Đồng Đạo - John Grisham(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 13

      T hông qua mạng lưới rộng lớn những nguồn tin và những rò rỉ, tin tức được loan ra rằng còn có vụ khiếu kiện khác được trình tòa vào cuối ngày, trước khi bà thư ký tòa án đóng cửa phòng làm việc. Mạng lưới này còn nhanh chóng xác nhận rằng chính bản thân Patrick trở về vào khoảng trưa hôm sau.

      Sandy cầu các phóng viên chờ tại hành lang tòa án trong khi mình nộp đơn. Sau đó, ta phân phát các bản sao đơn kiện cho hàng chục những kẻ chết khát chen lấn xô đẩy nhau kia. Hầu hết là phóng viên của các báo. Có hai phóng viên truyền hình với các camêra . là phóng viên của đài phát thanh.

      Thoạt đầu, nó có vẻ cũng chỉ lại là vụ kiện nữa, được đệ lên tòa bởi luật sư khác cũng nôn nóng muốn thấy hình ảnh mình mặt báo. Thế nhưng, tất cả thay đổi nhanh chóng khi Sandy loan báo rằng đại diện cho Patrick Lanigan. Đám người ngày càng trở nên đông hơn và cứ túm tụm lại - các nhân viên tòa án hiếu kỳ, các luật sư địa phương, thậm chí cả mục sư cũng dừng lại để lắng nghe. Với vẻ bình thản, Sandy thông báo với họ rằng thân chủ của mình đệ đơn kiện FBI về những hành hạ và tra tấn về thể xác.

      Sandy từ tốn đề cập tới những tố cáo, rồi trả lời loạt những câu hỏi cách có cân nhắc, đầy đủ, mắt nhìn thẳng vào các ống kính máy thu hình. để phần hấp dẫn nhất lại sau cùng. Thọc tay vào cặp và lấy ra hai tấm ảnh màu, lúc này được phóng lên cỡ 24/30, đứng lên cái bàn. “Đây là điều mà họ làm đối với Patrick,” cách đầy kịch tính.

      Các camêra lập tức thu lấy những hình ảnh cận cảnh. Đám đông rồ lên huyên náo.

      “Họ gây mê Patrick, rồi gắn các dây điện vào người. Họ tra tấn cho đến khi da thịt ta bị đốt cháy bởi vì ta , và thể, trả lời được các câu hỏi của họ. Thưa các quý bà quý ông, đây là hành động của cái chính phủ đại diện cho nước Mỹ, tra tấn đánh đập công dân Mỹ. Những kẻ tội phạm tự xưng danh là các nhân viên FBI."

      Ngay cả những phóng viên hăng hái nhất cũng chết sững người. Mục trình diễn ngoạn mục.

      Truyền hình Biloxi đưa tin này lúc sáu giờ, sau khi mở đầu cách giật gân. Gần như nửa bản tin là hình ảnh Sandy và những tấm ảnh. Nửa còn lại là tin Patrick trở về vào hôm sau.

      Vào đầu buổi tối, CNN bắt đầu đưa tin này, cứ nửa tiếng lần, và Sandy là vị luật sư lừng lẫy nhất của thời điểm đó. Những tố cáo là hiển nhiên đến mức thể xem .

      *

      **

      Hamilton Jaynes ngồi nhâm nhi với đám bạn bè trong phòng nghỉ của câu lạc bộ ở ngoại ô gần Alexandria khi ông ta xem thấy bản tin này chiếc TV đặt ở góc phòng. Ông ta vừa chơi xong trận gôn mười tám lỗ, và trong thời gian đó cấm mình được nghĩ tới FBI và vô số những việc đau đầu ở đó.

      chuyện đau đầu khác lại tìm đến với Hamilton. FBI bị Patrick Lanigan kiện ư ? Ông ta xin lỗi mọi người rồi tới quầy bar vắng và rút chiếc điện thoại cầm tay ra bấm số.

      Nằm sâu trong Tòa nhà Hoover, trụ sở của FBI, đại lộ Pennsylvania là hành lang mà hai bên là những căn phòng có cửa sổ, trong đó các kỹ thuật viên giám sát các bản tin truyền hình khắp thế giới. Trong loạt phòng khác, họ theo dõi và ghi lại các bản tin phát thanh. Trong loạt phòng khác nữa, họ đọc các báo và tạp chí. Trong cơ quan, toàn bộ hoạt động này được biết cách đơn giản là tích lũy thông tin.

      Jaynes gọi cho viên sĩ quan trực ban ở bộ phận này và chỉ trong vài phút biết toàn bộ câu chuyện. Ông ta rời câu lạc bộ và lái xe về văn phòng, nằm tầng ba của Tòa nhà Hoover, rồi gọi điện cho Bộ trưởng Tư pháp, người mà có gì đáng ngạc nhiên khi cũng cố gắng liên lạc với Jaynes. cuộc đay nghiến dữ dội diễn ra, với Jaynes, phía phải tiếp nhận và được gì nhiều. Ông ta cố trấn an ông bộ trưởng rằng FBI tuyệt nhiên có liên quan gì tới vu cáo kia của Patrick Lanigan.

      “Vu cáo ư ?” Ông bộ trưởng hỏi. "Tôi nhìn thấy những vết bỏng, lại còn phải sao? Mẹ kiếp, cả thế giới nhìn thấy những vết bỏng đó.”

      “Chúng tôi làm chuyện đó, thưa ngài,” Jaynes bình tĩnh , yên tâm rằng mình đúng .

      “Vậy ai ?" Ông bộ trưởng quát lên. “ Ông có biết ai làm ?"

      “Có, thưa ngài.”

      “Tốt lắm. Tôi muốn có báo cáo ba trang nằm bàn tôi vào lúc chín giờ sáng.”

      “Bản báo cáo được đặt ở đó.”

      Tiếng dập máy cộc cằn ở đầu đằng kia, và Jaynes văng tục, tung chân đá vào cái bàn làm việc. Thế rồi, ông ta gọi cú điện khác, và do cú phôn này, hai nhân viên đặc biệt từ bóng tối xuất trước cửa nhà Jack Stephano.

      Jack xem các bản tin suốt đêm, và ngạc nhiên gì trước phản ứng của các giới chức Liên bang. Khi chuyện, lão ngồi ở ngoài hiên chuyện điện thoại với luật sư của mình. Lão cho là tức cười với chuyện FBI bị đổ tội vì những chuyện mà người của lão gây ra. Và đó là nước cờ cao của Patrick Lanigan và luật sư của .

      “Xin chào,” lão đứng trước cửa lịch . “Để tôi đoán xem nào. Các bán bánh rán chứ gì.”

      “FBI, thưa ông,” người đáp và lần tay vào túi.

      “Khỏi cần, bạn. Giờ tôi nhận ra các rồi. Lần trước tôi thấy các đậu xe ở góc phố đọc tờ báo nhảm nhí gì đó và cố giấu mặt sau tay lái. Hồi còn học, các có bao giờ thực nghĩ rằng ngày nào đó mình làm cái công việc thú vị này hay hả ?”

      “Ông Jaynes muốn gặp ông,” người thứ hai .

      “Về chuyện gì vậy ?”

      . Ông ấy bảo chúng tôi tới kiếm ông, và mời ông cùng xe với chúng tôi tới văn phòng của ông ấy ”

      “Hamilton làm việc khuya đấy nhỉ ?"

      “Vâng, thưa ông. Ông cùng chúng tôi chứ?”

      “Các lại bắt tôi ư ?"

      “ Ồ, .”

      “Vậy chính xác là các làm gì đây hả ? Các biết là tôi có cả đống luật sư. Bắt giữ sai trái, và các có thể bị kiện đấy.”

      Họ nhìn nhau lúng túng.

      Stephano ngại gặp Jaynes, hay bất kỳ ai khác về chuyện này. Chắc chắn là lão có thể đối phó với mọi trò mà Jaynes giở ra. Thế nhưng, lão chợt nhớ rằng vẫn có những tố cáo hình treo lơ lửng đầu, và chút hợp tác cũng có thể là có ích.

      “Xin chờ tôi năm phút." lão , rồi biến vào trong nhà.

      *

      **

      Jaynes đứng sau bàn làm việc lật xem tập báo cáo dày cộm Stephano bước vào. “Mời ngồi,” ông ta cộc lốc, khoát tay chỉ vào chiếc ghế kê đối diện với chiếc bàn. gần nửa đêm.

      “Chúc ông buổi tối dễ chịu, ông Hamilton,” Stephano với nụ cười.

      Jaynes buông tập báo cáo xuống. “Ông làm gì với thằng đó đấy ?"

      “Tôi biết. Tôi cho rằng tay Braxin nào đó hơi quá tay. ổn thôi."

      “Ai làm chuyện đó ?"

      "Tôi có cần luật sư của mình ở đây , thưa ông Hamilton ? Phải chăng đây là cuộc thẩm vấn ?"

      “Tôi chắc có phải vậy ? Ngài giám đốc ở nhà, điện thoại trao đổi với Bộ trưởng Tư pháp, và nhân tiện cũng cho ông biết rằng ngài Bộ trưởng dễ chịu gì lắm với chuyện này. Cứ hai mươi phút họ lại gọi tôi lần, mỗi lần mỗi gay gắt thêm. Có đáng gọi là nghiêm trọng , Jack ? Những vu cáo đó là ghê tởm, và nay, cả nuớc nhìn vào những tấm ảnh chết tiệt đó và cật vấn vì sao chúng tôi lại tra tấn công dân Mỹ."

      “Tôi lấy làm tiếc.”

      “Tôi biết. Nào, ai làm chuyện đó ?"

      “Mấy thằng bản xứ. băng nhóm Braxin mà chúng tôi thuê khi được tin là ở đó. Thậm chí tôi cũng biết tên chúng.”

      “Ai chỉ điểm cho các ông ?"

      “Ông muốn biết ư ?"

      “Đúng thế,” Jaynes nới lỏng cavát và ngồi nhích ra sát mép ghế, nhìn chăm chăm vào mặt Stephano, người chưa hề tỏ ra lo ngại gì. Lão tính mặc cả để có lối thoát ra khỏi những rắc rối mà FBI có thể gây ra cho lão. Và lão có những luật sư rất giỏi.

      “Tôi có thỏa thuận với ông,” Jaynes . “Và ý kiến này là của ngài giám đốc.”

      “Tôi rất muốn nghe.”

      “Chúng tôi bắt Benny Aricia vào ngày mai. Chúng tôi làm to chuyện này lên, tung tin cho báo chí biết chuyện người mất chín mươi triệu đôla đó thuê ông truy lùng Lanigan. Và khi tóm được , ông giở đủ trò với nhưng vẫn tìm được ra tiền.”

      Stephano chăm chú nghe, nhưng vẫn chưa thấy gì.

      " Thế rồi chúng tôi bắt hai tổng giám đốc - Atterson ở công ty Monarch-Sierra và Jill ở Northern Case Mutual. Theo chỗ chúng tôi biết, đó là hai thành viên khác trong cái tổ hợp của ông. Chúng tôi cho các nhân viên vũ trang kéo đến chỗ mấy cái văn phòng đẹp đẽ của họ, các camêra truyền hình xa đằng sau lắm, và cho lôi cổ họ ra trong những chiếc còng tay và quẳng họ lên những chiếc xe chở tù. Báo chí rộn lên, ông biết đấy. Và chúng tôi lo để người ta nhiều tới chuyện hai người này góp phần với Aricia để tài trợ cho cái sứ mệnh tìm kiếm Patrick của ông ở Braxin. Hãy nghĩ xem, ông Stephano, tất cả các khách hàng của ông đều bị tóm và bị tống giam.”

      Stephano muốn hỏi chính xác vì sao mà FBI lại dò ra được các thành viên trong cái tổ hợp của lão, thế nhưng rồi lão hiểu ra rằng cũng chẳng có gì là quá khó. Họ nhằm vào những kẻ mất mát nhiều nhất.

      “ Ông biết đấy, chuyện đó làm ông mất nghiệp,” Jaynes , ra vẻ thông cảm.

      "Vậy ông muốn gì ?"

      “Rồi, thỏa thuận là thế này. Hoàn toàn đơn giản. Ông với chúng tôi mọi chuyện - tìm ra như thế nào, ra những gì, vân vân, tất tần tật. Chúng tôi có rất nhiều câu hỏi - và chúng tôi từ bỏ những tố cáo chống lại ông cũng như động đến các khách hàng của ông."

      "Vậy là có gì ngoài chuyện dọa dẫm."

      "Chính xác. Chúng tôi là người quyết định. Rắc rối là ở chỗ chúng tôi có thể gây chuyện đối với các khách hàng của ông và làm cho ông sập tiệm."

      “Hết cả chưa ? "

      “Chưa. Với chút may mắn cho phía chúng tôi, bản thân ông cũng có thể phải vào tù.”

      Có cả đống lý do để chấp nhận thỏa thuận này, trong đó lý do về bà Stephano cũng phải là . Bà ta cảm thấy nhục nhã bởi những lời xầm xì rằng FBI giám sát ngôi nhà của bà ta suốt đêm ngày. Điện thoại cũng bị nghe trộm; bà ta biết nó là có bởi vì nhìn thấy chồng ra gọi điện ở ngoài sân sau, gần mấy khóm hồng. Bà ta hết sức đau lòng. Họ là những người đáng kính, bà ta vẫn luôn nhắc chồng như vậy.

      Bằng việc vờ tỏ ra rằng mình còn biết nhiều chuyện hơn, Stephano đẩy FBI vào đúng chỗ mà lão muốn. Lão có thể làm cho người ta chấm dứt những cáo buộc đối với lão. Lão có thể bảo vệ được các khách hàng của lão. Và, quan trọng nhất là lão có thể tận dụng được lực lượng Liên bang đáng kể để tìm kiếm chỗ tiền kia.

      “Tôi cần phải chuyện với luật sư của tôi.”

      “Ông có thời gian đến năm giờ chiều mai.”

      *

      **

      Patrick nhìn thấy những vết thương rùng rợn của bản tin đêm của CNN, với màu sắc hoàn toàn ràng, và Sandy khua những tấm ảnh như kiểu võ sĩ đấm bốc khoe với thế giới chiếc đai vô địch mới giành được của ta. Lúc đó là vào khoảng giữa của phần tóm lược các tin tức trong ngày. “ có phản ứng chính thức nào của FBI”, phóng viên đứng ngoài Tòa nhà Hoover ở Oasinhtơn vậy.

      Luis cũng tình cờ có mặt trong phòng khi TV truyền tin này. ta đứng sững nghe, hết nhìn TV lại nhìn Patrick nằm giường với nụ cười đắc chí. Mọi điều được liên hệ lại cách nhanh chóng. “Những tấm ảnh tôi chụp phải ?" ta hỏi với cái giọng đặc .

      "Phải." Patrick đáp, suýt bật cười.

      *

      **

      Câu chuyện về luật sư Mỹ giả chết, chứng kiến tang lễ của mình, đánh cắp chín mươi triệu đôla và rồi bị bắt bốn năm sau đó trong khi thầm sống ở Braxin lan truyền hầu như khắp thế giới phương Tây. Eva đọc những tin tức mới nhất tờ báo Mỹ trong khi ngồi uống cà phê dưới cái vòm của tiệm Les Deux Garcon, cái tiệm ngay hè phố mà nàng rất ưa thích ở Aix. Trời mưa, làm ướt sũng cả những bộ bàn ghế trống đặt ngoài sân cách xa nàng là mấy.

      Nội dung câu chuyện được đăng ở trang trong của tờ báo. Nó đề cập đến những vết bỏng độ ba nhưng đăng ảnh kèm theo. Tim nàng nghẹt lại và nàng đeo vội cặp kính râm lên để che đôi mắt.

      Patrick sắp trở về. Bị thương và bị trói như con thú, phải trải qua cái hành trình mà luôn biết là thể tránh được. Và nàng cũng . Nàng quanh quẩn đâu đó và làm những gì muốn, và cầu nguyện cho an toàn của cả hai. Cũng giống như Patrick, tối tối, nàng lại lại trong phòng để tự hỏi mình rằng tương lai của họ ra sao.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 14

      DD ể chuẩn bị cho việc trở về, Patrick chọn bộ đồ rộng thùng thình, bởi muốn những vết thương của bị đau đớn thêm. Đó chuyến bay thẳng, kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ, và cần phải được càng thoải mái càng tốt. Bác sĩ trao cho lọ thuốc giảm đau để ngừa sẵn, cùng cặp hồ sơ bệnh án. Patrick cảm ơn ông ta. bắt tay Luis và lời tạm biệt với y tá.

      Nhân viên đặc biệt Myers chờ ngoài cửa phòng với bốn tay quân cảnh lực lưỡng. “Tôi cố thỏa thuận với ông, Patrick,” ta . “Nếu ông cư xử đúng mực bây giờ cần phải khóa tay và xích chân gì. Tuy nhiên, khi hạ cánh tôi có lựa chọn nào khác.”

      “Cảm ơn.” Patrick và thận trọng bước dọc hành lang. Chân đau từ suốt các đầu ngón lên tới ngang hông, và hai đầu gối run lẩy bẩy. vẫn ngẩng cao đầu, ngực ưỡn ra, và gật đầu lịch chào những y tá mà ngang qua. Nơi cửa thang máy dưới tầng hầm, chiếc xe van màu xanh nước biển đợi sẵn với hai quân cảnh vũ trang khác. bàn tay đưa ra đỡ Patrick ngồi vào chiếc ghế ở khoảng giữa xe. quân cảnh khác đưa cho cặp kính râm loại rẻ tiền. “Ông cần cái này,” ta . “Ngoài kia nắng khiếp lắm.”

      Chiếc xe hề ra khỏi căn cứ. Nó chạy chậm mặt đường nhựa phẳng lỳ, qua các trạm gác đến nỗi nghiêm ngặt, và vượt quá tốc độ ba mươi dặm giờ. ai lời nào trong xe. Nhìn qua những tấm rèm cửa dày và lớp kính màu, Patrick thấy những dãy trại lính, những dãy phòng làm việc, rồi cái nhà để máy bay. ở căn cứ này bốn ngày, nghĩ. Có thể là ba. thể dám chắc bởi vì những mũi thuốc mê làm lẫn lộn thời gian. Chiếc máy lạnh chạy rì rì ở phía trước làm cho khí trong xe lạnh mát. cầm chặt cái cặp hồ sơ bệnh án, thứ vật chất duy nhất mà sở hữu lúc này.

      nghĩ về Ponta Porã, mà giờ coi nơi đó là nhà của mình, và biết người ta có nhớ dến . Người ta làm gì với ngôi nhà của ? người hầu có tiếp tục dọn dẹp ? Có thể là . Còn chiếc xe của sao, chiếc Beetle bé màu đỏ mà thích ? chỉ biết có vài người trong thị trấn. Họ gì về ? Có thể là gì cả.

      cũng có gì khác đâu ? Bất kể ở Ponta Porã thế nào, mọi người tại Biloxi chắc hẳn là phải nhớ đến . Đứa con hoang tàng trở về. Cái gã người Biloxi nổi tiếng nhất hành tinh này trở về, và họ chào đón ra sao ? Với những cái xích chân và trát gọi của tòa án. Tại sao lại phải là cuộc diễu hành xa lộ 90, dọc theo bờ biển, để chào mừng cái người làm nên điều kỳ diệu này nhỉ ? cho họ được có tên bản đồ; làm cho thành phố của họ trở nên có tiếng tăm. Bao nhiêu người trong số họ đủ ranh mãnh để có được trong tay chín mươi triệu đôla cơ chứ?

      suýt phải chặc lưỡi về cái suy nghĩ vớ vẩn đó.

      Họ tống vào nhà tù nào ? Là luật sư, có nhiều dịp thấy tất cả các nhà tù ở địa phương — nhà tù Biloxi, nhà tù quận Harrison, thậm chí cả trung tâm giam giữ của Liên bang ở căn cứ quân Keesler, nằm đất Biloxi. còn được may mắn nữa.

      được ở phòng giam riêng hay phải ở chung với đám trộm cắp và đầu gấu ? ý nghĩ lóe lên. mở cái cặp ra và nhanh chóng nhìn lướt những lưu ý của bác sĩ trong tờ giấy xuất viện. Đây rồi, những chữ viết đậm: BỆNH NHN PHẢI ĐƯỢC TIẾP TỤC NẰM VIỆN TRONG ÍT NHẤT LÀ TUẦN NỮA Cầu Chúa phù hộ cho ông ta! Tại sao lại nghĩ tới điều này nhỉ ? Những mũi tiêm. Trong tuần lễ qua, cơ thể phải chịu lượng thuốc mê nhiều hơn lượng mà có thể phải dùng trong cả đời. Những sai sót trong trí nhớ và tư duy của có thể là do những thứ thuốc đó.

      cần phải chuyển được bản sao tờ giấy xuất viện này cho Sandy để có thể kiếm được cái giường tử tế, trong phòng riêng càng tốt, với những y tá lăng xăng lại. Đó là điều mong muốn. Mười cảnh sát gác ở cửa cũng quan tâm. chỉ cần có cái giường và cái điều khiển TV từ xa, và bằng mọi cách giữ đừng để bọn tội phạm thông thường đến gần .

      “Tôi cần gọi cú điện thoại,” to nhưng nhằm vào ai. có tiếng đáp.

      Chiếc xe dừng lại bên nhà để máy bay lớn, có chiếc máy bay vận tải đậu ở đằng trước. Đám quân cảnh đứng chờ ở ngoài nắng trong lúc Patrick và nhân viên đặc biệt Myers vào phòng làm việc và tranh cãi về việc liệu có tồn tại quyền hiến pháp cho đối tượng bị tình nghi chỉ là gọi điện thoại cho luật sư của ta mà còn fax kèm theo môt tài liệu hay .

      Patrick giành phần thắng sau khi dọa đủ kiểu kiện tụng đối với Brent Myers, và những chỉ dẫn trong giấy xuất viện của bác sĩ được fax đến văn phòng luật của Sandy McDermott ở New Orleans.

      Sau khi vào trong phòng vệ sinh nam lúc lâu, Patrick quay trở ra và từ tốn trèo lên những bậc thang dẫn lên máy bay.

      *

      **

      Chiếc máy bay hạ cánh xuống căn cứ quân Keesler vào lúc trưa, khoảng mười hai giờ kém hai mươi. Patrick rất ngạc nhiên, và hơi giật mình, khi thấy có những hoạt động tấp nập gì để chào đón trở về của . có đám camêra truyền hình và các phóng viên. có đám bạn bè cũ ào đến để sẵn sàng giúp đỡ vào cái lúc cần có giúp đỡ này.

      Khu sân bay này bị tạm thời đóng cửa theo mệnh lệnh từ những cấp cao. Báo chí bị loại ra. đám đông tụ tập ở cổng vào phía trước, cách xa cả hơn dặm, và chụp ảnh, ghi hình chiếc máy bay khi nó bay qua đầu. Họ cũng rất thất vọng.

      lòng, Patrick muốn đám báo chí nhìn thấy khi ra khỏi máy bay trong bộ đồ bệnh viện được lựa chọn cẩn thận, khập khiễng bước xuống từng bậc thang và rồi lê lết như con chó tập tễnh với chiếc còng tay và sợi xích ở chân. Đó có thể hình ảnh đầy sức mạnh, hình ảnh đầu tiên mà tất cả những người hoàn toàn có khả năng trở thành hội thẩm nhân dân ở ngoài kia nhìn thấy.

      Đúng như được chờ đợi, tờ Bờ biển buổi sáng đăng tải vụ kiện FBI của đầu trang nhất, với những tấm ảnh màu lớn. Chỉ có những kẻ bần tiện nhất mới chút thương cảm với Patrick, ít nhất là vào lúc này.

      Phía bên kia - chính phủ, các công tố viên, các điều tra viên - cùng lặng trước cú đánh này. Lẽ ra phải là ngày tưng bừng của các cơ quan luật pháp; ngày người ta mang về tên ăn cắp cỡ bự, tay luật sư tội phạm. Thay vì đó, văn phòng FBI địa phương tạm phải ngắt điện thoại và các cánh cửa đều được đóng chặt để ngăn các phóng viên. Chỉ có Cutter ra ngoài, song phải ra cách lén lút. Ông ta có bổn phận gặp Patrick ngay khi đặt chân xuống mặt đất.

      Cutter đợi cùng với cảnh sát trưởng Sweeney, hai sĩ quan quân của căn cứ, và Sandy.

      “Xin chào Patrick. Chúc mừng trở về,” viên cảnh sát trưởng .

      Patrick chìa tay ra bắt với đôi tay vẫn bị còng. “Chào Raymond,” đáp lại với nụ cười. Họ quá biết nhau trong mối quen biết cũ giữa các cảnh sát và luật sư ở địa phương. Raymond Sweeney là phó cảnh sát trưởng của quận Harrison cách đây chín năm khi Patrick dọn đến thị trấn.

      Cutter bước lên phía trước và tự giới thiệu mình, thế nhưng ngay khi Patrick nghe đến nhóm từ “FBI", quay mặt và gật đầu chào Sandy. chiếc xe van màu xanh nước biển rất giống với chiếc xe đưa ra máy bay ở Puéctô Ricô chờ ở gần đó. Họ lên xe, với Patrick ngồi ở phía sau, bên cạnh luật sư của .

      “Chúng ta đâu đây ?” Patrick thầm .

      "Tới bệnh viện của căn cứ,” Sandy thầm đáp lại “Vì những lý do y tế.”

      giỏi lắm.”

      Chiếc xe chạy với tốc độ như rùa bò, ngang qua trạm gác nơi mà người lính gác chỉ rời mắt khỏi trang báo thể thao ngước lên trong giây, rồi chạy dọc theo con đường yên tĩnh giữa hai khu gia đình sĩ quan.

      Cuộc sống trốn tránh luôn đầy những giấc mơ, có những giấc mơ về đêm trong khi ngủ, những giấc mơ , và còn có cả những giấc mơ khi thức nhưng đầu óc lơ mơ. Chúng hầu hết đều là những giấc mơ kinh hoàng, những cơn ác mộng với những cái bóng đen mỗi lúc lại trở nên to lớn hơn và hung bạo hơn. Cũng có những giấc mơ dễ chịu về tương lai tươi sáng, liên quan gì nữa với quá khứ. Những giấc mơ này quả là hiếm hoi, đó là điều mà Patrick rút ra. Cuộc sống chạy trốn là cuộc sống của quá khứ. khép lại nào.

      Lại còn những phút trầm ngâm về cái thời khắc trở về nữa. Ai có mặt ở đó để đón ? Cái cảm giác và mùi vị của bầu khí vùng Vịnh này vẫn thế chăng ? Khi nào trở về và vào mùa nào ? Bao nhiêu người bạn kiếm tìm và bao nhiêu lảng tránh ? có thể nghĩ tới được số người mà muốn gặp, thế nhưng dám chắc là họ có muốn gặp hay ? Giờ đây như người hủi ư ? Hay có cả buổi lễ tưng bừng ? Có thể là chẳng có gì sất.

      Thế nhưng, ở vào khoảng cuối của cái cuộc rượt đuổi này có dễ chịu nhoi nhưng khá ràng. Những rắc rối khủng khiếp còn ở phía trước, nhưng vào lúc này có thể cần để ý tới những gì qua. là Patrick chưa bao giờ có thể cảm thấy hoàn toàn thư thái để hưởng thụ cuộc sống mới. Ngay cả tiền bạc cũng thể làm nguôi ngoai những lo sợ của . Cái ngày hôm nay đây là thể tránh khỏi; biết vậy từ lâu. đánh cắp quá nhiều tiền. Nếu nhiều như vậy các nạn nhân có lẽ cũng cố công đến thế.

      lưu ý tới những điều nho trong khi xe chạy. Các lối được trải nhựa, điều hoàn toàn hiếm hoi ở Braxin, hay ít ra là ở Ponta Porã. Và những đứa trẻ giày thể thao trong lúc chúng chơi đùa. Ở Braxin, chúng luôn chân đất, lòng bàn chân chúng đanh lại như cao su vậy. Đột nhiên, thấy nhớ cái đường phố yên tĩnh của , phố Tiradentes, với những đám trẻ chẳng còn trò chơi gì ngoài đá bóng.

      sao chứ ?" Sandy hỏi.

      gật đầu, mắt vẫn mang cặp kính râm.

      Sandy đưa tay vào cặp và lấy ra tờ Bờ biển. Dòng tít lớn đập vào mắt, LANIGAN KIỆN FBI VÌ TRA TẤN VÀ HÀNH HẠ

      Hai tấm ảnh kia choán nửa trang báo.

      Patrick ngắm nghía lúc. " Tôi đọc sau.”

      Cutter ngồi đốì diện với Patrick, và lẽ dĩ nhiên ông ta lắng nghe từng hơi thở của gã tù nhân của mình. thể nào trò chuyện được, và điều này hoàn toàn phù hợp với tâm trạng Patrick. Chiếc xe chạy vào khu đỗ xe của bệnh viện rồi dừng lại trước cửa cấp cứu. Họ đưa Patrick vào qua cái cửa dành cho nhân viên, rồi theo dọc hành lang tới nơi những y tá đợi sẵn để kiểm tra qua bệnh nhân nhập viện. Hai nhân viên kỹ thuật phòng xét nghiệm dừng lại trước mặt họ và trong hai người cất tiếng. “Chúc mừng trở về, Patrick.” Đúng là thằng cha tinh quái.

      có các thủ tục. có giấy tờ nhập viện. có những câu hỏi về bảo hiểm hay ai trả tiền cho việc này việc nọ. được đưa thẳng lên tầng ba và vào căn phòng ở cuối hành lang. Cutter đưa ra vài lời khuyên trống rỗng cùng những chỉ dẫn, và viên cảnh sát trưởng cũng làm vậy. Sử dụng điện thoại hạn chế, có ngưòi gác ở cửa, ăn tại phòng. Còn gì khác để mà với tù nhân ? Họ bỏ , và chỉ còn Sandy ở lại.

      Patrick ngồi mép giường, chân đung đưa. “Tôi muốn gặp mẹ tôi,” .

      “Bà cụ đường đến. Bà có mặt ở đây lúc giờ.”

      “Cảm ơn.”

      “Còn vợ và con sao ?”

      “Tôi muốn gặp Ashley Nicole, nhưng phải là bây giờ. Tôi chắc là con bé còn nhớ tôi. Giờ đây, nó nghĩ tôi là con quái vật. Vì những lý do dễ hiểu, tôi muốn gặp Trudy.”

      Có tiếng gõ cửa, rồi cảnh sát trưởng Sweeney trở lại, với xấp giấy má dày cộp tay. “Xin lỗi làm phiền, Patrick, nhưng đây là công việc. Tôi nghĩ tốt nhất là giải quyết cho xong chuyện này .”

      "Tất nhiên, thưa ông cảnh sát trưởng,” Patrick đáp, vẻ sẵn sàng.

      "Tôi cần phải trao cho những thứ này. Trước tiên, đây là bản cáo trạng về tội giết người do hội thẩm đoàn quận Harrison đưa ra,"

      Patrick cầm lấy, xem, và trao cho Sandy.

      “Đây là trát đòi hầu tòa và đơn xin ly hôn do Trudy Lanigan nộp ra tòa ở Mobile.”

      là ngạc nhiên,” Patrick trong khi đưa tay cầm. "Vì lý do gì vậy ?"

      "Tôi chưa đọc. Đây là trát đòi hầu tòa và đơn kiện của ông tên là Benjamin Aricia."

      “Ai cơ ?" Patrick hỏi, vẻ khôi hài. Viên cảnh sát trưởng hề nhếch mép.

      “Đây là trát đòi hầu tòa và đơn kiện của Hãng luật cũ của .”

      “Họ muốn bao nhiêu thế ?" Patrick hỏi, giơ tay cầm tất.

      "Tôi chưa đọc. Đây là trát đòi hầu tòa và đơn kiện của Hãng Monarch-Sierra.”

      “Chà, phải. Tôi nhớ mấy người ở đó." chuyển lại cho Sandy, người giờ đây cầm toàn bộ chỗ giấy má kia từ tay viên cảnh sát trưởng.

      “Xin lỗi nhé, Patrick,” Sweeney .

      “Hết cả chưa ?”

      “Bây giờ hết. Tôi ghé lại chỗ phòng thư ký tòa án trong thành phố xem có còn đơn kiện tụng nào được nộp ở đó nữa .”

      “Cứ chuyển đến đây. Sandy làm việc nhanh chóng lắm.”

      Họ bắt tay nhau, lần này còn vướng víu của những chiếc còng, rồi viên cảnh sát trưởng bước ra.

      "Tôi luôn luôn thấy thích Raymond,” Patrick , tay chống hai bên hông, từ từ chùng hai đầu gối xuống. hạ người xuống được nửa trước khi ngừng lại rồi đứng thẳng lên. “Còn phải lâu đấy, Sandy. Tôi đau thấu đến tận xương.”

      sao. hữu ích cho vụ kiện của chúng ta.” Sandy lật lật đám giấy tờ. “Có vẻ như Trudy phiền lòng về . ấy muốn gạt ra khỏi cuộc đời mình.”

      “Tôi hết sức cố gắng. Những lý do gì vậy ?”

      “Bỏ rơi và ruồng rẫy. Tàn nhẫn về mặt tinh thần.”

      tệ.”

      có định tranh cãi gì ?”

      “Còn tùy thuộc vào việc ta muốn gì.”

      Sandy lật trang khác. “Chỉ nhìn lướt ở đây có vẻ ta muốn ly hôn, giành quyền nuôi con và tước bỏ mọi quyền làm cha của , kể cả quyền thăm nom, tất cả bất động sản và tài sản cá nhân đồng sở hữu tính tới lúc biệt tăm biệt tích - đó là cách gọi của ấy - cộng với, xem nào, đây rồi, tỉ lệ công bằng và hợp lý của những tài sản mà có thể có được kể từ khi mất tích.”

      “Lạ , lạ .”

      “Đó là tất cả những gì ấy muốn, tất nhiên là vào lúc này.”

      “Tôi đồng ý để ta ly hôn, Sandy, và hoàn toàn vui mừng với chuyện đó. Nhưng dễ dàng như ta tưởng.”

      tính sao ?”

      “Chúng ta về chuyện này sau. Tôi hơi mệt.’’

      “Được. Với thời gian chạy xe của tôi, cùng chuyện giao thông đường ở New Orleans, đậu xe, cùng với quãng bộ, phải mất chừng hai giờ để từ đây về được tới văn phòng. Chính xác là khi nào muốn chúng ta gặp lại ?”

      “Tôi xin lỗi, Sandy. Tôi mệt. Sáng mai có được ? Tôi nghỉ ngơi đầy đủ và chúng ta làm việc suốt ngày.”

      Sandy vươn vai rồi bỏ giấy tờ vào trong cặp. “Tất nhiên là được, bạn. Tôi đến đây lúc mười giờ.”

      “Cảm ơn, Sandy.”

      Song Patrick mới nằm nghỉ thoải mái được chừng tám phút căn phòng của lại đầy nhóc các nhân viên y tế, toàn phụ nữ. “Xin chào, tôi là Rose, y tá trưởng của . Chúng tôi cần kiểm tra sức khỏe xem thế nào. Chúng tôi có thể cởi áo được ?" Đó phải là lời cầu. Rose mó tay vào cái vạt áo của . Hai y tá khác, cũng đậm người như Rose, đứng hai bên và bắt đầu cởi áo Patrick. Họ có vẻ thích thú với công việc này. y tá khác sẵn sàng với chiếc cặp nhiệt độ và hộp đầy những dụng cụ nom mà phát kinh. kỹ thuật viên đứng nhìn chòng chọc từ cuối giường. hộ lý mặc áo choàng màu da cam loanh quanh ở gần cửa.

      Suốt trong mười lăm phút, họ làm đủ chuyện với thân thể Patrick. chỉ còn biết nhắm mắt và chấp nhận. Rồi họ cũng nhanh chóng bỏ như khi kéo đến.

      *

      **

      Mẹ con Patrick gặp mặt nhau với những giọt nước mắt tuôn rơi. chỉ xin lỗi có lần, về tất cả mọi điều. Bà âu yếm chấp nhận và tha thứ cho , điều mà chỉ bà mẹ mới có thể làm được. Niềm vui của bà khi nhìn thấy xua tan mọi ý nghĩ khác trong lòng bà từ bốn hôm nay.

      Joyce Lanigan năm nay sáu mươi tám tuổi và sức khỏe vẫn khá tốt, ngoại trừ chứng huyết áp cao. Chồng bà, cha của Lanigan, bỏ bà để chạy theo phụ nữ trẻ từ hai mươi năm trước và rồi chết vì cơn đau tim. Cả bà lẫn Patrick đều dự tang lễ của ông ta ở Texas. Người vợ thứ hai lúc đó có chửa. Con của bà này, đứa em cùng cha khác mẹ với Patrick, giết chết hai nhân viên chống ma túy khi nó mới mười bảy tuổi và giờ ngồi chờ để thực thi bản án tử hình ở Huntsville, Texas. ai ở New Orleans và Biloxi biết đến nỗi đau này. Patrick chưa bao giờ chuyện đó với Trudy, người vợ trong bốn năm của . Cũng chưa bao giờ chuyện với Eva. Làm sao lại phải ra cơ chứ ?

      nỗi cay đắng, cả hai đứa con trai của ông Lanigan đều bị khép vào tội giết người. đứa bị kết án. Còn đứa rất có khả năng.

      Patrick học đại học khi cha bỏ , rồi chết. Mẹ phải vất vả lắm để tiếp tục ổn định với cuộc sống của người phụ nữ ly hôn ở tuổi trung niên, có nghề nghiệp chuyên môn và chưa bao giờ làm. Phán quyết ly hôn cho phép bà giữ lại ngôi nhà và được cung cấp khoản tiền chỉ vừa đủ sống mà phải tìm việc làm. Thỉnh thoảng, bà có làm trợ giáo ở trường tiểu học địa phuơng, thế nhưng bà thích được ở nhà, làm lụng gì đó ngoài vườn, xem những bộ phim truyền hình dài lê thê, và uống trà với mấy bà luống tuổi bên hàng xóm.

      Patrirk luôn luôn thấy mẹ người đàn bà bị ức chế, đặc biệt là sau khi cha bỏ , kiện làm cho phiền muộn gì nhiều bởi dù sao ông ta cũng chẳng ra người cha. Và cũng chẳng ra ngưòi chồng nữa. Patrick khuyến khích mẹ ra khỏi nhà, kiếm việc làm, tìm kiếm lý do gì đó để mà sống. Bà hoàn toàn có thể có cuộc sống mới.

      Thế nhưng, bà quá quen với những điều khốn khổ. Qua năm tháng, khi mà Patrick ngày càng bận rộn hơn với nghề luật sư, cũng ít có thời gian với mẹ hơn. chuyển đến Biloxi, cưới người vợ mà mẹ thể nào chấp nhận được …

      hỏi chuyện về những bà dì, những ông chú, đám em họ, những người mà có liên hệ từ rất lâu trước cái chết giả của ; những người mà mấy nghĩ tới trong bốn năm qua. Hán hỏi chỉ để mà hỏi. Phần lớn là họ đều ổn.

      , muốn gặp bất kỳ ai.

      Họ rất muốn gặp .

      Vớ vẩn. Trước đây họ chưa bao giờ muốn gặp cả.

      Họ rất quan tâm tới .

      Cũng vớ vẩn nốt.

      Hai mẹ con chuyện thân tình trong hai giờ đồng hồ, và thời gian trôi nhanh. Bà cằn nhằn về cân nặng của ; “ ốm quá " là từ hay dùng của bà. Bà hỏi về cái cằm và cái mũi mới của , cùng mái tóc sẫm màu. Bà tất cả những loại chuyện của các bà mẹ, thế rồi bà lên đường trở về New Orleans. hứa là giữ liên lạc với bà.

      lúc nào mà chẳng hứa như vậy, bà thầm nghĩ trong lúc lái xe. Thế nhưng nào mấy khi liên lạc.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 15

      T rong căn hộ ở khách sạn Hay-Adams, Stephano dành cả buổi sáng cho các cuộc diễn thuyết điện thoại. Lão dễ dàng thuyết phục được Benny Aricia rằng ông ta có thể bị FBI bắt, chụp ảnh, lấy dấu tay, và còn những trò xúc phạm khác nữa. Nhưng thuyết phục những kẻ như Paul Atterson ở Monarch-Sierra và Frank Jill ở Northern Case Mutual lại là việc khác, cả hai đều là những nhà quản trị kinh doanh mẫu mực, những người sang trọng với đồng lương khổng lồ và cả bộ máy nhân viên hùng hậu để làm cho những chuyện dễ chịu phải dừng lại ở đâu đó. Bắt bớ và truy tố là thứ để dành cho những tầng lớp thấp hơn.

      FBI tỏ ra rất có tác dụng. Hamilton Jaynes phái nhân viên tới cả hai trụ sở - Monarch ở Palo Alto và Northern Case Mutual ở St. Paul - với chỉ thị là phải ghé thăm cả hai người với loạt câu hỏi về vụ tìm kiếm và bắt giữ người tên là Patrick Lanigan.

      Đến tầm trưa cả hai đều chịu khuất phục. Gọi cái bọn chó ấy về , họ với Stephano. Vụ tìm kiếm chấm dứt. Hợp tác đầy đủ với FBI, và lạy Chúa, hãy làm điều gì đó để lôi cái đám nhân viên FBI khỏi trụ sở của họ. còn ra thể thống gì.

      Vậy là cái tổ hợp của họ chấm dứt tồn tại. Stephano duy trì được nó trong bốn năm, và trong khi làm cái việc đó, kiếm cho mình được gần triệu đôla. Lão cũng chi tiêu hai triệu rưỡi khác của các khách hàng của lão, và lão có thể tuyên bố là thành công. Họ tìm thấy Lanigan. Họ chưa tìm thấy chín mươi triệu đôla kia, nhưng mà nó vẫn còn ở đâu đó. Nó chưa bị tiêu hết. Còn có cơ hội thu hồi lại được.

      Benny Aricia ở trong căn hộ này với Stephano suốt cả buổi sáng, đọc báo, gọi những cú phôn, lắng nghe Stephano làm việc điện thoại. Vào lúc giờ, ông ta gọi cho luật sư của mình ở Biloxi và nhận được tin là Patrick trở về, gần như có gì ồn ào cả. Truyền hình địa phương đưa tin này vào buổi trưa, cùng với ảnh chụp chiếc máy bay vận tải của quân bay qua đầu lúc nó hạ cánh xuống Keesler. Đó là mức tiếp cận gần nhất mà họ được phép. Viên cảnh sát trưởng địa phương xác nhận tin này.

      Ông ta nghe cái băng ghi lại vụ tra tấn kia đến ba lần và thường phải tua lại những đoạn mà ông ta thích. Trong đó có lần, chuyến bay Florida hai ngày trước đó, ông ta vừa nghe nó bằng cáp nghe, trong lúc nhấm nháp chút rượu khoang hạng nhất, vừa mỉm cười. Thế nhưng, đó là những nụ cười hiếm hoi của Benny trong những ngày này. Ông ta tin chắc là Patrick ra những gì biết, song điều đó là đủ. Patrick biết là bị tóm ngày nào đó; do vậy ranh mãnh chuyển tiền cho kia, và ta giấu biệt nó , kể cả với Patrick. Được lắm. Chưa thấy bao giờ.

      “Làm thế nào để tìm được ta ?” Ông ta hỏi Stephano, trong khi hai người ăn trưa với món xúp mà bộ phận dịch vụ tại phòng mang lên. Câu hỏi này được đưa ra nhiều lần.

      “Phải thế nào, hay bao nhiêu ?”

      “Chắc là bao nhiêu.”

      thể trả lời. Chúng ta hề biết con bé ở đâu mà chỉ biết xuất xứ của nó. Và chúng ta biết rằng có khả năng nó xuất ở đâu đó quanh Biloxi, khi mà giờ đây người đàn ông của nó ở đó. Chuyện này có thể làm được.”

      “Bao nhiêu ?”

      “Để xem xem, tôi muốn trăm nghìn, mà có bảo đảm gì được hết. Chuyển tiền đến, khi nào hết là chúng tôi thôi.”

      “Liệu có khả năng tụi Liên bang biết là chúng ta vẫn nhòm ngó ?”

      .”

      Benny khuấy bát xúp của ông ta - cà chua và mì. bỏ ra triệu chín rồi, có vẻ là ngớ ngẩn nếu cố nốt lần cuối cùng. Bấp bênh, nhưng cái được có thể là rất lớn, vẫn là cái cuộc chơi mà ông ta theo đuổi bốn năm qua.

      “Và nếu như ông tìm thấy ta ?" Benny hỏi.

      “Chúng tôi buộc nó phải ,” Stephano đáp, và họ cùng ra vẻ nhăn mặt với cái ý nghĩ về những việc phải làm với phụ nữ, như họ làm với Patrick.

      “Còn thằng cha luật sư của sao?" Sau cùng Benny hỏi. “Chúng ta thể nghe trộm ở văn phòng, nghe trộm điện thoại, để lén biết được những cuộc chuyện giữa ta với thân chủ của ư ? Chắc chắn là chúng chuyện về chỗ tiền của tôi.”

      “Đó là khả năng. Ông nghiêm túc đấy chứ ”

      “Nghiêm túc ? cả chín mươi triệu đôla của tôi, Jack. Chỉ trừ có phần ba cho cái đám luật sư hút máu kia thôi. Lẽ dĩ nhiên là tôi nghiêm túc.”

      “Có thể hơi phức tạp đấy. Ông biết là cái thằng cha luật sư đó chẳng ngu gì. Và thân chủ của ta cũng rất thận trọng.”

      “Nào, Jack. Ông được coi là tay cừ nhất cơ mà. Chắc chắn là người ta cũng phải trả tiền cho ông cao nhất.”

      “Chúng ta thử theo dõi ta trong vài ba ngày, xem quy luật của thế nào. vội vàng gì. Trước mắt, thân chủ của di chuyển đâu cả. Lúc này đây tôi quan tâm nhiều hơn tới việc rũ sạch cái đám chấy rận Liên bang kia khỏi đầu tóc mình . Tôi cần phải làm vài việc lẻ tẻ chẳng hạn như mở lại văn phòng và dọn dẹp những thiết bị nghe trộm ra khỏi các điện thoại của tôi.”

      Benny Aricia xua tay ngắt lời lão. “Tôi phải trả bao nhiêu ?”

      “Chưa biết. Chúng ta về chuyện này sau. Ông ăn cho xong . Luật sư họ đợi.”

      Stephano ra trước, bước hè phố, và lịch vẫy tay chào hai chàng nhân viên đặc biệt đậu xe trái phép phố I, gần kề khách sạn. Lão rảo bước tới văn phòng tay luật sư của mình, cách đó bảy dãy phố.

      Benny đợi mười phút sau rồi gọi tắcxi.

      Họ mất cả buổi chiều trong phòng họp, với các luật sư và các phụ tá. Các thỏa thuận được trao đổi qua các luật sư của Stephano và của FBI. Sau cùng cả hai phía đạt được những điều họ muốn. Những tố cáo hình đối với Stephano được từ bỏ và cũng được dùng để tiếp tục tra cứu đối với các khách hàng của lão. Phía FBI nhận được lời hứa bằng văn bản rằng Stephano ra tất cả những gì lão biết về vụ tìm kiếm và bắt giữ Patrick Lanigan.

      Thực ra Stephano dự tính hầu hết những gì lão biết. Vụ tìm kiếm này chấm dứt; bởi vậy cũng chẳng còn gì để che giấu. Cuộc thẩm vấn kia cũng mang lại mấy kết quả ngoài cái tên của con bé luật sư người Braxin, kẻ giữ chỗ tiền. Giờ đây ta biến mất, và lão thực nghi ngờ FBI có thời gian hay ý muốn tìm kiếm ta. Vì sao mà họ lại phải làm điều đó nhỉ ? Chỗ tiền kia đâu có phải là của họ.

      Và trong thâm tâm lão rất muốn FBI thôi dòm ngó gì đến cuộc sống của lão. Bà vợ lão rất phiền muộn, và sức ép ngay ở nhà lão là khủng khiếp. Nếu lão mau chóng mở lại được văn phòng hẳn lão mất nghiệp.

      Bởi vậy, lão dự tính với họ những gì họ muốn nghe, tất nhiên chỉ là hầu hết chứ là toàn bộ câu chuyện. Lão nhận tiền của Benny, và truy lùng con bé kia thêm thời gian nữa, nhỡ đâu lại gặp may. Và lão phái nhóm tới New Orleans để giám sát tay luật sư của Lanigan. FBI đâu cần phải biết những chi tiết bé này.

      Do còn chỗ trong Tòa nhà Liên bang ở Biloxi, Cutter đề nghị cảnh sát trưởng Sweeney kiếm cho chỗ ở nhà tù của quận. Sweeney miễn cưỡng đồng ý, dù rằng cái ý nghĩ về việc FBI sử dụng các phòng làm việc của ông ta phải là dễ chịu gì. Ông ta cho dọn dẹp phòng kho và đặt vào đó cái bàn và mấy cái ghế. Nó được đặt tên là Phòng Lanigan.

      Chẳng có gì mấy để mà lưu giữ ở đó. có ai bị tình nghi giết người khi Patrick giả chết, và bởi vậy có cố gắng nào trong việc thu thập các dấu vết, ít nhất là trong sáu tuần lễ đầu tiên. Khi chỗ tiền kia biến mất, những nghi ngờ tăng lên, nhưng tới lúc đó các dấu vết lại mờ nhạt.

      Cutter và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, thận trọng xem xét và kiểm kê những chứng cớ rất nghèo nàn của họ. Có mười tấm ảnh màu lớn chụp chiếc Chevy Blazer cháy rụi, và họ gắn chúng lên tường. Những tấm ảnh này là do Grimshaw chụp.

      Vụ cháy lúc đó cực kỳ khủng khiếp; bây giờ họ biết là vì sao: ràng là Patrick nhồi vào trong xe những thùng nhựa đựng đầy xăng. Điều đó giải thích cho việc những khung ghế bằng nhôm bị nóng chảy, các cửa kính bị nổ tung, phần bảng điều khiển cũng rã hết ra và phần còn lại của cái thi hài kia là rất ít. Sáu tấm ảnh chụp cái thi thể mà nguyên trạng chỉ là đống tro than với nửa mẩu xương chậu nhô ra. Chiếc Blazer lật vài vòng sau khi rời khỏi mặt đường và rớt xuống hẻm núi.

      Cảnh sát trưởng Sweeney giữ nó trong tháng, rồi mang bán sắt vụn cùng với ba cái xác xe khác, về sau, ông ta hối tiếc về việc đó.

      Dăm bảy tấm ảnh chụp trường quanh chiếc xe, những đám cây cỏ cháy đen. Những người tình nguyện phải mất tiếng đồng hồ để dập tắt đám cháy đó.

      tiện làm sao khi mà chính Patrick cũng muốn được hỏa thiêu. Theo Trudy, và họ có tuyên bố bằng văn bản của chị ta tháng sau đám tang, Patrick đột ngột cho rằng muốn được hỏa thiêu và tro hài cốt được chôn ở Locust Grove, cái nghĩa địa xinh xắn nhất trong quận. Quyết định của được đưa ra suýt soát mười tháng trước khi biến mất. Thậm chí còn sửa lại di chúc và đưa vào đó cầu người lo việc mai táng , Trudy, hoặc trong trường hợp chị ta chết cùng với là Karl Huskey, tiến hành việc hỏa táng này. cũng đề cập tới các chi tiết cụ thể cho đám tang của mình Lý do của về chuẩn bị này là cái chết được chuẩn bị trước của thân chủ. Gia đình phải tranh cãi gay gắt về việc chôn cất như thế nào, và Patrick bị lôi cuốn vào cuộc cãi cọ này. thậm chí còn buộc Trudy chọn mộ phần sẵn. Chị ta chọn lô đất kế ngay bên lô đất của , nhưng cả hai đều biết rằng chị ta nhanh chóng di chuyển nó nếu như có điều gì xảy ra với trước.

      Người lo dịch vụ lễ tang sau này với Grimshaw rằng chín mươi phần trăm công việc hỏa táng diễn ra ngay trong chiếc Blazer rồi. Khi ông ta cân lại lượng tro sau khi thiêu những gì còn lại trong tiếng đồng hồ ở nhiệt độ hai nghìn độ, chỉ số là cân tám, lượng nhất mà ông ta từng biết đến. Ông ta thể gì về cái thi thể đó — nam, nữ, da đen, da trắng, già, trẻ, sống hay chết trước khi chiếc xe bốc cháy. Đơn giản là thể. Mà lòng ông ta cũng chẳng cố gắng làm điều đó làm gì.

      Họ có xác, có báo cáo khám nghiệm tử thi, hề biết người chết kia là ai. Ngọn lửa là cách chắc chắn nhất để thủ tiêu các bằng chứng, và Patrick làm công việc tuyệt vời trong cái việc che giấu các vết tích của .

      Cuối tuần đó, ở trong ngôi nhà săn cũ gần thị trấn Leaf bé, thuộc quận Greene, nằm ngay bìa rừng quốc gia De Soto. người bạn ở Jackson, học cùng nhau thời ở trường luật, mua ngôi nhà này hai năm về trước với những kế hoạch nhằm thay đổi khí. Nó hoàn toàn thô sơ. Họ săn hươu về mùa thu và mùa đông, và săn gà tây rừng vào mùa xuân. Với những chuyện cơm lành canh chẳng ngọt trong đời sống vợ chồng, ngày càng dành nhiều dịp nghỉ cuối tuần ở ngôi nhà săn này hơn. Nó chỉ cách xa có giờ ruỡi chạy xe. có thể làm việc được ở đó. Rất vắng lặng và yên tĩnh. Người bạn đồng sở hữu của gần như quên hẳn ngôi nhà này.

      Trudy làm bộ khó chịu về những vắng mặt cuối tuần của , thế nhưng Lance thường lẩn quất đâu đó, chỉ đợi lúc Patrick rời khỏi thị trấn.

      Đêm chủ nhật, ngày 9 tháng Hai năm 1992, Patrick gọi báo cho vợ biết là bắt đầu rời khỏi ngôi nhà săn kia. hoàn tất hồ sơ phức tạp cho vụ kháng cáo, và mỏi mệt. Lance còn nán lại chừng giờ nữa trước khi biến mất vào trong bóng đêm.

      Patrick dừng lại ở cửa hiệu Verhall’s Country bên xa lộ 15, ranh giới giữa hai quận Stone và Harrison. mua mười hai galông xăng và trả mười bốn đôla hai mươi mốt xu bằng thẻ tín dụng. chuyện với bà Verhall, người phụ nữ lớn tuổi mà trở nên quen biết. Bà ta biết nhiều tay súng săn ngang qua đó, đặc biệt là những người hay khoe khoang về những thứ kiếm được trong rừng, giống như Patrick. Sau này, bà ta rằng ở tâm trạng vui vẻ, mặc dù là kêu mệt bởi vì phải làm việc suốt dịp nghỉ cuối tuần. Bà ta nhớ lại là nghĩ rằng đó chỉ là chuyện vớ vẩn. giờ sau, bà ta nghe thấy tiếng xe cảnh sát và xe cứu hỏa chạy ngang qua.

      Cách đó tám dặm, người ta thấy chiếc Blazer của Patrick ngập trong ngọn lửa điên cuồng dưới khe núi, cách mặt đường chừng bảy chục mét. người lái xe tải nhìn thấy ngọn lửa đầu tiên, và cố đến sát được chừng hơn chục mét xém cả lông mày. ta gọi vô tuyến điện cầu cứu, và rồi ngồi gốc cây, bất lực nhìn ngọn lửa. Chiếc Blazer nằm lật nghiêng về bên phải với phần nóc quay về phía xa, bởi vậy thể nào nhìn thấy có ai đó ở trong xe hay . Dù sao cũng vậy cả. Dứt khoát là thể nào cứu được.

      Cho đến khi viên cảnh sát quận đầu tiên đến nơi, đám lửa dữ dội đến mức gần như còn nhìn được hình dáng chiếc xe đâu nữa. Đám cây cỏ xung quanh cũng bắt đầu bốc cháy. chiếc bơm của người tình nguyện được đưa đến, thế nhưng lại đủ nước. Xe cộ đường dừng lại nhiều hơn, và rồi là cả đám đông đứng lặng, chỉ còn biết giương mắt nhìn đám lửa hừng hực ở phía bên dưới. Bởi vì người lái chiếc Blazer kia thấy đâu, mọi nguời đều tin rằng ông ta hoặc bà ta được hỏa táng ở trong đó cùng với mọi thứ khác.

      Hai chiếc xe tải lớn hơn tới, và sau cùng ngọn lửa cũng được dập tắt. Hàng giờ đồng hồ trôi qua trong khi cảnh sát trưởng Sweeney chờ đợi để mọi thứ nguội bớt . Gần nửa đêm ông ta mới phát thấy cái đống đen đen mà ông ta nghĩ có thể là cái xác. Người phụ trách khám nghiệm tử thi cũng có mặt ở đó. Mẩu xương chậu chấm dứt mọi suy đoán. Grimshaw bấm máy ảnh. Họ đợi cho cái xác kia nguội hơn nữa, rồi lượm bỏ vào trong chiếc thùng cáctông.

      Dưới ánh đèn pin, người ta lần ra được số biển kiểm soát của chiếc xe, và vào lúc ba giờ sáng, Trudy nhận được cú điện thoại biến ả thành góa phụ. Cho dù chỉ là trong bốn năm rưỡi.

      Viên cảnh sát trưởng quyết định di chuyển chiếc xe trong đêm. Rạng sáng, ông ta trở lại với năm nhân viên để rà soát lại toàn bộ trường. Họ tìm thấy vết lốp xe trượt dài tới gần ba chục mét mặt đường, và cho rằng có lẽ con hươu chạy ngang trước mặt tay Patrick tội nghiệp kia, làm cho mất lái. Do ngọn lửa lan ra mọi phía, mọi dấu vết có thể có về chuyện gì có thể xảy ra đều bị hủy hoại. Điều bất ngờ duy nhất là việc phát được chiếc giày nằm cách xa chiếc Blazer khoảng bốn chục mét. Đó là chiếc giày thể thao hiệu Nike Air Max hơi cũ, cỡ số mười, và Trudy nhanh chóng xác định đó là giày của Patrick. Ả ta khóc bổi khóc dải khi họ đưa nó cho xem.

      Viên cảnh sát trưởng suy đoán rằng chiếc xe lộn vài vòng trước khi đâm xuống khe núi và thi thể nạn nhân cũng bị quăng quật ở trong đó. Chiếc giày tuột ra, và bị văng ra ngoài theo đường vòng cung … Nghe cũng có lý như bất kỳ điều gì khác.

      Họ chất chiếc Blazer lên chiếc xe tải và mang . Vào lúc chiều tối, những gì còn lại của Patrick được hỏa thiêu. Lễ tang diễn ra vào ngày hôm sau, tiếp đó là lễ an táng ở nghĩa địa, mà chứng kiến qua cặp ống nhòm.

      Cutter và Grimshaw nhìn chiếc giầy trơ trọi nằm ở giữa mặt bàn. Cùng với nó là nhiều lời khẳng định của các nhân chứng — Trudy, bà Verhall, người phụ trách việc khám nghiệm tử thi, người làm dịch vụ lễ tang, thậm chí cả Grimshaw và viên cảnh sát trưởng - tất cả đều đúng những gì mà người ta cho là họ . Chỉ có nhân chứng bất ngờ xuất trong thời gian sau khi khoản tiền kia biến mất. phụ nữ trẻ, sống gần cửa hiệu nhà Verhall, trong lời khai có tuyên thệ rằng ta nhìn thấy chiếc Chevy Blazer đời 1991 màu đỏ đậu bên cạnh đường, ngay chỗ xảy ra vụ cháy. ta nhìn thấy nó hai lần. lần vào đêm thứ bảy, và rồi chừng hai mươi tư giờ sau, vào khoảng thời gian xảy ra vụ cháy.

      Lời khai này do Grimshaw ghi lại nhà ta ở quận Harrison, bảy tuần sau lễ tang của Patrick. Vào lúc đó, cái chết của bị nghi ngờ bởi vì khoản tiền kia biến mất.

      John Grisham

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Đồng Đạo


      Chương 16

      DD ó là bác sĩ nội trú trẻ người Pakistan có tên là Hayani, người có bản chất tự nhiên giàu tình cảm và chu đáo. Tiếng của ta nặng thổ , và ta có vẻ hài lòng được ngồi chuyện gẫu với Patrick chừng nào mà bệnh nhân còn muốn. Các vết thương lành lại nhanh chóng.

      Thế nhưng bệnh nhân lại vẫn rất phiền muộn. “Cuộc tra tấn đó là thứ mà tôi thể nào mô tả lại cách chính xác," Patrick kết luận, sau khi họ chuyện với nhau gần cả tiếng đồng hồ. Hayani đưa đẩy câu chuyện tới chủ đề này. Nó đầy rẫy mặt báo, kể từ vụ kiện FBI được đưa ra tòa, và từ quan điểm y tế, việc được khám và điều trị cho người bị thương trong tình huống kinh khủng như vậy là cơ hội hiếm hoi. Bất kỳ bác sĩ trẻ nào cũng thích được gần gũi đến thế này với cái vùng mắt bão.

      Hayani gật đầu với thái độ trịnh trọng. Cứ tiếp , cặp mắt của ta như nài nỉ bệnh nhân.

      Hôm nay Patrick chắc chắn sẵn sàng . “ thể nào ngủ nổi,” . “Có lẽ chừng tiếng là nhiều nhất trước khi tôi lại nghe thấy những tiếng , lại ngửi thấy mùi da thịt mình khét lẹt, rồi lại tỉnh dậy người đẫm mồ hôi. Và chắc khá hơn được. Giờ tôi ở đây, an toàn, tôi nghĩ vậy, thế nhưng họ vẫn ở bên ngoài kia, săn đuổi tôi. Tôi thể nào ngủ được. Tôi muốn ngủ, bác sĩ ạ.”

      "Tôi có thể cho uống vài viên thuốc.”

      . Đại khái là chưa được. Tôi phải chịu quá nhiều thứ hóa chất rồi.”

      “Máu của có vẻ ổn. Có chút cặn, nhưng đáng kể gì.”

      thuốc nữa, thưa bác sĩ. Chí ít là lúc này.”

      cần phải ngủ chút, Patrick ”

      “Tôi biết, nhưng mà tôi muốn ngủ. Tôi lại như bị tra tấn."

      Hayani viết gì đó lên cái bảng theo dõi mà ta cầm tay. khoảng im lặng kéo dài, trong đó hai người đều mải nghĩ tới những lời phải tiếp theo. Hayani thấy khó mà có thể tin nổi người đàn ông có vẻ tử tế này lại giết ngưòi khác và nhất là theo cái cách ghê gớm như vậy.

      Căn phòng chỉ hơi mờ sáng nhờ chút ánh nắng lọt vào qua khe của sổ. “Tôi có thể lòng với ông về chuyện được , bác sĩ ?” Patrick hỏi, giọng trầm xuống hơn nữa.

      “Tất nhiên.”

      "Tôi cần phải được ở đây càng lâu càng tốt. Ngay trong căn phòng này. Vài ngày tới, họ bắt đầu rộn lên về việc chuyển tôi tới nhà tù quận Harrison, nơi mà tôi bị tống vào trong phòng giam chật hẹp với hay hai kẻ côn đồ hung hãn, và làm sao mà tôi còn có thể sống được cơ chứ ?”

      “Nhưng sao họ lại muốn đưa ?"

      “Đó là chuyện sức ép, thưa bác sĩ. Họ dần dần tăng sức ép đối với tôi cho đến khi tôi phải với họ những gì họ muốn. Họ ném tôi vào trong phòng giam tồi tệ với bọn cưỡng dâm và buôn bán ma túy, với lời nhắn nhủ kèm theo là tôi nên mở miệng, bởi nếu , đó là thứ mà tôi phải chịu đựng suốt phần còn lại của cuộc đời. Nhà tù ở Parchman là nơi tồi tệ nhất thế giới này. Ông bao giờ đến Parchman chưa, bác sĩ ?"

      “Chưa”

      “Tôi đến. Tôi từng có thân chủ ở đó. Thực là cả địa ngục. Thế nhưng ông lại có thể giữ tôi ở đây được, bác sĩ. Tất cả việc ông phải làm là cứ với ông chánh án rằng tôi cần phải được tiếp tục chăm sóc, vậy là tôi ở đây. Tôi xin ông đấy, bác sĩ.”

      “Tất nhiên rồi, Patrick,” ta , rồi lần nữa ghi vài dòng vào biểu theo dõi. phút im lặng kéo dài, Patrick nhắm nghiền hai mắt và thở gấp gáp. Chỉ cái ý nghĩ về tù ngục làm cho khiếp đảm.

      "Tôi khuyến nghị về trắc nghiệm tâm lý,” Hayani , và Patrick phải cắn môi để giấu nụ cười.

      “Sao cơ ?" hỏi, vẻ hoảng hốt.

      “Bởi vì tôi tò mò. có phản đối đấy ?”

      "Tôi nghĩ là . Bao giờ ?”

      “Có lẽ là trong vài ngày tới.”

      “Tôi chắc là nhanh như vậy tôi có chịu được ?”

      " cũng vội gì.”

      “Như thế hơn. Chúng ta nên vội về bất cứ chuyện gì ở đây cả, thưa bác sĩ.”

      "Tôi hiểu. Tất nhiên rồi. Có lẽ là tuần sau.”

      “Vâng. Hoặc là tuần sau nữa.”

      oOo

      Mẹ của thằng bé là Neldene Crouch. Chị ta giờ đây sống trong cái bãi đỗ của những ngôi nhà lưu động bên ngoài Hattiesburg, nhưng khi con trai chị ta mất tích chị ta sống, với thằng bé, ở cái bãi khác bên ngoài Lucedale, thị trấn cách Leaf ba mươi dặm. Theo chỗ chị ta nhớ lại, con trai mình mất tích từ ngày chủ nhật, mùng 9 tháng Hai năm 1992, đúng ngày mà Patrick Lanigan chết xa lộ 15.

      Nhưng theo hồ sơ của cảnh sát trưởng Sweeney, Neldene Prewitt, tên lấy theo chồng lúc đó của chị ta, lần đầu tiên gọi đến văn phòng của ông ta là ngày 13 tháng Hai năm 1992, báo tin con trai mất tích. Chị ta cũng gọi cho các cảnh sát trưởng của các quận lân cận, và cho cả FBI cùng CIA. Chị ta rất lo lắng và có lúc gần như phát rồ lên.

      Tên nó là Pepper Scarboro. Nó mang họ Scarboro, là của ngưòi chồng thứ nhất của mẹ nó, người được cho là cha của nó, mặc dù mẹ nó chưa bao giờ dám chắc ai là cha đẻ của con mình. Còn cái tên Pepper ai có thể nhớ được là có xuất xứ từ đâu. Chị ta đặt tên cho con lúc còn ở bệnh viện là LaVelle, cái tên mà thằng bé luôn căm ghét. Và nó nhặt lấy cái tên Pepper từ lúc còn tuổi, đòi lấy đó làm tên chính thức của mình. Gì cũng được, trừ LaVelle.

      Lúc mất tích, Pepper Scarboro vừa mười bảy tuổi. Sau khi học hết lớp 5, và sau ba lần cố gắng, cậu ta bỏ học để đứng bơm xăng tại cây xăng ở Lucedale. Là đứa trẻ độc và lắp nặng, ở tuổi thiếu niên Pepper khoái những trò chơi ngoài trời, và gì bằng những cuộc dã ngoại và săn trong nhiều ngày liền, thường là mình.

      Pepper có mấy bạn bè, và người mẹ thường quở mắng con về những khuyết điểm này nọ. Chị ta còn hai đứa con hơn, và nhiều bạn trai. Chị ta sống cùng các con trong ngôi nhà lưu động bẩn thỉu, có máy điều hòa khí. Pepper thích ngủ trong cái lều tạm ở sâu tít trong rừng. Cậu ta để dành tiền và tự mua khẩu súng săn cùng bộ đồ cắm trại. Do vậy mà Pepper dành phần lớn thời gian có thể được lang thang trong khu rừng quốc gia De Soto, cách xa chỗ bà mẹ chỉ hai mươi phút thôi nhưng với cậu là cả nghìn dặm.

      có bằng chứng rệt là Pepper và Patrick có từng gặp nhau ? Hoàn toàn ngẫu nhiên là ngôi nhà săn của Patrick nằm trong vùng rừng mà Pepper thường thích tới săn. Patrick và Pepper cùng là người da trắng, cao suýt soát bằng nhau, mặc dù Patrick nặng cân hơn nhiều. Điều đáng quan tâm hơn cả là việc khẩu súng săn, chiếc lều và cái túi ngủ của Pepper được tìm thấy trong ngôi nhà săn của Patrick vào cuối tháng Hai năm 1992.

      Cả hai mất tích vào cùng khoảng thời gian, tại cùng khu vực. Trong những tháng tiếp sau, Sweeney và Cutter xác định rằng còn có ai ở bang Mississippi mất tích vào khoảng trước và sau ngày 9 tháng Hai và cả hơn mười tuần tiếp theo đó. Có vài vụ, hầu hết là những đứa trẻ có vấn đề, được báo là mất tích trong cùng tháng Hai năm 1992, nhưng vào cuối mùa xuân tất cả đều được kiểm kê đầy đủ. Vào tháng Ba, có người phụ nữ ở Corinth chạy trốn khỏi cuộc sống vợ chồng bạo lực và rồi chưa ai nhìn thấy chị ta ở đâu.

      Về mặt số liệu, có điều ràng là mất tích của Pepper và Patrick có liên quan đến nhau. Nếu như, với cơ may nào đó, Patrick bỏ mạng trong chiếc Blazer của , giờ đây Cutter và Sweeney gần như chắc chắn rằng Pepper phải là người chết thế trong đó. Tất nhiên, điều này mang nặng tính suy đoán và thể nào được chấp nhận trước tòa án. Patrick có thể cho người nào đó từ Australia đến nhờ xe, kẻ lêu lổng ở nơi trời đánh nào đó, người bộ từ bến xe buýt … rồi giết người đó. Nhiều suy đoán và có thể lắm …

      Họ còn danh sách tám người nữa, từ người đứng đắn có tuổi ở Mobile mà lần cuối cùng được nhìn thấy là lái xe loạng quạng ra khỏi thành phố về hướng Mississippi, tới điếm trẻ tuổi ở Houston, người với bạn là chuyển Atlanta để bắt đầu cuộc sống mới. Cả tám đều được tuyên bố là mất tích vài tháng, thậm chí là vài năm trước tháng Hai năm 1992. Cutter và viên cảnh sát trưởng từ lâu cho rằng danh sách nàv là vô giá trị.

      Pepper vẫn là khả năng lớn nhất, có điều họ thể chứng minh được mà thôi.

      Tuy nhiên, Neldene lại nghĩ rằng chị ta có thể, và nóng lòng muốn được chia sẻ cách nghĩ của mình với báo chí. Hai ngày sau khi Patrick bị bắt, chị ta đến gặp luật sư, gã rẻ tiền từng lo vụ ly hôn gần đây nhất của Neldene để kiếm ba trăm đôla, và đề nghị gã “cò mồi” với đám báo chí hỗn độn. Gã nhanh chóng nhận lời, rằng làm chuyện này mà lấy xu nào cả, rồi tiến hành cái việc mà hầu hết các luật sư tồi đều làm khi đại diện cho thân chủ với câu chuyện ly kỳ nào đó - gã tổ chức cuộc họp báo tại văn phòng của gã ở Hattiesburg, cách Biloxi chín mươi dặm về phía bắc.

      Gã lôi thân chủ nước mắt ngắn nước mắt dài của mình ra trước các phương tiện thông tin đại chúng và về vô dụng của viên cảnh sát trưởng ở dưới Biloxi, của FBI cùng những nỗ lực ra đâu vào đâu của họ trong việc tìm kiếm Pepper. Họ đáng xấu hổ vì giậm chân tại chỗ hơn bốn năm qua trong khi thân chủ tội nghiệp của gã phải sống trong tâm trạng đau khổ và bất an. Gã nguyền rủa và tận dụng kỳ hết mười lăm phút trước báo chí của gã. Gã bóng gió về hành động pháp lý đối với Patrick Lanigan, người ràng là giết Pepper rồi đốt xác cậu ta để phi tang và biến với chín mươi triệu đôla, thế nhưng gã mập mờ về những điều cụ thể.

      Báo chí, bất chấp mọi thận trọng cần có, bập vào câu chuyện này. Họ được nhận những tấm ảnh của Pepper, cậu bé trông hồn nhiên với mái tóc bù xù và gương mặt còn đầy lông tơ. gương mặt như vậy được gắn với cái thi thể của nạn nhân còn nhận diện được kia, và trở thành con người. Đó là cậu bé mà Patrick sát hại.

      Câu chuyện về Pepper được đăng tải ầm ĩ báo chí, và được nhắc đến cách thích hợp bằng nhóm từ “người được cho là nạn nhân," thế nhưng phần “người được cho là" luôn luôn bị chìm . Patrick mình theo dõi tin này trong căn phòng tối của .

      Chỉ ít lâu sau khi biến , Patrick được biết có tin đồn rằng Pepper Scarboro bị thiêu trong đống lửa. và Pepper săn hươu cùng nhau vào tháng Giêng năm 1992, và cùng ăn món thịt bò hầm bên bếp lửa vào cuối chiều đông lạnh giá ở trong rừng. ngạc nhiên khi biết rằng Pepper thực thích sống ở rừng, chứ thích ở nhà, điều mà cậu ta hiếm khi tới. Tài nghệ dựng lều và sinh tồn của cậu ta là kỳ lạ. Patrick bảo Pepper cứ việc sử dụng cái mái hiên của trong trường hợp mưa gió hoặc thời tiết xấu, thế nhưng theo chỗ biết cậu ta chưa bao giờ đụng tới.

      Họ gặp nhau vài lần trong rừng. Pepper có thể nhìn thấy mái của ngôi nhà săn kia từ đỉnh ngọn đồi rậm rạp cách xa chừng dặm, và nếu như chiếc xe của Patrick xuất cậu ta nấp quanh đâu đó. Cậu ta khoái bám theo sau Patrick trong lúc dạo những quãng đường dài hay lần vào rừng săn thú. Cậu ta thường ném theo những viên sỏi hay những quả dại cho tới lúc phải quát lác và văng tục. Rồi họ lại ngồi chuyện với nhau chốc lát. Chuyện trò phải là thứ mà Pepper hứng thú gì, nhưng cậu ta cũng khoái cái khoảnh khắc tạm chia tay với độc. Patrick thường mang cho cậu ta bánh và kẹo.

      ngạc nhiên với điều người ta, khi đó và bây giờ, cho rằng giết thằng bé.

      oOo

      Bác sĩ Hayani theo dõi bản tin tối với quan tâm đặc biệt. ta đọc báo và chuyện rất chi tiết với người vợ mới cưới về tay bệnh nhân đầy tai tiếng của mình. Họ ngồi giường và lại theo dõi lại từ đầu câu chuyện này trong bản tin khuya.

      Điện thoại réo lên đúng lúc họ vừa tắt đèn và chuẩn bị ngủ. Đó là Patrick, với tất cả những lời xin lỗi, cách đau đớn và khiếp sợ, và chỉ cần có ngưòi để chuyện. Bởi vì về mặt nội quy, tù nhân, chỉ được phép gọi điện cho luật sư và bác sĩ của , và chỉ hai lần ngày cho mỗi người. Xin bác sĩ phút có được ?

      Tất nhiên. lời xin lỗi nữa vì gọi muộn thế này, thế nhưng lúc này thể nào ngủ được, và rất phiền lòng bởi tất cả những tin tức kia và đặc biệt là về điều nhận định rằng giết thằng bé. Bác sĩ có thấy TV ?

      Có, tất nhiên. Patrick ở trong phòng của , đèn đóm tắt hết, co mình giường. phải thú nhận là cảm thấy biết ơn Chúa về những viên cảnh sát đứng ngoài hành lang, bởi vì sợ hãi. Tai như nghe thấy những tiếng và những tiếng động đâu vào đâu. Những tiếng phải vọng tới từ ngoài hành lang mà là xuất phát từ ngay bên trong căn phòng. Phải chăng là do những thứ thuốc, có thể là loạt thứ, Patrick. Thuốc này, mệt mỏi này, những chấn thương mà vừa phải trải qua, tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần.

      Cứ như thế, họ chuyện trong chừng giờ.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 17

      H ắn gội đầu suốt ba ngày liên tiếp. muốn mái tóc có vẻ bóng dầu. cũng cạo râu ria gì cả. Còn quần áo bên ngoài, chuyển từ bộ đồ ngủ bằng vải bông trở lại với bộ đồ rộng thùng thình cũ màu nước biển, nay nhàu nát. Hayani hứa kiếm cho bộ mới. Thế nhưng hôm nay, cần bộ nhàu nát này. chiếc tất màu trắng vào chân bên phải, nhưng mà có vết bỏng nặng ngay phía mắt cá, và muốn mọi người nhìn thấy. Bởi vậy lại cởi ra. Chỉ đôi dép bằng cao su màu đen dùng trong phòng tắm mà thôi.

      Ngày hôm nay người ta trưng ra. Cả thế giới chờ đợi.

      Sandy đến vào lúc mười giờ với cặp kính râm rẻ tiền, thể theo cầu của , cùng cái mũ đen có mang dòng chữ Các vị thánh New Orleans. “Cảm ơn," Patrick trong khi đứng trước gương trong phòng tắm ngắm nghía cặp kính và sửa sang cái mũ.

      Bác sĩ Hayani đến sau đó vài phút, và Patrick giới thiệu hai người với nhau. Patrick đột nhiên cảm thấy bồn chồn và váng đầu. ngồi xuống mép giường, đưa tay vuốt tóc và cố gắng thở chầm chậm. “Tao bao giờ nghĩ lại có ngày hôm nay cả, mày biết ,” lầm bầm với cái sàn nhà. “ bao giờ.” Tay bác sĩ và người luật sư của nhìn nhau còn biết gì.

      Hayani ra lệnh mang tới liều thuốc làm dịu thần kinh khá mạnh, và Patrick uống liền cả hai viên. “Có thể là tôi ngủ qua mọi chuyện,” .

      "Tôi lo phần trình bày,” Sandy . “Cứ cố gắng và nghỉ ngơi .”

      “Hẳn là phải thế rồi,” Hayani .

      tiếng gõ cửa, và cảnh sát trưởng Sweeney bước vào với đám phụ tá đông đảo đủ để đàn áp cuộc nổi loạn. Những lời chào hỏi cứng nhắc. Patrick đội chiếc mũ Các thánh kia lên, đeo cặp kính râm mới, đen thui và to tướng, rồi chìa hai cổ tay ra cho người ta khóa.

      “Cái gì kia ?” Sandy lên tiếng, tay chỉ vào cặp khóa chân mà cảnh sát cầm.

      “Khóa chân,” Sweeney đáp.

      "Tôi nghĩ vậy,” Sandy gay gắt. “ ta còn có những vết bỏng ở mắt cá.”

      “Đúng thế,” bác sĩ Hayani mạnh bạo , sốt ruột muốn được vào cuộc. “Đây,” ta khẳng định, chỉ vào mắt cá bên trái của Patrick.

      Sweeney cân nhắc trong khoảnh khắc, và lưỡng lự này làm cho ông ta phải trả giá. Sandy lấn tới: “Nào, thưa ông cảnh sát trưởng, có khả năng chạy trốn đấy ? bị thương, bị khóa tay, với tất cả những người này ở xung quanh. làm chuyện quái gì được hả ? Vùng chạy ư ? Các ông đến nỗi quá chậm chạp, phải nào ?”

      “Tôi gọi cho ông chánh án, nếu cần,” bác sĩ Hayani bực dọc .

      “Nhưng mà đến đây với chiếc khóa chân,” viên cảnh sát trưởng .

      “Đó là FBI, Raymond,” Patrick lên tiếng. “Và đó là cái cùm chứ phải là khóa chân nữa. Thứ đó làm đau lắm.”

      Chuyện khóa chân cho qua, và Patrick được dẫn ra hành lang, nơi những người mặc đồng phục màu nâu sẫm im bặt khi thấy bóng . Họ tập hợp lại xung quanh và cả đám từ từ ra thang máy. Sandy ở bên trái , nhàng đỡ bên khuỷu tay.

      Chiếc thang máy quá chật cho cả đám tùy tùng của . Những người vào được vội vã chạy xuống bằng cầu thang bộ và gặp lại nhau ở bên dưới nhà, rồi cùng qua khu tiếp đón, qua những cánh cửa lớn bằng kính, bước ra ngoài trời trong bầu khí ấm áp của mùa thu. Họ đưa ngồi vào trong chiếc Suburban đen mới tinh với phù hiệu của cảnh sát quận nổi bật hai bên thân xe, và chiếc xe lập tức chuyển bánh, theo sau là chiếc Suburban trắng chở đám bảo vệ. Tiếp theo sau là ba chiếc xe tuần tiễu mới được cọ rửa bóng nhoáng. Phía đằng trước là hai chiếc xe tuần tiễu, dẫn đầu đoàn xe vượt qua các trạm kiểm soát quân để tiến ra thế giới dân ở bên ngoài.

      Qua cặp kính râm to tướng, Patrick nhìn ngắm tất cả. Những đường phố mà qua lại cả ngàn lần. Những ngôi nhà quen thuộc. Họ rẽ lên xa lộ 90 và kia là Vịnh, mặt nước yên bình của nó dường như thay đổi gì kể từ khi ra . Kia là bãi biển, doi cát hẹp nằm sát từ con đường ra tới mép nước, tách xa hẳn những khách sạn và những khu nhà nằm ở phía bên trong này.

      Vùng bờ biển này trở nên thịnh vượng trong thời gian biệt tích, chủ yếu là nhờ vào xuất đáng ngạc nhiên của những sòng bạc. Hồi bỏ cũng có tin đồn về việc các sòng bạc được mở, và giờ đây ngồi xe chạy ngang qua những sòng bạc lớn kiểu Las Vegas với những nét hào nhoáng và ánh đèn nêông. Các khu đỗ xe chật ních, và lúc này mới là chín rưỡi sáng.

      “Có bao nhiêu sòng bạc ?" hỏi viên cảnh sát trưởng ngồi kế bên phải.

      “Mười ba tại. Sắp còn thêm nữa.”

      “Khó mà tin nổi.”

      Liều thuốc làm dịu thần kinh bắt đầu có công hiệu. Hơi thở của trở nên nặng nề và thân thể chùng xuống. cảm thấy như ngủ gà ngủ gật trong chốc lát, thế rồi họ rẽ vào phố Main và lại cảm thấy bồn chồn. Chỉ còn vài dãy phố nữa. Vài phút nữa, và cả cái quá khứ của lại ập tới. Qua tòa thị chính, phía bên trái, mọi thứ lúc này cứ loang loáng, rồi khu Vieux Marche và ở giữa dãy phố cổ với đầy những cửa hàng cửa hiệu này là tòa nhà trắng lớn đẹp đẽ mà từng sở hữu phần với tư cách là cổ đông của Hãng luật Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac, và Lanigan.

      Nó vẫn còn đó nhưng nhóm cổ đông rúm ró ở bên trong.

      Phía trước là Tòa án quận Harrison, chỉ cách văn phòng cũ của có ba khúc phố. Đó là ngôi nhà gạch xây hai tầng đơn giản, với sân cỏ ở đằng trước, cạnh phố Howard. sân đầy nhóc người. Xe cộ đậu nối dài hai bên các dãy phố. Những người bộ cũng vội vã dọc các hè phố, có vẻ như tất cả đều hướng về tòa án. Những chiếc xe chạy phía trước dạt sang bên khi đoàn xe của Patrick lao tới.

      Đám người ở phía trước tòa án sôi động hẳn lên ở cả hai bên, nhưng bị các rào chắn của cảnh sát cản lại. Patrick chứng kiến vài kẻ giết người tai tiếng bị đưa đến và đưa khỏi tòa án qua lối cửa sau và bởi vậy biết chính xác là chuyện gì dang diễn ra. Đoàn xe dừng lại. Những cánh cửa bật mở và hơn chục cảnh sát tỏa ra. Họ vây lấy xung quanh chiếc Suburban đen. Cánh cửa xe được từ từ mở ra. Sau cùng Patrick xuất , bộ đồ thùng thình màu nước biển của tương phản hoàn toàn với những bộ đồng phục màu nâu sẫm vây kín xung quanh.

      đám đông các phóng viên báo , báo ảnh và báo hình nín thở chờ đợi dọc cái rào chắn gần nhất. Những người phía xa cũng chạy ùa lại. Patrick lập tức hiểu ngay là tâm điểm của chú ý, và cúi đầu thấp xuống, nép mình giữa đám cảnh sát. Họ dẫn nhanh về phía cửa sau, trong khi chuỗi những câu hỏi ngớ ngẩn vang lên hướng về phía .

      “Patrick, cảm giác trở về thế nào ?"

      "Tiền ở đâu, Patrick ?”

      “Ai cháy trong xe, Patrick ?”

      Cánh cửa và những bậc cầu thang ở phía sau này là lối mà Patrick đôi lần dùng tới khi phải vội vã tìm xin chữ ký của vị thẩm phán nào đó. Đột nhiên, cái hơi hướng nơi đây trở nên quen thuộc. Những bậc thang bằng bêtông bốn năm nay được sơn lại. Rồi qua cánh cửa nữa, đoạn hành lang ngắn với đám đông các nhân viên tòa án tụ tập ở đầu để trố mắt ra mà nhìn . Họ đưa vào trong phòng hội thẩm, kề bên phòng xét xử, và ngồi xuống chiếc ghế có bình cà phê đặt bên.

      Sandy xáp lại, lo lắng biết có làm sao . Cảnh sát trưởng Sweeney cho đám cảnh sát ra đợi ở bên ngoài.

      “Cà phê nhé ?” Sandy hỏi.

      “Xin cho ly đen.”

      sao chứ, Patrick ?" Sweeney hỏi.

      sao, Raymond. Cảm ơn.” có vẻ nhu mì và khiếp sợ … Tay chân run lật bật, thể ngừng lại được. để ý đến ly cà phê, và với cả hai tay vẫn bị khóa, chỉnh lại cặp kính râm và kéo cái mũ sụp xuống thấp nữa. Đôi vai xệ xuống.

      Có tiếng gõ cửa, và xinh đẹp có tên là Belinda ngó cổ vào , “Ngài thẩm phán Huskey muốn gặp Patrick.” Giọng là quen thuộc. Patrick ngẩng đầu lên, nhìn ra cửa và khẽ khàng , “Xin chào, Belinda.”

      “Chào Patrick. Chúc mừng trở về.”

      ngoảnh . ta là thư ký trong văn phòng hành chính của tòa án, và tất cả các luật sư đều tán tỉnh ta. dịu dàng với giọng dịu dàng. bốn năm rồi ư ?

      “Tại đâu ?” Viên cảnh sát trưởng hỏi.

      “Ngay đây,” ta đáp. “Trong vài phút nữa.”

      có muốn gặp ông Thẩm phán , Patrick?” Sandy hỏi. Đó phải là điều bắt buộc. Trong hoàn cảnh bình thường đó là việc hoàn toàn bất thường.

      “Tất nhiên.” Patrick rất muốn gặp Karl Huskey.

      ta quay và khép cửa lại.

      "Tôi ra ngoài chút,” Sweeney . “Tôi muốn hút điếu thuốc.”

      Sau cùng, chỉ còn lại Patrick và luật sư của . Patrick đột nhiên ngẩng phắt lên. “Có vài chuyện thế này. có nghe tin tức gì của Leah Pires ?”

      ,” Sandy đáp.

      ấy liên lạc ngay đấy, hãy sẵn sàng. Tôi viết cho ấy bức thư dài, và tôi muốn nhờ chuyển giúp”.

      “Được.”

      “Thứ hai. Có thiết bị chống nghe trộm gọi là DX-130, do Hãng điện tử Hàn Quốc Lo Kim sản xuất. Giá chừng sáu trăm đôla; kích cỡ bằng độ chiếc máy ghi cầm tay. Kiếm cái, và mang nó theo bất kỳ lúc nào chúng ta gặp nhau. Chúng ta phải dọn sạch phòng và điện thoại trước mỗi cuộc chuyện. Còn nữa, hãy thuê hãng thám tử có tên tuổi ở New Orleans để kiểm tra văn phòng của hai lần tuần. Rất đắt đấy, nhưng tôi trả tiền. Có câu hỏi gì ?”

      .”

      tiếng gõ cửa khác, và Patrick lại rũ xuống. Thẩm phán Karl Huskey mình bước vào, áo choàng, với chiếc kính trắng trễ xuống tới tận ngang mũi. Mái tóc hoa râm cùng đôi mắt nhăn nheo làm cho ông có vẻ già hơn và thông thái hơn nhiều so với cái tuổi bốn mươi tám, và ông thích thế.

      Patrick ngước nhìn và mỉm cười khi Huskey chìa tay ra. “Rất mừng được thấy , Patrick,” ông vẻ cởi mở trong khi hai người bắt tay, với cái khóa tay kêu lanh canh. Huskey muốn ôm hôn, thế nhưng với kiềm chế nghề nghiệp, ông chỉ dừng lại ở cái bắt tay nhàng.

      “Khỏe , Karl ?” Patrick hỏi và vẫn ngồi nguyên ghế.

      “Bình thường. Còn sao ?”

      “Cũng đỡ hơn, và mừng là được gặp . Ngay cả trong hoàn cảnh này.”

      “Cảm ơn. Tôi thể hình dung dược … ”

      “Chắc là trông tôi khác lắm phải ?"

      “Đúng thế. Tôi dám chắc là tôi nhận ra được ở ngoài phố ?"

      Patrick chỉ mỉm cười.

      Cũng giống như vài người khác còn có chút tình bạn bè dành cho Patrick, Huskey cảm thấy bị phản bội, thế nhưng lại thấy mừng nhiều hơn khi biết người bạn mình chưa chết. Ông rất lo ngại về cái tội danh giết người. Vụ ly hôn và những kiện tụng dân kia có thể chống đỡ được, nhưng giết người

      Do quan hệ bạn bè của họ, Huskey chủ trì phiên tòa xét xử. Ông dự định xử lý những vấn đề sơ bộ, rồi đứng sang bên trước khi phải có những phán quyết quan trọng. Người ta vốn lắm xì xầm về chuyện này.

      "Tôi cho rằng tuyên bố mình vô tội,” ông ta .

      “Phải, đúng là thế.”

      “Vậy có phiên xuất trước tòa thường lệ đầu tiên. Tôi bác bỏ việc đóng tiền thế chân bởi vì đây là vụ giết người.”

      “Tôi hiểu. Karl."

      "Tất cả diễn ra trong đầy mười phút.”

      "Tôi từng ở đây. Mỗi cái ghế ngồi là khác thôi mà.”

      Mười hai năm ngồi ghế quan tòa, Thẩm phán Huskey thường phải lấy làm ngạc nhiên về mức độ thông cảm mà ông dành cho những người bình thường phạm phải các tội ác. Ông nhìn thấy cái vẻ mặt con người trong nỗi chịu đựng của họ. Ông thấy tội lỗi nhai tươi nuốt sống họ. Ông đưa vào tù hàng trăm người, những người mà nếu như có cơ hội họ hẳn rời khỏi tòa án của ông và bao giờ tái phạm nữa. Ông muốn được giúp đỡ, muốn chìa tay ra, muốn dung thứ. Nhưng đây lại là Patrick. Ông xúc động đến suýt phát khóc lúc này. Người bạn cũ - tay bị xích, áo quần như hề, thay hình đổi dạng, lo lắng, và sợ hãi khôn xiết. Ông muốn được mang về nhà, cho bữa ăn ngon lành, để nghỉ ngơi và giúp làm lại cuộc đời.

      Ông quỳ chân xuống cạnh , và , “Patrick, vì những lý do ràng, tôi thể nào xử vụ này được. Ngay lúc này, tôi lo số việc ban đầu để bảo đảm rằng được bảo vệ. Tôi vẫn là bạn của . Đừng ngần ngại gì nếu muốn gọi tôi.” Ông vỗ vỗ đầu gối , chỉ sợ nhỡ chạm vào chỗ còn đau nào đó.

      “Cảm ơn Karl,” Patrick và cắn chặt môi.

      Karl muốn được nhìn tận mắt , nhưng điều đó là thể được vì cặp kính đen kia. Ông dứng dậy và ra cửa. “Mọi chuyện hôm nay dều như thường lệ, ông luật sư,” ông với Sandy.

      “Ngoài đó có nhiều người lắm hả ?” Patrick hỏi.

