (1) Patty = Cách gọi Patrick âu yếm.

      John Grisham

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 38

      V ào lúc mười giờ sáng ở Luân Đôn, những chỉ dẫn về việc trả lại chỗ tiền đánh cắp vẫn chưa được gửi tới. Eva ra khỏi khách sạn và dạo dọc theo phố Piccadilly. định đâu và cũng lịch trình cụ thể nào, nàng cứ thả bộ theo đám đông, ngó nghiêng các cửa sổ bày hàng, thưởng thức cái bầu khí hè phố. Ba ngày bị giam riêng làm cho nàng thấy thích thú hơn những hình ảnh nàng thấy và những tiếng vang lên xung quanh. Bữa trưa là món xalát trộn phomát sữa dê trong góc của tiệm ăn cổ kính đông nghịt thực khách. Nàng sung sướng với ánh đèn, với những tiếng vui vẻ của những người hề biết nàng là ai. Và họ cũng chẳng cần biết điều đó.

      Patrick kể với nàng rằng cái năm đầu tiên của ở São Paulo là thích bởi lẽ hề có người nào biết đến . Và kỳ thực là ngồi trong tiệm ăn, nàng cảm thấy mình là Leah Pires nhiều hơn là Eva Miranda.

      Nàng mua sắm ở phố Bond, trước tiên là những thứ cần thiết - đồ lót và nước hoa - nhưng rồi ngay sau đó là những thứ đồ mang hiệu Armani, Versace và Chanel, mà cần biết lắm tới giá cả. thời, nàng phụ nữ rất giàu.

      oOo

      đơn giản hơn nhiều, và chắc chắn cũng bớt gây ầm ĩ, nếu như đợi đến chín giờ để bắt họ tại nơi làm việc. Thế nhưng, vào giờ đó công việc của họ cũng còn nhiều chuyện thất thường, và trong số họ là Rapley hiếm khi ra khỏi nhà. cuộc bắt giữ vào trước lúc rạng sáng được lựa chọn. Nếu như điều đó có làm cho họ hoảng sợ hay làm mất mặt họ trước gia đình cũng đâu có sao. Và nếu hàng xóm của họ có bị khuấy động bởi huyên náo đó cũng vậy. Tóm cổ họ trong lúc họ còn ngủ hoặc trong phòng tắm, cách đó là hay nhất.

      Charles Bogan ra mở cửa trong bộ đồ ngủ, và khẽ kêu lên khi quan chức cảnh sát mà ông ta biết mặt chìa ra chiếc còng tay. Bogan còn gia đình, bởi vậy ít ra ông ta cũng phải xấu hổ với ai.

      Vợ của Doug Vitrano ra mở cửa và ngay lập tức có thái độ chống đối. Bà ta đóng sầm cửa vào mặt hai nhân viên FBI trẻ tuổi, và hai người nàv phải nhẫn nại chờ đợi trong khi bà ta chạy lên gác để lôi chồng ra khỏi phòng tắm. May mắn làm sao, bọn trẻ vẫn còn ngủ khi họ tống Doug vào xe, còng tay như tên tội phạm bình thường, và để mặc bà vợ đứng bậc thềm trong chiếc váy ngủ, vừa khóc lóc vừa nguyền rủa họ.

      Như thường lệ, Jimmy Havarac ngủ thiếp trong khi say bí tỉ và tiếng chuông cửa tỏ ra là ăn thua gì. Họ dùng điện thoại di động gọi cho ông ta, và sau cùng ông ta cũng bị đánh thức và bị bắt giữ.

      Ethan Rapley căn phòng áp mái lúc mặt trời mọc, làm việc tóm tắt hồ sơ nào đó, hề để ý tới ngày giờ gì hết. Ông ta nghe thấy tiếng động nào từ dưới nhà. Vợ ông ta thức giấc bởi tiếng gõ cửa, và trèo lên gặp ông ta để báo tin dữ. Dẫu vậy, trước tiên bà ta cũng giấu khẩu súng của Rapley. Ông ta giữ nó trong ngăn kéo tủ áo của mình; hai lần tìm nó trong khi tìm đôi bít tất, nhưng hỏi gì vì biết rằng bà vợ cho ông ta biết nó ở đâu.

      Vị luật sư sáng lập ra Hãng Bogan được bổ nhiệm vào Tòa án Liên bang từ mười ba năm trước. Ông ta được Thượng nghị sĩ Nye đề cử, và khi ông ta rời Hãng Charles Bogan tiếp quản. Hãng Bogan có những mối liên hệ chặt chẽ với cả năm vị thẩm phán Liên bang đương nhiệm, và có gì ngạc nhiên khi điện thoại réo khắp nơi ngay từ trước khi bốn cổ đông của Hãng được gặp lại nhau trong trại giam. Vào lúc tám giờ ba mươi, họ được đưa những chiếc xe riêng biệt tới Tòa án Liên bang ở Biloxi để có cuộc điều trần vừa được dàn xếp vội vã trước hội đồng xét xử khu vực của Liên bang.

      Cutter bực tức trước nhanh chóng và dễ dàng trong việc gây ảnh hưởng của Bogan. Tuy dám tính tới việc bốn người này phải bị giam trong khi chờ đợi những phiên tòa của họ, ông ta cũng thể nào chấp nhận nổi cuộc điều trần đột ngột đến như vậy trước hội đồng xét xử vừa mới ra khỏi giường. Và bởi vậy, Cutter tung tin cho báo chí địa phương, và rồi cho cả đài truyền hình sở tại.

      Các thứ giấy tờ được thảo và ký rất chóng vánh, rồi bốn người kia rời khỏi tòa án, đàng hoàng, và thong dong hè phố để tới văn phòng của họ. Bám theo họ là chàng to lớn nhưng vụng về, lúng túng với cái máy quay video tay phóng viên mới vào nghề chỉ được nghe là có chuyện to nhưng lại biết là chuyện gì. có bình luận gì từ những bộ mặt lạnh tanh kia. Họ về tới trụ sở Hãng, và khóa trái cửa lại.

      Charles Bogan bước thẳng tới chỗ đặt điện thoại để gọi cho ông Thượng nghị sĩ.

      oOo

      Tay thám tử tư, do Patrick giới thiệu, tìm thấy người phụ nữ đó trong vòng chưa đầy hai tiếng đồng hồ, mà phải dùng tới bất kỳ phương tiện nào khác ngoài điện thoại. Chị ta sống ở Meridian, cách Biloxi hai giờ chạy xe về phía đông bắc. Tên chị ta là Deena Postell, chạy bàn và kiêm luôn chân thu ngân thứ hai của tiệm ăn nhanh mới mở ở ngoại ô thị trấn.

      Sandy tìm tới nơi và vào. ta làm bộ ngắm nghía khay lườn gà rán còn bốc hơi và những bịch khoai tây chiên giòn, trong khi để mắt tới những người làm công bận rộn phía sau quầy hàng. người phụ nữ mập mạp có mái tóc muối tiêu và tiếng rất to làm ta chú ý. Giống như những người làm công khác, chị ta cũng mặc chiếc áo có sọc đỏ và trắng, và khi chị ta đến gần hơn Sandy có thể thấy tấm biển đeo nơi ngực. đó là cái tên Deena.

      Để tăng lòng tin, ta chỉ mặc quần jeans và cái áo khoác màu xanh đen, cavát gì cả.

      “Tôi có thể giúp gì cho ?” Chị ta hỏi với nụ cười.

      Mới gần mười giờ sáng, quá sớm để ăn bịch khoai tây. “Xin cho ly cà phê lớn lớn chút,” Sandy đáp, cũng với nụ cười, và lập tức có cái gì đó long lanh trong ánh mắt của chị ta. Deena thích được tán tỉnh. Tại quầy thu ngân, thay vì đưa tiền ra, Sandy trao cho chị ta tấm danh thiếp. Chị ta liếc nhìn, và buông nó xuống. Với người đàn bà có ba đứa con hư hỏng bất ngờ đến thế này chỉ có nghĩa là lại gặp rắc rối. “ đôla hai mươi xu,” chị ta , tay bấm máy tính tiền và liếc mắt nhìn xem có ai để ý gì .

      “Tôi có gì ngoài tin vui cho chị,” Sandy vừa lấy tiền ra vừa .

      muốn gì ?” Chị ta hỏi, gần như nín thở.

      “Chỉ mười phút thôi. Tôi đợi ở bàn.”

      “Nhưng mà muốn gì ?” Chị ta nhận tiền, và tìm tiền lẻ.

      "Thôi nào. Chị vui nếu dành thời gian cho tôi ”

      Chị ta ưa đàn ông, và Sandy trông khá đẹp trai ăn mặc cũng bảnh bao hơn hầu hết những người đàn ông mà chị ta từng phải chịu đựng. Ngó nghiêng vớ vẩn món gà quay, pha thêm chút cà phê, thế rồi chị ta với người phụ trách rằng mình nghỉ giải lao lát.

      Sandy nhẫn nại chờ đợi bên chiếc bàn , cạnh tủ để bia và chiếc máy làm đá. “Cảm ơn,” ta khi Deena ngồi xuống. Chị ta ở tuổi giữa bốn mươi, với gương mặt tròn được trang điểm bằng thứ mỹ phẩm rẻ tiền.

      luật sư từ New Orleans hả ?” Chị ta hỏi.

      “Phải. Tôi nghĩ là chị có đọc hay có nghe về cái vụ người ta bắt được luật sư đánh cắp cả khoản tiền lớn ở dưới đó ?”

      Chị ta lắc đầu quầy quậy trước khi Sandy hết câu. “Tôi đọc gì cả. Tôi làm việc sáu mươi giờ tuần ở đây, và còn phải nuôi hai đứa cháu. Ông chồng tôi trông nom chúng. Ông ấy tàn tật. Lưng đau. Tôi đọc gì, xem gì, làm gì ngoài công việc ở đây và thay tã thay lót những khi ở nhà.”

      Sandy gần như hối tiếc vì lỡ mồm hỏi. quá đáng! Cố gắng vắn tắt nhất, ta kể lại câu chuyện của Patrick. Lúc đầu chị ta cũng thấy hay hay, nhưng về cuối mấy quan tâm nữa.

      “Hãy cho ta bản án tử hình,” chị ta cướp lời.

      ta có giết ai.”

      “Tôi tưởng là có cái xác chết trong xe của ta.”

      “Có. Nhưng người đó chết từ trước rồi.”

      phải do ta giết ư ?”

      . Có điều là ta đánh cắp cái xác đó.”

      “Ra vậy. Nhưng thôi, tôi phải trở lại làm việc đây. có thể cho tôi hỏi chuyện đó có liên quan gì tới tôi hả ?”

      “Cái xác mà ta đánh cắp là của Clovis Goodman, người ông thân quá cố của chị.”

      Chị ta nghiêng đầu sang bên. “ ta thiêu xác Clovis !”

      Sandy gật đầu.

      Chị ta nheo mắt lại trong khi cố thể những tình cảm thích hợp. “Để làm gì hả ?” Chị ta hỏi.

      ta phải giả chết, chị hiểu ?”

      “Nhưng sao lại là Clovis ?”

      “Patrick là luật sư và cũng là bạn của ông ấy.”

      “Bạn mới chả bè.”

      “Nào, nghe này, tôi muốn giải thích tất cả chuyện này. Nó xảy ra bốn năm về trước, rất lâu rồi, trước cuộc chuyện đầu tiên này giữa tôi và chị.”

      Chị ta gõ gõ tay lên mặt bàn, miệng cắn những cái móng của tay kia. Người ngồi trước mặt chị ta có vẻ là tay luật sư cứng cựa, bởi vậy trò mở màn sướt mướt về người ông quý chắc có tác dụng gì. biết thế nào nữa. Thôi cứ để ta .

      “Tôi xin nghe đây,” chị ta .

      “Việc gây tổn thương tới thi hài là hành vi tội phạm.”

      “Đúng là như thế.”

      “Nó cũng có thể khởi kiện đuợc theo luật tố tụng dân . Có nghĩa là gia đình Clovis Goodman có thể kiện thân chủ của tôi về tội hủy hoại cái thi hài đó.”

      Có vậy chứ. Chị ta ngồi thẳng lưng lên trong khi hít hơi sâu, rồi mỉm cười và , “Giờ tôi hiểu."

      Sandy cũng mỉm cười. “Phải. Chính vì thế mà tôi tới đây. Thân chủ của tôi muốn đề nghị cách giải quyết êm ả với gia đình Clovis.”

      “Gia đình là thế nào ?”

      “Người vợ hay chồng còn sống, con cái, và các cháu ”

      “Tôi nghĩ chính tôi là gia đình đây.”

      “Còn người ruột của chị sao ?”

      còn nữa. Luther chết cách đây hai năm. Rượu và ma túy.”

      “Vậy chị là người duy nhất có quyền khởi kiện thôi.”

      “Bao nhiêu ?” Chị ta thốt ra vì thể dằn được, rồi cũng thấy hơi sượng mặt.

      Sandy nhích lại gần chút. “Chúng tôi sẵn sàng chi hai mươi lăm nghìn đôla. Ngay bây giờ. Tấm séc nằm trong túi tôi đây này.”

      Chị ta cũng nhích lại gần, cúi thấp xuống hơn và mặt kề sát vào mặt Sandy hơn, bởi số tiền kia làm tan biến thái độ lạnh lùng từ nãy đến giờ. Cặp mắt chị ta rưng rưng và đôi môi run rẩy. “ Ôi, lạy Chúa," chị ta kêu khẽ.

      Sandy nhìn quanh. “Đúng thế đấy, hai mươi lăm nghìn đôla."

      Chị ta với miếng giấy ăn, gạt đổ cả lọ muối. Chị ta chấm nước mắt, rồi xịt xịt mũi. Sandy vẫn đưa mắt nhìn quanh, hy vọng là có ai để ý.

      “Tất cả là của tôi ư ?” Chị ta gượng hỏi. Giọng khàn trong hơi thở gấp gáp.

      “Phải, tất cả là của chị.”

      Chị ta lại lau nước mắt, rồi , “Tôi muốn uống ly Coke."

      Chị ta uống cả ly to mà lời. Sandy nhấm nháp ly cà phê và nhìn thực khách vào ra. chẳng vội vã gì.

      “Tôi đoán rằng,” sau cùng chị ta mới lên tiếng, lúc này mắt ráo hoảnh, “Nếu như tới đây và toẹt ngay hai mươi lăm nghìn có lẽ cũng có thể sẵn sàng trả thêm.”

      “Tôi có quyền thương lượng gì.”

      “Nếu tôi kiện, thân chủ của có thể bị khó dễ đấy, hiểu ý tôi chứ ? Hội thẩm đoàn nhìn vào tôi, và nghĩ tới ông già Clovis tội nghiệp bị đốt xác để thân chủ của có thể đánh cắp được chín mươi triệu đôla.”

      Sandy nhấp ngụm cà phê và gật đầu. ta cũng phải kính nể người phụ nữ kia.

      “Nếu tôi kiếm luật sư, có thể là tôi được nhiều hơn nhiều.”

      “Có thể, nhưng có khi phải mất tới năm năm. Ngoài ra, chị cũng còn có những rắc rối khác.”

      “Chẳng hạn ?” chị ta hỏi.

      “Chị gần gũi với Clovis.”

      “Có lẽ là có đấy.”

      “Vậy tại sao chị tới đám tang của ông ấy ? Có thể khó mà giải thích được điều đó trước hội thẩm đoàn. Thôi nào, Deena, tôi tới đây để sẵn sàng giải quyết. Nếu như chị muốn, vậy tôi ra xe và trở về New Orleans.”

      có thể trả tối đa là bao nhiêu hả ?"

      “Năm mươi nghìn.”

      “Vậy thỏa thuận.” Chị ta chìa bàn tay phải, vẫn còn ướt do ly Coke, và bắt chặt tay Sandy.

      lập tức lôi từ trong túi ra tấm séc trắng và điền vào, rồi chìa ra hai văn bản; là bản thỏa thuận ngắn ngủi, và hai là bức thư của Deena gửi cho vị công tố viên.

      Công việc giấy tờ này mất đến mười phút.

      oOo

      Sau cùng cũng có động bờ con kênh ở gần Boca. nàng người Thụy Điển kia bị phát vội vã chất hành lý vào trong cốp chiếc xe BMW của Benny Aricia. ta lái xe vụt . Họ bám theo ta tới sân bay quốc tế Miami, nơi ta chờ đợi hai tiếng trước khi lên chuyến bay tới Frankfurt.

      Họ đợi sẵn ta ở Frankfurt. Họ kiên nhẫn theo dõi cho tới khi ta phạm sai lầm nào đó. Và rồi họ tìm ra Aricia.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 39

      H ành động chính thức cuối cùng của ông Thẩm phán chủ trì vụ này là cuộc lấy cung trực tiếp chẳng ra kiểu gì, ngay trong phòng làm việc của ông, và diện của luật sư phía bị cáo. diện của công tố viên. Và hồ sơ cũng lưu lại biên bản của cuộc lấy cung này. Patrick được ba người hộ tống lặng lẽ đưa vào qua lối cửa sau của tòa án, lên phòng Huskey, nơi ông đợi sẵn, mặc áo choàng. có phiên tòa nào diễn ra, và trong ngày bình thường như thế này lẽ ra là ở tòa án mọi chuyện phải yên ả. Thế nhưng, bốn luật sư có tên tuổi bị bắt giữ vào buổi sáng, và khắp các hành lang những lời bàn tán cứ xôn xao cả lên.

      Những vết thương của vẫn còn mang băng và được khuyên nên mặc quần áo bó quá. Bộ đồ bệnh viện trông đẹp và rộng rãi, và nó cũng nhắc nhở mọi người rằng nằm viện chứ phải là bị giam như tên tội phạm.

      Khi chỉ còn họ lại với nhau và cánh cửa được khép lại, Karl đưa cho tờ giấy. “Đọc cái này xem.”

      Đó là lệnh ngắn, do Thẩm phán Karl Huskey ký, trong đó ông ta, thể theo khuyến nghị của chính bản thân mình, quyết định tự rút khỏi vụ án Bang khởi tố Patrick S. Lanigan. Nó có hiệu lực vào mười hai giờ trưa, nghĩa là chỉ còn tiếng nữa.

      “Sáng nay, tôi có hai giờ trao đổi với Thẩm phán Trussel. Ông ấy cũng chỉ mới vừa ra khỏi đây.”

      “Liệu ông ấy có tử tế với tôi hả ?”

      “Công bằng đến mức cao nhất có thể được. Tôi bảo với ông ấy rằng, theo ý kiến tôi, đây phải là vụ cố sát. Ông ấy có vẻ nhõm lắm.”

      có phiên tòa nào đâu, Karl.”

      Patrick nhìn vào tấm lịch treo tường, tấm lịch mà Karl thường xuyên ngó tới. Mỗi ngày trong cái tháng Mười này đều chật kín những buổi lấy cung và những phiên xét xử mà chẳng ai trong số cả mấy vị thẩm phán có thể kham nổi. “Ông chưa mua cái máy tính à ?” hỏi.

      “Thư ký của tôi có dùng cái.”

      Trong chính căn phòng này, nhiều năm về trước, họ gặp nhau lần đầu tiên khi Patrick mới tới với tư cách là luật sư, trẻ và có tên tuổi gì, đại diện cho gia đình nạn nhân của vụ đâm xe. Karl làm chánh án trong vụ đó. Phiên tòa kéo dài trong ba ngày, và hai người trở thành bạn bè. Hội thẩm đoàn cho thân chủ của Patrick được hưởng hai triệu ba trăm nghìn đôla, và vào lúc đó là trong những khoản tiền lớn nhất được hưởng theo phán quyết của tòa án ở vùng bờ biển này. Trái lại với mong muốn của Patrick, Hãng Bogan đồng ý giải quyết vụ án đó với hai triệu chẵn trong phiên phúc thẩm. Phần các luật sư là phần ba, và sau khi Hãng trả vài khoản nợ và mua sắm chút đỉnh, phần tiền thù lao còn lại được chia làm bốn. Patrick lúc đó phải là cổ đông. Họ miễn cưỡng cho khoản tiền thưởng hai mươi lăm nghìn đôla. Đó chính là vụ án mà trong đó Clovis Goodman là nhân vật quyết định.

      Patrick để ý tới vết ố trần. “Sao ông cầu quận cho quét vôi lại căn phòng này . Nó chẳng hề thay đổi gì suốt bốn năm qua.”

      "Tôi chỉ còn hai tháng ở đây. Quan tâm làm gì cơ chứ?”

      “Còn nhớ vụ Goodman ? Lần đầu tiên tôi có mặt trong phòng xử án của ông, và là những giờ phút đẹp đẽ nhất của tôi cương vị luật sư của bên nguyên.”

      “Tất nhiên rồi.” Karl gác chân lên bàn, choàng hai tay ra sau gáy.

      Patrick kể lại với ông ta câu chuyện về Clovis. Môt tiếng gõ cửa làm gián đoạn phần cuối câu chuyện. Bữa trưa được mang tới, chẳng đúng lúc. cảnh sát mang vào cái hộp giấy, mùi thơm lừng. Patrick đứng ngay đó khi đồ ăn được đặt xuống bàn của Karl: xúp mướp tây và món càng cua.

      “Đồ của tiệm Mahoney đấy,” Karl . “Bob gửi tới. Ông ấy có gửi lời chào.”

      Mary Mahoney chỉ đơn thuần là nơi ngồi uống cho các luật sư và các thẩm phán vào mỗi chiều thứ sáu. Nó còn là tiệm ăn lâu đời nhất vùng bờ biển này, với những món ăn ngon lành và món xúp mướp tây huyền thoại.

      “Bảo với ông ta là tôi cũng gửi lời chào,” Patrick rồi cầm cái càng cua. "Tôi muốn được sớm đến ăn ở đó.”

      Vào đúng lúc mười hai giờ, Karl bật cái TV để giữa cái giá sách, và họ xem, mà bình luận gì những hình ảnh điên rồ về các vụ bắt giữ đó. Đó là đám người im lìm. hề có ai gì; các luật sư kia hẳn, kỳ thực là các cánh cửa văn phòng của họ đều đóng kín; điều ngạc nhiên là Maurice Mast lại có gì để ; có gì từ phía FBI. có gì hết, bởi vậy phóng viên kia làm những gì mà ta được dạy dỗ. ta cho chen vào đó những lời bàn tán và những đồn đại, và chính trong bối cảnh đó mà Patrick bị lôi vào. Những nguồn tin chưa được thẩm định với ta rằng những vụ bắt giữ đó là phần của cuộc điều tra liên tiếp được mở rộng trong vụ Lanigan, và để chứng minh cho điều đó, ta cho chiếu những hình ảnh thể bắt bẻ vào đâu được cảnh Patrick vào tòa án Biloxi để ra trước tòa lần đầu tiên. đồng nghiệp sốt sắng khác xuất màn ảnh, bằng giọng khá êm ái rằng ta đứng bên ngoài văn phòng tại Biloxi của Thượng nghị sĩ Harris Nye, họ của Charles Bogan, chừng như để ngừa trường hợp có ai đó quên mất mối quan hệ này. Ông Thượng nghị sĩ ở Singapo trong chuyến công du vì mục đích thương mại nhằm mang thêm những công việc có đồng lương tối thiểu trở lại cho Mississippi, và do vậy có mặt để có thể có phát biểu gì. ai trong số tám nhân viên của văn phòng này biết mảy may chuyện gì; bởi vậy họ cũng có gì để .

      Bản tin đó được phát liên tục trong mười phút.

      “Sao lại cười hả ?” Karl hỏi.

      ngày tuyệt vời. Tôi hy vọng họ có đủ can đảm để chơi lão Thượng nghị sĩ kia.”

      “Tôi nghe Liên bang từ bỏ mọi cáo buộc đối với .”

      “Chính xác. Tôi làm chứng trước đoàn đại bồi thẩm vào ngày hôm qua. là dễ chịu, Karl, sau cùng trút bỏ được những gì mà tôi phải giữ kín suốt mấy năm qua.”

      Patrick ngừng ăn trong lúc theo dõi bản tin, và đột nhiên còn muốn ăn nữa. Karl để ý thấy rằng mới chỉ ăn có hai cái càng cua và chưa hề động đến món mướp. “Nào, ăn chứ. Trông gầy như que củi vậy.”

      Patrick nhấm hạt muối và ra cửa sổ.

      “Để tôi xem nhé,” Karl . “Vụ ly hôn được giải quyết. Người của Liên bang từ bỏ mọi cáo buộc và đồng ý trả lại chín mươi triệu đôla, cộng với chút tiền lãi.”

      “Tổng cộng là trăm mười ba triệu.”

      “Vụ án giết người kia còn bởi vì có ai bị giết cả. Bang cũng thể truy tố về tội trộm cắp vì Liên bang thôi việc đó. Các vụ kiện tụng của các Hãng bảo hiểm cũng được bãi nại. Pepper vẫn còn sống, ở đâu đó. Clovis chiếm chỗ của cậu ta. Tất cả chỉ còn lại cáo buộc nhoi về tội xâm phạm mồ mả.”

      “Gần đúng. Cái đó gọi là hành vi làm tổn thương tới thi hài, nếu như ông có quan tâm tới việc xem lại bộ luật hình . Giờ chắc hẳn ông phải biết điều này.”

      “Phải rồi. Tôi tin rằng đó là tội.”

      tội .”

      Karl khuấy bát xúp và thán phục bạn gầy gò, vẫn ngó ra ngoài cửa sổ, nhấm nhấm miếng bánh, và nghi ngờ gì là tính toán bước tiếp theo của mình.

      “Tôi có thể với được ?” Ông hỏi.

      đâu ?”

      “Đâu cũng được. rời khỏi đây, gặp kia, thu xếp tiền, biển, sống du thuyền. Tôi chỉ muốn được theo.”

      “Chưa đến lúc đó mà.”

      “Nhưng mỗi lúc gần.”

      Karl tắt TV và gạt đám đồ ăn sang bên. “Có khoảng trống mà tôi muốn lấp đầy nốt,” ông . “Clovis chết, rồi ông ấy được mang chôn, hoặc giả là . Nhưng còn trong khoảng giữa hai thời điểm đó sao ?”

      Patrick chặc lưỡi và hỏi, “Ông muốn biết chi tiết phải ?”

      “Tôi là thẩm phán. Chi tiết là quan trọng.”

      Patrick ngồi xuống ghế và ghếch chân lên bàn. “Tôi suýt bị tóm. Đánh cắp thi hài phải là chuyện dễ, ông biết chứ hả ?”

      “Tôi tin lời .”

      “Tôi nhất quyết bảo Clovis dàn xếp trước về tang lễ của ông ta. Thậm chí tôi còn thêm điều bổ sung vào di chúc, với những cầu cụ thể — phải là loại quan tài để ngỏ mà là quan tài đơn giản bằng gỗ, phúng viếng, nhạc, có thức đêm canh quan tài, và lễ mai táng đơn giản.”

      quan tài gỗ ?”

      “Phải. Clovis rất coi trọng vấn đề từ cát bụi lại trở về với cát bụi. Hòm gỗ rẻ tiền chứ phải là quan tài kẽm. Đó là cách mà ông nội của ông ta được chôn cất. Dù sao chăng nữa tôi cũng có mặt ở bệnh viện khi ông ta chết, và đợi người lo việc lễ tang từ Wiggins đến với chiếc xe tang. Rolland là tên ông ta, khá có tiếng. Sở hữu ngôi nhà tang lễ duy nhất trong thị trấn. Trịnh trọng, tận tâm với công việc. Tôi trao cho ông ta bản sao những cầu của Clovis. Bản di chúc cho tôi quyền hạn làm những gì cần thiết, và Rolland quan tâm tới điều đó. Vào lúc ba giờ chiều, Rolland là trong vòng hai tiếng nữa ông ta ướp hương liệu cho thi hài, và hỏi tôi Clovis có bộ complê nào để mặc . Chúng tôi nghĩ tới chuyện đó. Tôi , tôi chưa bao giờ thấy Clovis mặc complê cả. Rolland ông ta có vài bộ cũ và lo chuyện đó.

      “Clovis muốn được chôn cất trang trại của mình, nhưng tôi giải thích nhiều lần với ông ta là thể làm được điều đó ở Mississippi, mà phải là trong nghĩa địa có đăng ký hẳn hoi. Theo Clovis, ông nội của ông ta chiến đấu trong cuộc Nội chiến và thực người hùng. Khi ông ta mười bảy tuổi ông nội chết và người ta thức ba đêm để canh quan tài. Cỗ quan tài được đặt cái bàn trong căn phòng khách chính và họ hàng nối nhau qua để nhìn người khuất. Clovis thích thế. Ông ta muốn làm cái gì đó tương tự. Ông ta bắt tôi phải thề là thức đêm trông ông ta. Tôi giải thích điều đó với Rolland. Ông ta đại thể là ông ta thấy nhiều chuyện. Điều này cũng chẳng có gì là ngạc nhiên.

      “Ngay sau khi trời tối, tôi ngồi trước hiên nhà Clovis xe tang đến. Tôi giúp Rolland đưa cỗ quan tài xuống, khiêng vào trong nhà và đặt trước cái TV. Tôi vẫn còn nhớ là nó rất . Clovis teo tóp lại chỉ còn chừng bốn chục cân.

      “ Chỉ có ở đây thôi à ?" Rolland nhìn quanh và hỏi.

      “ Chà. Thức gọi là ấy mà”, tôi đáp.

      “Tôi cầu ông ta mở nắp quan tài. Ông ta ngần ngại, và tôi bảo ông ta là tôi quên để vài kỷ vật thời Nội chiến vào theo cầu của Clovis. Tôi đứng nhìn ông ta mở quan tài bằng cái kìm chuyên dụng, cái kìm có lẽ mở được bất kỳ cái quan tài nào đời này. Trông Clovis vẫn vậy. Tôi để vào cái mũ bộ binh của người ông nội và lá cờ tả tơi của trung đoàn Mississippi số 17. Rolland đóng quan tài lại rồi ra.

      còn ai khác đến canh quan tài. ma nào cả. Vào khoảng nửa đêm, tôi tắt hết cả đèn và chốt các cửa lại. Kìm chuyên dụng đâu có phải là cái gì khác ngoài bộ cờlê Allen, và tôi mua sẵn nguyên bộ. mất đến phút để mở quan tài. Tôi bê Clovis ra; ông ta rất , cứng đờ, chân để trần. Tôi nghĩ là với cái giá ba nghìn đôla có giầy tất gì cả. Tôi đặt ông ta lên chiếc xôpha và đặt bốn cục bêtông vỡ vào trong đó, đóng quan tài lại.

      “Clovis và tôi lên đường, tới chỗ ngôi nhà săn của tôi. Ông ta nằm ghế sau, và tôi lái xe rất cẩn thận. Hẳn khó trả lời những câu hỏi của cảnh sát tuần tra xa lộ.

      tháng trước đó, tôi mua cái máy làm đá cũ và để nó ngay ngoài hiên ngôi nhà săn. Tôi vừa mới kịp để Clovis vào trong đó nghe có tiếng động trong rừng. Đó là Pepper, lần tới. Hai giờ sáng, và Pepper bắt gặp tôi ở đó. Tôi bảo cậu ta là vợ tôi và tôi vừa có cuộc cãi lộn, tôi bực mình, và xin cậu ta cho. Tôi nghĩ cậu ta trông thấy tôi bê cái xác lên bậc thềm ngôi nhà. Tôi khóa cái máy làm đá lại bằng những sợi xích và phủ lên đó miếng vải dầu, cùng vài cái thùng cũ. Tôi chờ đến rạng sáng bởi vì Pepper vẫn quanh quẩn đâu đó. Thế rồi tôi lẻn , lái xe trở về nhà, thay quần áo và trở lại nhà Clovis lúc mười giờ. Rolland đến trong tâm trạng vui vẻ và hỏi xem đêm trước thế nào. Hoàn toàn bình thường, tôi đáp. Việc phúng lễ được tổ chức ở mức tối thiểu. Chúng tôi đưa cỗ quan tài trở lại chiếc xe tang, rồi ra nghĩa địa.”

      Karl ngồi nghe, mắt nhắm, nụ cười thoáng môi, đầu hơi lắc lắc vẻ tin nổi. “ xảo quyệt,” ông gần như lẩm bẩm với chính mình.

      “Cảm ơn. Vào chiều ngày thứ sáu, tôi đến ngôi nhà săn nghỉ cuối tuần. Tôi có vài lời thăm dò với Pepper, kiểm tra lại thi hài Clovis — yên ổn cả. Sáng chủ nhật, tôi lên đường từ trước lúc mặt trời mọc và bố trí sẵn chiếc môtô cùng xăng dầu. Sau đó, tôi chở Pepper ra bến xe buýt ở Jackson. Sau lúc trời tối, tôi bê Clovis ra khỏi cái máy làm đá, đặt ông ta ngồi bên cạnh lò sưởi để người ông ta mềm bớt , và vào lúc chừng mười giờ bỏ ông ta vào trong cốp xe. giờ sau đó là cái chết của tôi.”

      hối tiếc gì hết ư?”

      “Có chứ. Đó là việc làm khủng khiếp. Nhưng mà, Karl này, tôi quyết định biến và phải tìm ra cách nào đó. Tôi thể giết ai, nhưng lại cần cái xác. Điều đó thực quan trọng.

      “Rất hợp lý.”

      “Và khi Clovis chết, cũng là lúc tôi phải ra . Rất nhiều may mắn. Bao nhiêu thứ có thể trục trặc ấy chứ."

      “Vận may của còn tiếp tục.”

      “Cho đến lúc này.”

      Karl nhìn đồng hồ, và ăn cái càng cua nữa. “Tôi với Thẩm phán Trussel bao nhiêu phần của câu chuyện này ?”

      “Tất cả, chỉ trừ có tên của Clovis. Chúng ta để cái đó sau.”

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 40

      P atrick ngồi ở cuối bàn. Trước mặt bàn chỗ ngồi chẳng có gì, chứ như chỗ người luật sư của , ở bên phải, với hai chồng hồ sơ và xấp những giấy tờ được bày biện sẵn giống như người ta dàn sẵn các loại vũ khí trước giờ lâm trận. Phía bên trái là T.L. Parrish, chỉ có cuốn ghi chép nhưng lại cũng được trang bị chiếc máy ghi to tướng, được đặt ở đó với chấp thuận của Patrick. có phụ tá hay người giúp việc nào khác để khỏi thêm phức tạp, nhưng bởi lẽ các luật sư đều cần có gì đó để kiểm chứng nên họ thỏa thuận ghi lại.

      Giờ đây, khi mà những cáo buộc của Liên bang được từ bỏ, sức ép lại dồn lên các giới chức tiểu bang trong việc đưa Patrick ra trước công lý. Parrish cảm nhận được điều đó. Đám Liên bang quăng bị cáo này cho ông ta để họ có thể bám theo ông Thượng nghị sĩ và những vấn đề lớn hơn. Thế nhưng, bị cáo này lại sắp có những lời khai mới, và số phận của Parrish phụ thuộc vào lòng khoan dung của .

      “Ông có thể quên chuyện cố sát , Terry,” Patrick . Mặc dù gần như ai cũng gọi ông ta là Terry, nhưng bị cáo mà ông ta quen biết bao nhiêu gọi vậy quả là cũng hơi khó chịu. “Tôi hề giết ai.”

      “Ai bị thiêu trong cái xe đó ?”

      người chết trước đó bốn ngày.”

      “Chúng tôi có biết người đó ?”

      . Đó là ông già ai biết đến cả.”

      “Ông già đó chết như thế nào ?”

      “Chết già thôi.”

      “Chết ở đâu ?”

      “Ngay ở Mississippi này.”

      Parrish ghi mấy dòng và đánh dấu trong cuốn sổ. Cánh cửa mở ra khi các giới chức Liên bang rút khỏi cuộc. Patrick bước qua cánh cửa đó, xiềng xích, và dường như gì có thể chặn lại.

      “Vậy là đốt cái xác ?”

      “Đúng vậy.”

      “Chúng ta có luật về hành vi đó phải ?”

      Sandy đẩy tờ giấy ngang qua mặt bàn. Parrish liếc nhanh, và , “Xin thứ lỗi. Đó phải là loại tội phạm mà chúng tôi phải truy tố hàng ngày.”

      “Đó là tất cả những gì ông có, Terry,” Patrick , với tất cả vẻ tự tin lạnh lùng của người chuẩn bị hàng năm trời cho cuộc đối chất này.

      Parrish bị thuyết phục, thế nhưng, có công tố viên nào lại chịu bó tay dễ dàng như vậy. “Có vẻ là năm tù,” ông ta . “ năm tù ở Parchman làm cho trở nên biết phải trái.”

      "Chắc chắn rồi, có điều là tôi tới Parchman đâu.”

      “Vậy tính đâu hả ?”

      “Đâu đó. Và tôi dùng vé hạng nhất.”

      dễ vậy đâu. Chúng tôi còn cái xác kia mà.”

      , Terry. Ông có cái xác nào hết. Ông hề biết ai là người bị hỏa thiêu, và tôi ra cho tới khi chúng ta có thỏa thuận.”

      “Là … ?”

      “Từ bỏ các cáo buộc. Chấm dứt vụ này. Cả hai bên thu dọn và trở về nhà.”

      “Ha, nghe được đấy. Chúng tôi tóm được kẻ cướp nhà băng, ta trả lại tiền, chúng tôi thôi việc truy tố và giơ tay chào tạm biệt ta. Điều đó phát thông điệp đứng đắn cho bốn trăm bị cáo khác mà tôi phải truy tố. Tôi tin chắc là luật sư của họ hiểu. cái tát vào mặt pháp luật và công lý.”

      “Tôi cóc quan tâm tới bốn trăm người kia, và đương nhiên là họ cũng chẳng buồn quan tâm tới tôi. Chuyện vẫn vậy mà, Terry. Ai cũng nghĩ đến bản thân mình.”

      “Nhưng phải là ai cũng ở đầu các trang nhất.”

      “Ra vậy, tôi hiểu rồi. Ông quan ngại về báo chí. Khi nào có vụ bầu lại vậy. Sang năm phải ?”

      “Tôi phải tranh giành với ai. Tôi cũng quá quan ngại về giới báo chí.”

      “Đương nhiên là ông phải quan ngại. Ông là công chức. Ông có lo ngại về báo chí cũng là chuyện thường, và đó chính là lý do ông nên bãi bỏ những cáo buộc chống lại tôi. Ông thể nào thắng được. Ông lo ngại về những trang nhất ư ? Hãy thử nghĩ đến hình ảnh của ông đó sau khi ông thất bại.”

      “Gia đình nạn nhân muốn khiếu kiện gì,” Sandy . “Và gia đình đó sẵn sàng công khai với dư luận.” giơ mảnh giấy lên. Thông điệp được đưa ra là: Chúng tôi có bằng chứng, chúng tôi có gia đình kia, chúng tôi biết họ là ai, còn ông .

      “Chuyện trang nhất như vậy có vẻ là được đấy,” Patrick . “Gia đình nạn nhân khẩn khoản xin ông thôi truy tố.”

      dấm dúi cho họ bao nhiêu, ông ta toan mở miệng nhưng lại thôi. Chuyện cũng chẳng liên quan gì. Thêm vài dòng nguệch ngoạc. Thêm cân nhắc về những lựa chọn mờ nhạt của ông ta trong lúc chiếc máy ghi chỉ ghi lại được im lặng.

      Với đối thủ bị dồn vào chân tường, Patrick áp tới để đánh cú đo ván. “Nào, Terry,” vẻ chân tình. “Ông thể truy tố tôi về tội cố sát. Chuyện đó qua rồi. Ông cũng thể truy tố tôi về hành vi làm tổn thương tới thi hài, bởi lẽ ông biết thi hài của ai bị làm tổn thương. Ông có gì trong tay cả. Tôi hiểu đó là viên thuốc đắng khó nuốt, nhưng ông thể nào làm thay đổi được thực tế đó. Ông bị điều này tiếng nọ chút đỉnh, nhưng biết làm sao, đó cũng là phần công việc của ông thôi.”

      “Cảm ơn. Nhưng này, tôi có thể khép tội về hành vi làm tổn thương thi hài kia. Chúng tôi gọi người đó là ông X.”

      “Sao lại là bà X hả ?” Sandy hỏi.

      “Thế nào chẳng được. Chúng tôi xem lại hồ sơ về tất cả những người già chết vào đầu tháng Hai năm 1992. Chúng tôi tới các gia đình, xem họ có chuyện với các bao giờ . Thậm chí chúng tôi có thể xin lệnh của tòa án, khai quật vài ngôi mộ. Chúng tôi cứ từ từ làm việc. Trong khi đó, bị chuyển tới nhà tù của quận Harrison, nơi tôi tin chắc rằng ông cảnh sát trưởng Sweeney thấy được cần thiết là phải lo cho vài tay bạn tù cho ra trò. Chúng tôi chống lại việc bảo lãnh, và thẩm phán nào cho phép điều đó, xét tới khả năng chạy trốn của . Ngày tháng trôi qua. Mùa hè rồi tới. Trong nhà tù có máy điều hòa khí. hẳn còn sút cân thêm nữa. Chúng tôi tiếp tục tìm kiếm, và may ra chúng tôi tìm được ngôi mộ rỗng. Và chính xác là sau chín tháng, hai trăm bảy mươi ngày sau khi có cáo trạng, chúng ta ra tòa.”

      “Ông làm sao để chứng minh được rằng tôi làm điều đó ? có nhân chứng nào, gì hết ngoài vài chứng cứ gián tiếp.”

      “Cũng gần đúng. Nhưng hiểu ý tôi rồi. Nếu tôi kéo dài công việc chuẩn bị cho buộc tội này, tôi có thể bổ sung thêm hai tháng vào cái thời gian phải ngồi tù của . Nghĩa là gần trọn năm trong nhà tù của quận trước khi ra tòa. Đó là thời gian dài đối với người có rất nhiều tiền.”

      “Tôi có thể chịu được,” Patrick , nhìn thẳng vào mắt Parrish, lòng thầm mong rằng chớp mắt trước ông ta.

      “Có thể, nhưng thể mạo hiểm với khả năng bị kết án.”

      “Vậy cầu sau rốt của ông là gì ?” Sandy hỏi.

      “Các phải nhìn vào bức tranh toàn thể,” Parrish , khoát tay lên bên đầu. “Các thể biến chúng tôi thành trò cười, Patrick. Đám Liên bang rút êm. Tiểu bang còn lại gì nhiều. Phải để cho chúng tôi cái gì đó chứ.”

      “Tôi để cho ông được kết án. Tôi ra tòa, đứng trước vị chánh án, nghe ông đọc cáo trạng như thường, và tôi nhận tội làm tổn thương thi hài. Nhưng tôi phải vào tù. Ông có thể giải thích với ông chánh án rằng gia đình nạn nhân muốn truy tố. Ông có thể khuyến nghị bản án treo, thời gian thử thách, tiền phạt, tiền bồi thường, và về thái độ tốt trong thời gian bị giam giữ. Ông có thể về cuộc tra tấn và những gì tôi phải trải qua. Ông có thể làm tất cả những điều đó, Parrish, và tiếng tăm của ông là tốt. cầu cốt lõi là: có chuyện phải vào tù.”

      Parrish gõ gõ ngón tay lên bàn, trầm ngâm. “Và cho biết tên của nạn nhân ?”

      “Tôi , nhưng chỉ sau khi chúng ta thỏa thuận.”

      “Chúng tôi có cho phép của gia đình để mở quan tài đây,” Sandy , tay giơ nhanh mảnh giấy khác lên và lại cất ngay vào trong hồ sơ. “Tôi vội mà, Terry. Tôi còn phải nhiều nơi.”

      “Tôi cần phải chuyện với Trussel. Các biết là chuyện này phải được ông ấy chấp thuận.”

      “Ông ấy chấp thuận,” Patrick .

      “Chúng ta thỏa thuận phải nhỉ ?” Sandy hỏi.

      “Với tôi đúng vậy,” Parrish đáp, rồi tắt cái máy ghi . Ông ta thu dọn giấy tờ bỏ vào cặp. Patrick nháy mắt với Sandy.

      “Mà này, nhân tiện,” Parrish khi đứng lên. “Suýt nữa quên mất. có thể gì với chúng tôi về Pepper Scarboro hả ?”

      “Tôi có thể cho ông tên mới cùng số thẻ bảo hiểm xã hội của cậu ta.”

      “Vậy là thằng bé vẫn còn sống ư ?”

      “Phải, ông có thể tìm được Pepper, nhưng thể làm phiền gì cậu ta được. Cậu ta sạch hoàn toàn.”

      Ngài công tố viên ra khỏi phòng mà thêm lời nào.

      oOo

      Nàng có cuộc hẹn vào lúc hai giờ chiều với vị phó chủ tịch của Ngân hàng Đức, chi nhánh tại Luân Đôn. Ông ta là người Đức tiếng hoàn hảo, với bộ complê kiểu hai hàng khuy màu xanh đen được may chê vào đâu được, và nụ cười luôn thường trực môi. Ông ta chỉ thoáng nhìn trong tích tắc cặp chân của nàng, rồi bắt tay vào việc ngay. Điện chuyển tiền từ chi nhánh ngân hàng của ông ta ở Zurich cầu chuyển ngay lập tức trăm mười ba triệu đôla tới Ngân hàng Mỹ, chi nhánh tại Oasinhtơn. Nàng có số tài khoản cùng những chỉ thị chuyển tiền. Nước trà và bánh quy được đưa tới trong lúc ông ta xin phép ra ngoài để trao đổi riêng với Zurich.

      có vấn đề gì cả, thưa Pires,” ông ta với nụ cười nồng nhiệt khi trở lại và cũng cầm miếng bánh lên. Tất nhiên là nàng cũng chẳng mong có trục trặc gì.

      Chiếc máy tính của ông ta chạy ro ro, và bản in được đẩy ra. Ông ta trao nó cho nàng. Sau khoản chuyển tiền này, tài khoản của nàng trong Ngân hàng Đức còn lại hơn triệu chín trăm nghìn đôla. Nàng gấp mảnh giấy lại và bỏ nó vào trong ví, cái ví hiệu Chanel mới tinh.

      tài khoản khác trong ngân hàng Thụy Sĩ còn ba triệu đôla. tài khoản khác nữa trong ngân hàng Canda ở Grand Cayman còn sáu triệu rưỡi. nhà kinh doanh tiền tệ ở Bermuda đầu tư hơn bốn triệu đôla cho họ, và bảy triệu hai trăm nghìn đôla được để ở Lúcxembua, nhưng số này sắp được chuyển nơi khác.

      Sau khi xong việc, nàng rời khỏi nhà băng và thấy chiếc xe cùng người tài xế của nàng chờ gần đấy. Nàng gọi cho Sandy, và thông báo hành trình tiếp theo của nàng.

      oOo

      Cuộc trốn chạy của Benny, kẻ bị Liên bang truy nã, ngắn ngủi. bạn của ông ta nghỉ đêm lại Frankfurt, rồi bay đến Luân Đôn, xuống Heathrow vào tầm trưa. Bởi lẽ họ biết trước là ta đến nên nhân viên hải quan kiểm tra rất kỹ lưỡng tấm hộ chiếu và buộc ta phải chờ đợi. ta đeo cặp kính đen và hai bàn tay cứ run lên. Tất cả đều được ghi lại vào băng video.

      Tại nơi chờ tăcxi, ta bị cầm chân mà biết bởi sĩ quan cảnh sát có vẻ như làm nhiệm vụ sắp xếp tăcxi cho hành khách. ta cầu ta đứng vào bên cạnh hai người phụ nữ khác, trong khi ta điều khiển đám xe cộ. Người lái xe cho ta là tài xế tăcxi thực thụ, nhưng ít giây trước đó được thông báo vắn tắt và được trang bị cái bộ đàm .

      “Khách sạn Athenaeum phố Piccadilly,” ta bảo người lái xe. ta nhàng cho xe nhập vào dòng xe cộ đông đúc, và hờ hững thông báo địa điểm tới qua bộ đàm. tiếng rưỡi sau, chiếc xe dừng lại trước cửa khách sạn. ta lại phải chờ tại quầy tiếp tân. Tay trợ lý giám đốc khách sạn xin lỗi về chậm trễ với lý do là máy tính có trục trặc.

      Sau khi nhận được tin báo rằng điện thoại trong phòng của ta được cài đặt máy nghe trộm xong xuôi, họ trao cho ta chìa khóa phòng và người phục vụ dẫn ta . ta bỏ ra chút tiền thưởng, sau đó khóa trái cửa phòng lại và thẳng tới bên chiếc điện thoại.

      Những từ đầu tiên mà họ nghe thấy ta là: “Benny, em đây. Em ở đây.”

      “Tạ ơn Chúa,” Benny . “Em có sao ?”

      sao cả. Chỉ sợ thôi.”

      “Có ai bám theo em hả ?”

      . Em nghĩ là có ai. Em rất cẩn thận.”

      “Tốt lắm. Nghe này, có quán cà phê phố Brick, cách khách sạn của em hai khúc phố. Gặp ở đó sau tiếng nữa nhé.”

      “Được. Em sợ lắm, Benny.”

      “Mọi chuyện đều ổn, em . mong được gặp em quá mất.”

      Benny có ở quán cà phê đó khi ta đến. ta đợi tiếng đồng hồ, rồi hoảng sợ chạy ngược trở về khách sạn. Ông ta gọi lại, và ta tài nào ngủ được.

      Sáng hôm sau, ta cầm mấy tờ báo ở dưới tiền sảnh và vừa xem vừa uống cà phê trong phòng ăn. trang trong của tờ Điện tín hàng ngày, ta đọc thấy mẩu tin ngắn về vụ bắt giữ công dân Mỹ bị truy nã, người đàn ông có tên là Benny Aricia.

      Rất nhanh chóng, ta thu xếp hành lý và đặt mua vé chuyến bay chiều trở về Thụy Điển.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 41
      V ới những lời thầm của Thẩm phán Karl Huskey vào tai đồng của ông ta là Thẩm phán Henry Trussel, vụ Lanigan được quyết định là vụ án ưu tiên cho đến khi mọi chuyện đâu vào đấy. Những tin đồn về thỏa thuận lan ra khắp trong giới tòa án và luật sư ở Biloxi, và luôn gắn liền với những lời đàm tiếu về cái Hãng Bogan kia. Kỳ thực là ở tòa án người ta chẳng còn với nhau chuyện gì nữa ngoài những chuyện này.
      Trussel bắt đầu ngày làm việc bằng việc triệu T.L.Parrish và Sandy McDermott tới để tìm hiểu về những diễn biến mới nhất, và cuộc gặp kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Ba lần Patrick được lôi vào cuộc thảo luận này qua cái điện thoại di động của bác sĩ Hayani. Hai người, bệnh nhân và bác sĩ, ngồi chơi cờ trong căngtin của bệnh viện.
      “Tôi nghĩ rằng ta phải vào tù,” Trussel lầm bầm sau cú điện thoại thứ hai gọi cho Patrick. Cả vẻ mặt lẫn lời của ông ta đều cho thấy là ông ta muốn để Patrick thoát được cách dễ dàng như vậy, thế nhưng việc kết tội lại là khả năng xa vời. Còn bao nhiêu vụ buôn bán ma túy và quấy nhiễu tình dục đối với trẻ em nữa, chẳng nên phung phí thời giờ với cái kẻ làm tổn thương thi hài được dư luận chú ý này. Tất cả các bằng chứng chỉ là gián tiếp, và với việc Patrick có tiếng là kẻ luôn lập ra những kế hoạch chu đáo, Trussel dám tin là có thể kết án được .
      Các điều kiện cho thỏa thuận nhận tội được thảo ra. Mọi việc bắt đầu bằng khuyến nghị chung, hạ thấp cáo buộc đối với Patrick. Rồi án lệnh được soạn thảo để đưa vào cáo buộc mới, tiếp theo là án lệnh chấp nhận lời nhận tội. Trong tiến trình của cuộc gặp lần thứ nhất này, Trussel chuyện qua điện thoại với cảnh sát trưởng Sweeney, Maurice Mast, Joshua Cutter, và Hamilton Jaynes ở Oasinhtơn. Để chắc ăn, ông ta cũng chuyện hai lần với Karl Huskey, người ngồi ngay phòng bên cạnh.
      Hai vị thẩm phán, cùng với Parrish, là các đối tượng phải được bầu lại bốn năm lần, cùng với kỳ bầu cử chung. Trussel chưa bao giờ có đối thủ và tự cho mình là hoàn toàn có thể yên tâm chính trường. Huskey rũ áo ra . Trường hợp của Parrish nhạy cảm, bởi lẽ mặc dù là chính khách giỏi, ông ta vẫn tiêu biểu cho trường phái truyền thống thường đưa ra những quyết định cứng rắn mà cần quan tâm tới phản ứng của công chúng. Cả ba đều chính trường nhiều năm, và mỗi người đều học được bài học cơ bản: Khi dự liệu trước về hành động có thể được lòng người, hãy hành động cho nhanh. Dứt điểm. Lưỡng lự chỉ tổ sinh thêm chuyện. Báo chí vồ lấy, gây tranh cãi trước khi hành động được thực , và chắc chắn là đổ thêm dầu vào đám lửa sau đó.
      Vấn đề Clovis là đơn giản, khi Patrick giải thích lại với tất cả mọi người. phải trình ra được tên của nạn nhân, cùng với cho phép từ phía gia đình về việc khai quật, mở quan tài và nhìn vào bên trong. Nếu là cái quan tài đó trống rỗng, thỏa thuận nhận tội này là hoàn tất. Bởi lẽ vẫn luôn còn nghi ngờ cho đến khi họ khai quật nấm mộ kia lên, nếu chẳng may mà cái quan tài kia phải là trống rỗng thỏa thuận nhận tội này bị xé bỏ và Patrick vẫn phải đối mặt với những cáo buộc về tội cố sát. Patrick hoàn toàn tự tin khi về nạn nhân, và mọi người đều mảy may nghi ngờ rằng ngôi mộ đó trống rỗng.
      Sandy lái xe chạy tới bệnh viện, thấy thân chủ của mình nằm giường, vây xung quanh là các y tá trong khi bác sĩ Hayani lau rửa và băng lại các vết thương cho . Sandy giải thích là có việc khẩn cấp. Patrick xin lỗi và cầu họ ra ngoài. Còn lại hai người với nhau, họ xem lại từng thứ văn bản, đọc to từng câu từng chữ, và rồi Patrick ký xác nhận chấp thuận của .
      Sandy để ý thấy cái thùng cáctông sàn, cạnh bàn làm việc tạm thời của Patrick. Trong đó là những cuốn sách mà cho mượn. ràng là bắt dầu thu xếp hành lý.
      Sandy quay về căn hộ ở khách sạn, ăn trưa bằng chiếc bánh xăng uých, vừa đứng ăn vừa nhìn thư ký đánh máy lại văn bản. Cả hai người phụ tá và thư ký thứ hai trở về văn phòng ở New Orleans.
      Có tiếng chuông điện thoại và Sandy nhấc máy lên. Nguời gọi tự xưng danh là Jack Stephano, ở D.C., và có lẽ từng nghe tên lão ta. Đúng là vậy. Stephano ở dưới tiền sảnh khách sạn và muốn chuyện vài phút. Được. Trussel cầu Parrish và Sandy trở lại vào mãi khoảng hai giờ chiều cơ mà.
      Họ ngồi trong căn phòng , đối diện nhau ngang cái bàn dùng để uống cà phê. “Tôi tới đây vì tò mò,” Stephano , và Sandy hề tin lão.
      “Chẳng lẽ ông nên bắt đầu với lời xin lỗi ư ?” Sandy .
      “Phải, phải. Người của tôi ở bên đó hơi quá tay chút và quả là lẽ ra họ nên thô bạo như vậy với chàng kia của .”
      “Ông nghĩ thế là lời xin lỗi hả ?” Sandy .
      “Tôi xin lỗi. Chúng tôi sai.” lời xin lỗi có chút chân thành nào.
      “Tôi chuyển lại cho thân chủ của tôi. Tôi tin rằng nó có nhiều ý nghĩa đối với ấy.”
      “Tôi còn ăn chung gì trong vụ đấu đá này nữa. Vợ tôi và tôi đường nghỉ ở Florida, và tôi muốn ghé vào đây chút. Chỉ phút thôi.”
      "Họ tóm được Aricia chưa ?” Sandy hỏi.
      “Rồi. Cách đây có vài giờ. Tại Luân Đôn.”
      “Tốt.”
      “Tôi còn đại diện cho ông ta, và tôi có liên quan gì tới mọi việc ở Hãng Platt & Rockland cả. Người ta thuê tôi sau khi chỗ tiền kia biến mất. Công việc của tôi là tìm kiếm nó. Tôi cố gắng, được trả tiền, và kết thúc mọi chuyện.”
      “Vậy cuộc viếng thăm này là thế nào ?”
      “Tôi rất đỗi tò mò về chuyện. Chúng tôi chỉ tìm ra Lanigan ở Braxin sau khi có người chỉ điểm. người biết rất về ta. Hai năm về trước, Hãng thám tử tư ở Atlanta có tên là Nhóm Pluto liên hệ với chúng tôi. Họ có khách hàng ở châu u biết đôi điều về Lanigan, và người khách hàng đó cần tiền. Khi đó chúng tôi cũng có chút tiền, bởi vậy mối quan hệ phát triển. Người khách hàng kia đề nghị trao cho chúng tôi dấu vết, chúng tôi đồng ý trả khoản tiền thưởng, tiền trao cháo múc, và thông tin luôn chính xác. Người đó biết rất nhiều về Lanigan - những di chuyển, các thói quen và cả những cái tên giả của ta. Nhưng tất cả đều chỉ là những chuyện được tính toán trước — có cái đầu ở đằng sau mọi chuyện. Chúng tôi biết điều gì đến và tình là khi đó chúng tôi rất nóng lòng. Sau cùng, họ đưa ra miếng mồi lớn. Với triệu đôla, ngưòi khách kia cho chúng tôi biết ta sống ở đâu. Họ cung cấp vài tấm ảnh rất đẹp chụp Lanigan, trong đó có tấm chụp ta cọ rửa cái xe, chiếc Volkswagen Beetle. Chúng tôi trả tiền và rồi tóm được Lanigan.”
      “Vậy ai là người khách hàng kia hả ?" Sandy hỏi.
      “Đó chính là câu hỏi của tôi. Hẳn phải là kia, có phải ?”
      Sandy đưa ra ngay được phản ứng. hơi gằn giọng như cười, nhưng mà phải là cười. Câu chuyện của nàng về việc dùng Nhóm Pluto để giám sát Stephano, kẻ tìm kiếm Patrick, từ từ trở lại trong tâm trí .
      ta giờ ở đâu ?” Stephano hỏi.
      “Tôi biết,” Sandy . Nàng ở Luân Đôn, nhưng tất nhiên đó chẳng phải là việc của .
      “Chúng tôi trả tổng cộng là triệu và trăm năm mươi nghìn đôla cho người khách hàng bí này, và ta, hay ta, bán đứng tất cả. Giống như là Judas bán Chúa vậy.”
      “Chuyện qua rồi. Ông muốn gì ở tôi ?”
      “Như tôi , tôi chỉ tò mò thôi mà. ngày nào đó, nếu biết được , tôi rất đánh giá cao cú điện thoại của đấy. Tôi có gì được thua nữa, nhưng tôi chịu yên cho tới khi tôi biết ta có lấy tiền của chúng tôi hay .”
      Sandy đưa ra lời hứa mơ hồ là có thể ngày nào đó gọi lại cho lão, và Stephano rời khỏi khách sạn.
      oOo
      Cảnh sát trưởng Raymond Sweeney được biết về thỏa thuận đó trong lúc ăn trưa, và thấy thích chút nào. Ông ta gọi điện cho Parrish và Thẩm phán Trussel, nhưng cả hai đều quá bận, thể tiếp chuyện ông ta được. Cutter có ở văn phòng.
      Sweeney cố tình chường mặt tới tòa án. Ông ta quanh quẩn ngay ở khúc hành lang nằm giữa các phòng làm việc của các thẩm phán, để nếu như có thỏa thuận có thể can thiệp vào giữa chừng. Ông ta thầm với đám chạy giấy và cảnh sát. Có vẻ là có chuyện .
      Các luật sư đến vào lúc hai giờ, mặt mũi trịnh trọng và hề hé môi. Họ tập hợp trong phòng làm việc của Trussel sau cánh cửa đóng kín. Mười phút sau, Sweeney gõ cửa. Ông ta cắt ngang cuộc họp với cầu được biết có chuyện gì diễn ra đối với tay tù nhân của ông ta. Thẩm phán Trussel nhẫn nại giải thích rằng sắp có lời nhận tội, kết quả của cuộc mặc cả, mà theo ý ông ta cũng như ý kiến của tất cả những người có mặt, là phù hợp với lợi ích cao nhất của công lý.
      Sweeney cũng có ý kiến riêng để sẵn sàng chia sẻ, “Điều đó biến chúng ta thành lũ ngốc. Người ta ầm ầm lên về chuyện này ở ngoài kia. Các vị tóm được tên tội phạm giàu sụ và bỏ tiền ra mua được cái lối thoát khỏi nhà tù. Chúng ta là cái gì hả, đám hề chắc ?”
      “Ông có kiến nghị gì, Raymond ?” Parrish hỏi.
      “Tôi mừng là ông hỏi. Trước tiên, tôi tống vào nhà tù của quận để ngồi trong đó ít lâu, giống như mọi tù nhân khác. Rồi tôi truy tố ở mức độ cao nhất.”
      “Về tội gì hả ?”
      đánh cắp chỗ tiền chết tiệt kia, phải vậy ? thiêu hủy cái xác chết. Cứ để cho nằm mười năm trong Parchman. Đó là công lý.”
      có đánh cắp tiền ở đây,” Trussel giải thích. “Chúng ta có thẩm quyền. Đó là vấn đề thuộc thẩm quyền của Liên bang, và các giới chức Liên bang từ bỏ các cáo buộc đối với .”
      Sandy ngồi trong góc, mắt dán vào văn bản.
      “Vậy là có ai đó làm hỏng bét cả, phải ?”
      phải là chúng tôi,” Parrish nhanh.
      “Tuyệt lắm. Hãy giải thích như vậy với những người bỏ phiếu cho ông. Đổ lỗi cho đám Liên bang, bởi vì họ đâu có phải tranh cử gì. Còn vụ đốt xác sao hả ? vẫn được ra sau khi thú tội ư ?"
      “Ông nghĩ là cần phải truy tố về tội đó à ?” Trussel hỏi.
      “Quá chứ.”
      “Tốt. Ông nghĩ là chúng ta phải lập luận thế nào cho vụ này ?” Parrish hỏi.
      “Ông là công tố viên. Đó là việc của ông.”
      “Phải, nhưng có vẻ như là việc gì ông cũng thạo. Hãy cho tôi biết xem ông lập luận như thế nào ?
      làm, có phải ??"
      "Phải, và ông nghĩ rằng Patrick Lanigan làm nhân chứng luôn trong vụ xét xử chính và thừa nhận với hội thẩm đoàn rằng đốt cái xác ư ? Có phải đó là suy nghĩ của ông ?”
      “Ông ấy nghĩ vậy đâu,” Sandy đỡ lời.
      Cổ và mặt Sweeney đỏ gắt lên, tay chân khua loạn. Ông ta nhìn Parrish, rồi lại nhìn Sandy.
      Và khi ông ta nhận ra rằng các luật sư này có tất cả các câu trả lời ông ta cố tự kiềm chế. “Chuyện này diễn ra vào lúc nào ?” Ông ta hỏi.
      “Cuối buổi chiều nay,” Trussel .
      Sweeney cũng thích cả cái thời điểm này. Ông ta thọc cả hai tay vào túi rồi cắm đầu ra cửa. “Các vị hãy tự lo lấy thân,” ông ta , đủ to để mọi người đều nghe được.
      gia đình lớn hạnh phúc,” Parrish , đầy vẻ mỉa mai.
      Sweeney đóng sầm cửa và sồng sộc bỏ . Ông ta rời khỏi tòa án chiếc xe tuần tiễu có phù hiệu cảnh sát, và dùng điện thoại xe gọi cho nguồn tin riêng của ông ta, phóng viên của tờ Bờ biển.
      oOo
      Do phía gia đình cho phép, và Patrick, người quản lý phần mộ theo di chúc, việc đào cái mộ đó lên là chuyện đơn giản. Thẩm phán Trussel và cả Parrish cùng Sandy phải là thấy điều mỉa mai trong việc buộc phải để Patrick, người bạn duy nhất của Clovis, ký vào bản tuyên thệ cho phép mở quan tài để làm về chính hành vi của mình. Mọi quyết định đều có vẻ như bị mỉa mai nào đó phủ lên.
      Việc đào mộ này khác xa với cuộc khai quật, tiến trình phải có lệnh của tòa án, sau kiến nghị thích hợp và đôi khi là cả cuộc điều trần. Đây đơn giản chỉ là việc ngó xem, tiến trình được bao hàm trong luật pháp của bang Mississippi, và do vậy Thẩm phán Trussel có quyền hạn khá rộng rãi. Ai có thể phải chịu tổn hại ? Tất nhiên phải là phía gia đình rồi. Cũng phải là cái quan tài; bởi vì ràng là chính nó cũng chẳng còn có mấy ý nghĩa.
      Rolland vẫn là chủ của ngôi nhà tang lễ vùng Wiggins. Ông ta còn nhớ rất về ông Clovis Goodman và người luật sư của ông ấy, cùng cái đêm thức canh quan tài kỳ cục ở đó, trong ngôi nhà của ông Goodman, ngoài tay luật sư ra chẳng còn ma nào khác. Phải, ông ta còn rất nhớ, ông ta vậy với ông Thẩm phán điện thoại. Đúng là ông ta có đọc tin về ông Lanigan, nhưng ông nghĩ là có mối liên hệ gì.
      Thẩm phán Trussel tóm tắt lại cho ông ta nghe câu chuyện về liên quan trực tiếp tới Clovis. , ông ta mở quan tài ra sau đêm đó, cần phải làm như vậy, chưa bao giờ làm như thế. Trong khi ông Thẩm phán chuyện, Parrish gửi tới cho Rolland các bản sao về thỏa thuận có chữ ký của Deena Postell và Patrick Lanigan, người thực di chúc.
      Rolland đột nhiên trở nên sốt sắng. Trước đây, ông ta chưa hề từng gặp chuyện đánh cắp thi hài, chỉ bởi lẽ là người ở vùng Wiggins làm những chuyện như vậy, và phải rồi, tất nhiên là ông ta có thể cho đào ngôi mộ ấy lên ngay lập tức. Ông ta cũng chính là chủ sở hữu của cái nghĩa địa đó. Thẩm phán Trussel phái tay thư ký và hai cảnh sát viên tới nghĩa địa, dừng lại trước tấm bia mang dòng chữ: CLOVIS F. GOODMAN
      23/1/1907-06/2/1992
      lên thiên đường Họ thận trọng xới lớp đất mùn lên trong khi Rolland đứng chỉ đạo và chờ sẵn với cái xẻng trong tay. Chẳng mất tới mười lăm phút thấy nắp ván thiên. Rolland và người giúp việc bước xuống và hớt đất lên. Cái quan tài làm bằng gỗ dương bắt đầu mục ở các mép. Rolland ngồi ở phía đằng chân và đưa cái kìm xuống, ông ta vặn và giật mạnh cho tới khi nghe tiếng gãy răng rắc, rồi từ từ mở cái nắp lên.
      có gì ngạc nhiên, cái quan tài trống rỗng.
      Tất nhiên là ngoại trừ bốn cục bêtông vỡ.
      oOo
      Theo kế hoạch phiên tòa công khai được mở, nhưng phải đợi đến gần năm giờ chiều, khi mà tòa án sắp đóng cửa và nhiều công chức trong quận bắt đầu ra về. Năm giờ là thời điểm nghe được đối với tất cả mọi người, nhất là với ông Thẩm phán và ông Công tố viên, những người tin rằng họ làm việc chính đáng, nhưng mà lại cứ vẫn thấy lo ngại. Suốt cả ngày, Sandy hối thúc việc giải quyết cho nhanh khi có thỏa thuận giữa các bên và cái quan tài kia được mở ra. còn lý do gì phải chờ đợi. Thân chủ của ta bị giam cầm, mặc dù rằng điều đó nhận được mấy thông cảm. Công việc đâu vào dấy. Thời điểm là hoàn toàn thích hợp. Vậy chờ đợi để mà làm gì ?
      Chẳng để làm gì cả, sau cùng ngài Thẩm phán quyết định như vậy. Parrish phản đối. Ông ta còn tám vụ án được lên lịch trong ba tuần tới, và dẹp xong vụ Lanigan này cũng là điều nhõm.
      Bên bị cáo năm giờ chiều là thời điểm đáng hài lòng. Với chút may mắn, họ có thể vào và ra khỏi phòng xét xử trong vòng đầy mười phút. Với chút may mắn nữa, ai nhìn thấy họ cả. Với Patrick, năm giờ là tuyệt rồi. còn phải làm gì nữa nhỉ?
      mặc lên người chiếc quần kaki rộng thùng thình và chiếc sơmi vải bông màu trắng cũng khá rộng. đôi giày mới, nhưng mang tất, do vết bỏng nơi mắt cá chân. ôm hôn bác sĩ Hayani và cảm ơn về tình cảm mà ta dành cho . ôm hôn các y tá và cảm ơn những người hộ lý, và hứa rằng sớm trở lại thăm họ. Đời nào còn quay lại, mọi người đều biết thế.
      Sau hơn hai tuần là bệnh nhân và tù nhân, Patrick rời khỏi bệnh viện, bên cạnh là luật sư của , còn những người áp giải có vũ trang theo đàng sau.
      John Grisham
      Đồng Đạo

      Chương 42
      R õ ràng thời điểm năm giờ chiều là tuyệt vời cho tất cả mọi người. nhân viên tòa án nào ra về sau khi tin loan ra khắp các phòng làm việc, khắp xó xỉnh - trong khoảng chỉ vài phút đồng hồ.
      thư ký phụ trách về mảng bất động sản cho Hãng luật lớn bận rộn kiểm tra lại giấy chứng nhận sở hữu đất đai tại tòa án nghe lỏm được cái tin mới nhất này về Patrick. ta chạy ra chỗ đặt điện thoại và gọi về văn phòng Hãng. Chỉ trong khoảng thời gian tính bằng phút, toàn bộ giới luật pháp ở vùng bờ biển này biết tin Lanigan sắp sửa nhận tội trong thỏa thuận lạ lùng nào đó, và toan tính bí mật làm việc này vào lúc năm giờ chiều tại phòng xét xử chính của tòa án.
      Điểm nhấn mạnh về phiên tòa bí mật, cùng với thỏa thuận dấm dúi nào đó, dẫn tới hàng loạt cú điện thoại; gọi cho các luật sư, cho các bà vợ, cho các phóng viên được ưa thích, cho bạn bè có mặt trong thành phố. Trong vòng chưa đầy ba mươi phút, nửa thành phố biết chuyện Patrick sắp ra hầu tòa với thỏa thuận và rất có thể được trả lại tự do.
      Họ tụ tập thành từng nhóm tại phòng xét xử với những lời bàn tán thầm , vừa nhìn dòng người kéo vào vừa trông chừng những chỗ ngồi của họ. Đám đông tăng lên lại càng như chứng thực cho những gì được đồn đại. Ngần này người thể nào sai được. Và cho đến khi các phóng viên kéo tới, những lời đồn đại ngay lập tức được coi là có .
      ta đến rồi,” nhân viên tòa án đứng gần phía bên kêu lên và đám đông bắt đầu vội vàng ngồi vào chỗ.
      Patrick mỉm cười với hai phóng viên truyền hình chạy vội tới để gặp ở cửa sau. được dẫn đến vẫn cái phòng hội thẩm đó ở tầng hai, nơi cái khóa tay được mở ra. Cái quần kaki của hơi dài chút, bởi vậy xắn lên gấu. Kảl bước vào và bảo đám cảnh sát ra chờ ngoài hành lang.
      phiên tòa lặng lẽ mà đông người quá,” Patrick .
      “Khó mà giữ kín chuyện gì ở quanh đây được. Quần áo đẹp đấy.”
      “Cảm ơn.”
      “Có phóng viên mà tôi biết của tờ báo ở Jackson đề nghị tôi với … ”
      “Dứt khoát . lời nào với bất kỳ ai.”
      “Tôi cũng đoán vậy. Khi nào hả ?”
      “Tôi chưa biết. Cũng ngay thôi.”
      kia ở đâu vậy ?”
      “Châu u.”
      “Tôi có thể với được ?"
      “Vì sao ?”
      “Muốn xem, vậy thôi.”
      “Tôi gửi cho ông cuộn băng video.”
      “Cảm ơn nhiều.”
      “Ông có thực muốn ? Nếu như ông có cơ hội ra , ngay bây giờ, ông có vậy ?”
      “Cùng với chín mươi triệu đôla hay hả ?”
      “Cho dù là có hay .”
      “Dĩ nhiên là . cùng tình huống. Tôi vợ tôi, còn . Tôi có ba đứa con tuyệt vời, hoàn cảnh của khác. , tôi bỏ . Nhưng tôi cũng trách cứ gì .”
      “Ai cũng muốn chạy trốn, Karl ạ. Vào lúc nào đó trong cuộc đời, ai cũng từng có lần tính tới chuyện chạy trốn. Cuộc sống ở vùng biển hay vùng núi luôn luôn dễ chịu hơn. Những rắc rối có thể được bỏ lại đằng sau. Cái đó nằm sẵn trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta là con cháu của những người nhập cư, những người bỏ lại đằng sau những hoàn cảnh khốn khổ và tới mảnh đất này để tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn. Và họ tiếp tục sang miền Tây, lại lên đường, luôn luôn chỉ để tìm kiếm cái giấc mộng vàng. Giờ đây chẳng còn chỗ nào mà cả.”
      “Trời đất. Tôi nhìn vấn đề từ góc độ lịch sử.”
      “Đó là chuỗi liên tục.”
      “Giá mà ông bà tôi cũng cuỗm được của ai đó chín mươi triệu trước khi họ rời Ba Lan.”
      “Tôi trả lại rồi mà.”
      “Tôi nghe có thể còn có ổ trứng được để lại đâu đó.”
      trong những tin đồn có cơ sở.”
      “Vậy theo có phải là sắp tới có cả trào lưu những vụ ăn cướp tiền của khách hàng, những vụ đốt các thi hài, rồi những chuyến bay xuống Nam Mỹ, nơi tất nhiên là có những xinh đẹp chờ đợi để được vuốt ve phải ?”
      “Cho tới nay mọi chuyện là ổn.”
      "Tội nghiệp cho những người dân Braxin. Tất cả những gã luật sư xảo quyệt đều tìm đường đến chỗ họ cả.”
      Sandy bước vào với văn bản nữa để lấy chữ ký. “Trussel bực bội lắm,” với Karl. “Sức ép đổ lên đầu ông ta. Điện thoại réo liên tục.”
      “Còn Parrish sao ?”
      “Lo lắng như làm tiền ở nơi nhà thờ vậy.”
      “Chúng ta hãy làm ngay trước khi họ trở nên quá sợ hãi,” Patrick trong khi ký vào cái văn bản mà Sandy mang tới.
      viên mõ tòa bước ra loan báo phiên tòa sắp bắt đầu, và xin mời tất cả ngồi xuống. Mọi người vội vã tìm vào những chỗ còn trống. viên mõ tòa khác đóng các cánh cửa lớn lại. Những người đến xem đứng thành hàng dọc theo các bức tường. Mọi nhân viên tòa án đều làm ra vẻ việc gì đó ở phía bên , gần chỗ ngồi của chánh án. gần năm giờ rưỡi.
      Thẩm phán Trussel bước vào với dáng vẻ cứng nhắc thường thấy ở ông ta, và tất cả mọi người đều đứng dậy. Ông ta chào họ, cảm ơn quan tâm của họ đối với công lý, nhất là vào giờ muộn như thế này trong ngày. Ông ta và ông Công tố viên cho rằng phiên tòa quá nhanh chóng sặc mùi của thỏa thuận đàng hoàng, bởi vậy mọi chuyện được để cho diễn ra vội vàng gì. Họ thậm chí bàn tới việc hoãn phiên tòa lại, nhưng sau đó cho rằng trì hoãn gây ấn tượng rằng họ bị bắt quả tang khi toan tính lén lút làm chuyện gì đó.
      Patrick được dẫn vào qua cánh cửa bên khu hội thẩm đoàn, và đến đứng bên cạnh Sandy ngay trước tòa. nhìn ai cả. Parrish đứng gần đó, rất sốt ruột được bắt đầu. Thẩm phán Trussel lật từng trang hồ sơ, kiểm tra lại từng chữ từng trang.
      “ Ông Lanigan,” sau cùng ông ta cất tiếng, mạnh mẽ và chậm rãi. Trong ba mươi phút tiếp theo đó, mọi điều đều được trình bày cách chậm rãi cả. “Ông trình tòa số kiến nghị.”
      “Đúng vậy, thưa ngài Chánh án,” Sandy . “Kiến nghị đầu tiên của chúng tôi là hạ các cáo buộc từ tội cố sát xuống tội làm tổn thương tới thi hài.”
      Những lời này vang vọng trong cả căn phòng lặng như tờ. Làm tổn thương tới thi hài ư?
      “Ông Parrish,” ông Chánh án nhắc. Việc Parrish phải lo phần trình bày là điều được thỏa thuận. Gánh nặng của ông ta là việc giải thích được với tòa, cách chính thức, và quan trọng hơn là với báo chí và các công dân dõi theo ở ngoài kia.
      Ông ta trình bày cách tuyệt vời về những diễn biến mới nhất cách chi tiết. phải vụ giết người, đó là điều rốt cuộc, mà là tội hơn rất nhiều. Viện công tố bang phản đối việc hạ thấp các cáo buộc, bởi vì cơ quan này còn tin rằng Lanigan giết chết bất kỳ ai. Ông ta lại với dáng vẻ thoải mái nhất có thể có được, còn bị câu thúc bởi những quy ước nghi lễ hay thủ tục gì nữa, và giành được tán thưởng của tất cả các phía.
      “Tiếp theo, chúng ta còn có kiến nghị của bị cáo đề nghị tòa chấp thuận lời nhận tội đối với lời cáo buộc về hành vi làm tổn thương tới thi hài, có phải ông Parrish?”
      Màn kịch thứ hai này cũng giống với màn đầu, với Parrish thêm mắm thêm muối vào câu chuyện về ông già Clovis đáng thương.
      “Ông nhận là có tội hay có tội, ông Lanigan?” Ông Chánh án hỏi.
      “Có tội,” Patrick , giọng cứng rắn nhưng còn kiêu hãnh gì.
      “Viện công tố có khuyến nghị gì ?” ông Chánh án hỏi vị Công tố viên.
      Parrish đến bên cái bàn của ông ta, lật lật đám giấy tờ, bước trở lại trước tòa, và sau cùng cất tiếng, “Có, thưa ngài Chánh án. Tôi có bức thư của bà Deena Postell ở Meridian, Mississippi. Bà ta là người cháu còn sống duy nhất của Clovis Goodman.” Ông ta trao bản sao cho Trussel như thể bức thư đó là chuyện hoàn toàn mới vậy. “Trong bức thư này, bà Postell khẩn khoản xin tòa truy tố ông Lanigan về hành vi đốt xác người ông của bà ta. Ông cụ chết hơn bốn năm nay, và gia đình thể chịu đựng được thêm bất kỳ thống khổ và đau đớn nào nữa. ràng là bà Postell rất gần gũi với người ông của bà ta, và rất nặng nề với cái chết của ông cụ.”
      Patrick liếc nhìn Sandy. Nhưng Sandy muốn nhìn .
      “Ông chuyện với bà ta chưa ?’ ông Chánh án hỏi, “Rồi. Mới cách đây khoảng tiếng. Bà ta rất xúc động điện thoại, và xin chúng ta dấy lại vụ việc đau buồn này. Bà ta cách kiên quyết rằng ra làm chứng trước bất kỳ phiên tòa nào và cũng hợp tác với bên công tố dưới bất kỳ hình thức nào.” Parrish lại bước đến bên cái bàn của ông ta và xem thêm vài giấy tờ khác. “Với tình cảm đó của gia đình, viện công tố bang khuyến nghị rằng bị cáo bị phạt mười hai tháng tù treo do có thái độ tốt, rằng ông ta phải nộp khoản tiền phạt là năm nghìn đôla và trả tiền án phí, và phải có thời gian thử thách.”
      “Ông Lanigan, ông có đồng ý với án phạt này ?” Trussel hỏi.
      “Có, thưa ngài Chánh án,” Patrick , ngẩng đầu lên.
      “Tòa quyết định như vậy. Còn gì nữa ?” Trussel nhấc cái búa của ông ta lên và chờ đợi. Cả vị luật sư bào chữa và ông Công tố viên đều lắc đầu.
      “Phiên tòa của chúng ta kết thúc,” ông ta tuyên bố và gõ mạnh cái búa xuống.
      Patrick quay người và nhanh chóng ra khỏi phòng xét xử. lần nữa, lại biến mất ngay trước mắt họ.
      cùng với Sandy đợi tiếng đồng hồ trong phòng làm việc của Karl Huskey trong khi bóng tối trùm xuống và những kẻ dai nhất còn đeo bám ở tòa án cũng đành bỏ cuộc ra về. Vào lúc bảy giờ tối, lời chào từ biệt thân với Karl. cảm ơn ông ta về việc có mặt ở đó, ở bên cạnh , về tất cả, và hứa giữ liên lạc. Trong lúc bước ra cửa, cũng lần nữa cảm ơn ông ta làm người hộ tang cho .
      “Thôi nào,” Karl . “Thôi nào.”
      oOo
      Họ rời Biloxi chiếc Lexus của Sandy, Patrick ngồi ngả người chiếc ghế bên cạnh Sandy lái xe, lặng ngắm lần cuối cùng những tia nắng chiều của vùng Vịnh. Họ chạy ngang qua những sòng bạc bên bờ biển ở Biloxi và Gulfport, ngang qua cái bến tàu ở Pass Christian, và rồi những vầng sáng trải rộng ra khi họ vượt qua Vịnh St.Louis.
      Sandy trao cho cái số điện thoại, và gọi tới khách sạn của nàng. Lúc đó là ba giờ sáng ở Luân Đôn, thế mà nàng cũng chộp ngay lấy máy giống như là nàng ngồi nhìn chăm chăm vào nó mà chờ đợi vậy. “Eva, đây,” với cả kiềm chế lớn. Sandy gần như là dừng xe lại ngay lập tức để có thể ra ngoài chuyện với nàng. cố để nghe thấy gì.
      bọn rời Biloxi, đường New Orleans. sao. Chưa bao giờ lại cảm thấy khỏe hơn lúc này. Còn em ?”
      lắng nghe lúc lâu, mắt nhắm lại, đầu hơi ngả ra sau.
      “Hôm nay là ngày bao nhiêu hả ?” hỏi.
      “Thứ sáu, ngày 6 tháng Mười ,” Sandy đáp.
      gặp em ở Aix, chỗ Villa Gallici, vào Chủ nhật. Đúng. Rồi. ổn cả. em. Thôi ngủ , gọi em sau vài tiếng nữa.”
      Họ chay vào Louisiana trong im lặng, và đâu đó ngang Hồ Pontchartan, chợt Sandy , “Tôi có người khách rất thú vị hồi chiều nay.”
      à, ai vậy ?”
      “Jack Stephano.”
      “Ngay ở Biloxi à ?”
      “Phải. Lão tìm tôi ở khách sạn, rằng lão kết thúc với vụ Aricia và đường nghỉ ở Florida.”
      “Sao giết lão ?”
      “Lão là lão xin lỗi. rằng đám tay chân của lão ở dưới đó quá tay chút khi chúng tóm được , và muốn tôi chuyển lời xin lỗi.”
      “Cái thằng cha đó. Tôi tin rằng lão đến chỉ để lời xin lỗi.”
      “Đúng là thế. Lão kể với tôi về kẻ phản bội ở Braxin, về Nhóm Pluto và những khoản tiền thưởng, và hỏi thẳng thừng rằng có phải kia, Eva, là kẻ phản bội . Tôi là tôi biết gì.”
      “Sao lão lại quan tâm tới chuyện đó nhỉ ?”
      “Hỏi được đấy. Lão cưỡng lại được tò mò. Lão trả hơn triệu đôla tiền thưởng, tóm được đối tượng mà lão săn đuổi, nhưng lại lấy được tiền, và lão là lão thể nào ngủ được cho đến khi lão biết chuyện. Phần nào tôi cũng tin lời lão.”
      “Nghe có vẻ có lý.”
      “Lão còn ăn chung gì trong cuộc đấu đá này hay cái gì khác đại loại thế. Đó là lời của lão, phải của tôi.”
      Patrick gác chân trái lên đầu gối bên phải, và sờ vào chỗ vết bỏng. “Trông lão ta thế nào?” hỏi.
      “Khoảng năm mươi lăm, rất Italia, nhiều tóc bạc, mắt đen, người đàn ông có diện mạo đẹp. Nhưng sao ?"
      “Bởi vì ở đâu tôi cũng nhìn thấy lão. Trong ba năm qua, nửa số những người lạ mà tôi nhìn thấy ở Braxin đều là Jack Stephano. Tôi bị cả trăm kẻ truy đuổi trong những giấc ngủ của mình, và tất cả bọn chúng hóa ra đều là Jack Stephano. Lão mình trong những ngõ hẻm, nấp sau những cái cây, cuốc bộ theo sau những khúc phố ở São Paulo, bám theo bằng môtô, rượt đuổi bằng ôtô. Tôi nghĩ về Stephano còn nhiều hơn cả là nghĩ về mẹ tôi.”
      “Cuộc đuổi bắt đó kết thúc.”
      “Sau cùng tôi quá mệt mỏi, Sandy ạ. Tôi bỏ cuộc. Cuộc sống trốn tránh hoàn toàn là cuộc phiêu lưu, hồi hộp và lãng mạn, cho tới khi biết rằng có kẻ nào đó rình rập. Trong khi ngủ, cũng thấy có người sục tìm. Trong khi ăn tối với người phụ nữ xinh đẹp trong cái thành phố có cả chục triệu dân kia, cũng có ai đó gõ cửa, chìa tấm ảnh của ra cho người phục vụ và hứa hẹn khoản tiền thưởng để đổi lấy thông tin. Tôi đánh cắp quá nhiều tiền, Sandy. Họ buộc phải truy đuổi tôi, và khi tôi biết rằng họ có mặt ở Braxin tôi hiểu rằng cuối cùng cũng đến lúc phải chấm dứt.”
      bỏ cuộc nghĩa là thế nào ?”
      Patrick thở dài và cựa mình ghế. nhìn qua cửa sổ xuống mặt nước phía dưới, và cố sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. “Tôi bỏ cuộc, Sandy. Tôi mệt mỏi với cuộc chạy trốn, và tôi bỏ cuộc.”
      “Câu đó tôi nghe.”
      “Tôi biết là họ tìm ra tôi, bởi vậy tôi quyết định để điều đó xảy ra theo cách của tôi chứ phải cách của họ.”
      "Tôi nghe đây.”
      “Những khoản tiền thưởng nhận được từ Stephano kia là ý kiến của tôi, Sandy. Eva phải bay tới Madrít, rồi tới Atlanta, nơi ấy phải gặp những người của Pluto. Họ được trả tiền để liên hệ với Stephano và lo về luồng thông tin cùng tiền bạc. Chúng tôi vắt cạn tiền của Stephano, và sau cùng để cho lão kiếm tìm được đến chỗ tôi, đến ngôi nhà ở Ponta Porã.”
      Sandy ngoảnh sang, mặt ngớ ra, miệng há hốc, mắt đờ đẫn.
      “Nhìn đường kìa,” Patrick , tay chỉ lên mặt đường.
      Sandy chỉnh lại tay lái, đưa chiếc xe trở về làn bên phải. “ láo.” ta ra hơi. “Tôi biết là lại láo.”
      . Chúng tôi thu được triệu trăm năm mươi nghìn đôla từ Stephano, và lúc này chỗ tiền đó được cất giấu, chắc là ở Thụy Sĩ, cùng với chỗ còn lại.”
      biết ở đâu ư ?”
      ấy lo chuyện đó. Tôi biết khi nào gặp ấy.”
      Sandy choáng cả người đến mức còn gì được nữa. Patrick tiếp. “Tôi biết là họ tìm ra tôi và tôi cũng biết là họ cố để buộc tôi khai ra. Nhưng tôi biết chuyện xảy ra đến như thế này.” chỉ vào vết bỏng phía bên cổ chân trái. “Tôi cũng nghĩ là phải kinh khủng, Sandy, nhưng đâu có nghĩ tới chuyện họ suýt giết chết tôi rồi. Sau cùng họ cũng buộc tôi phải khuất phục, và tôi với họ về Eva. Nhưng lúc đó ấy biến rồi, và tiền cũng vậy.”
      có thể phải uổng mạng như bỡn,” Sandy gượng được câu. chỉ cầm lái bằng tay, còn tay kia gãi đầu.
      “Đúng thế. Hoàn toàn đúng. Nhưng hai giờ sau khi tôi bị tóm FBI ở Oasinhtơn biết tôi ở trong tay Stephano. Điều đó cứu mạng tôi. Stephano dám giết tôi bởi vì đám Liên bang biết chuyện.”
      “Nhưng làm sao … ”
      “Eva gọi cho Cutter ở Biloxi. Ông ta lại gọi cho Oasinhtơn.”
      ngu ngốc khi để cho bọn họ tóm được .”
      đâu. Chẳng nhẽ phải tôi vừa mới bước ra khỏi tòa án và là người tự do đó sao ? Chẳng nhẽ phải tôi vừa mới chuyện với người đàn bà mà tôi xiết bao đó sao ? Và người đàn bà đó lại giữ cho tôi cái gia tài nho . Sau cùng quá khứ chấm dứt, Sandy. thấy vậy à? còn ai truy đuổi tôi nữa.”
      “Bao nhiêu trục trặc có thể xảy ra.”
      “Phải, nhưng chúng xảy ra. Tôi có tiền, có những cuộn băng kia, câu chuyện về Clovis. Tôi có bốn năm để lên kế hoạch về mọi thứ.”
      “Cuộc tra tấn kia đâu có nằm trong kế hoạch.”
      “Phải, nhưng những vết thương rồi lành lại. Thôi, đừng làm mất vui nữa, Sandy. Tôi cảm thấy tuyệt vời lắm.”
      Sandy thả xuống chỗ ngôi nhà của mẹ , ngôi nhà mà lớn lên trong thời thơ ấu. Bà Lanigan mời Sandy ở lại, nhưng biết là họ cần có thời giờ bên nhau, vả lại, cũng bốn ngày liền chưa gặp mặt vợ con.
      Sandy lái xe , đầu óc vẫn còn chao đảo.
      John Grisham
      Đồng Đạo

      Chương 43
      H ắn tỉnh dậy trước lúc mặt trời mọc cái giường mà dùng tới trong gần hai mươi năm, trong căn phòng mà bước chân vào trong gần mười năm. Đó là những năm tháng qua, cuộc sống khác nào đó. Những bức tường giờ đây như xích lại làm cho căn phòng trở nên hẹp hơn, cái trần cũng thấp hơn. Qua năm tháng, những thứ đồ của - những kỷ niệm của thời thơ ấu và cả những tấm áp phích với các người mẫu tóc vàng mặc đồ tắm bó chật - được bỏ .
      Là con của cặp bố mẹ hiếm khi chuyện với nhau, biến căn phòng của mình thành cấm địa. Chưa đến tuổi lên mười, biết khóa cửa phòng lại. Bố mẹ chỉ bước vào khi được cho phép.
      Mẹ nấu nướng; mùi thịt xông khói tỏa khắp nhà. Hai mẹ con thức rất khuya; vậy mà bà vẫn dậy sớm, chỉ sốt ruột muốn lại được chuyện trò nữa. Ai mà có thể trách bà được ?
      thận trọng duỗi người cách chậm rãi. Lớp da quanh những vết bỏng của vẫn còn căng ra. Quá chút là bị rách, và vết thương lại rớm máu. sờ lên vết bỏng ngực, chỉ muốn cào cho cơn ngứa. gập chân và khoanh cả hai tay ra sau gáy. mỉm cười với cái trần nhà, nụ cười đắc thắng bởi lẽ cuộc sống chui lủi giờ đây chấm dứt. còn cả Patrick lẫn Danilo, và những cái bóng rình rập phía sau cũng bị nghiền nát. Stephano, cùng Aricia và đám Bogan, cùng các nhà chức trách Liên bang và Parrish, tất cả đều còn ý nghĩa gì. còn ai săn lùng nữa.
      Nắng tràn vào cửa sổ. nhanh chóng tắm táp, xoa lớp thuốc mỡ lên các vết thương và băng chúng lại.
      hứa với mẹ về những đứa cháu mới, cả lũ, để thế chỗ cho Ashley Nicole, con bé mà bà vẫn muốn được gặp lại. kể với bà những điều tuyệt vời về Eva, và hứa mang nàng tới New Orleans trong ngày xa. Chưa có bàn tính gì tởi hôn lễ, nhưng đó là điều chắc chắn.
      Hai người cùng ăn bánh quế với thịt xông khói, rồi uống cà phê trước hiên nhà trong khi những đường phố cổ kính bắt đầu thức giấc. Trước khi những người hàng xóm có thể ghé vào để chúc tụng, họ ra xe . Patrick muốn ngắm lại cái thành phố của lần nữa, cho dù chỉ là thoáng qua.
      Vào lúc chín giờ, cùng mẹ vào tiệm em nhà Robilio phố Canal để mua vài chiếc quần kaki và áo sơmi mới, cùng chiếc túi da du lịch rất đẹp. Họ ghé vào tiệm Café du Monde phố Decatur, và rồi ăn trưa ở quán ăn gần đó.
      Hai mẹ con ngồi bên nhau trong giờ trước cửa ra máy bay của , tay cầm tay và phần nhiều là im lặng. Khi tiếng loa gọi khách lên máy bay vang vang, Patrick ôm chặt lấy mẹ và hứa ngày nào cũng gọi điện thoại. Bà muốn được chóng thấy những đứa cháu mới, bà , và cố gượng cười.
      bay Atlanta. Từ đó, với cuốn hộ chiếu hợp pháp mang tên Patrick Lanigan, mà Eva trao cho Sandy, lên chuyến bay khác Nice.
      oOo
      Lần cuối cùng mà gặp Eva cách đó cả tháng, ở Rio, trong kỳ nghỉ cuối tuần dài, lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. Khi đó, cuộc truy đuổi kia bắt đầu bước sang đoạn cuối, và Patrick biết điều đó.
      Họ ôm chặt lấy nhau trong lúc bước những bãi biển đông người của Ipanema và Leblon, phớt lờ những tiếng kêu vui vẻ xung quanh họ. Họ ăn tối muộn trong những tiệm ăn ưa thích - Anti-quarius và Antonio’s - nhưng chẳng mấy thiết ăn. Họ với nhau những lời dịu dàng và ngắn ngủi, và những cuộc trò chuyện ấy của họ lúc nào cũng kết thúc trong nước mắt.
      có lúc, nàng khuyên tiếp tục chạy trốn, cùng với nàng, khi mà còn có thể làm được, để mình trong lâu đài nào đó ở Xcốtlen hay căn hộ xíu ở Rôm, nơi mà ai có thể tìm ra họ. Thế nhưng, lời khuyên đó bị bỏ qua. Đơn giản là vì quá mệt mỏi.
      Vào cuối chiều, họ thường xe cáp treo lên đỉnh ngọn núi Sugarloaf để ngắm cảnh hoàng hôn buông xuống Rio. Quang cảnh thành phố buổi tối là ngoạn mục, nhưng với hoàn cảnh lúc bấy giờ họ cũng chẳng có bụng dạ nào để mà thưởng thức. ôm chặt lấy nàng trước làn gió lạnh, và hứa rằng ngày nào đó, khi mọi chuyện qua , họ lại cùng đứng ở chính chỗ đó, để ngắm hoàng hôn và bàn chuyện tương lai. Nàng gắng gượng để tin lời .
      Họ tạm biệt nhau góc phố, gần căn hộ của nàng. hôn lên trán nàng và lầm lũi bước , hòa mình vào đám đông. để nàng đứng đó khóc ròng bởi vì thà vậy còn hơn cái cảnh bối rối ở sân bay đông đúc. rời khỏi thành phố, bay về phía tây, liên tục thay đổi các chuvến bay. đến Ponta Porã sau khi màn đêm buông xuống, tìm lại chiếc Beetle mà để lại tại sân bay, và lái xe chạy qua những con phố vắng tới phố Tiradentes, về lại ngôi nhà khiêm nhường của , sắp xếp mọi thứ và bắt đầu chờ đợi.
      gọi cho nàng hàng ngày trong khoảng từ bốn đến sáu giờ chiều, với tên người gọi cùng nội dung trao đổi được quy ước trước.
      Và rồi, những cú điện thoại đó ngừng bặt: Họ tìm ra được .
      Chuyến tàu từ Nice đến Aix rất đúng giờ, vài phút sau lúc mười hai giờ trưa ngày chủ nhật. bước xuống sân ga, và đưa mắt tìm nàng trong đám đông. dám nghĩ đến việc được thấy nàng. chỉ dám hy vọng, gần như là cầu nguyện mà thôi. Mang theo cái túi mới và những bộ quần áo mới, gọi xe tăcxi ngang qua thị trấn để tới Villa Gallici ở ngoại ô.
      Nàng đặt sẵn phòng với cả hai cái tên, Eva Miranda và Patrick Lanigan. dễ chịu sau tất cả những căng thẳng, sau chuyến còn phải đội lốt bằng những cái tên giả và những tấm hộ chiếu giả. Nàng chưa tới, nguời nhân viên tiếp tân thông báo, và cảm thấy hẫng hụt. ao ước được thấy nàng ở sẵn trong phòng, với cái váy lót mỏng người, chỉ chờ để quấn lấy nhau. dường như có thể cảm thấy được hơi hướng của da thịt nàng.
      “Phòng được đặt từ khi nào vậy ?” cáu kỉnh hỏi.
      “Ngày hôm qua. Bà ấy gọi từ Luân Đôn, và đến vào sáng nay, nhưng chúng tôi chưa thấy.”
      về phòng và tắm táp. bỏ các thứ đồ dùng trong túi ra, rồi gọi nước trà và bánh ngọt. ngủ thiếp với giấc mơ nghe thấy tiếng gõ cửa của nàng, lôi nàng vào trong phòng.
      để lại lời nhắn cho nàng ở quầy tiếp tân, và ra ngoài dạo quanh cái thị trấn xinh đẹp có từ thời Phục Hưng này. Ngoài trời mát mẻ và thoáng đãng. Provence vào đầu tháng Mười là dễ chịu. Có lẽ là họ sống ở đây. ngước nhìn những căn hộ trông ngồ ngộ bên những đường phố chật hẹp, cổ kính và nghĩ, phải, đây nơi dễ chịu. Thị trấn này là của những trường đại học, nơi mà nghệ thuật được tôn sùng. Tiếng Pháp của nàng rất khá và cũng muốn thạo được thứ tiếng này. Phải rồi, tiếng Pháp là thứ ngôn ngữ tiếp theo của . Họ ở đây chừng tuần gì đó, rồi lại trở về Rio thời gian, nhưng có lẽ Rio phải là nhà của họ. Đắm mình trong tự do, Patrick chỉ muốn được sống ở mọi nơi, để được hưởng những nền văn hóa khác nhau và để được học các thứ ngôn ngữ.
      bị hai nhà truyền giáo trẻ của dòng Mormon quấy rầy, nhưng xua họ và rồi dọc theo đường Cours Mirabeau. uống cà phê ở cái quán ngay cái hè phố mà họ từng dắt tay nhau vừa vừa nhìn đám sinh viên cách đó năm.
      cố bình thản. Đó chỉ là chuyến bay nối bị muộn mà thôi. cố chờ cho đến khi trời tối, mới làm ra vẻ bình thản về khách sạn. Nàng vẫn có ở đó, cũng có tin nhắn gì. gì cả. gọi lại chỗ khách sạn ở Luân Đôn, và được biết là nàng rời khỏi từ hôm trước, hôm thứ bảy, tầm giữa buổi sáng.
      ra mảnh vườn bên ngoài khu phòng ăn, và tìm cái ghế trong góc mà từ đó có thể nhìn được tới chỗ quầy tiếp tân qua cửa sổ. gọi ly cônhắc đúp để nhâm nhi cho khỏi lạnh. thấy nàng khi nàng đến. Nếu như nàng lỡ chuyến bay lúc này nàng phải gọi điện. Nếu như nàng lại bị đám hải quan chặn lại lúc này nàng cũng phải gọi điện. Cho dù là có trục trặc gì về hộ chiếu, thị thực, hay vé nàng cũng phải gọi.
      còn ai săn đuổi nàng cả.
      Lại thêm cônhắc đổ vào cái bụng rỗng tuếch, và chẳng bao lâu, ngất ngư và đổi sang uống cà phê đen để cố tỉnh táo.
      Khi quầy rượu đóng cửa, Patrick trở về phòng. Lúc này là tám giờ sáng ở Rio, và đành miễn cưỡng gọi điện cho cha nàng, người mà có gặp mặt hai lần. Nàng giới thiệu người bạn và là thân chủ của nàng, người Canađa. Ông già tội nghiệp cũng phải chịu đựng nhiều, nhưng Patrick còn cách nào khác. ở Pháp và cần bàn công việc pháp lý với luật sư Braxin của . những lời xin lỗi về việc làm phiền ông vào lúc sáng sớm như thế này ở nhà, thế nhưng, ông có vẻ như muốn nàng ở đâu. Đó là việc quan trọng và khẩn cấp, giải thích. Paulo thực lòng muốn , nhưng người đàn ông điện thoại này có vẻ biết rất nhiều về con của ông.
      Nàng ở Luân Đôn, Paulo cho biết. Ông chuyện với nàng hôm thứ bảy. Và chịu thêm gì nữa.
      Patrick khắc khoải đợi thêm hai giờ nữa, rồi gọi cho Sandy. “ ấy biến mất rồi,” , giờ đây hoảng loạn. Sandy cũng có tin gì về nàng.
      oOo
      Patrick lang thang hai ngày các đường phố ở Aix, biết đâu, ngủ nghê vớ vẩn, thiết ăn, chỉ có uống cônhắc và cà phê, gọi cho Sandy và làm cho ông già Paulo tội nghiệp hoảng sợ với những cú điện thoại liên tiếp. Cái thị trấn xinh đẹp này mất lãng mạn của nó. mình trong phòng, khóc thầm với trái tim tan vỡ, và mình phố, thầm nguyền rủa người đàn bà mà vẫn còn đến phát cuồng.
      Các nhân viên khách sạn nhìn ra vào. Thoạt đầu còn sốt ruột hỏi có tin nhắn gì cho , nhưng với ngày giờ trôi qua, chỉ còn gật gật đầu chào họ. cả cạo mặt và trông bơ phờ. uống quá nhiều.
      Sau ngày thứ ba làm thủ tục rời khỏi khách sạn, rằng muốn trở về Mỹ. cầu người nhân viên tiếp tân mà thấy là dễ chịu nhất giữ phong bì dán kín ở quầy ngừa trường hợp bà Miranda có đến.
      Patrick bay Rio. Vì sao, biết nữa. Nàng Rio đến vậy đó là nơi khó lòng mà gặp được nàng. Nàng quá khôn ngoan để trở lại Rio. Nàng biết phải mình ở đâu, làm thế nào để biệt tăm biệt tích, làm thế nào để thay hình đổi dạng, và làm thế nào để chuyển tiền được ngay lập tức và tiêu pha nó thế nào mà gây chú ý.
      Nàng học được từ kẻ bậc thầy. Patrick dạy cho nàng quá nhiều về nghệ thuật lẩn trốn. ai có thể tìm được Eva, tất nhiên là trừ phi chính nàng muốn vậy.
      cuộc gặp đau đớn với Paulo, trong đó kể toàn bộ câu chuyện, toàn bộ các chi tiết. Ông già tội nghiệp kia sụm xuống ngay trước mắt , khóc than và nguyền rủa làm hư hỏng con quý của ông. Cuộc gặp đó chỉ là hành vi tuyệt vọng, và tuyệt nhiên mang lại kết quả gì.
      ngụ lại trong những khách sạn ở gần chỗ căn hộ cũ của nàng, lang thang các đường phố, và lần nữa lại để ý tới mọi khuôn mặt, nhưng lần này là vì lý do khác. còn là con mồi nữa, giờ đây là kẻ săn, kẻ săn tuyệt vọng.
      thể nào thấy mặt nàng được, bởi lẽ chính dã dạy nàng cách giấu nó như thế nào.
      Tiền bạc của cạn dần, và sau cùng đành phải gọi cho Sandy và hạ mình hỏi vay năm nghìn đôla. Sandy nhanh chóng đồng ý và thậm chí còn đề nghị cho vay thêm. bỏ cuộc sau tháng, và bằng xe buýt ngang qua cả chặng đường dài để tới Ponta Porã.
      có thể bán ngôi nhà của ở đó, có thể là cả chiếc xe nữa. Hai thứ gộp lại cũng được khoảng ba mươi nghìn đôla Mỹ. Hoặc giả cũng có thể giữ những thứ đó lại và kiếm việc làm. có thể sống ở cái đất nước mà quý, trong cái thị trấn nông thôn bé rất ưa đó. Có lẽ có thể làm giáo viên dạy tiếng , và sống yên ổn phố Tiradentes, nơi giờ đây còn kẻ nào rình rập nữa mà chỉ còn những đứa trẻ chân đất chơi bóng mặt đường nóng bỏng.
      còn có thể đâu được nữa ? Hành trình của kết thúc. Sau cùng quá khứ của khép lại hoàn toàn. Nhất định rồi, ngày nào đó, nàng tìm lại .
      END.

    4. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :