Đồng Đạo - John Grisham(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 24

      U nderhill quay lại sau tám giờ liền xem những cuốn băng video và xem lại những ghi chép trong căn phòng khác. ta buông tiếng chào hờ hững về phía Stephano và luật sư của lão, rồi bắt tay vào việc. “Chúng ta có thể tiếp tục từ chỗ ông ngừng lại hôm qua chứ hả, ông Stephano.”

      “Chỗ nào nhỉ ?”

      “Cuộc sục sạo của ông đất Braxin.”

      “Phải. Để xem nào. Đó là đất nước rộng lớn. trăm sáu chục triệu dân, rộng hơn cả bốn mươi tám bang ở phía dưới này của nước Mỹ, và nổi tiếng là nơi trú tuyệt vời cho những cuộc lẩn trốn, nhất là khi người ta bị truy lùng. Trong nhiều năm, đám Quốc xã từng chọn nơi náu này. Chúng tôi tập hợp hồ sơ về Lanigan, cho dịch nó sang tiếng Bồ

      Đào Nha rồi thuê họa sĩ của cảnh sát kết hợp với số tay sành máy tính để làm loạt ảnh màu mô tả nhân dạng tại của Lanigan. Chúng tôi dành nhiều thời gian với tay chủ tàu ở Orange Beach, cũng như với các giám đốc nhà băng ở Nassau, và họ giúp chúng tôi có được loạt bức ký họa chi tiết về . Thậm chí chúng tôi cũng gặp gỡ các cổ đông của Hãng luật và thảo luận về các bức ký họa đó. Rồi họ lại cho các thư ký xem. trong các cổ đông, ông Bogan, còn mang bức khá nhất đến xin ý kiến của bà quả phụ Lanigan.”

      “Giờ đây, khi mà các ông tóm được rồi, có thấy những tấm hình đó giống ?”

      “Khá giống. Trừ cái cằm và cái mũi ra.”

      “Xin tiếp tục cho.”

      “Chúng tôi vội vã Braxin, và tìm được ở đó ba trong số các Hãng điều tra tư nhân giỏi nhất nước này. ở Rio, ở São Paulo, và ở Recife, vùng đông bắc. Chúng tôi trả giá cao nên mướn được những kẻ lão luyện. Chúng tôi ghép họ thành nhóm và tập hợp họ ở São Paulo trong tuần. Chúng tôi lắng nghe ý kiến của họ. câu chuyện được đưa ra, rằng Patrick là công dân Mỹ bị truy nã về tội bắt cóc rồi giết hại con của gia đình giàu có, và gia đình này treo giải thưởng cho những thông tin dẫn đến việc phát nơi náu của . Việc giết hại đứa trẻ, tất nhiên, được dựng lên nhằm kích thích thông cảm hơn là việc đánh cắp tiền của nhóm luật sư.

      “Chúng tôi thẳng tới các lớp học tiếng, chìa những tấm hình của Lanigan và hứa hẹn tiền bạc. Những trường tử tế đóng cửa từ chối. Những trường khác nhìn ngó những tấm hình nhưng thể giúp gì được. Cho tới lúc đó, chúng tôi rất vì nể Lanigan, và nghĩ rằng liều học ở nơi mà người ta hỏi này nọ rồi ghi lại tất cả vào hồ sơ. Bởi vậy, chúng tôi nhằm vào các gia sư, có điều là có cả triệu gia sư ở Braxin. công việc cực nhọc.”

      “Các ông có chìa tiền ra trước ?”

      “Chúng tôi làm theo cách mà các thám tử Braxin của chúng tôi muốn làm, nghĩa là chìa các tấm hình ra, kể lại câu chuyện về đứa trẻ bị giết, rồi chờ đợi phản ứng. Nếu có chút động đậy khi đó chúng tôi khéo léo ngỏ ý về khoản tiền thưởng.”

      “Có phản ứng nào ?”

      vài lần, chỗ này chỗ khác. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ bỏ tiền ra, ít nhất cũng là cho các gia sư.”

      “Vậy là cho những người khác à ?”

      Stephano gật đầu và nhìn vào tờ giấy. “Vào tháng Tư năm 94, chúng tôi tìm ra bác sĩ chỉnh hình ở Rio, người có vẻ quan tâm tới những tấm hình của Lanigan. ta vờn với chúng tôi trong tháng, và sau cùng khiến cho chúng tôi tin rằng chính “sửa sang” cho Lanigan. ta có những bức ảnh chụp Lanigan trước và sau khi làm phẫu thuật. ta trói chúng tôi đến nơi đến chốn, và thực là chúng tôi phải đồng ý trả tới năm trăm nghìn đôla, tiền mặt, ở nước ngoài, để đổi lấy toàn bộ chỗ hồ sơ của .”

      "Trong hồ sơ đó có gì ?"

      “Chỉ những yếu tố cơ bản. Những bức ảnh chụp chính diện đối tượng của chúng tôi trước và sau khi phẫu thuật. Chuyện này thực kỳ quặc bởi lẽ Lanigan nhất quyết đòi có chụp ảnh gì hết. muốn để lại bất kỳ chút dấu tích nào, ngoài đống tiền cho việc sửa đổi dung mạo . cũng cho biết tên mà chỉ nhà kinh doanh từ Canada đến và bỗng nhiên muốn trông được trẻ trung hơn. Tay bác sĩ chỉnh hình kia nghe loại chuyện này suốt rồi, và ta biết vị khách của đường lẩn trốn. ta có chiếc máy ảnh được giấu kín trong văn phòng, và do vậy mà có những tấm ảnh đó.”

      “Chúng tôi có thể xem chúng được ?”

      “Tất nhiên rồi.” Tay luật sư đứng dậy và đẩy chiếc phong bì ra cho Underhill.

      “Các ông tìm thấy tay bác sĩ kia như thế nào ?”

      “Cùng lúc kiểm tra ở các trường dạy tiếng và tìm các gia sư, chúng tôi cũng nhằm vào những kẻ ở các lĩnh vực khác. Những kẻ làm giấy tờ giả, các bác sĩ chỉnh hình, và các nhà nhập khẩu.”

      “Các nhà nhập khẩu ?”

      “Phải, có từ trong tiếng Bồ Đào Nha để chỉ loại người này, nhưng các nhà nhập khẩu chỉ là cách dịch rất thô thiển. Họ là nhóm những tay chuyên môn hoạt động trong bóng tối, có thể đưa người vào Braxin và rồi làm cho người ta biến mất - với những cái tên mới, giấv tờ mới, và những nơi tốt nhất để sinh sống và náu. Chúng tôi thấy là thể nào moi được gì ở đám này. Chúng tôi cũng rất gặp may với đám làm giấy tờ giả. Họ dám về khách hàng của mình. Đó là chuyện rất tồi tệ cho việc làm ăn.”

      “Nhưng các bác sĩ khác à ?”

      hẳn thế. Họ cũng . Nhưng chúng tôi thuê bác sĩ chỉnh hình làm cố vấn, và ông ta cho chúng tôi tên của vài bác sĩ chuyên làm việc cho những khách hàng vô danh. Đó là cách mà chúng tôi tìm ra tay bác sĩ ở Rio.”

      “Lúc đó là hai năm sau khi Lanigan biệt tích.”

      “Đúng thế.”

      “Đó có phải là bằng chứng đầu tiên về việc thực ở đó ?”

      “Đúng là bằng chứng đầu tiên.”

      “Các ông làm gì trong hai năm đầu ?”

      “Tiêu rất nhiều tiền. Gõ rất nhiều cánh cửa. Theo đuổi rất nhiều dấu vết chẳng có giá trị gì. Như tôi , đó là đất nước rộng lớn.”

      “Có bao nhiêu ngưòi làm việc cho ông ở Braxin ?”

      “Có thời điểm tôi phải trả lương cho sáu mươi người. Cũng may mà họ đắt giá như những người Mỹ.”

      oOo

      Nếu ngài Thẩm phán muốn có cái bánh pizza, vậy ngài Thẩm phán cái bánh pizza. Cái bánh được mua từ tiệm Hugo, tiệm gia truyền phố Division xa hẳn những tiệm bán đồ ăn nhanh nằm san sát dọc theo bờ biển. Nó được viên cảnh sát mang tới Phòng 312. Patrick ngửi thấy mùi ngay từ lúc nó vừa được mang ra khỏi thang máy. nhìn chằm chằm khi Karl mở hộp bánh ở cuối giường. nhắm mắt và hít vào cái hương vị đậm đà của những quả ôliu đen, của những thứ nấm, xúc xích Italia, hạt tiêu xanh và sáu loại phomát khác nhau. ăn cả nghìn cái pizza của tiệm Hugo, nhất là trong hai năm cuối cùng của cuộc sống trước đây của , và ao ước được ăn lại cái từ cả tuần nay. Ở quê nhà cũng có cái sướng.

      “Sao trông cứ đờ ra thế kia. Thôi ăn ,” Karl .

      Patrick ngoạm miếng thứ nhất, lời, rồi tiếp miếng thứ hai.

      “Làm sao mà có thể làm giảm cân đến vậy ?" Karl vừa hỏi vừa nhai.

      “Chúng ta có thể có chút bia được ?" Patrick hỏi.

      . Xin lỗi. bị giam cơ mà.”

      “Giảm cân là ở lòng quyết tâm của mình. Khi người ta quyết việc đó là dễ dàng. Tôi đột nhiên có động cơ để bỏ đói chính mình.”

      nặng tới bao nhiêu nhỉ ?”

      “Cho tới cái ngày thứ sáu, trước khi biến , tôi nặng hơn tạ. Tôi sụt bớt hơn hai mươi cân trong sáu tuần đầu tiên. Sáng nay tôi chỉ còn hơn bảy chục cân thôi.”

      “Trông giống như người tị nạn vậy. Thôi ăn .”

      “Cảm ơn.”

      tới đoạn trở về ngôi nhà săn.”

      Patrick lau mồm bằng mảnh giấy ăn và đặt phần bánh còn lại của trở lại chiếc hộp. uống ngụm Diet Cokes. “Phải, tôi trở lại ngôi nhà đó. Lúc đó là vào khoảng mười giờ ba mươi. Tôi vào qua cửa trước, và hề bật đèn. Có ngôi nhà săn nữa cách đó chừng nửa dặm, đỉnh núi và từ chỗ tôi có thể nhìn thấy. Nó là của mấy người nào đó ỏ Hattiesburg, và mặc dù nghĩ rằng họ ở đó lúc bấy giờ, nhưng tôi vẫn phải cẩn thận. Tôi che cửa sổ gian phòng tắm bằng cái khăn sẫm màu, rồi mới bật đèn và nhanh chóng cạo râu. Thế rồi tôi tự cắt tóc, nhuộm nó thành mầu nâu sẫm, gần như là đen.”

      “Xin lỗi, tôi hiểu.”

      “Nó hoàn toàn phù hợp. Cũng kỳ lạ . Tôi thậm chí cảm thấy giống như người hoàn toàn khác khi nhìn vào gương. Thế rồi tôi dọn dẹp, lau sạch tóc tai râu ria rơi xuống bởi vì tôi biết là họ kiểm tra chỗ đó rất kỹ lưỡng, và bỏ cả mấy ống thuốc nhuộm tóc vào chỗ đồ dùng mang theo. Tôi thay bộ đồ ấm, pha bình cà phê và uống nửa. Nửa còn lại đổ vào cái phích để đường. Lúc giờ sáng, tôi rời khỏi căn nhà cách nhanh chóng. Tôi lo là có cảnh sát xuất ngay đêm đó, nhưng đó luôn luôn là khả năng. Tôi biết là phải có thời giờ để xác định chiếc Blazer là của ai, rồi để gọi Trudy, và có thể ai đó cho rằng họ cần phải đến căn nhà săn vì lý do nào đó. Tôi cho là điều đó xảy ra, thế nhưng vào lúc giờ sáng tôi muốn ra lắm rồi.”

      có bất kỳ lo ngại gì cho Trudy ?”

      có gì đặc biệt. Tôi biết là ta trải qua được cú sốc này, và lo thu xếp việc chôn cất tôi cách đâu vào đấy. ta góa phụ mẫu mực trong khoảng tháng, và rồi lấy được số tiền bảo hiểm. Đó chính là giờ phút sung sướng nhất của ấy. Được để ý tới và có nhiều tiền bạc. , Karl, tôi người phụ nữ đó và có bất kỳ quan tâm nào.”

      có lúc nào trở lại căn nhà săn đó ?"



      Karl thể và cũng muốn kìm câu hỏi tiếp theo. “Khẩu súng săn và bộ đồ cắm trại của Pepper được tìm thấy ở dưới trong những chiếc giường. Tại sao chúng lại ở đó?”

      Patrick ngước mắt nhìn lên trong giây vẻ như ngạc nhiên, thế rồi nhìn chỗ khác. Karl ghi nhận phản ứng này, bởi vì ông còn nghĩ tới nó nhiều lần trong những ngày tiếp theo đó. ngạc nhiên, cái liếc mắt, và rồi thể nào trả lời được, ánh mắt lảng tránh. Trong bộ phim cũ có câu , “Khi phạm tội giết người, mắc hai mươi lăm sai lầm. Nếu nghĩ tới được mười lăm trong số đó thi củng là tài lắm rồi.” Có lẽ Patrick, trong tất cả những tính toán tỉ mỉ của , quên mất mấy thứ đồ kia của Pepper. Trong lúc cấp bách, hơi vội vã quá.

      “Tôi biết,” , gần như gằn giọng, mắt vẫn nhìn vào tường.

      Karl có cái mình muốn, và ép tiếp. “ đâu ?"

      “Chuyến vất vả,” Patrick , vẻ hoạt bát trở lại và muốn kể tiếp câu chuyện. “Nhiệt độ lúc đó chừng hai độ gì đó, và cưỡi chiếc môtô chạy xa lộ vào ban đêm cứ như thể sáu đến bảy độ vậy. Tôi bám theo các nhánh đường phụ, tránh các xe cộ khác, chạy chậm vì gió như cắt da cắt thịt. chiếc môtô cà tàng đường cao tốc vào lúc ba giờ sáng có thể làm tỉnh ngủ tay cảnh sát chán chường nào đó, bởi vậy tôi tránh xa các thị trấn. Sau cùng tôi cũng đến được ngoại ô Mobile vào lúc bốn giờ. tháng trước đó, tôi để ý thấy quán trọ , nơi người ta nhận tiền mặt và hỏi han gì. Tôi lẻn vào khu đậu xe, giấu chiếc môtô ở phía đằng sau, và vào bằng cửa trước như thể vừa xuống khỏi tăcxi. Ba mươi đôla cho phòng, tiền mặt, cần giấy tờ gì. Phải mất tiếng sau mới hết lạnh. Tôi ngủ thiếp trong hai tiếng và tỉnh dậy lúc mặt trời lên. Chuyện đến tai ông vào lúc nào, Karl ?”

      "Tôi cho là vào khoảng thời gian chạy chiếc môtô kia băng qua các vùng nông thôn. Doug Vitrano gọi cho tôi lúc sau ba giờ vài phút. Tôi thức dậy và đến giờ vẫn còn giật mình. còn tài nào ngủ được vì đau lòng, trong khi làm cuộc du ngoạn đến với cuộc sống mới.”

      “Đâu phải là tôi xót xa.”

      “Phải, nhưng mà chắc chắn là nghĩ tới bạn bè.”

      "Tôi lấy làm tiếc về điều đó, Karl.”

      , đừng làm bộ.”

      “Đúng là thế, ông đúng.” Patrick đầy vẻ thoải mái, linh hoạt trong khi kể lại câu chuyện của , thậm chí lúc này còn mỉm cười.

      thức dậy lúc mặt trời lên. con người mới trong thế giới mới. Tất cả những lo âu và những rắc rối của được để lại đằng sau.”

      “Hầu hết những thứ đó. là hứng khởi, nhưng cũng đầy sợ hãi. Khó ngủ lắm. Tôi xem TV đến tám giờ ba mươi, thấy tin tức gì khác ngoài cái chết của tôi, rồi tắm rửa, thay quần áo mới và … ”

      “Gượm . Những ống thuốc nhuộm tóc đâu rồi ?”

      “Tôi ném chúng vào cái thùng rác đâu đó ở quận Oasinhtơn, bang Alabama. Tôi gọi chiếc tăcxi, việc phải là dễ gì cho lắm ở Mobile. Người lái đậu xe ngay bên ngoài phòng, và tôi lên xe . có việc trả phòng. Tôi bỏ chiếc môtô đấy và tới khu thương mại mà tôi biết là mở cửa lúc chín giờ. Tôi tới cửa hiệu và mua chiếc áo khoác ngoài màu xanh đen, vài cái quần và đôi giầy.”

      trả bằng gì ?”

      “Tiền mặt.”

      có thẻ tín dụng à ?”

      “Có, tôi có cái thẻ Visa giả mà tôi mua từ nguồn ở Miami. Chỉ có thể mua được vài lần rồi buộc phải bỏ. Tôi để dành nó cho việc thuê xe.”

      có bao nhiêu tiền mặt ?”

      “Khoảng hai mươi nghìn.”

      “Từ đâu ra ?”

      “Tôi để dành ít lâu. Tôi làm được khá tiền, mặc dù Trudy cũng cố gắng đến mức cao nhất của ấy để tiêu sao cho nhanh hơn tốc độ tôi kiếm được. Tôi với kế toán của Hãng là cần giấu vợ số tiền. ta là mình thường xuyên phải làm thế cho các luật sư. Tiền được chuyển vào tài khoản khác. Cứ lâu lâu tôi lại rút tiền mặt ra và cất vào trong ngăn kéo. Được chưa nào ?”

      “Được. mua đôi giày.”

      “Tôi tới cửa hiệu khác và mua chiếc sơmi trắng cùng chiếc cavát. Tôi thay đồ trong phòng vệ sinh , và xong, trông tôi giống bất kỳ ai trong số cả triệu người chào hàng. Tôi mua thêm ít quần áo và vài thứ lặt vặt, xếp tất cả vào cái túi bạt mới tinh, và gọi tắc-xi ra sân bay Mobile. Tôi ăn sáng ở đó và đợi chuyến bay của Northwest Airlink từ Atlanta tới. Tôi hòa vào với đám hành khách, tất cả đều rất vội vã và nóng lòng muốn vào Mobile. Tôi dừng lại cùng với hai người khác trước bàn giao dịch của Hãng Avis. Họ đặt thuê xe từ trước. Còn trường hợp của tôi hơi phức tạp hơn. Tôi có bằng lái xe hoàn hảo của bang Georgia, cùng với hộ chiếu, ngừa khi phải dùng đến. Tôi dùng chiếc thẻ Visa, và tôi rất sợ. Số thẻ là số có - của chàng tội nghiệp nào đó ở Decatur, Georgia, và tôi chỉ sợ nhỡ ra chiếc máy tính nào đó chộp được và chuông báo động vang lên. Nhưng có chuyện gì xảy ra. Tôi điền vào giấy tờ, và nhanh chóng bước .”

      dùng tên gì ?”

      “Randy Austin.”

      câu hỏi lớn, Randy,” Karl trong khi cắn miếng pizza và nhai chậm rãi. “ ở sân bay. Tại sao lên béng chiếc máy bay và ra hả ?”

      “ Ồ, tôi nghĩ về chuyện đó. Trong lúc ăn sáng, tôi thấy hai chiếc máy bay cất cánh và tôi muốn được nhảy lên đó cho rồi. Thế nhưng còn có việc chưa làm xong. Đó là quyết định rất khó khăn.”

      “Việc gì chưa xong vậy ?”

      “Tôi nghĩ là ông biết. Tôi lái xe chạy tới vùng bờ vịnh, rồi dọc theo bờ biển tới Orange Beach và mướn ngôi nhà ở đó.”

      ngôi nhà mà kiểm tra từ trước.”

      "Tất nhiên. Tôi biết là họ lấy tiền mặt. Lúc đó là tháng Hai, trời lạnh, việc làm ăn chạy lắm. Tôi uống mấy viên thuốc ngủ và ngủ trong sáu tiếng. Tôi theo dõi bản tin tối và thấy mình chết cái chết thảm khốc. Bạn bè chết điếng.”

      tồi.”

      “Tôi chạy xe ra tiệm rau quả và mua bịch táo và ít viên vitamin. Sau khi trời tối, tôi bộ dọc theo bờ biển chừng ba tiếng, việc mà tối nào tôi cũng làm khi náu ở quanh Mobile. Sáng hôm sau, tôi lẻn vào Pascagoula và kiếm tờ báo, thấy gương mặt béo phì tươi cười của mình trang nhất, tin về vụ tai nạn, và bài viết rất cảm động của ông, đồng thời cũng biết rằng tang lễ được tổ chức vào ba giờ chiều hôm đó. Tôi tới Orange Beach và thuê chiếc thuyền buồm. Thế rồi tôi lái xe tới Biloxi để dự đám tang của mình.”

      “Báo chí chứng kiến lễ mai táng mình.”

      “Đúng thế. Tôi nấp ngọn cây trong cánh rừng quá bên nghĩa địa, và quan sát bằng cặp ống nhòm.”

      “Có vẻ đó là điều ngu ngốc đến thể tin được.”

      “Đúng thế. Đúng là ngu ngốc. Nhưng mà tôi buộc phải đến đó. Tôi buộc phải tận mắt nhìn thấy để chắc chắn được rằng cái mưu mẹo kia của tôi hiệu dụng. Và lúc đó, tôi nghĩ tôi tin rằng mình có thể vượt qua được tất cả.”

      "Tôi nghĩ là cũng chọn sẵn cái cây, vị trí hoàn hảo."

      . Thực ra tôi chắc là mình có làm việc đó nữa. Khi tôi rời Mobile và chạy về phía tây xa lộ Liên bang, tôi cứ tự nhủ là đừng làm việc đó. Đừng có đến gần Biloxi.”

      béo vậy mà trèo cây được ư ?”

      “Tôi có động cơ, và đó là cây sồi với nhiều cành lá rậm rạp.”

      “Lạy Chúa.Tôi ước giá mà cái cành nào đó bỗng gãy và rơi cắm đầu xuống đất nhỉ.”

      , ông đâu có ước thế.”

      “Có, có đấy. Chúng tôi đứng quây xung quanh mộ, cố cầm nước mắt và an ủi người vợ góa, còn vắt vẻo cái cành cây như con nhái béo ị để cười vào mũi chúng tôi.”

      "Tôi biết là ông chỉ giả vờ cáu kỉnh thôi mà, Karl.”

      đúng. Bốn năm rưỡi xóa mọi cáu giận mà Karl từng cảm thấy. là ông sung sướng được ngồi ở cuối cái giường bệnh viện này, ăn pizza cùng với Patrick và nghe từng chi tiết câu chuyện kia.

      Tuy vậy, họ cũng mới chỉ đến được tới chỗ đám tang. Patrick mệt, và họ trở lại phòng của , nơi mà hoàn toàn tin cậy. “Hãy cho tôi biết Bogan và Vitrano và những người kia thế nào ?" , và ngả xuống gối, ngay lập tức bắt đầu nhấm nháp cái cảm giác thú vị của những gì sắp được nghe.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 25

      C ú điện thoại mới nhất mà Paulo Miranda nhận được từ con của ông cách đó hai ngày. Nàng gọi từ khách sạn ở New Orleans, vẫn công chuyện gì đó cho người khách hàng mới đầy bí hiểm của nàng, vẫn nhắc ông về những người có thể tìm kiếm nàng và theo dõi ông bởi vì khách hàng của nàng có những đối thủ ở Braxin. Cũng như những lần gọi trước, nàng rất vắn tắt, mơ hồ và có vẻ lo sợ, mặc dù rất cố để lộ ra. Ông bực mình và gạn hỏi. Nàng trở nên lo ngại hơn cho an toàn của ông. Ông muốn nàng trở về nhà. Ông còn giữ được bình tĩnh và lần đầu tiên toạc ra là ông gặp các chủ Hãng cũ của nàng và biết là nàng bị cho đình việc. Nàng thản nhiên giải thích là giờ đây nàng tự chủ với công việc của mình, luật sư độc lập với khách hàng giàu có trong lĩnh vực thương mại quốc tế, và rằng những chuyến kéo dài như thế này rồi trở thành thường xuyên.

      Ông muốn tranh luận với nàng điện thoại, nhất là khi ông lo lắng đến như vậy về nàng. Paulo cũng mệt mỏi với những kẻ rình rập quanh nhà ông và bám theo trong khi ông ra chợ hay chạy xe đến nơi làm việc của ông ở Đại học Thiên Chúa giáo. Ông để mắt đến họ; họ luôn luôn ở quanh đâu đó. Ông đặt những biệt danh cho họ, đôi lần chuyện với người quản lý khu nhà của Eva, và những kẻ rình rập này cũng thấy điều đó.

      Giờ giảng cuối cùng của ông, khảo cứu về triết học Đức, kết thúc lúc giờ. Ông tiếp sinh viên có khó khăn trong chuyện học tập tại phòng làm việc của mình trong chừng ba mươi phút, rồi ra về. Trời mưa và ông quên mang theo ô. Chiếc xe của ông đậu trong khu để xe của khoa, đằng sau tòa giảng đường.

      Osmar đợi sẵn. Paulo vẫn trầm mặc khi ra khỏi tòa nhà, mắt nhìn xuống, với tờ báo che đầu, tâm trí ở mãi tận đâu trong lúc bước bên dưới đám tán cây và giẫm cả vào vũng nước cạnh chiếc xe của ông. Cạnh nó là chiếc Fiat chở hàng , màu đỏ. Gã lái xe bước ra, nhưng Paulo hề để ý. Gã ta mở cửa sau chiếc Eiat, và Paulo cũng vẫn hề nghe hay nhìn thấy gì cả. Khi ông thọc tay vào túi để tìm chìa khóa Osmar xô mạnh ông ngã nhào vào bên trong chiếc Fiat. Chiếc cặp của ông rơi xuống đất và giấy tờ từ trong cặp tung ra nằm rải rác xung quanh. Cánh cửa sập lại. Trong bóng tối, họng súng được dí vào sống mũi, chỗ giữa hai mắt của Paulo, và tiếng cất lên cầu ông im lặng.

      Chiếc Fiat lao vút . cú điện thoại gọi cho cảnh sát báo họ biết về vụ bắt cóc này.

      Trong khoảng tiếng rưỡi đồng hồ tiếp theo đó, Paulo bị đưa ra khỏi thành phố và ông biết là mình tới đâu. Bên trong chiếc xe rất nóng - có lỗ thông gió, có đèn. Chỉ thấy bóng hai người ngồi cạnh ông, cả hai đều mang súng. Họ dừng lại đằng sau trang trại bề thế, và Paulo được dẫn vào bên trong. Khu phòng dành cho ông ở phía sau; phòng ngủ, phòng tắm, và phòng khách, bên trong có đặt chiếc TV. Đồ ăn thức uống đầy đủ. Người ta bảo ông rằng ông bị làm tổn hại gì cả, tất nhiên, trừ phi ông mắc vào cái sai lầm là mưu toan chạy trốn. Ông bị giữ chừng tuần gì đó, rồi được thả ra, nếu như ông cư xử đúng mực. Ông chốt cửa ra vào và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hai gã đàn ông ngồi dưới tán cây, uổng trà và cười đùa, với những khẩu tiểu liên để bên.

      Những cú điện thoại nặc danh được gọi đến người con trai của Paulo ở Rio, đến người quản lý khu nhà của Eva, đến Hãng luật cũ của nàng, và đến trong những người bạn của nàng làm việc cho đại lý du lịch. Nội dung của các cú điện thoại này đều giống nhau: Paulo Miranda bị bắt cóc. Cảnh sát điều tra.

      Eva ở New York. Nàng ngụ lại ít ngày trong khách sạn Pierre, mua sắm Đại lộ số 5, thăm thú các bảo tàng. được chỉ dẫn là phải liên tục di chuyển, nàng cứ thoắt thoắt tại New Orleans. Nàng nhận được ba lá thư của Patrick, và viết cho hai lần, tất cả đều được chuyển qua Sandy. Những hành hạ về thể xác mà từng phải chịu đựng chắc chắn là ảnh hưởng được tới chú trọng đến tận các chi tiết của . Các lá thư của rất cụ thể - các kế hoạch, danh mục các đầu việc và những việc cần làm trong tình huống khẩn cấp.

      Nàng gọi điện cho cha nàng, nhưng có ai trả lời. Nàng gọi điện cho em trai, và biết chuyện động trời kia. Em trai nàng nhất quyết đòi nàng phải trở về ngay lập tức. Cậu ta là mẫu người đa cảm, chưa quen với những sức ép và thù địch. Cậu ta dễ dàng suy sụp. Những quyết định khó khăn trong gia đình luôn luôn được dành cho Eva. Nàng chuyện với cậu ta đến nửa giờ điện thoại để cố gắng làm cho cả hai chị em bình tĩnh lại. , có việc đòi tiền chuộc. lời nhắn nhủ gì của những kẻ bắt cóc.

      Trái với những chỉ dẫn cụ thể của , nàng gọi điện cho . Vội vã bên cái máy điện thoại công cộng ở La Guardia, vừa ngoái nhìn phía sau qua cặp kính râm đen kịt vừa vò đầu bứt tóc, nàng quay số phòng của , và bằng tiếng Bồ Đào Nha. Nếu như có ai đó nghe trộm ít ra họ cũng còn phải tìm người phiên dịch.

      “Patrick, Leah đây,” nàng , cố bộc lộ tình cảm gì nhiều.

      “Có chuyện gì vậy ?” hỏi, cũng bằng tiếng Bồ Đào Nha. lâu được nghe giọng dịu dàng của nàng, nhưng mà giờ đây hài lòng chút nào cả.

      “Chúng ta có thể chuyện được ?”

      “Được. Chuyện gì ?” Patrick kiểm tra rệp, cứ ba hoặc bốn tiếng lại lần, đối với chiếc máy điện thoại trong phòng . cũng rà soát tất cả những nơi cất giấu có thể có bằng cái thiết bị chống nghe trộm mà Sandy tìm mua cho . Với những người gác luân phiên hai mươi tư giờ, cũng bớt lo lắng phần nào. Thế nhưng đường dây từ ngoài vào vẫn làm e ngại.

      “Chuyện về cha em,” nàng đáp, rồi vắn tắt kể lại câu chuyện về mất tích của Paulo. “Em phải trở về mới được.”

      , Leah,” bình tĩnh . “Đó là cái bẫy đấy. Cha em phải là người giàu có. Họ đòi tiền. Họ muốn bắt em.”

      “Song thể để mặc cha.”

      “Và em cũng thể tìm được ông ấy.”

      “Mọi chuyện đều là do em.”

      phải. mới là người có lỗi. Nhưng mà đừng có làm cho tình hình xấu thêm với việc lao vào bẫy của họ.”

      Nàng vuốt vuốt tóc và nhìn dòng người qua lại. “Vậy em phải làm gì ?”

      “Đến New Orleans. Gọi cho Sandy khi tới nơi. Hãy để nghĩ kỹ .”