      “Đúng vậy, Patrick. Cả bạn bè lẫn kẻ thù. Tất cả đều ở ngoài đó.” Ông ta rời khỏi căn phòng.

      Vùng bờ biển này vốn từ lâu đầy rẫy những vụ giết người giật gân và những tên tội phạm tai tiếng, bởi vậy những phòng xét xử đông nghịt người phải là chuyện lạ lùng gì. Tuy vậy, ai có thể nhớ nổi bao giờ có đám đông đến như thế cho phiên xuất trước tòa lần đầu tiên hay chưa. Báo chí đến từ sớm và chiếm những chỗ tốt. Bởi lẽ Mississippi là trong số ít bang còn lại vẫn khôn ngoan duy trì lệnh cấm đưa các máy thu hình vào phòng xử án nên các phóng viên buộc phải ngồi đó, xem và nghe, rồi dùng lời lẽ của mình để mô tả lại những gì họ được chứng kiến. Họ buộc phải làm các phóng viên , nhiệm vụ mà hầu hết bọn họ đủ khả năng làm nổi.

      Mọi phiên tòa lớn đều thu hút đám người thông thường - nào là các nhân viên, các thư ký từ các ban bệ của tòa án, nào là những trợ lý uể oải, những cảnh sát mệt mỏi và những luật sư ở địa phương, những người quanh quẩn suốt ngày, uống cà phê miễn phí trong phòng làm việc của các nhân viên tòa án, bàn tán, kiểm tra lại các chứng thư về bất động sản, chờ thẩm phán ký lệnh của tòa, chung là làm bất kỳ điều gì để phải trở về văn phòng của họ - và Patrick thu hút tất cả những người này và còn hơn thế.

      Rất nhiều luật sư có mặt chỉ để được nhìn thấy Patrick. Báo chí đăng đầy những câu chuyện về suốt bốn ngày nay, nhưng ai thấy tấm ảnh mới nào của . Có vô vàn những đồn đại quanh vẻ bên ngoài của . Câu chuyện về vụ tra tấn lại càng làm tăng thêm tò mò.

      Charles Bogan và Doug Vitrano ngồi cùng nhau ở khoảng giữa phòng, cố áp sát được gần nhất về phía trước. Đám phóng viên chết tiệt kia tới trước họ. Họ muốn được ngồi ở hàng đầu, gần cái bàn mà bị cáo thường ngồi. Họ muốn trông thấy , muốn nhìn vào tận mắt , muốn văng ra những lời đe dọa và tục tĩu nếu như có thể được, và muốn nhổ cả nước bọt nữa, ở ngay cái nơi biểu của nền văn minh này. Thế nhưng, họ phải ngồi ở tận hàng ghế thứ năm, nóng lòng chờ đợi cái giây phút mà họ tưởng là bao giờ xảy ra này.

      Tay cổ đông thứ ba, Jimmy Havarac, đứng ở bức tường phía sau, thầm trò chuyện với viên cảnh sát. Ông ta phớt lờ ánh mắt của những người quen biết, mà nhiều người trong số đó cũng là những luật sư và từng ngầm sung sướng khi chỗ tiền kia biến mất và hãng của Havarac mất cả khoản khổng lồ. Lẽ ra đó là khoản thù lao lớn nhất mà hãng luật từng vớ được ở bang này. ghen tị là khuynh hướng tự nhiên. Ông ta căm ghét họ, và thực là ông ta căm ghét tất cả mọi người trong cái phòng xử án này. đám kền kền chầu chực cái xác chết. Havarac, con trai của người đánh tôm, vẫn to khỏe, cục cằn, vẫn chưa vượt qua được cái tầm của cuộc ẩu đả trong quán rượu. Năm phút với riêng Patrick ở trong căn phòng khóa trái, và ông ta hẳn lấy lại được khoản tiền kia.

      Ethan Rapley, người cổ đông thứ tư, như thường lệ vẫn ở nhà, căn phòng áp mái, bận rộn với bản trình bày vắn tắt về khuyến nghị vô vị. Ông ta đọc mọi chuyện về phiên tòa này vào ngày mai.

      nhóm luật sư là các bạn bè cũ, tới đây để động viên cho Patrick. Chạy trốn là giấc mơ phổ biến, thường được ra, của nhiều luật sư ở các thành phố , ngập đầu trong đống công việc mệt mỏi và bị đòi hỏi quá cao. Chí ít Patrick cũng dám theo đuổi giấc mơ đó, và họ tin chắc rằng giải thích nào đó về cái xác chết kia.

      Đến muộn và bị đẩy vào góc là Lance. Gã lảng vảng ở phía sau với đám phóng viên, dò xét mức độ bảo vệ. Khá chặt chẽ, ít ra cũng là lúc này. Thế nhưng liệu cảnh sát có thể duy trì mãi thế này, hàng ngày, trong vụ xét xử kéo dài ? Đó là vấn đề.

      Nhiều người khác nữa cũng có mặt, những người mà Patrick chỉ tình cờ quen biết nhưng nay bỗng nhiên quả quyết rằng họ từng là chỗ thân thiết nhất của . Thực ra còn có người chưa bao giờ gặp Patrick, nhưng điều đó ngăn được những câu chuyện đâu vào đâu của họ về Patrick thế này, Patrick thế khác. Cũng giống như vậy, Trudy đột nhiên có những người bạn mới, ghé tới để nguyền rủa cái người đàn ông làm cho trái tim ả tan nát và bỏ rơi cả con bé Ashley Nicole bé bỏng, vàng ngọc.

      Họ đọc truyện và xem báo, cố làm ra vẻ chán chường, như thể là họ thực muốn có mặt ở đó. Có chuyển động chỗ các phụ tá và mõ tòa ở phía và căn phòng lập tức trở nên yên lặng. Những tờ báo nhất tề được hạ xuống. Cánh cửa gần chỗ ngồi của hội thẩm đoàn mở ra và những bộ đồng phục màu nâu bước vào. Cảnh sát trưởng Sweeney xuất , giữ Patrick ở nơi khuỷu tay, rồi hai cảnh sát nữa, và sau cùng là Sandy.

      kia rồi ! Những cái cổ vươn cao lên, những cái đầu ngả sang bên này, bên kia. Các họa sĩ vẽ tranh trong phòng xử án bắt tay vào việc.

      Patrick bước chầm chậm tới bàn bị cáo, đầu cúi xuống, mặc dù sau cặp kính đen vẫn quan sát đám khán giả kia. thoáng nhìn thấy Havarac ở sát bức tường đằng sau, bộ mặt giận dữ của ông ta lên tất cả. Và ngay trước khi ngồi xuống, nhìn thấy Cha Phillip, người lo phần hồn của , trông già hơn nhiều nhưng vẫn tử tế như trước.

      ngồi thu mình, vai chùng xuống, mặt cúi gằm, ở đây có chỗ cho kiêu hãnh. nhìn ra xung quanh bởi vì có thể cảm thấy những ánh mắt từ mọi hướng. Sandy đặt tay lên vai và thầm vớ vẩn gì đó.

      Cánh cửa lại mở ra, và T.L. Parrish, công tố viên quận, mình thẳng tới bàn của ông ta, cạnh bàn Patrick. Đó là con mọt sách với cái tôi bé, bức bối. cương vị cao hơn nào chờ đợi ông ta. Công việc truy tố của ông ta hoàn toàn đơn điệu, lạnh lùng và hề có chút tình cảm nào. tại ông ta có tỉ lệ kết án cao thứ hai trong bang. Ông ta ngồi xuống cạnh viên cảnh sát trưởng, người vừa chuyển từ bàn Patrick về chỗ của mình. Đằng sau ông ta là các nhân viên đặc biệt Joshua Cutter, Brent Myers và hai nhân viên FBI nữa mà Parrish thậm chí biết tên.

      Tất cả được chuẩn bị cho phiên tòa ngoạn mục, thế nhưng ít nhất cũng còn phải sáu tháng nữa vụ án này mới có thể bắt đầu được xét xử. Viên mõ tòa nhắc mọi người chú ý và đứng dậy khi Thẩm phán Huskey bước vào và ngồi xuống ghế quan tòa. “Xin mời ngồi,” đó là những lời đầu tiên của ông, và mọi người ngồi xuống.

      “Vụ án số 96-1140, Bang truy tố Patrick S. Lanigan. Bị cáo có mặt ?”

      “Có, thưa ngài,” Sandy , hơi nhỏm người lên.

      “Ông đứng lên được chứ, ông Lanigan ?" Huskey cầu. Patrick, tay vẫn bị khóa, từ từ đẩy chiếc ghế lại phía sau và đứng lên. Lưng hơi gập lại, đầu cúi và đôi vai trễ xuống. đóng kịch. Liều thuốc làm dịu thần kinh kia làm tê liệt phần lớn các bộ phận thân thể , kể cả bộ não.

      Người hơi cứng.

      “Ông Lanigan, tôi có trong tay bản cáo trạng chống lại ông do hội thẩm đoàn quận Harrison chuyển đến, trong đó ông bị cho rằng giết người, và vì hành động đó ông bị buộc tội cố sát. Ông đọc cáo trạng này chưa ?”'

      “Rồi, thưa ngài,” đáp, đầu ngẩng lên, với giọng mạnh mẽ nhất mà có thể có được.

      “Ông thảo luận với luật sư của ông chưa ?"

      “Rồi, thưa ngài.”

      “Ông muốn biện hộ thế nào ?”

      có tội.”

      “Lời tuyên bố có tội của ông được ghi nhận. Ông có thể ngồi xuống.”

      Huskey sắp xếp lại mấy tờ giấy, rồi tiếp: “Tại đây, tòa ban bố lệnh cấm phát ngôn đối với bị cáo, các luật sư, cảnh sát cùng các nhân viên điều tra, và tất cả các nhân chứng nếu có, cũng như đối với tất cả các nhân viên của tòa án, có hiệu lực tức thời và kéo dài cho đến khi vụ xét xử này kết thúc. Tôi có các bản sao lệnh này cho mọi người để đọc. Bất kỳ vi phạm nào đối với lệnh này cũng dẫn tới tội coi thường tòa án, và tôi có biện pháp nghiêm khắc đối với bất kỳ người vi phạm nào. lời nào với bất kỳ phóng viên hay nhà báo nào nếu chấp thuận của tôi. Các luật sư có câu hỏi nào ?”

      Giọng ông ta để ai phải nghi ngờ rằng đây là chuyện hoàn toàn nghiêm túc, và còn làm cho người ta hiểu rằng những kẻ vi phạm hẳn bị trừng phạt. Các luật sư im lặng.

      “Tốt. Tôi chuẩn bị lịch trình về những thẩm vấn, khuyến nghị, xét xử sơ bộ và xét xử. Có thể nhận được ở văn phòng thư ký tòa án. Còn gì nữa ?"

      Parrish đứng dậy và , “Có vấn đề , thưa ngài. Chúng tôi muốn được đưa bị cáo về trung tâm giam giữ của chúng tôi ngay khi có thể được. Như ngài biết, bị cáo ở trong bệnh viện của căn cứ, và, chúng tôi … ”

      “Ông Parrish, tôi vừa mới chuyện với bác sĩ của bị cáo. Bị cáo được điều trị y tế. Tôi bảo đảm với ông rằng ngay khi bị cáo được bác sĩ cho xuất viện, chúng ta chuyển bị cáo tới nhà tù quận Harrison.”

      “Xin cảm ơn, ngài chánh án.”

      “Nếu còn gì nữa chúng ta ngừng ở đây.”

      được đưa ra khỏi phòng xét xử, trở xuống cái cầu thang ở phía sau, và được đẩy vào chiếc Suburban đen trong khi các ống kính máy thu hình xâu vào. Patrick ngủ gà ngủ gật đường trở về bệnh viện.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 18

      C ái tội duy nhất mà Stephano có thể phạm phải chỉ là tội bắt cóc và hành hung Patrick, xem ra khó mà có thể kết án được lão. Việc đó xảy ra ở Nam Mỹ, xa ngoài vùng tài phán của Mỹ. Việc hành hung đó lại do những người khác, trong đó có những công dân Braxin, thực . Luật sư của Stephano tin tưởng rằng họ thắng nếu buộc phải ra trước tòa.

      Thế nhưng nó còn có liên quan tới các khách hàng, cùng chuyện tiếng tăm nữa. Tay luật sư biết quá khả năng của FBI trong chuyện gây mất mặt mà thực phải mang ra truy tố. Ông ta có lời khuyên Stephano là tới thỏa thuận - đồng ý tiết lộ thông tin để đổi lấy lời hứa của chính phủ là miễn truy tố lão và các khách hàng của lão. Bởi vì còn tội trạng nào khác thỏa thuận như vậy đâu có hại gì cho ai ?

      Tay luật sư đòi được ngồi cùng Stephano trong khi những lời khai của lão được ghi lại. Những cuộc thẩm vấn diễn ra nhiều giờ trong vài ngày, và được tiến hành trong Tòa nhà Hoover với người của Jaynes. Có cà phê và bánh ngọt. Hai chiếc máy thu hình được chĩa về phía cuối chiếc bàn, nơi Stephano bình thản ngồi, với luật sư của lão bên cạnh.

      “Ông cho biết tên ?” Underhill, người trong nhóm chuyên gia thẩm vấn nắm hồ sơ về vụ Lanigan, lên tiếng.

      “Jonathan Edmund Stephano. Jack.”

      “Và công ty của ông là … ?”

      “Edmund Associates.”

      “Công ty của ông làm gì ?"

      “Nhiều thứ. Tư vấn an ninh. Theo dõi. Tìm kiếm nhân . Tìm người mất tích.”

      “Ai là chủ công ty ?”

      “Tôi. Toàn bộ.”

      “Ông có bao nhiêu người làm công ?”

      “Có nhiều loại. nay có mười chính thức. Khoảng ba mươi gì đó là cộng tác viên.”

      “Ông có được thuê để tìm kiếm Patrick Lanigan ?"

      “Có”

      “Khi nào ?"

      “Ngày 28 tháng Ba năm 1992.” Stephano có các hồ sơ kẹp đầy những ghi chú, nhưng lão cần đến chúng.

      “Ai thuê ông ?”

      “Benny Aricia, người bị mất tiền.”

      “Ông đòi giá bao nhiêu ?"

      “Phần trả trước ban đầu là hai trăm nghìn.”

      “Cho đến nay ông ta trả ông bao nhiêu ?”

      triệu chín.”

      “Ông làm gì sau khi ông được Benny Aricia thuê?”

      số việc. Tôi lập tức bay đến Nassau ở Bahama để gặp cái nhà băng mà tại đó vụ trộm cắp xảy ra. Đó là chi nhánh của Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Khách hàng của tôi, ông Aricia, và Hãng luật lo về vụ tố giác của ông ta, mở tài khoản mới ở đó để nhận tiền, và, như giờ đây chúng ta biết, có kẻ đợi sẵn khoản tiền đó.”

      “Ông Aricia có phải là công dân Mỹ ?”

      “Phải.”

      “Tại sao ông ta lại mở tài khoản ở nước ngoài ? “

      “Đó là chín mươi triệu đôla, sáu mươi cho ông ta, ba mươi cho các luật sư, và ai muốn khoản tiền đó xuất trong nhà băng ở Biloxi. Ông Aricia sống ở đó lúc bấy giờ và tất cả đều đồng ý rằng để cho bất kỳ ai ở địa phương thấy khoản tiền này đều là hay.”

      “Phải chăng là ông Aricia muốn né tránh Cơ quan thuế Liên bang ?"

      “Tôi biết. Ông phải hỏi ông ấy. Đó phải là việc của tôi.”

      “Ông chuyện với ai ở Ngân hàng liên hiệp xứ Wales ?”

      Tay luật sư khịt mũi vẻ tán thành, nhưng cũng gì.

      “Graham Dunlap, người . Phó chủ tịch gì đó của ngân hàng.”

      “Ông ta gì với ông ?”

      “Vẫn chuyện mà ông ta với FBI. Rằng chỗ tiền đó biến mất.”

      “Nó được chuyển từ đâu đến ?”

      “Từ Oasinhtơn. Điện chuyển tiền bắt đầu lúc chín giờ ba mươi sáng ngày 26 tháng Ba năm 1992, xuất phát từ Ngân hàng quốc gia D.C. Đó là điện ưu tiên, nghĩa là đầy giờ sau là tiền được chuyển đến Nassau. Vào lúc mười giờ mười lăm, tiền đuợc chuyển đến Ngân hàng liên hiệp xứ Wales, nó nằm lại đó có chín phút trước khi bị chuyển tới nhà băng ở Manta. Từ đó, nó lại được chuyển Panama.”

      “Chỗ tiền đó được chuyển khỏi tài khoản như thế nào ?”

      Tay luật sư cảm thấy khó chịu. “Đây là lãng phí thời giờ,” ông ta cắt ngang. “Các ông có thông tin này từ bốn năm nay. Các ông gặp gỡ các chủ nhà băng còn nhiều hơn cả thân chủ của tôi nữa.”

      Underhill thay đổi nét mặt. “Chúng tôi có quyền đưa ra các câu hỏi này. Đơn giản là chúng tôi muốn kiểm chứng lại những gì chúng tôi biết. Chỗ tiền đó được chuyển khỏi tài khoản như thế nào, ông Stephano ?”

      “Khách hàng của tôi và các luật sư của ông ấy hề biết rằng có người, Patrick Lanigan, chúng tôi cho là vậy, tiếp cận được với cái tài khoản mới mở ở nước ngoài này và chuẩn bị sẵn những chỉ thị chuyển nó Manta. Những chỉ thị chuyển tiền của các luật sư của khách hàng tôi, Hãng luật của chính Lanigan, là do giả mạo, và khoản tiền đó bị chuyển chỉ chín phút sau khi nó tới đó. Tất nhiên, họ tưởng là chết và có lý do để nghi ngờ bất kỳ ai về khoản tiền đó. Vụ dàn xếp mang lại chín mươi triệu đôla này, ngay từ đầu là cực kỳ bí mật, và ai, ngoại trừ khách hàng của tôi, các luật sư của ông ta, và vài người ở Bộ Tư pháp, biết chính xác là khi nào và từ đâu số tiền đó được điện chuyển .”

      “Như tôi hiểu, có kẻ nào đó có mặt tại ngân hàng đó khi chỗ tiền được chuyển đến.”

      “Đúng. Chúng tôi gần như chắc chắn đó là Patrick Lanigan. Vào buổi sáng cái hôm chuyển tiền, giả danh Doug Vitrano, trong những cổ đông của Hãng luật, diện trước Graham Dunlap. có giấy tờ tùy thân hoàn hảo - hộ chiếu, bằng lái xe, vân vân — cùng với bộ quần áo sang trọng và biết rất về khoản tiền sắp được chuyển từ Oasinhtơn đến. có trong tay nghị quyết, được công chứng, của hội đồng cổ đông cho phép thay mặt Hãng nhận số tiền đó, và chuyển nó tới nhà băng ở Manta”

      “Tôi biết quá là các ông có các bản sao của cả cái nghị quyết đó lẫn giấy phép chuyển tiền,” tay luật sư lên tiếng.

      “Chúng tôi có,” Underhill , lật lật đám giấy tờ và mấy để ý đến tay luật sư. FBI lần theo dấu vết của số tiền đó tới Manta, rồi từ đó tới Panama, nơi tất cả các dấu vết đều biến mất. Có bức hình nhòe nhoẹt được chụp lại từ hệ thống camêra bảo vệ của nhà băng về cái người đàn ông tự nhận là Doug Vitrano. FBI và các cổ đông của Hãng tin chắc rằng đó là Patrick, mặc dù cải trang tuyệt vời. Trông gầy hơn nhiều, tóc cắt ngắn và rất sẫm màu, để ria và mang cặp kính gọng sừng rất mốt. giải thích với Graham Dunlap là tới đây để đích thân giám sát việc nhận và chuyển tiền bởi vì Hãng của và khách hàng rất lo lắng về vụ giao dịch này. Điều đó chắc chắn là có gì bất thường trong con mắt của Dunlap, và ông ta vui vẻ phục tùng. Ông ta bị cách chức tuần sau đó và trở về Luân Đôn.

      “Bởi vậy, chúng tôi tới Biloxi và ở đó cả tháng để tìm kiếm các dấu vết," Stephano tiếp.

      “Và các ông phát việc hãng luật bị nghe trộm?”

      “Đúng vậy. Vì những lý do dễ hiểu, chúng tôi lập tức nghi ngờ Lanigan, và vạch ra hai nhiệm vụ: thứ nhất là tìm kiếm cùng chỗ tiền, thứ hai là xác định xem làm vụ này như thế nào. Các cổ đông còn cho chúng tôi toàn quyền với các phòng làm việc của họ trong mấy ngày nghỉ cuối tuần, và các nhân viên kỹ thuật của chúng tôi lục tung tất cả. Đầy rệp, như các ông vẫn . Chúng tôi tìm thấy các thiết bị nghe trộm ở tất cả các máy điện thoại, tất cả các phòng làm việc, dưới mọi gầm bàn, ngoài hành lang, thậm chí cả trong phòng vệ sinh nam ở tầng trệt. Chỉ có ngoại lệ. Phòng làm việc của Charles Bogan hoàn toàn sạch bong. Ông ta rất kỹ tính và luôn khóa cửa. Hai mươi hai thiết bị nghe trộm; đều là loại chất lượng cao. Các tín hiệu của chúng được thu lại nhờ ăngten giấu trong thùng đựng hồ sơ cũ để ở căn phòng áp mái, nơi mà nhiều năm chẳng có ai động đến.”

      Underhiỉl nghe mà nghe. Dù sao tất cả đều được ghi lại, và các cấp của ta có thể nghiên cứu sau. quá quen thuộc với những trò vấn đáp sơ bộ này, ta rút ra báo cáo kỹ thuật tóm tắt về mạng nghe trộm mà Patrick tạo dựng. Các micrô đại - xíu, cực mạnh, đắt giá, và được sản xuất bởi công ty đầy tai tiếng ở Malaixia. Mua bán và tàng trữ chúng là bất hợp pháp ở Mỹ, thế nhưng người ta lại có thể dễ dàng mua được những micrô này ở bất kỳ thành phố châu u nào. Patrick và Trudy đón năm mới ở Rôm, năm tuần trước cái chết của .

      Bộ ăngten tìm thấy trong cái thùng căn phòng áp mái làm cho các chuyên gia của FBI cũng phải sửng sốt. Nó được sản xuất ra chưa đầy ba tháng khi Stephano tìm thấy nó, và FBI phải miễn cưỡng thừa nhận rằng nó vượt trước những kỹ thuật mới nhất của họ ít nhất là năm. Được sản xuất tại Hungari, nó có thể nhận được tín hiệu của tất cả hai mươi con rệp giấu trong các phòng làm việc ở phía dưới, giữ chúng riêng biệt, rồi phát lần lượt hay tất cả lúc, tới chảo thu đặt ở gần đó.

      “Ông có xác định được các tín hiệu đó được truyền tới đâu ?” Underhill hỏi. Đó là câu hỏi thành thực bởi lẽ đúng là FBI biết.

      . Nó có tầm hoạt động ba dặm, về tất cả mọi hướng, bởi vậy thể nào được chính xác.”

      “Có nghi ngờ nào ?”

      “Có, nghi ngờ có lý lắm. Tôi cho rằng Lanigan ngu gì lại dựng cái chảo thu kia ở bất kỳ đâu trong vòng ba dặm tại trung tâm Biloxi. phải thuê nhà, ngụy trang cái chảo, tốn nhiều thời gian ở đó để theo dõi hàng tiếng đồng hồ các cuộc trao đổi. tỏ ra rất có bài bản. Tôi luôn luôn cho rằng sử dụng chiếc thuyền. Đơn giản và an toàn hơn nhiều. Cái văn phòng đó chỉ cách bờ biển có hơn năm trăm mét. Ngoài Vịnh có rất nhiều tàu thuyền. Người ta có thể buông neo cách bờ hai dặm và cả ngày chẳng phải chuyện với ma nào cả.”

      “Ông ta có sở hữu cái thuyền nào ?"

      “Chúng tôi tìm được.”

      “Có bằng chứng nào về việc ông ta sử dụng thuyền ?”

      “Có lẽ.” Stephano ngừng lại bởi vì lão vào địa hạt mà FBI hề biết.

      ngập ngừng này làm cho Underhill khó chịu ngay. “Đây phải là cuộc thẩm vấn thông thường đâu, ông Stephano.”

      “Tôi biết. Chúng tôi chuyện với tất cả các hãng cho thuê tàu dọc bờ biển, từ Destin tới New Orleans, và chỉ thấy có đối tượng có thể là đáng tình nghi. công ty ở Orange Beach, Alabama, cho người đàn ông thuê chiếc thuyền buồm có chiều dài chừng mười hai mét vào ngày 11 tháng Hai năm 1992, cái ngày mà Lanigan được mai táng. Giá thuê là nghìn đôla tháng. Người đàn ông đó trả giá gấp đôi với điều kiện vụ giao dịch đó được thanh toán bằng tiền mặt và hóa đơn chứng từ gì. Họ ngờ rằng đó là thằng khùng, và từ chối. Thế rồi người kia đề nghị được đặt trước năm nghìn đôla, cùng với hai nghìn tháng trong hai tháng. Công việc kinh doanh chậm. Chiếc thuyền lại được bảo hiểm chống trộm cắp. Vậy là họ đánh liều.”

      Underhill nghe chớp mắt. ta cúi xuống ghi chép. “Họ có cho ông xem tấm ảnh nào ?”

      “Có. đó có thể là Patrick. Nhưng mà có râu, tóc sẫm, mũ bóng chày, kính trắng, to béo. Đó là trước khi biết về Chương trình giảm cân nhanh. Dù sao chăng nữa tay kia cũng thể khẳng định về nhân dạng.”

      “Người đàn ông đó dùng tên gì ?”

      “Randy Austin. Có bằng lái xe của bang Georgia. Và từ chốỉ cung cấp các giấy tờ khác. trả bằng tiền mặt, và xin nhớ là năm nghìn đôla. Trong khi chiếc thuyền đó có thể được bán cho với giá hai mươi nghìn.”

      “Chuyện gì xảy ra với chiếc thuyền ?”

      “Sau cùng họ lấy lại được. Ông ta thực ngạc nhiên bởi lẽ Randy có vẻ biết gì lắm về thuyền buồm. Ông ta hỏi số câu, cũng lòng vòng thôi. Randy tính chuyển xuống ở dưới miền Nam sau cuộc hôn nhân tồi tệ ở Atlanta, chán chường với những tranh giành, có nhiều tiền bạc, đại loại cũng là thói thường. Cũng từng chạy thuyền buồm nhiều, và nay muốn có chuyến xuống vùng Keys kết hợp luyện lại tay nghề đường . Và luôn giữ khoảng cách xa bờ. Nghe cũng lọt tai và tay chủ thuyền cảm thấy dễ chịu hơn nhưng vẫn nghi ngờ. Ngày hôm sau, Randy đột nhiên xuất , xe hơi, tăcxi gì hết cứ như thể là cuốc bộ hay nhờ xe gì đó ra bến, và rồi sau loạt những giao hẹn này khác, ra với chiếc thuyền. Nó có động cơ -den lớn và có thể chạy đều đều với tốc độ tám hải lý giờ bất chấp gió máy thế nào. về phía đông, và thằng cha chủ tàu còn gì để làm nữa, bởi vậy mới chạy tà tà dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ghé vào vài cái quán quen, và vẫn để mắt được đến Randy, người điều khiển chiếc thuyền cách đâu vào đấy cách bờ có chừng phần tư hải lý. đậu thuyền vào bến ở vịnh Perdido, và rời khỏi đó trong chiếc Taurus thuê với biển số Alabama. việc cứ thế trong vòng vài ngày. Tay kia vẫn để mắt tới chiếc thuyền. Randy rất từ tốn, thoạt đầu là hải lý, sau ra xa hơn. Vào ngày thứ ba hay thứ tư gì đó, Randy lái thuyền về phía tây, hướng tới Mobile và Biloxi, rồi mất tăm trong ba ngày.

      trở về, rồi lại , vẫn về phía tây. Chưa bao giờ về phía đông hay nam, tức là hướng về vùng Keys cả. Tay kia thôi còn lo ngại về chiếc thuyền nữa bởi vì Randy vẫn quanh quẩn ở đó. thường mỗi lần chừng tuần, và luôn luôn trở về.”

      “Và ông nghĩ đó là Patrick ?”

      “Đúng. Tôi tin là thế. Với tôi hoàn toàn có lý. mình con thuyền. có thể cả mấy ngày mà hề phải chuyện với ai. có thể thu thập tin tức từ mấy trăm điểm khác nhau dọc theo bờ biển từ Biloxi đến cảng Vịnh. Ngoài ra, con thuyền là nơi tuyệt vời để nhịn ăn nữa.”

      “Rồi chuyện diễn ra thế nào ?”

      “Randy bỏ nó lại bến, và đơn giản là biến mất, lời. Tay chủ kia lấy lại thuyền, cùng với năm nghìn.”

      “Ông có kiểm tra lại chiếc thuyền ?”

      “Bằng kính hiển vi. có gì cả. Tay kia chiếc thuyền chưa bao giờ lại sạch như vậy?”

      “Người thuê thuyền biến mất khi nào ?”

      “Gã chủ thuyền chắc bởi vì ông ta ngừng cái việc theo dõi hàng tuần rồi. Ông ta thấy thuyền ở trong bến vào ngày 30 tháng Ba, bốn ngày sau khi chỗ tiền kia bị đánh cắp. Chúng tôi chuyện với thằng lỏi trực ở bến, và, theo chỗ nó nhớ được Randy cập bến hôm 24 hoặc 25 tháng Ba, và thấy quay lại nữa. Bởi vậy, thời gian là khá trùng hợp.”

      “Còn cái xe thuê sao ?”

      “Chúng tôi kiểm tra sau đó. Nó được thuê của hãng Avis tại Sân bay Cơ động Khu vực vào sáng thứ hai, ngày 10 tháng Ba, khoảng mười tiếng đồng hồ sau khi đám cháy được dập tắt. Nó được thuê bởi ngưòi đàn ông để râu, mặt mũi nhẵn nhụi, tóc sẫm cắt ngắn, kính trắng, mặc áo choàng, cổ mang cavát, và rằng mới xuống khỏi chuyến bay từ Atlanta. Chúng tôi cho người phụ nữ trực xem ảnh và ta rất ngập ngừng trong việc xác định nhân dạng của Patrick Lanigan. Hiển nhiên là vẫn dùng cái bằng lái xe Georgia. sử dụng thẻ tín dụng Visa giả, với tên Randy Austin và mã số đánh cắp từ tài khoản hợp pháp ở Decatur, Georgia. nhà kinh doanh bất động sản độc lập đến đó để tìm kiếm đất đai cho sòng bạc. Bởi vậy tên công ty nào để điền vào hợp đồng thuê xe. muốn dùng chiếc xe trong tuần. Avis bao giờ gặp lại nữa. Cũng nhìn thấy chiếc xe đó trong suốt mười bốn tháng trời.”

      “Sao ông ta trả lại chiếc xe ?” Underhill hỏi với vẻ trầm ngâm.

      “Đơn giản. Khi thuê xe, cái chết kia của vừa xảy ra, và còn chưa được đưa tin. Nhưng ngày hôm sau, gương mặt xuất các trang nhất của báo chí ở Biloxi và Mobile. Có thể tính rằng là quá mạo hiểm để mang chiếc xe trở lại. Sau này họ tìm thấy nó ở Montgomery, bị đánh cắp và hoàn toàn hư hỏng.”

      “Patrick đâu ?”

      "Tôi đoán là rời khu vực Orange Beach vào ngày 24 hoặc 25 tháng Ba. mạo danh Doug Vitrano, cổ đông của hãng luật kia. Chúng tôi được biết rằng vào ngày 25 bay từ Montgomery Atlanta, rồi từ đó bay vé hạng nhất Miami, rồi lại vé hạng nhất Nassau. Tất cả các vé này đều mang tên Doug Vitrano, và dùng cái hộ chiếu đó khi rời Miami cũng như khi vào Bahama. Chuyến bay đến Nassau lúc tám giờ ba mươi sáng ngày 26, và có mặt ở nhà băng khi nó mở cửa lúc chín giờ. chìa hộ chiếu và những giấy tờ khác ra cho Graham Dunlap. chuyển tiền, chào tạm biệt, lên chuyến bay New York và hạ cánh xuống La Guardia lúc hai giờ ba mươi chiều. Đến lúc đó, vứt bỏ các giấy tờ mang tên Vitrano và kiếm các giấy tờ khác. Chúng tôi mất dấu vết .”

      oOo

      Khi vụ mặc cả lên tới năm mươi nghìn đôla Trudy đồng ý. Đó là Chương trình “Đằng sau những biên bản," Chương trình nhảm nhí nhưng có tỉ lệ người xem khá cao và có vẻ có nhiều tiền. Họ chăng đèn đóm, bít các cửa sổ, và chăng dây rợ khắp nhà. “Nhà báo” Nancy de Angelo bay thẳng từ Los Angeles tới với cả nhóm làm đầu và trang điểm riêng. chịu thua kém, Trudy cũng ngồi hai tiếng trước gương, và trông rất lộng lẫy khi bước ra. Nancy khen ả rất tuyệt. Vậy mà người ta nghĩ rằng ả phải cảm thấy đau đớn, tổn thương, hoảng sợ, bất lực, bị tòa còng tay, tức giận trước những gì mà người chồng gây ra cho mình và con mình. Ả quay vào với những giọt nước mắt và Lance phải an ủi ả trong nửa giờ. Khi trở ra trong chiếc quần jeans và chiếc áo cổ chui, trông ả lại hơn hớn như thường.

      Ashley Nicole được sử dụng như chỗ dựa. Con bé ngồi sát bên mẹ chiếc xôpha. “Bây giờ trông phải buồn vào,” Nancy bảo con bé trong khi các kỹ thuật viên điều chỉnh ánh sáng. “Chúng tôi cần những giọt nước mắt của chị,” ta với Trudy. “Những giọt nước mắt .”

      Họ chuyện chừng tiếng về tất cả những "điều kinh khủng" mà Patrick gây ra cho hai mẹ con. Trudy nức nở khi ả nhớ lại đám tang. Họ có bức ảnh chụp chiẽc giầy tìm thấy ở trường. Ả chịu đựng những tháng ngày sau đó. , ả tái giá. , chồng ả liên lạc gì kể từ khi trở về. Cũng chắc là ả có muốn hay nữa. , hề có cố gắng nào để gặp lại con , và ả lại nức nở. Ả chịu nổi cái ý nghĩ về chuyện ly hôn, nhưng biết làm gì ? Và vụ kiện tụng này, khủng khiếp làm sao ! Cái hãng bảo hiểm đê tiện kia săn đuổi ả như con vật.

      Patrick là con người tồi tệ đến thế. Nếu như họ tìm thấy chỗ tiền kia, ả ta có hy vọng được chút nào ? Tất nhiên là ! Ả hoàn toàn bị bất ngờ trước gợi ý này.

      Tất cả được biên tập lại còn hai mươi phút, và Patrick xem cuộc trò chuyện này trong căn phòng bệnh viện tối mò của . Nó làm cho buồn cười.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 19

      C ô thư ký của Sandy cắt tấm ảnh của Patrick cùng bài viết về cuộc xuất ngắn ngủi trước tòa trong ngày hôm trước tờ New Orleans có điện thoại. ta lập tức báo ngay cho Sandy, vùi đầu trong đống hồ sơ.

      Leah Pires trở lại. Sau câu chào, nàng lập tức hỏi Sandy cho kiểm tra chống nghe trộm trong văn phòng của mình chưa. Sandy đáp rồi, mới vừa hôm trước. Nàng trú trong khách sạn ỏ phố Canal, cách chừng vài phố, và đề nghị gặp nhau tại đó. Mỗi gợi ý của nàng có sức nặng hơn cả chỉ thị của thẩm phán Liên bang. Cho dù nàng muốn gì, chỉ nghe tiếng nàng cũng đủ để trở nên hồi hộp.

      Nàng vội gì, và bởi vậy Sandy thong thả bộ dọc theo phố Poydras, tiếp đến Magazine và rồi tới Canal. chịu nhìn lại phía sau. đa nghi của Patrick là có thể hiểu được - con người tội nghiệp đó phải trốn chui trốn lủi cho tới khi những bóng ma kia vồ được . Thế nhưng ai có thể thuyết phục được Sandy tin rằng vẫn những người đó theo dõi mình. là luật sư của vụ án lớn. Những kẻ xấu xa kia họa có là điên mới nghe trộm và dọa dẫm . hành động cẩu thả có thể gây tổn hại lớn cho vụ án nhằm vào Patrick. Tuy nhiên, cũng liên hệ với hãng thám tử ở địa phương về việc quét sạch rệp khỏi cái văn phòng của mình. Đó là mong muốn của thân chủ của , chứ phải của chính .

      Leah chào Sandy với cái bắt tay chặt và nụ cười thoáng qua, thế nhưng ngay lập tức có thể đoán là nàng có rất nhiều tính toán gì đó trong đầu. Nàng để chân trần, mặc quần jeans và áo phông trắng, rất bình thường, nghĩ, có thể là giống như hầu hết những người Braxin khác. Cánh cửa tủ quần áo mở toang; có nhiều thứ treo bên trong. Nàng chuyển chỗ ở liên tục, với chiếc vali, có thể là cũng phải chạy trốn giống như Patrick từng chạy trốn cho tới tuần lễ trước đó. Nàng rót cà phê cho cả hai và mời Sandy ngồi vào bàn.

      ấy thế nào rồi ?”

      bình phục. Bác sĩ ổn thôi.”

      “Các vết thương tệ lắm phải ?” Nàng khẽ hỏi. Sandy thích cái giọng của nàng, nó mới làm sao.

      “Cũng nặng đấy.” lấy ra cái cặp và chuyển nó cho nàng. “Đây này.”

      Nàng cau mày khi nhìn tấm ảnh đầu tiên, rồi lẩm bẩm gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha. Cặp mắt nàng rưng rưng khi nhìn sang tấm thứ hai. “Tội nghiệp Patrick,” nàng thầm với mình. “Tội nghiệp .”

      Nàng xem kỹ các tấm ảnh, lau những giọt nước mắt bằng mu bàn tay cho đến khi Sandy tĩnh trí lại và đưa cho nàng cái khăn giấy. Nàng hề xấu hổ khi khóc với những tấm ảnh, và sau khi xem xong, nàng sắp chúng lại ngăn nắp rồi đặt chúng trở lại vào chiếc cặp.

      “Tôi xin lỗi,” Sandy còn biết gì với nàng. “Đây là thư của Patrick,” sau cùng .

      Nàng thôi khóc và rót thêm cà phê. “Có vết thương nào là vĩnh viễn ?” Nàng hỏi.

      “Bác sĩ bảo có khả năng là . có sẹo, nhưng với thời gian tất cả lành lại thôi.”

      “Về tinh thần sao ?”

      “Cũng tạm. Có điều, ấy ít ngủ hơn. Liên tục có những cơn ác mộng, cả ngày lẫn đêm. Nhưng với thuốc men, ấy khá dần lên. Tôi thực thể hình dung nổi những gì ấy phải trải qua.” nhấp ngụm cà phê và , "Tôi nghĩ ấy còn sống được là may lắm rồi.”

      “Patrick luôn luôn là họ giết ấy.”

      Có bao nhiêu điều muốn hỏi nàng. Con người luật sư trong Sandy những muốn gào lên với hàng loạt câu hỏi: Patrick có biết họ áp sát sau lưng mình ? Có biết là cuộc đuổi bắt sắp kết thúc ? ở đâu khi họ bắt ta ? có sống cùng ta ? Hai người cất giấu chỗ tiền đó như thế nào ? chỗ tiền đó ở đâu ? Có an toàn ? Nào, xin hãy . Tôi là luật sư. Có thể tin cậy ở tôi.

      “Hãy về vụ ly hôn của ấy ,” nàng đột ngột chuyển đề tài. Nàng có thể cảm nhận thấy sốt ruột của Sandy. Nàng đứng dậy và về phía cái ngăn kéo, lấy từ đó ra tập hồ sơ dày cộm và đặt nó xuống trước mặt . “Ông có thấy Trudy TV tối qua ?" Nàng hỏi.

      “Có. Lâm ly đấy chứ ?"

      “Chị ta rất đẹp,” Leah .

      “Đúng thế. Tôi e rằng Patrick sai lầm khi cưới chị ta vì cái vẻ bề ngoài đó.”

      ấy phải là người đầu tiên.’'

      “Đúng vậy.”

      “Patrick coi thường vợ. Đó là người xấu, và chị ta trung thàrih với ấy trong suốt cuộc hôn nhân của họ.”

      trung thành ư ?”

      “Phải. Tất cả nằm ở trong hồ sơ này. Năm cuối cùng mà họ chung sống, Patrick thuê thám tử để mắt tới chị ta. Tình nhân của chị ta là người đàn ông có tên là Lance Maxa, và họ liên tục gặp nhau. Thậm chí có cả vài tấm ảnh chụp Lance đến và khỏi ngôi nhà của Patrick lúc ấy vắng. Có những tấm ảnh chụp Lance và Trudy trần truồng tắm nắng bên cái bể bơi của Patrick.”

      Sandy cầm tập hồ sơ lên và lật lật tìm những tấm ảnh kia. Trần như nhộng. ta mỉm cười tinh quái. “Cái này có giá cho vụ ly hôn đây.”

      “Patrick muốn ly hôn, ông hiểu chứ. ấy phản đối. Nhưng cần phải bịt miệng chị ta lại. Chị ta được quá thoải mái để tất cả những điều bẩn thỉu về Patrick rồi."

      “Cái này làm cho chị ta câm họng. Còn đứa trẻ sao ?"

      Leah ngồi xuống ghế và nhìn thẳng vào mắt ta. “Patrick quý Ashley Nicole, thế nhưng có vấn đề. ấy phải là cha của con bé.”

      Sandy nhún vai như thể là ngày nào cũng nghe thấy điều như vậy. “Vậy là ai ?"

      “Patrick biết. Có thể là Lance. Có vẻ như là Lance và Trudy từng gian díu với nhau từ trước đó. Thậm chí từ thời trung học.”

      “Làm sao ấy biết mình phải là cha ?”

      “Khi con bé được mười bốn tháng, Patrick lấy chút máu từ ngón tay nó rồi gửi mẫu máu đó, cùng với mẫu máu của ấy, đến phòng xét nghiệm để kiểm tra ADN. nghi ngờ là chính xác. ấy dứt khoát phải là cha của con bé. Báo cáo xét nghiệm này cũng có trong cặp hồ sơ kia.”

      Sandy đứng dậy lại loanh quanh để sắp xếp câu chuyện. dừng bên cửa sổ và nhìn xuống dòng xe cộ phố Canal. Lại thêm thông số nữa trong bài toán Patrick. Câu hỏi đặt ra lúc này là: Patrick tính toán việc rời bỏ người vợ cũ từ bao lâu ? Người vợ xấu xa, đứa con hoang, vụ tai nạn kinh hoàng, có thi thể, vụ đánh cắp tinh vi, cuộc chạy trốn … Cái kế hoạch đó đáng kinh ngạc. Mọi thứ đều hoàn toàn đâu vào đấy, cho đến lúc này, tất nhiên.

      “Vậy còn gì với vụ ly hôn nữa đâu ?” hỏi, mắt vẫn nhìn xuống dưới đường. “Nếú ấy muốn đứa trẻ còn bới ra làm gì ?”

      Sandy biết câu trả lời, “Thế nhưng ta muốn”, nàng giải thích, và trong khi giải thích, hẳn nàng cho thấy loáng thoáng phần còn lại của cả cái kế hoạch chung.

      “Ông mang đám rác này đến cho luật sư của chị ta,” nàng . “Ông cho xem hồ sơ này, tất cả. Đến khi đó họ lại muốn đươc dàn xếp cho mà xem.”

      “Dàn xếp, về tiền bạc ư ?”

      “Đúng thế.”

      “Dàn xếp thế nào ?”

      “Chị ta được gì cả.”

      “Nhưng ấy có bao nhiêu mà được với chứ ?”

      “Cũng còn tùy. Đó có thể là khoản , cũng có khi lại là khoản lớn.”

      Sandy ngoảnh lại và nhìn nàng cáu kỉnh. “Tôi thể thương lượng dàn xếp về tài sản nếu như tôi biết thân chủ của tôi có bao nhiêu. Vào lúc nào đó, các người phải cho tôi biết chứ.”

      “Hãy kiên nhẫn,” nàng và vẫn hoàn toàn trấn tĩnh. “Với thời gian, ông biết nhiều hơn. Tôi hứa mà. Nhưng trước tiên, chúng ta phải lo vụ ly hôn này . Trudy phải từ bỏ mọi đòi hỏi đối với tài sản của ấy.”

      “Chuyện đó dễ.”

      “Vậy làm , và chúng ta chuyện lại vào tuần tới.”

      Đột nhiên đến giờ Sandy phải . Nàng đứng dậy thu xếp giấy tờ. cầm lấy các hồ sơ và cho vào trong cặp. “ còn ở đây bao lâu ?" hỏi.

      lâu,” nàng đáp và trao cho cái phong bì. “Đây là thư gửi Patrick. với ấy là tôi sao, tôi vẫn di chuyển liên tục, và cho đến nay vẫn chưa phát có ai bám theo.”

      Sandy nhận chiếc phong bì và cố nhìn vào mắt nàng. Nàng lo sợ và sốt ruột muốn ngay. Sandy muốn giúp đỡ nàng, hay ít ra cũng có lời, thế nhưng biết rằng vào lúc này, dù mình có cũng bị nàng gạt . Nàng gượng nụ cười, và , “Ông còn có việc phải làm. Vậy làm . Patrick và tôi lo phần còn lại.”

      oOo

      Trong lúc Stephano kể lại câu chuyện của lão ở Oasinhtơn Benny Aricia và Guy đặt bản doanh ở Biloxi. Họ thuê căn hộ ba phòng ngủ phố Back Bay, cho đặt điện thoại và máy fax. Giả thuyết được đặt ra là kia phải xuất ở đây. Patrick bị quản thúc và trong thời gian trước mắt phần là tương đối ổn định. đâu được cả. ta phải đến với . Và họ tóm khi ta xuất .

      Aricia bỏ ra trăm nghìn đôla nữa cho chiến dịch cuối cùng này, và ông ta thề đó là lần cuối cùng. tốn phí gần hai triệu, đơn giản là ông ta phải kịp ngừng tiêu tiền trong khi vẫn còn lại được ít. Northern Case Mutual và Monarch-Sierra, hai thành viên kia trong cái tổ hợp lỏng lẻo của ông ta, chịu bỏ cuộc. Stephano làm cho FBI hài lòng với câu chuyện của lão, trong khi hy vọng là Guy và những người còn lại có thể tìm được . Đó là cuộc chơi ai dám chắc ăn.

      Osmar và người của ta vẫn lảng vảng các đường phố Rio, vẫn giám sát các địa điểm đó mỗi ngày. Nếu như ta trở về, họ thấy ngay. Osmar dùng rất nhiều người, nhưng mà giá nhân công ở đó rẻ mạt.

      Việc trở lại vùng bờ biển này làm cho Benny Aricia nhớ lại những cảm giác cay đắng. Ông ta đến đây vào năm 1985 với tư cách là giám đốc của Platt & Rockland Industries, công ty khổng lồ từng phái ông ta vòng quanh thế giới để giải quyết những trục trặc. trong những chi nhánh làm ăn phát đạt của công ty là Xưởng đóng tàu New Coastal ở Pascagoula, nằm giữa Biloxi và Mobile. Năm 1985, New Coastal nhận được hợp đồng của Hải quân trị giá mười hai tỉ đôla đặt đóng bốn tàu ngầm hạt nhân lớp Expedition, và cấp nào đó quyết định rằng Benny cần có nơi ở ổn định.

      Lớn lên ở New Jersey, ăn học ở Boston và khi đó là chồng của phụ nữ giao thiệp rộng, Benny khốn khổ với việc phải sống ở vùng bờ biển vùng Vịnh của Mississipi, và coi đó là bước xa rời nghiêm trọng những bậc thang danh vọng mà ông ta thèm muốn. Người vợ bỏ ông ta mà sau hai năm sống ở Biloxi.

      Platt & Rockland là công ty cổ phần, với vốn góp của các cổ đông là hai mươi mốt tỉ đôla, tám mươi nghìn nhân viên trong ba mươi sáu chi nhánh tại trăm lẻ ba nước. Nó bán lẻ các trang thiết bị văn phòng, khai thác gỗ, sản xuất hàng nghìn mặt hàng tiêu dùng, bán bảo hiểm, khoan thăm dò hơi đốt, vận tải hàng côngtenơ, khai thác đồng và còn nhiều lĩnh vực khác, kể cả đóng tàu ngầm hạt nhân. Đó là tập hợp các công ty hết sức tách biệt, và như quy luật, cánh tay trái hiếm khi biết cánh tay phải làm gì. Thế nhưng nó lại vẫn thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.

      Benny mơ tưởng tới việc tinh giảm công ty, bán những thứ vớ vẩn và đầu tư vào các chi nhánh làm ăn phát đạt. Tham vọng của ông ta là hề giấu giếm, và trong toàn bộ giới chức quản lý cấp cao ai cũng biết là ông ta thèm muốn vị trí cao nhất.

      Đối với ông ta, cuộc sống ở Biloxi là trò đùa độc ác, cú đá do những kẻ thù của ông ta trong công ty sắp xếp. Ông ta ưa làm hợp đồng với chính phủ, ghét cay ghét đắng thói quan liêu cửa quyền và ngạo mạn của Lầu Năm Góc. Ông ta chịu nổi cái tốc độ chậm như sên mà những chiếc tàu ngầm hạt nhân kia được đóng.

      Năm 1988, Benny cầu được thuyên chuyển, và bị khước từ. năm sau đó, bỗng dưng xuất các tin đồn về những bội chi nghiêm trọng trong đề án Expedition. Công việc đóng tàu bị dừng lại trong khi các nhân viên kiểm toán của chính phủ và giới quan chức Lầu Năm Góc đổ đến Xưởng đóng tàu New Coastal. Benny là đối tượng chính, và cái dấu chấm hết đến gần.

      nhà thầu quân , Platt & Rockland vốn có truyền thống về những chi phí quá mức, tính quá giá, và những xác nhận man trá. Đó là lối làm ăn, và khi bị phát , công ty thường sa thải tất cả những nhân vật đứng gần vụ tranh chấp và rồi thương lượng với Lầu Năm Góc về khoản bồi thường nhoi.

      Benny đến gặp luật sư ở địa phương, Charles Bogan, cổ đông hàng đầu của hãng luật , mà Patrick Lanigan là thành viên. họ của Bogan là Thượng nghị sĩ, đại diện cho bang Mississipppi. Ông Thượng nghị sĩ này là nhân vật diều hâu điên cuồng và là chủ tịch Tiểu ban chuẩn chi quốc phòng, được giới quân rất trọng vọng.

      Ông thầy của luật sư Bogan lúc bấy giờ là thẩm phán Liên bang, và bởi vậy cái hãng luật bé đó cũng có những mối quan hệ chính trị như bất kỳ hãng nào khác ở Mississippi. Benny biết điều này, và thận trọng lựa Bogan.

      Đạo luật chống những xác nhận man trá, cũng còn được gọi là Luật thổi còi, được Quốc hội Mỹ đưa ra nhằm khuyến khích những ai biết về việc tính quá giá trong các hợp đồng với chính phủ có thể lên tiếng. Benny nghiên cứu đạo luật này kỹ lưỡng, và thậm chí còn dùng tay luật sư mổ xẻ phân tích nó cho ông ta nghe trước khi gặp Bogan.

      Ông ta cho rằng Bogan có thể làm về mưu của Platt & Rockland nhằm ăn gian tiền của chính phủ, chừng sáu trăm triệu đôla, trong đề án Expedition, và có thể cảm thấy lưỡi rìu được bổ xuống. Song ông ta muốn mình là kẻ hứng đòn. Với việc tiết lộ này, ông ta bao giờ có cơ hội kiếm được chỗ làm việc tương đương nữa. Platt & Rockland rêu rao khắp nơi về việc làm này của ông ta. Ông ta bị cho vào sổ đen. Đó dấu chấm hết tất cả. Ông ta hiểu rất ván bài này phải được chơi như thế nào.

      Theo đạo luật đó, kẻ thổi còi có thể được nhận mười lăm phần trăm tổng số tiền mà công ty sai phạm phải thanh toán lại cho chính phủ. Benny có các tài liệu để chứng minh được về mưu của Platt & Rockland. Ông ta cần tới chuyên môn và thế lực của Bogan để thu được khoản mười lăm phần trăm kia.

      Bogan thuê các kỹ sư và chuyên gia tư vấn để xem xét và đánh giá hàng nghìn tài liệu mà Benny chuyển từ Xưởng đóng tàu New Coastal đến. Cái mưu đó được dựng lại đâu vào đấy và hóa ra nó cũng đến nỗi phức tạp gì cho lắm. Công ty này làm cái việc mà họ vẫn luôn luôn làm - tính giá nhiều lần cho cùng thứ nguyên vật liệu, và bịa ra các chứng từ. Việc làm này tại Platt & Rockland được che đậy kín đến mức chỉ có hai giám đốc cấp cao ở xưởng đóng tàu được biết mà thôi. Benny là ông ta ngẫu nhiên mà tìm ra. Các luật sư chuẩn bị vụ kiện đầy sức thuyết phục và sáng tỏ, và họ đệ dơn lên Tòa án Liên bang vào tháng Chín năm 1990. Đơn kiện tố cáo công ty Platt & Rockland tính gian của chính phủ sáu trăm triệu đôla. Benny xin thôi việc ngay hôm đơn kiện được đưa ra tòa.

      Vụ kiện này được chuẩn bị rất chi tiết, và Bogan gây sức ép mạnh. Người họ của ông ta cũng vậy. Ông Thượng nghị sĩ được thông báo tường tận từ lâu trước khi vụ kiện bắt đầu, và theo dõi với mối quan tâm lớn khi nó được chuyển đến Oasinhtơn. Bogan chịu giá rẻ; ông Thượng nghị sĩ cũng thế. Khoản thù lao của hãng luật là mức phần ba như thông thường. phần ba của mười lăm phần trăm của sáu trăm triệu đôla. Phần cho ông Thượng nghị sĩ chưa bao giờ được xác định dứt khoát.

      Bogan tiết lộ đủ tin tức cho báo chí địa phương để duy trì sức ép ở Mississippi, và ông Thượng nghị sĩ cũng làm như vậy ở Oasinhtơn. Platt & Rockland lập tức thấy mình bị bao vây bởi búa rìu dư luận. Công ty bị dồn vào chân tường, nguồn tiền cung cấp cho nó bị cắt, các cổ đông tức giận. Hơn chục giám đốc ở Xưởng đóng tàu New Coastal bị cho thôi việc. Và còn nhiều vụ sa thải nữa.

      Như thường lệ, Platt & Rocklancl thương lượng ráo riết với Bộ Tư pháp, thế nhưng lần này ăn thua gì. Sau năm, công ty buộc phải đồng ý trả lại sáu trăm triệu đôla, và hứa phạm pháp nữa. Do hai trong số tàu ngầm đó được đóng dở dang, Lầu Năm Góc đồng ý hủy hợp đồng. Nhờ vậy, Platt & Rockland có thể được tiếp tục hoàn thành cái đề án kia.

      Benny cầm chắc được cái khoản kếch xù của ông ta. Bogan và các cổ đông khác trong hãng cầm chắc được phần thù lao của mình. Thế rồi Patrick biến mất, tiếp theo đó là số tiền của họ.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 20

      K hẩu súng săn của Pepper Scarboro mang hiệu Remington, cỡ nòng 12 được mua ở cửa hàng cầm đồ ở Lucedale năm Pepper mười sáu tuổi, quá trẻ để có thể mua từ đại lý chính thức. Với giá hai trăm đôla, theo mẹ Pepper, đó là tài sản mà đứa con trai mình quý nhất. Cảnh sát trưởng Sweeney và cảnh sát trưởng Tatum, của quận Greene, tìm thấy khẩu súng săn đó, cùng với cái túi ngủ rất cũ và chiếc lều , tuần sau cái chết của Patrick, khi họ kiểm kê lại các vật dụng trong ngôi nhà săn của . Trudy đồng ý cho phép có cuộc lục soát này, cho phép mà bản thân nó là vấn đề bởi ả ta có quyền sở hữu đối với ngôi nhà đó. Bất kỳ toan tính nào nhằm dùng khẩu súng, cái túi ngủ và chiếc lều như những bằng chứng trong vụ án giết người của Patrick đều vấp phải phản kháng quyết liệt, bởi lẽ chúng được tìm thấy trong cuộc lục soát có giấy phép. lập luận có thể được đưa ra, rằng phải là các viên cảnh sát trưởng này tìm các bằng chứng vì lẽ là vào lúc đó chưa có vụ tội phạm nào cả. Họ chỉ đơn thuần thu thập các vật dụng của Patrick để trao lại cho gia đình của .

      Trudy muốn nhận cái túi ngủ và chiếc lều kia, bởi tin rằng chúng phải là của Patrick. Trước đó ả ta chưa hề bao giờ nhìn thấy chúng. Đó là đồ rẻ tiền, phải những thứ mà Patrick thường mua. Vả lại, thích ngủ lều. có ngôi nhà săn kia để ngủ. Sweeney dán mấy mẩu giấy đánh dấu lên đó rồi quẳng chúng vào kho tang vật, bởi vì cũng chẳng còn có chỗ nào khác. Ông ta dự tính cứ để đó chừng hoặc hai năm, rồi bán chúng trong đợt bán những thứ đồ vô chủ hàng năm của cảnh sát trưởng. Sáu tuần lễ sau, Neldene Crouch òa khóc khi chị ta đứng trước bộ đồ dã ngoại của Pepper, con trai mình.

      Khẩu súng săn lại được xử lý theo cách khác. Nó được tìm thấy dưới gầm giường, cùng với chiếc lều và cái túi ngủ kia, trong căn phòng mà Patrick thường ngủ. Theo ý kiến của Sweeney ai đó vội vã nhét chúng vào đấy. Tính tò mò ở ông ta lập tức bị khơi dậy do diện của khẩu súng. Bản thân cũng là người ưa săn bắn, ông ta biết có người săn khôn ngoan nào lại để khẩu súng săn trong ngôi nhà săn ở nơi hẻo lánh, để bọn trộm cắp có thể tiện tay vớ được. thứ gì có giá trị lại được để lại trong ngôi nhà săn ở những khu vực như vậy. Ông ta kiểm tra nó cách kỹ lưỡng ngay tại chỗ, và nhận ra rằng số súng bị đục . Đó là khẩu súng bị đánh cắp. Sweeney trao đổi ý kiến với cảnh sát trưởng Tatum, và họ quyết định rằng ít nhất cũng phải mang nó kiểm tra dấu vân tay. Họ chắc rằng việc đó cũng chẳng mang lại điều gì, thế nhưng cả hai đều là những cảnh sát từng trải và kiên nhẫn.

      Sau này, sau nhiều lời hứa hẹn về miễn tố, tay chủ tiệm cầm đồ ở Lucedale mới thú nhận rằng lão ta bán khẩu súng đó cho Pepper.

      Sweeney và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, lịch gõ cửa phòng Patrick trong bệnh viện, và bước vào sau khi có lời mời. Sweeney gọi điện trước để báo cho Patrick về chuyến thăm cùng mục đích của họ. Đây chỉ là những phép tắc thông thường vì các thủ tục tạm giữ đối với Patrick còn chưa được làm cách thích hợp.

      Họ chụp ảnh trong lúc ngồi ghế, mặc chiếc áo phông và quần soóc thể thao, mái tóc bù xù và mặt mũi khó đăm đăm. Tay cầm cái biển có những con số đăng ký mà họ mang tới. Họ lấy dấu tay - Grimshaw làm, còn Sweeney hỏi han này nọ. Ông hỏi vài câu về Pepper Scarboro, thế nhưng Patrick nhanh chóng nhắc ông ta rằng có luật sư, và luật sư của phải có mặt trong bất kỳ cuộc thẩm vấn nào. Hơn nữa, cũng có gì để cho dù có hay có mặt luật sư.

      Họ cảm ơn và bỏ . Cutter và chuyên gia vân tay của FBI từ Jackson đến đợi ở Phòng Lanigan trong nhà tù. Vào lúc tìm thấy, người ta thu được từ khẩu súng săn cỡ nòng 12 của Pepper hơn chục dấu vân tay còn nguyên vẹn, có thể sử dụng được vào việc điều tra. Những dấu vân tay này là do Grimshaw lấy, cất vào trong két, và giờ đây được bày ra mặt bàn. Khẩu súng săn kia được đặt ở giá, cạnh chiếc lều và cái túi ngủ, cùng chiếc giày, những tấm ảnh và vài tang chứng hiếm hoi khác được dùng để chống lại Patrick.

      Họ uống cà phê với những cái cốc làm bằng chất dẻo và tán gẫu về chuyện câu cá trong khi tay chuyên gia vân tay so sánh những dấu vân tay cũ và mới bằng cái kính lúp. Công việc đó mất mấy thời gian.

      số những vân tay này hoàn toàn trùng nhau," ta , vẫn cắm cúi với cái kính. " khẩu súng đó đầy dấu vân tay của Lanigan.”

      Chắc chắn đó là tin mừng, họ nghĩ. Vấn đề là phải làm gì bây giờ ?

      oOo

      Patrick đòi có căn phòng khác cho tất cả các cuộc gặp từ nay trở với luật sư của , và bác sĩ Hayani nhanh chóng dàn xếp giúp chuyện này. ta cũng đề nghị được có xe lăn dùng cho việc đưa xuống căn phòng đó ở tầng trệt. y tá đẩy xe, ngang qua hai cảnh sát ngồi hiền lành ngoài hành lang ngay trước cửa phòng , ngang qua nhân viên đặc biệt Brent Myers, để vào thang máy. cảnh sát bám theo sau.

      Đó là phòng hội chẩn của các bác sĩ. Bệnh viện và căn phòng cũng hiếm khi được dùng tới. Sandy đặt mua cái thiết bị chống nghe trộm mà Patrick đề cập, thế nhưng phải mất vài ngày nữa nó mới được gửi tới.

      “Phải thúc bách mới được,” Patrick .

      “Nào, Patrick. Chắc chắn là nghĩ rằng họ cài rệp vào căn phòng này rồi. Cho tới cách đây tiếng chẳng có ai nghĩ tới chuyện chúng ta sử dụng nó.”

      “Thận trọng bao giờ thừa.” Patrick đứng dậy khỏi xe lăn rồi quanh chiếc bàn họp dài và Sandy nhận ra rằng hề khập khiễng chút nào.

      “Này, Patrick, tôi nghĩ rằng hãy cố bình tâm chút. Tôi biết vừa trải qua cuộc sống lẩn lút trong thời gian dài. phải lo sợ, luôn cảnh giác với mọi thứ, tôi biết tất cả những điều đó. Nhưng những ngày đó qua rồi. Hãy bình tâm.”

      “Họ vẫn còn ở bên ngoài kia, có hiểu ? Họ có tôi, nhưng chưa có tiền. Và tiền là chuyện quan trọng hơn nhiều. Đừng quên điều đó, Sandy. Họ thôi đâu cho đến khi có được chỗ tiền đó.”

      “Vậy ai có khả năng nghe trộm chúng ta ở đây ? Kẻ tốt hay người xấu ? cảnh sát hay bọn bất lương ?”

      “Những người mất tiền bỏ ra cả đống của để cố tìm lại cho bằng được.”

      “Làm sao biết ?”

      Patrick chỉ nhún vai như thể lại đến lúc phải giở bài với nhau.

      “Họ là ai ?" Sandy hỏi, và sau đó là khoảng im lặng kéo dài, giống như những khi Leah muốn thay đổi để tài.

      “Ngồi xuống ,” Patrick . Họ ngồi đối diện nhau. Sandy lấy ra cặp hồ sơ dày cộm mà Leah trao cho cách đó bốn tiếng đồng hồ; cặp hồ sơ về những chuyện bẩn thỉu của Trudy.

      Patrick nhận ra nó ngay tức khắc. “ gặp ấy bao giờ thế ?” vội vã hỏi.

      “Sáng nay. ấy sao cả, gửi lời thăm, rằng chưa hề có ai bám theo, và cầu tôi chuyển cái này.” đẩy cái phong bì ngang mặt bàn và Patrick chộp lấy, bóc vội, rút ra bức thư dài ba trang. đọc thư, từng chữ , quên khuấy hẳn người bạn luật sư ngồi bên.

      Sandy xem lướt qua cặp hồ sơ và dừng lại chỗ những tấm ảnh chụp Trudy lõa lồ ngả ngớn bên bể bơi cạnh gã đĩ đực của ả. rất muốn được dí hình ngay vào mặt tay luật sư của ả ở Mobile. Họ hẹn cuộc gặp sau ba giờ nữa.

      Patrick đọc xong bức thư, gấp nó lại cẩn thận, và đặt trở lại vào phong bì. "Tôi có lá thư khác cho ấy,” , rồi liếc ngang mặt bàn và thấy những tấm ảnh. “Chụp khá đấy chứ hả ?”

      “Đáng kinh ngạc. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bằng chứng thế này trong vụ ly dị cả.”

      “Hừm, có quá nhiều chuyện. Chúng tôi cưới nhau được gần hai năm lần đầu tiên tôi chạm trán với người chồng trước của ta, hoàn toàn tình cờ. Đó là bữa tiệc ở New Orleans. Chúng tôi uống vài ly, và ta chuyện với tôi về Lance. Chính gã là con mèo đực trong những tấm hình kia.”

      “Leah giải thích.”

      “Lúc đó Trudy chửa to rồi, bởi vậy tôi gì. Cuộc hôn nhân dần dần trở nên tồi tệ, và chúng tôi hy vọng là đứa con làm cho mọi chuyện đâu vào đấy. ta có khả năng lừa dối đáng kinh ngạc. Tôi cũng quyết định chiều theo, vào vai người cha đầy hãnh diện và đại loại thế, nhưng năm sau đó tôi bắt đầu thu thập chứng cứ. Tôi biết là khi nào cần đến chúng, nhưng tôi biết là cuộc hôn nhân này kết thúc. Tôi rời khỏi thành phố bất kỳ khi nào có cơ hội - công việc, săn, câu, nghỉ cuối tuần với đám bạn bè, bất kể. ta dường như chẳng bao giờ phiền lòng gì hết.”

      "Tôi gặp luật sư của chị ta vào lúc năm giờ chiều nay.”

      "Tốt. trận ra trò. Niềm ao ước của bất kỳ luật sư nào khác đấy. Dọa dẫm đủ thứ, nhưng kết thúc với dàn xếp. ta phải cam kết từ bỏ mọi quyền, Sandy. ta có phần gì trong tài sản của tôi cả.”

      “Khi nào chúng ta chuyện về tài sản của ?”

      “Sắp thôi, tôi hứa đấy. Nhưng còn có việc cấp bách hơn.”

      Sandy lấy tập giấy mà lúc nào cũng mang theo bên mình ra và sẵn sàng ghi chép.

      “Lance là gã đê tiện. Gã lớn lên trong các quán bar ở Point Cadet, chưa bao giờ học hết phổ thông trung học, và ở tù ba năm vì tội buôn ma túy. kẻ hư hỏng. Gã có bạn bè trong thế giới ngầm. Gã biết những kẻ sẵn sàng làm bất kỳ việc gì vì tiền. Có tập hồ sơ dầy nữa, về gã. Tôi cho rằng Leah chưa đưa cho .”

      “Chưa. Chỉ có tập này.”

      “Lần sau hãy hỏi ấy. Tôi thu thập mọi chuyện về Lance trong năm trời, cũng vẫn do cùng tay thám tử tư. Lance là kẻ tầm thường, nhưng nguy hiểm vì gã có bạn bè. Và Trudy có tiền. Chúng ta biết là ta còn lại bao nhiêu, nhưng hẳn là chưa thể tiêu hết đâu.”

      “Và nghĩ rằng có thể gã chơi chăng ?”

      “Có khả năng. Hãy nghĩ về chuyện đó, Sandy. Lúc này Trudy là người duy nhất vẫn muốn tôi phải chết. Như vậy, ta giữ được số tiền còn lại, và còn lo ngại về chuyện cái hãng bảo hiểm kia thu lại những gì mà giờ ta có. Tôi biết ta. Tiền và cuộc sống ăn chơi là tất cả.”

      “Nhưng làm sao gã có thể … ”

      “Có thể, Sandy. Hãy tin tôi. Đó là việc có thể làm được.”

      điều đó với bảo đảm chắc nịch như của kẻ từng giết người, từng bị lương tâm cắn rứt, và trong giây, Sandy thấy lạnh cả người.

      “Đó là việc có thể làm được, thậm chí dễ dàng,” tới lần thứ ba, cặp mắt bừng bừng và những vết nhăn quanh mắt nhíu lại.

      “Thôi được, vậy tôi phải làm gì ? Ngồi với đám cảnh sát ngoài hành lang ư ?”

      “Việc là tùy ở mình thôi, Sandy.”

      “Tôi nghe đây.”

      “Thứ nhất, với luật sư của ta rằng văn phòng của mới nhận được nguồn tin nặc danh, rằng Lance tìm kiếm kẻ đâm thuê chém mướn. Hãy vậy vào cuối cuộc gặp của hôm nay. Lúc đó ông ta choáng rồi, và tin vào mọi điều . Hãy rằng tính báo cho cảnh sát chuyện đó. Chắc chắn là ông ta phải gọi thân chủ của mình, và ta chối phắt. Thế nhưng uy tín của ta bị tổn thương. ta chùn lại trước cái ý nghĩ rằng có người nghi ngờ là ta và Lance mưu toan giết người. Rồi sau đó, hãy gặp cảnh sát trưởng và FBI, cũng với cùng câu chuyện như vậy. với họ vì sao phải lo ngại về an toàn của tôi. Đòi họ phải răn đe Trudy và Lance về những tin đồn đó. Tôi rất biết ta, Sandy. ta hy sinh Lance để giữ lại được tiền. Song nếu cảnh sát nghi ngờ ta chắc chắn từ bỏ mưu đó.”

      “Chắc cũng nghĩ trước về chuyện này rồi. Còn gì nữa ?”

      “Còn. Việc sau cùng phải làm là tiết lộ chuyện này cho báo chí. cần phải tìm lấy phóng viên … ”

      “Việc đó khó.”

      người mà có thể tin cậy.”

      “Cái này lại khó đấy.”

      hẳn là có. Tôi cũng hay đọc báo, và có thể có vài cái tên cho . Hãy kiểm tra lại. Tìm người mà thấy thích. Bảo ta đăng những tin đồn đó, nhưng phải là theo cầu của chúng ta, đổi lại cho ta biết trước tiên những tin nhất, mới nhất. Đó là cách làm của đám báo chí. Bảo ta là cảnh sát trưởng điều tra những tin tức về việc người vợ toan tính thuê sát thủ để hòng giữ lại những đồng tiền bất hợp pháp. ta bập vào ngay. ta phải tìm hiểu tính xác thực của tin này. Trời đất, họ đăng tin đồn suốt ấy mà.”

      Sandy kết thúc các ghi chép và kinh ngạc trước chuẩn bị của bạn cũ. gấp giấy tờ lại, gõ gõ cây bút, và hỏi, “ có bao nhiêu những thứ này ?”

      “Những thứ rác rưởi này ấy hả ?”

      “Phải.”

      “Tôi đoán chừng hơn hai chục cân. Chúng được cất giữ trong cái kho ở Mobile kể từ khi tôi biệt tích.”

      “Còn gì ở đó ?”

      “Còn những thứ rác rưởi khác.”

      “Về ai ?"

      “Những bạn làm ăn cũ của tôi. Và những kẻ khác nữa. Chúng ta dùng đến sau.”

      “Bao giờ vậy ?”

      “Sắp thôi, Sandy.”

      oOo

      Luật sư của Trudy, J.Murray Riddleton, là người đàn ông sáu mươi tuổi, to khỏe, hoạt bát, chuyên về hai lĩnh vực: những vụ ly hôn dơ dáy và những khuyên nhủ về tài chính nhằm lừa gạt chính phủ. Có thể thấy ở lão nhiều nét tương phản; thành đạt nhưng ăn mặc rất tồi tàn, thông minh nhưng có vẻ mặt chất phác, tươi cười nhưng độc ác, năng ôn hòa nhưng lời lẽ sắc bén. Cái văn phòng lớn của lão ở trung tâm Mobile đầy ngập những hồ sơ bị sao nhãng từ lâu và những sách luật lỗi thời. Lão lịch đón Sandy, chỉ cái ghế và mời rượu. Dù sao cũng sau năm giờ vài phút rồi. Sandy từ chối, và J.Murray cũng uống gì cả.

      “Sao, chàng kia của chúng ta thế nào rồi ?" J.Murray ngoác mồm ra hỏi.

      “Ai cơ ?"

      “Thôi nào. Patrick chứ còn ai. Cậu tìm thấy chỗ tiền kia chưa ?”

      “Tôi hề nghĩ đến chuyện đó.”

      J.Murray cảm thấy câu trả lời cũng hay hay và cười phá lên trong vài giây. Trong đầu lão hề còn nghi ngờ gì là lão hoàn toàn làm chủ cuộc gặp này. Hầu hết các quân bài đều nằm ở phía bàn của lão.

      "Tôi thấy ông TV tối qua,” Sandy . “Cái Chương trình nhớp nhúa đó tên gì ấy nhỉ ?”

      "Đằng sau những biên bản." ấy tuyệt đấy chứ hả? Và đứa nữa, cứ như con búp bê vậy. Những con người tội nghiệp đó.”

      “Thân chủ của tôi muốn cầu thân chủ của ông đưa ra bất kỳ phát biểu công khai nào nữa về cuộc hôn nhân và vụ ly hôn của họ.”

      “Thân chủ của cậu có thể mà giặt váy cho thân chủ của tôi. Còn cậu có thể mà xách dép cho tôi đây này.”

      "Tôi khiếu nại, bởi vì thân chủ của tôi khiếu nại."

      “Này, con ạ, ta là người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất đấy. bất kỳ điều gì. Làm bất kỳ điều gì. Xuất bản bất kỳ thứ gì. Tất cả đều được Hiến pháp bảo vệ ngay ở điều tu chính đó.” Lão chỉ tay lên cái giá sách phủ đầy mạng nhện cạnh cửa sổ. “ cầu bị bác bỏ. Thân chủ của tôi có quyền công bố bất kỳ điều gì và vào bất kỳ lúc nào ta muốn. ta bị thân chủ của cậu xúc phạm, và giờ đây đứng trước hoàn cảnh đầy bất trắc.”

      “Được thôi. Có điều phải làm mọi chuyện.”

      “Chẳng nhẽ còn chưa sao ?"

      “Đúng thế. giờ, chúng tôi thực có vấn đề gì với nguyện vọng ly hôn của thân chủ của ông, và chị ta có thể được nuôi con.”

      “Cảm ơn. Các người rộng lượng quá.”

      " thực tế, thân chủ của tôi có dự tính đòi quyền thăm nom đứa trẻ.”

      “Được lắm. Sau khi bỏ rơi đứa trẻ trong bốn năm trời, chắc cũng chẳng muốn nhìn lại nó nữa.”

      “Có lý do khác,” Sandy vừa vừa mở hồ sơ và lấy ra cái kết quả xét nghiệm ADN. ta đưa bản sao cho J. Murray. Lão lập tức thôi cười và nheo mắt nhìn mấy tờ giấy.

      “Cái gì thế này ?” Lão hỏi vẻ nghi hoặc.

      “Sao ông đọc ?” Sandy đáp.

      J.Murray móc trong túi ngực ra cái kính và đeo lên. Lão đưa tờ giấy ra xa, tới đúng tầm ngừng lại và bắt đầu từ từ đọc. Lão ngây ra sau trang đầu tiên, và đôi vai lão rũ xuống ở cuối trang thứ hai.

      “Tai hại quá, phải ?” Sandy sau khi J.Murray đọc xong.

      “Đừng vội mừng. Tôi chắc chắn là điều này có thể giải thích được ”

      "Tôi chắc là . Theo luật Alabama, kết quả xét nghiệm ADN là bằng chứng mang tính kết luận. Bây giờ, dù phải là người sống chết vói Điều Tu chính thứ nhất như ông, nhưng tôi nghĩ rằng nếu điều này được công bố gây lúng túng cho thân chủ của ông nhiều đấy. Hãy hình dung xem, có chửa với người này trong khi giả bộ sống hạnh phúc với người kia. Tôi e rằng chuyện đó được hoan nghênh lắm ở dọc vùng bờ biển này đâu.”

      “Cứ đăng ,” J.Murray , có vẻ quả quyết. "Tôi quan tâm.”

      "Tốt hơn là nên trao đổi vói thân chủ của ông trước .”

      “Đó là điều có ý nghĩa, theo luật pháp của chúng ta. Ngay cả là ta ngoại tình, nhưng vẫn tiếp tục chung sống với ta sau khi biết chuyện. Như vậy là chấp nhận. được phép dùng scandal đó làm lý do trong vụ ly hôn này.”

      cần bàn tới chuyện ly hôn nữa. Chị ta có thể được toại nguyện. Quên cả chuyện đứa trẻ .”

      “Ra vậy, tôi hiểu rồi. Đây là trò tống tiền. ta từ bỏ sách về tài sản của , và làm ầm lên nữa.”

      “Đại loại là như thế.”

      “Thân chủ của cậu điên rồi, và cậu cũng vậy.” Mặt mũi J.Murray đỏ phừng phừng, hai tay nắm chặt lại.

      Sandy lạnh lùng lật lật hồ sơ và lôi ra đòn tiếp theo. đẩy báo cáo sang phía bên kia bàn.

      “Cái gì vậy ?” J. Murray hỏi.

      “Đọc .”

      "Tôi muốn đọc nữa rồi.”

      “Được thôi, đó là báo cáo của thám tử tư, người bám theo thân chủ của ông và người tình của chị ta trong năm trước khi thân chủ tôi biệt tích. Họ ở bên nhau, chỉ có hai người, tại nhiều nơi nhưng chủ yếu là ở ngay ngôi nhà của thân chủ tôi, ở trong nhà, và chúng tôi cho là ở giường, trong ít nhất là mười sáu dịp.”

      “Chuyện lớn quá nhỉ.”

      “Hãy xem những cái này,” Sandy , và quăng những tấm ảnh màu cỡ 18/24, hai trong số đó là những tấm ảnh khỏa thân, lên bản báo cáo kia. J. Murray liếc mắt nhìn, rồi cầm lên để xem kỹ hơn.

      Sandy quyết định giúp lão ta hiểu. “Những tấm ảnh này được chụp bên bể bơi tại ngôi nhà của thân chủ tôi trong lúc ta dự hội thảo ở Dallas. Có nhận ra ai ?"

      J. Murray gắng gượng làu bàu gì đó.

      “Còn nhiều nữa,” Sandy , và đợi cho qua cơn choáng của J.Murray. "Tôi cũng còn ba báo cáo khác nữa của các thám tử tư. Có vẻ như thân chủ của tôi rất ngờ vực.”

      Ngay trước mắt Sandy, J. Murray chuyển từ con diều hâu hung hăng sang kẻ trung gian ủy mị, thay đổi giống như đổi màu ở loài kỳ nhông, thường thấy ở những luật sư đột nhiên thấy mình bị tước hết vũ khí. Lão thở dài sóng sượt với vẻ cam chịu và rũ người xuống trong cái ghế bành. “Đúng là họ chưa bao giờ với chúng ta tất cả.” Vấn đề đột ngột chuyển thành chúng ta đối lập với họ. Luật sư chống lại thân chủ của mình. Lão và Sandy giờ đây có vẻ lại chuyển sang cùng bên, và họ phải làm gì ? Tuy nhiên, Sandy vẫn chưa sẵn sàng với cái liên minh vỏ ngoài này.

      lần nữa, tôi phải người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất như ông tự nhận về bản thân mình, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những thứ này được đăng tải lên mặt báo chắc chắn làm cho Trudy rất lúng túng.”

      J. Murray giơ tay ra ý bảo Sandy đừng nữa, và nhìn đồng hồ. “Cậu chắc là muốn làm ngụm ư ?"

      “Đúng thế.”

      "Thằng cha kia của cậu vớ được bao nhiêu hả ?"

      “Tôi là chưa biết. Và đó phải là vấn đề quan trọng lúc này. Điều quan trọng là ở chỗ ta còn lại được bao nhiêu khi mọi chuyện xong và ngay bây giờ ai biết được.”

      “Chắc chắn là phải kiếm được hầu hết cái số chín mươi triệu đó.”

      ta bị kiện với con số lớn hơn thế nhiều. Đó ỉà chưa tới khả năng về án tù dài dằng dặc và có thể còn là cái án tử hình nữa. Vụ ly hôn này, ông Riddleton, là vấn đề nhất trong nhũng mối quan tâm của ta.”

      “Vậy sao cậu lại đe dọa chúng tôi ?”

      ta muốn chị ta im miệng lại, ly hôn rồi xéo , và từ bỏ mọi sách trong tương lai đối với ta. Patrick muốn điều đó phải được giải quyết ngay bây giờ.”

      “Nếu sao ?” J. Murray nối lỏng cavát và chùng người xuống thêm nữa. cuối ngày và lão cần phải về nhà. Lão nghĩ lúc khá lâu, rồi tiếp, “ ta mất mọi thứ, có biết vậy ? Cái hãng bảo hiểm kia làm cho ta trắng tay.”

      có ai được ở đây cả, ông Riddleton.”

      “Để tôi chuyện với ta .”

      Sandy thu dọn giấy tờ của mình rồi chậm rãi ra cửa. J.Murray gượng nụ cười buồn bã, và ngay lúc họ bắt tay tạm biệt Sandy như chợt nhớ ra, đề cập tới cái tin nặc danh mà văn phòng nhận được ở New Orleans về việc Lance tìm kiếm sát thủ. Sandy thêm là cũng biết có nên tin hay nhưng cảm thấy buộc phải trao đổi với viên cảnh sát trưởng và FBI về điều đó.

      Họ qua lại vài câu nữa rồi Riddleton hứa đề cập chuyện này với thân chủ của lão.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 21

      DD iểm ghé thăm sau cùng của bác sĩ Hayani là phòng bệnh của Patrick. gần tối, giờ làm việc trong ngày qua từ lâu, và ta thấy tay bệnh nhân tai tiếng của mình, mặc chiếc quần soóc thể thao, ngồi trước cái bàn tạm kê ở góc phòng. Đó là cái bàn , với ngọn đèn mà Patrick kiếm được từ người hộ lý. cái cốc nhựa đựng bút và bút chì. cái cốc khác đựng những cái kẹp giấy, dây chun, ghim, tất cả đều là do các y tá mang cho. thậm chí còn có ba xấp giấy để ghi chép.

      Patrick làm việc. tập khá dày các tài liệu pháp lý chiếm đứt góc bàn, và xem lại trong số nhiều đơn kiện chống lại khi người bác sĩ bước vào, lần thứ ba trong ngày.

      “Xin được hoan nghênh tại văn phòng của tôi,” Patrick . cái TV to kềnh được treo cao đầu bao nhiêu. Còn cái lưng ghế của chỉ cách đầu giường chừng ba mươi phân.

      “Hay,” Hayani . Trong bệnh viện, tin đồn còn loan nhanh hơn cả trong các văn phòng luật, và trong hai ngày qua có những lời thầm thích thú về cái văn phòng luật mới được lập ra trong phòng 312. “Tôi hy vọng là kiện các bác sĩ.”

      bao giờ. Trong mười ba năm hành nghề luật, tôi chưa bao giờ kiện bác sĩ hay bệnh viện.” vừa vừa đứng dậy ngoảnh ra phía Hayani.

      "Thực là tôi quý ,” người bác sĩ trong khi nhàng kiểm tra các vết thương ngực Patrick. “ thấy thế nào ?” Hayani hỏi, lần thứ ba trong ngày hôm đó.

      “Tôi khỏe,” Patrick nhắc lại, biết là lần thứ bao nhiêu trong ngày. Các y tá, tò mò và bị cám dỗ, vào ít nhất ỉà hai lần trong giờ với bất kỳ việc lặt vặt gì đó và luôn vui vẻ hỏi, “ cảm thấy thế nào ?"

      “Tôi khỏe,” luôn luôn trả lời.

      “Ngày hôm nay có ngủ ?" Hayani hỏi, ngồi xổm và xem xét cái đùi bên trái của .

      . Rất khó ngủ nếu uống thuốc, và tôi muốn uống thuốc vào ban ngày,” Patrick đáp. thực ngủ là chuyện thể được trước cả cuộc diễu binh của các y tá và hộ lý kia.

      ngồi xuống bên mép giường và nhìn vào mặt người bác sĩ của mình với vẻ chân tình. “Tôi có thể với ông chuyện được ?" hỏi.

      Hayani ngừng việc ghi chép tấm biểu theo dõi. “Tất nhiên.”

      Patrick hết nhìn sang bên trái lại nhìn sang bên phải như thể ở mọi nơi đều có những đôi tai dỏng lên vậy. “Khi còn là luật sư,” nhàng bắt đầu, “tôi có thân chủ là giám đốc nhà băng bị bắt về tội biển thủ. ta bốn mươi bốn tuổi, có vợ, ba con, là người rất hay nhưng trót dại làm chuyện ngu ngốc. ta bị bắt tại nhà, lúc đêm khuya, và bị mang tới nhà tù quận. Trong tù rất đông phạm nhân, và ta bị ném vào phòng giam chung với mấy thằng lưu manh, mấy thằng da đen, khiếp lắm. Trước tiên, chúng bịt miệng ta cho khỏi kêu la. Chúng đánh đập, rồi làm những chuyện mà ông muốn nghe tới nữa. Chỉ hai tiếng đồng hồ trước đó, ta còn ngồi trong phòng riêng ở nhà, xem cuốn phim, còn lúc này nửa sống nửa chết trong phòng giam cách nhà ba dặm.” Đầu Patrick cúi gập xuống, cằm sát đến tận ngực, và tay day day sống mũi.

      Bác sĩ Hayani vỗ vỗ lên vai .

      “Ông đừng để chuyện đó xảy ra đối với tôi, bác sĩ,” Patrick , mắt ngân ngấn, giọng đầy lo âu.

      “Đừng có lo, Patrick.”

      “Chĩ nghĩ tới chuyện đó cũng đủ làm tôi sợ chết khiếp, bác sĩ ạ. Tôi luôn có những cơn ác mộng.”

      “Tôi hứa với , Patrick.”

      “Có Chúa chứng giám, tôi phải chịu đựng đủ rồi.”

      “Tôi hứa mà, Patrick.”

      oOo

      Tay chuyên gia thẩm vấn tiếp theo là người đàn ông bé có dáng dấp của điền chủ, tên là Warren, nghiện thuốc nặng và nhìn đời qua cặp kính đen dày cộp. thể nhìn mắt ông ta. Tay trái ông ta cầm thuốc lá, tay phải cầm bút, và còn gì khác động đậy, trừ cặp môi. Ông ta ngồi lọt thỏm sau đống giấy má gọn gàng và đưa ra những câu hỏi về phía đầu bàn đằng kia, nơi Stephano ngồi nghịch cái kẹp giấy còn luật sư của lão mải miết với chiếc máy tính xách tay.

      “Ông thông báo với cái tổ hợp của ông vào lúc nào ?”

      “Sau khi mất dấu vết của ở New York, chúng tôi rút về và chờ đợi. Đồng thời nghe ngóng ở những nơi có thể. Chúng tôi rà lại những dấu vết cũ. có kết quả gì. Các dấu vết này nhanh chóng trở nên vô dụng, và chúng tôi chuẩn bị cho trận đánh dài hơi. Tôi gặp Benny Aricia và ông ta sẵn sàng tài trợ cho cuộc tìm kiếm. Thế rồi tôi cũng gặp những người ở Monarch-Sierra và Northern Case Mutual, và họ cũng tạm thời tán thành. Northern Case Mutual phải bỏ ra hơn hai triệu rưỡi cho người đàn bà góa kia. Họ thể nào kiện để đòi lại bởi vì có chứng cứ thuyết phục nào là vẫn còn sống. Họ đồng ý bỏ ra nửa triệu. Monarch-Sierra phức tạp hơn bởi vì lúc đó họ chưa phải chi tiền. Họ có nguy cơ mất bốn triệu ”

      “Monarch bảo hiểm cho những hoạt động phi pháp ở hãng luật phải ?”

      “Gần đúng thế. Nó bảo hiểm cho hãng luật trước những lừa đảo và trộm cắp của các nhân viên và các cổ đông của hãng. Bởi vì Lanigan đánh cắp khoản tiền kia từ hãng cho nên Monarch bị buộc phải chi trả, tới khoảng bốn triệu đôla.”

      “Nhưng khách hàng của ông, ông Aricia, nhận chỗ tiền này, đúng thế ?”

      “Đúng. Lúc đầu ông ta kiện hãng luật đòi toàn bộ sáu mươi triệu mà ông ta mất, thế nhưng hãng luật có mấy tài sản, bèn đồng ý sang tay số tiền bảo hiểm. Chúng tôi ngồi xuống thảo luận và tới thỏa thuận: Monarch-Sierra đồng ý chi trả tiền mà có kiện tụng gì nếu như ông Aricia dùng triệu trong đó để tìm kiếm Lanigan. Ông Aricia đồng ý, nhưng chỉ với điều kiện Monarch-Sierra bỏ ra triệu nữa để tài trợ cho cuộc tìm kiếm này.”

      “Như vậy là Aricia vào cuộc với triệu, Monarch-Sierra triệu và Northern Case Mutual nửa triệu. Tổng cộng là hai triệu rưỡi.”

      “Đúng, đó là thỏa thuận ban đầu.”

      “Còn hãng luật sao ?"

      “Họ quyết định tham gia. thẳng ra là họ có tiền, và họ cũng còn quá choáng váng để có thể có phản ứng. Lúc đầu, họ cũng giúp đỡ bằng những cách khác.”

      “Và các bên tham gia đều đóng tiền chứ ?"

      “Có. Tiền được chuyển đến tài khoản công ty của tôi.”

      “Bây giờ, khi mà cuộc tìm kiếm kết thúc, còn lại được bao nhiêu tiền ?”

      “Gần như là hết.”

      chi phí bao nhiêu ?”

      “Ba triệu ruỡi, hơn kém chỉ chút. Cách đây chừng năm, tiền hết sạch. Các công ty bảo hiểm từ chối. Ông Aricia bỏ vào thêm nửa triệu nữa, rồi lại ba trăm nghìn. Tổng cộng phần góp của ông ta đến bây giờ là triệu chín.”

      Thực con số này là hai triệu sau khi Benny miễn cưỡng quyết định tìm kiếm đồng bọn với Patrick. Tất nhiên là FBI biết điều này.

      “Và tiền được chi tiêu như thế nào ?”

      Stephano liếc mắt nhìn vào những ghi chép của lão.

      “Gần triệu tiền lương, tiền lại, và những chi phí khác liên quan tới cuộc tìm kiếm. triệu rưỡi tiền thưởng. Và chẵn triệu tiền thù lao cho công ty của tôi.”

      “Ông được trả triệu đôla hả ?” Warren hỏi, vẫn hề động đậy mà chỉ có giọng hơi cao lên.

      “Đúng. Trong khoảng thời gian bốn năm.”

      về chuyện tiền thưởng xem nào.”

      “Có gì đâu, nó được ném vào trung tâm của việc tìm kiếm.”

      “Chúng tôi nghe đây.”

      trong những việc đầu tiên chúng tôi làm là treo khoản tiền thưởng cho bất kỳ thông tin nào về biến mất của Patrick Lanigan. Các ông biết về khoản tiền thưởng này nhưng nghĩ rằng hãng luật đứng sau việc làm đó. Chúng tôi lặng lẽ đến hãng luật và thuyết phục được Charles Bogan thông báo về việc treo tiền thưởng cho các thông tin kia. Ông ta công bố và lúc đầu hứa hẹn năm mươi nghìn đôla. Thỏa thuận của chúng tôi với Bogan là ông ta bí mật báo cho chúng tôi nếu có bất kỳ trả lời nào.”

      “FBI được biết về chuyện này.”

      “Đúng. FBI biết về các khoản tiền thưởng, và tán thành. Nhưng thỏa thuận của chúng tôi với Bogan được giữ kín. Chúng tôi muốn nắm được trước tiên bất kỳ thông tin nào. phải là chúng tôi tin FBI, mà đơn giản là chúng tôi muốn tự mình tìm ra được Lanigan và chỗ tiền kia.”

      tại ông sử dụng bao nhiêu người vào vụ này?"

      “Có thể là hơn chục.”

      “Còn ông làm gì.”

      "Tôi ở đây. Nhưng tôi tới Biloxi ít nhất là mỗi tuần lần.”

      “FBI có biết ông làm gì ?”

      “Tuyệt nhiên . Theo chỗ tôi biết, FBI hề biết là chúng tôi có dính vào, cho tới tuần trước.”

      Đống hồ sơ trước mặt Warren chắc chắn có đề cập tới điều này. “Tiếp tục .”

      “Chúng tôi nghe ngóng được gì trong hai tháng, ba tháng, rồi bốn tháng. Chúng tôi nâng khoản tiền thưởng lên tới bảy mươi lăm, rồi trăm nghìn. Bogan nhận được toàn những tin vớ vẩn và ông ta chuyển chúng lại cho FBI. Thế rồi vào tháng Tám năm 1992, ông ta nhận được cú điện thoại của luật sư ở New Orleans, người là có thân chủ biết đôi điều về vụ biến mất kia. Tay đó tỏ ra rất đàng hoàng, và bởi vậy chúng tôi New Orleans để gặp ta.”

      “Tên người đó là gì ?”

      “Raul Lauziere, ở phố Loyola.”

      “Ông gặp chưa ?”

      “Rồi.”

      “Phía công ty ông còn ai cùng gặp nữa ?" Stephano đưa mắt nhìn tay luật sư của lão, người lúc này rất trầm tư. “Đây là bí mật nghề nghiệp. Tôi nên nhắc tới tên của những người cộng của tôi.”

      “ Ông ấy bắt buộc phải làm như vậy,” tay luật sư lớn tiếng , và vấn đề chấm dứt tại đó.

      “Được. Tiếp tục .”

      “Lauziere tỏ ra nghiêm túc, đúng mực và có thể tin được. ta cũng chuẩn bị rất chu đáo. Có vẻ như ta biết mọi chuyện về vụ biến mất của Patrick và chỗ tiền kia. Lauziere có hồ sơ lưu tất cả các bài báo cắt ra và do chính ta ghi mục lục tham cứu cẩn thận. ta trao cho chúng tôi tài liệu bốn trang dày đặc về những gì mà thân chủ của ta biết”

      “Hãy tóm tắt cái đó. Tôi đọc sau.”

      “Tất nhiên,” Stephano , và kể lại theo trí nhớ, “Thân chủ của ta là phụ nữ trẻ có tên là Erin, học trường y ở Tulane. ta mới ly hôn, vỡ nợ, … và để kiếm đủ miếng ăn, ta làm thêm buổi tối ở cửa hiệu sách lớn. Vào khoảng thời gian nào đó trong tháng Giêng năm 1992, ta để ý tới người khách loanh quanh ở khu vực sách về du lịch và ngôn ngữ. Tay đó đậm người, mặc complê, râu ria gọn gàng, và có vẻ hơi lo âu. Lúc đó gần chín giờ tối, và cửa hàng vắng khách. Sau cùng, tay đó chọn Chương trình học ngoại ngữ với mười hai băng cátxét, sách giáo khoa, … tất cả đựng trong cái hộp bóng láng, và ra phía bộ phận thanh toán, nơi Erin làm việc. Đúng lúc đó, người đàn ông khác bước vào cửa hiệu. Người kia ngay lập tức lùi vào giữa những giá sách và đặt cái hộp kia trở về chỗ cũ. Thế rồi ta sang phía bên kia, và toan lướt qua người mới vào, người mà ràng là ta biết nhưng muốn chạm mặt. Thế nhưng kịp. Người kia ngước mắt nhìn lên, và , “Patrick, lâu quá gặp.” câu chuyện ngắn ngủi diễn ra, trong đó hai người đàn ông với nhau về nghề luật của họ. Erin vẫn loanh quanh ở khu vực thanh toán và lắng nghe bởi vì cũng chẳng có việc gì khác để làm. Hiển nhiên là ta hơi quá tò mò chút và quan sát thấy tất cả.

      “Tuy vậy, cái người được gọi là Patrick kia sốt ruột muốn , nên sau cùng ta cũng lựa được đúng lúc và cáo lui cách nhã nhặn. Ba tối sau, ta trở lại, cũng vào khoảng thời gian đó. Erin làm công việc đóng gói chứ phải là ở khu thanh toán. ta nhìn thấy ta vào, nhận ra, nhớ tới cái tên Patrick, và bèn để mắt đến. ta lưu ý tới nhân viên ở khu thanh toán, và khi nhận ra đó là người khác ta lòng vòng quanh cửa hiệu cho tới khi dừng lại ở khu vực bày sách về du lịch và ngôn ngữ. ta vẫn chọn những cuốn hôm trước chọn, lướt tới quầy thanh toán, trả bằng tiền mặt, và bước ra ngoài rất nhanh. Gần ba trăm đôla. Erin nhìn theo. ta hề hay biết, hoặc giả nếu có cũng nhận ra.”

      “Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

      "Tất nhiên, đó là câu hỏi lớn. Ba tuần sau đó, Erin nhìn thấy báo ảnh chụp nơi Patrick Lanigan bị chết trong tai nạn xe thảm khốc, và nhận ra . Thế rồi, sáu tuần sau, tin về chỗ tiền bị đánh cắp từ cái hãng cũ của loang ra, vẫn tấm ảnh đó báo chí, và Erin lại trông thấy.”

      “Cửa hiệu sách đó có các camêra bảo vệ ?”

      . Chúng tôi kiểm tra.”

      “Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

      “Lauziere với chúng tôi. Chí ít cũng là lúc đầu. Chúng tôi rao giá trăm nghìn đôla cho những tin tức tin cậy về nơi lẩn trốn của Lanigan. Lẽ đương nhiên là Lauziere và thân chủ của mình muốn đổi cái tên của thứ tiếng kia để lấy tất cả khoản tiền đó. Chúng tôi thương lượng trong ba ngày. ta lay chuyển. ta chịu để cho chúng tôi thẩm vấn Erin. Chúng tôi bỏ ra sáu giờ đồng hồ với ta, và mọi khía cạnh trong câu chuyện của ta đều được kiểm tra, bởi vậy chúng tôi đồng ý trả trăm nghìn.”

      “Tiếng Bồ Braxin ?”

      “Đúng. Phạm vi của cuộc tìm kiếm đột nhiên được thu hẹp lại.”

      oOo

      Giống như mọi luật sư khác, J.Murray Riddleton nhiều lần trải qua hoàn cảnh này, may. vụ tưởng chắc ăn đột nhiên trở nên hỏng bét. Chiếc bàn bị xoay ngược lại chỉ trong chớp mắt. Cũng chỉ còn là để đùa giỡn, và với thích thú , lão để cho Trudy phùng mang trợn mắt và làm bộ làm tịch chút trước khi lão hạ nhát rìu xuống.

      “Ngoại tình !” Ả kêu lên, với tất cả vẻ phẫn nộ của trong trắng bị xúc phạm. Ngay cả Lance cũng hơi giật mình. Gã cầm lấy tay ả.

      "Tôi biết, tôi biết,” J. Murray , vẫn làm như . “Gần như vụ ly hôn nào mà chẳng thế. Bao giờ mà chẳng có những chuyện bẩn thỉu này.”

      "Tôi giết ,” Lance gằn giọng.

      “Chúng ta tới chuyện đó sau,” J. Murray .

      “Với ai ?” Ả cao giọng hỏi.

      “Với Lance đây. Họ chị chung chạ với nhau trước, trong và sau cuộc hôn nhân đó. thực tế, họ là chuyện giữa chị có từ thời ở trung học.”

      Thực là từ hồi lớp Chín. “ thằng ngốc,” Lance , mặc dù gã dám chắc có phải là thế .

      Trudy gật đầu đồng ý với Lance. Lố bịch. Thế rồi ả lo lắng hỏi, “ có bằng chứng gì?”

      có phủ nhận điều đó ?” J.Murray hỏi để hoàn thiện cái bẫy.

      “Dứt khoát rồi,” ả gắt lên.

      "Tất nhiên là thế,” Lance thêm vào. “ Ở toàn là những điều dối trá.”

      J. Murray thò tay vào trong ngăn kéo và rút ra trong những báo cáo mà Sandy đưa cho lão. “Có vẻ như Patrick nghi ngờ từ lâu. ta thuê các thám tử rình mò. Đây là trong số báo cáo của họ.”

      Trudy và Lance đưa mắt nhìn nhau trong giây, và nhận ra rằng họ sa bẫy. Đột nhiên, khó mà có thể phủ nhận mối quan hệ có từ hơn hai mươi năm qua. Cả hai cùng thiển cận và tự mãn. sao ? Có gì là quan trọng.

      "Tôi chỉ tóm lược thôi,” J.Murray , rồi điểm lại những ngày tháng, nơi chốn, số lần. Họ xấu hổ với những chuyện của họ, nhưng khó chịu khi biết rằng tất cả đều được đưa vào hồ sơ đầy đủ đến thế.

      “Vẫn phủ nhận chứ hả ?” J.Murray hỏi sau khi lão ngừng lời.

      “Bất kỳ ai cũng có thể viết ra những thứ đó,” Lance . Trudy im lặng.

      J. Murray lôi ra báo cáo khác, đề cập tới khoảng thời gian bảy tháng trưóc khi Patrick biến mất. Ngày tháng, số lần, nơi chốn. Patrick khỏi thành phố, rồi Lance mò tới. Lần nào cũng như lần nào.

      “Các thám tử này có thể làm chứng trước tòa ?” Lance hỏi sau khi J. Murray tóm lược xong.

      “Chúng ta ra tòa,” J. Murray .

      “Sao lại ?” Trudy hỏi.

      “Bởi vì những thứ này.” J .Murray quăng ra bàn những tấm ảnh màu khổ 18/24. Trudy chộp lấy tấm và há mồm khi nhìn thấy chính mình nằm ườn bên bể bơi, trần truồng, với gã nhân tình ở bên cạnh. Lance cũng choáng, nhưng vẫn gượng được nụ cười thoáng qua. Gã có phần thích những tấm ảnh.

      Họ xem xem lại chúng, lời. J.Murray thưởng thức cái giây phút này trong chốc lát, rồi , “Hai người quá cẩu thả.”

      phải dậy khôn bọn này,” Lance .

      Trudy bắt đầu khóc. Nước mắt lưng tròng, cặp môi run rẩy, mũi đỏ lên và nức nở. J.Murray nhìn thấy cả nghìn lần. Họ luôn luôn khóc, phải vì những gì họ làm mà là vì cái giá phải trả cho những tội lỗi của họ.

      được động đến con tôi,” ả giận dữ qua làn nước mắt. Ả còn kiềm chế được, và họ phải nghe tràng chửi rủa. Lance, vẫn luôn cảnh giác, vuốt ve ả và cố an ủi.

      "Tôi xin lỗi,” sau cùng ả , và đưa tay lau nước mắt.

      "Bình tĩnh,” J. Murray , hề có chút đồng cảm nào. “ ta đòi đứa trẻ đâu.”

      "Sao lại ?” Ả hỏi, mắt ráo hoảnh.

      ta phải là cha đẻ của nó.”

      Họ nhíu mày nhăn trán, cố hình dung ra chuyện gì.

      J. Murray lấy ra báo cáo nữa. “ ta lấy mẫu máu từ đứa trẻ khi nó được mười bốn tháng tuổi và đưa làm xét nghiệm ADN. ta thể nào là cha đẻ của nó.”

      “Vậy ai … ” Lance toan hỏi, nhưng còn biết phải hỏi gì.

      "Điều đó tùy thuộc vào việc còn có ai khác nữa ,” J. Murray đỡ lời.

      còn có ai khác nữa,” ả giận dữ .

      "Trừ tôi,” Lance thú nhận, và từ từ nhắm mắt lại. Trách nhiệm làm cha đột nhiên đè nặng lên đôi vai gã. Lance ưa trẻ con. chấp nhận Ashley Nicole chỉ vì con bé là con của Trudy.

      “Xin chúc mừng,” J. Murray . Lão thò tay vào ngăn kéo, lấy ra điếu xìgà loại rẻ tiền và quăng cho Lance. “ đứa con ,” lão và cười to.

      Trudy lặng người, còn Lance mân mê điếu xìgà. Khi J. Murray dứt tiếng cười của lão, Trudy hỏi, “Vậy tình thế của chúng ta giờ thế nào ?”

      “Đơn giản thôi. từ bỏ mọi đòi hỏi đối với tài sản của ta, cho dù tài sản đó là thế nào, và ta chấp nhận để ly hôn, giữ đứa trẻ và mọi thứ khác mà muốn.”

      “Tài sản của là bao nhiêu ?" Ả hỏi.

      “Ngay lúc này luật sư của ta cũng biết chắc. Có thể là chúng ta bao giờ biết. ta chờ bản án tử hình, và chỗ tiền đó có thể bị chôn vùi mãi mãi.”

      “Nhưng tôi mất tất cả,” ả quát lên. “Hãy xem đối xử với tôi thế nào. Tôi được hai triệu rưỡi khi chết, bây giờ cái hãng bảo hiểm kia sẵn sàng làm cho tôi phá sản đấy.”

      ấy xứng đáng được hưởng đống tiền,” Lance chen vào.

      “Tôi có thể kiện về nỗi đau đớn tinh thần, hay lừa đảo, hay chuyện gì tương tự ?" Ả cố níu kéo.

      . Nghe này, chuyện rất đơn giản. được ly hôn và được đứa trẻ, và Patrick giữ khoản tiền trời ơi kia. Và tất cả được giữ im lặng. Bằng , ta ném tất cả những thứ này cho báo chí.” J.Murray vừa vừa đập đập tay lên những tập báo cáo và những tấm ảnh. “Và bị làm nhục. vừa mới bôi nhọ ta truyền hình; ta cũng nóng lòng đáp lại đấy.”

      “Tôi phải ký vào đâu ?” Ả hỏi.

      J.Murray rót vốtca cho tất cả, và rồi lại nhanh chóng thêm cho mình ly nữa. Sau cùng, lão mới đề cập tới những tin đồn về chuyện Lance tìm kiếm kẻ đâm thuê chém mướn. Rất nhanh chóng, những lời bác bỏ được đưa ra cách giận dữ, và J.Murray thừa nhận rằng lão thực cũng tin vào những trò rác rưởi đó vì có biết bao nhiêu tin đồn lúc này lúc khác cứ ầm lên ở cái vùng bờ biển này.

      John Grisham

      Đồng Đạo

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 22

      H ọ bắt đầu bám theo Sandy McDermott khi rời khỏi New Orleans lúc tám giờ sáng và chạy theo xa lộ 10, tuyến đường Liên bang. bị bám sát cho đến khi mật độ giao thông giảm xuống nơi gần Hồ Pontchartrain. Họ gọi điện về phía trước và báo nhau biết Sandy đường đến Biloxi. Bám theo là chuyện dễ dàng, còn nghe trộm lại là chuyện khác. Guy có sẵn những con rệp cho văn phòng của Sandy, cho các máy điện thoại ở nhà, thậm chí là cho cả chiếc xe của nữa, nhưng quyết định cài đặt chúng lại chưa được đưa ra. mạo hiểm là đáng kể. Aricia đặc biệt thận trọng. Ông ta lập luận với Stephano và Guy rằng Sandy hoàn toàn có thể tính tới việc này, và tống cho họ đủ những thông tin vô bổ, thậm chí còn có hại nữa. Thân chủ của Sandy tỏ ra rất sành sỏi với những trò này và đó là điều phải tính đến.

      Sandy mấy nhìn trước ngó sau. Đơn giản là khi lái xe đường và trong lúc tránh va chạm như thường lệ, đầu óc của còn ở mãi tận đẩu tận đâu.

      Xét từ góc độ chiến lược, mọi chuyện đối với Lanigan đâu vào đấy. Các vụ kiện dân do Monarch-Sierra, hãng luật, và Aricia khởi kiện còn phải chờ hàng đống các vụ kiện tụng khác. Phải mất hàng tháng nữa Sandy mới đưa ra những phản ứng chính thức. Việc lấy cung trước tòa còn chưa thể nào bắt đầu trong vòng ba tháng tới và phải kéo dài cả năm. Chí ít cũng phải hai năm nữa mới có thể bắt đầu các phiên xét xử. Cũng tương tự như vậy đối với vụ kiện của Patrick chống lại FBI; ngày nào đó nó được bổ sung để lôi vào đó cả Stephano và cái tổ hợp của lão ta. Đó vụ hay, nhưng Sandy sợ rằng mình có được cơ hội để biện hộ cho Patrick trong vụ đó.

      Vụ ly hôn được dàn xếp xong xuôi.

      Cái vụ cố sát kia, trung tâm của mọi chú ý, lại là vấn đề khác. Vụ này ràng là nghiêm trọng nhất đối với Patrick và cũng diễn ra với tốc độ nhanh nhất. Theo luật, tòa án bang buộc phải xét xử Patrick trong vòng hai trăm bảy mươi ngày kể từ khi có cáo trạng của hội thẩm đoàn, và thời gian bắt đầu được đếm.

      Trong suy nghĩ của Sandy, việc kết án dựa các chứng cứ là khó khăn. Trong lúc này, những yếu tố chứng cứ cơ bản đều thiếu - chẳng hạn như việc nhận dạng nạn nhân, việc người đó chết như thế nào, và tính chắc chắn của việc khẳng định rằng Patrick giết người đó. Đó là vụ án với những chi tiết mỏng manh nhất. Và người ta dùng nhiều tới những giả định.

      Tuy nhiên, kết án dựa tình cảm của công chúng lại là điều có thể nhìn thấy trước. Cho tới lúc này, tại Biloxi, trong vòng bán kính trăm dặm, ai ai cũng biết hầu hết các chi tiết, và thể tìm thấy người bình thường nào lại nghĩ rằng Patrick giết chết ai đó để giả mạo cái chết của nhằm dễ bề náu và đánh cắp chín mươi triệu đôla kia. Patrick cũng có vài người hâm mộ, những người cũng mơ tới cuộc sống mới, với cái tên mới, và cả đống tiền kia. Thế nhưng họ có mặt trong hội thẩm đoàn của vụ án. Có vẻ như hầu hết mọi người, qua thăm dò dư luận chính thức tại các quán cà phê và trong những câu chuyện gia đình, đều cảm thấy là phạm tội và phải bị bỏ tù. Song rất ít ngưòi tán đồng án tử hình. Đó là án dành cho những kẻ cưỡng dâm và những kẻ giết cảnh sát.

      Nhưng vào lúc này, việc cấp bách nhất là giữ mạng sống cho Patrick. Hồ sơ về Lance, do nàng Leah kiều diễm kia trao tận tay đêm qua tại phòng khách sạn khác, đề cập tới gã đàn ông đơn giản, nóng tính, và thích trò trả thù. Gã ưa súng đạn, và có lần bị Hội thẩm đoàn Liên bang truy tố về tội buôn lậu súng thông qua tiệm cầm đồ. Nhưng cáo trạng này về sau bị bác . Ngoài cái án tù ba năm về tội buôn lậu ma túy, từng bị phạt giam sáu mươi ngày vì tham gia vào trận ẩu đả trong quán rượu ở Gulfport, mặc dù là được treo lại do nhà tù quá chật. Ngoài ra cũng còn hai lần bị bắt giữ khác nữa.

      Lance có thể là người mẫu. Dáng gã dong dỏng và đẹp trai, rất được các bà các ngưỡng mộ. Gã biết cách ăn mặc và những chuyện khôi hài bên ly rượu. Thế nhưng, lịch thiệp của chỉ mang tính tạm thời. Đầu óc luôn để nơi đầu đường xó chợ, nơi giao du với bọn cho vay nặng lãi, bọn cá cược chuyên nghiệp, bọn tàng trữ của ăn cắp và bọn buôn lậu ma túy — những kẻ bảnh bao trong giới tội phạm ở địa phương. Đó là bạn bè của gã, cùng lớn lên trong khu vực. Patrick cũng tìm ra được bọn này và hồ sơ về chúng bao gồm dưới chục trang tiểu sử, kèm theo hồ sơ hình .

      Ban đầu, Sandy ngờ rằng Patrick mắc chứng hoang tưởng. Giờ đây tin. Mặc dù mấy biết về thế giới ngầm nhưng công việc đôi khi cũng buộc Sandy phải tiếp xúc với đám tội phạm. nhiều lần nghe rằng nếu bỏ ra năm nghìn đôla, người ta có thể giết bất kỳ ai. Thậm chí có lẽ là ít hơn thế ở dọc cái vùng bờ biển này.

      Chắc chắn là Lance phải có hơn năm nghìn đôla. Và gã hoàn toàn có động cơ để thủ tiêu Patrick. Cái hợp đồng bảo hiểm làm cho Trudy trở nên giàu có kia loại trừ nguyên nhân chết đặc biệt nào, ngoại trừ tự sát. viên đạn vào đầu cũng được đối xử như vụ đâm xe, cơn đau tim, hay bất kỳ nguyên nhân nào khác. Chết là chết.

      Vùng bờ biển này phải là sân nhà của Sandy. biết cảnh sát trưởng và đám tay chân của ông ta, biết các thẩm phán và những thói quen của họ, biết các thành viên khác trong hội luật sư. Sandy ngờ rằng đó chính là lý do để Patrick chọn .

      Sweeney mấy dễ chịu điện thoại. Ông ta là rất bận và ngoài ra, việc gặp gỡ các luật sư, với ông ta, thường chỉ là lãng phí thời giờ. Ông ta có thể dành ra ít phút, bắt đầu lúc chín giờ ba mươi và chấp nhận trường hợp khẩn cấp nào. Sandy đến sớm, và tự rót cho mình cà phê từ cái bình để bên vòi nước lạnh. Đám cảnh sát cũng túm năm tụm ba. Căn phòng tạm giam nằm ở phía trong cùng. Sweeney nhìn thấy Sandy bên lối vào trong phòng làm việc của ông ta, căn phòng đơn sơ với mấy thứ đồ đạc rẻ tiền của chính phủ và vài ba tấm ảnh ngả màu của các nhà chính trị tươi cười treo tường.

      “Ngồi ,” Sweeney đáp, tay chỉ cái ghế ọp ẹp.

      “Tôi ghi lại được chứ ?” Sweeney hỏi, tay bấm nút chiếc máy ghi to tướng đặt ở giữa bàn. “Tôi thường ghi lại mọi thứ,” ông ta .

      “Được thôi,” Sandy như thể còn có lựa chọn nào khác. “Cảm ơn về việc ông chịu tiếp tôi.”

      có gì,” Sweeney đáp. Ông ta vẫn hề cười hay có bất cứ cử chỉ gì khác ngoài cái ấn tượng cho thấy mình bị quấy rầy. Ông ta đốt thuốc và làm ngụm cà phê nóng bỏng từ cái cốc giấy.

      "Tôi vào thẳng vấn đề,” Sandy tỉnh khô. “Văn phòng của tôi nhận được tin báo rằng tính mạng của Patrick bị nguy hiểm.” Sandy ưa gì chuyện dối, thế nhưng có mấy lựa chọn trong hoàn cảnh này. Đây là điều mà thân chủ của muốn.

      “Vì sao lại có ai đó báo cho văn phòng của ông biết là tính mạng của Patrick có thể bị nguy hiểm ?” Sweeney hỏi.

      "Tôi có các thám tử làm việc về vụ này. Họ biết rất nhiều người. Có những lời xầm xì, và trong số các thám tử của tôi lần theo. Chuyện thường diễn ra như vậy mà.”

      Sweeney tỏ ra tin cũng tỏ ra . Ông ta rít thuốc và nghĩ ngợi. Trong tuần lễ qua, ông ta nghe đủ những thứ tin đồn mà người ta có thể tưởng tượng được về cuộc phiêu lưu của Patrick Lanigan. Người ta còn về chuyện nào khác nữa. Tin về kẻ đâm thuê chém mướn này cũng nằm trong số đó mà thôi. Sweeney cho rằng mạng lưới của ông ta tốt hơn mạng luới của tay luật sư ngồi trước mặt, nhất lại là luật sư tới từ New Orleans, bởi vậy ông ta cứ để cho ta . “Có đốỉ tượng tình nghi nào ?”

      “Có. Tên là Lance Maxa; tôi chắc là ông có biết .”

      “Chúng tôi biết.”

      thế vào chỗ của Patrick bao lâu sau đám tang kia.”

      có người rằng chính Patrick chiếm chỗ của tay kia đấy,” Sweeney , với nụ cười đầu tiên. Sandy sân chơi lạ. Viên cảnh sát trưởng này biết nhiều hơn .

      “Vậy tôi cho là ông biết tất cả về Lance và Trudy,” Sandy , hơi lo ngại.

      “Đúng vậy. Chúng tôi nắm tình hình ở đây.”

      “Tôi chắc là thế. Dù sao chăng nữa, Lance, như ông biết, là thứ rác rưởi, và người của tôi biết tin là gã tìm kiếm kẻ giết thuê.”

      “Gã trả giá bao nhiêu ?" Sweeney hỏi với vẻ hoài nghi.

      . Nhưng gã có tiền, và có động cơ.”

      "Tôi nghe chuyện này.”

      "Tốt quá. Ông dự định làm gì ?”

      “Về chuyện gì mới được chứ ?”

      “Về việc giữ cho thân chủ tôi được an toàn.”

      Sweeney hít sâu hơi và quyết định kín tiếng. Ông ta cố kiềm chế tính nóng nảy của mình. “ ở trong căn cứ quân , trong phòng bệnh viện, với các nhân viên của tôi gác ngoài cửa và các nhân viên FBI ở trong hành lang. Tôi biết là ông còn muốn gì nữa.”

      “Nào, thưa ông cảnh sát trưởng, tôi định bảo ông phải làm công việc của mình thế nào đâu.”

      " thế ư ?”

      vậy. Tôi xin cam đoan. Nhưng xin hãy cố hiểu rằng thân chủ của tôi lúc này là con người rất sợ hãi. Tôi tới đây thay mặt cho ta. Patrick bị săn lùng trong hơn bốn năm trời. Nay bị bắt. ta nghe thấy những tiếng mà chúng ta nghe thấy. ta nhìn thấy những bóng người mà chúng ta nhìn thấy. ta tin rằng người ta vẫn toan tính giết ta, và ta trông chờ bảo vệ của tôi”.

      an toàn.”

      nay là vậy. Nhưng nếu như ông chuyện với Lance, tra hỏi gã và với gã về những tin đồn này cũng có sao đâu. Nếu gã biết là ông để mắt đến có họa là tự sát mới toan tính chuyện gì đó.”

      “Lance là kẻ ngu ngốc.”

      “Có thể, nhưng Trudy . Nếu như ả nghĩ rằng mình có thể bị tóm, giật dây để Lance lùi về chỗ cũ.”

      ả vẫn giật dây gã suốt.”

      “Chính xác. Song ả muốn mạo hiểm.”

      Sweeney đốt điếu thuốc nữa, và liếc mắt nhìn đồng hồ. “Còn gì nữa ?” Ông ta hỏi, đột nhiên có vẻ sốt ruột muốn . Ông ta là cảnh sát truởng chứ phải người ngồi cạo giấy.

      “Chỉ điều thôi. Và lần nữa, tôi có ý xía vào công việc của ông. Patrick rất kính trọng ông. Thế nhưng, ta nghĩ là mình được an toàn hơn nhiều với nơi ở này.”

      đáng ngạc nhiên.”

      “Nhà giam có thể rất nguy hiểm cho ta.”

      nên nghĩ tới chuyện đó trước khi giết người.”

      Sandy lờ , và , “ ta dễ dàng được bảo vệ hơn nếu ở tại bệnh viện."

      “Ông tới nhà giam của tôi bao giờ chưa đây ?"

      “Chưa.”

      “Vậy đừng có dạy dỗ tôi về việc ở đó an toàn hay nhé. Tôi làm công việc này lâu rồi, hiểu chứ hả ?"

      "Tôi có dạy dỗ gì đâu.”

      “Lại còn cái chết tiệt. Ông có năm phút. Còn gì nữa ?"



      “Tốt.” Sweeney đứng bật dậy và rời khỏi phòng.

      oOo

      Thẩm phán Karl Huskey đến căn cứ quân Keesler vào lúc chiều muộn, từ tốn qua các trạm kiểm soát an ninh để tới bệnh viện. Ông ở giữa chừng vụ xét xử về ma túy kéo dài tuần, và mệt mỏi. Patrick gọi điện đề nghị ông ghé qua, nếu có thể được.

      Bản thân cũng là ngưòi hộ tang bên quan tài, ông ngồi cạnh Sandy McDermott trong tang lễ của Patrick. Tuy nhiên, khác với Sandy, Huskey là bạn gần đây của Patrick. Hai nguời gặp nhau trong vụ kiện dân mà Patrick nhận bao lâu sau khi chuyển đến Biloxi. Họ trở thành chỗ thân tình, theo lối các luật sư và các thẩm phán thường có khi mà tuần nào cũng gặp nhau. Họ chuyện trò trong những bữa ăn đơn giản tại các bữa trưa hàng tháng của hội luật gia và có lần cùng quá chén trong bữa tiệc Giáng sinh. Họ chơi gôn với nhau hai lần năm.

      Đó là mối quan hệ quen biết thân tình, nhưng phải là mối quan hệ bạn bè gần gũi, ít ra là trong ba năm đầu của Patrick ở Biloxi. Nhưng họ trở nên gần gũi hơn trong những tháng trước khi biến mất. Tuy vậy, khi việc xảy ra rồi cũng dễ nhìn lại để thấy thay đổi ở Patrick.

      Trong những tháng sau khi Patrick biến mất, những người trong giới tòa án biết nhiều nhất, trong đó có Karl, thường tụ tập ngồi uống trong cái bar ở tầng duới của tiệm Mary Mahoney vào các chiều thứ sáu và trao đổi về vụ của .

      Trudy có phần đáng trách, dù rằng, theo ý Karl, chị ta đáng là mục tiêu, về bề ngoài, cuộc hôn nhân này tỏ ra tồi tệ đến thế. Hiển nhiên là Patrick hề chuyện đó với ai, ít nhất là trong số những người ngồi uống ở tiệm Mary Mahoney. Những hành động của Trudy sau đám tang, đặc biệt là chuyện chiếc Rolls màu đỏ, chuyện đưa trai về nhà và thái độ vênh váo của ả ta ngay sau khi có được khoản tiền bảo hiểm, làm cho mọi người khó chịu và thể nào còn khách quan được nữa. ai dám chắc rằng ả ngủ lang trước khi Patrick biến . thực tế, Buster Gillespie, thư ký tòa, và là nguời thường xuyên có mặt trong các cuộc trao đổi này, còn tỏ ra mến mộ Trudy. Ả có lần cùng với vợ Gillespie hoạt động trong buổi quyên góp từ thiện gì đó, và ta luôn luôn cảm thấy muốn điều tốt đẹp gì đó về ả. Nhưng có lẽ ta là người duy nhất muốn làm việc đó.

      Sức ép công việc chắc chắn là nhân tố trong việc đẩy Patrick tới bên bờ vực. Hãng luật của ngày đó tiếng tăm như cồn, và rất muốn trở thành cổ đông. làm việc nhiều giờ, và nhận những vụ khó khăn mà các cộng của muốn từ chối. Ngay cả việc Ashley Nicole chào đời cũng giữ được ở nhà. Ba năm sau khi vào hãng với tư cách cộng , trở thành cổ đông, thế nhưng ít người bên ngoài biết được điều đó. khoe với Karl sau phiên tòa, thế nhưng đâu phải là Patrick biết khoác chút.

      Trông mệt mỏi và trầm uất, nhưng mà hầu hết các luật sư bước vào phòng xử án của Karl cũng đều như vậy. Song thay đổi kỳ cục nhất ở Patrick là về mặt hình thể. cao hơn mét tám, và chưa bao giờ gầy cả. tay ưa chạy hồi ở trường luật, và có thời chạy tới bốn mươi dặm tuần. Thế nhưng, với luật sư bận rộn ai mà có thời giờ ? Cân nặng của nhích lên, và rồi tăng vọt trong năm cuối cùng ở Biloxi. làm như nghe thấy những lời đùa cợt và những nhận xét trong cái đám đông ở tòa án. Karl hơn lần la về chuyện đó, nhưng vẫn cứ ăn. tháng trước khi biến mất, với Karl trong bữa trưa rằng cân nặng hơn tạ và Trudy làm ầm ĩ cả lên. Ả ta, trái lại, tập thể dục nhịp điệu hai giờ ngày theo Jane Fonda và thanh tú như người mẫu.

      là huyết áp của lên, và hứa là thực chế độ ăn kiêng. Karl khuyến khích việc này. Về sau ông biết rằng huyết áp của Patrick hoàn toàn bình thường. Giờ đây, khi họ nghĩ lại cái việc lên cân kia, rồi lại giảm cân rất nhanh, hoàn toàn có ý nghĩa.

      Cả bộ râu nữa. bắt đầu để râu vào khoảng tháng Mười năm 1990, rằng cho hợp với những cuộc săn hươu. Việc để râu đó có gì là khác thường ở những người nho nhã và giới luật sư vùng Mississippi. Khí hậu mát mẻ. Kích thích tố sinh dục nam tăng. Đó là chuyện bình thường ở đàn ông. cạo râu và Trudy cũng hài lòng về điều đó. càng để dài, bộ râu càng lốm đốm bạc nhiều hơn. Bạn bè của rồi cũng quen . Nhưng Trudy . cũng để tóc dài hơn chút, phía và hai bên tai rậm hơn. Karl gọi đó là kiểu Jimmy Carter hồi năm 1976. Patrick còn người chuyên chăm lo mớ tóc cho thể nào tìm được người khác mà tin cậy.

      ăn mặc đẹp và hoàn toàn chấp nhận cái trọng lượng của , thế nhưng còn quá trẻ để buông xuôi như vậy.

      Ba tháng trước khi rời khỏi Biloxi, Patrick thành công trong việc thuyết phục các cổ đông trong Hãng của rằng Hãng cần cuốn quảng cáo của chính mình. Đó là đề án , thế nhưng lại rất sốt sắng. Mặc dù Patrick phải là người có trách nhiệm phải biết nhưng Hãng tiến tới rất gần việc dàn xếp xong vụ Aricia, và gần như có thể nhìn thấy tiền. Người ta hào hứng. Hãng làm ăn rất nghiêm túc sắp trở thành Hãng rất giàu có, vậy tại sao lại gây ấn tượng với cuốn quảng cáo cho ra trò. Cũng là cách để khôi hài với Patrick. Lần lượt năm cổ đông ngồi xuống trước tay thợ ảnh chuyên nghiệp, rồi mới dành giờ cho việc chụp chung. Patrick cho in năm nghìn cuốn và được các cổ đông kia đánh giá cao. Trong cuốn quảng cáo đó, ở trang hai, to béo, để râu, tóc rậm, và trông hề giống chút nào với chàng Patrick mà người ta tìm thấy ở Braxin.

      Tấm ảnh này được báo chí sử dụng khi đưa tin về cái chết của . Đó là tấm ảnh được chụp mới nhất, và cũng tình cờ, Patrick gửi cuốn quảng cáo này tới cho tờ báo địa phương, ngừa trường hợp Hãng quyết định tiến hành đợt quảng cáo. Họ cười phá lên về chuyện này trong khi ngồi uống với nhau ở Mary Mahoney. Họ vẫn nhớ cảnh Patrick sắp xếp phiên chụp ảnh trong phòng họp của Hãng hôm đó. Họ còn có thể thấy Bogan, Vitrano, Rapley và Havarac, trong những bộ complê màu nước biển sẫm với những nụ cười nghiêm nghị, và ngay chính khi đó Patrick chuẩn bị cho cuộc đào thoát của .

      Trong những tháng sau khi biến , nhóm ngồi uống ở Mary Mahoney nhiều lần nâng cốc vì Patrick và chơi cái trò đoán xem “ có thể ở đâu ?" Họ chúc khỏe và nghĩ về chỗ tiền của . Thời gian trôi và cơn choáng về biến mất của cũng nhạt dần. có dạo họ tới từng chi tiết trong cuộc sống của , nhưng những buổi trò chuyện như thế thưa dần và sau cùng chấm dứt. Năm tháng trôi qua. bao giờ tìm được Patrick cả.

      Karl vẫn thấy khó lòng mà tin được. Ông bước vào thang máy và mình lên tầng ba.

      Ông thầm nghĩ biết bao giờ, từ trước tới nay, mình dứt hẳn được chuyện về Patrick chưa. Quá nhiều những điều bí . ngày buồn bực nào đó tại tòa, thế là ông lại hình dung tới Patrick, bãi biển đầy nắng, đọc cuốn tiểu thuyết, uống chút gì đó và ngắm nghía các . năm nữa được tăng lương, và ông lại nghĩ tới chuyện có thể tiêu chín mươi triệu đôla kia vào những việc gì. Khi có những tin đồn mới nhất về suy sụp của Hãng Bogan, ông lại trách cứ Patrick về nỗi khốn khổ mà gây ra. Đúng vậy, là Karl nghĩ tới Patrick vì lý do này hay lý do khác ít nhất là mỗi ngày lần, ngày nào , suốt từ ngày ra .

      y tá hay bệnh nhân nào khác trong hành lang. Hai viên cảnh sát đứng dậy. người , “Xin chào ông Thẩm phán.” Ông chào lại họ và bước vào căn phòng tối kia.

      John Grisham

      Đồng Đạo


      Chương 23

      P atrick ngồi giường xem bộ phim Hoàn cảnh hiểm nghèo, áo mặc, và những tấm rèm cửa được kéo kín. Ngọn đèn bàn tỏa chút ánh sáng mờ nhạt. “Mời ngồi đây,” với Karl, tay chỉ về phía cuối giường. đợi lát đủ để Karl nhìn những vết sẹo ngực, rồi nhanh chóng choàng lên người cái áo phông. Mảnh chăn mỏng che kín lên tới ngang hông .

      “Cảm ơn ông tới”. tắt TV, và căn phòng trở nên tối hơn.

      “Những vết bỏng rùng rợn quá, Patrick,” Karl trong khi ngồi xuống mép giường, tít tận về phía cuối, chân phải buông thõng. Patrick co hai đầu gối lên sát ngực. Qua tấm chăn vẫn có thể thấy rất gầy.

      “Trông kinh lắm,” , hai tay quàng chặt qua đầu gối. “Bác sĩ chúng lành lại. Nhưng tôi cần phải được ở đây thời gian.”

      “Tôi gặp rắc rối gì về chuyện đó, Patrick. có ai đòi phải đưa tới trại tạm giam cả.”

      “Giờ chưa. Nhưng tôi chắc sắp bắt đầu có sức ép đấy.”

      “Cứ yên tâm, Patrick. Tôi là người quyết định việc đó.”

      có vẻ nhõm. “Cảm ơn Karl. Ông biết là tôi thể nào còn sống nổi ở trong đó. Ông thấy rồi đấy.”

      “Vậy Parchman sao ? Nơi đó còn tệ hơn cả trăm lần ấy chứ.”

      phút im lặng kéo dài trong khi Karl thầm ước giá có thể rút lại những lời đó. Đó là câu buột miệng, và tàn nhẫn. “Tôi xin lỗi,” ông . “ đâu vào đâu.”

      "Tôi tự sát trước khi phải tới Parchman.”

      “Đúng là thế . Chúng ta hãy về chuyện gì dễ chịu chút.”

      “ Ông thể xử vụ này phải , Karl ?”

      . Dĩ nhiên là . Tôi phải chính thức khước từ."

      “Khi nào ?"

      “Sắp thôi.”

      “Ai nhận ?"

      “Hoặc là Trussel hoặc là Lanks, có khả năng là Trussel." Karl vừa vừa chăm chú nhìn . Patrick dường như muốn nhìn thẳng vào mắt Karl. Có vẻ do dự gì đó trong đôi mắt . “Nào thôi, Patrick," ông những muốn giục. “ nghe xem nào. Hãy kể lại toàn bộ câu chuyện .”

      Thế nhưng ánh mắt vẫn xa xăm. còn là Patrick nữa.

      Karl thấy buộc phải bắt chuyện. “ lấy đâu ra cái cằm đó ?"

      “Làm ở Rio.”

      “Còn cái mũi ?"

      “Cũng ở đó, làm cùng lúc. Ông thấy có được

      “Trông đẹp đấy.”

      “Tại Rio, họ có những cơ sở phẫu thuật chỉnh hình chỉ nhoáng cái là xong.”

      "Tôi còn nghe về những bãi biển.”

      “Những bãi biển đẹp thể tưởng.”

      có gặp nào ở đó ?"

      “Môt vài .”

      Tình dục phải là đề tài mà Patrick ưa đề cập tới. thích được nhìn ngắm lâu phụ nữ hấp dẫn, nhưng, theo chỗ Karl biết, trung thành với Trudy trong suốt cả cuộc hôn nhân của họ. Có lần, trong cuộc săn hươu, họ trao đổi với nhau những nhận xét về các bà vợ. Patrick thú nhận rằng khó lòng mà thỏa mãn được Trudy.

      thoáng im lặng, và Karl nhận ra rằng Patrick vội . Phút thứ nhất trôi qua trong im lặng, rồi phút thứ hai kéo dài. Karl vui lòng đến thăm, thậm chí vui mừng được nhìn thấy bạn, thế nhưng thời gian mà ông có thể ngồi trong căn phòng tối này và nhìn bốn bức tường lại có giới hạn.

      “Này, Patrick, tôi xử vụ của , bởi vậy tôi đến đây với tư cách thẩm phán. Tôi cũng phải là luật sư của . Tôi là bạn. có thể chuyện với tôi.”

      Patrick với tay lấy hộp nước cam có ống hút kèm theo. “Ông có muốn uống chút ?"

      .”

      uống ngụm , và để cái hộp trở lại chỗ cũ. "Tôi nghĩ rằng câu chuyện có vẻ lãng mạn quá phải ? Giấc mơ về dễ dàng biến mất vào trong màn đêm và khi mặt trời mọc người khác. Tất cả những rắc rối được bỏ lại đằng sau - công việc vất vả, nỗi đau bởi cuộc hôn nhân tồi tệ, sức ép của việc phải trở nên giàu có hơn. Ông cũng có giấc mơ như vậy phải , Karl ?"

      "Tôi nghĩ rằng có lúc nào đó ai cũng nghĩ như vậy. tính toán vụ này trong bao lâu ?"

      “Từ rất lâu. Khi biết con bé phải con mình, tôi quyết định … ”

      lại xem nào.”

      " đấy, Karl. Tôi phải là cha nó. Trudy ngủ lang trong suốt cuộc hôn nhân của chúng tôi. Tôi quý con bé đến hết mức có thể, nhưng tôi đau khổ. Tôi thu thập các bằng chứng và tự hứa với mình là mang ra chuyện với Trudy, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Trớ trêu làm sao, phần nào tôi lại quen với cái ý nghĩ là ấy có tình nhân. Tôi dự định ra , nhưng biết phải làm sao. Bởi vậy tôi đọc vài cuốn sách về việc làm thế nào để thay đổi nhân dạng và làm những giấy tờ tùy thân mới. Cũng quá phức tạp. Chỉ cần suy nghĩ và tính toán chút.”

      “Vậy nên để râu và tăng lên hơn hai chục cân.”

      “Phải, tôi ngạc nhiên thấy mình khác đến thế với bộ râu. Đó là thời điểm tôi trở thành cổ đông của Hãng, và kiệt sức. Tôi cưới người phụ nữ chung tình, chơi đùa với đứa trẻ phải con mình, làm việc với nhóm người mà tôi thể nào chịu nổi. Và chuyện phải đến đến, Karl. hôm tôi lái xe xa lộ 90, đâu đó với việc quan trọng nhưng lại bị kẹt xe, và tôi nhìn ra ngoài vịnh. Có chiếc thuyền buồm thấp thoáng nơi chân trời. Và tôi muốn mình được ở con thuyền đó, trôi dạt đâu đó, nơi hề có ai biết tôi. Tôi ngồi đó, nhìn con thuyền, chỉ muốn bơi thẳng ra đó. Tôi khóc, Karl. Ông có tin được ?”

      “Ai trong chúng ta cũng có những lúc như thế.”

      “Và rồi, tôi quyết định phải biến . thể tiếp tục cuộc sống tại nữa.”

      “Mất bao lâu để chuẩn bị ?”

      “Tôi phải kiên nhẫn. Hầu hết mọi người đều vội vã khi quyết định lẩn trốn, và họ mắc nhiều sai lầm. Tôi có thời gian. Tôi vỡ nợ hay phải trốn tránh các chủ nợ. Tôi mua khoản bảo hiểm sinh mạng hai triệu đôla, và việc đó mất ba tháng. Tôi biết là tôi thể bỏ lại Trudy và con bé trắng tay. Tôi bắt đầu để mình lên cân, ăn như thằng rồ. Tôi sửa lại di chúc của mình. Tôi thuyết phục Trudy rằng chúng tôi cần phải thu xếp sẵn mọi việc về các đám tang của chúng tôi, và tôi làm điều đó mà gây nên nghi ngờ nào.”

      “Hỏa táng là ý tưởng hay đấy.”

      “Cảm ơn. Tôi rất thiên theo hướng đó.”

      “Làm cho việc xác định nguyên nhân cái chết và nhận dạng trở thành thể thực được, chẳng còn mấy chuyện gì quan trọng hơn thế.”

      “Xin ông đừng về điều đó nữa.”

      “Xin lỗi.”

      “Thế rồi, tôi đánh hơi thấy vụ Benny Aricia và cuộc xung đột của ông ta với Lầu Năm Góc và công ty Platt & Rockland Industries. Bogan giữ chuyện này kín bưng. Tôi tìm hiểu kỹ hơn và phát ra rằng cả Vitrano, Rapley và Havarac đều có phần trong vụ này. Tất cả các cổ đông, trừ tôi. Họ thay đổi, Karl, tất cả bọn họ. Họ trở nên kín đáo và vòng vo. Tất nhiên, tôi là thành viên mới, nhưng dù sao cũng vẫn là cổ đông. Họ nhất trí bỏ phiếu để chấp nhận tôi là cổ đông chính thức, và hai tháng sau đó họ gạt tôi ra trong khi họ làm ăn với Aricia. Bỗng nhiên, tôi trở thành kẻ lo mọi công việc phải lại nhiều, và điều đó làm hài lòng tất cả mọi người. Trudy có thể dàn xếp các cuộc hẹn hò của ấy. Các cổ đông kia có thể gặp gỡ với Aricia mà cần che giấu gì. Họ phái tôi khắp nơi, song nó cũng hợp ý tôi, bởi lẽ tôi vạch ra các kế hoạch. lần tôi Fort Lauderdale để lấy cung trong ba ngày, và khi ở đó, tôi gặp người có thể lo những giấy tờ giả mạo rất hoàn thiện. Bỏ ra hai nghìn đôla, thế là tôi bằng lái xe mới, hộ chiếu, thẻ bảo hiểm xã hội và giấy chứng nhận đăng ký cử tri ngay tại quận Harrison này. Carl Hildebrand là tên của tôi, vì lòng trân trọng đối với ông.”

      "Tôi rất xúc động.”

      "Tại Boston, tôi kiếm được thằng cha có thể làm cho người ta biến mất . Bỏ ra nghìn đôla, tôi có ngày ngồi nghe giảng về việc làm thế nào để thực nó. Tại Dayton, tôi thuê chuyên gia môn theo dõi dạy tôi về các thiết bị nghe trộm và những trò bẩn thỉu khác. Tôi rất nhẫn nại, Karl. Rất nhẫn nại. Tôi ở lại văn phòng vào những giờ trống, và thu thập tất cả những gì có thể có được về vụ Aricia. Tôi chú ý thực nó. Tôi chú ý nghe ngóng, căn vặn đám thư ký, lục lọi thùng rác. Rồi tôi bắt đầu dùng tới các thiết bị nghe trộm, lúc đầu mới chỉ là ở hai phòng để thử. Tôi nghe trộm Vitrano, và thể tin nổi những gì mình nghe được. Họ sắp sửa đá tôi ra khỏi Hãng, Karl. Ông có tin được ? Họ biết phần của họ từ vụ Aricia là khoảng ba mươi triệu đôla, và họ dự tính chia làm bốn. Nhưng các phần đều. Bogan, tất nhiên, được phần hơn, chừng gần mười triệu. Ba người kia được năm triệu, và phần còn lại được chi tiêu cho Hãng. Tôi, theo dự tính, ra đường.”

      “Chuyện này diễn ra vào khi nào ?”

      “Trong năm 91. Đòi hỏi của Aricia được Bộ Tư pháp tạm chấp nhận vào ngày 14 tháng Mười hai năm 1991, và phải mất chín mươi ngày sau mới lấy được tiền. Ngay cả ông Thượng nghị sĩ kia cũng đẩy tốc độ nhanh lên được.”

      “Hãy với tôi về vụ đâm xe .”

      Patrick hơi xoay người, tung chân ra khỏi chăn và và bước xuống giường. “Chuột rút,” lẩm bẩm trong khi duỗi người và duỗi chân. đứng cạnh cửa phòng tắm, nhàng chuyển người từ chân nọ sang chân kia, mắt nhìn Karl. “Hôm đó là ngày Chủ nhật.”

      “Ngày 9 tháng Hai.”

      “Đúng. Ngày 9 tháng Hai. Tôi ở tại ngôi nhà săn cuối tuần đó, và trong khi lái xe trở về nhà tôi bị tai nạn, chết, rồi lên thiên đàng.”

      Karl chăm chú nhìn hề cười. “ lại xem nào,” ông bảo.

      “Vì sao, Karl ?"

      tưởng tượng lành mạnh.”

      “Thế ư ?”

      “Tôi cam đoan đấy. Đó là vụ lừa đảo bậc thầy, Patrick. làm thế nào vậy ?"

      “Có thể là tôi lướt qua vài chi tiết.”

      “Tôi dám chắc là thế.”

      “Chúng ta dạo chút. Tôi chán ở trong phòng rồi."

      Họ ra ngoài hành lang, và Patrick giải thích với những người gác rằng và ông Thẩm phán muốn dạo. Mấy viên cảnh sát bám theo ở cự ly nhất định. y tá mỉm cười và hỏi có thể mang lại cho hai người chút gì . Hai lon Diet Cokes, Patrick lịch cầu. rất thận trọng, hề gì cho tới khi họ tới cuối hành lang, nơi có những cửa sổ kính lớn trông xuống khu đỗ xe. Họ ngồi xuống cái ghế dài, nhìn dọc trở lại hành lang, nơi mấy viên cảnh sát đứng chờ cách xa chừng mươi lăm mét, lưng quay lại phía họ.

      Patrick khẽ hỏi, “Ông nhìn thấy những tấm ảnh chụp trường xảy ra vụ tai nạn đó chưa?”

      “Rồi.”

      “Tôi phát ra chỗ đó ngày hôm trước. Cái hẻm núi rất sâu, và tôi nghĩ rằng nó là tuyệt cho vụ tai nạn. Tôi đợi cho đến lúc mười giờ đêm ngày Chủ nhật mới rời khỏi ngôi nhà săn. Tôi dừng lại cửa hàng bên đường.”

      “Cửa hàng Verhall.”

      “Đúng, Verhall. Tôi đổ đầy bình xăng.”

      “Mười hai galông, mười bốn đôla và hai mươi mốt xu, trả bằng thẻ tín dụng.”

      “Có vẻ đúng đấy. Tôi chuyện với bà Verhall, rồi lên xe. có mấy xe cộ đường. được hai dặm, tôi rẽ vào con đường đất và chạy chừng dặm tới địa điểm tôi chọn trước. Tôi dừng lại, mở cốp xe, và bắt đầu mặc đồ vào. Tôi có bộ đồ dùng cho những người chạy xe môtô các tuyến đường hiểm trở — chiếc mũ bảo vệ, các đệm vai, đệm đầu gối và đệm tay. Tôi nhanh chóng khoác những thứ đó lên ngoài bộ quần áo mặc, tất cả, trừ cái mũ, rồi trở lại xa lộ, chạy về hướng nam. Lần thứ nhất, có chiếc xe chạy sau tôi. Lần thứ hai, có chiếc xe chạy ngược chiều. Tôi vẫn đạp phanh mạnh, để lại những vết trượt mặt đường. Lần thứ ba có xe cộ nào cả. Tôi đội mũ lên, hít hơi sâu, và lái xe rời khỏi mặt đường. Kinh hoàng lắm, Karl.”

      Đến lúc này, Karl vẫn nghĩ rằng còn người nữa đâu đó trong xe, sống hoặc chết, nhưng ông ta hỏi. Chí ít là ngay lúc này.

      “Tôi chỉ chạy khoảng ba mươi dặm giờ lúc rời khỏi mặt đường, nhưng ba mươi cũng giống như chín mươi khi ở giữa trung và cây cối lướt qua hai bên. Chiếc xe va quệt vào những đám cây cối . Kính chắn gió bị vỡ. Tôi lái sang phải, sang trái, lắt léo hết mức có thể, nhưng rồi cây thông lớn va vào phía mũi bên trái. Cái túi hơi bật tung ra, và trong giây tôi ngất . Có cảm giác mất trọng lượng, rồi tất cả yên ắng. Tôi mở mắt, và cảm thấy đau nhói ở vai bên trái. có máu nhưng người cứ như làm sao ấy, rồi tôi nhận ra là chiếc Blazer lật sang phía bên phải. Tôi bắt đầu bò ra ngoài. Cho đến lúc ra được tới ngoài rồi tôi mới biết là mình may mắn. Vai tôi làm sao mà chỉ là bị kẹt. Tôi vòng quanh chiếc Blazer và kinh ngạc thấy mình phá hỏng nó đến thế nào. Nóc xe lõm sâu xuống. Chỉ khoảng mười lăm phân nữa tôi chắc là mình có còn bò ra ngoài nổi .”

      "Có vẻ mạo hiểm đến mức thể tin nổi. có thể chết hoặc bị thương rất nặng. Tại sao chỉ là đẩy chiếc xe xuống hẻm núi đó thôi ?”

      “Trông nó giống như , Karl. Cái hẻm núi dốc đến mức đó. Vùng đất này tương đối bằng phẳng mà, nhớ chứ.”

      “Sao chặn hòn gạch vào chân ga và nhảy ra ngoài ?”

      “Gạch cháy. Nếu tìm thấy hòn gạch trong chiếc xe, hẳn có lẽ họ nghi ngờ. Tôi nghĩ tới đủ mọi chuyện, và tôi cho rằng có thể lái nó lao xuổng đám cây đó mà sao. Tôi có dây an toàn, có túi hơi, có mũ bảo vệ.”

      y tá mang tới những lon Diet Cokes, và muốn chuyện chút. Sau cùng ta cũng . "Tôi kể tới đâu rồi nhỉ ?” Patrick hỏi.

      "Tôi nghĩ là sắp sửa đốt nó.”

      “Đúng. Tôi nghe ngóng chốc. Chiếc bánh sau bên trái vẫn quay, và đó là tiếng động duy nhất. Tôi thấy được mặt đường, nhưng vẫn nhìn theo hướng đó và cũng nghe thấy gì cả. Tuyệt nhiên có tiếng động gì. Ngôi nhà gần nhất cũng cách đó cả dặm. Tôi tin chắc rằng có ai thấy gì, thế nhưng tôi vẫn vội vã. Tôi bỏ cái mũ và những miếng đệm ra, ném chúng vào trong xe, thế rồi tôi chạy sâu xuống phía dưới nữa, nơi tôi trữ sẵn xăng.”

      “Từ bao giờ ?"

      “Trước đó trong ngày. Rất sớm. Lúc rạng sáng. Tôi có bốn can xăng, loại bằng nhựa, và nhanh chóng khuân chúng trở lại chỗ chiếc xe. Trời tối lắm mà tôi lại dám dùng đèn pin, thế nhưng tôi đánh dấu con đường mòn . Tôi đặt ba can xăng vào trong chiếc Blazer rồi ngừng lại, nghe ngóng. Từ phía đường vẫn hề có tiếng động gì. Tôi rất hồi hộp, tim đập cứ thình thịch. Can cuối cùng tôi tưới từ trong ra ngoài rồi ném nốt nó vào bên trong xe. Tôi lùi lại khoảng chục mét gì đó và châm điếu thuốc để sẵn trong túi. Tôi tung điếu thuốc ra, lùi xa thêm nữa và nấp sau gốc cây. Điếu thuốc rơi xuống chiếc Blazer, rồi những can xăng phát nổ. Giống như tiếng bom. Trong tích tắc, lửa phun ra từ tất cả các cửa. Tôi trèo lên vách dựng nhất của khe núi và tìm vị trí thuận lợi cách đó chừng ba chục mét. Tôi muốn quan sát nhưng thể để mình bị phát . Đám lửa cứ hừng hực; tôi thể tưởng tượng rằng nó lại gây nhiều tiếng động đến thế. số bụi cây bắt đầu bén lửa, và tôi nghĩ có thể mình gây ra vụ cháy rừng mất. Rất may là hôm thứ sáu có mưa, trận mưa lớn làm cho cây cối và đất khá ẩm ướt.” uống ngụm Cokes. “Tôi chợt nhận ra rằng tôi quên hỏi thăm về gia đình ông. Tôi xin lỗi, Karl. Iris thế nào ?"

      “Iris khỏe. Chúng ta có thể về gia đình sau. Ngay lúc này, tôi chỉ muốn nghe câu chuyện của .”

      “Được thôi. Tôi đến đâu nhỉ ? Tôi đãng trí quá rồi. Ngần ấy thuốc.”

      nhìn chiếc xe bốc cháy.”

      “Phải rồi. Ngọn lửa nóng rừng rực, thế rồi bình xăng của chiếc xe phát nổ, lại giống như quả bom nữa. Trong thoáng, tôi nghĩ là mình cũng bị cháy sém. Những mảnh vỡ văng ra và bay rít qua đám cây cối. Sau cùng, tôi nghe thấy có tiếng động từ phía xa lộ. Những tiếng . Những tiếng người quát tháo. Tôi thể nhìn thấy ai, nhưng có vẻ có náo loạn nào đó. Ngọn lửa lan ra quanh chỗ chiếc xe. Nó lan dần tới chỗ tôi và bởi vậy tôi phải rời . Tôi nghe thấy có tiếng còi hụ đến gần. Tôi cố gắng tìm được cái lối hẹp mà tôi biết từ ngày hôm trước, khoảng ba chục mét gì đó xuyên qua đám cây cối. Tôi cố lần theo lối đó và tìm kiếm chiếc môtô cà tàng của mình.”

      Karl nghe như nuốt từng lời, hình dung ra mọi hình ảnh, và bám theo từng bước chân của Patrick. Con đường chạy trốn này là chủ đề của bao cuộc tranh luận gay gắt trong những tháng sau đó, và ai có dấu vết gì. “ chiếc môtô cà tàng à ?”

      “Phải. chiếc xe cũ mèm. Tôi mua nó bằng năm trăm đôla tiền mặt từ tay buôn xe cũ ở Hattiesburg trước đó vài tháng. Tôi chạy thử nó đôi lần trong rừng. ai biết là tôi có nó cả.”

      có chứng nhận sở hữu hay đăng ký sao ?”

      “Tất nhiên là . Tôi buộc phải với ông, Karl, rằng trong khi chạy xuyên rừng, tìm kiếm cái lối hẹp kia, tuy người hề hấn gì nhưng vẫn rất sợ hãi, nghe thấy tiếng lửa, tiếng người xa dần ở phía sau, và tiếng còi hụ vang lên gần hơn, tôi biết là mình chạy đến với tự do. Patrick chết, và ta mang theo cuộc sống tồi tệ. ta được ma chay tử tế và được chôn cất thích hợp, và mọi người lời từ biệt. Rồi chẳng mấy chốc, mọi người bắt đầu quên ta . Nhưng phải là tôi, tôi điên cuồng chạy đến với cuộc sống mới. Điều đó khích lệ tôi.”

      Còn cái người tội nghiệp bị thiêu ở trong xe sao, Patrick ? Trong khi sung sướng chạy qua đám rừng người khác chết thay cho . Thiếu chút nữa Karl buột miệng hỏi. Patrick dường như quên cái thực tế rằng phạm tội giết nguời.

      "Thế rồi đột nhiên tôi bị lạc. Đám rừng đó rất rậm rạp, và hiểu thế nào tôi nhầm đường. Tôi có cái đèn pin , và cho rằng dùng nó lúc này cũng sao. Tôi lòng vòng tìm lại đường. có lúc, tôi phải ngồi xuống và buộc mình phải lấy lại bình tĩnh. Tôi hoảng sợ. Chuyện hay quá nhỉ ? Sống sót sau vụ đâm xe kia để rồi lại chịu chết đói chết khát. Rồi tôi lại , và may mắn tìm lại được đường. lâu sau, tôi tìm thấy chiếc môtô. Tôi đẩy nó chừng ba chục mét, ngược lên sườn đồi, tới con đưòng mòn cũ của những người khai thác gỗ, và đến lúc đó cái thân thể hơn tạ của tôi rũ ra rồi. ngôi nhà nào trong vòng hai dặm, bởi vậy tôi nổ máy và chạy theo con đường mòn đó. Tôi chạy thử vài lần rồi nên biết rất đường xá. Tôi tìm ra được con đường lớn hơn và nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Tôi sửa lại ống xả của chiếc xe, bởi vậy cũng gây ra nhiều tiếng động lắm. Chẳng bao lâu sau, tôi phóng con đường nhựa trong địa hạt quận Stone. Tôi tránh xa lộ chính, và cứ bám theo những con đường phụ. Vài giờ sau đó, tôi trở lại được ngôi nhà săn.”

      “Vì sao trở lại đó ?”

      “Đó là điểm tập kết.”

      sợ Pepper nhìn thấy sao ?”

      Patrick hề có biểu lúng túng gì trước câu hỏi đó. Karl chọn đúng thời điểm, và ông ta quan sát phản ứng của . hề có gì. Patrick nhìn đôi chân trong vài giây, rồi , “Pepper rồi.”

      John Grisham

      Đồng Đạo

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :