Có người lính gác phía ngoài cổng, và Teddy có thể nhìn thấy đèn sáng các phòng nhưng cả tòa nhà chẳng hiểu sao có lấy bóng người. về phía bệnh viện, bước lên bậc tam cấp và toan kéo cửa ra nhưng nó bị khóa. chợt nghe thấy tiếng then cửa cót két và thấy người lính gác mở cổng, ra ngoài để nhập bọn với các đồng nghiệp của ta. Khi cánh cửa lại đóng sầm lại, Teddy nghe thấy tiếng giày của người lính gác nện cồm cộp lối tráng xi măng. ngồi lúc bậc tam cấp. Thế là quá đủ cho lý thuyết của Noyce. Teddy giờ đây còn nghi ngờ gì nữa, hoàn toàn chỉ có mình. Bị khóa trái, đúng vậy. Nhưng hề bị theo dõi, theo như biết. vòng ra phía sau bệnh viện và ngực phập phồng khi nhìn thấy hộ lý ngồi lối hút thuốc. Teddy lại gần, và chàng trai trẻ, thanh niên da đen, gầy, rắn rỏi ngước lên nhìn . Teddy lôi trong túi ra điếu thuốc và , “Có lửa ?” “Có.” Teddy cúi xuống cho cậu thanh niên châm thuốc, mỉm cười cảm ơn nhưng khi đứng thẳng dậy chợt nhớ tới lời dặn của người phụ nữ lúc trước về việc hút thuốc nên lại chậm rãi nhả khói ra khỏi miệng mà hít vào. “Cậu thế nào?” hỏi. “Cũng ổn, sếp. Còn sếp?” “Tôi khỏe. Mọi người đâu hết cả rồi?” Cậu thanh niên trỏ ngón tay cái ra phía sau. “Trong kia. Họp hành quan trọng gì đó. biết về cái gì nữa.” “Tất cả bác sĩ và y tá à?” Cậu thanh niên gật đầu. “Có cả vài bệnh nhân nữa. Phần lớn hộ lý. Tôi bị tắc ở đây với cái cửa này vì chốt cửa có vấn đề. Với lại, dầu sao, mọi người cũng trong đó hết rồi mà.” Teddy lại nhả bụm khói nữa ra ngoài hy vọng chàng thanh niên để ý. tự hỏi hiểu có thể tiếp tục dối trót lọt để tiếp lên gác, hy vọng cậu thanh niên vẫn nghĩ là hộ lý, đến từ Khu C chẳng hạn. Rồi nhìn qua cửa sổ phía sau lưng cậu thanh niên và thấy mọi người chen chúc trong hành lang để ra cửa trước. cảm ơn chàng trai vì mồi lửa và bước vòng ra phía cửa trước, bắt gặp đám đông đứng túm tụm ở đây, tán gẫu và hút thuốc. thấy y tá Marino gì đó với Trey Washington, nàng đặt tay lên vai ta và Trey ngửa đầu ra phía sau, phá lên cười cái gì đó. Teddy bắt đầu rảo bước về phía họ nghe thấy tiếng Cawley gọi từ cầu thang. “Đặc vụ!” Teddy quay lại và Cawley xuống cầu thang, tiến về phía , tóm lấy khuỷu tay Teddy và kéo về phía tường rào. “ ở đâu vậy?” Cawley . “ loanh quanh. Ngắm hòn đảo của ông.” “ ?” “.” “Có gì hay ho ?” “Chuột.” “Ôi hẳn rồi, chuột chúng tôi có đầy.” “Việc chữa mái tiến hành đến đâu rồi?” Teddy . Cawley thở dài. “Tôi để xô chậu khắp nhà để hứng nước. Gác mái thế là xong, tan hoang. Sàn nhà trong phòng ngủ của khách cũng vậy. Vợ tôi chắc phát điên lên mất. Chiếc áo cưới của bà ấy cất gác mái mà.” “Thế vợ ông đâu?” “Boston,” Cawley . “Chúng tôi có căn hộ ở đó. Bà ấy và bọn trẻ cần thoát khỏi nơi này thời gian nên họ tới đó nghỉ tuần. Chuyện đó thỉnh thoảng vẫn diễn ra.” “Tôi mới ở đây có ba ngày mà cũng thấy muốn lắm rồi, bác sĩ.” Cawley gật đầu, cười khẽ. “Rồi .” “?” “ về nhà, đặc vụ. Giờ Rachel được tìm thấy. Chuyến phà thường tới lúc mười giờ sáng. Và tôi hy vọng tới Boston vào buổi trưa.” “Điều đó tốt sao?” “Có chứ, nghĩ thế à?” Cawley khẽ đưa tay sờ lên đầu. “Tôi ngại với rằng, đặc vụ, và có ý xúc phạm gì...” “Ôi, lại bắt đầu đây.” Cawley giơ tay lên. “. . Tôi định có ý kiến gì liên quan đến tâm trạng của . , tôi chỉ định là có mặt của ở đây tạo ra kích động đối với nhiều bệnh nhân. biết đấy, kiểu tư duy ‘đại diện luật pháp’ ấy mà. Điều đó khiến vài người trong số họ trở nên căng thẳng.” “ lấy làm tiếc về điều đó.” “ phải lỗi của . Đó là thứ đại diện chứ phải cá nhân .” “Ô, nếu thế được.” Cawley dựa lưng và tì gót chân vào tường, trông ông ta cũng mệt mỏi như chiếc áo bác sĩ nhàu nhĩ và chiếc cà vạt lỏng lẻo của ông ta. “Có tin đồn lan truyền ở Khu C chiều nay về người đàn ông danh tính mặc quần áo hộ lý xuất ở khu buồng giam.” “ sao?” Cawley nhìn . “Đúng thế.” “Chuyện đó thế nào?” Cawley lần tìm rồi nới chiếc nút cà vạt ra. “Nghe người đàn ông lạ mặt đó hẳn là người có kinh nghiệm trong việc truy bắt những đối tượng nguy hiểm.” “Ông định ...” “Đúng vậy, đúng vậy.” “Thế người lạ mặt đó còn làm gì nữa?” Cawley cởi chiếc áo mặc trong phòng thí nghiệm ra, vắt lên cánh tay và , “Tôi mừng là cũng quan tâm tới chuyện này.” “À, vì có vẻ giống tin đồn vớ vẩn hay chuyện ngồi lê đôi mách.” “Đúng vậy. Nghe người lạ đó - và điều này, nên nhớ là tôi dám chắc - trò chuyện rất lâu với bệnh nhân mắc chứng hoang tưởng và tâm thần phân liệt tên là George Noyce.” “Thế à,” Teddy . “Đúng vậy.” “Vậy cái gã, hừm...” “Noyce,” Cawley . “Noyce,” Teddy nhắc lại. “Ừ, thế cái gã ấy, ta mắc chứng hoang tưởng à?” “Tới cực điểm. ta cứ thêu dệt các câu chuyện bịa đặt và hoang tưởng của mình khiến những người khác trở nên bị kích động...” “Lại là cái từ đó.” “Tôi xin lỗi. Mà đúng thế, ta đặt mọi người vào trong trạng thái bất đồng. Hai tuần trước, ta quá tới mức bệnh nhân chịu được, ra tay khá nặng với ta.” “Tôi có thể hình dung được chuyện đó.” Cawley nhún vai. “Nó vẫn thường xảy ra mà.” “Thế nhưng ta kể chuyện gì mới được?” Teddy hỏi. “ ta bịa đặt thế nào?” Cawley vẩy tay vào khí. “Những chuyện hoang tưởng thường thấy. Cả thế giới muốn làm hại ta và những thứ tương tự.” Ông ta ngước nhìn Teddy trong khi châm thuốc, mắt ông ta sáng lên cùng ngọn lửa. “Vậy là .” “Tôi đoán vậy.” “Trong chuyến phà đầu tiên.” Teddy nở nụ cười lạnh giá. “Ngay khi có ai đánh thức chúng tôi dậy.” Cawley cười đáp lại. “Tôi nghĩ chúng tôi có thể thu xếp chuyện này.” “Tốt quá.” “Được rồi,” Cawley . “ hút thuốc ?” Teddy giơ tay lên xua bao thuốc chìa ra trước mặt, “, cảm ơn.” “ cố nghỉ hút à?” “ cố bớt hút .” “Có lẽ thế là tốt. Tôi đọc số bài báo về việc hút thuốc có thể gây ra số hậu quả khó lường.” “Vậy sao?” Ông ta gật đầu. “Ung thư chẳng hạn, tôi nghe thế.” “Ngày nay có biết bao nhiêu cách để chết.” “Đồng ý. Nhưng cũng có thêm nhiều cách chữa trị.” “Ông nghĩ vậy sao?” “Nếu tôi chẳng làm nghề này.” Cawley và nhả khói bay lơ lửng đầu . “Ông bao giờ có bệnh nhân tên là Andrew Laeddis chưa?” “Cái tên này chẳng gợi lên điều gì.” “ à?” Cawley nhún vai. “Có gì quan trọng sao?” Teddy lắc đầu. “Là người mà tôi biết. ta...” “Như thế nào?” “Gì cơ?” “ biết ta như thế nào?” “Trong chiến tranh,” Teddy . “Ồ.” “Tôi nghe ta có vấn đề về đầu óc và được gửi tới đây.” Cawley chậm rãi hít hơi thuốc dài rồi , “ hẳn nghe nhầm rồi.” “Chắc thế.” “Này, chỉ mỗi đâu, chuyện đó còn xảy ra với cả tôi nữa. Tôi nghĩ tôi vừa nghe thấy từ ‘chúng tôi.’ ” “Gì cơ?” “ ‘Chúng tôi’,” Cawley . “Đại từ nhân xưng ngôi đầu tiên số nhiều.” Teddy đặt tay lên ngực. “Khi về mình á?” Cawley gật đầu. “Tôi nghĩ là tôi nghe thấy , ‘Ngay khi có ai đánh thức chúng tôi dậy.’ Chúng tôi.” “ đúng là tôi thế. Còn nghi ngờ gì nữa. À mà nhân tiện ông có trông thấy cậu ấy đâu ?” Cawley nhướng bên mày lên nhìn . “Thôi nào. Cậu ấy có ở đây ?” Cawley nhìn cười. “Gì vậy?” Cawley nhún vai. “Tôi chỉ hơi băn khoăn.” “Băn khoăn về cái gì?” “Về đấy, đặc vụ. Đây có phải là trò đùa quái gở của ?” “Trò đùa nào?” Teddy . “Tôi chỉ muốn biết cậu ta có ở đây hay thôi.” “Cậu ta là ai?” Cawley , giọng thoáng bực bội. “Chuck ấy.” “Chuck?” “Chuck, đồng của tôi ấy.” Cawley rời khỏi bức tường, điếu thuốc lá kẹp hờ hững giữa những ngón tay; “ có đồng , đặc vụ. tới đây chỉ có mình.” TEDDY , “Chờ phút...” Và bắt gặp Cawley đứng rất gần , ngước nhìn chăm chú. Teddy ngậm miệng lại, cảm thấy khí đêm hè khiến mi mắt rũ xuống. “Hãy lại cho tôi xem nào. Về đồng của ấy.” Cawley và nhìn với vẻ hiếu kỳ. Đó là ánh mắt lạnh lùng nhất mà từng thấy. Đầy vẻ dò xét, sắc sảo, và vô cùng điềm tĩnh. Đó là ánh mắt của người trung thực khi xem kịch vui, giả đò hiểu cái tình tiết gây cười của vở kịch. Và Teddy thấy mình giống như Ollie trong những vở kịch của Oliver và Stan?(12). chú hề với cặp dây đeo quần lùng nhùng và chiếc thùng gỗ quây lại làm quần. Đây chính là chi tiết gây cười của vở kịch. “Đặc vụ?” Cawley nhón bước lên phía trước, rón rén như bắt bướm. Nếu Teddy tiếp tục phản bác và đòi tìm hiểu bằng được Chuck ở đâu, thậm chí chỉ cần tranh cãi với họ về tồn tại của người tên Chuck sập vào bẫy của họ. Teddy bắt gặp ánh mắt của Cawley và nhìn thấy tia cười trong đó. “Những người điên thừa nhận là mình bị điên,” Teddy . Cawley bước thêm bước nữa. “Xin lỗi, gì cơ?” “Bob thừa nhận là ta bị điên.” Cawley khoanh tay trước ngực. “Vậy suy ra Bob bị điên.” Cawley đứng dồn trọng lượng lên hai gót chân, và rồi nụ cười nở khuôn mặt. Teddy cũng mỉm cười đáp lại. Họ đứng như thế lúc, gió thổi qua những tán cây sau bức tường rào khiến chúng khẽ rung rinh. “ biết ,” Cawley lên tiếng, đầu cúi xuống, mũi chân di di đám cỏ mặt đất. “Tôi xây dựng những công trình nghiên cứu có giá trị ở đây. Nhưng những công trình có giá trị thường được nhìn nhận vào thời đại của nó. Tất cả mọi người đều muốn giải pháp tức . Chúng ta quá mệt mỏi vì sợ hãi, vì phiền muộn, vì có quá nhiều cảm xúc, mệt mỏi vì quá mệt mỏi. Chúng ta muốn quay lại những ngày xưa cũ nhưng chúng ta thậm chí chẳng nhớ gì về nó, đồng thời chúng ta lại muốn tới tương lai với tốc độ nhanh nhất. Hai phẩm chất bị thủ tiêu đầu tiên trong quá trình này là kiên nhẫn và tính chịu đựng. Chuyện này có gì mới. mới chút nào. Cuộc sống vẫn luôn như thế.” Cawley ngẩng đầu lên. “Tôi có bao nhiêu bạn bè quyền lực tôi cũng có bấy nhiêu kẻ thù mạnh như thế. Những người có thể giật đổ những gì tôi xây dựng từ trong tay tôi. Tôi thể để điều đó xảy ra mà tranh đấu. có hiểu ?” “Ồ, tôi hiểu chứ, bác sĩ,” Teddy . “Tốt rồi,” Cawley duỗi hai cánh tay ra. “Thế còn người đồng gì đấy của ?” “Người đồng nào cơ?” Teddy . KHI TEDDY TRỞ VỀ PHÒNG Trey Washington nằm giường đọc tờ Life cũ. Teddy nhìn vào chỗ của Chuck. Chiếc giường được xếp lại, ga giường và chăn được gấp cách phẳng phiu, thể nào biết được nếu từng có ai ngủ ở đây hai đêm trước. Áo jacket, sơ mi, cà vạt và quần của Teddy được giặt là cẩn thận, lồng trong túi ni lông treo trong tủ. thay bộ đồng phục hộ lý ra và mặc quần áo của mình vào trong khi Trey vẫn lần giở những trang giấy bóng bẩy của tờ tạp chí. “ thế nào, đặc vụ?” “Bình thường,” “Tốt rồi, tốt rồi.” Teddy để ý thấy Trey nhìn mà dán mắt vào tờ tạp chí, lật lật lại mãi y nguyên mấy trang. Teddy lấy các thứ trong túi bộ quần áo vừa thay ra. để tờ giấy nhập viện của Laeddis vào túi trong áo khoác cùng với quyển sổ ghi chép. ngồi xuống chiếc giường của Chuck, đối diện với Trey rồi thắt cà vạt và dây giày. Xong xuôi, ngồi đó gì. Trey giở trang khác của cuốn tạp chí rồi , “Ngày mai trời nóng đấy.” “ sao?” “Nóng chết mẹ luôn. Bệnh nhân thích trời nóng đâu.” “ thích ư?” ta lắc đầu và lại giở trang khác. “, sếp. Nó khiến bọn họ ngứa ngáy, khó chịu. Lại thêm đêm mai trăng tròn nữa. Càng tệ hơn. quá đủ cho chúng tôi.” “Sao lại thế?” “Gì cơ, đặc vụ?” “Trăng tròn ấy. nghĩ là nó khiến người ta phát điên à?” “Đúng thế,” ta và lấy ngón trỏ vuốt trang tạp chí bị nhàu. “Bằng cách nào?” “ nghĩ thử xem nhé, mặt trăng tác động lên thủy triều, đúng ?” “Đúng thế.” “Gây ra hiệu ứng nam châm hay cái gì đó lên nước.” “Cũng có lý.” “Bộ não của con người,” Trey , “có năm mươi phần trăm là nước.” “ đùa đấy chứ?” “ hề. cứ hình dung ra Ngài Trăng có thể làm chao đảo cả đại dương với cái đầu, tác động thế nào?” “ ở đây được bao lâu rồi, Washington?” ta vuốt xong trang giấy bị nhàu và giở sang trang tiếp theo. “Ối, lâu rồi. Từ khi xuất ngũ năm bốn mươi sáu.” “ từng ở trong quân ngũ à?” “Phải. Đến để xin súng họ phát cho cái nồi. Đánh bọn Đức bằng việc nấu ăn chẳng ra gì.” “ vớ vẩn,” Teddy . “Đúng là vớ vẩn, đặc vụ. Họ mà để chúng tôi tham chiến chiến tranh kết thúc từ năm bốn mươi tư rồi.” “Tôi hoàn toàn đồng ý với .” “Sếp cũng khắp những chỗ đó rồi đúng ?” “Ừ. Nhìn thấy cả thế giới.” “Sếp nghĩ sao?” “Ngôn ngữ khác nhau thôi, còn rác rưởi cả.” “Ồ, thế đấy hả?” “ có biết tối nay ông giám đốc trại giam gọi tôi là gì , Washington?” “Là gì vậy, đặc vụ?” “ tên mọi.” Trey ngẩng đầu khỏi tờ tạp chí. “Ông ta gì cơ?” Teddy gật đầu. “Ông ta là thế giới này giờ có quá nhiều kẻ cặn bã. Xuất thân hèn kém. Bọn mọi. Thiểu năng trí tuệ. đối với ông ta tôi cũng chỉ là tên mọi.” “Và thích thế đúng ?” Trey cười khẽ nhưng tiếng cười tắt ngấm rất nhanh. “Mà cũng đâu biết thế nào là tên mọi?” “Tôi có thể hiểu được chuyện đó, Trey. Dù sao người đàn ông đó cũng là sếp của .” “ phải là sếp của tôi. Tôi làm việc cho bệnh viện, chấm hết. Còn tên ác quỷ da trắng ấy hả? ta là ở bên trại giam.” “ vẫn là sếp của .” “. phải.” Trey chống hai cùi tay xuống giường và nhỏm người lên. “ nghe chưa? Ý tôi là chúng ta hoàn toàn ràng về chuyện này rồi chứ?” Teddy nhún vai. Trey thò hai chân xuống đất và ngồi dậy giường. “Sếp định chọc tôi phát điên lên đấy à?” Teddy lắc đầu. “Thế tại sao đồng ý với tôi khi tôi là tôi làm việc cho tên khốn đó?” Teddy lại nhún vai. “Trong lúc cần thiết, nếu ông ta ra lệnh cho sao? chẳng nhảy cẫng lên ấy chứ.” “Tôi gì cơ?” “Nhảy cẫng lên như chú nai con.” Trey sờ tay lên cằm và nhìn Teddy, miệng nở nụ cười khó tin. “Tôi hề có ý xúc phạm,” Teddy . “Ồ , .” “Tôi chỉ để ý thấy mọi người cái đảo này có cách dàn dựng rất độc đáo theo ý riêng của họ. Dường như họ cứ lặp lặp lại câu chuyện rất nhiều lần, và đến lúc nào đó nghiễm nhiên người khác phải cho đó là .” “Tôi làm việc cho người đàn ông đó.” Teddy chỉ vào ta. “Đấy, lại ví dụ nữa về cái kiểu mà tôi được biết và rất hâm mộ ở hòn đảo này.” Trông Trey có vẻ như muốn xông tới và đánh cho trận. “ thấy đấy,” Teddy tiếp, “tối nay họ tổ chức buổi họp. Sau đó, bác sĩ Cawley xuất và bảo tôi là tôi chưa bao giờ có đồng nào cùng. Và nếu tôi hỏi cũng y như vậy. bác bỏ việc từng ngồi với cậu ta, chơi bài với cậu ta và cười với cậu ta. phủ nhận việc cậu ta từng cách duy nhất để đối phó bà già của là chạy nhanh. phủ nhận cả việc cậu ta ngủ đây, ngay chiếc giường này. Đúng , Washington?” Trey nhìn xuống sàn nhà. “Tôi hiểu gì, đặc vụ.” “Ôi tôi biết, tôi biết. Là tôi hề có người đồng nào. Giờ đây, đó là . Nó được quyết định như thế. Tôi chưa bao giờ có đồng và cậu ta tồn tại ở bất cứ nơi nào hòn đảo này, dù là bị thương hay chết. Hay bị nhốt ở Khu C hoặc ngọn hải đăng. Tôi chưa bao giờ có đồng . có muốn nhắc lại điều đó với tôi để chúng ta cùng ngã ngũ về chuyện này. Tôi chưa bao giờ có đồng . , thử xem nào!” Trey nhìn lên. “ chưa bao giờ có đồng .” “Còn làm việc cho tay giám đốc trại giam.” Teddy . Trey vỗ vỗ tay lên đầu gối. ta nhìn Teddy và Teddy có thể thấy câu chuyện này gặm nhấm lương tâm ta. Mắt ta nhòe và cằm ta khẽ rung lên. “ cần phải rời khỏi đây,” ta thầm. “Tôi cũng biết thế.” “.” Trey lắc đầu quầy quậy. “ tài nào biết được chuyện gì diễn ra ở đây đâu. Hãy quên những gì nghe thấy, những gì nghĩ là biết . Họ sờ tới . Và có cách nào quay trở lại sau những gì họ làm với . có cách nào cả.” “Hãy cho tôi biết,” Teddy , nhưng Trey lại lắc đầu. “Hãy cho tôi biết chuyện gì xảy ra ở đây.” “Tôi thể được. Tôi thể. Hãy nhìn tôi.” Trey , hai bên lông mày nhướng lên, mắt mở trừng trừng. “Tôi. thể. Làm. Thế. phải tự lo liệu thôi. Nếu tôi là tôi ngồi đây mà chờ chuyến phà chẳng bao giờ tới. “ Teddy cười khẽ. “Tôi thậm chí còn ra khỏi được cái khuôn viên này, gì tới ra khỏi hòn đảo. Và nếu như tôi có thể người đồng của tôi ...” “Quên cái người đồng của ,” Trey kêu lên. “ ta rồi. hiểu ? ta quay trở lại nữa đâu, bạn. phải thôi. phải trông chừng chính mình và chỉ mình mà thôi.” “Trey,” Teddy . “Tôi bị nhốt ở trong này.” Trey đứng dậy, tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời đêm hay nhìn vào bóng mình phản chiếu ô cửa kính, cũng biết nữa. “ được quay trở lại đây nữa. Cũng được với bất kỳ ai tôi gì với .” Teddy chờ đợi. Trey quay đầu lại nhìn và tiếp, “Nhất trí chứ?” “Nhất trí,” Teddy . “Phà cập bến vào mười giờ sáng mai. rời Boston vào đúng mười giờ. Nếu trốn được lên đó có thể có cơ hội thoát sang bờ bên kia. Nếu phải đợi hai hay ba ngày nữa, có tàu đánh cá tên là Betsy Ross đỗ ở khá gần bờ biển phía Nam để giao số mặt hàng. Những thứ mà đàn ông có được hòn đảo này. Nhưng con thuyền vào sát bờ mà người ta phải bơi ra đoạn để gặp nó.” “Tôi thể sống sót cái hòn đảo này tới ba ngày nữa,” Teddy . “Tôi biết địa hình. Giám đốc trại giam và người của ông ta lại rất . Họ tìm thấy tôi.” Trey im lặng lúc gì. “Thế phải thử con phà,” cuối cùng ta lên tiếng. “ thế. Nhưng làm sao mà tôi trốn được ra bên ngoài khuôn viên bệnh viện?” “Mẹ kiếp,” Trey . “ có thể tin nhưng hôm nay là ngày may mắn của đấy. Cơn bão phá hủy mọi thứ, nhất là hệ thống điện. Giờ chúng tôi phải sửa chữa phần lớn dây điện chăng tường rào.” “Chỗ nào các chưa kịp chữa?” Teddy hỏi. “Góc Tây Nam. Dây rợ ở đó hỏng hết cả, đúng cái chỗ hai bức tường gặp nhau, tạo thành góc vuông. Còn những chỗ khác quay như gà nên chớ có trượt chân và túm đại vào cái dây nào xung quanh đó, nghe chưa?” “ rồi.” Trey lại gật gù với bóng mình trong ô cửa kính. “Tôi khuyên nên hành động là vừa. lãng phí thời gian đấy.” Teddy đứng dậy. “Nhưng Chuck,” . Trey nhăn mặt. “ có Chuck nào cả. Được chưa? có ai như thế. trở về thế giới bên kia, gì về Chuck cũng được. Nhưng ở đây, người đàn ông đó chưa bao giờ tồn tại.” KHI ĐỨNG ĐỐI DIỆN với góc tường phía Tây Nam, Teddy chợt nghĩ nếu Trey dối sao? Nếu Teddy chạm tay vào những vòng dây thép gai này, tóm lấy chúng chặt và rồi chúng phát điện sáng mai, người ta tìm thấy thi thể dưới chân tường, cháy đen như miếng bít tết từ tháng trước. Thế là vấn đề được giải quyết. Trey được bình chọn là nhân viên của năm, và có thể được nhận chiếc đồng hồ vàng đắt tiền. tìm xung quanh và nhặt được cành cây dài. quay trở lại góc tường phía bên phải, chạy lấy đà để nhảy lên, chân đạp vào tường, tay vung lên đập chiếc que vừa nhặt được vào đám dây thép gai đầu. Chúng phụt ra đám lửa và chiếc que bốc cháy. Teddy trở xuống mặt đất, đứng nhìn chiếc que trong tay mình. Lửa tắt nhưng chiếc que cháy đen. thử lại lần nữa, lần này với đám dây thép gai phía bên góc trái. thấy gì. đứng mặt đất, hít hơi dài rồi lại nhảy lên bức tường phía bên trái, đập vào đám dây thép gai. Và vẫn có gì xảy ra. Có cái cọc sắt nằm ở ngay chỗ hai bức tường giao nhau, Teddy chạy lấy đà và phải tới lần thứ ba mới nhảy lên và tóm được vào đó. vịn vào cái cọc sắt và leo lên, vai chạm vào đám dây thép gai, rồi tới hai đầu gối và cánh tay, cứ mỗi lần như thế lại nghĩ là mình sắp chết. Nhưng vẫn chưa chết. Khi trèo lên được tới gờ tường chỉ còn mỗi việc là nhảy xuống phía bên kia. đứng thảm cỏ mục và nhìn lại lần nữa bệnh viện Ashecliffe. tới đây để tìm kiếm nhưng thấy gì. tới đây để truy đuổi Laeddis nhưng cả cũng tìm ra. lại còn để mất Chuck ở giữa đường. có thời gian để hối tiếc về những gì xảy ra khi trở lại Boston. Để mà hổ thẹn và hối lỗi. Để cân nhắc về những quyết định của mình và tham khảo ý kiến của Thượng nghị sĩ Hurly. Để vạch ra kế hoạch tấn công. quay trở lại đây. nhanh. còn nghi ngờ gì nữa. Và hy vọng lúc đó có trong tay trát đòi hầu tòa và lệnh khám xét của chính quyền liên bang. Và bọn họ có riêng chuyến phà chết tiệt. Rồi được trút cơn giận. lấy lại công bằng cho những phẫn nộ này. Còn bây giờ chỉ cảm thấy mừng là mình vẫn còn sống và ở phía bên kia của bức tường. Mừng. Và sợ. MẤT GẦN TIẾNG RƯỠI để trở lại cái hang lúc trước nhưng người phụ nữ bỏ . Đống lửa của ta chỉ còn cháy ỉ, Teddy ngồi xuống bên cạnh đó mặc cho khí bên ngoài ấm lên cách bất thường và càng lúc càng nhớp nhúa. Teddy đợi người phụ nữ quay lại, hy vọng ta chỉ ra ngoài lúc để kiếm củi, nhưng sâu tận đáy lòng biết ta bao giờ trở lại. Có thể ta cho rằng bị họ tóm và lúc này đây khai với giám đốc trại giam và Cawley về chỗ náu của ta. Và có thể - hy vọng rất viển vông nhưng vẫn cho phép mình ấp ủ - Chuck tìm thấy ta và họ tới chỗ mà ta tin là an toàn. Khi đống lửa tàn hẳn, Teddy cởi áo vest đắp lên người rồi dựa đầu vào vách hang. Cũng như đêm hôm trước, điều cuối cùng để ý trước khi nhắm mắt lại là hai ngón tay cái của mình. Chúng bắt đầu run lẩy bẩy. Chú thích 7. Hoo-ah: từ lóng thường dùng trong quân đội Mỹ, có nghĩa là bao giờ được với cấp . 8. Bom H: bom khinh khí, có sức mạnh ghê gớm, nổ khi hạt nhân các nguyên tử khí hydro hợp nhất lại. 9. Trận chiến đẫm máu nổi tiếng diễn ra tại pháo đài Alamo (23/2 - 6/3/1836) giữa 183 người Texas và người Mexico sinh ra ở Texas với 2000 quân Mexico. 10. Joe Louis (1914-1981) là trong những vận động viên đấm bốc người Mỹ nổi tiếng nhất thế giới. 11. Rạp hát Grand-Guignol mở cửa ở Paris từ năm 1897 tới năm 1962, chuyên trình diễn những vở kịch rùng rợn. 12. Oliver Hardy (1892-1957), người Mỹ và Stan Laurel (1890-1965), người , là trong những cặp danh hài nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh thế giới. NGÀY THỨ TƯ Người thủy thủ tồi TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI CHẾT hoặc có thể chết lấy áo khoác. Bọn họ ở trong bếp và áo khoác của họ treo móc. Bố của Teddy lấy chiếc áo khoác biển cũ, so vai chui vào trong đó rồi giúp Dolores mặc áo của và với Teddy, “Con có biết ta muốn quà gì cho Giáng sinh ?” “, bố.” “ cái kèn túi.” Và Teddy hiểu ý ông định gì, ông muốn tham gia câu lạc bộ đánh gôn và có cái túi chơi gôn. “Giống như Ike,” . “Chính thế,” bố trả lời rồi đưa cho Chuck áo khoác của ta. Chuck mặc nó vào người. Đó là chiếc áo đẹp. Bằng loại vải cashmere thời kỳ trước chiến tranh. Vết sẹo của Chuck biến mất nhưng đôi bàn tay thanh tú như mượn của ta vẫn còn đó và ta giơ chúng ra trước mặt Teddy, những ngón tay ngọ nguậy. “Cậu lại với nữ bác sĩ đó đấy à?” Teddy hỏi. Chuck lắc đầu. “Tôi được giáo dục quá mức. Tán cũng có bài bản.” “Thành công chứ?” “Đại bại có.” “ đáng tiếc!” “Hôn tạm biệt vợ hộ tôi. Vào má nhé!” Teddy nghiêng người qua mẹ và Tootie Vicelli miệng đầy máu lúc này mỉm cười với , hôn lên má Dolores và , “Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?” “Con khô như ngói ấy chứ,” với bố Teddy. “Nếu bố trẻ nửa số tuổi,” bố . “Bố cưới con, con ạ.” Tất cả bọn họ đều ướt sũng, thậm chí cả mẹ và Chuck. Áo khoác của họ rỏ nước tong tỏng xuống sàn nhà. Chuck đưa cho ba đẵn củi và , “Để cho vào lò sưởi.” “Cảm ơn,” Teddy cầm lấy chỗ củi rồi lập tức quên mất phải đặt chúng ở đâu. Dolores xoa bụng và , “Cái lũ thỏ khốn kiếp ấy. Bọn chúng được cái tích gì nhỉ?” Laeddis và Rachel Solando bước vào trong phòng. Hai người họ mặc áo khoác. Họ chẳng mặc bất cứ cái gì. Laeddis đưa chai rượu yến mạch qua đầu mẹ rồi kéo Dolores vào lòng, đáng lẽ Teddy phải cảm thấy ghen tuông nhưng Rachel lập tức quỳ gối trước mặt , kéo khóa quần xuống. Cha , mẹ , Chuck và Tootie Vicelli vẫy tay bỏ còn Dolores và Laeddis rút lui vào phòng ngủ, Teddy có thể nghe thấy tiếng họ giường, cởi bỏ quần áo, thở dồn dập vì khoái lạc, và mọi chuyện có vẻ như rất hoàn hảo, rất tuyệt vời. Khi đỡ Dolores đứng dậy và nghe thấy tiếng Rachel và Leaddis trong cơn mây mưa điên cuồng của họ, hôn vợ , đặt tay lên chỗ kín dưới bụng và , “Cảm ơn ,” và rồi vào từ phía sau, hất đổ những thanh củi ra khỏi tủ bếp. Viên giám đốc trại giam và người của ông ta cùng uống chai rượu yến mạch của Laeddis. Viên giám đốc trại giam nháy mắt tán thành với những kỹ thuật làm tình của Teddy, giơ ly rượu lên trước mặt rồi với người của mình: “Đây là tên mọi da trắng bám trụ rất khá. Các nhìn thấy phải bắn ngay. Nghe chưa? nghĩ ngợi gì cả. Nếu gã này ra khỏi hòn đảo tất cả chúng ta khốn đốn đấy, thưa các quý ông.” Teddy hất chiếc áo vest ra khỏi ngực và bò ra gần miệng hang. Viên giám đốc trại giam và người của ông ta đứng mỏm đá phía đầu . Mặt trời lên. Những con mòng biển bắt đầu kêu keng kéc. Teddy nhìn đồng hồ đeo tay. tám giờ sáng. “Các được mạo hiểm,” viên giám đốc trại giam . “Gã đàn ông này được đào tạo, thử thách và tôi luyện trong chiến trận. được tặng thưởng huân chương Purple Heart và loạt huy chương Oak Leaf. giết hai người đàn ông ở Sicily bằng tay .” Những thông tin này nằm trong hồ sơ cá nhân của , Teddy biết. Nhưng làm thế quái nào mà họ lại có được chúng? “ dùng dao hay đánh nhau tay đôi đều rất thiện nghệ. Chớ có lại gần quá. Có cơ hội phải hạ ngay như con chó-hai-chân.” Teddy thấy mình mỉm cười bất chấp tình thế của lúc này. hiểu những người dưới quyền giám đốc trại giam phải nghe cái kiểu so sánh chó-hai-chân này biết bao nhiêu lần? Ba lính gác dùng dây thừng tụt xuống từ đỉnh vách đá nhất, Teddy lánh khỏi miệng hang, quan sát họ leo xuống tới dải bờ biển hẹp dưới chân vực. Vài phút sau họ leo trở lên và Teddy nghe thấy trong số họ , “ ta có ở dưới này thưa sếp.” nghe thấy họ lùng sục thêm lúc ở phía , gần mũi đất và con đường mòn dẫn về bệnh viện, rồi họ bỏ khi tìm thấy gì. Teddy đợi thêm tiếng đồng hồ nữa rồi mới rời khỏi hang sau khi chắc chắn còn nghe thấy xe ô tô chạy và cho nhóm tìm kiếm đủ thời gian lục soát chán chê để khỏi chạm trán ai trong số họ. Khi ra tới được con đường mòn chín giờ hai mươi. theo con đường về phía Tây, cố nhanh nhưng tai vẫn dỏng lên nghe ngóng đề phòng có ai đó di chuyển ở phía trước hay đằng sau lưng mình. Trey dự báo thời tiết chính xác. Trời nóng như điên, Teddy cởi áo vest vắt lên tay. cũng nới lỏng nút cà vạt rồi lôi nó qua đầu và cất vào trong túi. Miệng khô như ngói còn mắt ngứa ngáy vì mồ hôi túa ra. vừa thấy Chuck trong giấc mơ của mình, mặc áo khoác và hình ảnh đó còn khiến cảm thấy nhức nhối hơn cả cái cảnh Laeddis nô giỡn với Dolores. Trước khi Rachel và Laeddis xuất tất cả những người trong giấc mơ đó đều là người chết. Trừ Chuck. Nhưng cậu ta lấy áo khoác từ cùng cái móc áo và theo họ ra cửa. Teddy ghét cái tính biểu tượng của hình ảnh đó. Nếu họ túm được Chuck ở mỏm đất, họ hẳn phải lôi ta chỗ khác trong khi Teddy băng qua đồng cỏ để trở về. Và cho dù cái kẻ rình rập Chuck là ai nữa hẳn phải là tay xuất sắc vì Chuck kịp kêu lên lấy tiếng. Phải quyền lực tới đâu để có thể làm biến mất chỉ mà những hai đặc vụ Mỹ? Quyền lực tối cao. Và nếu như kế hoạch của bọn họ là biến Teddy thành kẻ điên kế hoạch dành cho Chuck hẳn phải khác . Vì ai tin việc hai đặc vụ cùng bị mất trí lúc trong vòng bốn ngày. Nên kế hoạch dành cho Chuck hẳn gắn liền với tai nạn. Trong cơn bão dữ chẳng hạn. thực tế, nếu như họ thông minh - và có vẻ như thế - có lẽ cái chết của Chuck được sử dụng như cái cớ để lý giải việc Teddy bị đẩy quá giới hạn của mình đến phát điên. thể chối cãi được rằng đây là giả thuyết vô cùng hợp lý. Nhưng nếu Teddy ra khỏi đây được văn phòng liên bang cũng bao giờ chấp nhận câu chuyện đó cho dù nó có hợp lý thế nào chăng nữa mà gửi các đặc vụ khác tới để điều tra. Và họ tìm thấy cái gì? Teddy nhìn xuống cổ tay và ngón tay của run lên. Ngày càng trầm trọng. Đầu óc hề chút nào sau giấc ngủ đêm. cảm giác u mê, lưỡi như tắc lại trong cổ họng. Tới lúc văn phòng liên bang gửi nhân viên tới đây hẳn thuốc phát huy tác dụng, họ thấy Teddy mặc áo ngủ, mũi dãi lòng thòng, ị đái bừa bãi ngay chỗ ngồi. Và thế là phiên bản của bệnh viện Ashecliffe được hợp thức hóa. nghe thấy tiềng còi ủ từ bến phà và trèo lên con dốc đúng lúc con phà quay đầu xong, tiến giật lùi về phía cầu cảng. rảo bước và chỉ mười phút sau có thể nhìn thấy nó xuyên qua rừng cây phía sau ngôi nhà kiến trúc kiểu Tudor của Cawley. bỏ đường chính rẽ vào rừng và nghe tiếng mọi người lục tục dỡ hàng, tiếng những chiếc thùng các tông bị ném phịch lên cầu cảng, tiếng xe kéo hai bánh bằng sắt kêu leng keng, tiếng chân người bước rầm rập những ván cầu bằng gỗ. bước tới gần rặng cây cuối cùng và nhìn thấy mấy người hộ lý cầu cảng, hai người lái phà ngồi dựa lưng vào đuôi phà, và rất nhiều lính gác, súng đeo bên hông, người quay về phía khu rừng, mắt sục sạo đám cây cối và những khoảnh đất phía trước bệnh viện Ashecliffe. Khi những người hộ lý dỡ hàng xong và kéo xe đám lính gác vẫn đứng tại chỗ. Teddy hiểu rằng công việc duy nhất của họ trong buổi sáng hôm nay là ngăn cản lên chuyến phà đó bằng mọi cách. rón rén quay trở lại, xuyên qua khu rừng về phía nhà Cawley. nghe thấy tiếng người ở lầu và nhìn thấy hộ lý ở mái nhà chỗ bị thủng, lưng xoay về phía Teddy. tìm thấy chiếc xe ô tô trong chỗ đỗ xe ở phía Tây ngôi nhà. chiếc Buick Roadmaster 47. Màu nâu sẫm, nội thất da màu trắng. Vừa được lau chùi và đánh bóng sau cơn bão. chiếc xe mà chủ nhân nó rất quý. mở cửa xe chỗ tài xế ngồi và ngửi thấy mùi da còn gây gây, như thể mới được đưa vào sử dụng ngày hôm qua. mở hộp để găng và tìm thấy mấy bao diêm, bèn lấy hết . lôi chiếc cà vạt ra khỏi túi, tìm thấy hòn đá mặt đất và buộc nó lại bằng cái đuôi cà vạt. nhấc biển số xe ra, mở nắp xăng, ròng chiếc cà vạt và viên đá vào trong cho tới khi chỉ còn mẩu cà vạt hoa lủng lẳng phía bên ngoài. Teddy nhớ Dolores tặng chiếc cà vạt này, vắt nó ngang qua mắt khi ngồi trong lòng . “ xin lỗi, em ,” thầm. “ chiếc cà vạt này vì em tặng cho . Nhưng , nó là chiếc cà vạt xấu khủng khiếp.” Và ngẩng mặt lên trời mỉm cười xin lỗi rồi dùng que diêm châm vào bao diêm và dùng cả bao diêm để đốt chiếc cà vạt. Rồi vắt chân lên cổ chạy. chạy được tới giữa khu rừng chiếc xe nổ tung. nghe có tiếng người la hét liền quay lại nhìn thấy khói bốc lên từng cuộn, rồi tiếp theo là loạt vụ nổ , giống như pháo hoa, kính từ các cửa sổ vỡ tung tóe. Khi tới bìa rừng, cuộn chiếc áo vest lại và giấu nó dưới mấy viên đá. nhìn thấy những người lính gác và hai người lái phà chạy về phía nhà của Cawley, biết nếu muốn lên được chuyến phà đó phải hành động tức , nghĩ ngợi gì cả, và như thế cũng tốt vì nếu cứ suy tính quá nhiều thường cuối cùng chẳng làm gì cả. ra khỏi khu rừng, chạy dọc theo bờ biển, ngay trước khi tới được cầu cảng và có nguy cơ lộ diện nếu ai đó xuất , bèn ngoặt sang trái và lao xuống nước. Chúa ơi, nước biển lạnh như đá. Teddy cứ hy vọng nhiệt độ ban ngày làm nó ấm lên chút thế mà cái lạnh xuyên khắp người như điện giật và đẩy bật khí ra khỏi ngực . Nhưng Teddy tiếp tục lao người về phía trước, cố nghĩ tới những thứ ở trong nước cùng - lươn, sứa, cua và có thể là cả cá mập nữa. Nghe có vẻ nực cười nhưng Teddy biết cá mập thường tấn công con người ở độ sâu chừng mét như độ sâu của lúc này đây. Nước mấp mé bên sườn rồi dâng cao dần và nghe thấy những tiếng la hét từ phía ngôi nhà của Cawley, bất chấp trái tim phản đối dữ dội trong lồng ngực, chìm đầu xuống nước. nhìn thấy đứa bé trong giấc mơ của , trôi nổi ngay phía dưới, mắt con bé mở to vô vọng. lắc đầu và con bé biến mất. Rồi nhìn thấy thân phà ở phía trước mặt, thanh kim loại dày màu đen dập dờn trong sóng nước màu xanh lục, bơi lại gần, bám vào đó. di chuyển về phía mũi phà để vòng sang mạn phà phía bên kia, nơi từ từ nhô đầu khỏi mặt nước. cảm thấy ánh mặt trời mơn man mặt khi thở ra rồi hít lấy hít để oxy vào trong phổi, cố nghĩ đến hình ảnh hai chân của vẫn lơ lửng dưới nước, những sinh vật biển bơi ngang qua, dừng lại quan sát, hiểu là vật gì bèn tiến lại gần để đánh hơi... Chiếc thang vẫn ở đúng chỗ cũ, ngay trước mặt và bám tay lên nấc thang thứ ba. có thể nghe thấy tiếng chân người quay trở lại phía cầu cảng, chạy rầm rập những mảnh ván gỗ. Và rồi nghe tiếng của giám đốc trại giam: “Lục soát con phà đó.” “Sếp, chúng tôi mới chỉ vừa khỏi có...” “Các tự động rời bỏ vị trí của mình, giờ các lại còn muốn tranh cãi nữa sao?” “ thưa ngài. Xin lỗi ngài.” Chiếc cầu thang dập dềnh khi đám lính gác tràn lên phà và Teddy có thể nghe thấy tiếng họ lại đó, mở tung các cánh cửa và di chuyển đồ đạc. Có cái gì đó trườn qua háng giống như bàn tay, nghiến chặt răng, tay bám chắc vào nấc thang và cố giữ cho đầu óc trống rỗng vì muốn tưởng tượng ra đó là vật gì. Nhưng may mắn là nó tiếp tục chuyển động ra khỏi chân và Teddy khẽ thở phào. “Xe ô tô của tôi. ta cho cả cái xe nổ tung,” Cawley giọng rời rạc như sắp hụt hơi. “Chuyện này đủ xa rồi đấy bác sĩ,” viên giám đốc trại giam . “Chúng ta nhất trí rằng tôi là người đưa ra quyết định.” “Nếu gã đó trốn khỏi hòn đảo...” “ ta rời khỏi cái hòn đảo này.” “Tôi chắc là ông cũng nghĩ ta biến cục cưng của ông thành đám cháy đúng ? Chúng ta phải chấm dứt vụ này ngay thôi để cắt giảm thiệt hại.” “Tôi mất quá nhiều công sức để có thể bỏ ngang như thế!” Viên giám đốc trại giam lên giọng, “Nếu gã đó trốn khỏi hòn đảo chúng ta đời.” Cawley đáp cũng gay gắt kém, “ ta rời khỏi cái hòn đảo chết tiệt này!” Thế rồi ai gì trong lát. Teddy có thể nghe thấy tiếng chân họ di chuyển cầu cảng. “Thôi được, bác sĩ. Nhưng con phà này ở lại đây. Nó đâu cả cho đến khi gã đó được tìm thấy.” Teddy vẫn cố bám trụ, cái lạnh bắt đầu liếm vào chân khiến chúng tê buốt và nhức nhối. “Ở Boston người ta thắc mắc về chuyện này,” Cawley . “Rồi có câu trả lời cho họ. Nhưng con phà ở lại đây.” Có cái gì đó thúc vào bắp chân trái của Teddy. “Thôi được, giám đốc.” Vật gì đó lại thúc vào chân lần nữa, Teddy đạp mạnh chân ra đằng sau khiến nước kêu ùng ục nghe như tiếng súng. Tiếng bước chân dồn về phía đuôi phà. “ ta có ở đây, sếp. Chúng tôi kiểm tra khắp nơi.” “Thế đâu mới được?” Viên giám đốc trại giam . “Có ai có ý kiến gì ?” “Tệ !” “Gì vậy, bác sĩ?” “Chắc ta về phía ngọn hải đăng.” “Tôi cũng có nghĩ tới khả năng đó.” “Tôi lo liệu chuyện này.” “Hãy mang theo số người.” “Tôi là tôi lo liệu. Chúng tôi có người ở đó.” “ đủ.” “Tôi lo liệu được, tôi bảo thế mà.” Teddy nghe thấy tiếng giày của Cawley về phía cầu phà rồi dần khi tiếng ông ta giẫm lên cát. “Hải đăng hay hải đăng,” viên giám đốc trại giam với người của ông ta, “ con phà này cũng đâu cả. Hãy bảo lái phà đưa chìa khóa động cơ và mang lại đây cho tôi.” BƠI ĐƯỢC PHẦN LỚN đoạn đường. rời khỏi chiếc phà, bơi về phía bờ cho tới khi có thể chống tay xuống cát và bò dọc theo bãi biển. Khi cách con phà khá xa, mạo hiểm nhô đầu lên khỏi mặt nước và nhìn lại phía sau. cách họ vài trăm mét, đám lính gác lúc này đứng thành vành đai xung quanh cầu cảng. lại chui đầu xuống dưới nước và tiếp tục bò, dám mạo hiểm bơi sải hay thậm chí là bơi chó vì sợ gây ra tiếng động. Bò thêm đoạn nữa tới khúc quành. vòng theo nó rồi leo lên bờ, ngồi sưởi ấm dưới ánh mặt trời, người run lên vì lạnh. tiếp tục men theo bờ biển cho tới khi đụng phải vỉa đá nhô ra ngoài khiến lại phải xuống nước và bơi vòng qua nó. buộc hai chiếc giày lại với nhau, đeo quanh cổ rồi vừa bơi qua vỉa đá vừa mường tượng đến những nắm xương của cha nằm đâu đó dưới thềm của chính đại dương này, mường tượng đến những con cá mập có vây lớn, đuôi quật vun vút mặt nước, và cả những con cá nhồng với hàm răng trắng nhởn. Nhưng biết là vượt qua chuyện này vì bắt buộc phải thế, nước lạnh khiến cả người tê tái nhưng có lựa chọn nào khác là phải hành động, và còn phải làm thế nhiều lần trong những ngày tới, cho đến khi chiếc tàu Betsy Ross thả neo xuống mũi phía Nam hòn đảo. Và cũng biết cách duy nhất để chinh phục nỗi sợ hãi là đối diện với nó, học được điều ấy trong chiến tranh, nhưng kể cả như thế, nếu được chọn bao giờ, bao giờ ra biển nữa. có thể cảm thấy nó quan sát , chạm vào . có thể cảm thấy tuổi tác của nó, già cỗi hơn cả các vị thần và cũng hãnh diện hơn với số thi thể nạn nhân trong lòng nó. nhìn thấy ngọn hải đăng vào khoảng giờ trưa. cũng thể chắc chắn vì đồng hồ đeo tay của nằm trong túi áo vest nhưng mặt trời gần như đứng bóng. leo lên bờ, ngay dưới dốc đá tại chân ngọn hải đăng. nằm dựa vào tảng đá và phơi mình dưới ánh mặt trời cho tới khi người còn run nữa và da bớt tím tái. Nếu Chuck ở ngọn hải đăng dù tình trạng của cậu ấy có ra sao nữa cũng mang cậu ấy ra khỏi chỗ này. Sống hay chết, cũng để cậu ấy lại phía sau. Thế chết mất. Đó là giọng của Dolores và biết là đúng. Nếu phải đợi hai ngày cho tới khi tàu Betsy Ross xuất , và Chuck tỉnh táo lành lặn họ thể thành công. Họ bị rượt đuổi và tóm gọn... Teddy mỉm cười... như những con chó-hai-chân. thể để cậu ấy lại đây, với Dolores. thể làm vậy. Nếu tìm thấy cậu ấy lẽ. Nhưng cậu ấy là đồng của . mới chỉ gặp ta thôi mà. Vẫn là đồng của . Và nếu cậu ấy ở kia, nếu họ làm hại cậu ấy, giam giữ cậu ấy trái với ý nguyện của cậu phải mang cậu ấy ra khỏi đó. Ngay cả nếu như phải chết? Ngay cả nếu như phải chết. Vậy em hy vọng ta có ở đó. trèo xuống khỏi vách đá, theo con đường mòn bằng cát và vỏ sò uốn lượn giữa đám tảo biển, chợt nghĩ rằng nhận xét của Cawley về việc là người có thiên hướng tự sát ra hoàn toàn chính xác. Nó còn hơn cả mong muốn được chết. Đúng là trong nhiều năm, thể tìm ra lý do tốt đẹp nào để tiếp tục sống. Nhưng cũng tìm ra lý do tốt đẹp nào để chết. Bằng chính tay mình? Thậm chí trong những đêm sầu não nhất của đời mình, đó dường như cũng là lựa chọn thảm hại. Đáng hổ thẹn. Yếu đuối. Nhưng giờ... người lính gác bỗng từ đâu xuất lù lù trước mặt , sửng sốt kém gì trước diện của đối phương, khóa quần của ta vẫn mở, khẩu súng trường khoác lưng. ta định thò tay kéo khóa quần trước rồi lại thay đổi ý định nhưng Teddy kịp thúc cùi tay vào yết hầu của ta. ta ôm lấy cổ họng và Teddy cong người giơ chân đạp vào phía sau người lính gác khiến ta mất thăng bằng ngã xuống. Teddy đứng thẳng dậy bồi cho ta cú đá mạnh nữa vào tai khiến hai mắt ta trợn ngược lên, miệng há hốc. Teddy cúi xuống tụt quai súng từ vai và lôi khẩu súng ra khỏi người ta. nghe thấy ta vẫn thở. Như vậy là giết ta. Và giờ có khẩu súng. DÙNG NÓ để đe dọa người lính gác thứ hai, đứng trước hàng rào bảo vệ. tước vũ khí của cậu ta, chàng thanh niên, cậu bé đúng hơn và cậu ta , “ giết tôi chứ?” “Chúa ơi, , nhóc,” Teddy và nện báng súng vào thái dương cậu ta. BÊN TRONG HÀNG RÀO có ngôi nhà , Teddy kiểm tra nó trước tiên, chỉ thấy mấy chiếc giường đơn, vài quyển tạp chí tươi mát, bình cà phê cũ, vài bộ đồng phục lính gác treo chiếc mắc áo sau cánh cửa. trở ra bên ngoài và về phía ngọn hải đăng, dùng súng mở cửa và tìm thấy gì ở tầng trệt ngoài căn phòng bằng xi măng thô, trống trơn, tường đá mốc meo, và cầu thang hình xoắn ốc cũng bằng đá. leo lên cầu thang tới phòng thứ hai, cũng trống trơn như tầng dưới nhưng biết hẳn phải có tầng hầm ở đâu đó, rất rộng, nối liền với phần còn lại của khu bệnh viện bởi những hành lang bí vì cho tới lúc này chưa tìm thấy gì cả ngoại trừ, tất nhiên, ngọn hải đăng. nghe thấy thanh như tiếng cạo giấy ở phía , quay lại chỗ cầu thang, leo lên tầng nữa và thấy mình đứng trước cánh cửa sắt nặng nề, tì mũi súng vào đó và thấy nó khẽ nhúc nhích. lại nghe thấy tiếng cạo giấy lần nữa và có thể ngửi thấy mùi khói thuốc, nghe thấy tiếng đại dương vỗ ộp oạp và tiếng gió, và biết nếu viên giám đốc trại giam đủ thông minh để bố trí lính gác phía sau cánh cửa này Teddy hẳn toi mạng ngay khi đẩy nó ra. Chạy , cưng.
thể. Tại sao ? Bởi vì tất cả đều dẫn tới kết cục này. Cái gì cơ? Tất cả mọi chuyện. Tất cả. Em thấy bằng cách nào mà... Em. . Laeddis. Chuck. Noyce, chàng đáng thương ấy. Tất cả đều dẫn tới kết cục này. Hoặc là nó dừng lại ngay tại đây. Hoặc là dừng nó lại. Là đôi bàn tay của ta. Đôi bàn tay của Chuck. thấy gì sao? . Cái gì cơ? Bàn tay của ta ấy, Teddy. Chúng phù hợp với ta. Teddy hiểu ý gì. cũng biết có cái gì đó rất quan trọng về đôi bàn tay của Chuck nhưng nó quan trọng tới mức khiến phải lãng phí thời gian để nghĩ đến lúc này. phải qua cánh cửa này, em . Được rồi. Hãy cẩn thận nhé. Teddy nấp sang phía bên trái cánh cửa. tì báng súng vào sườn trái và đặt tay phải lên sàn nhà để giữ thăng bằng rồi giơ chân trái đạp mạnh vào cánh cửa. Cánh cửa mở tung, lao tới, quỳ xuống, súng đặt vai, nòng súng chĩa vào trong. Vào Cawley. ngồi sau chiếc bàn, trước ô cửa sổ , hình vuông, đại dương trải dài xanh ngắt với những con sóng bạc đầu sau lưng ông ta. Mùi của biển cả lấp đầy căn phòng, gió vờn tóc ông ta. Cawley có vẻ gì là sửng sốt. Hay sợ hãi. Ông ta gõ gõ điếu thuốc vào chiếc gạt tàn ở trước mặt và với Teddy: “Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?” CÁC BỨC TƯỜNG SAU LƯNG Cawley được phủ kín bằng những tấm ga giường màu hồng, các góc được dán lại bằng những dải băng dính nhăn nheo. chiếc bàn trước mặt ông ta ngổn ngang những chồng tài liệu, chiếc máy bộ đàm quân , giấy nhập viện của Laeddis, quyển sổ ghi chép và chiếc áo vest của Teddy. chiếc máy thu băng được đặt chễm chệ ở góc phòng chiếc ghế, băng vẫn chạy. đầu máy thu có chiếc micro chĩa xuống. Ngay trước mặt Cawley là quyển sổ ghi chép bìa da màu đen. Ông ta hí hoáy ghi chép gì đó vào trong sổ và , “Ngồi xuống .” “Ông bảo gì cơ?” “Tôi bảo ngồi xuống.” “Trước đó cơ?” “ biết tôi gì mà.” Teddy hạ khẩu súng trường xuống khỏi vai nhưng vẫn chĩa mũi súng về phía Cawley và bước vào trong phòng. Cawley quay lại với việc ghi chép của ông ta. “Súng có đạn đâu.” “Gì cơ?” “Khẩu súng trường của ấy. Chẳng có viên đạn nào. Với tất cả những kinh nghiệm của về súng đạn sao lại có thể phát ra điều đó chứ?” Teddy kéo khóa nòng và kiểm tra hộp đạn. Nó rỗng . Để cho chắc nhằm vào bức tường phía bên tay trái của và nổ súng nhưng có gì xảy ra ngoài tiếng cò súng kêu lách cách. “Hãy đặt nó vào góc phòng,” Cawley . Teddy đặt khẩu súng xuống đất, kéo chiếc ghế ra khỏi bàn nhưng chưa ngồi xuống ngay. “Sau những tấm ga kia là cái gì?” “Chúng ta bàn tới chúng sau. Ngồi xuống. Xả hơi . Này, cầm lấy.” Cawley thò tay xuống sàn nhấc lên chiếc khăn bông dày và ném qua bàn về phía Teddy. “Lau khô người . bị cảm mất.” Teddy lau khô đầu trước rồi tụt chiếc áo sơ mi ra khỏi người. cuộn nó lại và ném vào góc phòng rồi lau người. Lau xong với tay lấy chiếc áo vest bàn. “Ông ngại chứ?” Cawley ngẩng lên. “, . Cứ tự nhiên.” Teddy khoác chiếc áo vest lên người rồi ngồi xuống ghế. Cawley viết thêm lúc, chiếc bút chì kêu loẹt xoẹt giấy. “ có làm lính gác bị thương nặng ?” “ đến nỗi,” Teddy . Cawley gật đầu, bỏ bút chì xuống quyển sổ, cầm lấy máy bộ đàm và bắt đầu quay máy. Rồi ông ta nhấc chiếc ống nghe lên, ấn nút đàm thoại và , “Đúng, ta ở đây. Hãy để bác sĩ Sheehan ngó qua người của trước khi lên đây.” Ông ta đặt ống nghe xuống. “À, vị bác sĩ Sheehan bí ,” Teddy . Cawley nhướng mày. “Để tôi đoán xem - ta vừa tới chuyến phà sáng nay.” Cawley lắc đầu. “ ấy vẫn ở đảo suốt thời gian qua.” “Và trốn tránh tất cả mọi người,” Teddy . Cawley khẽ nhún vai, hai tay chìa ra trước. “ ấy là nhà tâm thần học xuất sắc. Trẻ tuổi nhưng đầy hứa hẹn. Đây chính là kế hoạch của tôi và ấy.” Teddy cảm thấy có cái gì đó đập thình thịch trong cổ ngay phía dưới tai trái. “Kết quả ra sao rồi?” Cawley nhấc trang giấy trong cuốn sổ ghi chép của ông ta lên để đọc trang phía dưới rồi thả tay ra. “ được tốt lắm. Tôi kỳ vọng nhiều hơn vào nó.” Ông ta nhìn Teddy qua chiếc bàn làm việc và Teddy có thể thấy nét mặt ông ta cái biểu mà bắt gặp ở chỗ cầu thang hôm nọ và trong buổi họp nhân trước cơn bão, biểu phù hợp với chân dung của con người này, hòn đảo này, ngọn hải đăng này, và trò chơi kinh hoàng mà họ tham dự. Lòng trắc . Nếu Teddy phải là người từng trải, hẳn tin là thế. Teddy nhìn chỗ khác, nhìn xung quanh phòng, lên những tấm ga giường tường. “Vậy nó là đây?” “Phải đấy,” Cawley đồng ý. “Đây là ngọn hải đăng. Chiếc Chén Thánh. vĩ đại mà tìm kiếm. Đây có phải là tất cả những gì mà hy vọng và hơn thế ?” “Tôi vẫn chưa nhìn thấy tầng hầm.” “Ở đây có tầng hầm. Đây là ngọn hải đăng.” Teddy nhìn quyển sổ tay của nằm bàn giữa hai người họ. “Quyển sổ ghi chép của , đúng vậy. Chúng tôi tìm thấy nó cùng với chiếc áo vest của ở trong rừng gần nhà tôi. cho nổ tung cả chiếc ô tô của tôi.” Teddy nhún vai. “Xin lỗi.” “Tôi rất thích chiếc xe đó.” “Tôi rất hiểu cảm giác đó.” “Tôi đứng trong phòng trưng bày xe hơi mùa xuân năm bốn mươi bảy và tôi còn nhớ khi nhìn thấy chiếc xe ấy tôi nghĩ gì, rồi, John, thế là số phận của chiếc xe này được định đoạt. phải nghĩ tới chuyện mua chiếc xe khác trong vòng ít nhất mười lăm năm nữa.” Ông ta thở dài. “Và tôi rất hài lòng.” Teddy giơ hai tay lên. “ lần nữa, tôi xin lỗi.” Cawley lắc đầu. “Chẳng lẽ nghĩ chúng tôi để lên chuyến phà đó sao? Cho dù có làm nổ tung cả hòn đảo để đánh lạc hướng nghĩ chuyện gì xảy ra?” Teddy nhún vai. “ chỉ có mình,” Cawley , “mà việc duy nhất của tất cả mọi người sáng nay là ngăn cản leo lên con phà đó. Nên tôi hiểu được tại sao lại tính toán như thế?” “Đó là cách duy nhất để khỏi đây nên tôi cứ phải thử thôi,” Teddy . Cawley nhìn vẻ bối rối và lẩm bẩm, “Chúa ơi, tôi rất thích cái xe đó,” và nhìn xuống vạt áo. “Ông có nước ?” Teddy hỏi. Cawley có vẻ cân nhắc cầu của nên phải mất lúc ông ta mới xoay chiếc ghế để lộ ra bình đựng nước và hai chiếc ly đặt khung cửa sổ phía sau lưng. Ông ta rót nước rồi đưa cho Teddy ly. Teddy hơi uống cạn ly nước. “Khô miệng hả?” Cawley . “Từ trong lưỡi như có cơn ngứa mà thể nào gãi hết được dù uống bao nhiêu nước chăng nữa?” Ông ta đẩy bình nước ngang qua bàn về phía Teddy và nhìn rót thêm ly nữa. “Tay bắt đầu run lên từng chập. Càng lúc càng tồi tệ. Đầu thế nào rồi?” Khi ông ta về những triệu chứng đó, Teddy cảm thấy cơn đau nóng rẫy xuyên suốt từ phía sau mắt trái của sang thái dương rồi lên phía tới đỉnh sọ và xuống phía dưới tới quai hàm. “Cũng tệ lắm,” . “Rồi nó trở nên tệ hơn đấy.” Teddy lại uống thêm nước. “Tôi biết. Nữ bác sĩ đó cũng bảo tôi thế.” Cawley xoay người lại, mỉm cười, và gõ gõ chiếc bút chì lên quyển sổ tay của mình. “Lại ai nữa đây?” “Tôi hỏi được tên của ta. Nhưng ta từng làm việc với ông.” “Ồ. Thế ta gì?” “ ta các loại thuốc an thần kích hoạt trong máu và phát huy tác dụng sau bốn ngày. ta cũng dự đoán các triệu chứng như khô miệng, đau đầu và run rẩy.” “ phụ nữ thông minh.” “Đúng thế.” “Nhưng phải do thuốc an thần đâu.” “?” “.” “Thế là do cái gì?” “Ngừng dùng thuốc,” Cawley . “Ngừng dùng cái gì cơ?” Cawley lại mỉm cười, ánh mắt ông ta trở nên xa xăm. Rồi ông ta mở quyển sổ tay của Teddy lật tới trang cuối cùng có chữ viết và đẩy nó về phía . “Đây là chữ viết tay của , đúng ?” Teddy liếc qua rồi , “Đúng.” “Đây là mật mã cuối cùng?” “Đúng vậy.” “Sao giải nó?” “Tôi có thời gian. Mọi chuyện bỗng trở nên bấn loạn, xin nhắc lại thế nếu ông quên.” “Đúng vậy, đúng vậy.” Cawley gõ gõ lên trang giấy. “ muốn giải nó bây giờ ?” Teddy nhìn xuống chín con số và chữ cái: 13(M)-21(U)-25(Y)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I) cảm thấy cơn đau bỏng rát thọc vào sâu mắt trái. “Tôi cảm thấy đủ minh mẫn lúc này.” “Nhưng mật mã này đơn giản mà,” Cawley . “Chỉ có chín chữ cái thôi.” “Hãy để cho đầu tôi nghỉ tí được ?” “Được thôi.” “Mà ngừng dùng cái gì cơ?” Teddy . “Ông cho tôi uống thuốc gì vậy?” Cawley bẻ các khớp tay rồi ngả lưng vào ghế ngáp cái to. “Chlorpromazine. Nó có các tác dụng phụ. Khá nhiều. Tôi e là thế. Tôi cũng thích loại thuốc này lắm. Trước khi xảy ra loạt những kiện như vừa rồi, tôi vẫn hy vọng bắt đầu điều trị bằng imipramine nhưng giờ chắc được nữa rồi.” Ông ta nhoài người ra phía trước. “Thường tôi cũng phải là người ủng hộ các phương pháp dược lý, nhưng trong trường hợp của tôi thấy đúng là cần thiết.” “Imipramine là gì?” “Nó còn có tên gọi khác là Tofranil.” Teddy mỉm cười. “Thế còn chlorpro... ” “... mazine,” Cawley gật gù. “Chlorpromazine. Đó là loại thuốc gây ra các triệu chứng do ngừng uống thuốc trong suốt mấy ngày vừa rồi. Loại thuốc mà chúng tôi đưa cho dùng suốt hai năm qua.” “Hai gì cơ?” “Hai năm.” Teddy cười. “Nghe này, tôi biết là các ông rất có thế lực. Nhưng cũng cần phải phóng đại thế chứ.” “Tôi phóng đại chút nào.” “Các ông đánh thuốc tôi suốt hai năm qua?” “Tôi thích dùng thuật ngữ ‘điều trị’ hơn.” “Và, sao nhỉ, các ông có người làm việc tại văn phòng tầm nã liên bang. Nhiệm vụ của ta là pha thuốc vào đồ uống của tôi mỗi buổi sáng? À , đợi , ta làm việc ở chỗ quầy báo nơi tôi thường hay mua cà phê đường làm. Như thế nghe hợp lý hơn. Và như vậy, trong suốt hai năm, các ông có người ở Boston chuyên bỏ thuốc vào cà phê của tôi.” “ phải ở Boston,” Cawley khẽ khàng . “Mà là ở đây.” “Ở đây?” Ông ta gật đầu. “ ở đây suốt hai năm qua. bệnh nhân của bệnh viện này.” Teddy có thể nghe thấy tiếng thủy triều lên, giận dữ xô vào vách đá. nắm chặt hai tay lại để kiềm chế những cơn run rẩy và cố phớt lờ cơn đau phập phồng trong mắt trái càng lúc càng trở nên nóng rẫy và quyết liệt. “Tôi là đặc vụ Mỹ,” Teddy . “Từng là đặc vụ Mỹ,” Cawley đáp. “ là,” Teddy . “Tôi là đặc vụ liên bang làm việc cho chính phủ Mỹ. Tôi rời khỏi Boston sáng ngày thứ Hai, ngày hai mươi hai, tháng Chín, năm 1954.” “Vậy sao?” Cawley . “Hãy cho tôi biết tới con phà bằng cách nào? Tự lái xe? Thế đỗ xe ở đâu?” “Tôi tàu điện ngầm.” “Tàu điện ngầm có tuyến ra tận đó.” “Sau đó tôi đổi sang xe buýt.” “Thế sao tự lái xe?” “Xe nằm trong gara.” “Thế còn ngày Chủ nhật trước đó. có nhớ gì về ngày Chủ nhật trước đó . có thể kể cho tôi làm gì ? có thể thành mà kể cho tôi về cái ngày trước khi thức dậy trong buồng tắm của con phà?” Teddy có thể, hoàn toàn có thể kể lại cho ông ta nghe mọi chuyện nhưng cái cơn đau đầu chết tiệt khoan sâu vào mắt và ống xoang của . Thôi được. Nào nhớ lại. Kể cho ông ta nghe làm gì ngày Chủ nhật. Trở về nhà từ chỗ làm. về căn hộ của ở Buttonwood. , , phải Buttonwood. Căn hộ ở Buttonwood bị cháy thành tro khi Laeddis phóng hỏa. , phải. Thế sống ở đâu mới được chứ? Mẹ kiếp. có thể hình dung ra cái chỗ đó. Đúng thế, đúng thế. Cái chỗ... cái chỗ... ở Castlemont. Đúng vậy. đại lộ Castlemont. Ở gần hồ. Được rồi, được rồi. Hãy thong thả. quay trở về nhà đại lộ Castlemont, ăn tối và uống chút sữa rồi ngủ. Đúng nhỉ? Đúng thế. Cawley , “Thế còn cái này sao? có lúc nào ngó qua nó chưa?” Ông ta đẩy tờ giấy nhập viện của Laeddis ra trước mặt . “Chưa.” “Chưa hả?” Ông ta rồi huýt sáo. “ tới đây vì nó. Nếu có được mảnh giấy này để đưa cho Thượng nghị sĩ Hurly - bằng chứng về bệnh nhân thứ sáu mươi bảy mà chúng tôi vẫn tuyên bố là hề có - có thể lật tẩy bộ mặt của bệnh viện này.” “Đúng thế.” “Đúng quá còn gì. Thế mà suốt hai mươi tư tiếng vừa rồi kịp liếc qua lấy cái?” “Lại nữa, mọi chuyện bỗng trở nên...” “Bấn loạn, đúng vậy, tôi hiểu. Vậy bây giờ hãy đọc nó .” Teddy liếc xuống tờ giấy, nhìn thấy các thông tin ràng về ngày, tháng, tên tuổi nhập viện của Laeddis. Ở mục nhận xét có viết: Bệnh nhân rất thông minh và mắc chứng hoang tưởng cực độ. Có tiền sử khuynh hướng bạo lực. Rất dễ bị kích động. hề ăn năn hối hận về tội ác của mình do thừa nhận rằng nó xảy ra. Bệnh nhân dựng lên loạt câu chuyện hư cấu có tính hệ thống và điều đó ngăn cản ta đối diện với về những hành động của mình. Chữ ký phía bên dưới là của bác sĩ L. Sheehan. “Nghe có vẻ đúng,” Teddy . “Có vẻ đúng?” Teddy gật đầu. “Ám chỉ ai?” “Laeddis.” Cawley đứng dậy. Ông ta tới gần bức tường và kéo tấm ga xuống. Bốn tên người được viết hoa cỡ chữ dài mười lăm centimet: EDWARD DANIELS - ANDREW LAEDDIS RACHEL SOLANDO - DOLORES CHANAL Teddy chờ Cawley giải thích tiếp trong khi Cawley dường như lại đợi phản ứng của Teddy nên cả hai người cùng gì trong lát. Cuối cùng Teddy lên tiếng, “Tôi đoán là ông có giả thiết về chuyện này.” “Hãy nhìn vào những cái tên đó.” “Tôi nhìn đấy thôi.” “Tên của , tên của bệnh nhân thứ sáu mươi bảy, tên của bệnh nhân mất tích và tên của vợ .” “Cái đó rồi, tôi có bị mù đâu.” “Đó chính là cái gọi là luật của bốn của đấy,” Cawley . “Thế là thế nào?” Teddy lấy tay chà mạnh lên thái dương, cố làm giảm cơn đau nhức nhối. “ là thiên tài về mật mã cơ mà. thử xem.” “ gì cơ?” “Hai cái tên Edward Daniels và Andrew Laeddis có điểm gì chung?” Teddy nhìn vào tên của và Laeddis lúc. “Chúng đều có mười ba chữ cái.” “Đúng thế,” Cawley . “Đúng là như thế, còn gì nữa?” Teddy nhìn chằm chằm và chằm chằm rồi , “ còn gì nữa.” “Nào, cố lên.” Cawley cởi chiếc áo blu mặc trong phòng thí nghiệm ra và vắt lên thành ghế. Teddy cố gắng tập trung tư tưởng nhưng bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với trò chơi dền dứ này. “ cứ từ từ mà đoán.” Teddy tiếp tục nhìn cho tới khi các chữ cái bắt đầu trở nên xiên xẹo trong mắt . “Có thấy gì ?” Cawley hỏi. “. Tôi chẳng thấy gì cả. Chỉ giống mỗi chỗ đều có mười ba chữ cái thôi.” “Cố lên nào,” Cawley rồi trở bàn tay đập đập lên những dòng chữ đó. Teddy lắc đầu và cảm thấy buồn nôn. Các chữ cái bắt đầu nhảy nhót trước mắt . “Hãy tập trung vào.” “Tôi tập trung đấy thôi.” “Những cái tên này còn có gì giống nhau?” “Tôi ... Chúng đều có mười ba chữ cái. Mười ba.” “Còn gì nữa?” Teddy nhìn chòng chọc vào các dòng chữ cho tới khi chúng bắt đầu trở nên nhòe nhoẹt. “Chẳng thấy gì.” “Chẳng thấy gì ư?” “Chẳng thấy gì, ông muốn tôi gì đây? Tôi thể cho ông cái mà tôi biết. Tôi thể...” “Chúng có những chữ cái giống hệt nhau!” Cawley hét lên. Teddy chúi đầu về phía trước cố định hình lại các chữ cái chập chờn trước mắt. “Cái gì cơ?” “Chúng có những chữ cái giống hệt nhau.” “ thể.” “Những cái tên này chỉ hoán đổi vị trí các chữ cái mà thôi.” “ thể.” “ ư?” Cawley nhíu mày và di chuyển bàn tay giữa các dòng chữ. “Những cái tên này có cùng các chữ cái. Nhìn . Edward Daniels và Andrew Laeddis. Các chữ cái giống hệt nhau. vốn có năng khiếu về giải mã, thậm chí còn suýt trở thành người giải mã trong quân đội, đúng sao? Hãy cho tôi biết tại sao lại thể nhìn thấy hai cái tên này có cùng mười ba chữ cái giống hệt nhau chứ?” “ thể!” Teddy lấy cườm tay dụi mắt, để nhìn hơn hay để che ánh sáng lại chính cũng nữa. “ thể, nghĩa là chúng thể có cùng các chữ cái hay thể nghĩa là muốn thừa nhận ?” “Chúng thể có cùng các chữ cái.” “Chúng có cùng các chữ cái giống hệt nhau. Mở mắt ra và nhìn chúng mà xem.” Teddy mở mắt ra nhưng tiếp tục lắc đầu và những chữ cái bắt đầu rơi rụng lả tả trước mắt . Cawley lại đập đập bàn tay vào dòng chữ tiếp theo. “Thế thử cái này vậy, ‘Dolores Chanal và Rachel Solando.’ Cả hai cũng cùng có mười ba chữ cái. Và có muốn cho tôi biết chúng còn có điểm chung nào nữa hay ?” Teddy biết nhìn thấy gì nhưng cũng biết là chuyện này rất vô lý. “ thể? Lần này cũng thể đúng ?” “Nó thể nào...” “Nhưng mà đúng thế đấy. Lại cùng những chữ cái giống hệt nhau. Lại là hoán đổi vị trí của các chữ cái. tới đây để tìm hiểu đúng ? Đây chính là của , Andrew.” “Teddy chứ,” Teddy . Cawley nhìn , khuôn mặt ông ta lại lần nữa tràn ngập vẻ thấu cảm sâu sắc. “Tên là Andrew Laeddis. là bệnh nhân thứ sáu mươi bảy của bệnh viện Ashecliffe. ta chính là , Andrew,” Cawley . “ NHỐ NHĂNG!” Teddy hét lên, tiếng hét dội lại trong đầu . “Tên là Andrew Laeddis,” Cawley nhắc lại. “Hai mươi hai tháng trước, được đưa tới đây theo lệnh của tòa án.” Teddy vung hai tay phản đối. “Chuyện này dưới tầm ngay cả những kẻ như các ông.” “Hãy nhìn vào bằng chứng. Andrew, làm ơn. ...” “Đừng có gọi tôi như thế.” “... tới đây hai năm trước vì phạm tội ác khủng khiếp. tội ác mà xã hội thể tha thứ nhưng tôi có thể. Andrew, hãy nhìn tôi.” Teddy rời mắt khỏi bàn tay của Cawley, nhìn lên cánh tay, lên ngực rồi nhìn vào khuôn mặt của ông ta. Đôi mắt Cawley lúc này lại ánh lên cái vẻ trắc giả tạo, cái lòng tốt vay mượn. “Tên tôi là Edward Daniels.” “ phải.” Cawley lắc đầu với vẻ mệt mỏi của kẻ bại trận. “Tên là Andrew Laeddis. làm việc khủng khiếp và thể tha thứ cho mình, thể, dù với bất cứ lý do nào, nên phải đóng kịch. tạo ra câu chuyện có kết cấu hoàn chỉnh, dày đặc tình tiết, trong đó đóng vai người hùng, Andrew. tự thuyết phục bản thân mình rằng vẫn là đặc vụ Mỹ và có mặt ở đây là để điều tra. Và rằng bóc trần mưu, thế nên tất cả những gì chúng tôi ngược lại với ý đều biến thành những mưu đen tối trong vở kịch tưởng tượng của . Và có lẽ chúng tôi nên để mặc nó, để mặc sống trong thế giới tưởng tượng của . Tôi cũng muốn thế. Nếu như là người vô hại, tôi rất muốn được làm thế. Nhưng là kẻ bạo lực, rất bạo lực. Cộng thêm với việc được đào tạo chính quy trong quân ngũ và trong lực lượng hành pháp nên rất biết cách tàn bạo. là bệnh nhân nguy hiểm nhất của chúng tôi ở đây. Chúng tôi tài nào kiểm soát được . Nên mọi chuyện được quyết định, hãy nhìn vào tôi.” Teddy nhìn lên, thấy Cawley gần như nhoài người qua bàn, ánh mắt đầy vẻ van lơn. “Mọi chuyện được quyết định rằng nếu chúng tôi thể khiến tỉnh táo trở lại - ngay bây giờ, ngay lúc này đây - những biện pháp lâu dài được áp dụng, để đảm bảo rằng bao giờ có thể làm hại ai nữa. có hiểu tôi gì với ?” Trong giây, có lẽ còn chưa tới giây, phần mười giây đúng hơn, Teddy gần như tin vào những gì ông ta . Rồi mỉm cười. “Ông diễn vai tốt rất tuyệt, bác sĩ. Thế còn ai là người vào vai xấu - Sheehan à?” và ngoái nhìn ra phía cửa. “Sắp tới lượt ta rồi phải ?” “Hãy nhìn tôi,” Cawley . “Hãy nhìn thẳng vào mắt tôi.” Teddy làm theo. Mắt ông ta đỏ ngầu và đờ đẫn vì thiếu ngủ. Và còn nữa. Là cái gì vậy? Teddy giữ lấy ánh mắt của Cawley và cố đọc chúng. Rồi nó trở nên ràng - nếu như biết tỏng mưu đồ của ông ta - dám thề rằng ánh mắt của Cawley cho thấy ông ta rất đau khổ. “Nghe này,” Cawley . “Tôi là tất cả những gì có. Là tất cả những gì từng có. Tôi nghe câu chuyện tưởng tượng này của suốt hai năm qua. Tôi biết từng nguồn cơn, chi tiết, các mật mã, người đồng bị mất tích, cơn bão, người phụ nữ trong hang, những thí nghiệm ma quỷ ở ngọn hải đăng. Tôi biết những câu chuyện về Noyce và vị Thượng nghị sĩ tưởng tượng Hurly. Tôi biết luôn mơ về Dolores, về cái bụng bị thủng của ấy và người ấy lúc nào cũng sũng nước. Tôi cũng biết cả chi tiết về những khúc gỗ.” “Ông toàn vớ vẩn,” Teddy tiếp. “Thế làm sao tôi lại biết được những chuyện đó?” Teddy tiếp tục cuộc tranh luận với những ngón tay bắt đầu run rẩy: “Tôi ăn thức ăn của ông, uống cà phê của ông, hút thuốc lá của ông. Tôi lại còn uống ba viên ‘aspirin’ mà ông đưa cho tôi buổi sáng tôi mới tới đây. Rồi thêm ba viên khác nữa tối hôm nọ. Ông ngồi đấy lúc tôi thức dậy. Kể từ lúc đó tôi còn như trước nữa. Đó là lúc mọi chuyện bắt đầu. Đêm đó, khi tôi bị đau đầu ông cho tôi uống cái gì vậy?” Cawley dựa lưng ra phía sau. Mặt ông ta nhăn lại như thể ông ta vừa phải uống axit, mắt ông ta nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ. “Tôi còn thời gian nữa,” ông ta thầm. “Gì cơ?” “Thời gian,” ông ta khẽ. “Người ta cho tôi bốn ngày. Và tôi dùng sắp hết.” “Vậy hãy để tôi . Tôi trở lại Boston, viết đơn kiện lên văn phòng liên bang nhưng đừng lo - với tất cả những bạn bè có thế lực của mình, tôi chắc là ông sao.” “, Andrew, tôi gần như mất hết bạn bè. Tôi tham dự vào cuộc chiến tại đây suốt tám năm qua và cán cân nghiêng dần về phía bên kia. Tôi thua cuộc. mất vị trí của mình và các nguồn tài chính. Tôi hứa trước toàn thể ban giám đốc rằng tôi tiến hành thí nghiệm tâm lý có hai bằng các vai diễn, và điều đó giúp được . khiến trở lại bình thường. Nhưng nếu tôi sai?” Mắt ông ta giãn ra, tay ông ta bóp cằm như thể muốn cố định lại vị trí của hàm. Rồi ông ta thả tay xuống nhìn Teddy qua bàn và , “ hiểu sao, Andrew? Nếu thất bại, tôi thất bại. Nếu tôi thất bại mọi chuyện chấm hết.” “Tệ nhỉ. Tiếc nhỉ,” Teddy . Bên ngoài, những con mòng biển kêu. Teddy có thể ngửi thấy mùi muối, mùi nắng và mùi cát ẩm mặn. Cawley , “Hãy thử cách khác vậy - có cho rằng đó cũng là trùng hợp hay khi tên của Rachel Solando, mà dù sao này cũng là nhân vật hư cấu trong trí tưởng tượng của , cũng lại có các chữ cái y hệt như tên người vợ quá cố của và cũng có cùng tiền sử giết con của mình?” Teddy đứng bật dậy, tay bắt đầu run lên từ phía vai trở xuống. “Vợ tôi giết con. Chúng tôi chưa bao giờ có con.” “ chưa bao giờ có con hả?” Cawley về phía bức tường. “Chúng tôi chưa bao giờ có con, ông ngớ ngẩn bỏ mẹ.” “Thôi được,” ông ta và kéo tấm ga nữa xuống. bức tường phía sau nó là biểu đồ trường tội ác, các bức ảnh của cái hồ, của ba đứa trẻ con bị chết. Và tên chúng, viết cùng cỡ: EDWARD LAEDDIS DANIEL LAEDDIS RACHEL LAEDDIS Teddy cụp mắt xuống, nhìn chằm chằm vào hai bàn tay của mình, chúng run bần bật như thể còn thuộc về nữa. Nếu như có thể làm chúng dừng lại bằng cách nào đó hẳn làm. “Các con của , Andrew. định đứng đó mà phủ nhận việc chúng từng sống đời này sao? làm thế sao?” Teddy giơ bàn tay run rẩy của mình lên, chỉ về phía Cawley. “Đó là những đứa con của Rachel Solando. Đó là trường tội ác ở ngôi nhà ven hồ của Rachel Solando.” “Đó là nhà của . dọn tới đó vì các bác sĩ khuyên làm thế cho sức khỏe của vợ . có nhớ ? Sau khi ta bất cẩn phóng hỏa căn hộ trước đây của . Hãy đưa ấy ra khỏi thành phố, tới chỗ điền viên nên thơ hơn. Có thể ấy khỏe dần lên.” “ ấy đâu có bị ốm.” “ ta bị điên, Andrew.” “Đừng có gọi tôi như thế. Và vợ tôi, ấy điên.” “Vợ mắc chứng trầm cảm mãn tính. ta bị điên do trầm cảm. ta...” “ ấy bị điên,” Teddy cắt ngang. “ ta là người có khuynh hướng tự sát. ta hành hạ các con mình. muốn thừa nhận điều đó. nghĩ là do ấy ốm yếu. tự bảo mình rằng tâm thần hay tỉnh táo là do mình chọn, tất cả những gì ấy phải làm chỉ là nhớ các trách nhiệm của ấy. Với . Với các con. uống rượu và càng ngày càng trở nên nghiện ngập. bồng bềnh trong cái vỏ ốc của chính mình. tránh xa nhà mình. phớt lờ mọi dấu hiệu. phớt lờ những gì thầy giáo ở trường, cha xứ ở xóm đạo, và gia đình của ta với .” “Vợ tôi bị điên.” “Và tại sao? Tại vì xấu hổ.” “Vợ tôi ...” “Lý do duy nhất khiến ta phải gặp bác sĩ tâm thần là lần ta nhập viện do tự tử thành. Ngay cả cũng thể kiểm soát được chuyện này. Và họ với rằng ta nguy hiểm đối với chính bản thân. Rằng...” “Chúng tôi chưa bao giờ gặp bất cứ bác sĩ tâm thần nào.” “... rằng ta nguy hiểm đối với lũ trẻ. được cảnh báo hết lần này tới lần khác.” “Chúng tôi chưa bao giờ có con. Chúng tôi có bàn tới chuyện đó. Nhưng ấy thể thụ thai.” “Chúa ơi!” Cawley kêu lên thất vọng, đầu ông ta gục xuống như thể có ai vừa cầm cái chày lăn bột nện cái ly thủy tinh thụt vào trong đó. “Lại đây nào,” Cawley . “ đấy. Lại gần đây và nhìn những cái tên các bức ảnh trường tội ác này. cảm thấy thú vị khi biết rằng...” “Ông có thể làm giả những bức ảnh này. Ông có thể dựng lên tất cả.” “ mơ. Lúc nào cũng mơ. thể ngừng các giấc mơ của mình, Andrew. kể cho tôi nghe về chúng. Gần đây có mơ gì về hai đứa con trai và đứa con nữa ? Con bé có dẫn tới bên chiếc bia đá nữa ? là ‘ thủy thủ tồi,’ Andrew. cứu chúng. có muốn về những khúc gỗ ? Tới đây mà nhìn chúng. Hãy rằng chúng phải là những đứa trẻ trong các giấc mơ của ?” “Rác rưởi!” “Vậy hãy nhìn xem. Hãy tới đây và nhìn.” “Ông đánh thuốc tôi, ông giết người đồng của tôi và bảo rằng ta chưa bao giờ tồn tại. Ông nhốt tôi lại đây vì tôi biết ông làm gì. Tôi biết về những thí nghiệm đó. Tôi biết ông điều trị các bệnh nhân tâm thần phân liệt bằng cái gì, biết cả việc ông tự do tiến hành phẫu thuật thùy não, việc ông coi thường Luật Nuremberg. Tôi túm được gáy của ông, bác sĩ.” “ hả?” Cawley đứng dựa vào tường và khoanh tay trước ngực. “Làm ơn, hãy mở mắt cho tôi nào. làm mưa làm gió ở cái chỗ này suốt bốn ngày qua. có thể ra vào bất cứ xó xỉnh nào trong cái bệnh viện này. Thế các bác sĩ kiểu quốc xã trốn ở chỗ nào? Những phòng phẫu thuật ma quỷ nằm ở chỗ nào?” Ông ta bước lại phía bàn và tham khảo quyển sổ ghi chép của mình lúc. “ vẫn tin là chúng tôi tẩy não bệnh nhân hả Andrew? Rằng chúng tôi tiến hành những thí nghiệm kéo dài hàng thập kỷ để tạo ra - cái mà có lần gọi là gì nhỉ? À, đây rồi - những chiến binh ma quỷ? Những kẻ sát nhân?” Ông ta và cười khẽ. “Ý tôi là, tôi phải thừa nhận rằng thậm chí trong cái thời buổi đầy rẫy chuyện hoang tưởng này câu chuyện tưởng tượng của nghe rất có lý.” Teddy chỉ ngón tay run rẩy vào ông ta. “Đây là bệnh viện thí nghiệm với những phương pháp cấp tiến...” “Đúng thế.” “Các ông chỉ nhận những bệnh nhân bạo lực nhất.” “Lại đúng tiếp. Chỉ thêm chút nữa thôi, những bệnh nhân bạo lực nhất và hoang tưởng nhất.” “Và các ông...” “Chúng tôi làm sao?” “Các ông thí nghiệm.” “Đúng!” Cawley vỗ hai tay và cúi rạp người xuống. “Thừa nhận có tội.” “Các thí nghiệm về giải phẫu.” Cawley giơ ngón tay lên. “À . Xin lỗi. Chúng tôi lấy việc giải phẫu ra làm thí nghiệm. Đó chỉ là biện pháp cuối cùng và tôi vẫn luôn công khai chống lại phương thức này cách quyết liệt nhất. Nhưng tôi chỉ là cá nhân và thể chỉ trong đêm mà thay đổi được những phương thức chữa bệnh được chấp nhận suốt nhiều thập kỷ qua.” “Ông dối.” Cawley thở dài. “Hãy cho tôi bất kỳ bằng chứng nào mảy may cho thấy lý thuyết của có thể đứng vững. Chỉ bằng chứng thôi cũng được.” Teddy gì. “Và với tất cả những bằng chứng tôi đưa ra, đều từ chối bình luận.” “Bởi vì chúng phải là bằng chứng. Chỉ toàn những điều bịa đặt.” Cawley chụm các ngón tay lại với nhau và đưa lên môi như thể cầu nguyện. “Hãy để tôi khỏi hòn đảo này,” Teddy . “Với tư cách là nhân viên luật pháp thi hành công vụ, tôi cầu ông để tôi .” Cawley nhắm mắt lại lát. Khi ông ta mở mắt ra, ánh mắt của ông ta trở nên cứng rắn và quyết liệt. “Thôi được, thôi được. thắng, đặc vụ. Đây, tôi làm cho mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn đối với .” Ông ta lôi từ sàn lên chiếc vali bằng da mềm, mở khóa rồi lôi khẩu súng của Teddy ra và ném nó lên bàn. “Đây là súng của , đúng ?” Teddy nhìn chằm chằm vào khẩu súng. “Đây là những chữ cái đầu của tên khắc báng súng, đúng ?” Teddy vẫn nhìn chằm chằm khẩu súng, mồ hôi rịn ra từ mắt . “Đúng hay , đặc vụ? Đây có phải là súng của ?” có thể nhìn thấy vết mẻ nòng súng từ cái ngày mà Phillip Stacks nhắm bắn nhưng lại bắn trượt vào khẩu súng và chính cuối cùng lại trúng đạn do khẩu súng của bị cướp cò. có thể nhìn thấy hai chữ cái đầu E.D được khắc báng súng, món quà của văn phòng liên bang sau vụ bắn nhau với Breck ở Maine. Và chỗ này nữa, phía dưới chốt an toàn, lớp vỏ kim loại hơi bị móp và tróc sơn do đánh rơi súng trong cuộc rượt đuổi ở St. Louis vào mùa đông năm bốn mươi chín. “Đây có phải là súng của ?” “Đúng vậy.” “Cầm nó lên, đặc vụ. Hãy chắc là súng được nạp đạn.” Teddy nhìn khẩu súng rồi nhìn sang Cawley. “Cầm lấy, đặc vụ. Nhặt khẩu súng lên.” Teddy nhấc khẩu súng khỏi bàn và nó rung lên trong tay . “Nó được nạp đạn rồi chứ?” Cawley hỏi. “Đúng vậy.” “ chắc chứ?” “Tôi có thể cảm thấy sức nặng của nó.” Cawley gật đầu. “Vậy hãy nổ súng . Vì đó là cách duy nhất để có thể thoát ra khỏi hòn đảo này.” Teddy đưa tay còn lại giữ chặt lấy báng súng nhưng tình trạng của nó cũng khá gì hơn. hít những hơi sâu rồi thở ra cách chậm rãi, nhìn dọc theo nòng súng bằng đôi mắt ướt nhòe mồ hôi và những cơn run rẩy lan ra khắp người. Và nhìn thấy Cawley ở đầu bên kia của ống ngắm, cách nhiều nhất là sáu mươi phân nhưng vẫn ngắm lên ngắm xuống, sang trái sang phải như thể hai người họ đứng con tàu lúc sóng lớn. “ có năm giây, đặc vụ.” Cawley nhấc ống nghe ra khỏi máy điện đàm và bắt đầu quay số. Teddy nhìn ông ta đưa chiếc ống điện thoại lên miệng. “Giờ chỉ còn ba giây nữa thôi. Hãy bóp cò hoặc sống dở chết dở cái hòn đảo này.” Teddy có thể cảm thấy sức nặng của khẩu súng. Ngay cả khi người run lên bần bật, vẫn có cơ hội bắn trúng nếu hành động ngay lúc này. Giết chết Cawley và bất cứ người nào đợi ở bên ngoài. Cawley , “Giám đốc, ông có thể cho ta lên đây.” Tầm nhìn của Teddy bỗng trở nên ràng, những cơn run giảm đáng kể. nhìn xuống nòng súng khi Cawley đặt chiếc ống nghe về chỗ cũ. Mặt Cawley toát lên vẻ tò mò như thể ngay lúc này đây ông ta mới phát ra rằng Teddy có thể vẫn còn đủ sức lực để thực nốt công việc cuối cùng đó. Ông ta giơ tay lên và , “Thôi được rồi, được rồi.” Và Teddy bắn ông ta vào giữa ngực. Rồi nâng súng lên chút, bồi thêm phát nữa vào giữa mặt. Từ khẩu súng bắn ra toàn là nước. Cawley nhíu mày, chớp mắt nhiều lần rồi lôi từ trong túi ra chiếc khăn mùi soa. Cánh cửa bật mở sau lưng Teddy, xoay ghế lại và chĩa súng vào người đàn ông vừa bước vào phòng. “Đừng bắn,” Chuck . “Tôi quên mặc áo mưa.”
CAWLEY LAU MẶT bằng chiếc khăn mùi soa rồi ngồi xuống ghế của mình trong khi Chuck vòng sang đầu bàn bên kia tới bên cạnh ông ta còn Teddy lật khẩu súng trong tay và nhìn nó chằm chằm. Rồi nhìn sang phía bên kia bàn thấy Chuck ngồi xuống chiếc ghế và ta cũng mặc chiếc áo blu dùng trong phòng thí nghiệm. “Tôi cứ nghĩ là cậu chết rồi,” Teddy . “,” Chuck trả lời. Và rồi đột nhiên cảm thấy khó thốt nên lời. Như thể sắp lắp, đúng như nữ bác sĩ đó tiên đoán. “Tôi... tôi... ... sẵn sàng hy sinh để mang cậu ra khỏi đây. Tôi...” đánh rơi khẩu súng xuống bàn và cảm thấy mọi sức lực biến mất khỏi cơ thể. đổ gục xuống ghế và thể nào đứng dậy được. “Tôi tình xin lỗi về chuyện đó,” Chuck . “Bác sĩ Cawley và tôi trăn trở suốt nhiều tuần lễ trước khi quyết định thực vở kịch này. Tôi bao giờ muốn cảm thấy bị phản bội hay gây cho những nỗi phiền muộn đáng có. phải tin tôi. Và chúng tôi cũng có lựa chọn nào khác.” “Được ăn cả ngã về ,” Cawley . “Đây là nỗ lực cuối cùng của chúng tôi để khiến trở lại bình thường, Andrew. Đó là ý tưởng cấp tiến, ngay cả đối với nơi như thế này, nhưng tôi hy vọng là nó mang lại kết quả.” Teddy quệt mồ hôi mắt nhưng lại chỉ làm chúng lem luốc thêm ra. nhìn Chuck mờ mờ ảo ảo. “Thế là ai?” hỏi. Chuck chìa tay qua bàn và , “Bác sĩ Lester Sheehan.” Teddy mặc kệ bàn tay chìa ra trước mặt và Sheehan cuối cùng đành rút tay lại. “Vậy là,” Teddy và hít vào mũi cái khí ẩm ướt của biển, “ để tôi lải nhải về việc chúng ta cần phải tìm Sheehan trong khi... trong khi chính là Sheehan.” Sheehan gật đầu. “Gọi tôi là sếp, kể chuyện cười cho tôi nghe, khiến tôi vui vẻ. Đồng thời theo dõi tôi luôn thể, có đúng Lester?” nhìn thẳng vào ta qua chiếc bàn, Sheehan cố đáp trả cái nhìn đó nhưng làm nổi, được lát ta đành cụp mắt xuống, nhìn chiếc cà vạt của mình, đưa tay phe phẩy nó trước ngực. “Tôi phải để mắt đến để đảm bảo rằng được an toàn.” “An toàn?” Teddy . “Và thế là mọi chuyện khác được xóa sổ. Rất đạo đức.” Sheehan bỏ tay khỏi chiếc cà vạt. “Chúng ta quen biết nhau suốt hai năm qua, Andrew.” “Đó phải là tên của tôi.” “Hai năm. Tôi là bác sĩ tâm thần chính của . Hai năm. Hãy nhìn tôi. Chẳng lẽ nhận ra tôi sao?” Teddy dùng tay áo quệt mồ hôi túa ra từ mắt , lần này có hơn, và ngắm Chuck ở phía bên kia bàn. Là chàng Chuck của , vụng về khi đối diện với các loại vũ khí và đôi bàn tay phù hợp với tính chất công việc của mình vì chúng phải là đôi bàn tay của cảnh sát. Đó là đôi bàn tay của bác sĩ. “Cậu từng là bạn tôi,” Teddy . “Tôi tin tưởng cậu. Tôi kể cho cậu nghe về vợ tôi. Tôi kể cho cậu nghe về cha tôi. Tôi leo xuống cái vách đá khốn kiếp ấy để tìm cậu. Trong khi đó cậu đứng nhìn? Để giữ cho tôi được an toàn sao? Cậu từng là bạn của tôi cơ đấy, Chuck. Ối, xin lỗi, phải là Lester chứ.” Lester châm điếu thuốc và Teddy hài lòng khi thấy tay ta cũng run lên. nhiều lắm. tệ như tay Teddy và chấm dứt ngay khi ta châm được điếu thuốc và vứt que diêm vào chiếc gạt tàn. Nhưng dù sao ta cũng run lên... Cầu cho cậu cũng bị giống tôi, Teddy nghĩ. Cho dù nó là cái gì nữa. “Đúng vậy,” Sheehan (và Teddy phải cố để nghĩ ta là Chuck), “tôi giữ cho được an toàn. Việc tôi biến mất, đúng vậy, cũng là phần trong trí tưởng tượng của . Nhưng đáng ra đọc đơn nhập viện của Laeddis đường chứ phải là dưới vách đá. Tôi vô tình đánh rơi nó. rút ra khỏi túi bị bay mất. Tôi cũng trèo xuống để lấy nó vì tôi biết nếu tôi làm thế làm. Rồi cả người tôi cứng đờ ra, tê liệt, tôi thể cử động được nữa. Ngay ở phía dưới mỏm đá. Hai mươi phút sau leo xuống, ngay trước mặt tôi. Chỉ cách tôi khoảng ba mươi phân thôi. Tôi gần như có thể thò tay ra và túm lấy .” Cawley khẽ hắng giọng. “Chúng tôi suýt nữa cho ngừng lại khi thấy trèo xuống cái vực đá đó. Có lẽ chúng tôi nên làm vậy.” “Ngừng lại.” Teddy lấy tay che miệng cố nén cười. “Đúng thế.” Cawley . “Hoãn lại. Đó là buổi biểu diễn ngoài trời, Andrew. ...” “Tên tôi là Teddy.” “... vở kịch. là người viết kịch bản. Chúng tôi chỉ giúp dựng nó lên. Nhưng vở kịch hoàn thành nếu có kết cục và kết cục luôn là tìm tới ngọn hải đăng này.” “Tiện quá,” Teddy và nhìn quanh các bức tường. “ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này suốt gần hai năm nay. Về việc tới đây để tìm bệnh nhân mất tích và vô tình phát ra khu vực bí mật, nơi tiến hành các thí nghiệm giải phẫu theo kiểu Đệ Tam Quốc xã hay những thí nghiệm về việc tẩy não kiểu Xô viết của chúng tôi. Về việc bệnh nhân Rachel Solando giết các con của ta y như cái cách vợ giết các con của . Rằng và người đồng của trở nên gần gũi với nhau như thế nào, và cái tên mà đặt cho ta - Chuck Aule(13) chả ra gì, cứ thử đọc liền và đọc nhanh xem sao. Đó chỉ là trò đùa khác của mà thôi, Andrew. Rồi đồng của bị bắt, chỉ còn lại mình và phải tự bảo vệ mình nhưng chúng tôi vẫn tóm được . Chúng tôi bắt uống thuốc và thuốc phát huy tác dụng trước khi kịp mang câu chuyện này kể cho vị Thượng nghị sĩ Hurly mà tự tưởng tượng ra. Nếu muốn biết tên của tất cả các Thượng nghị sĩ bang New Hampshire nay Andrew, tôi có chúng ở đây.” “Các ông làm giả tất cả?” Teddy . “Đúng vậy.” Teddy phá lên cười. cười lớn như vẫn thường làm trước khi Dolores qua đời. nghe thấy tiếng cười của mình rền vang, những thanh cuộn lại với nhau rồi tiếp tục hòa vào với dòng chảy thanh vẫn tuôn ra từ miệng , dâng lên phía đầu , bám vào các bức tường rồi tan dần vào tiếng sóng biển. “Làm sao mà các ông làm giả cơn bão đó được?” và đập tay lên bàn. “Hãy cho tôi xem nào, bác sĩ?” “ thể nào làm giả cơn bão,” Cawley thừa nhận. “,” Teddy . “Các ông thể.” Và lại đập bàn. Cawley nhìn xuống tay trước rồi nhìn vào mắt . “Nhưng đôi khi vẫn có thể dự báo được, Andrew, nhất là hòn đảo này.” Teddy lắc đầu, cảm thấy diện của nụ cười khuôn mặt mình, cho dù nó còn rạng rỡ, cho dù nó có vẻ yếu đuối và xuẩn ngốc. “Các ông chẳng bao giờ bỏ cuộc đúng ?” “ cơn bão có ý nghĩa quyết định đối với câu chuyện tưởng tượng của ,” Cawley . “Chúng tôi chờ cơn bão như thế.” “Toàn những lời dối trá,” Teddy . “Dối trá ư? Hãy giải thích hoán vị của các chữ cái. Hãy giải thích tại sao những đứa trẻ trong các tấm hình này - những đứa trẻ mà hề biết mặt nếu chúng đúng là con của Rachel Solando - lại chính là những đứa trẻ trong các giấc mơ của . Hãy giải thích xem, Andrew, tại sao tôi lại biết mà với khi bước qua cánh cửa này rằng, ‘Cưng ơi, sao em lại ướt hết cả thế này?’ nghĩ tôi là người đọc được ý nghĩ của người khác hay sao?” “,” Teddy . “Tôi chỉ nghĩ tại vì lúc đó tôi ướt.” Trong giây lát trông Cawley có vẻ như muốn nổ tung. Rồi ông ta hít hơi sâu, ông ta khoanh tay lại và tì người lên bàn. “Súng của chỉ toàn là nước. Còn những mật mã của lên mọi chuyện, Andrew. tự đùa cợt với chính mình. Hãy nhìn cái mật mã cuối cùng trong quyển sổ tay của . Chín chữ cái. Ba dòng. Giải chúng hẳn rất dễ. Hãy nhìn xem.” Teddy nhìn xuống trang giấy. 13(M)-21(U)-25(Y)-18(R)-1(A)-5(E)-8(H)-15(O)-9(I) “Chúng tôi còn thời gian nữa,” Lester Sheehan . “Xin hãy hiểu rằng chuyện này thay đổi tất cả. Trong lĩnh vực tâm thần học. cuộc chiến nổ ra bấy lâu nay và chúng tôi thua.” M-U-Y-R-A-E-H-O-I “Vậy sao?” Teddy hỏi cách thờ ơ. “Thế ‘chúng tôi’ ở đây là ai vậy?” “Là những người tin rằng cái cách để đến được với tâm trí của người phải là dùng que đá chọc qua não hay sử dụng các loại thuốc nguy hiểm với liều lượng cao mà là thành thừa nhận bản thân.” “ thành thừa nhận bản thân?” Teddy nhắc lại. “Nghe được đấy.” Ba dòng, Cawley thế. Có thể là mỗi dòng ba chữ. “Hãy nghe tôi,” Sheehan . “Nếu chúng tôi thất bại ở đây, chúng tôi thua cuộc. chỉ riêng với trường hợp của . Ngay lúc này đây, cán cân quyền lực nghiêng về phía các nhà phẫu thuật nhưng mọi chuyện sớm thay đổi. Các nhà dược học lên nắm quyền, nhưng mọi chuyện vì thế mà kém man rợ. Chắc chắn là thế. Họ tiếp tục tạo ra những thây ma sống lại và vứt chúng vào khu riêng biệt, chỉ có điều là dưới vỏ bọc dễ chấp nhận hơn trong con mắt công chúng. Và tại đây, trong cái bệnh viện này, tất cả chuyện đó có xảy ra hay đều phụ thuộc vào , Andrew.” “Tên tôi là Teddy, Teddy Daniels.” Teddy đoán dòng đầu tiên có thể là “YOU”. “Naehring dành sẵn cho phòng mổ, Andrew.” Teddy ngước mắt khỏi tờ giấy. Cawley gật đầu. “Chúng ta có bốn ngày để thay đổi quyết định đó. Nếu chúng ta thất bại lên bàn mổ.” “Mổ cái gì?” Cawley nhìn sang Sheehan. Sheehan dán mắt vào điếu thuốc của mình. “Mổ cái gì?” Teddy nhắc lại. Cawley mở miệng toan Sheehan lên tiếng trước, giọng mệt mỏi: “Phẫu thuật thùy não.” Teddy khẽ chớp mắt khi nghe thấy từ đó rồi quay lại trang giấy trước mặt và phát ra từ thứ hai là: “ARE”. “Giống như Noyce,” . “Chắc ông lại định với tôi là cả ta nữa cũng tồn tại chứ gì?” “ ta ở đây,” Cawley . “Phần lớn câu chuyện kể cho bác sĩ Sheehan về ta là có , Andrew. Nhưng ta chưa bao giờ quay trở lại Boston. chưa bao giờ gặp ta ở trong tù. ta ở đây từ tháng Tám năm năm mươi lăm. ta cũng có tiến bộ khi được chuyển từ Khu C sang Khu A. Nhưng rồi tấn công và hành hung ta.” Teddy rời mắt khỏi ba chữ cái cuối cùng. “Tôi làm gì cơ?” “ hành hung ta. Hai tuần trước. Suýt nữa giết chết ta.” “Sao tôi lại làm thế?” Cawley lại nhìn sang Sheehan. “Vì ta gọi là Laeddis,” Sheehan . “ đúng. ta làm thế. Tôi vừa mới nhìn thấy ta ngày hôm qua và ta...” “ ta làm sao?” “ ta gọi tôi là Laeddis, chắc chắn là thế.” “ ư?” Cawley mở quyển sổ ghi chép của ông ta ra. “Tôi có biên bản ghi chép lại cuộc trò truyện của . Tôi còn có cả băng nữa, ở trong phòng làm việc của tôi nhưng giờ hãy sử dụng bản ghi chép này cũng được. Hãy cho tôi biết nếu nghe chúng có vẻ quen nhé.” Ông ta chỉnh lại kính rồi cúi đầu xuống trang giấy. “Tôi trích nguyên văn nhé - ‘Đó là về . Và, Laeddis, đó là tất cả những gì mà câu chuyện này xoay quanh. Tôi chỉ là thứ công cụ. phương tiện giúp đạt được mục đích.’ ” Teddy lắc đầu. “ ta gọi tôi là Laeddis. Ông đổi chỗ nhấn câu. ta chuyện này là về - nghĩa là tôi - và về Laeddis.” Cawley cười khẽ. “ đúng là kẻ tầm thường chút nào.” Teddy mỉm cười. “Tôi cũng nghĩ về các ông như vậy.” Cawley lại nhìn xuống bản ghi chép của ông ta. “Thế còn chỗ này sao - có nhớ hỏi Noyce về chuyện gì xảy ra với khuôn mặt của ta ?” “Có. Tôi hỏi ta ai làm chuyện đó.” “Chính xác dùng từ ‘Ai gây ra chuyện này?’ Có đúng ?” Teddy gật đầu. “Và Noyce trả lời - tôi lại trích nguyên văn nhé - ‘ chứ ai.’ ” Teddy , “Đúng vậy, nhưng...” Cawley quan sát như quan sát con côn trùng dưới kính hiển vi. “Nhưng sao?” “ ta như thể...” “Tôi nghe đây.” Teddy bắt đầu gặp khó khăn trong việc liên kết từ ngữ lại với nhau cách mạch lạc giống như những toa xe lửa nối tiếp nhau. “Ý ta là,” - chậm rãi, cách cố ý - “đó là lỗi của tôi khiến ta bị chuyển lại về đây, cách gián tiếp dẫn đến việc ta bị đánh. ta là tôi đánh ta.” “ ta , chứ ai.” Teddy nhún vai. “ ta thế nhưng chúng ta có quan điểm khác nhau trong việc truyền tải ý nghĩa phát ngôn của ta.” Cawley lật sang trang khác. “Còn đây nữa, Noyce lại - ‘Họ biết hết. vẫn chưa hiểu ra à? Tất cả những gì mưu tính. Tất cả các kế hoạch của . Đây là trò chơi. vở kịch được dàn dựng rất công phu. Tất cả những chuyện này đều là vì .’ ” Teddy ngả lưng ra phía sau. “Còn các bệnh nhân, tất cả những người mà tôi được cho là quen biết suốt hai năm qua, sao thấy ai trong số họ gì với tôi khi tôi thực , hừm, vai diễn của mình trong bốn ngày qua?” Cawley gập quyển sổ ghi chép lại. “Họ quá quen với chuyện đó rồi. phe phẩy cái thẻ công vụ bằng nhựa đó suốt năm nay. Lúc đầu tôi nghĩ cũng đáng để thử phen xem sao, đưa cho cái thẻ đó, xem phản ứng ra sao. Nhưng sử dụng nó theo cái cách mà tôi bao giờ tính đến. Hãy mở ví của ra. Và cho tôi biết có phải nó bằng nhựa hay , Andrew.” “Để tôi giải nốt cái mật mã này .” “ gần xong rồi. Chỉ còn ba chữ nữa thôi. Có muốn tôi giúp , Andrew?” “Teddy.” Cawley quan sát sắp sếp các chữ cái tờ giấy. “Nó gì vậy?” Teddy cười. “Hãy cho chúng tôi biết xem nào.” Teddy lắc đầu. “Thôi nào, hãy cho chúng tôi biết với!” Teddy . “Các ông dựng nên chuyện này. Các ông tạo ra các mật mã. Các ông tạo ra cái tên Rachel Solando dựa những chữ cái trong tên vợ tôi. Tất cả đều do các ông nghĩ ra.” Cawley cách chậm rãi, rành mạch. “Thế cái mật mã cuối cùng gì?” Teddy xoay quyển sổ tay lại để họ có thể đọc được nó: YOU ARE HIM(14) “Thỏa mãn chưa?” Teddy . Cawley đứng dậy. Trông ông ta có vẻ kiệt sức. Sức chịu đựng của ông ta tới giới hạn cuối cùng. Ông ta với vẻ đau buồn mà Teddy chưa từng thấy trước đây. “Chúng tôi hy vọng. Chúng tôi hy vọng là chúng tôi có thể cứu được . Chúng tôi đặt cược tên tuổi của mình vào đó. Và bây giờ tin tức lan ra ngoài rằng chúng tôi cho phép bệnh nhân vào cái vai tưởng tượng của mình và đổi lại, tất cả những gì chúng tôi thu được là số lính gác bị thương và chiếc xe ô tô bốc cháy. Tôi quan trọng việc bị bẽ mặt vì lý do chuyên môn.” Ông ta nhìn ra bên ngoài ô cửa sổ hình vuông. “Có thể chỗ này còn phù hợp với tôi nữa. Hoặc có thể tôi còn phù hợp với nó. Nhưng ngày nào đó, đặc vụ, ngày xa, chúng ta chữa trị vấn đề tâm thần của con người bằng chính những kinh nghiệm của họ và những gì họ trải qua. có hiểu điều đó ?” “ hiểu lắm.” “Tôi cũng nghĩ là hiểu.” Cawley gật đầu, khoanh tay lại trước ngực, căn phòng trở nên yên ắng trong giây lát, ngoại trừ tiếng gió và tiếng sóng vỗ phía bên ngoài. “ là người lính được trao tặng nhiều huân chương với kinh nghiệm chiến đấu cừ khôi. Từ khi tới đây, làm bị thương tám lính gác, chưa kể hai người ngày hôm nay, bốn bệnh nhân và năm hộ lý. Bác sĩ Sheehan và tôi đấu tranh cho tới cùng. Nhưng giờ phần lớn nhân viên trong viện cũng như bên trại giam đòi hỏi kết quả hoặc là chúng tôi phải vô hiệu hóa .” Ông ta rời khỏi cửa sổ, tới bên cạnh bàn và nhoài người về phía , nhìn bằng đôi mắt buồn bã và u tối của mình. “Đây là cơ hội cuối cùng của chúng tôi, Andrew. Nếu thừa nhận là ai và những gì làm, nếu nỗ lực vươn tới tỉnh táo chúng tôi thể cứu được .” Ông ta chìa tay ra cho Teddy. “Hãy nắm lấy tay tôi,” ông ta , giọng khàn khàn. “Hãy để chúng tôi giúp , Andrew.” Teddy lắc đầu. cách cương quyết. siết lấy tay Cawley bằng cái siết tay chặt nhất và nhìn ông ta bằng ánh mắt trung thực nhất. Rồi mỉm cười và , “Đừng có gọi tôi là Andrew!” HỌ DẪN về Khu C, chân tay bị xiềng xích. Khi vào tới bên trong họ dẫn dọc theo dãy xà lim nơi các tù nhân khác réo gọi từ trong buồng giam của họ. Những người này thề đánh đập, cưỡng hiếp , có người còn thề róc như róc con cá trắm và ăn thịt tới từng ngón chân. Khi vẫn còn bị xích, người lính gác đứng bên cạnh để cho nữ y tá tiêm cái gì đó vào cánh tay . ta có mái tóc màu dâu tây và thơm mùi xà phòng. Hơi thở của ta khẽ phả vào mặt khi ta cúi xuống tiêm, và nhận ra ta. “ là người đóng giả Rachel,” . “Giữ lấy ta,” ta . Người lính gác giữ chặt lấy hai vai và duỗi thẳng tay ra. “Chính là . nhuộm tóc. là Rachel.” “Đừng có động đậy,” ta và chọc kim tiêm vào tay . bắt gặp ánh mắt của ta. “ đúng là diễn viên xuất sắc. Ý tôi là, lừa được tôi, với tất cả những câu chuyện về chàng Jim thân xấu số của . Rất là thuyết phục, Rachel.” ta rời mắt khỏi . “Tôi là Emily,” ta và rút chiếc kim tiêm ra. “Giờ ngủ.” “Làm ơn,” Teddy . ta dừng lại ở cửa buồng giam và quay lại nhìn . “Đó chính là mà,” . Nhưng cái gật đầu tới từ chiếc cằm của . Nó tới từ đôi mắt, cái chớp mắt nhìn xuống, rất nhanh và rồi mỉm cười với , nụ cười rất đỗi buồn bã khiến những muốn hôn lên tóc . “Ngủ ngon,” . hề cảm thấy người lính gác tháo bỏ xiềng xích người , hề nghe thấy họ bỏ . Tiếng động từ các buồng giam khác tắt ngấm và khí trước mặt biến thành màu hổ phách và cảm thấy như thể nằm ngả lưng giữa đám mây ướt và chân tay giống như bọt biển. Và mơ. Trong giấc mơ, và Dolores sống trong ngôi nhà gần hồ. Bởi vì họ phải rời khỏi thành phố. Bởi vì thành phố xấu xa và đầy bạo lực. Bởi vì phóng hỏa đốt căn hộ của họ đường Buttonwood. Để cố thoát khỏi những bóng ma của nó. mơ tình của họ bền như sắt thép, ngại mưa gió, ngại lửa hay những nhát búa dập vùi. mơ thấy Dolores bị điên. Và mơ thấy cái đêm con Rachel của với lúc say, nhưng say tới mức bỏ qua việc kể chuyện đêm khuya cho con bé, rằng, “Bố ơi?” “Gì cơ, con ?” “Thỉnh thoảng mẹ lại nhìn con rất lạ.” “Lạ như thế nào?” “Chỉ là rất lạ thôi ạ.” “Nó làm con buồn cười à?” Con bé lắc đầu. “ à?” “ ạ,” nó . “Thế mẹ nhìn con như thế nào?” “Giống như con làm mẹ rất buồn.” Và đắp chăn cho con bé, hôn tạm biệt, dụi mũi vào cổ nó và con bé làm ai buồn cả. Nó thể làm ai buồn. từng, thể. Mãi mãi là vậy. ĐÊM KHÁC, lúc tới bên giường, Dolores xoa xoa những vết sẹo cổ tay rồi nhìn , “Khi tới những nơi khác, phần nào đó của quay trở lại nữa.” “Những nơi khác là những nơi nào hả em?” tháo đồng hồ đeo tay và đặt xuống cạnh giường. “Và cái phần quay trở lại của ?” cắn môi như thể sắp tự thụi vào mặt mình bằng cả hai nắm đấm. “ cũng nên quay trở lại.” NGHĨ NGƯỜI BÁN THỊT ở góc phố là tên gián điệp. ông ta cười với trong khi máu chảy ròng ròng từ con dao phay của ông ta và chắc rằng ông ta biết tiếng Nga. đôi khi có thể cảm thấy cái con dao phay ấy nằm ở giữa ngực . TEDDY BÉ BỎNG trong lần xem đấu bóng tại sân vận động Fenway Park với rằng, “Chúng ta có thể sống ở đây.” “ chúng ta sống ở đây mà.” “Con muốn là trong sân vận động này cơ.” “Thế chỗ chúng ta ở có vấn đề gì sao?” “Có quá nhiều nước.” Teddy nốc ngụm rượu từ chiếc bình mang theo người. quan sát cậu con trai của mình. Đó là thằng bé cao ráo và khỏe mạnh nhưng rất mau nước mắt so với đứa con trai ở tuổi nó và cũng rất dễ bị kích động. Đó là cách bọn trẻ lớn lên trong thời buổi kinh tế phát đạt nay, chúng có quá nhiều đặc quyền và trở nên mềm yếu, thụ động. Teddy cứ mong mẹ vẫn còn sống để có thể dạy dỗ các cháu mình nên người. Vì cái thế giới này chẳng cho ai cái gì bao giờ. Nó chẳng ban tặng mà chỉ tước đoạt. Những bài học như vậy dĩ nhiên phải được rao giảng bởi người đàn ông trong nhà nhưng để nó thấm dần vào bọn trẻ lại là công việc của người phụ nữ. Dolores lại chỉ nhồi nhét vào đầu óc bọn trẻ những giấc mơ, những điều bay bổng diệu kỳ, và suốt ngày cho chúng xem phim, xem xiếc và các lễ hội hóa trang. tu ngụm rượu nữa rồi với con trai mình, “Quá nhiều nước. Còn gì nữa ?” “, thưa bố.” VỚI , “Có gì đúng? Có cái gì mà làm? Có cái gì mà trao em? phải làm thế nào em mới cảm thấy hạnh phúc?” Và là, “Em hạnh phúc mà.” “, em hề. Hãy cho biết cần phải làm gì. làm.” “Em ổn mà.” “Em trở nên giận dữ đáng sợ. Nếu giận dữ lại quá sung sướng hồ hởi, hai thái cực rất đối nghịch.” “ sao?” “Em khiến bọn trẻ sợ hãi, cả nữa. Em có vẻ ổn.” “Em ổn.” “Lúc nào em cũng buồn.” “,” . “ lúc nào cũng buồn có!” CHUYỆN với cha xứ và cha xứ tới thăm họ vài lần. chuyện với chị em của và chị , Delilah ở Virginia, tới chơi với họ suốt tuần lễ, nhờ thế tình hình có vẻ khá hơn. Cả hai người họ đều bỏ qua những lời khuyên tới gặp bác sĩ. Chỉ những người điên mới cần tới bác sĩ. Dolores bị điên. chỉ hơi căng thẳng. Căng thẳng và buồn bã. TEDDY MƠ THẤY ĐÊM đánh thức dậy và bảo lấy súng. Ông bán thịt ở trong nhà mình, . Dưới cầu thang trong bếp. chuyện bằng điện thoại của họ. ĐÊM ĐÓ, VỈA HÈ trước câu lạc bộ Cocoanut Grove, đứng dựa vào cửa xe taxi, mặt chỉ cách mặt có vài phân... nhìn và nghĩ: biết em. biết em suốt cả đời mình. chờ đợi. Chờ đợi xuất của em. Suốt bấy nhiêu năm nay. biết em. Từ khi còn trong bụng. Chỉ đơn giản là vậy. cảm thấy nỗi khao khát của người lính muốn được làm tình với trước khi ra trận vì biết, ngay từ giây phút đó, biết là trở về. trở về vì Chúa sắp xếp các vì sao để có thể gặp nửa linh hồn mình rồi Người lại mang ấy ngay. dựa vào cửa xe và với điều đó. Và , “Đừng lo. trở về.” khẽ chạm những ngón tay lên khuôn mặt và , “ làm như thế, đúng ?” MƠ THẤY trở về ngôi nhà bên hồ nước. Từ Oklahoma, nơi mất hai tuần để truy nã gã suốt từ các bến cảng Nam Boston tới Tulsa với gần chục chặng dừng chân khác nhau. Teddy luôn chậm hơn nửa bước cho tới khi đâm sầm vào đối tượng lúc bước ra từ nhà vệ sinh nam ở trạm đổ xăng. về tới nhà vào lúc mười giờ sáng, cảm thấy may mắn vì đây phải là ngày cuối tuần, hai đứa con trai ở trường, xương cốt mỏi nhừ chỉ muốn lăn ra gối làm giấc. bước vào nhà, gọi Dolores và rót cho mình ly đúp rượu scotch trong lúc chờ đợi. từ sân sau vào và , “Vẫn chưa đủ.” xoay người lại với ly rượu trong tay và hỏi , “Gì vậy em ?” rồi để ý thấy cả người ướt sũng như thể vừa bước ra từ vòi hoa sen ngoại trừ việc vẫn bận chiếc váy cũ sẫm màu in hình những bông hoa bạc phếch. chân đất và nước rỏ tong tỏng từ tóc và váy của xuống sàn nhà. “Cưng ơi,” , “sao em lại ướt hết cả thế này?” , “Vẫn chưa đủ,” và đặt cái chai rỗng xuống bàn bếp. “Mình vẫn tỉnh.” Và rồi lại bước ra ngoài. Teddy nhìn bước về phía chòi ngắm cảnh ở giữa hồ, những bước dài, chòng chành, loạng choạng. đặt ly rượu xuống, nhấc cái chai lên xem và phát ra đó là chai cồn thuốc phiện mà bác sĩ kê đơn khi ra viện. Nếu Teddy phải xa, thường đong thuốc ra cái lọ , tính đủ liều lượng cho dùng trong lúc vắng nhà rồi đặt vào tủ thuốc của . Còn chai thuốc lớn khóa lại trong hầm rượu. Đó là chai thuốc để dùng trong sáu tháng vậy mà uống cạn. nhìn thấy loạng choạng leo lên cầu thang, ngã quỵ xuống rồi lại đứng dậy. Làm sao mà lại tìm ra chai thuốc cơ chứ? Khóa hầm rượu đâu phải là khóa thường. người đàn ông khỏe mạnh dùng kìm bẻ khóa cũng thể mở được nó. ấy hẳn thể làm được chuyện đó, mà chiếc chìa khóa duy nhất Teddy giữ mất rồi. nhìn ngồi chiếc ghế xích đu ở giữa chòi rồi nhìn xuống chai thuốc. nhớ lại đứng đây cái đêm hôm đó, vừa dùng muỗng trút thuốc từ chai lớn sang lọ vừa uống vài ly whisky lúa mạch đen, nhìn ra ngoài hồ, đặt lọ thuốc vào trong tủ thuốc, lên gác tạm biệt lũ trẻ, xuống nhà điện thoại reo, nhận tin của văn phòng, vớ lấy chiếc áo khoác và chiếc túi ngủ qua đêm, hôn Dolores ở cửa và tiến về phía chiếc ô tô của mình... ... và để quên chai thuốc lớn bàn bếp. bước qua chiếc cửa chống muỗi, băng qua bãi cỏ và bước lên chòi. nhìn lại gần, người vẫn ướt sũng, chân co lên để đẩy chiếc ghế xích đu tới lui cách uể oải. “Em , em uống hết cả thuốc khi nào vậy?” hỏi. “Sáng nay.” thè lưỡi về phía , nở nụ cười mơ màng rồi ngước mắt nhìn lên vòm mái hình vòng cung. “Nhưng vẫn chưa đủ. ngủ được. Chỉ muốn ngủ thôi. Mệt quá.” nhìn thấy những khúc gỗ trôi bồng bềnh hồ phía sau lưng và biết rằng đó phải là những khúc gỗ nhưng nhìn chỗ khác, nhìn sang vợ mình. “Sao em lại mệt?” nhún vai rồi buông thõng hai tay xuống. “Mệt vì tất cả chuyện này. Mệt quá. Chỉ muốn về nhà thôi.” “Em ở nhà đấy thôi.” chỉ lên trần. “Nhà-nhà,” . Teddy lại nhìn về phía những khúc gỗ, lúc này khẽ xoay xoay theo dòng nước. “Rachel đâu?” “Ở trường.” “Con bé chưa tới tuổi đến trường, em .” “ phải là trường của tôi,” vợ và nhe răng ra. Teddy hét lên. hét to tới mức Dolores ngã khỏi chiếc xích đu và nhảy qua người , nhảy qua cái lan can sau chòi và chạy, vừa chạy vừa hét, “, Chúa ơi, làm ơn, phải là con của con, Chúa ơi, ôi !” Và nhảy xuống nước. ngã dúi dụi, chúi mặt xuống nước, chìm dưới nước, nước phủ lấy như lớp dầu nhờn và bơi về phía trước cho đến khi tới được giữa chúng. Giữa ba khúc gỗ. Giữa thi thể ba đứa con của . Edward và Daniel nằm sấp, nhưng Rachel nằm ngửa, mắt con bé mở to, nhìn lên trời, nỗi u sầu thừa hưởng từ mẹ nó hằn sâu trong đồng tử, cái nhìn của con bé phiêu diêu giữa những đám mây. mang chúng lên bờ, từng đứa . thận trọng. ôm chúng chặt nhưng dịu dàng. có thể cảm thấy xương của chúng. âu yếm vuốt má các con. Vai chúng, người chúng, chân chúng. hôn hôn lại các con nhiều lần. Rồi ngã quỵ xuống và nôn ọe cho tới khi ngực bỏng rát và bụng cồn cào. quay lại, khoanh tay lũ trẻ lên ngực chúng và để ý thấy Daniel và Rachel có những vệt dây thừng lằn cổ tay và biết rằng Edward là đứa trẻ đầu tiên phải chết. Hai đứa bé kia phải chờ tới lượt mình, nghe thấy hết, và biết là ta quay lại để giết chúng. hôn các con mình lên má, lên trán và vuốt mắt cho Rachel. Chúng có quẫy đạp khi ta mang chúng xuống nước ? Chúng có la hét ? Hay chúng hoàn toàn quy phục, chỉ rên rỉ và chấp nhận số phận của mình? thấy vợ trong chiếc váy màu tím cái đêm gặp , thấy vẻ mặt của trong cái giây phút đầu tiên trông thấy , cái vẻ mặt khiến phải lòng. cứ nghĩ rằng đó là do chiếc váy, thấp thỏm của khi mặc chiếc váy đẹp tới hộp đêm có tiếng. Nhưng phải vậy. Đó là kinh hãi, gần như che đậy và luôn tồn tại. kinh hãi đối với thế giới bên ngoài - với những đoàn tàu, những trái bom, những chiếc xe điện kêu lách cách, những đại lộ tối tăm, những chiếc tàu ngầm chật chội, những quán trọ đông nghẹt những người đàn ông giận dữ, đại dương với những con cá mập, những người châu Á tay cầm những quyển sách màu đỏ, tay kia cầm súng. sợ tất cả những điều đó và nhiều thứ khác nữa nhưng cái mà kinh hãi nhất chính là cái trú ngụ ở bên trong , thứ côn trùng có trí thông minh phi tự nhiên sống trong não của suốt cuộc đời, đùa giỡn với nó, nhấp nháy xung quanh nó và giật dây nó bằng những trò đùa tai hại. Teddy để các con mình lại đó và ngồi trong chòi lúc lâu, nhìn đong đưa chiếc xích đu và tệ nhất là biết bao. Nếu có thể hy sinh trí não của mình để chữa cho làm. Bán chân tay của mình ư? Được thôi. là tất cả tình từng biết tới trong suốt thời gian dài. là động cơ giúp qua cuộc chiến và đối mặt với cái thế giới khủng khiếp này. hơn cả cuộc sống của chính mình, hơn cả linh hồn mình. Nhưng phụ lòng . Phụ lòng các con . phụ cuộc sống mà họ xây dựng với nhau vì từ chối nhìn thấy Dolores, thực nhìn thấy , thấy rằng bệnh điên của phải lỗi của , phải là thứ có thể điều khiển, phải là bằng chứng của suy nhược tinh thần hay thiếu lòng dũng cảm. từ chối nhìn thấy điều đó vì nếu thực là tình đích thực của đời , là cái phần bất tử trong phải chăng đó cũng chính là suy nhược trí não, thần kinh, tinh thần của ? Vì thế nên trốn tránh nó, trốn tránh . để mình, tình duy nhất của , và để trí óc của tự hủy hoại. nhìn ngồi xích đu. Ôi Chúa ơi, mới làm sao. (điều này khiến vô cùng hổ thẹn) hơn các con trai của mình. Nhưng hơn Rachel ư? Có lẽ là . Chắc là . nhìn thấy Rachel trong tay mẹ nó và mẹ nó mang nó xuống nước. Nhìn thấy đôi mắt con giãn ra khi con bé chìm dần xuống đáy hồ. nhìn vợ mình, trong khi vẫn nhìn thấy con mình, và nghĩ: “ là con mụ điên tàn bạo, vô cùng tàn bạo.” Teddy ngồi bệt trong căn chòi và khóc. nhớ khóc như thế bao lâu. khóc và lại thấy hình ảnh Dolores ngồi chiếc ghế băng khi mang bó hoa tới cho , khi Dolores quay lại nhìn trong tuần trăng mật, và Dolores trong chiếc váy màu tím, khi mang bầu Edward, khi nhặt sợi lông mi rơi má , khi rời khỏi nụ hôn của và cuộn chặt trong vòng tay , gõ gõ lên cánh tay và bật cười, cái nụ cười buổi sáng Chủ nhật quen thuộc của và nhìn chằm chằm như thể phần còn lại của khuôn mặt chực vỡ ra quanh đôi mắt to ấy, khi sợ hãi, khi đơn, lúc nào cũng vậy, phần nào đó của , lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng đơn... đứng dậy, đầu gối run lên. ngồi xuống cạnh vợ và , “ là người đàn ông tốt của em.” “ đúng,” . “ được thế.” “Đúng thế mà.” cầm lấy tay . “ em. Em biết thế. Em biết phải là người hoàn hảo.” Bọn trẻ nghĩ gì - Daniel và Rachel - khi chúng thức dậy và thấy mẹ buộc dây thừng xung quanh cổ tay chúng? Chúng có nhìn vào mắt ta ? “Ôi, Chúa ơi.” “Em biết thế. Nhưng là của em. Và luôn cố gắng.” “Ôi, em ,” , “xin em đừng nữa.” Và Edward. Edward hẳn bỏ chạy. Và ta đuổi theo thằng bé khắp nhà. Lúc này trông rạng rỡ, hạnh phúc. , “Hãy đặt chúng trong bếp.” “Gì cơ?” trèo lên người , cưỡi lên và ghì chặt lấy vào cơ thể ướt sũng của . “Hãy đặt chúng ngồi cạnh bàn, Andrew.” hôn lên mí mắt . ôm lấy , người cọ xát vào và khóc vai . , “Chúng là những con búp bê sống của chúng ta. Chúng ta lau khô chúng.” “Gì cơ?” Giọng như nghẹn lại vai . “Chúng ta thay quần áo cho chúng.” thầm vào tai . thể hình dung ra con bé trong cái hộp, cái hộp bằng cao su trắng với ô kính bên nắp mở. “Chúng ta để chúng ngủ giường chúng ta đêm nay.” “Xin em đừng nữa.” “Chỉ đêm thôi.” “Xin em.” “Và rồi ngày mai chúng ta có thể đưa chúng dạo.” “Nếu như em từng ...” Teddy có thể nhìn thấy cái ngày họ cùng nằm dài bờ biển. “Em vẫn luôn , cưng ạ.” “Nếu như em từng làm ơn đừng gì nữa,” Teddy . muốn tới bên các con của mình, làm chúng sống lại và mang chúng ra khỏi đây, khỏi ta. Dolores sờ vào báng súng của . chặn tay lên tay . “Em muốn em,” . “Em muốn giải thoát em.” định tóm lấy khẩu súng của nhưng nhấc tay ra. nhìn vào mắt . Chúng sáng quắc cách đáng sợ. Đó phải là mắt của con người. con chó đúng hơn. Hay là con sói. Sau chiến tranh, sau Dachau, thề giết người nữa trừ phi có lựa chọn nào khác. Trừ phi khẩu súng của người kia chĩa thẳng vào . Chỉ lúc đó thôi. thể giết thêm mạng người nữa. thể. lại sờ vào súng của , mắt rực lên, lại gỡ tay ra. nhìn ra phía bờ hồ và thấy bọn trẻ nằm ngay ngắn cạnh nhau, vai kề vai. rút khẩu súng ra khỏi bao. giơ nó ra trước mặt . cắn môi khóc rồi gật đầu. nhìn lên mái chòi và , “Chúng ta cứ giả vờ là chúng vẫn còn đây với chúng ta. Chúng ta tắm cho chúng, Andrew.” Và rồi đặt súng vào bụng , tay lẩy bẩy, môi run lên và , “ em, Dolores.” Ngay cả lúc này, khi khẩu súng kề bên người , vẫn dám chắc là có thể làm được điều đó. nhìn xuống như thể ngạc nhiên là vẫn còn ở đây, rằng vẫn ngồi ở phía dưới , rằng vẫn còn . “Em cũng . Em rất nhiều. Em như...” Và bóp cò. Tiếng súng bật ra từ đôi mắt của , khí phụt ra từ miệng và đặt tay lên lỗ hổng bụng, nhìn , còn tay kia túm chặt lấy tóc . Và rồi khi máu bắt đầu tuôn ra khỏi người , kéo lên, cơ thể mềm mại của dựa vào và ôm lấy , cứ ôm ghì lấy mà khóc cho tình kinh hoàng của , khóc lên tấm váy phai màu của . NGỒI BẬT DẬY trong bóng đêm và ngửi thấy mùi khói thuốc trước khi nhìn thấy ánh sáng lom rom của điếu thuốc hút dở lóe lên khi Sheehan hít hơi dài và quan sát . ngồi giường và khóc. thể ngừng lại được. nhắc tên con bé. : “Rachel, Rachel, Rachel.” Và thấy đôi mắt con bé ngắm nhìn những đám mây và mái tóc trôi bồng bềnh xung quanh nó. Khi cơn co giật chấm dứt, khi những giọt nước mắt khô, Sheehan , “Rachel là ai?” “Rachel Laeddis,” . “Và là?” “Andrew,” . “Tên tôi là Andrew Laeddis.” Sheehan vặn lên ngọn đèn , để lộ Cawley và người lính gác ở phía bên kia song sắt. Người lính gác đứng xoay lưng về phía họ còn Cawley nhìn họ chằm chằm, hai tay đặt lên chấn song. “Tại sao lại ở đây?” cầm lấy chiếc khăn mùi soa Sheehan đưa cho và lau mặt. “Tại sao lại ở đây?” Cawley nhắc lại. “Vì tôi giết vợ tôi.” “Tại sao lại làm thế?” “Vì ấy giết các con của tôi và ấy cần được yên nghỉ.” “Có phải là đặc vụ Mỹ?” Sheehan hỏi. “. Tôi từng lần. Giờ còn nữa.” “ làm việc ở đó trong bao lâu?” “Từ mùng ba tháng Năm năm 1952.” “Rachel Laeddis là ai?” “Con tôi. Nó mới bốn tuổi.” “Ai là Rachel Solando?” “ ta có . Tôi bịa ra ta.” “Tại sao?” Cawley hỏi. Teddy lắc đầu. “Tại sao?” Cawley nhắc lại. “Tôi biết, Tôi biết...” “Có, có biết. Andrew. Hãy cho tôi tại sao.” “Tôi thể.” “ có thể mà.” Teddy ôm lấy đầu và giãy giụa. “Đừng bắt tôi ra. Làm ơn, bác sĩ, hãy làm ơn?” Cawley túm lấy song sắt. “Tôi cần phải nghe ra điều đó, Andrew.” nhìn Cawley sau song sắt, chỉ muốn lao về phía đó và cắn rụng mũi ông ta. “Bởi vì,” rồi dừng lại. hắng giọng, nhổ bãi nước miếng xuống sàn. “Vì tôi thể nào chấp nhận được việc tôi để vợ mình giết các con. Tôi phớt lờ mọi dấu hiệu. Tôi cố đẩy chúng ra khỏi suy nghĩ của mình. Tôi giết các con vì tôi để người khác chữa trị cho ấy.” “Và?” “Và chấp nhận điều đó vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi thể nào sống chung với điều đó.” “Nhưng phải chấp nhận điều đó. Và biết thế.” gật đầu. co hai gối lại trước ngực. Sheehan quay đầu nhìn về phía Cawley. Cawley vẫn nhìn xuyên qua những song sắt. Ông ta châm điếu thuốc và nhìn Teddy rời. “Giờ là cái mà tôi lo sợ, Andrew. Trước đây, chúng ta cũng tới được đoạn này. Chúng ta đạt được bước đột phá này chín tháng trước. Và rồi lại thoái lui. cách nhanh chóng.” “Tôi xin lỗi.” “Tôi đánh giá cao điều đó,” Cawley , “nhưng ngay lúc này đây tôi cần lời xin lỗi. Tôi cần phải biết chấp nhận thực tế. ai trong chúng ta có thể chấp nhận thoái lui nào nữa.” Teddy nhìn Cawley, cái người đàn ông còm cõi với hai hố mắt trũng sâu, thâm quầng đó, ông ta đến cứu . Ông ấy có thể là người bạn chân tình duy nhất mà từng có. nhìn thấy tiếng súng của nhói lên trong mắt , cảm thấy cổ tay các con trai ướt đẫm khi khoanh chúng lại trước ngực và mái tóc con khi nhàng gỡ những sợi tóc rối ra khỏi khuôn mặt con bé. . “Tôi thoái lui. Tên tôi là Andrew Laeddis. Tôi giết chết vợ mình, Dolores, vào mùa xuân năm năm mươi hai...” ÁNH NẮNG Ở TRONG PHÒNG khi thức dậy. ngồi dậy và nhìn về phía song sắt nhưng chúng biến mất. Thay vào đó là cửa sổ, thấp hơn cửa sổ trong buồng giam và rồi nhận ra rằng nằm chiếc giường tầng hai trong căn phòng sử dụng với Trey và Bibby trước đây. có ai ở trong phòng. tụt khỏi giường và mở tủ quần áo, thấy quần áo của trong đó, còn thơm mùi giặt mới. mặc quần áo rồi tới bên cửa sổ, gác chân lên bậu cửa để buộc dây giày và nhìn ra bên ngoài thấy các bệnh nhân, hộ lý và lính gác đầy trong khuôn viên với quân số ngang nhau. Người tụ tập tán gẫu trước bệnh viện, người tiếp tục công việc quét dọn vệ sinh hay chăm chút những bụi hồng còn sót lại sau cơn bão. nhìn xuống hai bàn tay của mình trong lúc buộc dây giày. Cứng như thép. Mắt cũng vậy, nhìn mọi thứ ràng như khi còn trẻ, và đầu rất tỉnh táo. rời khỏi phòng, xuống cầu thang và ra ngoài sân. qua y tá Marino trong hành lang, nhìn cười và , “Chào buổi sáng.” “ buổi sáng đẹp trời,” . “Tuyệt vời. Tôi nghĩ cơn bão thổi bay mùa hè cũng vì ý tốt.” đứng dựa lưng vào lan can, nhìn lên bầu trời xanh trong như mắt trẻ thơ và có thể ngửi thấy mùi khí trong lành biến đâu mất từ hồi tháng Sáu. “ ngày vui vẻ nhé!” Y tá Marino và ngắm ta bước dọc theo hành lang. có thể cảm nhận thấy duyên dáng trong cái lắc hông của ta, tín hiệu cho thấy sức khỏe của phục hồi. bước vào khuôn viên, qua số hộ lý trong ngày nghỉ chơi trò tung bóng. Họ vẫy tay chào và , “Chào buổi sáng.” vẫy tay đáp lại và , “Chào buổi sáng.” nghe thấy tiếng còi tàu hú lên khi tới gần cầu cảng, nhìn thấy Cawley và giám đốc trại giam đứng chuyện ở giữa bãi cỏ đằng trước bệnh viện. Họ gật đầu ra hiệu nhận ra và cũng gật đầu đáp lại. ngồi xuống góc bậc tam cấp bệnh viện nhìn ra quang cảnh bên ngoài và cảm thấy vô cùng dễ chịu, thứ cảm giác mà từ lâu có được. “Này.” cầm lấy điếu thuốc đút vào miệng và nhoài người ra phía trước để châm lửa, ngửi thấy mùi ga bốc lên từ chiếc bật lửa Zippo trước khi sập nắp lại. “Sáng nay thế nào?” “Tốt. Còn cậu?” và hít khói thuốc vào trong phổi. “ có gì để than phiền.” để ý thấy Cawley và giám đốc trại giam quan sát họ. “Thế chúng ta có khi nào phát ra được cái cuốn sách của ông giám đốc là sách gì ?” “. Chắc xuống mồ vẫn chưa biết được.” “ đáng tiếc.” “Có lẽ chúng ta sinh ra đời này để biết được số thứ. Cứ nghĩ như thế .” “ quan điểm hết sức thú vị.” “Cảm ơn.” rít hơi thuốc nữa, để ý thấy vị thuốc mới ngọt làm sao. Nó dường như đậm hơn bao giờ hết, vẫn còn đọng lại ở cổ họng . “Thế hành động tiếp theo của chúng ta là gì?” “Sếp bảo tôi với!” mỉm cười với Chuck. Hai người họ ngồi dưới ánh nắng mặt trời buổi sớm, thoải mái, nhàn hạ như thể mọi chuyện đều tốt đẹp cái thế giới này. “Phải tìm cách ra khỏi cái hòn đảo này thôi,” Teddy . “Lê đít về nhà.” Chuck gật đầu. “Tôi cũng đoán sếp vậy.” “Cậu có ý tưởng gì ?” Chuck , “Đợi tôi phút.” Teddy gật đầu và dựa lưng vào bậc cầu thang. Cậu ta có phút. Thậm chí là vài phút. nhìn Chuck giơ tay lên và lắc đầu rồi thấy Cawley gật đầu đáp lại, rồi Cawley gì đó với giám đốc trại giam và họ băng qua bãi cỏ về phía Teddy với bốn hộ lý theo sau, người trong số họ vác chiếc băng ca màu trắng, bọc vải mềm. Teddy nghĩ có thể thuổng ít kim loại từ chiếc băng ca đó khi người hộ lý rũ nó ra dưới ánh mặt trời. Teddy . “Tôi biết, Chuck. Cậu có nghĩ họ nhằm vào chúng ta ?” “,” Chuck khẽ nghiêng đầu, mắt hơi nheo lại dưới ánh mặt trời và mỉm cười với Teddy. “Chúng ta quá thông minh mà.” “Đúng vậy,” Teddy . “Chúng ta quá thông minh, phải vậy sao?” Chú thích 13. Chuck Aule, tiếng nếu đọc liền thành 'chuckle' có nghĩa là cười tủm tỉm. 14. You are him: là . Table of Contents