      Nàng mua vé, rồi tới chỗ cửa chờ ra máy bay và ngồi xuống cái ghế trong góc để có thể giấu mặt vào tường, đằng sau quyển tạp chí. Nàng nghĩ về người cha quý của mình và những gì khủng khiếp mà người ta có thể làm với ông. Cũng vẫn những con người đó bắt cóc cả hai người đàn ông thân của nàng, và Patrick phải nằm viện vì những vết thương kia. Cha nàng già hơn và khỏe như Patrick. Người ta làm cho ông đau đớn chỉ vì nàng. Thế mà nàng lại thể nào làm gì được.

      oOo

      Sau ngày tìm kiếm, cảnh sát Biloxi thấy chiếc xe của Lance rời khỏi sòng bạc Grand lúc gần mười rưỡi đêm. Lance bị chặn lại và bị tạm giữ mà lý do cụ thể nào, cho đến khi Sweeney đến. Ông ta và Lance ngồi chuyện băng ghế sau của chiếc xe tuần tiễu, đậu trong khu để xe của tiệm bán đồ ăn nhanh, vẫn để đèn nhấp nháy.

      Viên cảnh sát trưởng hỏi han về công việc buôn bán ma túy, và Lance đáp lại rằng mọi thứ đều ổn.

      “Trudy thế nào ?” Viên cảnh sát trưởng hỏi, mồm vẫn ngậm chiếc tăm. khó mà được trong cuộc trò chuyện này, ai là kẻ bình thản hơn. Lance thậm chí lại còn lấy ra cặp kính Rayban đời mới nhất đeo lên mắt.

      ấy khỏe. Còn vợ ông thế nào ?”

      “Tôi có vợ. Này, Lance, chúng tôi có vài mẩu tin tức rất nghiêm chỉnh là tìm kiếm sát thủ đấy nhé.”

      “Dối trá, hoàn toàn là dối trá.”

      “Nào, chúng tôi nghĩ vậy. thấy đấy, Lance, tất cả bạn bè của đều cùng giuộc. Hoặc là vừa mới ra tù hoặc là cũng rất cố gắng để được trở lại đấy. Đám cặn bã, biết đấy. Hoàn toàn là thứ cặn bã. Luôn luôn tìm kiếm những đồng tiền bẩn thỉu, luôn luôn ranh ma. Họ nghe được tin sốt dẻo và đợi gì mà báo cho đám Liên bang. Điều đó có thể giúp đỡ họ trong nhữhg rắc rối khác sau này.”

      “Hay đấy, hay đấy.”

      “Và do vậy mà chúng tôi biết là ít tiền, lại có cái người đàn bà sắp mất đống tiền, và tất cả mọi thứ trở nên tốt đẹp nếu như ông Lanigan kia vẫn là người chết.”

      “Ai cơ ?”

      “Được. Đây là điều mà chúng tôi làm. Chúng tôi và đám Liên bang giám sát , và ả đàn bà của , và chúng tôi giám sát gắt gao đấy. mà giở trò gì là chúng tôi tóm cả hai. Cả và Trudy tự rơi vào tình trạng còn tệ hơn cả của Lanigan cho mà xem.”

      “Ông cho là tôi sợ ư ?”

      “Nếu còn tỉnh táo nên biết sợ.”

      “Tôi có thể được chưa nào ?”

      “Xin mời.”

      Cả hai cánh cửa xe được mở ra từ phía bên ngoài và Lance trở về xe của .

      oOo

      Cũng vào khoảng thời gian đó, nhân viên đặc biệt Cutter bấm chuông nhà Trudy, hy vọng là ả ngủ. Ông ta ngồi trong tiệm cà phê ở Fairhope, chờ nghe tin Lance bị tạm giữ.

      Trudy còn thức. Ả mở hé và qua khe cửa. “Ông muốn gì ?”

      Cutter chìa tấm thẻ ra và gằn giọng, “FBI.” Rồi hỏi. “Tôi vào được ?"

      ."

      “Lance bị cảnh sát tạm giữ. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần chuyện.”

      “Hả?”

      “Cảnh sát Biloxi giữ ta.”

      Trudy tháo sợi dây xích và mở rộng cửa. Họ đứng ở ngay lối vào, đối diện nhau, và Cutter có vẻ rất khoan khoái.

      ấy làm gì ?” Ả hỏi.

      “Tôi nghĩ là ta được thả ra ngay thôi.”

      “Tôi gọi luật sư của tôi.”

      “Được thôi, nhưng có điều tôi phải với bà trước. Chúng tôi có tin đáng tin cậy là Lance tìm kiếm tay đao búa để hạ sát chồng bà, Patrick Lanigan.”

      !” Ả giơ tay ôm miệng, vẻ ngạc nhiên .

      “Đúng đấy. Và bà có thể gặp rắc rối. Lance tìm cách bảo vệ cho đống tiền của bà mà, và tôi chắc là bà bị coi là đồng lõa. Nếu như có chuyện gì xảy ra đối với Lanigan chúng tôi đến đây trước nhất.”

      “Chúng tôi có làm gì đâu.”

      “Giờ chưa. Chúng tôi giám sát bà chặt chẽ đấy, bà Lanigan.”

      “Đừng có gọi tôi như vậy.”

      “Xin lỗi.”

      Cutter bỏ , để mặc ả đứng đó.

      oOo

      Sandy đậu xe tại bãi đỗ bên phố Canal vào lúc khoảng nửa đêm, nhanh dọc theo phố Decatur để vào khu phố Pháp. Thân chủ của có những lời giáo huấn nghiêm ngặt về vấn đề an ninh, đặc biệt là với mỗi lần gặp gỡ Leah. Chỉ có Sandy mới có thể dẫn họ tới chỗ Leah được, và bởi vậy phải cực kỳ thận trọng. “ ấy bị đe dọa nghiêm trọng, Sandy,” Patrick vừa mới với như vậy trước đó giờ. “ phải hết sức cẩn thận đấy.”

      Sandy ba lần vòng theo bốn khúc phố bao quanh khu nhà, và khi chắc chắn là thể có ai bám theo sau mới dám lẩn vào quán bar, gọi ly xôđa và nhìn ra hè phố. Thế rồi sang đường để tới khách sạn Royal Sonesta. hòa vào trong đám khách du lịch ở gian tiền sảnh, rồi thang máy lên tầng ba. Leah mở cửa cho rồi khóa trái ngay lại.

      có gì phải ngạc nhiên, trông nàng mệt mỏi và ủ rũ.

      “Tôi lấy làm tiếc về chuyện cha ,” Sandy . “ có nghe được tin tức gì ?”

      . Tôi vẫn phải di chuyển liên tiếp.” Có khay cà phê đặt chốc cái TV. Sandy rót tách và khuấy đường vào. “Patrick cho tôi biết chuyện,” . “Những người đó là ai vậy ?"

      “Có hồ sơ ở đằng kia,” nàng , hất hàm về phía chiếc bàn . “Xin mời ngồi.” Nàng chỉ về phía cuối giường. Sandy làm theo và chờ đợi. đến thời điểm cho câu chuyện rồi.

      “Chúng tôi gặp nhau hai năm về trước, vào năm 1994, sau khi ấy làm phẫu thuật chỉnh hình ở Rio. Patrick tự giới thiệu là nhà kinh doanh người Canada, cần luật sư trong các vấn đề thương mại. Nhưng thực ra là cần người bạn. Tôi là bạn của ấy trong hai ngày, thế rồi chúng tôi phải lòng nhau. ấy kể lại với tôi mọi chuyện trong quá khứ, tất cả, nhất là cái việc bỏ trốn cách hoàn hảo, và có rất nhiều tiền, thế nhưng vẫn thể nào quên được quá khứ. ấy rất muốn biết ai truy đuổi mình, và họ áp sát đến mức nào rồi. Vào tháng Tám năm 1994, tôi tới Mỹ, và tiếp xúc vói Hãng thám tử tư ở Atlanta. Đó là Hãng có cái tên kỳ cục, Nhóm Pluto, gồm các cựu nhân viên FBI mà Patrick biết từ trước lúc chạy trốn. Tôi dùng cái tên giả, bảo với họ rằng tôi từ Tây Ban Nha tới, và rằng tôi cần những thông tin về vụ tìm kiếm Patrick Lanigan. Tôi trả họ năm mươi nghìn đôla. Sau đó, họ phái người Biloxi, nơi họ tiếp xúc với Hãng luật cũ của Lanigan. Họ giả bộ có vài thông tin mơ hồ về nơi náu của ấy, và các luật sư ở đó giới thiệu họ gặp người ở Oasinhtơn có tên là Jack Stephano. Đó là gã mật thám cao giá, chuyên hoạt động trong lĩnh vực do thám cho các công ty và tìm người mất tích. Họ gặp lão ta ở Oasinhtơn. Lão rất kín miệng và cho họ được biết gì mấy, nhưng ràng là lão điều hành công việc truy tìm Patrick. Họ gặp lão thêm vài lần nữa, và rồi xuất khả năng về khoản tiền thưỏng. Họ đề nghị bán thông tin, và Stephano đồng ý trả năm mươi nghìn đôla nếu thông tin đó dẫn đến được với Patrick. Trong quá trình gặp gỡ đó, họ biết rằng Stephano có lý do xác đáng để tin rằng Patrick ở Braxin. Điều này, tất nhiên, làm cho Patrick và tôi lo sợ.”

      “Đó là dấu vết đầu tiên để Patrick biết là họ biết ấy ở Braxin ư ?”

      “Đúng thế. Patrick ở Braxin hơn hai năm. Khi với tôi về quá khứ của mình, ấy hề biết liệu những kẻ truy lùng mình có đúng hướng hay . Việc biết họ có mặt ở Braxin tin khủng khiếp.”

      "Tại sao chạy nơi khác ?”

      “Có nhiều lý do. Patrick nghĩ tới chuyện đó. Chúng tôi bàn bạc nhiều. Tôi sẵn sàng ra với ấy. Nhưng sau cùng, Patrick cũng tin rằng mình có thể náu mình kỹ hơn nữa ở đất nước này. ấy rất rành về đất nước tôi - tiếng , con người, và vô số nơi để náu. Bên cạnh đó, ấy muốn tôi phải rời khỏi gia đình. Tôi nghĩ rằng lẽ ra chúng tôi nên chạy sang Trung Quốc hay nơi nào đó.”

      “Có thể Patrick nghĩ là thể làm thế được.”

      “Có lẽ. Tôi vẫn duy trì tiếp xúc với Nhóm Pluto. Tôi mướn họ giám sát cuộc điều tra của Stephano ở mức cao nhất có thể. Họ liên hệ với khách hàng của lão ta, ông Benny Aricia, với cùng câu chuyện vờ vĩnh về những thông tin có thể có. Họ cũng liên hệ với các công ty bảo hiểm kia. Trong tất cả các liên hệ này, họ đều được giới thiệu gặp Stephano. Cứ ba đến bốn tháng, tôi lại bay từ châu u đến đây, và họ lại cho tôi biết những gì họ phát được.”

      “Stephano tìm ra ấy như thế nào ?”

      "Tôi thể kể lại với ông câu chuyện đó lúc này. Tự Patrick làm điều đó.”

      Lại lỗ đen nữa, và khá có ý nghĩa. Sandy đặt tách cà phê xuống bàn và cố điểm lại tình hình. Chắc chắn là dễ dàng hơn nếu hai người họ với tất cả mọi chuyện. Từ đầu cho tới bây giờ, như vậy , luật sư của họ, có thể giúp ích nhiều hơn cho họ trong thời gian trước mắt này. Cũng có lẽ họ cần tới bất kỳ giúp đỡ nào. Vậy là Patrick biết vì sao bị phát .

      Nàng đưa cho Sandy cái cặp hồ sơ dày để bàn. “Đây là những người cầm giữ cha tôi.”

      “Stephano ?"

      “Phải. Tôi là người duy nhất biết chỗ tiền kia ở đâu, Sandy. Vụ bắt cóc này chỉ là cái bẫy.”

      “Làm sao mà Stephano biết về được ?"

      “Patrick với họ.”

      “Patrick ?"

      “Đúng. Ông nhìn thấy những vết bỏng rồi chứ ?”

      Sandy đứng dậy và cố gắng để hiểu vấn đề. “Vậy tại sao Patrick cho họ biết tiền ở đâu ?”

      “Bởi vì ấy biết.”

      ấy giao cả cho ?”

      “Đại loại là thế. Tôi kiểm soát chỗ tiền đó. Giờ đây tôi bị săn lùng và ở giữa người cha đáng thương của tôi bị kẹt.”

      "Tôi phải làm gì ?”

      Nàng mở ngăn kéo lấy ra cặp hồ sơ tương tự nhưng mỏng hơn. “Trong đây có các thông tin về cuộc điều tra của FBI nhằm vào Patrick. Vì những lý do dễ hiểu, chúng tôi biết được gì nhiều. Người phụ trách vụ này là nhân viên FBI, Cutter, ở Biloxi. Ngay khi biết Patrick bị bắt, tôi gọi cho Cutter. Rất có thể là cú điện đó cứu mạng Patrick đấy.”

      chậm thôi nào. Tôi theo kịp.”

      “Tôi với Cutter rằng Jack Stephano tìm được Patrick Lanigan, và tra hỏi về số tiền. Sau đó, tôi cho rằng FBI gặp thẳng Stephano và đe dọa lão. Các nhân viên của lão ở Braxin tra tấn Patrick trong vài giờ đồng hồ, suýt giết chết ấy, rồi họ buộc phải trao ấy lại cho FBI.”

      Sandy nghe như nuốt lấy từng lời trong khi hai mắt nhắm nghiền. “Cứ tiếp tục ,” .

      “Hai ngày sau, Stephano bị bắt ở Oasinhtơn và văn phòng của lão bị niêm phong.”

      “Làm sao mà biết được chuyện đó ?"

      “Tôi vẫn trả nhiều tiền cho mấy người ở Pluto. Họ rất thạo nghề. Chúng tôi ngờ rằng Stephano khai báo với FBI, đồng thời vẫn lặng lẽ truy lùng tôi. Và cả cha tôi nữa.”

      “Tôi phải gì với Cutter ?”

      “Trước hết, hãy với ông ta về tôi. rằng tôi là luật sư rất gần gũi với Patrick, rằng tôi quyết định công việc thay cho ấy, và rằng tôi biết tất cả mọi chuyện. Rồi sau đó hãy tới chuyện cha tôi.”

      “Và nghĩ là FBI kiếm chuyện với Stephano ư?”

      “Có thể có, có thể . Nhưng chúng ta có gì để mất cả.”

      gần giờ sáng, và nàng mỏi mệt. Sandy thu dọn tài liệu rồi bước ra cửa.

      “Chúng ta còn phải chuyện nhiều,” nàng .

      rất hay nếu tôi biết tất cả mọi chuyện.”

      “Hãy cho chúng tôi thời gian.”

      “Tốt nhất là nên nhanh chóng hơn.”

      John Grisham

      Đồng Đạo

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 26

      B ác sĩ Hayani bắt đầu tua thăm bệnh buổi sáng vào đúng bảy giờ. Do biết Patrick khó ngủ nên các buổi sáng Hayani thường chỉ ngó qua căn phòng tối bưng của rồi tiếp. Thường vẫn ngủ, dù rằng sau đó vẫn phàn nàn rằng đêm trước ngủ được. Sáng nay, Patrick thức, và ngồi ghế đặt trước cửa sổ. mặc độc có chiếc quần cộc bằng vải bông màu trắng, mắt đăm đăm nhìn vào tấm rèm cửa khép kín trước mặt, mặc dù chẳng có gì ở đó để mà nhìn. Chỉ có chút ánh sáng từ chiếc đèn bàn cạnh giường.

      “Patrick, khỏe đấy chứ ?” Hayani hỏi khi đến bên .

      đáp. Hayani nhìn vào chiếc bàn đặt ở góc phòng, nơi Patrick lo những chuyện kiện tụng của . Tất cả đều gọn gàng, có cuốn sách nào mở ra hay hồ sơ nào xem xét dở.

      Sau cùng, đáp, "Tôi khỏe, thưa bác sĩ.”

      có ngủ được ?”

      . hề chợp mắt được.”

      “An toàn mà, Patrick. Mặt trời lên rồi.”

      gì; hề nhúc nhích. Hayani ra, để mặc ngồi đấy, vẫn nhìn đăm đắm vào tấm rèm cửa. Patrick nghe thấy những giọng vui vẻ ngoài hành lang, tiếng người bác sĩ với mấy tay cảnh sát chán chường, rồi tiếng các y tá vội vã qua. Bữa sáng sắp được mang đến, song cũng quan tâm lắm. Sau bốn năm rưỡi nhịn ăn, làm chủ được cái thói thèm ăn của mình. Chỉ vài miếng này khác, với vài lát táo hay cà rốt lúc quá đói. Các y tá ban đầu cảm thấy muốn làm cho béo tốt lên, thế nhưng bác sĩ Hayani can thiệp và cho thực đơn ít chất béo, đường, và nặng về rau cùng bánh mì. đứng dậy, ra mở cửa và khẽ chào Pete và Eddie, hai trong số các cảnh sát túc trực ở đây.

      “Ngủ tốt chứ hả ?” Eddie hỏi, sáng nào cũng vậy.

      “Cũng được, Eddie, cảm ơn,” Patrick , như thứ thủ tục. Trong hành lang, chiếc ghế dài cạnh thang máy, trông thấy Brent Myers, tay nhân viên FBI vô tích áp giải từ Puéctô Ricô về. gật đầu chào, nhưng Brent mải nhìn vào tờ báo sáng.

      Patrick lui trở vào trong phòng, và bắt đầu bài tập cho hai cái đầu gối. Cơ bắp của lành lại, nhưng những vết bỏng vẫn còn cương cứng. thể nào nghĩ tới chuyện làm những động tác mạnh được.

      y tá gõ cửa và bưóc vào. “Xin chào Patrick,” ta vui vẻ chào. “Đến giờ ăn sáng rồi.” ta đặt chiếc khay lên bàn. “Đêm qua thế nào ?”

      "Tuyệt vời. Còn ?"

      “Cũng tuyệt vời. có muốn gì nữa nào ?”

      , cảm ơn.”

      “Có gì cứ gọi nhé,” ta ra. Ngày nào cũng vậy chẳng có gì thạy đổi. Nhưng tuy vậy, Patrick cũng hề quên rằng mọi việc có thể tồi tệ hơn đến thế nào. Bữa sáng ở nhà tù quận Harrison được đưa đến những cái khay sắt, qua những khe hẹp ở cửa các phòng giam và phải ăn trước mặt các tù nhân khác trong phòng, với thành phần thay đổi liên tục hàng ngày.

      uống cà phê và ngồi vào cái chỗ làm việc bé của mình phía bên dưới cái TV. bật đèn lên và nhìn vào đám hồ sơ. ở Biloxi được tuần rồi. Cuộc sống kia của chấm dứt cách đây mười ba ngày, con đường hẹp bụi bặm, lúc này ở cách xa hàng nghìn dặm. chỉ muốn lại được là Danilo, với cuộc sống bình lặng trong ngôi nhà đơn sơ, nơi mà người hầu chuyện với bằng thứ tiếng Bồ Đào Nha đầy điệu pha lẫn với cái giọng Anhđiêng của ta. nhớ Braxin, xứ sở của Danilo, đất nước bao la, tươi đẹp với những tương phản nét, những thành phố đông đúc và những làng xóm lạc hậu, cùng những người dân hiền lành. nhớ tới khắc khoải Eva dấu của ; mềm mại của những ngón tay nàng, vẻ đẹp của nụ cười của nàng, những kỳ diệu nơi thân thể nàng cùng tấm lòng nhân hậu. thiết sống nữa nếu như có nàng.

      Tại sao người ta lại thể có thêm cuộc đời nữa nhỉ ? Do đâu mà người ta lại thể nào làm lại từ đầu được ? Patrick chết, và Danilo bị bắt. Tại sao lại thể chạy trốn lần nữa ? cuộc đời thứ ba mời gọi, và lần này có nỗi buồn của cuộc đời thứ nhất hay những cái bóng rình rập của cuộc đời thứ hai nữa. Lần này cuộc sống mỹ mãn với Eva. Họ sống ở đâu đó, bất kỳ đâu, bên nhau, và quá khứ còn thể nào ám ảnh được họ. Họ sống trong ngôi nhà lớn, và sinh nhiều con.

      Nàng là phụ nữ mạnh mẽ, nhưng cũng giống như mọi người, nàng có những giới hạn của mình. Nàng cha, và gia đình luôn có sức hút mạnh mẽ. đặt nàng vào vòng hiểm nguy, và giờ đây phải bảo vệ nàng.

      có thể làm lần nữa được ? Hay vận may của hết rồi ?

      oOo

      Cutter chấp nhận cuộc gặp vào lúc tám giờ chỉ bởi lẽ cái ông McDermott kia cứ khăng khăng cho rằng đó là chuyện khẩn cấp. Việc nhóm quan chức đến rất sớm làm cái tòa nhà Liên bang như bừng tỉnh. Giờ làm việc ở đó chỉ bắt đầu lúc chín giờ. Cutter cộc cằn, nhưng tất nhiên là cũng nồng nhiệt gì. Chuyện trò với đám luật sư lắm chuyện phải là việc ông ta ưa thích. Sandy nhã nhặn cảm ơn việc được gặp, và Cutter có vẻ dịu chút. “Ông có còn nhớ cú điện thoại mà ông nhận được cách đây mười ba ngày ạ ?” Sandy hỏi. “Người phụ nữ gọi từ Braxin ấy ?”

      “Tất nhiên.”

      "Tôi gặp ấy vài lần. ấy là luật sư của Patrick.”

      ta có ở đây ?"

      “Loanh quanh.” Sandy thổi phù phù rồi dè dặt nhấp ngụm cà phê. nhanh chóng lại hầu hết những gì mình biết về Leah, nhưng hề nhắc đến tên nàng. Thế rồi, hỏi thăm tới cuộc điều tra về Stephano. Cutter lập tức thận trọng. Ông ta ghi lại vài ba điều gì đó với cây bút rẻ tiền, và thầm tính bài.

      “Làm sao lại biết về Stephano ?”

      “Đồng của tôi, người phụ nữ Braxin kia, biết rất về Stephano. Ông hẳn nhớ chính ấy cho ông biết tên lão ta.”

      “Làm sao mà ta biết được về lão ấy ?"

      “Đó là câu chuyện rất dài và phức tạp, và tôi thích thú gì với phần lớn câu chuyện đó.”

      “Vậy sao lại khơi ra ?”

      “Bỏi lẽ Stephano vẫn rình rập thân chủ của tôi, và tôi muốn ngăn chặn lão.”

      Cutter lại ghi chép, và thêm ngụm cà phê nữa. cái biểu đồ rắc rối hình thành trong khi ông ta cố sắp xếp lại xem ai gì với ai. Ông ta biết hầu hết những gì diễn ra ở Oasinhtơn với lời khai tồng tộc của Stephano, thế nhưng vẫn còn có những khoảng trống. Chắc chắn rằng việc Stephano phải ngừng cuộc săn lùng của lão ta là điều được xác định. “Làm sao mà ông biết được điều này ?”

      “Bởi vì tay chân của lão ở Braxin bắt cóc người cha của người đồng của tôi.”

      Cutter thể mím môi được nữa, cũng còn hiểu nổi chuyện gì xảy ra. Ông ta đưa mắt nhìn lên trần nhà, đầu óc quay cuồng với cái thông tin mới mẻ của Sandy. Thế rồi tia sáng lóe lên. “Phải chăng cái luật sư người Braxin này có thể biết chỗ tiền kia ở đâu ?”

      “Đó là khả năng.”

      Ra là vậy!!!

      Sandy tiếp, “Vụ bắt cóc này là nỗ lực nhằm dụ ấy quay trở về Braxin, nơi mà người ta chộp lấy và buộc ấy phải dùng ít thuốc mà họ từng sử dụng đối vói Patrick. Tất cả chỉ là vì tiền.”

      Cutter thốt ra chậm chạp, nhưng phải là do cố ý. “Chuyện bắt cóc đó xảy ra khi nào vậy?”

      “Ngày hôm qua.” phụ tá trong văn phòng Sandy vừa tóm được tin này từ mạng Internet trước đó có hai tiếng đồng hồ. Đó là tin ngắn trang sáu của tờ O Globo, nhật báo có tiếng ở Braxin. Tin cho biết tên nạn nhân là Paulo Miranda. Sandy vẫn chưa hề biết tên của Leah, và cũng là đúng khi có giả thiết rằng FBI có thể xác minh được về nàng nếu như họ có được mẩu tin đó trong tay. Thực lòng nghĩ rằng có hại gì nếu cho FBI biết. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ chính cũng biết.

      “Chúng tôi làm được gì nhiều trong chuyện này đâu.”

      “Ông đâu thế được. Stephano đứng sau vụ đó. Hãy gây sức ép với lão. Bảo lão rằng đồng của tôi chịu rơi vào cái bẫy của lão đâu, và rằng ấy gặp các nhà chức trách Braxin với cái tên Jack Stephano đấy.”

      “Tôi xem xem có thể làm được gì.” Cutter quên việc Sandy McDermott đệ đơn kiện đòi FBI bồi thường nhiều triệu đôla cho những tội lỗi mà cơ quan này hề gây ra. Cũng chẳng được gì nếu đề cập tới vụ kiện đó vào lúc này. Có lẽ là để sau.

      “Stephano quan tâm tới gì khác ngoài tiền,” Sandy . “Nếu ông già đó mà phải chịu đau đớn lão ta bao giờ được nhìn thấy xu nào cả.”

      “Phải chăng muốn là có chỗ để thương lượng ở đây ?”

      “Ông nghĩ sao ? Nếu như ông phải đối mặt vói án tử hình hay tù chung thân liệu ông có sẵn sàng thương lượng ?”

      “Vậy chúng tôi gì với Stephano ?”

      “Bảo lão thả ông già kia ra, và rồi chúng tôi có thể chuyện về tiền bạc.”

      oOo

      Ngày làm việc của Stephano bắt đầu khá sớm. Cuộc gặp thứ tư này, theo Chương trình, kéo dài cả ngày và cũng là kết thúc việc kể lại các chi tiết trong cuộc phiêu lưu tìm kiếm Patrick. Luật sư của lão vắng mặt vì còn phải dự phiên tòa thể đừng được. Stephano cần đến luật sư dắt tay cho lão, và, thẳng ra, lão cũng chẳng thích thú gì với cái giá 450 đôla giờ cả. Chuyên gia thẩm vấn hôm nay là tay mới. Tên ta là Oliver gì đó. Cũng chẳng có gi khác. Họ đều từ lò mà ra cả.

      “ Ông về tay bác sĩ chỉnh hình,” Oliver như thể là hai người chỉ vừa mới bị cú điện thoại làm gián đoạn câu chuyện vậy. Hai người chưa bao giờ gặp nhau, và mười ba tiếng đồng hồ qua, Stephano chưa hề với bất kỳ ai về Patrick.

      “Phải.”

      “Và đó là vào tháng Tư năm 94.”

      “Chính xác.”

      “Vậy tiếp tục .”

      Stephano ngồi lại cho thoải mái. “Các dấu vết nguội trong thời gian. Thực ra là thời gian khá dài. Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng nhiều tháng trôi qua mà hề tìm kiếm được gì. vết tích nào nữa. Thế rồi, vào cuối năm 94, Hãng thám tử tư ở Atlanta, Nhóm Pluto, liên hệ với chúng tôi.”

      “Pluto à ?”

      “Phải, Nhóm Pluto. Chúng tôi gọi họ là bọn Pluto. Những kẻ khá vững tay. số trong đó là cựu nhân viên của cơ quan các . Họ hỏi về việc tìm kiếm Patrick Lanigan và rằng họ có thể giúp được gì đó. Tôi gặp bọn họ vài lần ở ngay Oasinhtơn này. Họ có khách hàng bí , người rằng có biết đôi điều về Lanigan. Tất nhiên là tôi quan tâm. Họ vội vã gì bởi lẽ khách hàng của họ có vẻ cũng vội vã. có gì đáng ngạc nhiên là người khách hàng kia đòi khá nhiều tiền. Và điều trớ trêu là việc đó lại hấp dẫn mới chết chứ.”

      “Sao lại thế ?”

      “Nếu như khách hàng của họ biết trông chờ khoản thưởng lớn có nghĩa là người đó biết rằng Lanigan vẫn còn rất nhiều tiền. Vào tháng Bẩy năm 95, bọn Pluto mang đến tôi đề nghị. Họ hỏi nếu như người khách của họ có thể đưa chúng tôi tới nơi ở Braxin mà Lanigan mới náu trước đó thời gian sao ? Tôi tốt. Họ hỏi bao nhiêu ? Và chúng tôi thỏa thuận vói cái giá năm mươi nghìn đôla. Lúc đó tôi tuyệt vọng. Tiền được chuyển qua đường ngân hàng tới nhà băng ở Panama. Sau đó tôi được báo là phải đến cái thành phố Itajaí tẹo ở bang Santa Catarina, nằm tít dưới miền Nam Braxin. Theo địa chỉ họ trao, chúng tôi đến tòa chung cư trong khu đẹp của thành phố. Tay quản lý rất nhiệt tình, đặc biệt là sau khi được chúng tôi lót tay. Chúng tôi cho ông ta xem những tấm hình của Lanigan, và ông ta ngập ngừng. Thêm chút nữa vào tay, và ông ta xác định dứt khoát đó là Jan Horst, người Đức theo chỗ ông ta nghĩ, tiếng Bồ Đào Nha rất giỏi. Người khách đó mướn căn hộ ba phòng trong hai tháng, trả tiền mặt và thích ngồi uống cà phê với tay quản lý cùng với vợ của ông ta. Bà vợ cũng xác nhận đó đúng là Horst. Ông ta mình là nhà văn thực tế để viết cuốn sách về dòng nhập cư của những nguời Đức và người Italia tới Braxin. Lúc ra , ông ta đến thành phố Blumenau để nghiên cứu về kiến trúc Bavaria ở đó.”

      “Ông có Blumenau ?"

      “Tất nhiên là chúng tôi có . Và rất nhanh là đằng khác. Chúng tôi rà soát cái thành phố đó, nhưng sau hai tháng bỏ cuộc. Sau những phấn khích ban đầu, chúng tôi đành chấp nhận cái công việc tẻ ngắt là lảng vảng quanh các khách sạn và chợ búa, chìa ra những tấm hình và hứa hẹn chút tiền thưởng.”

      “Còn bọn Pluto, như ông gọi, sao ?"

      “Họ lạnh nhạt cách đáng kể. Tôi sốt ruột sốt gan muốn chuyện với họ, thế nhưng họ như có gì để tiếp. Tôi cho rằng khách hàng của họ chột dạ, hoặc giả mãn nguyện với việc kiếm được năm mươi nghìn. Dù sao cũng mất đứt sáu tháng mà có mấy tin tức gì từ phía Pluto. Thế rồi, vào cuối tháng Giêng năm nay, họ lại vội vã trở lại. Khách hàng của họ lại cần tiền, và sau cùng sẵn sàng bán tháo. Chúng tôi mặc cả giằng co trong ít ngày, thế rồi họ quyết định là với triệu đôla chúng tôi có thể biết chính xác nơi Patrick trú ngụ. Tôi khước từ. phải là tôi có tiền mà chỉ là vì điều đó quá mạo hiểm. Khách hàng của họ muốn trước khi tiền được trả, và tôi lại muốn chi trước khi biết được thông tin. có cách nào để xác quyết được rằng người khách kia có thực biết gì . thực tế, chẳng còn chuyện gì để mà nữa. Hai bên đều nổi nóng và chuyện thương lượng tan vỡ.”

      “Nhưng các ông vẫn tiếp tục đàm phán mà ?"

      “Đúng, chúng tôi chẳng còn cách nào khác. Khách hàng của họ phải có tiền. Chúng tôi phải có được Lanigan. thỏa thuận khác được đưa ra theo đó chúng tôi có được tên và địa chỉ nơi mà Lanigan sống sau lúc rời khỏi Itajaí, với giá năm mươi nghìn đôla. Chúng tôi đồng ý, bởi vì theo cách nhìn của chúng tôi cái giá năm mươi nghìn là rẻ và luôn luôn có cơ hội gặp may để kiếm được nguồn tin khác nào đó. Từ cách nhìn của Pluto thỏa thuận đó là được bởi lẽ nó củng cố cho uy tín của người khách hàng của họ. Và tất nhiên, đó cũng là bước nữa, hướng tới cái khoản cả triệu đôla kia. Có cái đầu nào đó đằng sau Pluto, và tôi rất muốn được đấu trí. Tôi vui lòng trả triệu đôla nhưng cần phải có bảo đảm.”

      “Cái thành phố thứ hai kia ở đâu ?"

      “São Mateus, thuộc bang Espírito Santo, bờ biển ở về phía bắc Rio. Đó là thị trấn với khoảng sáu mươi nghìn dân, khung cảnh tươi đẹp và dân chúng hiền lành, và chúng tôi mất tháng ở đó. Vụ nhà cửa cũng giống như ở Itajaí hai tháng, trả tiền mặt, người có tên là Derrick Boone. cần phải lót tay gì, ngưòi chủ nhà khẳng định Boone đúng là đối tượng của chúng tôi. Có vẻ như là Boone ở quá tuần mà trả tiền, bởi vậy gây chút ác cảm. Tuy nhiên, giống như ở Itajaí, Boone giao thiệp với ai và chủ nhà biết gì về những việc làm của . còn gì khác nữa, và chúng tôi rời São Mateus vào đầu tháng Ba năm nay. Chúng tôi tập kết lại ở São Paulo và Rio, lập ra những kế hoạch mới.”

      “Kế hoạch mới gì vậy ?”

      “Chúng tôi rút khỏi miền Bắc và tập trung vào những thị trấn hơn ở các bang gần Rio và São Paulo. Tại Oasinhtơn này, tôi làm ráo riết hơn với bọn Pluto. Khách hàng của họ muốn có triệu đôla. Khách hàng của tôi muốn trả tiền mà chắc ăn. bế tắc mà cả hai bên đều làm găng nhưng vẫn tiếp tục chuyện.”

      “Có bao giờ ông biết vì sao mà khách hàng của họ biết nhiều như vậy về từng bước của Lanigan ?”

      . Chúng tôi cũng đoán già đoán non mãi. giả thuyết được nêu ra là khách hàng của họ cũng lùng sục Lanigan, vì lý do nào đó. Có thể là ai đó trong FBI rất cần tiền. Tất nhiên, đó chỉ là ý tưỏng vu vơ, thế nhưng chúng tôi phải nghĩ tới mọi chuyện. Giả thuyết thứ hai và là giả thuyết có nhiều khả năng nhất, cho rằng khách hàng của họ là người mà Lanigan biết và tin cậy, song kẻ này sẵn sàng bán đứng . Cho dù thế nào khách hàng của họ và tôi cũng quyết định là thể để mất cơ hội. Lúc bấy giờ, cuộc tìm kiếm kéo dài gần bốn năm trời và chẳng đâu vào đâu cả. Như chúng tôi biết, có tới cả triệu nơi nấp tuyệt vời ở Braxin, và Lanigan có vẻ rất sành sỏi.”

      “Các ông có phá vỡ được bế tắc kia ?”

      “Họ làm điều đó. Vào tháng Tám năm nay, họ bất ngờ đưa ra đề nghị khác: những tấm ảnh tại của Lanigan, đổi lấy năm mươi nghìn đôla nữa. Chúng tôi đồng ý. Tiền được chuyển ra nước ngoài. Họ trao những tấm ảnh đó cho tôi tại văn phòng của tôi ở Oasinhtơn đây. Đó là ba tấm ảnh đen trắng khổ 18/24."

      “Tôi có thể xem được ?”

      “Được thôi.” Stephano lấy mấy tấm ảnh từ trong cái cặp được sắp xếp rất ngăn nắp của lão ra, và đẩy chúng qua mặt bàn. Tấm đầu tiên chụp Lanigan trong cái chợ đông đúc, có vẻ như là từ khoảng cách xa. đeo kính râm và cầm cái gì đó như quả cà chua. Tấm thứ hai được chụp trước hoặc sau đó tẹo khi bước hè đường, tay xách cái túi gì đó. mặc quần jeans và trông khác bất cứ người Braxin nào. Tấm thứ ba lên được nhiều điều nhất; Patrick mặc quần soóc, áo phông và cọ rửa chiếc Volkswagen Beetle của . nhìn thấy được biển kiểm soát, cũng nhìn được gì nhiều về ngôi nhà. có cặp kính râm và có thể thấy được ràng gương mặt của .

      có biển tên phố, có biển kiểm soát,” Oliver nhận xét.

      có gì cả. Chúng tôi nghiên cứu chúng hàng giờ, nhưng thấy gì cả. lần nữa, như tôi , có cái đầu nào đó tính toán cho tất cả những chuyện này.”

      “Vậy các ông làm gì ?”

      “Đồng ý trả triệu đôla kia.”

      “Bao giờ ?”

      “Vào tháng Chín. Tiền được giao cho bên thứ ba đáng tin cậy ở Giơnevơ, và được giữ ở đó cho đến khi cả hai bên gửi thông báo chuyển tiền. Theo thỏa thuận, khách hàng của họ có mười lăm ngày để trao cho chúng tôi địa chỉ nơi trú ngụ. Chúng tôi ngồi gặm móng tay suốt cả thời gian chờ đợi đó, thế rồi vào ngày thứ mười sáu, sau cuộc cãi cọ, họ chịu thực thỏa thuận. Đó là thị trấn Ponta Porã, phố Tiradentes. Chúng tôi lao ngay tới thị trấn đó; rồi lặng lẽ chiếm lĩnh các vị trí. Cho đến lúc này chúng tôi rất kính nể Lanigan và chúng tôi cho rằng cực kỳ giỏi trong việc vừa di chuyển vừa canh chừng đằng sau lưng. Chúng tôi tìm thấy , rồi theo dõi trong tuần cho chắc ăn. Tên là Danilo Silva.”

      tuần cơ à ?”

      “Phải, chúng tôi cần phải kiên nhẫn. chọn Ponta Porã là có lý. Đó là nơi náu tuyệt vời. Các quan chức địa phương sẵn lòng giúp đỡ nếu có tiền. Người Đức đến nơi này từ sau chiến tranh. bước sai lầm, cảnh sát được báo và họ lập tức can thiệp để bảo vệ cho . Bởi vậy, chúng tôi chờ đợi, vạch kế hoạch và sau cùng tóm được ở bên ngoài thị trấn, con đường có nhân chứng nào cả. Sau cuộc đào thoát gọn ghẽ, chúng tôi đưa sang Paragoay, tới ngôi nhà an toàn ở đó.”

      “Và rồi các ông tra tấn ?”

      Stephano ngừng lời, nhấp ngụm cà phê, và nhìn thẳng vào Oliver. “Đại loại là thế,” lão đáp.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 27

      P atrick lại lại ở phía cuối căn phòng hội chẩn của các bác sĩ trong khi Sandy ngồi đó, lắng nghe và ghi chép. Đĩa bánh ngọt mà y tá mang đến cho họ vẫn còn nguyên. Sandy rất khoái bánh ngọt và thầm hỏi biết có bao nhiêu kẻ tử tù có được bánh ngọt đưa đến tận mồm thế này ? Bao nhiêu có cả nhóm bảo vệ riêng ? Và bao nhiêu có được vị thẩm phán ghé vào cùng ăn chiếc pizza ?

      “Tình hình thay đổi, Sandy,” Patrick hề nhìn sang. “Chúng ta phải hành động nhanh mới được.”

      “Hành động thế nàọ ?”

      ấy ở lại đây được, chừng nào cha ấy vẫn mất tích.”

      “Như thường lệ, tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Những khoảng trống ngày càng lớn, còn hai người cứ lấp la lấp lửng. Trong khi tôi chỉ là luật sư. Làm sao mà tôi hiểu tất cả được chứ ?”

      " ấy có các hồ sơ, và toàn bộ câu chuyện. phải gặp ấy.”

      tôi vừa mới gặp đêm qua."

      ấy chờ .”

      " ư ? Tại đâu ?”

      “Có ngôi nhà bên bờ biển ở Perdilo. ấy ở đó.”

      “Để xem nào. Nghĩa là tôi phải gác lại mọi chuyện và tới đó ngay bây giờ.”

      “Chuyện quan trọng đấy, Sandy.”

      “Các thân chủ khác của tôi cũng quan trọng,” bực tức . “Sao thể báo cho tôi biết trước, dù chỉ giờ đồng hồ.”

      "Tôi xin lỗi.”

      “Tôi có phiên tòa chiều nay. Con tôi có trận bóng đá. Phải chăng là quá đáng khi đòi hỏi được báo trước ?”

      “Tôi thể nào ngừa trước vụ bắt cóc, Sandy. phải thừa nhận là tình hình có hơi bất thường ở chừng mực nào đó. Xin thông cảm.”

      Sandy thở dài và ghi chép đôi điều gì đó. Patrick ngồi ghé vào mép bàn, sát ngay cạnh . “Tôi xin lỗi, Sandy.”

      “Chúng tôi có thể bàn tới chuyện gì ở ngôi nhà bên bờ biển đó hả ?”

      “Aricia.”

      “Aricia,” Sandy nhắc lại, rồi nhìn chỗ khác. biết những điểm cơ bản, ít ra cũng là những gì đọc được báo chí.

      hơi lâu đấy, bởi vậy nên chuẩn bị hành lý qua đêm.”

      “Tôi phải ngủ lại ngôi nhà đó ?”

      “Phải.”

      “Với Leah ?"

      “Phải. Đó là ngôi nhà lớn.”

      “Và tôi phải với vợ tôi thế nào đây ? Rằng tôi qua đêm với Braxin xinh đẹp trong ngôi nhà bên bờ biển ư ?”

      “Nếu là tôi . Cứ với vợ là phải họp với nhóm bào chữa.”

      “Được đấy.”

      “Cảm ơn, Sandy.”

      oOo

      Underhill vào cuộc với Oliver sau lúc nghỉ uống cà phê. Họ ngồi cạnh nhau, với chiếc máy quay video đặt ở đằng sau, chăm chú nhìn vào Stephano ở đầu bàn đằng kia.

      “Ai thẩm vấn Patrick ?” Underhill hỏi Stephano.

      "Tôi buộc phải tên các cộng của mình.”

      “Người đó có kinh nghiệm gì về thẩm vấn ?”

      “Hạn chế.”

      “Hãy mô tả về những biện pháp được sử dụng.”

      "Tôi lắm … ”

      “Chúng tôi nhìn ảnh chụp những vết bỏng, ông Stephano. Và FBI chúng tôi bị kiện vì những vết thương do người của ông gây ra. Nào, hãy xem các ông gây ra chúng như thế nào.”

      “Tôi ở đó. Tôi cũng dự tính việc thẩm vấn bởi lẽ tôi có mấy kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tôi chỉ biết cách chung chung là loạt cú tra điện được thực qua nhiều cực điện gắn các điểm khác nhau thân thể Lanigan. Đó là điều xảy ra. Tôi hề biết là việc đó gây ra những vết bỏng nghiêm trọng.”

      thoáng im lặng trong lúc Underhill và Oliver đưa mắt nhìn nhau. ràng là họ tin. Còn Stephano khinh khỉnh khịt mũi.

      “Cuộc tra tấn đó diễn ra trong bao lâu ?”

      “Chừng năm đến sáu giờ.”

      Họ nhìn vào hồ sơ và thầm gì đó. Underhill hỏi vài câu về việc xác định nhân dạng và Stephano lại việc lấy dấu tay. Oliver trầm ngâm và dành gần cả tiếng đồng hồ để cố xác định chính xác là họ tóm được khi nào, đưa tận đâu và thẩm vấn trong bao lâu. Họ quay Stephano về chuyến ra khỏi vùng rừng núi để tới cái sân bay ở Concepción. Họ thăm dò, tìm hiểu và đề cập đến đủ mọi chuyện khác, thế rồi họ hội ý lát và quay trở lại với vấn đề chủ yếu.

      “Trong cuộc thẩm vấn ông Lanigan, các ông biết những gì về chỗ tiền kia ?”

      nhiều. với chúng tôi chỗ tiền đó từng được để ở đâu, nhưng nó bị chuyển nơi khác rồi.”

      “Chúng tôi có thể hiểu rằng Lanigan với các ông điều đó trong khi bị ép buộc cách rất khủng khiếp đây ?”

      “Hiểu vậy cũng có gì là quá.”

      “Các ông có tin rằng Lanigan biết chỗ tiền kia ở đâu vào lúc đó ?”

      “Tôi ở đó. Nhưng người tiến hành cuộc thẩm vấn với tôi cách chắc chắn, rằng ta tin là Lanigan biết vị trí chính xác của chỗ tiền đó.”

      “Cuộc thẩm vấn được ghi hay ghi hình lại ư ?"

      “Dĩ nhiên là ,” Stephano đáp, như thể là chưa bao giờ lão nghĩ tới điều đó.

      “Ông Lanigan có nhắc tới kẻ đồng lõa nào ?”

      "Theo chỗ tôi biết .”

      “Nghĩa là thế nào ?”

      “Nghĩa là tôi biết.”

      “Thế còn người tiến hành cuộc thẩm vấn sao hả ? ta có nghe thấy Lanigan nhắc tới kẻ đồng lõa nào ?"

      “Theo chỗ tôi biết .”

      “Vậy là, theo chỗ ông biết, ông Lanigan hề nhắc tới kẻ đồng lõa nào ?”

      “Đúng thế.”

      Họ lật lại hồ sơ, thầm với nhau, rồi im lặng lúc lâu, khoảng im lặng gây bất an cho Stephano. Lão hai lần dối liên tiếp - có ghi hình ghi gì và có đồng lõa nào - và lão vẫn cảm thấy yên tâm với những lời dối đó. Làm sao mà những thằng cha này biết được những điều gì được tới trong cánh rừng Paragoay kia ? Thế nhưng họ là FBI. Bởi vậy lão hơi bồn chồn, và chờ đợi.

      Cửa phòng đột ngột mở ra và Hamilton Jaynes bước vào, theo sau là Warren, tay chuyên gia thẩm vấn thứ ba. “Xin chào, Jack,” Jaynes chào to trong khi ngồi xuống cái ghế kê ở cạnh bàn. Warren ngồi xuống bên hai đồng của ta.

      “Xin chào, Hamilton,” Stephano đáp, lại càng bồn chồn hơn nữa.

      “Tôi ngồi nghe ở phòng bên cạnh,” Jaynes với nụ cười. “Và đột nhiên tôi băn khoăn biết ông có hay .”

      “Đương nhiên là tôi rồi.”

      “Đương nhiên. Này, bao giờ nghe thấy cái tên Eva Miranda chưa đấy ?"

      Stephano chầm chậm nhắc lại cái tên đó, như thể hoàn toàn bị bối rối. “Tôi nghĩ vậy.”

      ta là luật sư ở Rio. Bạn của Patrick.”

      “Chưa nghe.”

      “Ra vậy, điều đó làm tôi phiền lòng, Jack, bởi lẽ tôi cho rằng ông biết chính xác ta là ai cơ đấy.”

      "Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên ta.”

      “Vậy tại sao ông lại cố tìm kiếm ta hả ?”

      “Tôi hiểu ông gì nữa,” Stephano , giọng yếu ớt.

      Underhill lên tiếng trước. ta nhìn thẳng vào mặt Stephano, nhưng lại với Jaynes. “Ông ta dối.”

      “Chắc chắn rồi,” Oliver phụ họa.

      “Chuyện đó còn phải nghi ngờ gì," Warren thêm vào.

      Stephano hết nhìn người này lại nhìn người khác. Lão toan gì đó nhưng Jaynes giơ tay ngăn lại. Cửa phòng mở ra và đồng nữa cùng lò với Underhill, Oliver và Warren bước vào mấy bước, chỉ đủ để , “Các phân tích giọng cho thấy có bằng chứng xác đáng về dối.” ta xong và lui ra ngoài ngay lập tức.

      Jaynes cầm tờ giấy lên, và tóm tắt nội dung trong đó. “Đây là tin xuất tờ báo ở Rio sáng nay. Chuyện về vụ bắt cóc ông Paulo Miranda nào đó. Con của ông ta là bạn của Patrick, Jack. Chúng tôi liên lạc với các nhà chức trách ở Rio. có việc đòi tiền chuộc. có đòi hỏi nào hết từ phía những kẻ bắt cóc.” Ông ta đẩy tờ giấy về phía Stephano, nhưng nó dừng lại ở ngoài tầm với của lão. “Vậy ông Miranda kia ở đâu ?”

      "Tôi biết. Tôi hiểu ông gì.”

      Jaynes nhìn về phía đầu bàn đằng kia.

      “Vẫn dối,” Underhill . Oliver và Warren gật đầu tán thành.

      “Chúng ta có thỏa thuận, Jack. Ông tất cả , và chúng tôi từ bỏ những cáo buộc nhằm vào ông. Và, theo chỗ tôi nhớ, chúng tôi đồng ý bắt giữ các khách hàng của ông. Bây giờ tôi phải làm gì hả, Jack ?"

      Stephano nhìn Underhill và Oliver, những người dường như sẵn sàng đánh giá câu đáp lại tiếp theo của lão. Về phần họ, họ lạnh lùng nhìn lão, bỏ qua bất kỳ biểu gì.

      ta biết tiền ở đâu,” Stephano đành lòng cất tiếng.

      “Còn ta ở đâu?”

      ta chạy khỏi Rio khi chúng tôi tìm thấy Patrick.”

      có dấu vết nào à ?”

      .”

      Jaynes nhìn nhóm thẩm vấn của ông ta, và hiểu là lão thôi dối.

      "Tôi đồng ý với các ông tất cả,” Stephano . "Tôi đồng ý về bất kỳ điều gì khác nữa. Chúng tôi vẫn tìm kiếm ta.”

      “Chúng tôi được biết về ta.”

      quá đáng. Nếu cần, chúng ta có thể xem lại thỏa thuận của hai bên. Tôi sung sướng được gọi luật sư của mình.”

      “Phải, nhưng chúng tôi thấy là ông dối.”

      "Tôi xin lỗi. còn có chuyện đó nữa.”

      “Đừng động đến ta, Jack. Và thả người cha của ta ra.”

      "Tôi nghĩ về điều đó.”

      . Ông phải làm ngay bây giờ.”

      oOo

      Ngôi nhà nghỉ bên bờ biển kia cao ba tầng, đại nằm trong dãy nhà có vẻ như giống hệt nhau dọc theo vùng bờ biển mới được phát triển này. Tháng Mười còn là mùa biển. Hầu hết những ngôi nhà ở đây hình như đều bỏ trống. Sandy đậu xe sau chiếc xe bốn cửa bóng nhoáng, loại khá phổ thông, mang biển Louisiana, và cho rằng đó là chiếc xe thuê. Mặt trời xuống tới sát mặt nước, chỉ còn cách dăm bảy phân. Suốt vùng Vịnh này vắng lặng; nhìn thấy chiếc tàu hay con thuyền nào. bước lên những bậc thềm, theo hành lang chạy vòng cho tới khi đến trước cái cửa.

      Leah ra mở cửa, miệng mỉm cười, với bản chất của con người nồng hậu, bất chấp tâm trạng u buồn ám ảnh nàng. “Xin mời vào,” nàng nhàng , và khóa trái cửa lại sau khi Sandy bước qua. Căn phòng khách rộng rãi, có mái vòm, ba mặt là kính và ở giữa là cái lò sưởi.

      “Chỗ này hay quá,” Sandy , mũi ngửi thấy mùi thơm lừng bay từ trong bếp ra. Do Patrick giục giã, kịp ăn bữa trưa.

      “Ông có đói ?” Nàng hỏi.

      “Đến chết được.”

      “Tôi nấu chút đồ ăn.”

      “Tuyệt vời.”

      Cái sàn gỗ hơi kêu khi Sandy theo nàng sang phòng ăn. mặt bàn là chiếc thùng các tông, và bên cạnh đó là những giấy tờ được sắp xếp gọn ghẽ. Trước đó hẳn là nàng làm việc. Nàng dừng lại bên bàn và , “Đây là hồ sơ về Aricia.”

      “Do ai chuẩn bị vậy ?”

      “Dĩ nhiên là Patrick rồi.”

      “Nó nằm ở đâu trong suốt bốn năm qua thế hả ?"

      “Được lưu kho. Ngay ở Mobile.”

      Những câu trả lời của nàng đều ngắn gọn, và mỗi câu lại gợi ra hàng chục câu hỏi khác. Sandy chỉ muốn có thể nổi cáu được với nàng. “Chúng ta tới nó sau,” nàng , kèm theo cái khoát tay rất đỗi bình thường.

      Trong bếp, cả con gà quay được đặt thớt, bên chiếc bồn rửa. chảo cơm rang với rau bốc hơi bếp. “ có gì nhiều,” nàng . "Tôi thấy khó khi nấu nướng trong bếp của người khác.”

      "Trông ngon lắm. Vậy cái bếp này là của ai thế ?”

      “Thuê lại. Tôi dùng ngôi nhà này trong tháng.”

      Nàng chặt thịt gà và bảo Sandy rót rượu, thứ vang ngon từ California. Họ ngồi vào chiếc bàn kê trong cái góc ăn sáng, có thể nhìn ra biển và ngắm những ánh hoàng hôn cuối cùng.

      “Chúc sức khoẻ,” nàng và nâng cốc.

      “Chúc cho Patrick,” Sandy .

      “Vâng, cho Patrick.” Nàng hề có ý muốn ăn. Sandy đưa miếng lườn gà to tướng vào miệng.

      ấy thế nào ?”

      Sandy nhai vội vì muốn làm cho ngưòi phụ nữ xinh đẹp trẻ trung này phải ghê sợ với cái miệng nhồm nhoàm của mình. ngụm vang. Giấy ăn lau miệng. “Patrick ổn cả. Những vết bỏng lành lại. bác sĩ chỉnh hình vừa khám cho ấy ngày hôm qua và cần phải cấy ghép gì. còn sẹo trong vài năm, nhưng sau cùng cũng hết. Các y tá còn mang cả bánh ngọt cho ấy. Ông Thẩm phán mang đến bánh pizza. dưới nửa tá cảnh sát có vũ trang canh gác bên ngoài, bởi vậy tôi có thể là Patrick sung sướng hơn bất kỳ ai bị buộc vào tội tử hình.”

      “Đó là Thẩm phán Huskey phải ?”

      “Đúng, Karl Huskey. biết ông ấy à ?"

      . Nhưng Patrick thường về ông ấy. Họ là bạn bè tốt với nhau. Có lần Patrick với tôi rằng nếu như bị bắt, ấy hy vọng là chuyện đó xảy ra trong khi Karl Huskey vẫn còn là thẩm phán.”

      “Ông ấy sắp nghỉ hưu rồi,” Sandy . cũng còn là may, thầm nghĩ.

      “Ông ấy thể xử vụ Patrick phải ?" Nàng hỏi.

      “Đúng đấy. Ông ấy tự phải chọn cách đó.” Sandy gắp miếng thịt gà , và vẫn chỉ là ăn mình bởi lẽ nàng còn chưa hề động đến thìa dĩa. Nàng cầm cốc vang cao sát đầu, mắt nhìn xa xăm về phía những đám mây màu da cam và màu tím ở đằng chân trời.

      “Tôi xin lỗi. Tôi quên hỏi thăm về cha .”

      có tin tức gì. Tôi chuyện với cậu em trai cách đây ba tiếng, và vẫn biết gì hơn cả.”

      “Tôi xin lỗi, Leah. Giá mà tôi có thể làm được điều gì đó.”

      “Tôi cũng ước như vậy. tuyệt vọng. Tôi thể trở về nhà, cũng thể cứ ở đây mãi được.”

      "Tôi xin lỗi,” Sandy lần nữa, bởi vì còn biết gì hơn.

      tiếp tục ăn trong im lặng. Nàng chọc chọc đĩa cơm, mắt vẫn nhìn ra biển.

      “Ngon quá,” Sandy , lần thứ hai.

      “Cảm ơn,” nàng đáp với nụ cười buồn rầu.

      “Cha làm gì ?"

      “Ông là giáo sư đại học.”

      “Ở đâu vậy ?"

      “Rio. Đại học Thiên chúa giáo.”

      “Ông ấy sống ỏ đâu ?"

      “ Ở Ipanema, trong ngôi nhà mà tôi lớn lên.”

      Cha nàng là vấn đề nhạy cảm, nhưng ít nhất Sandy cũng có được những câu trả lời cho các câu hỏi của mình, và biết đâu, nó có thể khiến nàng nhiều hơn về người cha. hỏi thêm nữa, toàn là những câu hỏi chung chung và chẳng liên quan gì tới vụ bắt cóc kia.

      Nàng hề động đến thức ăn.

      Khi Sandy ăn xong, nàng hỏi, “Ông có muốn uống chút cà phê ?”

      “Có lẽ là chúng ta cần đến nó, có phải vậy ?”

      “Đúng vậy.”

      Họ dọn dẹp bàn ăn. Leah pha cà phê trong lúc Sandy ngó nghiêng ngôi nhà. Hai người gặp lại trong phòng ăn, nơi họ cùng uống cà phê và những lời xã giao qua lại cũng tới chỗ kết thúc. Họ ngồi đối diện qua mặt bàn.

      “Ông biết nhiều về trường hợp Aricia ?” Nàng hỏi.

      “Ông ta là người có chín mươi triệu đôla bị Patrick lấy , nếu như người ta có thể tin được vào báo chí. Ông ta từng là giám đốc của Platt & Rockland, và là người tố cáo Hãng này gian dối trong chuyện tiền bạc. Ông ta đệ đơn tố cáo theo luật. Platt & Rockland bị buộc tội chiếm đoạt chừng sáu trăm triệu đôla gì đó. Phần tiền, thưởng cho ông ta, theo luật, là mười lăm phần trăm. Các luật sư của ông ta là ở Hãng của Bogan, nơi bạn Patrick của chúng ta từng làm việc. Tất cả là thế. Những điểm cơ bản.”

      "Thế là tốt lắm rồi. Tất cả những gì tôi sắp với ông đều có thể được kiểm chứng bởi những tài liệu và những cuộn băng này. Chúng ta rà lại, bởi vì ông cần phải biết những tư liệu này cách đầy đủ.”

      biết đấy, tôi từng làm chán cái loại chuyện này rồi.” Sandy mỉm cười, còn nàng . còn những cố gắng nào cho chuyện khôi hài nữa.

      "Tố cáo của Aricia là lừa lọc ngay từ đầu." Nàng cách thận trọng; vội vã gì. Nàng đợi để Sandy tiếp nhận hết thông tin đó, cũng phải mất vài giây. “Benny Aricia là kẻ rất xảo quyệt, bày tính mưu để lừa dối cả Hãng của ông ta lẫn chính phủ. Ông ta có giúp đỡ của số luật sư rất có năng lực ở Hãng luật cũ của Patrick và số người có thế lực ở Oasinhtơn.”

      “Đó là Thượng nghị sĩ Nye, em họ của Bogan.”

      “Chủ yếu là ông ta. Nhưng, như ông biết, Thượng nghị sĩ Nye có ảnh hưởng đáng kể ở Oasinhtơn.”

      “Tôi có nghe thế.”

      “Aricia thận trọng bày tính mưu của ông ta rồi mang tới gặp Charles Bogan. Lúc đó Patrick chỉ là cổ đông mới và hề biết gì về Aricia. Các cổ đông kia được lôi kéo vào mưu này, tất cả, chỉ trừ có Patrick. Hãng luật đó thay đổi, và Patrick biết có điều gì đó khác . ấy bắt đầu tìm hiểu và nghe trộm, rồi sau cùng phát ra rằng người khách hàng mới tên là Aricia kia là nguyên nhân của tất cả. ấy kiên nhẫn, giả bộ như để ý tới chuyện gì, và trong suốt thời gian đó liên tục thu thập các chứng cứ. Nhiều chứng cứ đó nằm ở đây.” Nàng vừa câu đó vừa đặt tay lên chiếc thùng cáctông.

      “Hãy trở lại từ đầu,” Sandy . “Hãy giải thích vì sao lời tố cáo đó lại là lừa dối.”

      “Aricia điều hành Xưởng đóng tàu New Coastal ở Pascagoula. Đó là chi nhánh của Hãng Platt & Rockland.”

      "Tôi biết những chuyện đó. nhà thầu quân lớn với quá khứ hay ho gì, tai tiếng về chuyện làm tiền chính phủ.”

      “Đúng thế. Aricia lợi dụng quy mô của Hãng để thực mưu của ông ta. Xưởng New Coastal đóng các tàu ngầm hạt nhân lớp Expedition, và tất cả đều bội chi. Aricia quyết định làm cho tình hình xấu hơn nữa. New Coastal trình những hồ sơ lao động dối trá, hàng nghìn giờ lao động ma của những nhân viên chưa bao giờ tồn tại. Nó mua sắm nguyên liệu với giá bị đẩy lên khủng khiếp - mười sáu đôla cái bóng đèn, ba mươi đôla cái cốc uống nước, vân vân và vân vân. Danh mục này là vô tận.’’

      “Cái danh mục này có trong thùng các tông này ?”

      “Chỉ có những mặt hàng lớn. Các hệ thống rađa, tên lửa, các vũ khí khác và những thứ tôi chưa bao giờ nghe tới. Những cái bóng đèn kia chỉ là chuyện vớ vẩn. Aricia làm ở Hãng đó đủ lâu để biết chính xác làm thế nào để bị phát . Ông ta tạo ra cả đống giấy tờ, mà có chữ ký của mình. Platt & Rockland có sáu chi nhánh khác nhau liên quan tới những hợp đồng quân , và bởi vậy bộ phận văn phòng của Hãng kềnh càng cứ như cái sở thú. Aricia lợi dụng điều đó. Tất cả các phiếu đòi tiền ma mà ông ta đệ sang cho bên Hải quân đều được ký bởi ai đó bộ phận văn phòng. Ông ta thường ký các hợp đồng phụ để mua các nguyên vật liệu bị đẩy giá lên, và xin phép quan chức nào đó ở Hãng. Mọi chuyện đều dễ dàng trong bộ máy như vậy, nhất là với kẻ xảo quyệt như Aricia, người tính chuyện chơi lại chính Hãng của mình … Ông ta lưu giữ các hồ sơ rất tỉ mỉ, và sau này trao lại cho các luật sư của mình”.

      “Và Patrick vớ được chúng ?”

      số trong đó.”

      Sandy nhìn cái thùng với những nắp bên vẫn đóng kín. “Và cái này vẫn được cất giấu kể từ lúc ấy biến à ?”

      “Vâng.”

      ấy có bao giò trở lại để kiểm tra ?"

      .”

      “Còn ?”

      “Cách đây hai năm tôi có đến để gia hạn hợp đồng lưu giữ. Tôi có nhìn vào bên trong nhưng có thời gian để kiểm tra cụ thể. Lúc đó, tôi rất sợ hãi và lo lắng, hề muốn đến chút nào. Tôi tin rằng chẳng bao giờ cần đến những tài liệu này bởi vì ấy bao giờ bị bắt. Thế nhưng Patrick luôn tính trước.”

      Cái máu thẩm vấn trong Sandy suýt bùng ra với loạt những câu hỏi liên quan gì tới Aricia, nhưng kìm lại được. Thư thả, tự nhủ, đừng hấp tấp và có thể là những câu hỏi đó sau cùng cũng có câu trả lời.

      “Vậy là mưu của Aricia cũng đâu vào đấy, và vào thời điểm nào đó ông ta đến gặp Charles Bogan, nhân vật có người em họ có thế lực ở Oasinhtơn và ông thầy cũ là thẩm phán Liên bang. Bogan có biết chính Aricia gây ra chuyện bội chi ?"

      Nàng đứng dậy, với tay vào trong thùng và lấy ra cái máy ghi chạy bằng pin cùng hộp băng cátxét. Nàng chọn cuộn băng và ấn vào máy. Sandy thấy là nàng làm việc này nhiều lần rồi.

      “Nghe này,” nàng . “Tháng Mười năm 1991. Giọng đầu tiên là của Bogan, tiếp theo là Aricia. Aricia gọi điện tới và Bogan trả lời cú điện thoại này tại phòng họp ở tầng hai khu văn phòng của Hãng.”

      Sandy chống hai khuỷu tay dướn người về phía trước. Cuộn băng bắt đầu chạy.

      Bogan: Hôm nay, tôi nhận được cú điện thoại từ trong các luật sư ở New York của Platt. tay tên là Krasny.

      Aricia: Tôi biết thằng cha đó. tay New York điển hình đấy.

      Bogan: Phải, rất cởi mở. họ có thể có bằng chứng rằng ông biết về việc tính giá gấp đôi các màn hình Stalker mà New Coastal mua của Hãng RamTec. Tôi bảo đưa ra. phải chừng tuần nữa.

      Aricia: Yên tâm , Charlie. có cách nào mà họ có thể chứng minh được điều đó bởi lẽ tôi hề ký gì cả.

      Bogan: Nhưng ông biết phải ?

      Aricia: Tất nhiên là tôi biết. Tôi tính toán và khơi mào mà. Đó là trong những ý tưởng tuyệt vời của tôi đấy. Vấn đề của họ, Charlie, là ở chỗ họ thể chứng minh được. có tài liệu nào, có nhân chứng nào.

      Cuộn băng im bặt, và Leah , “vẫn cuộc đối thoại đó, chừng mười phút sau.”

      Aricia: Ông Thượng nghị sĩ thế nào ?

      Bogan: Khỏe. Hôm qua ông ấy gặp ông Bộ trưởng Hải quân.

      Aricia: Tình hình thế nào ?

      Bogan: Tốt. Ông biết đấy, họ là chỗ bạn bè cũ mà. Ông Thượng nghị sĩ bày tỏ mong muốn trừng phạt Platt & Rockland về tội tham lam, nhưng được gây phương hại tới đề án Expedition. Ông Bộ trưởng cũng muốn như vậy, và vận động để có trừng phạt cứng rắn đối với Platt & Rockland.

      Aricia: Ông Bộ trưởng có thể đẩy nhanh mọi chuyện lên được hả ?

      Bogan: Để làm gì ?

      Aricia: Tôi muốn nhận được khoản tiền trời ơi kia, Charlie. Tôi có thể cảm thấy nó. có thể ngửi thấy nó rồi đấy.

      Leah nhấn cái nút và cuộn băng dừng lại. Nàng lấy nó ra khỏi máy và để trở lại vào trong hộp. “Patrick khởi đầu việc ghi này vào đầu năm 91. Kế hoạch của họ là hất ấy ra khỏi Hãng vào cuối tháng Hai, với lý do là ấy thúc đẩy được công việc làm ăn.”

      “Cái thùng này đầy băng à ?”

      “Có sáu mươi cuộn, tất cả đều được Patrick biên tập lại cẩn thận, để ông có thể nghe hết trong ba giờ.”

      Sandy liếc nhìn đồng hồ.

      “Chúng ta còn nhiều việc phải làm,” nàng .

      John Grisham

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 28

      V iệc Paulo cầu có chiếc radiô bị từ chối, nhưng khi nhận ra rằng đơn giản là ông chỉ muốn được nghe nhạc họ mang tới cho ông cái máy ghi cũ kỹ và hai cuộn băng của Dàn nhạc Hội những người nhạc Rio. Nhạc cổ điển là thứ ông thích. Paulo mở vừa đủ nghe và lật qua đám tạp chí cũ, trong khi cầu của ông về sách vở còn được xem xét. Đồ ăn, cho đến lúc này, là quá đủ; có vẻ như họ muốn làm cho ông được vui lòng. Những kẻ cầm giữ ông là những người còn trẻ tuổi, làm việc cho ai đó mà Paulo biết là ông bao giờ thấy mặt được. Thực tế là nếu như họ có thả ông ra, đám trai trẻ này trốn biệt và bao giờ có thể tính tới chuyện truy tố ai.

      Ngày thứ hai của ông trôi qua chậm chạp. Eva quá khôn ngoan để lao vào cái bẫy của họ. ngày nào đó, điều này là có ý nghĩa. Và ông sẵn sàng chờ đợi chừng nào bọn họ có thể chờ đợi.

      oOo

      Ông Thẩm phán mang theo sẵn chiếc bánh pizza trong lần đến thăm thứ hai. Karl Huskey thích thú với lần gặp trước đến mức gọi cho Patrick từ hồi chiều để xem họ có thể gặp lại hay . Patrick rất muốn có bạn.

      Huskey lấy từ trong cái cặp của mình ra xấp thư và quẳng lên bàn làm việc của Luật sư Lanigan. “Nhiều người, hầu hết số ở tòa án, muốn gửi lời chào. Tôi bảo họ rằng họ có thể viết cho .”

      “Tôi nhận ra là mình còn có nhiều bạn bè đến thế đấy.”

      “Dĩ nhiên. Những tay cạo giấy này có quá nhiều thời giờ để viết thư. Đó gần như là những gì nhiều nhất mà họ có thể làm được.”

      “Cảm ơn.”

      Huskey kéo ghế lại gần giường Patrick và gác chân lên miệng ngăn kéo vẫn để chìa ra của cái bàn đêm. Patrick vừa xơi gần hai miếng pizza, và lúc nãy ngừng ăn.

      “Tôi sắp phải chính thức khước từ xét xử vụ này đấy,” Huskey với vẻ gần như là xin lỗi.

      “Tôi biết.”

      “Sáng nay, tôi chuyện khá lâu với Trussel. Tôi biết là thích thú gì ông ta, nhưng mà ông ta là thẩm phán giỏi. Ông ta sẵn lòng nhận vụ này."

      “Tôi muốn Thẩm phán Lanks.”

      “Biết thế, nhưng rủi là thể được. Lanks có rắc rối về huyết áp, và chúng tôi cố để ông ấy phải xử các vụ lớn. biết đấy, Trussel còn nhiều kinh nghiệm hơn cả Lanks và tôi cộng lại, đặc biệt là trong những án tử hình.”

      Patrick hơi sững người, hai mắt đột nhiên nhíu lại và đôi vai thoáng trĩu xuống khi ông bạn già hết câu đó. án tử hình. Điều đó làm chết lặng, giống như bao nhiêu lần khác, mỗi khi đứng lâu lâu trước gương. Huskey bỏ sót chi tiết bé nào. Như người ta thường , bất kỳ ai cũng có khả năng trở thành kẻ sát nhân, và Huskey từng chuyện với nhiều kẻ đó trong mười hai năm làm thẩm phán. Tuy nhiên, Patrick lại là người bạn đầu tiên của ông phải đứng trước cái án tử hình.

      “Sao ông lại toan nghỉ hưu thế ?” Patrick hỏi.

      “Những lý do thông thường thôi. Tôi mệt mỏi rồi, và nếu ra bây giờ chẳng bao giờ còn có thể làm được điều đó. Bọn trẻ con sắp đến lúc vào đại học, và tôi cần phải làm ra nhiều tiền hơn.” Huskey ngừng lại giây, rồi hỏi, “Xin tò mò chút, làm sao mà biết là tôi toan nghỉ hưu hả ? Tôi có tuyên bố gì đâu.”

      “Tin đồn khắp ấy mà.”

      “Tới tận Braxin ư ?”

      “Tôi có gián điệp, Karl.”

      “Ai đó ở đây à ?”

      . Đương nhiên là . Tôi đâu dám liều lĩnh tiếp xúc với bất kỳ ai ở đây.”

      “Vậy là ai đó ở Braxin phải ?”

      “Phải, luật sư mà tôi gặp.”

      “Và với ta mọi chuyện ư ?”

      ta. Phải, tôi tất cả.”

      Huskey gõ gõ những ngón tay, và , “Chuyện có vẻ hay đấy ”

      “Tôi xin có lời khuyên là lần sau tới lượt ông hãy trốn tới đó.”

      “Tôi nhớ lời khuyên này. luật sư đó giờ ở đâu ?”

      “Quanh đâu đây thôi, tôi nghĩ vậy.”

      “Giờ tôi hiểu. ấy phải là người giữ chỗ tiền kia.”

      Patrick cười vang. Sau cùng tảng băng tan. “Ông muốn biết về chỗ tiền đó hả, Karl?”

      “Tất tật. đánh cắp nó như thế nào ? nó ở đâu ? Còn lại được bao nhiêu ?”

      “Ông nghe được những gì ở tòa án hả ?”

      “Trời, cả trăm thứ tin đồn. Nhưng tôi thích nhất là cái tin rằng nhân đôi được số tiền đó lên và cất giấu nó trong các nhà băng ở Thụy Sĩ, và rằng nhàn cư ở Braxin, và trong ít năm nữa còn việc gì để làm ngoài việc chơi với cái đống tiền của mình.”

      “Nghe cũng được đấy.”

      “Có nhớ Bobby Doak, cái con chồn mặt rỗ chuyên lo các vụ ly hôn với giá chín mươi chín đôla và bực bội với bất kỳ ai đòi hơn cái giá đó ?”

      “Rồi, tay đó quảng cáo cả trong các bản tin của nhà thờ.”

      “Chính ta. Ngày hôm qua, ngồi uống cà phê trong phòng thư ký và ba hoa về chuyện được nghe nguồn tin tay trong rằng phung phí số tiền đó vào ma túy và những làng chơi trẻ tuổi, và đó là lý do vì sao phải sống như gã nông dân ở Braxin.”

      "Doak thế ."

      Phút thoải mái qua nhanh và Patrick bắt đầu im lặng. Huskey chịu để lỡ cơ hội. “Vậy chỗ tiền đó ở đâu ?”

      “Tôi thể được, Karl.”

      “Còn lại bao nhiêu ?"

      tấn.”

      “Nhiều hơn số mà đánh cắp chứ ?”

      “Nhiều hơn số mà tôi lấy , đúng thế.”

      làm thế nào ?"

      Patriek tung chân ra khỏi giường, ra cửa. Cửa vẫn đóng kín. vươn vai, duỗi chân, và vớ cái chai nước lên tu ngụm. Thế rồi ngồi xuống mép giường và nhìn thẳng vào Karl.

      “Tôi gặp may,” , gần như thầm . Nhưng Karl vẫn nghe từng . “Tôi vẫn ra , Karl, dù có hay có chỗ tiền ấy. Tôi biết là tiền được chuyển đến Hãng, và tôi lên kế hoạch để chiếm lấy. Thế nhưng, nếu như chuyện thành tôi cũng vẫn ra . Tôi thể chịu thêm ngày với Trudy. Tôi ưa cái công việc của mình, và dù sao chăng nữa tôi cũng sắp bị Hãng đuổi ra đường. Bogan và những kẻ ở đó mưu toan vụ lừa đảo lớn, và tôi là người bên ngoài duy nhất biết điều đó.”

      “Lừa đảo nào ?”

      "Tố cáo của Aricia. Chúng ta chuyện đó sau. Bởi vậy tôi từ từ tính toán việc ra của mình, và tôi gặp may. Vận may theo bên tôi cho tới cách đây hai tuần. May mắn đến thể tin nổi.”

      “Chúng ta tới cái lễ an táng kia.”

      “Phải. Tôi trở lại cái căn hộ mà tôi thuê ở Orange Beach. Tôi ở đó vài ngày, ở tịt trong nhà, nghe băng để ôn lại vốn tiếng Bồ Đào Nha. Tôi cũng dành ra nhiều thời giờ để sắp xếp lại những câu chuyện mà tôi ghi lại được ở văn phòng Hãng. Có rất nhiều tư liệu cần sắp xếp lại, và tôi phải làm việc cật lực. Ban đêm, tôi dạo hàng giờ bờ biển, tập cho đến toát mồ hôi để cố làm giảm cân càng nhiều càng tốt. Tôi gần như ăn uống gì.”

      “Những tư liệu gì vậy ?”

      “Hồ sơ về Aricia. Trước kia, tôi vốn biết vài điều cơ bản về tầu bè và đột nhiên thấy mình cần phải trở thành thủy thủ cừ. Tôi bèn thuê chiếc thuyền, và ngay lập tức tôi lênh đênh náu mặt nước.”

      “Ở đây ư ?"

      “Phải. Tôi thường thả neo gần đảo Ship, và ngắm bờ biển Biloxi.”

      “Vì sao ?”

      “Tôi gắn thiết bị nghe trộm ở văn phòng Hãng. Karl. Tất cả các điện thoại, các bàn làm việc, trừ của Bogan. Tôi còn đặt cả micrô trong phòng vệ sinh nam nằm giữa phòng Bogan và phòng Vitrano ở tầng . Các micrô này truyền tín hiệu tới ăngten giấu căn áp mái. Cái máy thu ở đó lại phát tín hiệu tới môt ăngten chảo đường kính cỡ gần ba chục phân mà tôi đặt thuyền. Bộ thiết bị này là thứ đại, kỹ thuật cao. Tôi mua nó thị trường đen ở Rôm, tốn khá nhiều tiền đấy. Với ống nhòm, tôi có thể thấy cái ống khói nóc tòa nhà của Hãng, và các tín hiệu được thu rất dễ dàng. Mọi cuộc trò chuyện trong tầm thu của micrô nào đó đều được chuyển ra thuyền cho tôi. Tôi ghi tất cả, rồi ban đêm sắp xếp lại. Tôi biết họ ăn trưa ở đâu và tâm trạng các bà vợ của họ thế nào. Tôi biết tất cả.”

      thể tin nổi.”

      “Ông cần phải được nghe họ cố tỏ ra trịnh trọng thế nào sau tang lễ của tôi. điện thoại, khi nhận những những lời chia buồn, họ tỏ thái độ ủ ê thích hợp. Thế nhưng sau đó, họ đùa cợt về cái chết của tôi. Cái chết đó giúp họ tránh được cuộc đối đầu bẩn thỉu với tôi. Bogan được chọn làm ngưòi thông báo cho tôi rằng tôi bị buộc thôi việc ở Hãng. Ngày hôm sau đám tang, ông ta và Havarac uống rượu Scotch với nhau trong phòng họp và cười cợt về việc tôi may mắn được chết vào thời điểm thích hợp đến thế."

      có giữ những cuộn băng đó ?”

      “Tất nhiên. Nghe này. Tôi còn có cuộn băng ghi lại cuộc chuyện giữa Trudy và Doug Vitrano, trong phòng làm việc cũ của tôi, chỉ vài giờ trước cái lễ tang kia, khi họ mở tủ của tôi và bất ngờ tìm thấy cái bản hợp đồng bảo hiểm sinh mạng trị giá hai triệu đôla. Điều đáng vui đấy chứ. Trudy mất tới hai mươi giây mới cất tiếng nổi, "Khi nào tôi lấy được số tiền này hả ?"

      “Lúc nào tôi có thể được nghe chúng ?”

      “Tôi chưa biết, sắp thôi. Có hàng trăm cuộn băng. Công việc biên tập lại mất mười hai giờ ngày trong vài tuần lễ liền. Ông thử tưởng tượng tới tất cả những cú điện thoại mà tôi phải nghe xem.”

      “Có lúc nào họ nghi ngờ ?”

      “Có lẽ là . Rapley có lần với Vitrano rằng thời điểm mà tôi chết đáng kinh ngạc, bởi lẽ tôi mới chỉ mua bảo hiểm sinh mạng với khoản bồi thường hai triệu trước đó có tám tháng trời. Và có hay hai lời bình luận đó về những biểu hơi lạ lùng của tôi, nhưng toàn là vô bổ. Họ quá vui mừng rằng tôi làm vướng lối của họ nữa.”

      có nghe trộm điện thoại của Trudy ?”

      “Tôi nghĩ tới chuyện đó, nhưng mà mua việc làm gì ? Lối cư xử của ta là có thể đoán trước. ta có ích gì cho tôi cả.”

      “Nhưng Aricia có thể.”

      “Chắc chắn rồi. Tôi biết mọi nước của họ trong vụ Aricia. Tôi biết là khoản tiền kia được chuyển ra nước ngoài. Tôi biết nhà băng nào và bao giờ tiền được chuyển đến.”

      “Vậy làm sao mà đánh cắp được nó ?”

      “Cũng lại nhờ rất nhiều may mắn. Mặc dù Bogan là người quyết định, nhưng Vitrano làm hầu hết chuyện giao dịch với các chủ nhà băng. Tôi bay tới Miami với bộ giấy tờ giả, theo đó tôi là Doug Vitrano. Tôi có số thẻ bảo hiểm xã hội của ông ta và những tư liệu thiết yếu khác nữa. Cái thằng cha làm giấy tờ giả cho tôi đó có bộ sưu tập hàng trăm khuôn mặt đặt sẵn trong máy tính và ông chỉ cần cho biết ông thích khuôn mặt nào, vậy thôi, thế là khuôn mặt đó lập tức có cái bằng lái xe của ông. Tôi chọn khuôn mặt hao hao cả tôi và Vitrano. Từ Miami, tôi bay tới Nassau, và đó là nơi khó khăn nhất. Tôi tới nhà băng Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Tay chủ chốt mà Vitrano có liên hệ tên là Graham Dunlap. Tôi chìa tất cả những thứ giấy tờ giả mạo của mình ra, kể cả nghị quyết của hội đồng cổ đông, giấy có tiêu đề của Hãng hẳn hoi, theo đó tôi có bổn phận chuyển số tiền đó nơi khác ngay khi vừa nhận được. Dunlap ngờ là đích thân ngài Vitrano đến và rất ngạc nhiên, thậm chí là sửng sốt với việc Hãng cử người tới tận nơi chỉ vì việc rất thông thường như vậy. Ông ta pha cà phê mời tôi và còn bảo thư ký mang bánh ngọt tới nữa. Tôi ăn bánh ngay trong phòng làm việc của ông ta bức điện chuyển tiền kia được gửi tới.”

      “Ông ta hề nghĩ tới việc gọi điện cho Hãng à?”

      . Và nghe này, Karl, tôi sẵn sàng chuồn ngay. Nếu như Dunlap có mảy may ngờ vực, hẳn là tôi phải xử lý ông ta, chạy ra khỏi nhà băng, lên tăcxi và lao ra sân bay. Tôi có sẵn trong túi mình ba chiếc vé cho ba chuyến bay khác nhau.”

      “Liệu đâu được ?”

      “Trời ạ, nên nhớ rằng tôi vẫn là người chết cơ mà. Có thể là tới Braxin. Tôi kiếm việc làm chẳng hạn như pha rượu ở quầy bar và dành phần cuộc đời còn lại của mình những bãi biển. Tóm lại, kể cả lấy được tiền tôi cũng vẫn cứ . Thế nhưng tôi lấy được, và họ bắt đầu truy đuổi. Bởi vậy mà lúc này tôi lại ở đây. Dù thế nào chăng nữa Dunlap cũng có những câu hỏi chính đáng và tôi trả lời trôi chảy. Ông ta xác nhận là điện chuyển tiền đến, và ngay lập tức tôi cho chuyển nó di, tới nhà băng ở Manta.”

      “Tất cả à ?”

      “Gần như là tất cả. Dunlap hơi lưỡng lự chút khi nhận ra rằng tất cả chỗ tiền đó rời khỏi nhà băng của mình. Tôi hồi hộp kinh khủng. Ông ta nhắc gì đó về khoản phí cho dịch vụ dành cho ngân hàng mình và tôi hỏi thông thường là bao nhiêu. Ông ta lập tức trở thành con cáo ranh mãnh, rằng năm mươi nghìn là thích hợp, và tôi đồng ý. Năm mươi nghìn đôla được để lại trong tài khoản và sau đó được chuyển sang cho Dunlap. Cái nhà băng đó nằm ở trung tâm Nassau … ”

      “Từng ở trung tâm Nassau. Sáu tháng sau khi bị cướp mất khoản tiền đó, nó đóng cửa.”

      “Phải, tôi có nghe . đáng tiếc. Bước ra khỏi nhà băng, khi chân tôi chạm xuống mặt hè phố là phải cố lắm mới khỏi chạy như người điên. Tôi những muốn hét váng lên và bay từ phố này qua phố khác, nhưng kiềm chế được. Tôi nhảy lên chiếc tăcxi, với người tài xế rằng tôi rất vội. Chuyến bay Atlanta cất cánh sau đó giờ. Chuyên Miami phải chờ giờ rưỡi. Chuyến La Guardia đón hành khách lên, vậy là tôi bay New York.”

      “Với chín mươi triệu đôla.”

      “Trừ năm mươi nghìn cho Dunlap. Đó là chuyến bay dài nhất trong đời tôi, Karl. Tôi làm ba ly Martini và vẫn cảm thấy gì ngoài hồi hộp. Cứ nhắm mắt là tôi lại thấy các nhân viên hải quan với những khẩu tiểu liên đợi sẵn tại cửa ra. Tôi cứ nghĩ là Dunlap trở nên ngờ vực và gọi điện cho Hãng, và bằng cách nào đó họ lần theo tôi được tới sân bay và biết tôi chuyến bay đó. Cả đời, chưa bao giờ tôi lại bám lấy khoang máy bay đến thế. ánh đèn máy ảnh nhoáng lên khi tôi bước ra đến khu vực cửa đón, và tôi nghĩ, thế là hết ! Họ vồ được mình rồi ! Hóa ra đó là đứa trẻ với chiếc máy điện tử. Tôi thực lao vội vào phòng vệ sinh, và ngồi trong toalét tới hai mươi phút. Cạnh chân tôi là cái túi bạt với tất cả tài sản của mình.”

      “Đừng có quên chín mươi triệu đôla kia.”

      “Phải.”

      “Số tiền đó được chuyển đến Panama như thế nào ?"

      “Làm sao mà ông biết là nó được chuyển đến Panama cơ chứ ?”

      “Tôi là thẩm phán, Patrick. Cảnh sát với tôi. Đây là thành phố mà.”

      “Chỉ thị chuyển tiền được đưa ra từ Nassau. Chỗ tiền đó được chuyển đến tài khoản mới ở Manta, rồi nhanh chóng được chuyển tiếp tới Panama.”

      “Sao lại thành thạo cái việc chuyển tiền đó đến thế ?"

      “Cũng phải nghiên cứu chút ít. Tôi tìm hiểu vấn đề này trong năm. Karl, hãy cho tôi biết ông nghe được tin về vụ mất tiền đó vào khi nào vậy ?”

      Karl cười phá lên và ngả người ra. Ông ta chắp hai tay ra sau gáy. “Trời, các bạn bè của ở Hãng giấu nổi cái vụ làm ăn kia của họ.”

      “Tôi ngạc nhiên đấy.”

      “Thực tế là cả thành phố biết họ sắp giàu to. Họ rất nghiêm chỉnh trong việc giữ bí mật thế nhưng lại tiêu tiền như phá. Havarac mua chiếc Mercedes đen nhất và lớn nhất từng được sản xuất ra từ trước tới nay. Tay kiến trúc sư của Vitvano bước vào giai đoạn cuối cùng của việc thiết kế ngôi nhà mới cho họ — rộng hàng nghìn mét vuông. Rapley ký hợp đồng mua chiếc thuyền buồm dài hai mươi lăm mét, rằng ông ta tính tới chuyện nghỉ hưu. Tôi có nghe đôi lần tới chuyện họ toan mua cả chiếc máy bay phản lực riêng nữa cơ. Quanh đây khó mà giấu được cái khoản thù lao ba mươi triệu đôla kia lắm, mà họ cũng chẳng thực muốn giấu. Họ còn rất muốn người ta biết cơ mà.”

      “Quả là thế .”

      làm vụ đó vào ngày thứ năm, đúng nào ?"

      “Đúng. Ngày 26 tháng Ba.”

      “Ngày hôm sau, tôi chuẩn bị tiến hành xử vụ án dân trong số các luật sư nhận được cú điện thoại từ văn phòng Hãng. Đó là tin có trục trặc trong vụ làm ăn lớn tại Hãng Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac và Lanigan. Chỗ tiền đó biến mất. Tất cả. Bị đánh cắp ở nước ngoài.”

      “Người ta có nhắc đến tên tôi ?”

      “Ngày đầu . Nhưng cũng chẳng bao lâu sau. Có tin rằng các camêra bảo vệ ở nhà băng ghi lại được hình ai đó hơi giống với . Thế rồi người ta thêm mắm thêm muối, và rồi tin này loang ra khắp thành phố.”

      “Ông có tin là tôi gây ra vụ đó ?”

      “Lúc đầu, tôi quá kinh ngạc đến mức tin bất cứ chuyện gì. Tất cả chúng tôi đều thế cả. Chúng tôi chôn cất , cầu nguyện. thể nào tin được. Thế nhưng, vài ngày trôi qua, cơn sốc qua và các lời giải hình thành. Bản di chúc mới, hợp đồng bảo hiểm sinh mạng, cái thi thể bị thiêu rụi - chúng tôi bắt đầu ngờ ngợ. Thế rồi họ phát ra rằng cái văn phòng của Hãng luật đầy những thiết bị nghe trộm. FBI thẩm vấn tất cả những người ở quanh đây. tuần sau hầu hết mọi người đều tin rằng gây ra vụ đó.”

      “Ông có tự hào về tôi ?”

      “Tôi là tôi tự hào. Có lẽ là kinh ngạc. Hoặc là sửng sốt. Dù thế nào cũng còn cái xác chết ở đó kia mà. Thế rồi, tôi bàng hoàng cả người.”

      chút ngưỡng mộ nào ư ?”

      “Tôi nhớ là có cảm giác đó, Patrick. , người vô tội bị giết hại để có thể đánh cắp số tiền kia. Bên cạnh đó, còn bỏ lại người vợ và đứa con .”

      “Người vợ được khoản kếch xù. Đứa trẻ phải con tôi.”

      “Lúc đó tôi đâu có biết vậy. ai biết. , tôi nghĩ là có ai ngưỡng mộ cả.”

      “Đám cổ đông của Hãng sao ?”

      ai nhìn thấy họ trong mấy tháng ròng. Họ bị Aricia kiện. Tiếp theo đó còn những khiếu kiện khác nữa. Họ tiêu xài quá mức, đến chỗ phá sản. Những vụ ly dị, rượu chè, kinh khủng. Họ tự hủy diệt, như trong các cuốn tiểu thuyết vậy.”

      Patrick leo lên giường và ngồi khoanh chân. cười cách cay độc. Huskey đứng dậy đến bên cửa sổ. “ ở New York trong bao lâu ?” Ông vừa hỏi vừa nhìn qua khe tấm rèm cửa.

      “Chừng tuần. Tôi muốn để đồng trong số tiền đó quay lại Mỹ, bởi vậy tôi thu xếp chuyển nó tới nhà băng ở Toronto. Cái nhà băng ở Panama kia là chi nhánh của Ngân hàng Ontario, bởi vậy tôi cần bao nhiêu chuyển bấy nhiêu rất dễ dàng.”

      bắt đầu ăn tiêu chứ ?”

      nhiều. Vào lúc đó, tôi làm công dân Canada, với giấy tờ hoàn hảo, người từ Vancouver chuyển tới. Tôi mua căn hộ và làm thẻ tín dụng. Tôi tìm thầy dậy tiếng Bồ Đào Nha và học sáu giờ đồng hồ ngày. Tôi châu u mấy bận để tấm hộ chiếu của tôi được sử dụng và được kiểm chứng. Mọi thứ đều ngon lành cả. Sau ba tháng, tôi rao bán cái căn hộ đó và Litxbon, học tiếng ở đó thêm vài tháng nữa. Rồi vào ngày 5 tháng Tám năm 1992, tôi bay São Paulo.”

      “Bắt đầu những ngày tự do của .”

      “Hoàn toàn tự do, Karl. Tôi xuống tới thành phố đó với hai cái túi . Ngồi lên chiếc tăcxi và, rất nhanh, tôi biến mất vào trong cái biển hai mươi triệu con người ở đó. Trời mưa và tối, tắc đường, và tôi ngồi trong cái xe tăcxi đó, tự nhủ rằng ai thế giới này có thể biết tôi ở đâu. Đó là tự do tuyệt đối, hề bị câu thúc gì hết. Tôi nhìn ngắm gương mặt của những người vội vã lại hai bên đường phố, và nghĩ rằng từ lúc này trở mình cũng người trong số họ. Tôi, lúc bấy giờ, là công dân Braxin tên là Danilo, và tôi bao giờ là bất kỳ ai khác nữa.”

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 29

      S andy ngủ được chừng ba tiếng cái đệm cứng nhắc trong căn gác xép nằm đâu đó phía bên phòng đọc, xa chỗ của nàng, và tỉnh giấc khi những tia nắng sớm chiếu qua các tấm rèm cửa. Sáu giờ rưỡi. Họ lời chúc ngủ ngon vào lúc ba giờ, sau bảy tiếng đồng hồ rà soát kỹ càng lại các tài liệu và lắng nghe hàng chục cuộc trao đổi bí mật mà thể ngờ là Patrick ghi lại được.

      tắm rửa và mặc quần áo, rồi tìm xuống bếp, nơi Leah ngồi ở bàn ăn sáng với bình cà phê mới pha cùng vẻ mặt tỉnh táo đáng ngạc nhiên. Nàng phết mứt lên bánh mì cho Sandy trong lúc ngó qua mấy tờ báo. Lúc này, Sandy sẵn sàng lên đường trở lại văn phòng để tự mình xem xét đống hồ sơ về Aricia.

      “Có tin tức gì về cha ?” hỏi bằng giọng nhàng đầu ngày.

      . Nhưng mà tôi cũng thể nào gọi điện từ đây được. Tôi chợ và dùng điện thoại công cộng.”

      “Tôi cầu nguyện cho ông ấy.”

      “Cảm ơn.”

      Họ chất toàn bộ đống hồ sơ về Aricia vào trong cốp xe của Sandy, rồi lời tạm biệt. Nàng hứa gọi lại cho trong vòng hai mươi bốn giờ. Nàng chưa đâu ngay. Tình thế của thân chủ của họ từ phức tạp chuyển sang cấp bách.

      Bầu khí buổi sáng mát lạnh. Dù sao cũng là tháng Mười và ngay cả vùng bờ biển này cũng bắt đầu thấy hơi hướng của mùa thu. Nàng khoác lên người chiếc áo có mũ chùm đầu và dạo ra ngoài bờ biển, chân để trần, tay thọc trong túi còn tay kia vẫn cầm ly cà phê. Nàng giấu mặt sau cặp kính đen, điều làm nàng hơi khó chịu. Bãi biển vắng tanh vắng ngắt. Vì sao mà nàng vẫn buộc phải giấu mặt cơ chứ?

      Giống như tất cả những người dân Rio khác, nàng dành phần rất nhiều cuộc sống của mình những bãi biển, nét văn hóa. Ngôi nhà tuổi thơ của nàng chính là cái căn hộ của cha nàng ở Ipanema, khu cư dân đẹp nhất trong vùng Rio, nơi mà mọi đứa trẻ đều lớn lên bãi biển. Nàng quen với những chặng dạo dài theo mép nước mà lại bị vây quanh bởi cả triệu người tắm nắng và chơi đùa vui vẻ. Cha nàng là trong những người đầu tiên tập hợp những nỗ lực chống lại phát triển ngừng của Ipanema. Ông chịu nổi tăng dân số ồ ạt cùng việc xây dựng bừa bãi, và làm việc mệt mỏi với các nhóm hoạt động tương tự khác trong cộng đồng.

      Những hoạt động như vậy ngược lại với thái độ điển hình của người Rio là cứ để cuộc sống như nó vốn có, thế nhưng, với thời gian, lại được vì nể và thậm chí là được hoan nghênh. Về phần mình, Eva cũng dành thời gian cho các nhóm bảo tồn trong các vùng Tpanema và Leblon.

      Mặt trời khuất vào sau những đám mây, và gió bắt đầu mạnh lên. Nàng quay trở về ngôi nhà nghỉ trong khi những con hải âu vẫn bám theo và kêu quang quác đầu. Nàng đóng tất cả các cửa sổ, khóa cửa nhà, rồi lái xe tới siêu thị cách đó chừng hai dặm để mua hoa quả và nước gội đầu, và cũng là để tìm buồng điện thoại công cộng.

      Thoạt tiên, nàng để ý tới người đàn ông đó, và sau cùng, khi nàng bắt đầu chú ý dường như ta đứng cạnh nàng từ bao giờ rồi vậy. Lúc nàng cầm chai nước gội đầu lên ta khịt mũi, vẻ như người bị cảm lạnh. Nàng quay người, liếc mắt sau cặp kính đen, và chợt giật mình khi cảm thấy cái ánh mắt đó. ta chừng ba bốn mươi gì đó, da trắng, cạo râu, nhưng ngoài ra nàng còn kịp để ý gì nữa.

      ta nhìn chằm chặp vào nàng với cặp mắt ngầu ngầu màu xanh xám, khuôn mặt sạm nắng. Nàng lạnh lùng bỏ , cầm theo chai nước gội đầu. Có lẽ đây cũng chỉ là người dân địa phương, kẻ bệnh hoạn vô hại hay bất chợt xuất làm cho những người nghỉ mát phải giật mình. Có khi tất cả mọi người trong cửa hàng này đều biết tên của ta và đều lượng thứ, bởi lẽ ta chưa bao giờ làm thương tổn đến con sâu cái kiến nào cũng nên.

      Vài phút sau, nàng lại nhìn thấy ta, lần này nấp sau tủ bánh, giấu mặt sau chiếc bánh pizza, nhưng cặp mắt ngầu ngầu vẫn theo dõi từng bước của nàng. Vì sao ta lại nấp và giấu mặt nhỉ? Nàng để ý là ta mặc quần cộc và dép.

      Đột nhiên, nàng cảm thấy hoảng sợ, trống ngực đập thình thịch và hai chân như run lên. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là bỏ chạy, thế nhưng nàng cố kiềm chế để nán lại. Cho dù ta là ai nàng cũng bị phát , và việc cứ tiếp tục quan sát chừng nào còn quan sát nàng chỉ là điều có lợi mà thôi. Ai mà biết được khi nào nàng có thể lại gặp phải ? Nàng loanh quanh trong gian hàng mỹ phẩm, rồi nhanh sang khu vực thực phẩm, và trong lúc lâu nhìn thấy đâu nữa. Thế rồi, nàng lại nhìn thấy đứng quay lưng lại phía nàng, tay cầm bình sữa.

      Sau đó ít phút, qua những cửa sổ kính tấm lớn ở mặt trước, nàng thấy qua khu đỗ xe, đầu hơi nghẹo sang bên để chuyện bằng điện thoại di động, tay cầm gì cả. Cái bình sữa kia đâu rồi? Nàng có thể chạy ra bằng lối cửa sau, thế nhưng xe của nàng lại để ở đằng trước. Nàng cố bình thản trả tiền mua hàng, nhưng tay run lên khi nhận tiền trả lại.

      Có khoảng ba chục cái xe, kể cả chiếc xe thuê của nàng, đậu trong bãi đỗ, và nàng biết là thể nào kiểm tra hết nổi. Và nàng cũng muốn làm vậy. ở trong cái xe nào đó. Đơn giản là nàng chỉ muốn rời bị bám theo. Nàng nhanh chóng chui vào xe, ra khỏi bãi, và chạy về hướng ngôi nhà nghỉ bờ biển, mặc dù biết rằng bao giờ nàng còn có thể trở lại đó nữa. Nàng chạy chừng nửa dặm, rồi đột ngột quay đầu xe lại, vừa kịp để nhìn thấv ta bám theo, cách sau ba xe khác trong chiếc Toyota còn mới. Cặp mắt màu xanh xám của ta quay vào tích tắc cuối cùng. Kỳ cục , nàng nghĩ, thèm che giấu. Mọi thứ vào lúc đó đều có vẻ kỳ cục. là kỳ cục khi mà nàng phải lái xe xa lộ hề quen thuộc ở nước ngoài, với tấm hộ chiếu giả, theo đó nàng là người nào đó mà nàng hề muốn đội lốt tí nào, và đến đâu nàng cũng còn chưa biết. Đúng vậy, tất cả đều kỳ cục, lẫn lộn, đầy đe dọa, và điều Eva cần và muốn đến chết lúc này là được gặp Patrick để nàng có thể rầy la cả tiếng đồng hồ, và đấm cho mấy đấm nữa. Đây phải là điều được thỏa thuận giữa nàng và . Việc Patrick bị truy lùng vì quá khứ của chuyện, nhưng nàng có làm điều gì sai trái. Đó là chưa tới cha nàng.

      Là người Braxin, nàng thường lái xe với chân giữ ga và chân kia hờm sẵn bàn phanh, và mật độ giao thông tuyến đường dọc bờ biển lúc này rất cần lối lái xe đó của nàng. Thế nhưng, nàng phải bình tĩnh. Đừng có hoảng hốt khi chạy trốn, Patrick vậy nhiều lần. Phải suy nghĩ, quan sát và tính toán.

      Nàng quan sát những chiếc xe chạy phía sau, và tuân thủ luật giao thông.

      “Luôn luôn phải biết mình ở đâu,” Patrick từng thế. Nàng nghiền ngẫm những tấm bản đồ đường xá trong nhiều giờ. Lúc này, nàng quay xe chạy theo hướng bắc và dừng lại tại cây xăng để xem có ai bám theo . có gì cả. Người đàn ông có cặp mắt màu xanh xám kia có ở phía sau nàng, nhưng điều đó chưa đủ để nàng cảm thấy thoải mái được. ta biết là bị nàng nhìn thấy. Đơn giản là ta có thể báo tin bằng điện thoại di động và giờ đây cả nhóm còn lại của bọn họ theo dõi nàng.

      giờ sau, nàng vào nhà ga sân bay ở Pensacola và phải đợi tám mươi phút để có chuyến bay Miami. Với nàng bất kỳ chuyến bay nào cũng được cả, nhưng Miami là chuyến bay sớm nhất. Nàng ngồi đợi trong quán cà phê, vờ xem cuốn tạp chí và quan sát mọi biến động xung quanh. nhân viên bảo vệ có vẻ khoái được ngắm nghía nàng, và nàng thấy khó mà có thể để mắt tới ta được. Vả lại, nhà ga sân bay lúc này chỉ có mấy bóng người.

      Chuyến bay Miami được thực bởi chiếc máy bay phản lực cánh quạt cỡ , và dường như nó bay rất lâu phải. Mười tám trong số hai mươi bốn ghế bị bỏ trống, và năm hành khách kia có vẻ đe dọa gì. Nàng thậm chí còn có thể chợp mắt được chút.

      Tại Miami, nàng ngồi mình chừng giờ trong phòng nghỉ lớn của sân bav, uống nước và nhìn dòng người đến và . Tại quầy vé của Hãng Varig, nàng mua chiếc vé hạng nhất São Paulo, chiều. Nàng cũng biết là vì sao nữa. São Paulo phải là nhà, nhưng chắc chắn đó là hướng đúng. Có lẽ nàng trú ngụ ở đó ít ngày, trong khách sạn tử tế. Nàng được gần cha hơn, cho dù là ông ở đâu. Các chuyến bay liên tiếp bay hàng trăm nơi. Tại sao lại thể về thăm đất nước của nàng được chứ ?

      Như thường lệ, FBI báo động cho các nhân viên hải quan và xuất nhập cảnh, cũng như cho các Hãng hàng . Thông báo này của FBI đề cập cụ thể đến phụ nữ trẻ, ba mươi mốt tuổi, sử dụng hộ chiếu Braxin, tên là Eva Miranda nhưng có khả năng dùng tên giả. Sau khi biết về cha nàng việc kiếm ra cái tên của nàng chỉ là việc đơn giản. Vào lúc mà Leah Pires bước qua cửa kiểm soát hộ chiếu ở sân bay quốc tế Miami, nàng vẫn còn tìm kiếm những kẻ bám theo ở phía sau mà ngờ rằng những rắc rối chờ nàng ở phía trước.

      Tấm hộ chiếu mang tên Leah Pires của nàng tỏ ra hoàn toàn đáng tin cậy trong suốt hai tuần lễ qua. Thế nhưng, tay nhân viên hải quan này đọc bản thông báo kia trước đó giờ trong khi nghỉ ngơi với ly cà phê. ta nhấn nút báo động cái máy kiểm tra trong khi xét nét cách rất từ tốn từng chữ tấm hộ chiếu. thận trọng này lúc đầu chỉ gây khó chịu chút, nhưng rồi Leah nhận ra rằng có chuyện gì đó ổn. Các hành khách ở những cửa khác qua nhanh chóng, chỉ phải hơi chậm lại đủ để mở hộ chiếu ra và nhận lại những cái gật đầu chấp thuận. giám sát viên mặc chiếc áo khoác màu xanh đen biết từ đâu xuất và hội ý với tay nhân viên hải quan. “Bà có thể vào đây chút được , thưa bà Pires ?” Ông ta lịch mời nhưng ràng là còn để chỗ cho ai từ chối.

      “Có vấn đề gì ư ?" Nàng căn vặn.

      hẳn thế. Chỉ vài câu hỏi.” Ông ta ra ý chờ nàng. lính gác mặc quân phục tay cầm dùi cui, súng đeo bên hông cũng chờ đợi. Tay giám sát viên giữ hộ chiếu của nàng, cả chục hành khách phía sau cũng đưa mắt nhìn họ.

      “Những câu hỏi về chuyện gì cơ chứ ?" Nàng vừa hỏi vừa bước theo tay giám sát viên và người lính gác tới cánh cửa thứ hai.

      “Chỉ vài câu hỏi,” ông ta nhắc lại, tay mở cửa và đưa nàng vào trong căn phòng có ô cửa sổ nào. phòng tạm giữ. Nàng để ý cái tên Rivera tấm biển đeo ngực áo, nhưng trông ông ta có vẻ gốc Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha.

      “Trả hộ chiếu cho tôi,” nàng cầu ngay sau khi cánh cửa được khép lại.

      nhanh như thế đâu, thưa bà Pires. Tôi cần phải hỏi bà vài câu.”

      “Và tôi có bổn phận phải trả lời.”

      “Xin hãy bình tĩnh. Mời ngồi. Tôi có thể lấy cho bà chút cà phê hay nước được ?”

      cần.”

      “Đây có phải là địa chỉ đúng ở Rio ?”

      “Chắc chắn là đúng.”

      “Bà từ đâu tới đây ?”

      “Pensacola.”

      “Chuyến bay nào ?”

      “Airlink 855.”

      “Và nơi bà định đến ?"

      “São Paulo.”

      “Nơi nào ở São Paulo ?”

      “Có lẽ đó là chuyện riêng tư.”

      “Công việc hay du lịch ?"

      “Chuyện đó liên quan gì ?"

      “Liên quan đấy. Theo hộ chiếu nhà của bà ở Rio. Vậy bà định ở đâu tại São Paulo?”

      khách sạn.”

      “Tên của khách sạn đó ?”

      Nàng ngập ngừng trong lúc cố tìm ra cái tên, và cái ngập ngừng chút xíu đó là tai hại. “À, khách..ế sạn … Inter … Continental,” sau cùng nàng đáp, có vẻ tí nào cả.

      Ông ta ghi lại, rồi , “Và chúng tôi cho rằng căn phòng ở đó được đặt với cái tên Leah Pires chứ hả ?”

      "Tất nhiên,” nàng đáp trơn tuột. Thế nhưng, chỉ cú điện thoại ngắn gọn là đủ chứng tỏ việc nàng dối.

      “Hành lý của bà đâu ?” Ông ta hỏi tiếp.

      vẻ lúng túng nữa, và lần này ràng hơn. Nàng ngập ngừng, nhìn chỗ khác, và , “Tôi mang theo gì nhiều.”

      Có ai đó gõ cửa. Rivera mở hé, nhận mảnh giấy, và thầm gì đó với người đồng thấy mặt kia. Leah ngồi xuống, cố lấy lại bình tĩnh. Cánh cửa khép lại và Rivera xem lại nội dung mảnh giấy kia.

      "Theo hồ sơ của chúng tôi, bà nhập cảnh cách đây tám ngày, tại Miami này, chuyến bay tới từ Luân Đôn mà nơi xuất phát ban đầu là Zurich. Tám ngày, và mang theo hành lý. Cũng lạ, phải nào ?”

      lại mang theo hành lý là tội ư ?” Nàng vặn lại.

      , nhưng dùng hộ chiếu giả tội, ít ra là ở nước Mỹ.”

      Nàng nhìn tấm hộ chiếu nằm mặt bàn và vẫn bướng bỉnh , “Nó phải là giả.”

      “Bà có biết người tên là Eva Miranda ?" Rivera hỏi, và Leah thể nào còn tiếp tục vênh mặt lên được nữa. Tim nàng như ngừng đập, mặt cúi xuống, và nàng biết là cuộc chơi chấm dứt. Rivera biết là họ vồ được con mồi.

      “Tôi phải liên hệ với FBI,” ông ta . “ phải mất chút thời gian.”

      “Tôi bị bắt ư ?" Nàng hỏi.

      “Chưa.”

      "Tôi là luật sư … Tôi … ”

      “Chúng tôi biết. Và chúng tôi có quyền tạm giữ bà để thẩm vấn. Văn phòng của chúng tôi ở tầng dưới. Nào, chúng ta .”

      Nàng bị dẫn nhanh chóng, tay vẫn cầm chặt cái xắc, mắt vẫn mang kính.

      oOo

      Chiếc bàn dài chất kín giấy tờ và hồ sơ, với đầy những mảnh giấy nhàu nát bị xé ra từ các tập giấy ghi chép, giấy lau, những chiếc cốc giấy, và thậm chí cả những miếng bánh xăng-uých ăn dở. Bữa trưa kết thúc từ năm tiếng đồng hồ trước đó nhưng vị luật sư nào nghĩ tới bữa chiều cả. Thời gian chỉ được tính ở bên ngoài căn phòng này. Còn bên trong, nó có ý nghĩa gì. Cả hai đều để chân trần. Patrick mặc chiếc áo phông và quần soóc thể thao. Sandy mặc chiếc áo sơ mi vải bông rất nhàu nhĩ, quần kaki, bít tất, giống hệt như cách mà ăn mặc trước đó ít giờ ở ngôi nhà nghỉ bên bờ biển.

      Cái hộp đựng hồ sơ về Aricia trống rỗng và bị quăng ở góc phòng, tất cả giấy tờ bên trong đều được đổ cả lên mặt bàn. Cánh cửa phòng được mở ra ngay trong lúc tiếng gõ cửa còn chưa dứt, và nhân viên đặc biệt Joshua Cutter bước vào trước khi được mời. Ông ta đứng ngay ở cửa.

      “Đây là cuộc gặp riêng,” Sandy , đứng sát tận mặt Cutter. thể để bất kỳ ai nhìn thấy những tư liệu mặt bàn. Patrick bước lại phía cửa để cố chắn tầm nhìn của Cutter.

      "Tại sao ông gõ cửa trước khi vào hả ?” bực tức hỏi.

      “Xin lỗi,” Cutter bình tĩnh đáp. “Chỉ phút thôi mà. Tôi nghĩ rằng muốn biết là chúng tôi tạm giữ Eva Miranda. ta bị bắt tại sân bay Miami, trong khi đuờng trở về Braxin, hộ chiếu giả và nhiều những lý do khác nữa.”

      Patrick chết sững và cố nghĩ ra điều gì đó để .

      “Eva ?” Sandy hỏi.

      “Phải, cũng còn được biết với cái tên Leah Pires nữa. Đó là tên trong cái hộ chiếu giả kia của ta.” Cutter nhìn Patrick trong khi trả lời Sandy.

      ấy ở đâu ?” Patrick sững sờ hỏi.

      “Bị giam, ở Miami.”

      Patrick quay người và bước dọc theo mép bàn. Nhà giam ở đâu cũng khủng khiếp, nhưng ở Miami đặc biệt tai tiếng.

      “Ông có số điện thoại nào đó để chúng tôi có thể gọi cho ấy được ?” Sandy hỏi.

      .”

      ấy có quyền gọi cú điện thoại mà.”

      “Chúng tôi thu xếp”

      “Cho tôi số điện thoại, được chứ ?”

      “Để xem.” Cutter tiếp tục quan sát Patrick và phớt lờ Sandy. " ta có vẻ vội vã lắm. có hành lý gì, trừ cái túi. toan chuồn về Braxin, bỏ rơi lại.”

      “Ông im ,” Patrick quát.

      “Ông có thể được rồi đấy,” Sandy .

      chỉ nghĩ là các muốn biết thôi mà,” Cutter , rồi mỉm cười bỏ .

      Patrick ngồi xuống, đưa tay xoa hai bên thái dương. Đầu nặng trịch trước lúc Cutter đến, và lúc này như muốn nổ tung. cùng Eva bàn tính kỹ càng ba tình huống mà nàng phải đối mặt khi họ bắt được . Thứ nhất là nàng phải mình trong bóng tối, giúp đỡ cho Sandy và hoàn toàn tự do lại. Thứ hai là nàng có thể bị Stephano và Aricia bắt được, khả năng đáng sợ nhất. Thứ ba là FBI có thể bắt được nàng, điều khủng khiếp như tình huống thứ hai, nhưng cũng gây ra những vấn đề lớn lao. Chí ít trong tình huống này, nàng cũng được an toàn. Họ bàn tới cái tình huống thứ tư này, nàng trở lại Braxin mà . tin là nàng lại toan bỏ rơi .

      Sandy lặng lẽ thu xếp hồ sơ và dọn dẹp mặt bàn.

      rời khỏi chỗ ấy lúc nào ?” Patrick hỏi.

      “Lúc tám giờ. ấy sao đâu, Patrick. Tôi bảo đảm với đấy.”

      ấy có nhắc gì tới Miami hay Braxin ?”

      . hề. Tôi có ấn tượng sau cùng là ấy ở lại ngôi nhà nghỉ đó trong thời gian. ấy bảo tôi là thuê nó trong tháng.”

      “Vậy là ấy bị làm cho sợ hãi. Nếu làm sao mà ấy lại chạy chứ ?”

      “Tôi biết.”

      “Kiếm luật sư ở Miami, Sandy. Và nhanh lên.”

      “Tôi biết vài người ở đó.”

      ấy hẳn phải khiếp sợ lắm đấy.”

      John Grisham

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 30

      L úc đó quá sáu giờ, là giờ Havarac thường ở trong sòng bạc, uống uýtxki phải trả tiền và tìm kiếm đàn bà. Có quá nhiều những lời đồn đại về các khoản tiền nợ cờ bạc của ông ta. Rapley chắc chắn là tự giam mình trong căn phòng áp mái, mà ai cũng biết là nơi ông ta thường xuyên trú ngụ. Các thư ký và các trợ lý đều ra về. Doug Vitrano khóa cửa trước của tòa nhà và tới căn phòng làm việc ở phía đằng sau, căn phòng lớn nhất và đẹp nhất, nơi Charlie Bogan ngồi đợi sẵn, tay áo xắn cao.

      Patrick cài máy nghe trộm vào được tất cả các phòng làm việc, trừ phòng của Bogan, điều mà ông ta rất nhấn mạnh trong những cuộc cãi vã ầm ĩ sau vụ mất tiền. Nếu Bogan có mặt trong phòng nó luôn được khóa kín. Các đồng của ông ta quá cẩu thả, đó là điều Bogan luôn miệng nhắc lại, đặc biệt là Vitrano, người dùng điện thoại trong những cuộc trao đổi sau cùng với Graham Dunlap, nguyên nhân để Patrick biết được vụ chuyển tiền đó. Riêng việc này được nhiều tới mức suýt dẫn tới cuộc ẩu đả .

      cách công bằng, Bogan thể nào dám khoe rằng ông ta ngờ vực có những hoạt động gián điệp ngay trong Hãng của mình. Nếu vậy tại sao ông ta lại sớm nhắc nhở những đồng lơ đãng? Đơn giản chỉ là ông ta vốn thận trọng và gặp may mà thôi. Những cuộc trao đổi quan trọng đều diễn ra trong phòng làm việc của Bogan. Ông ta giữ chiếc chìa khóa duy nhất. Ngay cả những người dọn dẹp cũng thể vào đó khi chủ nhân có mặt.

      Vitrano đóng cửa lại cẩn thận rồi gieo mình xuống chiếc ghế bành êm ái kê đối diện với bàn của Bogan.

      “Sáng nay tôi gặp ông Thượng nghị sĩ,” Bogan . “Ông ấy mời tôi đến nhà riêng.” Mẹ của Bogan và cha của ông Thượng nghị sĩ là chị em ruột, và ông Thượng nghị sĩ lớn hơn Bogan mười tuổi.

      “Ông ấy có vui vẻ ?” Vitrano hỏi.

      “Tôi thể là như vậy. Ông ấy muốn những thông tin mới nhất về Lanigan, và tôi kể lại những gì tôi biết. Ông ấy rất lo ngại về những gì Lanigan có thể nắm được. Tôi bảo đảm với ông ấy, như tôi bảo đảm nhiều lần, rằng tất cả những liên lạc với ông ấy đều được tiến hành từ căn phòng này, và rằng căn phòng này hoàn toàn sạch . Bởi vậy, lo lắng này là thừa."

      “Thế nhưng ông ấy vẫn lo ngại ?”

      "Tất nhiên rồi. Ông ấy hỏi lại tôi là liệu có tài liệu nào trói ông ấy vào với Aricia , và lần nữa tôi .”

      “Đúng là như vậy.”

      “Phải. có tài liệu nào dính tới tên của ông Thượng nghị sĩ cả. Tất cả những gì liên quan đến ông ấy chỉ là những lời miệng. Hầu hết là được trao đổi sân gôn. Tôi vậy với ông ấy cả nghìn lần, nhưng ông ấy vẫn cứ muốn được nghe lại, do trở về của Lanigan.”

      “Ông với ông ấy về vụ căn phòng để đồ chứ?"

      .”

      Cả hai đều nhìn xuống lớp bụi mặt bàn Bogan và nhớ lại những gì xảy ra trong căn phòng để đồ kia. Vào tháng Giêng năm 1992, tháng sau khi Bộ Tư pháp chấp thuận giải quyết vụ Aricia, và chừng hai tháng trước khi họ nhận được tiền, hôm Aricia đột ngột đến, hề báo trước, và trong tâm trạng cáu kỉnh. Patrick vẫn còn ở đó lúc bấy giờ, mặc dù chỉ còn ba tuần nữa là đến đám tang của . Hãng bắt đầu việc sửa sang lớn trụ sở, và bởi vậy Bogan thể tiếp Aricia trong phòng làm việc của mình. Những người thợ sơn thang. Những tấm vải phủ bao kín các đồ đạc. Họ đành đưa Aricia tới phòng họp đối diện qua hành lang với phòng của Bogan, căn phòng mà mọi người gọi cách đơn giản là phòng để đồ do kích cỡ của nó. cái bàn vuông kê ở chính giữa, với bốn chiếc ghế kê ở bốn cạnh bàn. có cửa sổ nào. Trần phòng nghiêng vát vì phía bên là cầu thang.

      Vitrano được triệu đến bởi lẽ ông ta là nhân vật số hai trong Hãng, và cuộc họp diễn ra. Cuộc họp kéo dài. Aricia nổi giận về việc các luật sư được hưởng ba mươi triệu đôla. Giờ đây, khi mà vụ tố giác của ông ta được giải quyết, cái thực tế kia lên mồn , và ông ta nghĩ rằng ba mươi triệu đôla thù lao cho các luật sư là quá đáng. Chuyện nhanh chóng trở nên gay gắt khi Bogan và Vitrano giữ nguyên lập trường của họ. Họ đề nghị lấy ra bản hợp đồng giữa hai bên về các dịch vụ pháp lý, thế nhưng Aricia thèm quan tâm đến điều đó.

      Trong lúc nóng nảy, Aricia hỏi ông Thượng nghị sĩ được bao nhiêu trong số ba mươi triệu kia. Bogan gay gắt đáp lại rằng đó phải là việc của ông ta. Aricia tuyên bố rằng phải, bởi vì dù sao tiền vẫn là của ông ta, và rồi mắng nhiếc thậm tệ ông Thượng nghị sĩ cùng tất cả các chính trị gia chung. Aricia khá nhiều tới việc ông Thượng nghị sĩ vận động ráo riết ở Oasinhtơn để gây sức ép với bên Hải quân, Lầu Năm Góc, và Bộ Tư pháp để giải quyết vụ tố giác này. “ Ông ta được bao nhiêu hả ?” Aricia luôn mồm hỏi.

      Bogan cứ lẩn tránh, chỉ mực rằng ông Thượng nghị sĩ được quan tâm đúng mức, và nhắc Aricia rằng ông ta lựa chọn Hãng luật này chính là vì những mối liên hệ chính trị của nó. Và Bogan cũng nóng nảy thêm rằng sáu mươi triệu mà Aricia bỏ túi phải là kết quả tồi, nếu xét tới chuyện lừa gạt ngay từ đầu của vụ tố giác này.

      Quá nhiều điều được tới.

      Aricia đề nghị khoản thù lao chỉ có mười triệu đôla cho họ. Bogan và Vitrano bác bỏ thẳng thừng, ông ta ầm ầm bỏ ra khỏi căn phòng để đồ, mồ hôi ròng ròng theo từng bước chân.

      có điện thoại, nhưng hai cái micrô được tìm thấy ở đó. cái giấu bên dưới mặt bàn, gắn khuất trong góc bằng matít đen. Cái thứ hai được đặt giữa hai cuốn sách luật cổ lỗ, bụi bặm cái giá sách duy nhất ở trong phòng. Những cuốn sách vốn chỉ được đặt ở đó nhằm để trang trí.

      Sau cơn sốc của vụ mất tiền, và vụ phát tiếp theo đó của Stephano về những thiết bị nghe trộm và đám dây rợ kia, cả thời gian lâu Bogan và Vitrano nhắc tới cuộc họp ở căn phòng để đồ đó nữa. Họ chưa bao giờ với Aricia về chuyện đó, chủ yếu là vì ông ta quay sang kiện họ quá nhanh và rồi muốn nghe nhắc tới tên họ nữa. cố đó cũng mờ dần trong trí nhớ của họ. Sau cùng có khi là nó chưa bao giờ xảy ra cũng nên.

      Giờ đây, khi mà Patrick trở về, họ buộc phảị e dè đối mặt với nó. Luôn luôn xảy ra khả năng là hai cái micrô đó có trục trặc, hoặc giả Patrick trong lúc vội vàng bỏ lỡ việc ghi lại các tín hiệu. Chắc chắn là còn quá nhiều những con rệp khác để làm cho đủ bận rộn rồi. Thực là họ hy vọng rất có khả năng Patrick để lọt cuộc họp trong căn phòng đó.

      “Chắc chắn là cũng chẳng giữ những cuộn băng đó trong bốn năm trời đâu, phải ?” Vitrano hỏi.

      Nhưng Bogan trả lời. Ông ta khoanh tay trước bụng và đăm chiêu nhìn lớp bụi mặt bàn. Lẽ ra chuyện khác hẳn. Ông ta được năm triệu, ông Thượng nghị sĩ năm triệu. có vụ phá sản, có cuộc ly dị nào cả. Ông ta cũng vẫn có vợ và gia đình, có nhà cửa và vị thế của mình. Ông ta cũng có thể biến năm triệu đó thành mười rồi, và chẳng mấy chốc mà thành hai mươi, cả đống tiền và tha hồ muốn làm gì làm. Tất cả đều bày ra trước mắt, bàn tiệc được dọn ra, thế mà Patrick vơ tất tần tật.

      Cơn choáng cùa việc tìm ra Patrick kéo dài vài ngày, rồi từ từ tan biến khi mọi việc trở nên ràng là số tiền đó theo cùng về Biloxi. Với mỗi ngày trôi qua, số tiền đó thực tế là càng trở nên xa vời hơn.

      “Ông có nghĩ là chúng ta lấy được tiền , Charlie ?" Vitrano hỏi gần như ra hơi, mắt vẫn dán xuống sàn nhà. Ông ta còn gọi Bogan bằng cái tên Charlie thân tình ấy trong nhiều năm rồi. thân mật như thế còn có chỗ trong cái Hãng đầy những lòng căm hờn này.

      oOo

      Biết rằng phải dành cả tiếng đồng hồ sắp tới cho những cú điện thoại, Sandy quyết định gọi trước những cú khó khăn nhất. Ngồi trong xe đậu tại bãi đỗ của bệnh viện, gọi cho vợ báo về rất muộn, muộn đến mức có khi phải ngủ lại ở Biloxi. xin lỗi, đổ mọi chuyện lên đầu Patrick, và giải thích sau. ngờ là vợ cũng đến nỗi cáu bẳn gì.

      Vớ được thư ký làm việc muộn tại văn phòng, Sandy nhờ ta kiếm cho các số điện thoại cần thiết. biết hai luật sư ở Miami, song chẳng may là ai trong số họ còn có mặt ở văn phòng vào lúc bảy giờ mười lăm tối cả. Gọi về nhà riêng người có ai trả lời máy. Người kia có số đăng ký danh bạ. gọi loạt cú cho các luật sư quen biết ở New Orleans, và sau cùng kiếm được số máy ở nhà Mark Birck, luật sư bào chữa trong lĩnh vực hình rất được đánh giá cao ở Miami. Birck vui vẻ gì khi có điện thoại lúc dùng bữa tối, thế nhưng ông ta vẫn lắng nghe. Sandy vắn tắt lại vụ Patrick, kể cả diễn biến mới nhất với việc Eva bị giam giữ đâu đó ở Miami. Đó là lý do của cú điện thoại này. Birck tỏ vẻ quan tâm, và xác nhận ông ta rất rành về luật di trú cũng như các thủ tục của vụ án hình . Ông ta hứa bắt đầu vào việc ngay sau bữa tối. Sandy hẹn gọi lại sau tiếng.

      Phải mất ba cú điện thoại để tìm được Cutter, và hai mươi phút dỗ ngon dỗ ngọt mới được ông ta nhận lời uống cà phê tại tiệm bánh. Sandy lái xe tới đó, và trong khi đợi Cutter gọi lại cho Birck. Birck báo tin đúng là Eva Miranda bị tạm giữ trong trại giam của Liên bang ở Miami. Nàng chưa chính thức bị buộc tội gì, nhưng còn quá sớm. có cách nào để gặp được nàng ngay trong đêm, và ngày hôm sau cũng còn khó. Theo luật pháp, FBI và Hải quan Mỹ có thể tạm giữ người bị bắt vì dùng hộ chiếu giả trong bốn ngày trước khi có thể có quyết định cho tại ngoại. Birck giải thích điều đó là đúng, nếu tính tới thực tế là những người đó thường nhanh chóng biến mất.

      Birck tới trại giam đó vài lần để gặp gỡ các thân chủ, và tình hình ở trong đó cũng đến nỗi quá tệ. Nàng được giam tại phòng riêng, và nhìn chung là an toàn. May ra nàng được gọi điện thoại vào sáng hôm sau.

      Sandy nhấn mạnh rằng vội vã gì lắm với việc đưa nàng ra, nhưng cung cấp quá nhiều các chi tiết. Có nhiều kẻ rình rập nàng ở bên ngoài. Birck hứa có những liên hệ cần thiết vào sáng sớm hôm sau, và cố gắng để được vào gặp nàng. Thù lao của ông ta là mười nghìn đôla, và Sandy đồng ý.

      vừa cúp máy Cutter vênh váo bước vào và ngồi xuống cái bàn cạnh cửa sổ mặt trước, đúng như hẹn. Sandy khóa cửa xe lại và vào tiệm.

      oOo

      Bữa tối là những thứ đồ ăn đóng hộp, được sấy nóng và bày cái khay nhựa cũ mèm. Mặc dù đói, nhưng nàng hề nghĩ mình dùng nổi nó, do hai phụ nữ to béo mặc đồng phục, với những chùm chìa khóa đeo bên hông, mang tới. trong hai người hỏi nàng cảm thấy thế nào. Nàng lầu bầu gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha và họ để nàng lại mình. Cánh cửa phòng giam bằng thép dày trịch, lỗ vuông . Thỉnh thoảng có thể nghe thấy tiếng của những nữ tù nhân khác, còn nhìn chung nơi này khá yên lặng.

      Nàng chưa bao giờ có mặt trong nhà giam, ngay cả với tư cách là luật sư. Ngoài Patrick ra, nàng người bạn nào khác bị tống giam cả. Cơn choáng váng ban đầu nhường chỗ cho sợ hãi, rồi nỗi xúc phạm vì bị giam cầm như kẻ tội phạm. Trong những giờ đầu tiên, chỉ duy có ý nghĩ về ngưòi cha là còn làm cho nàng tập trung được đầu óc. Chắc chắn là tình trạng của ông còn thê thảm hơn của nàng nhiều. Nàng cầu nguyện để họ đừng có làm ông đau đớn.

      Khi bị giam cầm, dường như những lời cầu nguyện đến với con người ta dễ dàng hơn. Nàng cầu nguyện cho cha, và cho Patrick. Nàng cưỡng lại ý muốn đổ lỗi cho về những rắc rối của nàng, mặc dù đổ lỗi như vậy là dễ dàng. Nàng nhận lỗi hầu hết về mình. Nàng hốt hoảng và bỏ chạy quá nhanh. Patrick dạy nàng phải di chuyển ra sao mà để lại dấu tích, và phải biến mất như thế nào. Sai lầm là ở nàng, chứ phải lỗi của .

      Nàng xác định rằng những buộc tội về hộ chiếu giả là chuyện , và đối phó khó khăn lắm. cái đất nước đầy rẫy bạo lực và đủ nhà tù này, chắc chắn là tội đơn giản như vậy của người có tiền án tiền gì, có thể được xử lý nhanh chóng với khoản tiền phạt và vụ trục xuất đơn giản.

      Nàng yên tâm khi nghĩ tới chuyện tiền. Ngày mai nàng đòi có luật sư, luật sư giỏi và có thế lực. phải có những cú điện thoại gọi cho các quan chức ở Braxin; nàng biết tên họ. Nếu cần thiết, có thể dùng tiền để mua tất cả. mấy mà nàng lại được thả ra, rồi trở về nhà để cứu cha. Nàng náu đâu đó ở Rio, chuyện đơn giản thôi mà.

      Căn phòng khá ấm áp và được khóa chặt, với nhiều lính gác có vũ trang. Nàng cho rằng đây là nơi an toàn. Những người tra tấn Patrick và giờ đây giam giữ cha nàng thể nào động dược tới nàng. Nàng tắt ngọn đèn trần và nằm duỗi người chiếc giường hẹp. FBI hẳn rất sốt sắng báo cho Patrick biết là nàng bị bắt giữ, và có khả năng đến lúc này cũng biết tin. Nàng có thể mường tượng cảnh cắm cúi với xấp giấy, gạch chỗ này, chỗ kia, phân tích cái diễn biến mới nhất này từ rất nhiều góc độ khác nhau. Cho tới lúc này hẳn Patrick nghĩ ra dưới mười cách để cứu nàng. Và ngủ cho tới khi cái danh sách đó chỉ còn lại ba phương án tốt nhất.

      Cái hay là ở lúc lập phương án, luôn như vậy.

      oOo

      Cutter gọi ly xôđa và cái bánh sôcôla. Ông ta ở ngoài giờ làm việc, bởi vậy bộ complê màu sẫm và chiếc sơmi trắng chuẩn mực được thay thế bằng quần jeans và áo cộc tay. Vốn rất tự mãn, giờ đây, khi họ bắt được người phụ nữ kia, ông ta lại càng ngạo mạn.

      Chỉ với bốn miếng, Sandy xơi xong cái bánh kẹp thịt hun khói. gần chín giờ tối mà bữa trưa chỉ là thứ đồ ăn trong bệnh viện của Patrick, và từ lâu lắm rồi. “Chúng ta cần cuộc trò chuyện nghiêm chỉnh,” . Nhà hàng đông khách và buộc phải .

      “Tôi nghe đây,” Cutter .

      Sandy nuốt nốt miếng bánh, lau miệng, dướn người về đằng trước thêm chút nữa và , “Đừng có hiểu sai nhé, nhưng mà chúng ta cần có thêm những người khác.”

      “Ai vậy ?”

      "Chẳng hạn như các cấp của ông. Những người ở Oasinhtơn.”

      Cutter ngẫm nghĩ phút trong khi lơ đãng nhìn luồng xe cộ tấp nập nối đuôi nhau xa lộ 90. Tiệm bánh này chỉ cách bờ vịnh chừng ba chục mét.

      “Được thôi,” ông ta . “Nhưng tôi phải có gì đó để chuyện với họ.”

      Sandy liếc quanh. có ai để ý tới họ, kể cả là vô tình. “Nếu như tôi có thể chứng minh được rằng vụ tố cáo của Aricia đối với Platt & Rockland là hoàn toàn lừa đảo; rằng ông ta dồng lõa với Hãng Bogan để lừa dối chính phủ, và rằng người em họ của Bogan, Thượng nghị sĩ, cũng nằm trong đồng lõa này và được dấm dúi cho dăm bảy triệu đôla sao hả ?"

      câu chuyện thú vị đấy.”

      "Tôi có thể chứng minh.”

      “Và nếu như chúng tôi tin, hẳn chúng tôi được gợi ý là phải để Lanigan hưởng kiểu đền bù gi đó và bình an vô .”

      “Có thể.”

      “Đâu có nhanh thế dược, vẫn còn vấn đề về cái xác chết kia.”

      Cutter ngừng lời, bình thản cắn miếng bánh và nhai với vẻ trầm tư. Thế rồi ông ta đột ngột hỏi, “Loại bằng chứng gì vậy ?”

      “Tài liệu, các cú điện thoại được ghi , đủ cả.”

      “Có thể được chấp nhận trước tòa ?”

      “Hầu hết.”

      “Đủ cho việc kết án ?”

      “Cả thùng đầy.”

      “Cái thùng đó ở đâu ?”

      "Trong cốp xe của tôi.”

      Cutter bất giác nhìn ra bãi đỗ xe. Rồi ông ta nhìn chằm chặp vào Sandy. “Đấy là những thứ mà Patrick thu thập trước khi biến phải ?”

      “Chính xác. ấy loáng thoáng biết về vụ Aricia. Hãng lại dự tính hất ấy ra đường, vậy nên ấy rất nhẫn nại thu thập chứng cứ.”

      cuộc hôn nhân tồi tệ, vân vân và vân vân, nên ta bèn nẫng số tiền kia và biến.”

      . ấy bỏ trước, rồi mới lấy tiền.”

      “Đằng nào cũng thế cả; Vậy bây giờ ta muốn có thỏa thuận, hả ?”

      “Dĩ nhiên. Còn các ông lại ư ?"

      “Còn vụ giết người sao ?”

      “Đó là vấn đề của bang, chứ hẳn là quan tâm của các ông. Chúng ta giải quvết vấn đề đó sau."

      “Chúng tôi có thể biến nó thành chuyện của mình đấy.”

      "Tôi e là . Các ông có trong tay cáo trạng về vụ đánh cắp chín mươi triệu đôla kia. Bang Mississippi có bản cáo trạng về vụ giết người. Đáng tiếc cho các ông là người của Liên bang bây giờ thể nhúng tay vào và truy tố cái tội giết người đó được.”

      Cutter ghét đám luật sư chính vì lẽ đó. dễ mà bịp họ được.

      Sandy tiếp. “Ông nghe này, cuộc gặp này là thủ tục. Tôi chỉ muốn thông qua các kênh và muốn vượt mặt ai. Nhưng tôi hoàn toàn sẵn sàng bắt đầu việc gọi điện tới Oasinhtơn ngay vào sáng mai. Tôi nghĩ là chúng ta có cuộc chuyện này, và tôi hy vọng ông tin là chúng tôi sẵn sàng thỏa thuận. Bằng tôi phải dùng tới điện thoại thôi.”

      “Ông muốn ai ?”

      “Ai đó có quyền hạn hẳn hoi, FBI và Bộ Tư pháp. Chúng ta gặp nhau trong căn phòng nào đó lớn lớn chút và tôi trình bày vụ này.”

      “Hãy để tôi chuyện với Oasinhtơn. Nhưng mong rằng đây phải là chuyện đàng hoàng đấy.”

      Họ bắt tay nhau, và Sandy bước ra cửa.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 31

      B à Stephano lại trở nên ngủ được. Những gã đàn ông đầy khó chịu đó, với những bộ complê màu tối sầm sầm, rời khỏi đường phố của họ, và láng giềng thôi dò hỏi này nọ. Những chuyện ngồi lê đôi mách bên ván bài quay về với những chủ đề cũ. Lão chồng của bà cũng thoải mái trở lại.

      Lúc năm rưỡi sáng, khi vẫn yên giấc chợt có tiếng chuông điện thoại, bà với tay lên mặt bàn đêm cầm lấy máy. “Xin chào."

      giọng cứng rắn và quả quyết vang lên, "Xin cho gặp Jack Stephano.”

      “Ai gọi đây ?" Bà ta hỏi lại. Dưới tấm chăn, Jack cựa mình.

      “Hamilton Jaynes, FBI,” câu trả lời được đưa ra.

      Bà ta kêu lên. “Ôi lạy Chúa!" rồi đặt tay lên miệng ống và gọi, "Jack, lại FBI này.”

      Jack bật đèn, nhìn đồng hồ, và cầm máy. “Ai đấy?"

      “Chào buổi sáng, Jack. Hamilton Jaynes đây. Tôi hề muốn gọi sớm thế này.”

      “Vậy đừng gọi chứ ?"

      “Có điều muốn để ông biết rằng chúng tôi tóm được bé kia, Eva Miranda. ta được bảo đảm an toàn, bởi vậy ông có thể thu đám tay chân của ông về ."

      Stephano tung chân ra khỏi giường và đứng cạnh chiếc bàn. Hy vọng cuối cùng của họ tiêu tan. Sau cùng cuộc tìm kiếm chỗ tiền kia kết thúc. “ ta ở đâu hả ?” Lão hỏi mà chờ đợi câu trả lời có ý nghĩa nào.

      “Chúng tôi giữ ta, Jack. ta ở chỗ chúng tôi."

      “Xin chúc mừng."

      “Này, Jack, tôi phái mấy người xuống Rio để giám sát tình hình của cha ấy. Ông có hai mươi bốn giờ đấy. Jack. Nếu như ông già đó được thả ra trước năm rưỡi sáng mai tôi cho bắt ông và Aricia. Mẹ kiếp, ông biết là tôi cũng có thể cho bắt cả ông Atterson của Monarch-Sierra và ông Jill của Northern Case Mutual chỉ vì chuyện này. Tôi thực cũng muốn chuyện với mấy tay đó, cùng với Aricia."

      “Ông khoái chuyện đe nẹt lắm phải ?"

      "Rất thích. Chúng tôi giúp phía Braxin dẫn độ các vị về dưới đó, và ông biết là chuyện đó phải mất vài tháng. có chuyện được nộp tiền thế chân trong vụ dẫn độ, vậy là ông và mấy tay khách hàng bậy bạ của ông đón Giáng sinh ở trong nhà giam. Ai mà biết được, chuyện dẫn độ này có khi lại hay, và ông được tới Rio. Tôi nghe những bãi biển ở đó tuyệt vời lắm. Vẫn nghe đấy chứ, Jack ?”

      "Tôi nghe đây.”

      “Hai mươi bốn giờ.” Có tiếng cúp máy và cuộc đối thoại chấm dứt. Bà Stephano vào trong phòng tắm, chốt chặt cửa, quá sợ hãi đến mức dám thò mặt ra nhìn chồng nữa.

      Jack xuống nhà, và pha cà phê. Lão ngồi ở cái bàn trong bếp, trong bóng tối lờ mờ, đợi mặt trời mọc. Lão quá mệt mỏi với Benny Aricia.

      Lão được thuê để tìm Patrick và chỗ tiền kia, chứ phải là để hỏi về việc làm sao có số tiền đó. Lão biết những điểm cơ bản trong quá khứ của Benny Aricia với Hãng Platt & Rockland, và lão luôn luôn ngờ rằng còn nhiều chuyện nữa. đôi lần lão thử tìm hiểu, nhưng Aricia muốn tới những chuyện xảy ra trước khi Patrick biến mất.

      Ngay từ đầu, Jack ngờ rằng văn phòng của Hãng luật đó bị nghe trộm vì hai lý do. Thứ nhất là để thu thập các thông tin về các cổ đông khác và về các khách hàng, đặc biệt là về Aricia. Thứ hai là để đưa Patrick tới được với chỗ tiền kia sau đám tang của . Điều được biết đến đối với mọi người khác, có thể là trừ Aricia và các cổ đông của Hãng, là những thông tin mà Patrick thu thập và tàng trữ có thể gây nguy hại đến mức nào.

      Khi chỗ tiền kia biến mất và Stephano bắt đầu cuộc tìm kiếm của lão, Hãng luật đó từ chối tham gia vào nỗ lực chung. Nó có phần, những ba mươi triệu đôla, thế mà lại chịu ngậm đắng nuốt cay. Lý do được đưa ra là có tiền. Các cổ đông của Hãng về cơ bản là phá sản, tình hình sắp sửa còn xấu thêm nữa, và đơn giản là thể tham gia được. Lúc đó điều này nghe cũng có lý, nhưng Stephano cũng cảm thấy có miễn cưỡng nào đó đối với việc tìm kiếm Patrick.

      Có cái gì đó được ghi lại các cuộn băng. Patrick tóm quả tang được bọn họ. Bọn họ từng sống dở chết dở, nay việc bắt được Patrick có thể lại là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của họ cũng nên.

      Aricia hẳn cũng vậy. Lão đợi chừng tiếng đồng hồ, rồi gọi cho ông ta.

      oOo

      Vào lúc sáu rưỡi sáng, văn phòng của Hamilton Jaynes đầy người. Hai nhân viên đặc biệt ngồi chiếc xôpha và xem xét bản báo cáo mới nhất từ những nguồn của họ ở Rio. người đứng bên bàn của Jaynes để chờ báo cáo những thông tin cập nhật về các di biến động của Aricia; ông ta vẫn ngụ tại ngôi nhà thuê ở Biloxi.

      người khác nữa đứng gần đó với báo cáo mới về Eva Miranda. thư ký vừa mang thùng hồ sơ vào. Jaynes, người chỉ mặc sơmi, ngồi chuyện điện thoại với vẻ phờ phạc, phớt lờ tất cả.

      Joshua Cutter bước vào, cũng phờ phạc và mệt mỏi. Ông ta phải ngủ hai tiếng ở sân bay Atlanta trong khi chờ chuyến bay Oasinhtơn D.C., nơi nhân viên FBI đón sẵn và chở ông ta tới Tòa nhà Hoover. Jaynes lập tức cúp máy và ra lệnh cho tất cả ra ngoài.

      “Lấy cà phê, nhiều vào,” ông ta quát thư ký. Căn phòng còn ai và Cutter ngồi cứng người trước chiếc bàn lớn. Mặc dù rất mệt mỏi, nhưng ông ta vẫn phải cố hết sức để tỉnh táo. Trước đây, ông ta chưa bao giờ bén mảng tới văn phòng ngài Phó giám đốc.

      xem nào,” Jaynes gằn giọng.

      “Lanigan muốn có thỏa thuận. tuyên bố có đủ bằng chứng để kết tội Aricia, mấy tay luật sư kia, và Thượng nghị sĩ mà tên.”

      “Bằng chứng loại gì ?”

      thùng tài liệu và băng ghi , những thứ mà Lanigan thu thập trước khi biến .”

      nhìn thấy cái thùng đó chưa ?"

      “Chưa. McDermott nó ở trong cốp xe của ta.”

      “Còn chỗ tiền kia sao ?”

      “Chúng tôi chưa tới chuyện đó. ta muốn gặp ông và ai đó ở Bộ Tư pháp để thảo luận về các khả năng dàn xếp. Tôi có ấn tượng là ta cho rằng họ có thể thỏa thuận để làm êm vụ này.”

      “Đó luôn luôn là khả năng khi người ta đánh cắp được những đồng tiền sạch . ta muốn gặp ở đâu ?”

      “Dưới đó, chỗ nào đấy ở ngay Biloxi.”

      “Chờ gọi cho Sprawling ở Bộ Tư pháp," Jaynes gần như là tự với mình, vừa với tay nhấc điện thoại.

      Cà phê được mang đến.

      Mark Birck gõ gõ chiếc bút lên mặt bàn, khi ngồi chờ trong căn phòng dành cho khách đến thăm ở trại giam Liên bang. Chưa đến chín giờ, còn quá sớm để các luật sư gặp gỡ thân chủ của họ, thế nhưng ông ta có người bạn trong ban quản lý trại. Birck giải thích rằng đây là trường hợp khẩn cấp. Chiếc bàn có những tấm ngăn riêng ở cả hai bên và ở giữa là tấm kính dày, có những lỗ tròn để người ngồi hai bên có thể chuyện qua đó.

      Ông ta ngồi đó bồn chồn đến ba mươi phút. San cùng nàng cũng được đưa đến, người là bộ áo liền quần màu vàng với dãy số màu đen phai màu in ngang ngực. Người gác mở chiếc còng và nàng xoa xoa hai cổ tay.

      Khi chỉ còn lại hai người, nàng ngồi ghế và nhìn Birck. Ông ta đẩy tấm danh thiếp qua cái khe hẹp. Nàng cầm lấy và xem kỹ từng chữ.

      “Patrick phái tôi tới ” ông ta , và nàng nhắm mắt lại.

      sao chứ ?" Ông ta vội hỏi.

      Nàng tì người hai khuỷu tay và đáp, "Tôi sao. Cảm ơn là ông đến. Khi nào tôi ra được ?"

      “Phải vài ngày. Các nhà chức trách Liên bang có thể làm trong hai điều. là họ có thể truy tố về tội sử dụng hộ chiếu giả để lại, và thế cũng là nặng. Song cũng là chuyện vớ vẩn thôi bởi lẽ là người nước ngoài và có tiền án tiền gì. Trường hợp thứ hai, và có nhiều khả năng hơn, đơn giản là họ trục xuất với lời cam đoan của bao giờ quay lại! Cho dù cách nào họ cũng mất vài ngày để quyết định. Trong khi chờ đợi, đành phải ở đây vì chúng tôi thể đòi ngay được việc nộp tiền bảo lãnh.”

      "Tôi hiểu."

      “Patrick rất lo lắng cho .”

      “Tôi biết. Bảo ấy là tôi sao. Và tôi rất lo cho ấy.”

      Birck chỉnh chỉnh lại tập giấy ghi chép và , “Bây giờ, Patrick muốn được biết tới chi tiết chính xác của việc vì sao bị bắt."

      Nàng mỉm cười và có vẻ thấy yên tâm hơn. Tất nhiên là Patrick muốn biết hết các chi tiết. Nàng bắt đầu với gã đàn ông có cặp mắt màu xanh xám, và từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện.

      oOo

      Benny luôn xem thường cái bãi biển ở Biloxi. Chỉ độc dải cát hẹp, với bên là con đường cao tốc mà bộ qua quá nguy hiểm còn bên kia là thứ nước màu vàng nhạt, tẻ ngắt, và quá mặn cho việc bơi lội. Vào mùa hè, nó chỉ thu hút dược những người nghỉ ít tiền, và vào các kỳ nghỉ cuối tuần là đám sinh viên. phát triển của các sòng bạc có thu hút thêm du khách tới bãi biển này, nhưng họ cũng chỉ ra đây chốc lát rồi lại quay về với canh bạc của họ.

      Ông ta đậu xe ở bến tàu Biloxi, châm điếu xìgà dài thượt, bỏ giầy và cũng đành dạo dọc theo bãi biển mà giờ đây sạch hơn nhiều, nhờ có các sòng bạc kia. Cả bãi biển vắng lặng. Xa xa, vài chiếc thuyền đánh cá rập rình mặt biển.

      Cú điện thoại trước đó giờ của Stephano làm hỏng cả buổi sáng, và nhiều khả năng làm thay đổi cả phần đời còn lại của ông ta. Với kia bị giam lại, ông ta còn cơ hội tìm lại khoản tiền đó nữa. Giờ đây, ta thể còn dẫn ông ta đến với chỗ tiền, và cũng thể còn dùng ta để gây sức ép được với Lanigan.

      Chính quyền Liên bang bản cáo trạng dành cho Patrick. Về phần , Patrick có tiền và có những chứng cớ. Cái này có thể đánh đổi với cái kia, và Aricia có thể bị kẹt giữa hai lằn đạn. Khi những kẻ đồng lõa với ông ta, Bogan và cả cái đám luật sư bệnh hoạn kia, bị gây sức ép, họ khai thốc khai tháo ngay lập tức. Benny quá từng trải, và ông ta biết điều đó. Ông ta ao ước là tìm lại được số tiền đó, rồi cùng với nó biến ngay, giống như Patrick.

      Thế nhưng giấc mơ đó giờ đây kết thúc. Ông ta còn lại được triệu. Ông ta cũng có bạn bè ở những nước khác, và những mối quan hệ khắp nơi thế giới. đến lúc phải biến , như Patrick.

      Sandy giữ hẹn, tới gặp T.L.Parrish vào lúc mười giờ sáng tại văn phòng ủy viên công tố, mặc dù rất muốn hoãn cuộc gặp để dành buổi sáng xem xét các tài liệu. Vào lúc rời khỏi văn phòng của mình lúc tám rưỡi tất cả đám nhân viên và cả hai cổ đông của đều làm công việc sao chụp và phóng to những trang tài liệu quan trọng.

      Parrish cầu có cuộc gặp này. Sandy biết là vì sao. Vụ án của bang chống lại Patrick có những khiếm khuyết lớn, và giờ đây khi mà tâm trạng kích động của việc buộc tội qua đến lúc phải chuyện công việc. Các công tố viên thường chỉ muốn những vụ án thông thường, và chẳng bao giờ thiếu những vụ đó cả. Nhưng còn vụ thu hút chú ý của dư luận, với những điểm bất trắc lớn, lại là chuyện khác.

      Pavrish muốn thăm dò, thế nhưng thoạt đầu ông ta chỉ những lời khoa trương, làm dáng làm vẻ, và về nơi xử án mà thôi. Bất kỳ ở đâu, hội thẩm đoàn cũng thể nào thông cảm được với luật sư giết người vì tiền. Sandy, thoạt đầu, cũng chỉ lắng nghe. Parrish dẫn ra những số liệu ưa thích về tỉ lệ kết tội thành công của bản thân ông ta và thực tế là ông ta chưa bao giờ thua trong vụ án về tội giết người. Ông ta cách hề khoác lác là khép được tới tám tội phạm vào án tử hình.

      Thực là Sandy còn nhiều việc đáng làm hơn. cần có cuộc chuyện nghiêm túc với Parrish, nhưng phải là hôm nay. cật vấn ông ta rằng làm sao có thể chứng minh được rằng vụ giết người xảy ra địa hạt quận Harrison. Và tiếp đó, nêu vấn đề về nguyên nhân của cái chết - làm sao có thể chứng minh được điều đó ? Chắc chắn là Patrick khai báo trước tòa để giúp họ trong việc này rồi. Và câu hỏi lớn, nạn nhân là ai ? Theo nghiên cứu của Sandy, chưa hề có án tử hình nào được ghi nhận trong bang này, với nạn nhân xác định được danh tính.

      Parrish chờ đợi những câu hỏi đầy rắc rối này, và làm việc thích hợp là né tránh những câu trả lời cụ thể. “Thân chủ của ông có cân nhắc tới thương lượng nào về việc nhận tội hay nhận tội ?” Sau cùng, ông ta hỏi, vẻ như thông cảm lắm.

      .”

      “Sau này sao ?”

      “Cũng .”

      “Sao lại ?”

      “Ông chạy tới hội thẩm đoàn, lấy cho bằng được bản cáo trạng buộc tội tử hình, chìa ra cho báo chí, giờ đây ông phải chứng minh được nó. Ông thèm đợi để xem lại các chứng cứ của mình. Thôi dẹp .”

      "Tôi có thể kêu được bản án về tội ngộ sát,” Parrish giận dữ . “Với khung hình phạt hai mươi năm.”

      “Có thể,” Sandy hờ hững đáp. “Nhưng thân chủ của tôi lại bị truy tố về tội ngộ sát cơ mà.”

      “Tôi có thể làm điều đó vào ngày mai.”

      “Được thôi. Cứ làm . Hãy bỏ những cáo buộc về tội giết người, thay thế bằng tội ngộ sát, rồi chúng ta chuyện.”

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 32

      C ăn hộ đó được đặt tên Camille, và nó chiếm phần ba tầng thượng của sòng bạc Biloxi Nugget, sòng bạc mới nhất, lòe loẹt nhất, lớn nhất và thành công nhất trong số tất cả các sòng bạc kiểu Las Vegas mọc lên như nấm dọc vùng bờ biển này. Đám tay chơi ở Las Vegas cho là hay hớm lắm khi đặt tên những căn hộ và những phòng tiệc lớn của sòng bạc Nugget bằng tên của những cơn bão tồi tệ nhất từng tàn phá nơi đây. Với người khách bình thường từ ngoài phố bước vào và đơn giản là muốn có căn hộ rộng rãi, nó được cho thuê với giá 750 đôla/ngày. Sandy đồng ý trả cái giá đó. Còn với tay cờ bạc từ xa bay đến, căn hộ này được mời dùng phải trả tiền. Thế nhưng, Sandy đâu còn đầu óc nào mà nghĩ tới chuyện cờ bạc. Thân chủ của ta, ở cách xa đó đến hai dặm, chấp thuận khoản chi phí này. Căn hộ Camille có hai phòng ngủ, bếp, phòng làm việc, và hai phòng khách - để có thể tiếp được những nhóm khách riêng biệt. Nó cũng được trang bị bốn đường điện thoại đến, máy fax, và đầu video. Phụ tá của Sandy mang từ New Orleans tới máy tính cá nhân và các thiết bị kỹ thuật, cùng tập hồ sơ thứ nhất về Aricia.

      Người khách đầu tiên đến văn phòng luật tạm thời của Sandy McDermott là J.Murray Riddleton, tay luật sư hoàn toàn thất bại trong vụ ly hôn của Trudy. Ông ta hiền lành đưa ra đề nghị giải quyết về vấn đề tài sản cùng quyền thăm viếng con cái. Họ vừa thảo ]uận vừa ăn trưa. Các điều kiện đầu hàng là do Patrick ấn định. Và bởi lẽ giờ đây nắm quyền chủ động, Sandy bới lông tìm vết từng chi tiết nhất. “Dự thảo ban đầu thế này là tốt đấy,” nhắc nhắc lại trong khi dùng cây bút đỏ để đánh dấu chỗ này chỗ kia. Nhưng trước thảm bại này, Riddleton cũng vẫn là tay nhà nghề. Ông ta tranh cãi từng điểm , cằn nhằn về những điểm sửa đổi, thế nhưng cả hai đều hiểu rằng giải pháp mà ông ta đưa ra phải được sửa đổi để cho hợp với ý muốn của Patrick. Cái kết quả xét nghiệm ADN kia và những tấm ảnh khỏa thân có tác dụng quyết định tối thượng.

      Người khách thứ hai là Talbot Mims, cố vấn pháp lý của Northern Case Mutual, tay phô trương và cũng khá linh lợi. Ông ta đến chiếc xe van đầy đủ tiện nghi, với những chiếc ghế và phần nội thất bên trong xe là đồ da, cùng chiếc bàn làm việc , hai điện thoại, máy fax, máy nhắn tin, bộ video để Mims có thể xem lại những buổi cung khai trước tòa, cái máy tính cá nhân loại xách tay và chiếc loại đặt bàn, và cả chiếc xôpha để có thể chợp mắt chút đỉnh, dẫu rằng là chỉ sau những ngày vất vả nhất trước tòa, tất cả những thứ đó được hoàn thiện với tay lái xe có tốc độ nhanh nhất. Đoàn tùy tùng của ông ta bao gồm thư ký và trợ lý, cả hai đều có điện thoại di động, và tay phụ tá nữa miễn cưỡng phải cùng để ngừa trường hợp có những chi tiêu quá mức.

      Cả bốn nhanh chóng có mặt tại căn hộ Camille, và Sandy đón tiếp họ trong khi vẫn chỉ mặc quần jeans và mời khách bằng thứ nước giải khát có ga lấy từ cái quầy bar trong phòng. Tất cả đều từ chối. thư ký và tay trợ lý ngay tức thấy có những vấn đề cần phải bàn luận qua những chiếc điện thoại di động của họ. Sandy đưa Mims và tay phụ tá tên còn lại vào phòng khách.

      “Tôi vào thẳng vấn đề,” Sandy . “Các ông có biết người tên là Jack Stephano nhỉ ?”

      Mims nghĩ nhanh. “.”

      “Tôi cũng nghĩ vậv. Ông ta là thám tử siêu hạng ở D. C. Ông ta được thuê bởi Aricia, Northern Case Mutual và Monarch-Sierra để tìm kiếm Patrick.”

      "Thế ư?"

      "Xin hãy xem đây,” Sandy với nụ cười trong khi đưa ra bộ ảnh màu rút ra từ hồ sơ. Mims trải những tấm ảnh ra mặt bàn — những vết bỏng khủng khiếp của Patrick được phơi bày lồ lộ.

      “Đây là những hình được đăng các báo phải ?" Ông ta hỏi.

      số trong đó.”

      “Phải rồi, tôi nghĩ là ông cho phổ biến những tấm ảnh này khi ông kiện FBI.”

      “FBI gây ra những vết thương này cho thân chủ của tôi, ông Mims ạ.”

      “A, ra vậy." Mims buông những tấm ảnh xuống và chờ nghe Sandy.

      phải là FBI tìm ra Patrick.”

      “Vậy tại sao ông lại kiện họ ?”

      “Gây tác động tới công chúng, cốt để tranh thủ thông cảm dành cho thân chủ của tôi.”

      ăn thua đâu.”

      “Có thể là với ông, nhưng mà ông phải là thành viên trong hội thẩm đoàn, có phải ? Dù sao chăng nữa những vết thương này cũng là hậu quả của cuộc tra tấn kéo dài, được tiến hành bởi những kẻ làm việc cho Stephano, người này lại làm việc cho số khách hàng mà trong đó có Northern Case Mutual, công ty cổ phần hữu hạn có tiếng là có trách nhiệm với các cổ đông và có phần vốn cố định do các cổ đông đóng góp là sáu tỉ đôla.”

      Talbot Mims là người có đầu óc thực tiễn. Ông ta buộc phải như vậy. Với ba trăm hồ sơ phải theo dõi trong văn phòng của ông ta và muời tám Hãng bảo hiểm lớn là các khách hàng, ông ta có thời giờ để dằng dai. “Có hai câu hỏi,” ông ta . “Thứ nhất là ông có thể chứng minh điều đó ?”

      “Có. FBI có thể xác nhận điều đó.”

      “Thứ hai. Ông muốn gì ?”

      “Tôi muốn quan chức cấp cao của Northern Case Mutual có mặt tại đây, trong căn phòng này, vào ngày mai, ai đó với thẩm quyền tuyệt đối.”

      “Họ là những nhân vật hết sức bận bịu đấy.”

      “Tất cả chúng ta đều bận bịu. Tôi đe dọa vụ kiện, nhưng hãy nghĩ xem chuyện đó có thể gây lúng túng đến mức nào.”

      “Với tôi có vẻ như ông đe dọa.”

      “Tùy ý ông hiểu thế nào cũng được.”

      “Mấy giờ ngày mai ?”

      “Bốn giờ chiều.”

      “Chúng tôi tới đây,” Mims , với cái bắt tay. Thế rồi, ông ta vội vàng ngay, đám thuộc hạ chạy gằn theo sau.

      Nhóm phụ tá của chính Sandy đến vào tầm giữa buổi chiều. thư ký lo vụ trả lời điện thoại, mà vào lúc đó cứ mười phút lại có cú phone. Sandy đặt những cú điện thoại gọi tới Cutter, T.L.Parrish, cảnh sát trưởng Sweeney, tới Mark Birck ở Miami, tới Thẩm phán Huskey, tới số luật sư ở Biloxi, và tới Maurice Mast, công tố viên Liên bang của khu vực miền Tây Mississippi. Về việc riêng, cũng gọi hai lần cho vợ để biết tình hình gia đình.

      chuyện hai lần với Hal Ladd điện thoại, nhưng mới chỉ gặp ông ta lần đầu tiên tại căn hộ Camille. Ladd đại diện cho Monarch-Sierra. Ông ta đến có mình, điều làm cho Sandy hơi ngạc nhiên bởi lẽ các luật sư của các Hãng bảo hiểm luôn luôn thành cặp. Cho dù là nhiệm vụ trước mắt là thế nào, cứ phải có hai người bọn họ trước khi có thể bắt đầu công việc. Cả hai cùng nghe, cùng nhìn, cùng ghi chép, và điều quan trọng nhất là cùng tính tiền khách hàng cho cùng công việc đó. Cũng có gì là ngạc nhiên lắm khi Sandy còn biết có hai Hãng lớn ở New Orleans chấp nhận phương cách bộ ba trong các vấn đề pháp lý liên quan tới bảo hiểm.

      Ladd là người có vẻ nghiêm túc ở vào cuối tuổi bốn mươi, và có tiếng là cần đến trợ giúp của luật sư nào khác, ông ta lịch lấy chai côca côla và ngồi vào đúng cái ghế mà Talbot Mims ngồi trước đó.

      Sandy hỏi ông ta cùng câu hỏi. “Ông có biết người tên là Jack Stephano ?”

      Ông ta đáp , và Sandy điểm lại những nét chính. Tiếp đó, ta trải những tấm ảnh chụp các vết thương của Patrick lên mặt bàn, và họ trao đổi về những tấm ảnh đó trong vài phút. Những vết bỏng này phải là do FBI gây ra, Sandy giải thích. Ladd hiểu vấn đề. Làm đại diện cho các Hãng bảo hiểm trong nhiều năm, từ lâu ông ta còn ngạc nhiên với những độ sâu mà người ta có thể chìm xuống. Dẫu rằng vậy, điều này cũng gây choáng váng. “Giả thiết rằng ông có thể chứng minh được điều này,” Ladd , “Tôi tin chắc là thân chủ của tôi muốn giữ im mọi chuyện.”

      “Chúng tôi sẵn sàng sửa lại vụ kiện của mình, bỏ FBI ra, và đưa vào danh sách bị cáo tên của thân chủ của ông, Northern Case Mutual, Aricia, Stephano và bất kỳ ai khác phải chịu trách nhiệm về cuộc tra tấn này. Đó là trường hợp công dân Mỹ bị các bị cáo cũng là người Mỹ cố tình gây thương tích và thương tật. Vụ này có giá nhiều triệu. Chúng tôi ra trước tòa ngay ở Biloxi này.”

      Chuyện như vậy nếu Ladd có thể làm được điều gì đó. Ông ta đồng ý gọi ngay lập tức cho Monarch-Sierra và đòi tay luật sư chính của Hãng gác mọi việc để bay ngay tới Biloxi. Ông ta bực bội với việc khách hàng của mình tài trợ cho cuộc tìm kiếm đó mà báo cho ông ta biết tí gì. “Nếu đúng như vậy," ông ta , “tôi bao giờ đại diện cho họ nữa.”

      ‘"Hãy tin tôi. Đúng như vậy đấy.”

      oOo

      Vào lúc gần tối Paulo bị bịt mắt, khóa tay và được dẫn ra khỏi ngôi nhà. có mũi súng nào dí vào ông, có lời đe dọa nào hết. hề có tiếng nào cả. Ông ngồi băng sau của chiếc xe , có mình, và được chở trong khoảng giờ hơn. Chiếc đài trong xe phát ra những bản nhạc cổ điển.

      Khi xe dừng lại, hai cánh cửa trước mở ra, và Paulo đuợc đỡ ra khỏi xe. “Hãy theo tôi,” giọng vang lên bên tai ông, và bàn tay to lớn nắm lấy khuỷu tay ông. Mặt đường dưới chân ông là đường đất. Họ khoảng trăm mét dừng lại. Giọng kia lại cất lên, “Ông con đường cách Rio hai mươi kilômét. Về phía bên trái ông, cách ba trăm mét, là trang trại có điện thoại. Hãy đến đó để cầu được giúp đỡ. Tôi có súng. Nếu như ông quay lại, tôi còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải giết ông.”

      “Tôi quay lại,” Paulo , toàn thân ông run lên.

      “Tốt. Trước tiên, tôi mở khóa tay cho ông, sau đó tôi cởi băng bịt mắt.”

      Chiếc khóa tay được tháo ra. “Bây giờ, tôi cởi băng bịt mắt. nhanh về phía trước.”

      Chiếc băng bịt mắt được gỡ ra, Paulo hơi cúi đầu và bắt đầu chạy chầm chậm. có tiếng động nào phía sau ông. Ông cũng dám ngoái đầu lại. Từ cái trang trại kia, ông gọi điện cho cảnh sát, rồi sau đó, gọi cho con trai mình.

      John Grisham

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 33

      C ác phóng viên tòa án đến đúng vào lúc tám giờ, cả hai đều có tên là Linda — mang chữ i và mang chữ y. Họ chìa danh thiếp ra và theo Sandy vào trong căn phòng làm việc, nơi mà đồ đạc đều được đẩy vào sát tường và những cái ghế được đặt thêm vào. ta mời Y ngồi ở đầu phòng, lưng quay ra cửa sổ có tấm rèm khép kín, và để I ngồi ở đầu phòng kia, trong cái xó cạnh quầy bar với góc quan sát rất rộng. Cả hai đều muốn được làm hơi thuốc sau cùng, và ta chỉ cho họ vào căn phòng ngủ đằng xa nhất.

      Jaynes đến sau đó, cùng người lái xe, nhân viên đặc biệt luống tuổi làm nhiệm vụ vừa bảo vệ, vừa canh chừng, vừa lo việc vặt; ông ta còn mang theo luật sư của FBI; cùng với Cutter và viên cấp trực tiếp của Cutter nữa. Đại diện cho Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp là Sprawling, tay kỳ cựu với cặp mắt màu tối, ít nhưng nghe nhiều, cả sáu người đều mặc complê màu đen hoặc xanh đen; họ đều chìa danh thiếp ra, và chàng phụ tá của Sandy tiếp nhận tất cả. thư ký hỏi họ muốn uống cà phê như thế nào trong lúc họ từ tốn kéo nhau ngang qua phòng khách để cùng vào phòng làm việc.

      Tiếp đó là Maurice Mast, công tố viên Liên bang của khu vực miền Tây Mississippi, cùng chỉ có trợ lý. Sau ông ta là T.L.Parrish, đến có mình, và cuộc họp này sẵn sàng để bắt đầu.

      Đâu cũng có những thứ tôn ti trật tự nhất định. Người lái xe của Jaynes và tay trợ lý của Mast ở lại trong gian phòng khách, nơi để sẵn khay bánh ngọt và báo buổi sáng.

      Sandy đóng cửa lại, lời “chào buổi sáng” nhã nhặn và cảm ơn tất cả về diện của họ. Họ được mời ngồi xung quanh phòng. nụ cười nào, nhưng phải là họ hài lòng khi có mặt ở đây. Tất cả đều cảm thấy tò mò.

      Sandy giới thiệu hai phóng viên tòa án, và giải thích rằng biên bản cuộc họp do chính giữ và được coi là tuyệt đốỉ bí mật. Điều này có vẻ làm cho tất cả đều bằng lòng. Chưa có câu hỏi hay nhận xét nào lúc này bởi lẽ họ còn chưa biết cuộc họp diễn ra thế nào.

      Sandy cầm tập giấy tờ được sắp xếp cẩn thận, phần trình bày của được gói gọn trong khoảng hơn chục trang gì đó. thậm chí có thể đối mặt với hội thẩm đoàn. Lời chào từ thân chủ của ta, Patrick, được chuyển lại cùng với lời thông báo rằng các vết bỏng lành lại nhanh chóng. Thế rồi, tóm tắt lại những cáo buộc có đối với Patrick; tiểu bang buộc tội cố sát; Liên bang buộc tội trộm cắp, lừa đảo và chạy trốn. Tội cố sát có thể dẫn tới án tử hình. Những tội khác có thể dẫn tới tổng cộng ba mươi năm tù giam.

      “Các cáo buộc của Liên bang là nghiêm trọng,” Sandy trịnh trọng . “Nhưng chúng lại đáng gì so với những cáo buộc về tội cố sát. thẳng ra, và với tất cả tôn trọng thích đáng, chúng tôi muốn được giải quyết dứt điểm với các giới chức Liên bang để có thể tập trung vào những cáo buộc về tội cố sát.”

      “Ông tính giải quyết dứt điểm với chúng tôi như thế nào ?” Jaynes hỏi.

      “Chúng tôi có đề nghị.”

      “Có liên quan tới chỗ tiền đó ?”

      “Quả thực là có.”

      “Chúng tôi cầu gì về chỗ tiền đó. Chính phủ Liên bang bị mất cắp.”

      “Đó chính là chỗ ông nhầm.”

      Sprawling ngứa ngáy. “Ông có thực nghĩ là ông có thể dàn xếp ổn được vụ này hả ?” Đó là lời thách thức nhiều hơn là câu hỏi. Giọng cộc cằn của ông ta thẳng băng, lời lẽ đầy ấn tượng.

      Cái “hội thẩm đoàn” này phản công, nhưng Sandy quyết tâm theo đúng kịch bản của mình. “Gượm ,” ta . “Xin quý vị cho phép tôi trình bày lập luận của mình, rồi chúng ta bàn tới các khả năng. Bây giờ, tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều biết về tố cáo hồi năm 1991 của ông Aricia đối với Hãng của ông ta theo đạo luật quy định về những tố cáo như vậy. Tố cáo đó được chuẩn bị và trình tòa bởi Hãng luật Bogan ở Biloxi này, Hãng mà vào lúc đó gồm cả cổ đông mới có tên là Patrick Lanigan. Vụ tố cáo đó là lừa lọc. Thân chủ của tôi phát ra điều đó, rồi lại biết rằng Hãng chuẩn bị hất ta ra, sau khi Bộ Tư pháp chấp thuận tố cáo, nhưng trước khi tiền được chuyển đến. Trong nhiều tháng trời, thân chủ của tôi ngầm thu thập các bằng chứng chứng tỏ, cách ràng và thuyết phục, rằng ông Aricia và các luật sư của ông ta đồng lõa để lừa gạt của chính phủ chín mươi triệu đôla. Các bằng chứng này là những tài liệu và những cuộc đối thoại được ghi lại."

      “Các bằng chứng đó đâu ?” Jaynes hỏi.

      “Chúng do thân chủ của tôi kiểm soát."

      “ Ông biết là chúng tôi có thể thu giữ chúng. Chúng tôi có thể xin lệnh khám và thu lại những bằng chứng đó bất kỳ lúc nào chúng tôi muốn.”

      “Thế nếu thân chủ của tôi tôn trọng cái lệnh khám của ông sao ? Nếu như ta thủ tiêu chúng, hay đơn giản là lại giấu chúng sao ? Lúc đó ông làm gì ? Giam ta lại ư ? Truy tố ta thêm tội gì đó nữa sao ? thẳng ra là ta sợ các ông và những lệnh khám của các ông."

      “Còn ông sao ?” Jaynes hỏi. “Nếu ông giữ chúng chúng tôi có thể xin lệnh khám đối với ông đấy.”

      “Tôi đưa ra đâu. Bất kỳ những gì thân chủ của tôi trao cho tôi đều được pháp luật bảo đảm và phải được giữ bí mật, ông biết mà. Cái đó được gọi là kết quả lao động của luật sư. Chớ quên rằng ông Aricia kiện thân chủ của tôi. Tất cả các tài liệu trong tay tôi là có đặc quyền pháp lý. Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi cũng trao ra các tài liệu đó, cho tới khi thân chủ của tôi cầu làm như vậy.”

      “Nếu chúng tôi có lệnh của tòa án sao ?" Sprawling hỏi.

      “Tôi chấp nhận, rồi kháng nghị. Các ông thể thắng được trong chuyện này đâu, thưa các quý ông.” Và với tuyên bố đó của Sandy, họ có vẻ chấp nhận thất bại. có ai phản đối gì.

      “Có bao nhiêu người liên quan ?” Jaynes hỏi.

      “Bốn cổ đông ở Hãng luật và ông Aricia.”

      khoảng im lặng nặng nề trong khi họ chờ đợi Sandy nêu tên của vị Thượng nghị sĩ kia, thế nhưng gì. Thay vì đó, nhìn vào những giấy tờ của mình và tiếp tục. “Thỏa thuận hoàn toàn đơn giản. Chúng tôi trao những tài liệu và những cuộn băng kia. Patrick trả lại tiền, tất cả. Đổi lại, các cáo buộc của Liên bang phải được từ bỏ để chúng tôi có thể tập trung vào cáo buộc của bang. Cơ quan thuế Liên bang đồng ý động gì đến ta. luật sư người Braxin của ta, Eva Miranda, được thả ra ngay lập tức.” Sanđy những điều kiện này cách rất rành mạch bởi lẽ chúng được tính toán kỹ càng, và cái “hội thẩm đoàn” kia nghe lọt chữ nào. Sprawling ghi chép lại cẩn thận. Jaynes đưa mắt nhìn xuống sàn nhà, cười, cũng cau mày. Số còn lại đều bình thản, nhưng mỗi người đều bị ám ảnh bởi nhiều câu hỏi trong đầu.

      “Và phải được thỏa thuận trong ngày hôm nay,” Sandy thêm. “Có lẽ là cần phải khẩn cấp.”

      “Vì sao ?” Jaynes hỏi.

      “Bởi vì ấy bị giam. Bởi vì tất cả các ông đều có mặt ở đây, và các ông có thẩm quyền để ra quyết định. Bởi vì thân chủ của tôi lấy năm giờ chiều nay làm thời hạn cho thỏa thuận, nếu ta giữ lại tiền, thủ tiêu các bằng chứng, chấp nhận ngồi tù, và hy vọng được tự do vào ngày nào đó.”

      Với Patrick họ dám nghi ngờ gì. Cho tới lúc này, làm được cái việc là ngồi tù trong căn phòng khá riêng tư với cả bộ máy giúp việc luôn sẵn sàng trước mỗi cái gật đầu hay mỗi cú điện thoại của .

      “Chúng ta hãy về ông Thượng nghị sĩ kia,” Sprawling .

      ý kiến hay lắm,” Sandy . ta mở cánh cửa thông sang căn phòng khách và gì đó với phụ tá. cái bàn có đặt dàn máy ghi và loa được đẩy vào giữa phòng. Sandy nhìn xuống xấp giấy tờ và , “Đó là ngày 14 tháng Giêng năm 1992, chừng ba tuần lễ trước khi Patrick biến mất. Cuộc chuyện này diễn ra trong Hãng luật, ở tầng trệt, tại căn phòng được gọi là phòng để đồ, cái phòng có thể dùng cho mọi việc và đôi khi có thể được dùng cho những cuộc họp rất ít thành phần tham dự. Giọng đầu tiên mà quý vị nghe thấy là của Charlie Bogan, tiếp đó là Benny Aricia, rồi sau là Doug Vitrano. Aricia đến Hãng mà báo trước, và như quý vị thấy, ở trong tâm trạng được vui vẻ cho lắm.”

      Sandy bước đến bên bàn và nhìn các nút bấm. Cái dàn máy này mới tinh và được nối với hai chiếc loa loại đắt tiền. Họ chăm chăm nhìn ta, hầu hết đều hơi nhỏm người lên chút.

      Sandy , “Xin nhắc lại, Bogan đầu tiên, rồi Aricia, rồi Vitrano.” ta nhấn cái nút. Có khoảng mười giây hoàn toàn im ắng, rồi những tiếng phát ra ràng từ những chiếc loa. Những giọng gay gắt.

      Bogan: Chúng ta thỏa thuận về khoản thù lao phần ba, đó là chuẩn mực của chúng tôi. Ông ký hợp đồng. Từ cả năm rưỡi nay ông biết khoản thù lao của chúng tôi là phần ba.

      Aricia: Các ông đáng được hưởng tới ba mươi triệu đôla.

      Vitrano: Còn ông đáng được hưởng sáu mươi triệu.

      Aricia: Tôi muốn biết tiền được chia như thế nào.

      Bogan: Hai phần ba, phần ba. Sáu mươi, ba mươi.

      Aricia: , . Khoản ba mươi triệu chạy vào đây cơ. Bao nhiêu cho những ai ?

      Vitrano: Đó phải là việc của ông.

      Aricia: Mẹ kiếp, sao lại . Đó là tiền do tôi trả thù lao. Tôi có quyền biết ai được bao nhiêu.

      Bogan: , ông có quyền.

      Aricia: Ông Thượng nghị sĩ được bao nhiêu ?

      Bogan: phải việc của ông.

      Aricia: (La hét) Đó là việc của tôi. Thằng cha đó vận động suốt cả năm ngoái ở Oasinhtơn, dựa vào những người ở Hải quân, Lầu Năm góc và Bộ Tư pháp. Mẹ kiếp, ông ta dành nhiều thời gian cho vụ của tôi còn hơn cả thời gian cho các khu vực cử tri của ông ta đấy.

      Vitrano: Đừng có hét lên, được chứ, Benny.

      Aricia: Tôi muốn biết thằng cha xảo quyệt nhầy nhụa đó được bao nhiêu. Tôi có quyền biết các ông ngầm chia chác thế nào, bởi vì đó là tiền của tôi.

      Vitrano: Tất cả đều là ngầm cả mà, Benny.

      Aricia: Bao nhiêu ?

      Bogan: Ông ấy được chăm sóc tử tế, Benny. Sao ông cứ bám mãi vào chuyện này thế? Chuyện này đâu có gì là mới.

      Vitrano: Tôi nghĩ rằng ông lựa chọn Hãng này, cụ thể là do những mối liên hệ của chúng tôi ở Oasinhtơn.

      Aricia: Năm triệu hay mười triệu hả ? Giá của ông ta là bao nhiêu ?

      Bogan: bao giờ ông biết được điều đó đâu.

      Aricia: à, mẹ kiếp. Tôi gọi cho thằng cha chó đẻ đó và đích thân hỏi cho mà xem.

      Bogan: Xin cứ việc.

      Vitrano: Ông sao vậy hả, Benny ? Ông sắp kiếm được sáu mươi triệu đôla, và bây giờ ông trở nên tham lam đấy.

      Aricia: Đừng có lên mặt dạy đời, nhất là về lòng tham. Khi tôi tới đây, các ông làm việc với giá hai trăm đôla giờ. Bây giờ thử nhìn lại xem, các ông cố bao biện cho khoản thù lao ba mươi triệu đôla. sửa sang trụ sở. đặt mua những chiếc xe mới. Rồi tàu thuyền, máy bay và tất cả những thứ đồ chơi khác của giới giàu có. Và tất cả đều là bằng tiền của tôi.

      Bogan: Tiền của ông à ? Chúng ta quên mất chuyện gì ở đây chăng, Benny ? Giúp tôi chút xem nào. tố cáo của ông là giả dối như tờ ba đôla vậy.

      Aricia: Phải, nhưng mà tôi làm nên chuyện. Tôi, chứ phải các ông, làm cho Platt & Rockland sa bẫy.

      Bogan: Vậy sao ông lại thuê chúng tôi ?

      Aricia: Hỏi vớ hỏi vẩn.

      Vitrano: Ông có trí nhớ tồi, Benny. Ông tìm đến đây là vì thế mạnh của chúng tôi. Ông cần giúp đỡ. Chúng tôi sắp xếp tố cáo đó đâu vào đấy, phải làm việc bốn nghìn giờ với nó, và chúng tôi có những tác động đúng chỗ ở Oasinhtơn. Tất cả đều được ông biết , tôi có thể thêm như vậy.

      Aricia: Gạt thằng cha Thượng nghị sĩ ra. Điều đó làm cho chúng ta đỡ tốn được mười triệu. Cắt bớt mười triệu nữa, vậy là các ông còn lại cho bản thân mười triệu. Theo ý tôi đó là khoản thù lao công bằng hơn nhiều đấy.

      Vitrano: (Cười ầm lên) Tuyệt lắm, Benny. Ông được tám mươi, bọn tôi mười.

      Aricia: Phải, và chúng ta cùng chơi bọn chính trị gia kia.

      Bogan: thể được, Benny. Ông quên điều rất quan trọng. Nếu có chúng tôi và các chính trị gia kia ông cũng chẳng kiếm được đồng xu nào đâu.

      Sandy nhấn nút. Cuộn băng dừng lại, nhưng những tiếng đó còn như văng vẳng quanh phòng hồi lâu. Những người trong cuộc nguời nhìn xuống sàn, người nhìn lên trần, lên tường, mỗi người đều cố nhớ những gì mà họ nghe thấy.

      Vói nụ cười thoải mái, Sandy , “Thưa quý vị, đây mới chỉ là mẩu bằng chứng.”

      “Khi nào chúng tôi có nốt những gì còn lại ?” Jaynes hỏi.

      “Có thể là chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ.”

      “Thân chủ của ông cung khai trước đoàn đại bồi thẩm Liên bang chứ ?” Sprawling hỏi.

      ta đồng ý. Nhưng ta hứa là cung khai trước tòa.”

      “Vì sao ?”

      ta phải giải thích. Đó là lập trường của ta, thế thôi.” Sandy đẩy cái bàn ra cửa, gõ cửa, và trao nó lại cho người phụ tá, rồi quay lại tiếp, “Quý vị nên bàn bạc. Tôi ra ngoài. Xin cứ thoải mái cho.”

      “Chúng tôi bàn bạc gì ở đây cả,” Jaynes nhảy dựng lên. Có quá nhiều dây rợ lằng nhằng, và với những gì Patrick làm có căn phòng nào an toàn cả. “Chúng tôi tới phòng của chúng tôi.”

      “Xin tùy ý,” Sandy . Họ đứng cả dậy, tay vớ cặp. Họ kéo nhau qua cửa, qua căn phòng khách và ra khỏi căn hộ. Lynda và Linda chạy vội tới căn phòng ngủ lúc nãy để vệ sinh và hút thuốc.

      Sandy pha ly cà phê và ngồi chờ.

      oOo

      Họ tập hợp lại ở cách đó hai tầng về phía dưới, trong căn phòng đôi mà ngay lập tức trở nên chật chội. Những chiếc áo khoác được cởi ra và ném lên đống chăn gối cả hai chiếc giường. Jaynes bảo người lái xe của ông ta chờ ngoài hành lang cùng với tay trợ lý của Mast. Những vấn đề sắp được bàn tới là quá nhạy cảm đối với những đôi tai của họ.

      Bên mất lớn nhất trong thỏa thuận này là Maurice Mast. Nếu như phải từ bỏ các cáo buộc của Liên bang ông ta còn gì để mà truy tố nữa. phiên tòa khá lớn biến mất, và ông ta cảm thấv ít nhất cũng phải đưa ra lời phản đối trước khi những người khác lên tiếng. “Ta trở thành ngớ ngẩn nếu để chuồn êm được với vụ này,” ông ta , chủ yếu là hướng vào Sprawling, người cố xoay sở lấy tư thế thoải mái chiếc ghế gỗ mỏng manh.

      Sprawling chỉ ở cương vị thấp hơn chính ông Bộ trưởng Tư pháp có cấp, và cao hơn Mast tới mấy cấp. Ông ta lịch lắng nghe trong ít phút ý kiến của đám cấp dưới và rồi cùng Jaynes đưa ra quyết định.

      Hamilton Jaynes đưa mắt nhìn T.L.Parrish, và hỏi, “ Ông có lý do để tin rằng ông có thể khép được Lanigan vào tội cố sát hả ?”

      Parrish thuộc loại người thận trọng, và ông ta hoàn toàn biết rằng bất kỳ lời hứa nào trước nhóm người này đều cũng được nhớ rất lâu. “Cố sát có thể có vài rắc rối. Ngộ sát chắc chắn.”

      “Ngộ sát bao nhiêu năm ?”

      “Hai mươi năm.”

      phải ngồi tù bao lâu ?”

      “Năm năm, hơn hoặc kém chút ”

      Kỳ cục là điều này dường như làm cho Jaynes, tay nhà nghề luôn nghĩ rằng những kẻ vi phạm cần phải bị ngồi tù, lại cảm thấy hài lòng. “Ông đồng ý chứ, Cutter?” Ông ta vừa hỏi vừa lại dọc theo chiếc giường.

      có nhiều bằng chứng,” Cutter . “Trong vụ giết người này, chúng ta thể chứng minh những yếu tố như ai, bằng cách nào, khi nào hay ở đâu. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi biết nguyên nhân vì sao, nhưng phiên tòa đó có thể là cả cơn ác mộng. Ngộ sát dễ dàng hơn nhiều.”

      Jaynes hỏi Parrish, “Ông Thẩm phán sao ? Liệu ông ấy có tuyên khung hình phạt cao nhất ?”

      “Nếu bị kết tội ngộ sát, tôi cho rằng ông Thẩm phán tuyên án hai mươi năm. Việc ân xá là do bên nhà tù quyết định.”

      “Chúng ta có thể yên tâm cho rằng trong năm năm tới Lanigan ngồi tù được ?” Jaynes hỏi và nhìn quanh phòng.

      “Vâng, chắc chắn,” Parrish vẻ thụ động. “Và chúng tôi cũng lùi bước trước vấn đề cố sát. Chúng tôi có ý định kiên quyết lập luận rằng Lanigan giết người khác để có thể đánh cắp được chỗ tiền kia. Án tử hình chắc, nhưng nếu bị khép vào tội giết người bình thường thôi cũng đủ lãnh án chung thân rồi.”

      “Với chúng ta có gì khác biệt trong việc phải ngồi tù ở Parchman hay trong nhà tù của Liên bang ?” Jaynes hỏi. Với ông ta ràng là chẳng có gì khác.

      “Tôi tin chắc là Patrick hiểu khác biệt này,” Parrish , và nhận được vài tiếng cười khẽ.

      Parrish đặc biệt thích thỏa thuận này bởi lẽ ông ta trở thành công tố viên còn lại duy nhất. Mast và FBI nhanh chóng rút ra khỏi vụ này. Còn khoảng trống, và ông ta quyết định đẩy Mast gần lại bờ vực thêm chút nữa. “Tôi nghi ngờ gì là Patrick phải ngồi tù, ở Parchman,” ông ta .

      Mast chịu im. Ông ta lắc đầu và cau mày. “Tôi chắc chuyện đó,” ông ta . “Tôi cho rằng chúng ta mất uy tín nếu chấp nhận thỏa thuận này. Người ta thể cướp nhà băng, rồi khi bị bắt đề nghị đem trả lại tiền nếu bị buộc tội nữa. Công lý thể rao bán được.”

      “Chuyện hơi phức tạp hơn thế chút,” Sprawling . “Đột nhiên chúng ta có khả năng tóm được con cá lớn hơn, và Patrick là chiếc chìa khóa. Tiền mà đánh cắp là thứ tiền bẩn thỉu. Đơn giản là chúng ta thu hồi và trả lại cho những người đóng thuế."

      Mast dám tranh cãi với Sprawling.

      Jaynes nhìn T.L.Parrish và . “Mặc dù rất tôn trọng ông, ông Parrish, tôi xin ông ra ngoài lát. Bên Liên bang chúng tôi cần thảo luận chút xíu.”

      “Được thôi,” Parrish đáp.

      Bàn cãi thế là đủ. đến lúc để Sprawling kết luận vấn đề. “Thưa quý vị, chuyện rất đơn giản. Có những người rất quan trọng ở Nhà Trắng theo dõi vụ này sát sao. Thượng nghị sĩ Nye chưa bao giờ là người bạn của Tổng thống, và thẳng ra vụ bê bối lớn ở đây làm cho chính quyền vui mừng. Cái ghế của Nye được bầu lại trong hai năm nữa. Nhũng tố cáo này làm cho ông ta phải bận bịu. Và nếu đúng ông ta coi như chết rồi.”

      “Chúng tôi tiến hành điều tra,” Jaynes với Mast. “Và ông tiến hành việc truy tố.”

      Đột nhiên, mọi thứ trở nên ràng với Mast là cuộc họp này chỉ vì ông ta. Quyết định tới chỗ thỏa thuận với Patrick được sắp xếp từ trước cuộc họp này bởi những người có thế lực hơn Sprawling và Jaynes nhiều. Họ chỉ cố làm cho ông ta được hài lòng mà thôi, bởi lẽ rốt cuộc ông ta cũng là công tố viên Liên bang của khu vực này.

      Cái ý nghĩ về việc được buộc tội và truy tố Thượng nghị sĩ Mỹ có tác động rất lớn và Mast ngay lập tức mơ màng với nó. Ông ta có thể hình dung thấy mình giữa phiên tòa chật ních, phát lại cuộn băng của Patrick và hội thẩm đoàn cùng những người dự phiên tòa nghe chăm chú từng chữ. “Vậy chúng ta chấp nhận thỏa thuận này hả ?” Ông ta vừa vừa nhún vai như thể còn biết gì hơn.

      “Phải.” Sprawling . “ vụ tuyệt lắm. Uy tín của chúng ta tăng lên với việc lấy lại được chỗ tiền. Patrick vẫn phải ngồi tù thời gian dài. Chúng ta lại còn găm đuợc những con mồi lớn hơn.”

      “Cộng với việc Tổng thống cũng muốn thế nữa chứ,” Mast vừa vừa cười, mặc dù chẳng có ai khác cười theo.

      "Tôi như vậy,” Sprawling lên tiếng, “ Tôi chưa hề chuyện với Tổng thống về vụ nàv. Các sếp của tôi chuyện với người của Tổng thống. Đó là tất cả những gì tôi biết.”

      Jaynes lôi T.L Parrish từ ngoài hành lang vào, và họ mất gần giờ để rà lại đề nghị của Patrick, xem xét lại từng phần trong đề nghị đó. kia có thể được thả ra trong vòng tiếng đồng hồ. Patrick cũng phải trả lãi cho chỗ tiền đó, họ quyết định. Còn vụ kiện mà đệ ra tòa đối với FBI sao ? Jaynes lập danh mục các vấn đề để nêu lại với Sandy.

      Tại Miami, Mark Birck đích thân chuyển đến Eva cái tin tuyệt vời là cha nàng được trả lại tự do. Ông bị làm hại gì cả; mà thực tế là còn được đối xử khá tốt nữa.

      Ông ta với nàng rằng với chút may mắn bản thân nàng cũng được trả lại tự do trong hoặc hai ngày nữa.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 34

      M ặt mũi trịnh trọng và hề bộc lộ gì, họ trở lại căn hộ Camille và lại ngồi vào chỗ cũ. Hầu hết đều bỏ áo khoác lại trong căn phòng kia, và đều xắn tay áo lên, nới lỏng cavát, vẻ như đầu tắt mặt tối với công việc vậy. Theo đồng hồ của Sandy, họ vắng mặt tới gần tiếng rưỡi. Lúc này, Sprawling là người phát ngôn của họ.

      “Về chỗ tiền,” ông ta bắt đầu, và Sandy lập tức biết rằng họ thỏa thuận. Bây giờ chỉ còn là vấn đề chi tiết. "Thân chủ của ông muốn trả lại bao nhiêu ?"

      “Tất cả.”

      “Tất cả số có chứ ?"

      “Tất cả chín mươi triệu.”

      “Còn lãi suất sao ?”

      “Ai lại quan tâm tới chuyện lãi suất cơ chứ ?"

      “Chúng tôi.”

      “Vì sao ?"

      “Cũng chỉ là công bằng thôi.”

      “Công bằng với ai ?”

      “Hả, với những người đóng thuế.”

      Sandy thực cười phá lên. "Thôi nào. Các ông làm việc cho chính phủ Liên bang. Các ông lo lắng tới việc bảo vệ cho những người đóng thuế từ khi nào vậy ?"

      “ Đó là chuẩn mực trong những vụ liên quan tới trộm cắp và biển thủ,” Maurice Mast chêm vào.

      “Bao nhiêu hả ?” Sandy hỏi. “Với tỉ lệ nào ?”

      “Cơ bản là chín phần trăm,” Sprawling . “Thế là công bằng, tôi nghĩ như vậy.”

      là ông nghĩ vậy ư ? Cơ quan thuế Liên bang trả lại bao nhiêu khi họ xác định là tôi phải nộp quá nhiều và hoàn thuế cho tôi hả ?”

      ai có thể trả lời. “Sáu phần trăm,” Sandy . “Sáu phần trăm tồi tệ đó là tỉ lệ mà chính phủ trả.”

      Sandy, dĩ nhiên, tính toán trước điều này. ngừa sẵn các câu hỏi và chuẩn bị những câu trả lời, và tức cười khi trông họ lúng ta lúng túng để cố mà theo kịp vấn đề.

      “Vậy là ông đề nghị sáu phần trăm phải ?" Sprawling hỏi. Ông ta chậm và thận trọng.

      "Đương nhiên là rồi. Chúng tôi nắm tiền; chúng tôi quyết định trả bao nhiêu. Đó cũng là nguyên tắc mà chính phủ áp dụng. Chúng ta hãy hình dung đơn giản là cứ để chỗ tiền đó quay trở lại với cái túi thủng ở Lầu Năm góc.”

      “Chúng tôi thể chấp nhận thế được,” Jaynes . Ông ta mệt mỏi và muốn nghe dài dòng gì nữa.

      “Chúng ta phải nhìn chỗ tiền đó theo cách thế này,” Sandy . “Lẽ ra mất hoàn toàn, rơi vào túi những kẻ lừa đảo đê tiện và bao giờ còn thấy đâu nữa. Thân chủ của tôi ngăn chặn được việc đó, giữ lại chỗ tiền, và giờ đây sẵn sàng trả lại.”

      “Vậv chúng tôi phải có thưởng cho ta hả ?” Jaynes hỏi.

      . Có điều đừng tính lãi thôi.’’

      “Chúng tôi phải trình bày lại vụ này với số người ở Oasinhtơn,” Sprawling , hẳn là nài nỉ, nhưng ràng cũng mềm xuống. “Hãy để cho trong tay chúng tôi có cái gì chứ.”

      “Chúng tôi trả nửa tỉ lệ của Cơ quan thuế Liên bang, và thêm xu nào nữa.”

      Với vẻ mặt của tay cờ bạc chuyên nghiệp, Sprawling , "Tôi trình bày lại với ông Bộ trưởng Tư pháp. Hy vọng là ông ấy ở trong tâm trạng vui vẻ.”

      “Cho tôi gửi lời chào đến ông ấy nhé,” Sandy .

      Jaynes ngừng ghi chép ngước mắt nhìn lên và hỏi, “Ba phần trăm phải ?”

      “Đúng thế. Từ ngày 26 tháng Ba năm 1992 đến ngày 1 tháng Mười năm 1996. Tổng cộng trăm mười ba triệu, cùng với chút lẻ mà chúng tôi bỏ qua. trăm mười ba triệu chẵn.”

      Con số đó nghe sướng tai, và đương nhiên là lọt tai mấy tay quan chức này của chính phủ. Mỗi người họ đều ghi nó vào sổ tay. Nghe được lắm. Ai còn có thể bàn tán gì về thỏa thuận mang lại ngần ấy tiền trở về tay những người đóng thuế ?

      Đề nghị này được đưa ra chỉ có thể có nghĩa duy nhất là Patrick đầu tư số tiền đó cách rất sinh lợi. Đám người của Sprawling trước đó bỏ qua mất vài con số. Cứ cho rằng Patrick bỏ tất cả số tiền đó vào những khoản đầu tư mang lại tám phần trăm lãi năm, tổng số tiền đó giờ đây lên tới trăm ba mươi mốt triệu. Mười phần trăm, con số đó trăm bốn mươi bốn triệu. phải đóng thuế là lẽ dĩ nhiên. Và có vẻ như là Patrick chi tiêu gì nhiều lắm, bởi vậy cũng vẫn còn là người rất giàu.

      "Tất cả chúng tôi đều quan tâm tới vụ kiện mà ông thay mặt Lanigan đệ ra tòa,” Sprawling .

      “Chúng tôi đưa FBI ra khỏi hồ sơ khởi kiện, thế nhưng tôi cần ông Jaynes làm ơn cho chút. Chúng ta có thể thảo luận chuyện đó sau. Đó là chuyện .”

      “Được. Trở lại chuyện nay nhé. Khi nào thân chủ của ông sẵn sàng ra cung khai trước đoàn đại bồi thẩm ?”

      “Bất kỳ khi nào các ông cần. Về mặt sức khỏe, ta có thể làm chuyện đó bất cứ lúc nào.”

      “Chứng tôi muốn tiến hành nhanh vụ này.”

      “Càng nhanh càng tốt cho thân chủ tôi.”

      Sprawling khoanh các vòng tròn bản danh mục các vấn đề của ông ta. “Chúng tôi kiên quyết cầu giữ kín. báo chí gì hết. Thỏa thuận này là đối tượng của nhiều chỉ trích lắm.”

      “Chúng tôi lời,” Sandy hứa.

      “ Ông muốn Miranda được thả ra vào lúc nào ?"

      “Ngày mai. Và ấy cần phải được hộ tống từ nhà giam ở Miami ra phòng chờ riêng ở sân hay. Chúng tôi muốn có bảo vệ của FBI cho đến khi ấy máy bay.”

      Jaynes nhún vai ra vẻ hiểu. “ có vấn đề gì," ông ta .

      “Còn gì nữa ?" Sandy hỏi, và xoa tay như thể cuộc vui sắp bắt đầu.

      “Phía chính phủ còn gì nữa,” Sprawling đáp.

      “Tốt. Bây giờ tôi đề nghị thế này,” Sandy , để cho họ còn lựa chọn nào khác. “Tôi có hai thư ký với máy tính cá nhân sẵn sàng đây rồi. Chúng tôi cũng chuẩn bị bản dự thảo thỏa thuận và lệnh hủy bỏ các cáo buộc của Liên bang. mất bao nhiêu thời gian để chỉnh trang câu chữ, rồi các ông ký vào. Tiếp đó, tôi mang nó tới cho thân chủ của tôi, và hy vọng là chúng tôi xong trong hai tiếng. Ông Mast, tôi đề nghị ông liên hệ với ông Thẩm phán Liên bang và dàn xếp hội nghị qua điện thoại càng nhanh càng tốt. Chúng ta fax đến cho ông ấy văn bản lệnh hủy bỏ các cáo buộc.”

      “Khi nào chúng tôi có được các tài liệu và những cuộn băng kia ?” Jaynes hỏi.

      “Nếu như mọi thứ được ký và được chấp thuận trong vòng vài tiếng đồng hồ tới đây, các ông có thể có chúng vào lúc năm giờ chiều.”

      “Tôi cần phải gọi điện thoại,” Sprawling . Mast và Jaynes cũng vậy. Họ tản ra các nơi trong căn hộ.

      oOo

      Những tù nhân thông thường được phép ra ngoài trời mỗi ngày tiếng đồng hồ. Trời cuối tháng Mười, lạnh và nhiều mây, và Patrick quyết định đòi được hưởng cái quyền theo luật định đó. Đám cảnh sát ở hành lang từ chối; việc đó chưa được cho phép. Patrick gọi điện cho Karl Huskey và tất cả lập tức được chấp thuận. cũng hỏi xem Karl có thể ghé vào tiệm Rosetti phố Division mua vài suất bánh phomát cùng thịt cua mang đến ăn trưa với ở ngoài trời được . Karl là rất vui lòng.

      Họ cùng ngồi ăn cái ghế dài làm bằng gỗ, gần vòi phun nước cái cây maple nhắn, dễ thương. Xung quanh họ là các dãy nhà của bệnh viện. Karl cũng mang ít bánh phomát cho đám cảnh sát, và họ ngồi ở gần đó, ngoài tầm tai.

      Karl biết gì về cuộc gặp diễn ra ở khách sạn và Patrick cũng gì. Parrish có mặt ở đó, và ông ta lại ngay với ông Thẩm phán thôi mà.

      “Mọi người gì về tôi vậy ?” Patrick hỏi sau khi ăn được phần ba chiếc bánh kẹp và đặt nó sang bên.

      “Những xầm xì cũng lắng xuống rồi. Mọi chuyện trở lại bình thường. Bạn bè của vẫn là bạn bè của .”

      “Tôi viết thư cho mấy người trong số họ. Ông chuyển giúp được chứ ?”

      “Tất nhiên rồi.”

      “Cảm ơn.”

      “Tôi nghe là họ bắt được bạn của ở Miami.”

      “Phải. Nhưng ấy được ra ngay ấy mà. Chỉ có chút rắc rối với hộ chiếu thôi.”

      Huskey làm miếng bánh lớn và yên lặng nhai. Ông trở nên quen với những khoảng im lặng kéo dài trong những cuộc trò chuyện của họ. Ông cân nhắc chuyện gì phải tiếp theo. Còn Patrick .

      khí trong lành là tuyệt vời,” sau cùng . “Cảm ơn.”

      “Theo luật có quyền hưởng khí trong lành mà.”

      “Ông tới Braxin bao giờ chưa ?”

      “Chưa.”

      “ Ông nên .”

      “Giống như kiểu của , hay là cùng với gia đình tôi hả ?”

      , . Thăm thú chút ấy mà.”

      “Những bãi biển ư ?”

      . Quên các bãi biển , và cả các thành phố. Nên đến vùng trung tâm của đất nước đó, tới những vùng đất bao la, nơi có bầu trời trong xanh, khí dễ chịu, quang cảnh tuyệt đẹp, con người hiền lành và phức tạp. Bây giờ tôi coi mảnh đất đó như là quê hương của mình vậy, Karl. Tôi chỉ muốn dược trở lại nơi đó.”

      “Có thể là phải lâu lâu đấy.”

      “Có lẽ thế, nhưng tôi có thể chờ đợi. Tôi còn là Patrick nữa, Karl. Patrick chết rồi. ta sa bẫy, bất hạnh. ta béo mập và khốn khổ, và may mắn làm sao, ta ra . Bây giờ, tôi là Danilo, Danilo Silva, người hạnh phúc hơn nhiều với cuộc sống bình lặng ở đất nước khác. Danilo có thể chờ đợi.”

      Và với người phụ nữ xinh đẹp cùng cả tài sản lớn, Karl muốn , nhưng rồi lại thôi.

      “Danilo trở lại Braxin như thế nào ?” Karl hỏi.

      “Tôi vẫn còn tính.”

      “Này, Patrick — tôi cho rằng vẫn gọi là Patrick mà phải là Danilo, được chứ?”

      “Tất nhiên.”

      “Tôi nghĩ đến lúc tôi phải lui xuống và chuyển vụ này lại cho Thẩm phán Trussel. kiến nghị phải được đưa ra, và rồi là quyết định nữa. Tôi làm tất cả những gì có thể để giúp cho .”

      “ Ông bị phê phán gì ư ?”

      “Chút đỉnh, nhưng có gì làm cho tôi phải lo ngại. Tôi muốn gây tổn thương đến , nhưng tôi sợ rằng nếu tôi giữ vụ của lâu hơn chút nữa người ta có thể bất bình. Ai cũng biết chúng ta là chỗ bè bạn. Trời đất, thậm chí còn chọn tôi làm trong những người hộ tang bên quan tài.”

      "Tôi cảm ơn ông về chuyện đó chưa nhỉ ?”

      “Chưa. Lúc đó là người chết, vậy nên đừng nhắc đến nữa. Kể cũng vui.”

      “Đúng thế, tôi biết mà.”

      “Dù sao chăng nữa, tôi chuyện với Trussel, và ông ấy sẵn sàng nhận vụ này. Tôi cũng với ông ấy về những vết thương khủng khiếp của , và việc ở lại đây được càng lâu càng tốt là quan trọng như thế nào. Ông ấy hiểu chuyện.”

      “Cảm ơn.”

      “Nhưng cũng phải thực tế chút. lúc nào đó, bị đưa vào nhà tù. Và có thể là phải ở trong đó thời gian dài đấy.”

      “ Ông có nghĩ là tôi giết thằng bé đó , Karl?”

      Karl bỏ miếng bánh còn lại vào trong cái túi và uống ngụm trà đá. Ông định dối về chuyện này. “Đó là điều đáng ngờ. Thứ nhất, còn có hài cốt ở trong chiếc xe, bởi vậy phải có ai đó bị giết. Thứ hai FBI kiểm tra bằng máy tính tất cả những người bị mất tích vào ngày 9 tháng Hai năm 1992 hoặc trước đó thời gian. Pepper là người duy nhất trong vòng bán kính ba trăm dặm mà người ta hề có tin tức gì.”

      “Nhưng như thế đủ để kết tội tôi.”

      “Câu hỏi của phải là về việc kết tội ”

      “Phải. Ông có nghĩ là tôi giết thằng bé ?"

      “Tôi biết phải nghĩ gì nữa, Patrick. Tôi thẩm phán trong mười hai năm trời, tôi thấy những người đứng trước mặt tôi và thú nhận về những tội ác mà họ vẫn còn thể nào tin được là họ phạm phải. Trong những hoàn cảnh nhất định, đúng là con người ta có thể làm bất cứ chuyện gì.”

      “Nghĩa là ông tin vào chuyện đó ?”

      “Tôi muốn vậy. Tôi biết thế nào nữa.”

      “Ông nghĩ là tôi có thể giết người ư ?”

      . Nhưng tôi cũng nghĩ rằng có thể vờ chết và cuỗm chín mươi triệu đôla. Những chuyện làm thời gian qua đầy dẫy những điều bất ngờ.”

      khoảng im lặng kéo dài nữa. Karl đưa mắt nhìn đồng hồ. Patrick để ông ta ngồi lại mình ghế và chầm chậm dạo quanh sân.

      oOo

      Bữa trưa tại căn hộ Camille là những chiếc bánh xăng uých được mang tới những cái khay nhựa, và nó bị gián đoạn bởi cú điện thoại trả lời của ông Thẩm phán Liên bang, người nhận vụ Patrick bốn năm về trước. Ông Thẩm phán mắc phiên tòa ở Jackson và chỉ có thời gian phút. Mast về thành phần có mặt tại căn hộ, và ông Thẩm phán đồng ý chuyện chung với tất cả qua điện thoại. Tiếp đó, Mast vắn tắt lại thỏa thuận được đề nghị. Ông Thẩm phán muốn được nghe phần trình bày của Sandy. Sprawling được hỏi vài câu, và cuộc hội nghị ngắn ngủi qua điện thoại trở thành cuộc họp dài. Có lúc, Sprawling ra khỏi phòng để chuyện riêng với ông Thẩm phán. Ông ta chuyển lại những mong muổn khẩn thiết từ các cấp ở Oasinhtơn về việc tới môt thỏa thuận với Lanigan để có thể tóm được những con cá lớn hơn. Ông Thẩm phán cũng chuyện riêng với T.L.Parrish, người đưa ra những bảo đảm rằng Lanigan phủi tay được với vụ này, rằng phải đối mặt với những cáo buộc nghiêm trọng hơn, và rất nhiều khả năng, mặc dù có gì bảo đảm được chắc chắn, là phải ngồi tù nhiều năm.

      Ông Thẩm phán muốn hành động cách vội vã, thế nhưng dưới sức ép của những người có liên quan chặt chẽ đến thế với vụ này, cộng với tầm cỡ của những người có mặt tại Biloxi, ông ta đành xuống nước và đồng ý ký lệnh hủy bỏ mọi cáo buộc của Liên bang đối với Patrick. Văn bản lệnh này nhanh chóng được fax đến cho ông ta, và ông ta ký ngay rồi fax trả lại.

      Trong khi họ ăn nốt bữa trưa, Sandy tạm ra ngoài để chạy đến bệnh viện. Patrick ở trong phòng, viết thư cho mẹ , lúc Sandy ào vào. “Thành công rồi!" ném bản thỏa thuận lên mặt bàn làm việc của Patrick.

      “Chúng ta đạt được mọi điều, mà chúng ta muốn," Sandy .

      “Chấm dứt mọi cáo buộc chứ hả ?”

      “Đúng thế. Ông Thẩm phán vừa ký xong.”

      “Tiền bao nhiêu ?”

      “Chín mươi triệu, cộng ba phần trăm ”

      Patrick nhắm mắt và nắm chặt hai tay. Đống của đó vừa bị sạt quá lớn, thế nhưng phần còn lại cũng khá nhiều; đủ cho và Eva có ngày ổn định được cuộc sống ở nơi nào đó an toàn và có ngôi nhà đầy nhóc trẻ con. ngôi nhà lớn. Và nhiều con.

      Họ rà lại bản thỏa thuận. Patrick ký vào đó, rồi Sandy chạy như bay trở lại khách sạn.

      oOo

      Đám đông bớt vào lúc hai giờ chiều, cuộc gặp thứ hai bắt đầu. Sandy tiếp Talbot Mims và thân chủ của ông ta, nhân vật cao cấp của Northern Case Mutual có tên là Shenault, người mang theo hai luật sư của công ty mà Sandy nghe tên. Để thận trọng, Mims cũng mang theo trong các cộng của ông ta và phụ tá nữa, cũng tên của cả hai. Sandy nhận các danh thiếp và đưa họ vào cùng cái căn phòng khách kế bên, nơi diễn ra cuộc gặp đầu tiên. Các phóng viên tòa án ngồi vào chỗ dành cho họ.

      Jaynes và Sprawling ở trong căn phòng làm việc bên cạnh, chuyện điện thoại với Oasinhtơn. Họ cho đám tùy tùng xuống dưới sòng bạc giải trí trong tiếng, với lệnh được uống rượu.

      Nhóm người của Monarch ít hơn, chỉ có Hal Ladd, phụ tá của ông ta, và viên luật sư chính của Hãng, tay có vóc người bé, sang trọng, tên là Cohen. Những lời giới thiệu được trao đổi, và rồi tất cả sẵn sàng chờ nghe Sandy . phân phát cho họ những cặp hồ sơ mỏng và cầu họ xem qua. Trong mỗi chiếc cặp đó là bản sao hồ sơ vụ kiện của Patrick đối với FBI về những vết thương của , cùng với bộ ảnh màu chụp những vết thương kia. Đám người của các Hãng bảo hiểm được các luật sư của họ chuẩn bị trước cho rồi nên thấy có gì bất ngờ với những thứ đó.

      Sandy vắn tắt lại những gì hôm trước - rằng các vết thương người thân chủ của mình phải là do FBI gây ra bởi lẽ FBI tìm thấy Patrick. Mà là Stephano. Và Stephano làm việc cho ba khách hàng: Benny Aricia, Northern Case Mutual và Monarch-Sierra. Cả ba đều ở tình thế nghiêm trọng trong vụ án dân mà Patrick khởi kiện.

      “Làm sao ông chứng minh được rằng đó là việc làm của Stephano ?” Talbot Mims hỏi.

      “Xin chờ giây,” Sandy . mở cánh cửa dẫn sang căn phòng làm việc và xin Jaynes dành cho phút. Jaynes bước vào phòng, và tự giới thiệu mình với nhóm người trong đó. Với vẻ thoải mái, ông ta mô tả lại chi tiết những gì mà Stephano kể lại về cuộc truy lùng Patrick; việc tài trợ của cái tổ hợp đó, những khoản tiền thưởng, những nguồn tin, cuộc săn đuổi ở Braxin, tay bác sĩ chỉnh hình, Nhóm Pluto, việc bắt giữ và cuộc tra tấn. Mọi chuyện. Và tất cả đều được tiến hành bằng tiền do Aricia, Monarch-Sierra và Northern Case Mutual cung cấp. Và tất cả đều được tiến hành thuần vì lợi ích của họ.

      Đó là màn trình diễn ngoạn mục mà bản thân Jaynes rất thích thú.

      ''Có câu hỏi nào dành cho ông Jaynes ?”

      Sandy vui vẻ hỏi sau khi câu chuyện của Jaynes tới chỗ kết thúc.

      có câu hỏi nào. Trong mười tám giờ qua, cả Shenault của Northern Case Mutual lẫn Cohen của Monarch-Sierra đều thể nào xác định được ai trong Hãng của họ cho phép việc thuê mướn Jack Stephano. Họ khó mà biết được khi mà giờ đây mọi dấu tích được xóa .

      Cả hai Hãng đều lớn và lắm tiền lắm của, với rất nhiều cổ đông và ngân sách khổng lồ cho việc quảng cáo để bảo vệ tên tuổi của mình. Hãng nào lại muốn có vụ đau đầu này cả.

      “Cảm ơn ông, Jaynes,” Sandy .

      “Tôi ở phòng bên, nếu như các vị cần tới,” Jaynes vẻ như là ông ta còn thích gì hơn là được quay trở lại và đóng thêm vài cái đinh nữa vào cỗ quan tài. Bản thân diện của ông ta báo điềm xấu. Vì sao vị Phó giám đốc FBI lại tới Biloxi, và vì sao ông ta lại sốt sắng muốn quy trách nhiệm cho họ như vậy ?

      “Đây là thỏa thuận,” Sandy sau khi cánh cửa khép lại. “Rất đơn giản, nhanh chóng, và phải bàn cãi gì. Thứ nhất, thưa ông Shenault, đối với Northern Case Mutual, cuộc tấn công cuối cùng của khách hàng của ông trong cuộc chiến tranh này là nỗ lực nhằm thu lại hai triệu rưỡi đôla được chi trả cho bà Trudy Lanigan. Chúng tôi chỉ muốn ông hãy trở về. Bãi nại và quên Trudy , để cho ta được yên ổn. ta còn phải nuôi con, và bên cạnh đó, có thế nào chăng nữa hầu hết số tiền đó cũng bị tiêu hết rồi. Bãi nại, và thân chủ của tôi kiện cáo gì về những vết thương đó đối với Hãng của ông nữa.”

      “Thế thôi ư ?” Talbot Mims hỏi vẻ tin nổi.

      “Đúng. Có thế thôi.”

      “Xong.”

      “Chúng tôi muốn hội ý chút,” Shenault , mặt vẫn căng thẳng.

      , gì nữa,” Mims với thân chủ của ông ta. “Đó là thỏa thuận tốt. Tất cả mặt bàn. Chúng ta chấp nhận. Cứ như vậy.”

      Shenault , “Tôi muốn xem xét … ”

      "Thôi,” Mims , vẻ cáu kỉnh với Shenault. “Chúng ta chấp nhận thỏa thuận đó. Còn nếu ông muốn ai đó khác đại diện cho các ông cũng được thôi. Nhưng chừng nào mà tôi còn giữ cương vị đó tôi quyết định là luật sư đại diện chấp nhận thỏa thuận này, ngay bây giờ.”

      Shenault còn biết gì.

      “Chúng tôi chấp nhận,” Mims .

      “Ông Shenault ?” Sandy hỏi.

      “Thôi, được. Tôi cho rằng chúng tôi đồng ý.”

      “Tốt lắm. Tôi có dự thảo thỏa thuận để sẵn ở phòng bên cho các ông. Bây giờ, mời quý vị sang bên đó vài phút, tôi cần chuyện riêng với ông Ladd và thân chủ của ông ấy.”

      Mims đưa nhóm của ông ta ra ngoài. Sandy chốt cửa và quay lại với Cohen, Hal Ladd và phụ tá của ông ta. “Tôi e rằng thỏa thuận với các ông có khác chút so với họ. Phần họ nhàng do còn vụ ly hôn kia. Nó rất phức tạp và rắc rối, và thân chủ của tôi có thể sử dụng sách của ta đối với Northern Case Mutual theo hướng có lợi trong quá trình giải quyết vụ ly hôn. Họ dành ra nửa triệu đôla cho Stephano, các ông dành gấp đôi như thế. Các ông có trách nhiệm nhiều hơn, ở tình trạng nghiêm trọng hơn, và, theo chỗ chúng tôi biết, các ông có nhiều tiền hơn Northern Case Mutual nhiều.”

      “Ông nghĩ tới bao nhiêu ?” Cohen hỏi.

      “Về phần Patrick gì cả. Tuy nhiên, ta rất quan tâm tới đứa trẻ. Con bé mới sáu tuổi, và mẹ nó tiêu tiền như rác. Đó là lý do để Northern Case Mutual chấp nhận nhanh như vậy - rất khó mà lấy lại được tiền từ Trudy Lanigan. Patrick muốn có khoản tiền khiêm tốn gửi vào quỹ ủy thác cho đứa trẻ, ngoài tầm tay với của mẹ nó.”

      “Bao nhiêu ?”

      phần tư triệu. Cùng với ngần ấy nữa để trang trải cho những khoản tiền lo luật sư của ta. Tổng cộng là nửa triệu, trả cách lặng lẽ để thân chủ của ông còn bị những tấm ảnh kia làm phiền nữa.”

      Vùng bờ biển này vốn có truyền thống với những phán quyết rất hào phóng trong những ca gây thương tật và những cái chết oan khốc. Hal Ladd khuyên Cohen rằng ông ta có thể phải thấy phán quyết nhiều triệu đôla đối với Aricia và các Hãng bảo hiểm về những gì gây ra cho Patrick. Cohen, người từ CaHíornia đến, chắc chắn cũng hiểu điều này. Hãng cũng muốn giải quyết mọi chuyện cho xong và rút êm.

      “Dẹp bỏ mọi kiện tụng,” Cohen . “Và chúng tôi phải trả nửa triệu ?”

      “Đúng thế.”

      “Chúng tôi chấp nhận.”

      Sandy lấy trong cặp hồ sơ ra mấy tờ giấy. “Tôi dự thảo thỏa thuận sẵn đây cho các ông.” trao cho họ, và để họ ngồi lại mình.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :