1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đông Cung - Phỉ Ngã Tử Tồn

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 13





                  Trong ký ức, đốm sáng lập loè lúc tỏ lúc mờ, dường như tấm màn sương mù dày đặc vừa được vén mở, hé lộ ra ảo ảnh. Tôi hé mắt, mọi thứ xung quanh dần trở nên ràng. Tôi thấy A Độ ngồi bên cạnh, tôi thấy Vĩnh Nương với khoé mắt đỏ hoe…

                  Tôi thấy những hoa văn tinh xảo thêu màn, tôi dần dần nhận ra, nơi đây là Đông cung, là tẩm điện của tôi.

                  Tôi từ từ mở mắt, tưởng mình vừa gặp ác mộng. Trong cơn mơ tôi thấy những điều đáng sợ: tôi bị thích khách bắt cóc, rồi Cố Kiếm chính là gã thích khách nọ, tôi đứng ở Thừa Thiên Môn, mắt đăm đăm nhìn lên lầu cao nơi Lý Thừa Ngân đứng… Và điều đáng sợ cuối cùng, tôi mơ thấy mình quen biết Lý Thừa Ngân từ lâu, chàng hoá thành Cố Tiểu Ngũ, chàng tàn sát Đột Quyết, giết ông ngoại, bức tử mẹ… Cha trở nên lẩn thẩn và tôi nhảy xuống sông Quên… Cơn ác mộng ấy đáng sợ… Đáng sợ đến nỗi tôi muốn nhớ lại…

                  May thay tất cả chỉ là ác mộng, tôi chậm rãi nắm tay Vĩnh Nương, mỉm cười muốn :

                  - Ta đói…

                  Nhưng tôi chẳng thốt nổi câu nào, cổ họng nhói đau, luồng khí từ cổ thoát ra ngoài mà bật thành tiếng. Tôi vội đưa tay sờ lên cổ mình, Vĩnh Nương ứa nước mắt, giữ tay tôi:

                  - Thái tử phi chớ lo, thái y người bị ngạt khói nên tạm thời cổ họng bị tổn thương. Chữa trị cẩn thận mau khỏi thôi…

                  Tôi nhìn A Độ, rồi lại nhìn Vĩnh Nương. Cung nữ dâng lên chén nước mát, Vĩnh Nương tự tay bón cho tôi. Nước có vị ngọt và man mát làm tôi thấy dễ chịu hơn, cơn đau họng chẳng mấy dịu xuống. Tôi uống ngụm lớn, Vĩnh Nương :

                  - Từ từ, từ từ nào… kẻo sặc… Trời đất ơi, mấy ngày rồi Thái tử phi chẳng ăn uống được gì… Nô tì lo muốn chết…

                  Mấy ngày?

                  Tôi hôn mê mấy ngày?

                  Tôi ra hiệu bảo lấy giấy bút, Vĩnh Nương sai người lấy cho tôi. Cung ngữ dâng nghiên mực, tôi chấm mực, nhưng lúc hạ bút, lại lưỡng lự…

                  Viết gì đây?

                  Tôi muốn hỏi gì đây? Hỏi Đột Quyết phải chăng diệt vong, hỏi phải chăng bấy lâu nay cha tôi thành người lẩn thẩn? Từ ngày đến Trung Nguyên, cha chưa từng phái người đến thăm tôi, còn tôi ngày đêm vẫn mong về Tây Lương, vậy mà chẳng ai đến thăm hỏi. Ngày xưa tôi chẳng lấy làm lạ, cứ mải trách cha vô tình, giờ mới biết, ra từ lâu Tây Lương của tôi trở thành giấc mộng hão huyền. Tôi dám hỏi A Độ. Sao tôi có thể làm thế, sao tôi có thể hỏi Vĩnh Nương?

                  Mãi lâu sau tôi vẫn hạ được bút…

                  Mực ngòi bút ngưng tụ thành giọt, xuống, loang thành đốm mực trang giấy…

                  Tôi sực nhớ tới “Cửa vẩy mực”, nhớ tới bức tranh núi non tráng lệ bằng phấn hồng và than kẻ mày mà Lý Thừa Ngân từng vẽ, tôi nhớ tới phường Minh Ngọc, nhớ lại điệu múa tối hôm đó, rồi nhớ cảnh chết chóc tàn khốc… Nhớ chàng bẻ đôi mũi tên, cao giọng thề… Tôi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu rất chân thực trong mơ, tôi thấy mình nghêu ngao hát cồn cát, tôi nhớ Cố Tiểu Ngữ từng bắt trăm con đom đóm cho tôi, rồi cả cơn gió buốt thấu xương dòng sông Quên… Và vẻ mặt đau đớn của chàng khi tôi cắt lìa dải dây lưng…

                  Quẳng bút xuống, tôi chui vào chăn, tôi sợ mọi thứ lại về tìm tôi trong trí nhớ.

                  Vĩnh Nương tưởng tôi thấy khó ở, bèn vỗ lên lưng tôi như dỗ dành đứa trẻ .

                  A Độ ra ngoài, tiếng bước chân se , song tôi vẫn nghe thấy.

                  Tôi bỗng thấy buồn, nhưng tôi dám hỏi A Độ về Đột Quyết, dám hỏi những chuyện trước đây. Những chuyện trong giấc mơ của tôi phải chăng là ? A Độ hẳn buồn hơn tôi, vì muội ấy là người Đột Quyết, song vẫn theo tôi đến tận Trung Nguyên, cùng tôi chung sống với kẻ thù bấy lâu nay… Tôi thấy mình bỗng trở thành kẻ hèn nhát, chẳng hay biết điều gì.

                  Tôi mê mệt ngủ tới tầm tối Vĩnh Nương lay tôi dậy, cho tôi uống bát thuốc rất đắng.

                  Rồi Vĩnh Nương hỏi tôi có muốn ăn món gì .

                  Tôi lắc đầu, tôi muốn ăn.

                  Bây giờ còn thiết ăn gì nữa?

                  Vĩnh Nương vẫn sai người làm món bánh canh, bà ấy :

                  - Bánh canh mềm lại có nước, người ốm ăn món này mau khoẻ!

                  Tôi muốn ăn bánh canh, cầm đũa gắp miếng rồi buông.

                  Bánh canh gợi tôi nhớ đến Lý Thừa Ngân.

                  Đúng hơn là, mọi thứ ở Đông cung này đều nhắc tôi nhớ về Lý Thừa Ngân.

                  Mà tôi chỉ mong mình dứt ra khỏi những suy nghĩ về chàng. biết những chuyện trước kia giả thế nào, nhưng tôi muốn gặp chàng nữa.

                  Vĩnh Nương vừa bưng bát bánh canh xuống Lý Thừa Ngân đến thăm. Chàng hồ hởi bước vào, nét mặt rạng ngời như thường lệ. Chỉ riêng tôi biết, tất cả khác xưa. Giữa chúng tôi tồn tại quá khứ đớn đau, dòng sông Quên thần kỳ cho tôi quên tất cả, và cũng lấy trí nhớ của chàng. Hai kẻ u mê, chẳng hiểu nguồn cơn nào run rủi cho chúng tôi lấy nhau thế này, và ngô nghê thế nào mà tôi ở bên chàng suốt ba năm…

                  miên man nghĩ ngợi Lý Thừa Ngân rảo bước đến bên giường, định vươn tay ra, xoa trán tôi.

                  Tôi nghiêng mặt tránh né.

                  Tay chàng chưng hửng giữa chừng, song chàng chẳng lấy làm giận, :

                  - Mãi nàng mới tỉnh, làm ta lo quá!

                  Tôi chẳng chẳng rằng, chỉ nhìn chàng, vẻ dửng dưng như những người xa lạ. Chàng nhận ra khác lạ của tôi, bèn hỏi:

                  - Nàng sao thế?

                  Thấy tôi phớt lờ, chàng liền :

                  - Hôm nàng bị thích khách bắt cóc, lại đúng dịp tết Nguyên tiêu, chín cổng thành đều mở…

                  Cơn bức bối trong tôi khó thành lời. Tôi quên bóng dáng chàng đứng cổng lầu hôm đó, nhưng tôi sợ hình ảnh chàng bên bờ vực sông Quên khắc sâu trong tim tôi trọn đời. Giờ đây nhắc lại có ích gì? Chàng vẫn định ngon ngọt lừa tôi nữa sao? Chàng giũ sạch những chuyện trước kia, song tôi vẫn nhớ, tôi nhớ lại cả rồi!

                  Chàng :

                  - Mấy ngày lục soát khắp nơi trong thành mà tìm được nàng, ta cứ tưởng…. – đến đó, giọng chàng thấp dần. – Ta cứ tưởng được gặp lại nàng nữa…

                  Chàng giơ tay kiếm tìm bờ vai tôi. Tôi nhớ đôi mắt sũng lệ, lờ đờ của cha, tôi thấy mẹ nằm vũng máu, tôi nhớ tiếng gào thét cuối cùng của ông, tôi nhớ đôi bàn tay đẫm máu của Hách Thất đẩy tôi lên lưng ngựa… Thế rồi tôi bất ngờ rút cây trâm đầu, đâm thẳng vào ngực chàng.

                  Tôi dồn hết sức lực vào nhát đâm ấy. Chàng ngờ tôi làm vậy, chỉ ngây ra, rồi bỗng đưa tay chặn trước ngực theo bản năng. Đầu trâm nhọn hoắt chọc xuyên qua lòng bàn tay, ứa máu. Chàng sững sờ nhìn tôi, ánh mắt ấy phức tạp, tôi sao cắt nghĩa được, tựa như chàng tin tôi đối xử với chàng như vậy.

                  Thực ra, chính tôi cũng tin. Tôi ấn ngực mình, cảm giác toàn thân run rẩy.

                  Thời gian trôi qua lâu, chàng mới nắm chặt đầu cây trâm, rút mạnh. Chàng hành động chóng vánh, mà hề rên tiếng, chỉ có đôi chân mày khẽ cau lại, như thể máu thịt này thuộc về mình. Máu ứa ra, tôi nhìn máu đầm đìa chảy theo cổ tay chàng dính vào ống tay áo. Chàng cầm chiếc trâm còn vương máu, rồi nhìn tôi, lòng tôi bấn loạn.

                  Chàng quẳng cây trâm xuống đất đánh “keng” tiếng, chuỗi thạch văng bốn hướng, lanh canh đập nẩy sàn. Tiếng chàng se , như sợ làm kinh động đến thứ gì đó:

                  - Sao lại thế?

                  Chàng bảo tôi phải thế nào, kể ra những chuyện khủng khiếp trong quá khứ ư? Tôi và chàng, giữa chúng tôi là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. ra lãng quên hẳn là bất hạnh, có khi đó lại là may mắn. Ước gì tôi có thể quên như chàng tốt biết mấy.

                  Tôi ngoảnh mặt né tránh. Chàng lại :

                  - Ta hiểu rồi.

                  Tôi biết chàng hiểu gì, nhưng thoáng nghe trong giọng chàng có chút lạnh lùng:

                  - Thấy nàng ốm đau ra nông nỗi này nên ta định hỏi tới. Nhưng khi vậy, ta buộc phải hỏi câu này, sao nàng thoát được khỏi tay thích khách? Lúc A Độ cõng nàng về, có hỏi thế nào muội ấy cũng chịu khai hành tung của thích khách, càng chịu cứu nàng ở đâu. Ta tiện dùng hình truy hỏi dân Tây Lương các nàng, nhưng nàng phải cho ta hay, rốt cuộc kẻ nào đứng đằng sau thích khách…

                  Tôi nhìn người đàn ông này, người ôm tôi nhảy xuống sông Quên. Chàng quên rồi, nhưng tôi vĩnh viễn thể quên được. Tôi quên được chính chàng giết ông ngoại, tôi quên được chính chàng khiến tôi phải chịu cảnh nước mất nhà tan, tôi quên mình giờ đây chẳng còn Tây Lương để về… Tôi mấp máy môi, nhưng thốt nổi thành lời, thay vào đó là cái nhìn đầy mỉa mai. Chàng còn hỏi tôi thích khách là ai cơ đấy? Lẽ nào chàng biết thích khách là ai ư? Hay sông Quên cũng khiến chàng quên Cố Kiếm là ai rồi?

                  Tôi nhìn chàng, ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Rất lâu sau, chàng bỗng ném ra ngay trước mặt tôi đôi ngọc bội. Tôi giương mắt nhìn đôi ngọc bội hình uyên ương bóng mịn như mỡ dê, tôi biết chúng, tôi từng cầm mảnh ngồi ba ngày ba đêm cồn cát. Lúc ấy chàng xưng mình là Cố Tiểu Ngũ, lúc ấy tôi háo hức ngồi đợi người tưởng là chồng mình, lúc ấy tay chàng cầm mảnh ngọc bội, mỉm cười trêu đùa tôi, lúc ấy sắc đêm bao trùm sa mạc Tây Lương và chúng tôi cùng nhau thúc ngựa về Vương thành…

                  Dạo đó, đôi ta nào có hằn học như bây giờ. Tôi là Cửu Công chúa vô tư lự của Tây Lương, còn chàng, chàng là Cố Tiểu Ngũ, thương nhân buôn chè đến từ Trung Nguyên.

                  Tay Lý Thừa Ngân còn ứa máu, chàng siết chặt cánh tay tôi, chặt đến nỗi xương cốt nhói đau, nhức nhối. Chàng ép tôi phải ngước lên, rồi nhìn xoáy vào mắt tôi, hỏi:

                  - Tại sao?

                  Chàng lặp lặp lại, tại sao?

                  Tôi cũng muốn biết. Tại sao? Tại sao số phận lại đùa giỡn, hết lần này đến lần khác dồn chúng tôi vào mối quan hệ đoạn tuyệt này. Tôi thấy trong mắt chàng có khổ sở khó nên lời và thoáng tia khao khát cuối cùng, dường như chàng còn mong mỏi tôi câu gì đó.

                  Tôi hé môi, song vẫn im lặng.

                  Máu từ bàn tay chàng loang mặt tôi ấm, chàng :

                  - Tại sao nàng có thể bình yên trở về từ chỗ thích khách? Tại sao A Độ lại chịu cho ta biết hành tung của gã thích khách kia? Sao trong tay nàng lại có đôi ngọc bội uyên ương này… Uyên ương ư…? Hay chính ta chia cắt đôi uyên ương các người?

                  Chàng siết mạnh vai khiến tôi đau nhói, tôi bỗng thấy lòng mình nguội lạnh. Lúc đứng bên bờ sông Quên, rốt cuộc chàng nghĩ gì mà lại nhảy xuống? Phải chăng chỉ để với tôi câu đó? Nhưng dạo ấy tôi đâu có biết tiếng Trung Nguyên. Tôi quên mất chàng gì từ lâu rồi. Tôi chỉ nhớ tiếng hét cuối cùng của Bùi Chiếu, chắc gã phải kinh hãi lắm. Nhưng Lý Thừa Ngân phải là Cố Tiểu Ngũ, có lẽ, Cố Tiểu Ngũ của tôi hy sinh trong cuộc chiến ngày đó rồi. Cuối cùng, tôi ngước mắt trông lên hai con ngươi đen láy, rốt cuộc chàng là ai? Là Cố Tiểu Ngũ từng bắt cho tôi trăm con đom đóm? Hay là người chồng lên đường ra trận vào đúng ngày cưới của chúng tôi? Hoặc, lúc ở sông Quên, phải chăng vẻ hối hận khuôn mặt chàng khi thấy tôi cắt lìa dải dây lưng ?

                  Hết lần này đến lần khác tôi mắc lừa người đàn ông này, cho đến tận bây giờ, có trời mới biết, rốt cuộc chàng có lừa tôi hay ? Chàng bẻ mũi tên thề với thích khách, những lời hùng hồn, đầy lý lẽ, thế mà chỉ trong chớp mắt, chàng sánh vai với Triệu Lương đệ Thừa Thiên Môn… Cố Tiểu Ngũ của tôi thực chết rồi, chỉ nghĩ như vậy, tôi thấy lòng quặn thắt. Giọng tôi khàn khàn, đáng sợ như thể đây phải giọng của mình. Tôi :

                  - Chính chàng chia lìa đôi ta, chính chàng chia lìa ta… và Cố Tiểu Ngũ.

                  Chàng thảng thốt, rồi lại cười phá lên, vẻ khinh miệt:

                  - Cố Tiểu Ngũ?

                  Tôi nhìn chàng, máu từ tay chảy ròng xuống áo bào. Lúc đứng bên bờ vực sông Quên, trái tim tôi hoá tro tàn, đến giờ khắc này, tôi chẳng còn sức lực để vùng vẫy. Tôi thấy bải hoải, tôi thấy rã rời, tôi mệt mỏi lắm rồi, rồi nhả từng chữ:

                  - Chàng giết Cố Tiểu Ngũ.

                  Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng giết chàng trai duy nhất tôi từng . Cố Tiểu Ngũ vĩnh viễn nằm lại với Đột Quyết, Cố Tiểu Ngũ bỏ mạng khi hôn lễ của chúng tôi còn dang dở, Cố Tiểu Ngũ bị chàng giết chính mảnh đất Tây Lương…

                  Tôi quên tất cả những chuyện trước kia, để rồi đến nơi này, để rồi lấy Lý Thừa Ngân… Chúng tôi đều quên hết quá khứ, thậm chí tôi còn biết Cố Tiểu Ngũ chết…

                  Cơn giận của chàng hoá thành tràng cười:

                  - Được! Được! Được lắm!

                  Rồi chàng quay người bỏ .

                  Lúc Vĩnh Nương quay lại kinh ngạc lắm, bà ấy :

                  - Sao Điện hạ rồi?

                  Rồi bà ấy kêu toáng lên.

                  - Trời ơi, sao dưới sàn nhiều máu thế này?

                  Bà ấy gọi cung nữ vào lau dọn, sau đó hỏi dồn tôi, rốt cuộc xảy ra chuyện gì. Tôi muốn cho bà ấy biết, chỉ thần người, mặc bà ấy lải nhải bên tai. Tôi phải làm sao đây? Tôi còn về Tây Lương được ? Giả sử tôi về được Tây Lương, nhưng Cố Tiểu Ngũ ra vĩnh viễn rồi…

                  Vĩnh Nương nghĩ chắc tôi muốn ngủ nên gặng hỏi nữa. Bà ấy gọi A Độ vào ngủ với tôi, A Độ vẫn theo lệ cũ, nằm dưới thảm trải trước giường tôi.

                  Song tôi thể nào chợp mắt được. Tôi bật dậy, A Độ cũng dậy theo, lại tưởng tôi khát nước bèn rót cho tôi tách trà.

                  Tôi cầm tách trà đó, mà kéo tay muội ấy, viết mấy chữ vào lòng bàn tay.

                  Tôi hỏi: “Chúng ta về Tây Lương nhé?”

                  A Độ gật đầu.

                  Tôi thấy rất an tâm. Tôi đâu muội ấy theo đó. Tôi biết trước kia muội ấy từng chịu nhiều đau khổ đến thế, thậm chí tôi biết vì sao muội ấy lại cam tâm tình nguyện theo tôi đến nơi này. Tôi níu tay A Độ, ngẩn người rồi bỗng giọt nước mắt. A Độ thấy tôi khóc bối rối, liền dùng gấu tay áo lau nước mắt cho tôi. Tôi lại viết vào lòng bàn tay A Độ, với muội ấy rằng tôi sao. Dường như A Độ rất xót xa, muội ấy ôm tôi vào lòng, khẽ xoa đầu tôi như an ủi đứa trẻ. Muội ấy cứ vỗ về như thế, cuối cùng tôi cũng chợp được mắt.

                  Thực ra, trong thâm tâm tôi biết rằng, tôi thất bại. Trước kia tôi thích Cố Tiểu Ngũ, sau khi mất trí nhớ, tôi lại thích Lý Thừa Ngân. Dù chàng lừa dối tôi từ đầu đến cuối, vậy mà tôi vẫn cứ chàng.

                  Nước sông Quên, đặng quên tình. Hễ ai đắm mình trong dòng nước thánh thần đó, về sau quên hết những chuyện đau khổ từng trải qua. Tôi quên chàng, chàng cũng quên tôi, chúng tôi còn vướng bận tiền duyên, thế nhưng, quên nhau rồi sao trái tim tôi vẫn hướng về chàng? Trước kia chàng đối xử tệ bạc với tôi, song tôi ngăn được mình thích chàng. Ba năm chúng tôi chỉ lần hắt hủi nhau, cớ gì lại đến bước đường ngày hôm nay? Thánh thần từng nghe lời khẩn cầu của tôi, để tôi được quên những khổ đau, sầu muộn mà chàng gây ra cho tôi, vậy mà hôm nay, thánh thần trừng phạt tôi chăng? Người khiến tôi nhớ lại tất cả, còn tạo trớ trêu đưa đẩy tôi chàng thêm lần nữa.

                  Kể từ đó, Lý Thừa Ngân còn ghé chỗ tôi nữa.

                  Tôi ốm dai dẳng thời gian dài, mãi đến khi mở miệng được cây ngọc lan ngoài hiên héo rũ, mà đào rộ phớt hồng như mây.

                  đào trổ bông sớm hơn cây đào, cây mận, hoa vừa đơm mà khiến đất trời ngập sắc xuân. Trong vườn có mấy cây đào đương độ sum suê, hoa nở rộ, bung màu như ráng chiều rực rỡ, như mây bồng bềnh, như lụa hững hờ phủ dưới mái hiên…

                  Lúc tôi còn ốm nằm chỗ ngoài kia xảy ra rất nhiều chuyện, nhờ Vĩnh Nương kể tôi mới hay. Thoạt đầu, Thủ phụ [1] Diệp Thành bị vạch tội mua quan bán tước, rồi nghe vụ việc lần này có liên quan đến rất nhiều người, chỉ thời gian ngắn mà trong triều ai nấy đều bất an, chỉ lo mình bị vu tội “kết bè kết đảng với nhà họ Diệp”. Rồi cả chuyện Đại tướng quân Bùi Huống ca khúc khải hoàn sau cuộc chinh phạt Cao Ly, Bệ hạ ngự ban ít vàng bạc. Còn nữa, Bệ hạ còn nạp thêm quý phi tuổi đời còn rất trẻ, vô cùng xinh đẹp, trong cung gọi là Nương Tử. Nghe Bệ hạ hết mực sủng ái vị quý phi này, thậm chí người tạm thời nắm quyền ở hậu cung là Cao Quý phi cũng còn kém xa. Sở dĩ người ta xôn xao bàn tán liệu có phải Bệ hạ sắc lập vị quý phi kia lên ngôi hoàng hậu, vì kiểu ân sủng này xưa nay quả hiếm thấy. Nhưng dù là chuyện triều chính hay hậu cung, tôi nghe vào tai trái ra tai phải, chẳng mấy chốc quên hết.

                  [1] Người đứng đầu nội các.

                  Nghe xong những chuyện này, tôi lại cảm thấy bực bội. Tình cảm của đàn ông khó mà tin được, nhất là đàn ông sinh ra và lớn lên trong hoàng thất, đứng trước toàn thể thiên hạ, phụ nữ có là gì? Cố Kiếm từng , người muốn lên ngôi hoàng đế, tránh sao được máu lạnh và nhẫn tâm. Tôi thấy sư phụ cũng phải.

                  Chiều xuống, bỗng nghe tiếng mưa rơi tí tách. Vĩnh Nương trông ra làn mưa ngoài cửa điện, khẽ than thở:

                  - Năm nay hoa kém tươi rồi!

                  Bệnh của tôi đỡ hơn, nhưng tôi lại mắc thêm bệnh ho. Thái y kê nhiều loại thuốc, ngày nào cũng uống mà vẫn khỏi. Tôi vừa ho, Vĩnh Nương vội kéo cho tôi chiếc chăn, chỉ lo tôi bị nhiễm lạnh. Tôi cũng mong bệnh của mình sớm khỏi, để tôi và A Độ còn về Tây Lương.

                  Dù Tây Lương của tôi thay đổi như thế nào, tôi vẫn muốn quay về.

                  Tôi ngồi trước cửa sổ, ngắm cánh hoa đào mong manh, ủ dột trong mưa, như những miếng lụa cắt vụn sũng nước, nặng trĩu còn bấu víu lấy cành. Vĩnh Nương sai người dựng màn gấm, những nhà giàu ở Trung Nguyên thường làm cách này để giữ hoa, mưa rơi xuống tàn phá được cây cối, hoa cỏ dưới tấm màn che. Tôi nhìn những bông hoa đào núp mình dưới tấm màn gấm, bốn góc còn móc những chiếc chuông vàng xinh để đuổi lũ chim, gió lay chuông văng vẳng tiếng ngân.

                  Tôi thường ngồi thẫn thờ nhiều canh giờ, Vĩnh Nương nghĩ tôi biến thành người khác. Trước kia tôi rất nghịch ngợm, giờ lại trầm như thế này, bà ấy thường nhìn tôi vẻ rất dỗi lo âu.

                  A Độ cũng lo lắng kém, muội ấy rủ tôi ra ngoài chơi chỉ lần, nhưng tôi thể nào vực nổi tinh thần. Tôi chưa kể cho A Độ nghe tôi nhớ ra những chuyện trước kia, tôi thầm nhủ có nhiều chuyện, tự mình chịu đựng tốt hơn.

                  Lúc hoa tàn tiết trời cũng bừng ấm. Trong cung thay áo mới, Đông cung cũng rục rịch thay sang những bộ xiêm y mỏng manh, qua đợt này bước vào hè. Vĩnh Nương sai người dựng trong sân điện cột xích đu, trước kia tôi thích ngồi dây đu lắm, nhưng trong mắt Lý Thừa Ngân, xích đu biến thành trò hề, chẳng trách trong Đông cung chưa từng có xích đu. Giờ Vĩnh Nương sai người làm cái cho tôi, nhưng tôi chẳng thiết chơi trò đó nữa.

                  Lúc dựng xích đu tôi gặp Bùi Chiếu. Lâu lắm rồi tôi mới thấy bóng dáng gã, từ lúc gã khuyên tôi nên qua lại với Nguyệt Nương, tôi gặp gã thêm lần nào nữa. Tôi sực nhớ lần đầu gặp Bùi Chiếu, gã đoạt đao tay A Độ, rồi cả tiếng kêu kinh hoàng bên bờ sông Quên. Chắc gã biết tôi nhớ lại tất cả.

                  Mà tôi kể với gã chuyện đó, nếu biết thế nào gã cũng đề phòng tôi. Người Trung Nguyên là những kẻ giả dối, giờ tôi cũng tiếp thu được ít nhiều, tôi phải giấu , có thế mới tìm được thời cơ cùng A Độ bỏ trốn.

                  Bùi Chiếu mang biếu tôi ít quà trong cung ngự ban, nghe là chiến lợi phẩm Đại tướng quân Bùi Huống mang về từ Cao Ly. Bệ hạ ban thưởng ít người, chỗ tôi cũng có phần.

                  Đều là đồ cổ và châu báu, xưa nay tôi chẳng có hứng thú với những thứ này, chỉ bảo Vĩnh Nương để gọn gàng vào chỗ.

                  Bùi Chiếu vẫn ôm tay chiếc giỏ, tự tay dâng lên tôi.

                  Tôi nhận, sai Vĩnh Nương mở ra xem, ra bên trong có chú mèo con, lông trắng muốt. Hai mắt nó bên màu lam, bên màu lục, vô cùng đáng . Nó vươn người trong giỏ, khẽ kêu.

                  Tôi hỏi:

                  - Bệ hạ ban thưởng cả cái này ư?

                  Bùi Chiếu :

                  - Con mèo này cha mạt tướng mang về, nghe là cống phẩm của Xiêm La. Huynh đệ trong nhà nghịch ngợm, e nuôi được, mạt tướng liền đem tặng Thái tử phi.

                  Tôi bế chú mèo con, nó nằm trong lòng tôi kêu “meo meo”, cái lưỡi màu hồng xíu liếm liếm ngón tay tôi. Tay tôi có cảm giác râm ran, tê tê khó chịu mà đáng vô cùng. Tự nhiên tôi thấy thích con mèo con này. Tôi liền cười, với Bùi Chiếu:

                  - Vậy giúp ta chuyển lời cảm ơn tới Bùi lão Tướng quân nhé!

                  Chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác Bùi Chiếu vừa thở phào. Tôi tươi cười nhìn gã. Thoạt đầu, gã theo Lý Thừa Ngân chinh phạt Tây Vực, gã là người mọi chuyện hơn ai hết. Ngày đó, bên bờ sông Quên, cũng chính gã nhìn thấy tôi nhảy xuống. Thế mà trước nay gã im lặng, hé răng dù chỉ nửa lời. Tôi nghĩ, thực ra gã hết mực trung thành với Lý Thừa Ngân. Nếu gã biết tôi nhớ lại mọi chuyện, liệu gã có lập tức thay đổi thái độ, đề phòng tôi ? Người Trung Nguyên đầy mưu, quỷ kế, tôi phải học từ từ, rồi mọi đau đớn bọn chúng chất chồng lên tôi, tôi trả lại hết.

                  Tôi dỗ chú mèo con:

                  - Meo meo ơi, em muốn ăn cá ?

                  Mèo con đáp lại bằng tiếng “meo”, nó lè lưỡi liếm ngón tay tôi khiến tôi ngưa ngứa, bất giác bật cười thành tiếng. Tôi ẵm nó lên cho A Độ xem:

                  - Xem này, mắt nó đẹp !

                  A Độ gật đầu. Tôi bảo Vĩnh Nương lấy sữa bò cho nó uống, rồi lại bàn với A Độ xem nên đặt tên cho nó là gì.

                  Tôi hỏi A Độ:

                  - Gọi nó là Tiểu Hoa nhé?

                  A Độ lắc đầu. Tôi cũng thấy buồn cười, lông con mèo trắng muốt, làm gì có sợi khác màu nào đâu, chắc chắn hợp với cái tên Tiểu Hoa rồi.

                  - Thế gọi là Tiểu Tuyết nhé?

                  Tôi lảm nhảm với A Độ mãi, bảo phải làm cho nó cái ổ, rồi đặt tên… chẳng Bùi Chiếu về từ bao giờ.

                  Từ khi có con mèo này, tôi ở Đông cung cũng bớt phần quạnh. Tiểu Tuyết rất nghịch ngợm, mỗi trò vờn đuôi thôi mà nó chơi mãi chán. Khi hoa đào, hoa mận vào mùa tàn phai, cánh hoa mỏng manh bay trong gió như những bông tuyết giữa lưng chừng trời, Tiểu Tuyết lại chồm mình vờn bắt, thế mà khi những cánh hoa rơi đầy cầu, nó lại thèm đoái hoài. Thỉnh thoảng có con bướm dạo qua, Tiểu Tuyết vờn nó chạy vòng quanh sân, bướm bay đến đâu, nó nhảy theo đến đó…

                  Lần nào Vĩnh Nương cũng mắng:

                  - Mèo đâu mà mèo, nghịch hơn cả cáo thành tinh.

                  Những ngày tháng bình yên cứ thế trôi qua. Ngày ngày ngắm Tiểu Tuyết nghịch ngợm chạy khắp nơi, ngắm hoa trong vườn đơm nở rồi lại héo tàn, trái đào chín đỏ rủ đầy cành, rồi lại ngắm đào, ngắm mận dệt những quả to cỡ hạt đậu nành cành lá xanh mướt. Thời gian như dòng nước trôi tiếng báo trước, ngày lại ngày cứ thế qua . Tối tối, tôi lại ra bậc thềm ngồi, ngắm trăng treo lơ lửng ngọn cây. Hàng triệu năm nay, trăng vẫn lên cao trong im lặng, trĩu buồn, cũng chẳng cười vui. ngày gió sương, ánh trăng đổ xuống mái ngói lưu ly, như dát lớp sương bạc mỏng. Dòng sông sao vẫn lặng lẽ toả sáng, Tiểu Tuyết nhoài mình kêu “meo meo” dưới chân, tôi vuốt ve cái cổ ấm nóng, mềm mại của nó, ôm nó vào lòng. Tôi cứ im lặng chờ đợi thời cơ để thoát khỏi chiếc lồng son này.

                  Thời gian qua tôi ốm nằm chỗ, mọi lễ tiết trong Đông cung cũng được giản tiện, nhất thiết phải hỏi ý kiến tôi. Trước kia, tuy có nhiều việc Triệu Lương đệ cai quản, song cơ bản vẫn do tôi nắm quyền quyết định. Tôi đổ bệnh nhiều ngày nay, những lễ lạt và yến tiệc trong cung đều vắng mặt. Đến khi bệnh tình khá hơn Tự Bảo lâm lại ngã bệnh.

                  Bệnh tình của muội ấy rất trầm trọng, thuốc thang đủ cả song vẫn có chuyển biến, vậy mà người trong Đông cung chẳng có ai ngó ngàng, nếu Vĩnh Nương buột miệng ra tôi cũng chẳng biết Tự Bảo lâm bị bệnh sắp chết.

                  hiểu vì sao tôi lại chủ động đến thăm ấy. Phần vì cảm thông, phần vì chính bản thân tôi cũng muốn cho Lý Thừa Ngân thấy rằng, tất cả vẫn vậy, chẳng có gì khác thường, hoặc để Lý Thừa Ngân vẫn nghĩ tôi chỉ là Thái tử phi ngớ ngẩn, khờ khạo, trong lòng hề toan tính mưu.

                  Tự Bảo lâm vẫn sống trong tiểu viện nằm lẩn khuất trong Đông cung trước kia, hai cung nữ hầu hạ ấy được đổi từ lâu. Chuyện bùa ngải tuy làm ầm ĩ, song Triệu Lương đệ vẫn kiếm cớ bắt nạt ấy. Tôi ốm thời gian dài nên quan tâm dành cho ấy cũng vơi phần nào. Tôi vô cùng áy náy, nếu tôi sớm phát ra, chưa biết chừng Tự Bảo lâm ốm đến nông nỗi này.

                  Tự Bảo lâm gầy rạc , chẳng khác nào bộ xương khô, tóc tai xỉn màu, khô như khóm cỏ dại. Tôi thoáng nhớ lần đầu gặp nhau, ấy vừa mất đứa con trong bụng, dáng vẻ cũng võ vàng, nhưng vẻ võ vàng hồi ấy chỉ như bông hoa tươi tắn oằn mình dưới cơn mưa rào, còn bây giờ, ấy chỉ còn là bông cúc tàn hứng gió tây, vẻ tươi tắn ngày nào trở nên héo rụi.

                  Tôi gọi rất lâu, Tự Bảo lâm mới hé mắt nhìn, ánh mắt hốt hoảng, lờ đờ.

                  Dường như ấy nhận ra tôi, chỉ hé mắt lát rồi lại khép mi thiếp ngủ.

                  Vĩnh Nương khéo léo thuật lại lời của thái y cho tôi nghe, tình hình Tự Bảo lâm thế này, chỉ e kéo dài được mấy ngày nữa.

                  Năm nay ấy mới mười tám tuổi, tuổi thanh xuân của người con , chớp mắt trôi qua, mà chốn Đông cung quạnh này chẳng khác nào con quái thú, ngấu nghiến tất cả những điều tốt đẹp, tươi vui. Người con đương tuổi xuân như bông hoa, mà chỉ nửa năm ngắn ngủi héo hon, tàn úa.

                  Tôi thấy buồn rầu, lúc rời khỏi chỗ Tự Bảo lâm, tôi hỏi Vĩnh Nương:

                  - Lý Thừa Ngân đâu?

                  Vĩnh Nương cũng biết, liền sai người hỏi, mới hay Lý Thừa Ngân và Ngô Vương đá cầu.

                  Tôi đến chính điện đợi Lý Thừa Ngân, đợi mãi đến xế chiều mới trông thấy đội chừng bảy, tám tên lính Vũ lâm lang bước qua cửa Minh Đức. Những kẻ khác đều xuống ngựa, chỉ có mình chàng rong ngựa băng qua khoảng sân rộng trước điện, tiến thẳng về phía này. Tôi thấy trong lòng rối bời, phải vài tháng rồi chúng tôi nhìn mặt nhau. Trước đây, tuy tôi và chàng phải ngày nào cũng gặp, những cứ cách dạo, chàng lại hùng hổ đến chỗ tôi chỉ để tranh cãi những chuyện cỏn con. Nhưng bây giờ, tôi và chàng còn gặp gỡ, cũng chẳng thể cãi nhau nữa rồi.

                  Thực ra, tôi luôn tránh mặt chàng. Mỗi khi nhớ đến chuyện cũ, tôi lại muốn giết chàng để báo thù.

                  Có lẽ, hôm nay tôi thăm Tự Bảo lâm chỉ là cái cớ tôi tự biện cho mình, cốt để đến tìm chàng. Tôi dõi theo bóng chàng cưỡi ngựa tiến lại gần, lòng chợt nhớ đến nụ cười rạng ngời gương mặt chàng lúc phi ngựa chạy về phía tôi thảo nguyên bao la.

                  Chàng chưa từng cười như thế phải. Dẫu sao, đó là Cố Tiểu Ngũ chứ nào phải Thái tử Lý Thừa Ngân.

                  Nội thị tiến lên hầu Lý Thừa Ngân xuống ngựa, chàng ném roi da cho thái giám, bước lên bậc thềm, như hề trông thấy tôi.

                  Tôi đứng dậy gọi chàng, rồi :

                  - Chàng đến thăm Tự Bảo lâm lần .

                  Đến lúc đó chàng mới quay lại nhìn tôi. Tôi lại :

                  - ấy bị bệnh nặng, sợ qua khỏi.

                  Chàng cũng chẳng bận tâm, cứ thế rảo bước tiến thẳng vào điện.

                  Mình tôi bơ vơ đứng đó, gió đầu hè phả hơi mát lành lên gò má, vậy ra mùa xuân qua.

                  Nếu là trước đây, hẳn chúng tôi lớn tiếng đôi co, tôi ép chàng thăm Tự Bảo lâm, dẫu phải trói, tôi vẫn lôi chàng đến đó bằng được.

                  Còn giờ sao? Tôi biết rằng, tức là , dẫu hôm nay Tự Bảo lâm có trút hơi thở cuối cùng sao? Chỉ e chàng sớm quên ấy rồi. Quên người con xinh đẹp, quên họ từng có với nhau đứa con, quên bao nhiêu đêm dài ấy thao thức đợi chờ là bấy nhiêu đêm héo hon, quạnh quẽ. Giống như chàng quên tôi, quên tôi từng , từng hận chàng, quên trăm con đom đóm chàng từng bắt, quên tôi từng nhảy xuống sông Quên, cắt lìa mọi ràng buộc giữa tôi và chàng…

                  Tất cả, chẳng phải là cầu được ước thấy đó sao?

                  Trời ngày càng nóng, Tự Bảo lâm chìm vào hôn mê, cứ yếu dần, đến lúc chẳng còn ăn uống được gì. Hằng ngày tôi đều đến thăm ấy, Vĩnh Nương cũng khuyên tôi vừa mới ốm dậy, nên ở lại chỗ người bệnh quá lâu, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Tôi chăm sóc Tự Bảo lâm, như thể chăm sóc chính cái tôi hấp hối trong thâm tâm mình.

                  Tôi túc trực bên Tự Bảo lâm, bọn cung nữ có muốn kiêng dè cũng dám lên tiếng. Song bệnh tình của Tự Bảo lâm đến nông nỗi này, giờ đây, chăm sóc, lo lắng dành cho ấy có phải là thừa thãi?

                  Tiết chiều oi ả, chuồn chuồn vờn bay trước khoảng sân, tàu lá chuối im lìm bên bờ tường, khí ngột ngạt gợn gió. Sắc trời dần ngả tím, mây đen kịt phía trời tây, có vẻ sắp mưa.

                  Bữa nay tinh thần Tự Bảo lâm có vẻ khá hơn, ấy hé mắt nhìn những người xung quanh lượt. Tôi nắm tay ấy, hỏi:

                  - Muội có muốn uống nước ?

                  ấy nhận ra tôi rồi mỉm cười, song cũng uống nước, lát sau lại chìm vào mê man, hơi thở đuối dần.

                  Tôi triệu thái y đến. Ông ấy bắt mạch xong, liền :

                  - Nếu Bảo lâm có phúc hơn người, ắt bình yên vô .

                  Tuy tôi nông cạn, song cũng ngộ ra lời ngự y , bệnh của ấy vô phương cứu chữa.

                  Vĩnh Nương toan khuyên tôi ra về, nhưng tôi nỡ. Bà ấy đành sai người thầm chuẩn bị hậu . Sắc trời thêm u, trong phòng hầm hập, cung nữ nhón chân châm đèn. Ánh nến chan hoà, rọi xuống bên giường bệnh. Sắc mặt Tự Bảo lâm trắng bệch, khoé miệng mấp máy, tôi kề tai bên môi ấy mới nghe được hai tiếng thốt ra bẫng, ra là: “Điện hạ…”

                  Tôi thấy buồn vô hạn, có lẽ trước lúc lâm chung, ấy chỉ mong được gặp Lý Thừa Ngân lần.

                  Thế mà tôi lại thể gọi chàng tới đây.

                  Người đàn ông này quyến rũ rồi hất bỏ, để ấy thân mình trơ trọi trong chốn thâm cung. Nhưng sao ấy lại thể quên chàng?

                  Dẫu có bạc bẽo, dẫu có phụ tình, dẫu chỉ là thờ ơ…

                  Chỉ cần bấy nhiêu, chỉ cần lần vô tình nhớ tới, thế mà cũng chẳng được thoả lòng…

                  Tôi nắm tay ấy chặt, cốt để truyền cho ấy chút hơi ấm cuối cùng, thế mà bàn tay ấy cứ lạnh dần…

                  Vĩnh Nương khuyên tôi nên ra về, để cung nữ thay quần áo cho Tự Bảo lâm. Bà ấy từng việc ma chay có rất nhiều thứ phải lo. Thêm vào đó, vẫn còn số chuyện cần phải giải quyết cho đường hoàng, như dâng thư lên lễ bộ, biết đâu truy phong cho ấy danh phận cao hơn, hoặc ban chức quan nho cho người nhà ấy… Tôi nhìn cung nữ phủ chiếc khăn gấm lên khuôn mặt tắt thở của Tự Nương, dù là khổ đau hay vui vẻ, tất cả chấm dứt rồi, tuổi đời dù ngắn ngủi nhưng cũng dừng lại ở đây…

                  Tiếng sấm rền từ phía chân trời vọng lại, Vĩnh Nương nán lại lo chuyện hậu . A Độ đưa tôi về tẩm điện. Lúc bước lên cầu, chợt nghe văng vẳng tiếng nhạc từ phía chính điện. thanh xa vời bỗng gợi tôi nhớ về buổi tối xa xưa bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát của người Đột Quyết, ấy là bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có chàng dũng sĩ Đột Quyết đứng ngoài cửa lều của người con mình , nhờ lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm thầm kín từ tận đáy lòng mình với người ấy.

                  Trước đây, tôi nhận ra giọng hát ấy lại vào lòng người đến thế, nó thoắt , thoắt như tiên khúc. Bầy đom đóm rập rờn quanh những bụi cỏ mọc ven sông, từng đốm chợt sáng rồi chợt tắt, giống sao băng, hoặc tựa như có nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí, tôi còn nghĩ, bầy đom đóm lập loè ấy chính là sứ giả nhà trời, họ cầm những chiếc đèn lồng xíu, nhóm lên những đốm lửa lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó rải rác những ánh lửa li ti, tiếng cười vui như xa cách tầng mây…

                  Tôi thấy chàng nhảy lên, lòng bàn tay chụp được mấy con đom đóm, chúng toả sáng lập loè giữa những kẽ ngón tay. Võ công của người Trung Nguyên giống như bức tranh, hoặc bài thơ phóng khoáng. Nhất cử nhất động của chàng như nhảy múa, đời này chẳng có điệu múa nào khí khái, hào hùng đến thế. Chàng tung người giữa trung, xoay nhưng góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đom đóm thoắt thoắt . Ống tay áo khẽ gợn theo làn gió…

                  Bầy đom đóm chen nhau bay vụt , tản vào gian như những ngôi sao băng xíu rồi vây quanh chúng tôi. Ánh sáng rạng rỡ chiếu lên khuôn mặt chúng tôi, tôi thấy đôi mắt đen láy của chàng nhìn mình say đắm… Lời ca cách trở, xa xôi, xa như người trời, kẻ dưới đất…

                  Máu trong tôi như muốn sôi lên, bầu trời thẫm đen như mực đột nhiên loé lên những lần chớp sáng rực, ánh sáng màu tím như đường gươm, chớp ngoằn ngoèo rẽ nhánh, vạch vào màn trời những vết nứt…

                  Tôi bảo A Độ:

                  - Muội về trước !

                  A Độ chịu, lại lẽo đẽo theo tôi. Tôi gỡ chuôi đao đeo bên hông A Độ, :

                  - Muội về thu vén những thứ cần thiết, khi ta về, chúng ta lập tức khởi hành Tây Lương.

                  A Độ nhìn tôi với ánh mắt đầy nghi hoặc lẫn khó hiểu. Tôi thúc giục mãi, muội ấy mới chịu quay về.

                  Ngày hôm nay, tôi phải chấm dứt mọi chuyện.


    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 14





                  Tôi mon men tiến vào chính điện, mới nhận ra trong này chẳng hề có yến tiệc linh đình. Cung nữ trực đêm chẳng bỏ đâu, bên trong bóng người, ngoài Lý Thừa Ngân ngồi bên cửa sổ thổi tiêu.

                  Chàng mặc áo bào trắng, thần sắc nghiêm túc, giống vẻ mặt thường ngày tôi vẫn thấy. Vẻ tư lự vầng trán như biến chàng thành người xa lạ. Tôi chợt nhớ đến Cố Tiểu Ngũ, khi chúng tôi mới quen nhau, dường như chàng cũng mang dáng vẻ chín chắn như thế này. Nhưng dạo đó, chàng hồ hởi và hay lớn tiếng cười đùa với tôi.

                  Giờ tôi mới biết chàng còn có tài thổi tiêu.

                  chàng thổi bài gì mà giai điệu man mác như thể nỗi mất mát khiến chàng hoang mang.

                  Nghe thấy tiếng bước chân, chàng mới buông cây tiêu, ngoái đầu nhìn. Thấy tôi, chàng lạnh nhạt ra mặt.

                  Tôi thể kìm nén phẫn nộ, rút đao xông lên. Quả nhiên chàng thể ngờ tôi vừa xuất phăm phăm lao tới, nghiêng người né tránh.

                  Tôi chẳng chẳng rằng, chỉ có thanh đao tay chém vun vút. Thực ra tôi biết võ công, thân thủ của Lý Thừa Ngân lại lanh lẹ, nhưng tôi lăm lăm thanh đao trong tay nên chàng chỉ có thể né tránh. Tôi vung từng nhát chí mạng, Lý Thừa Ngân khổ sở tránh né, mấy lần suýt dính đao, vậy mà chẳng hiểu sao, chàng hề gọi người.

                  Thế cũng tốt. Thoạt đầu là do giận dữ, về sau, thanh đao tay tôi dần mất kiểm soát do tôi đuối sức. Hai chúng tôi ẩu đả trong im lặng, đánh mãi khiến tôi mệt, thở hổn hển. Cuối cùng, Lý Thừa Ngân bẻ ngoặt cánh tay tôi, giằng lấy thanh đao rồi quẳng ra xa. Tôi chớp thời cơ, cắn phập vào bàn tay chàng, vị tanh nồng còn vương ở kẽ răng. Cơn đau khiến chàng kéo bả vai tôi và cả hai ngã lăn ra đất. Tôi quơ tay, với lấy con sư tử bằng đồng tấm thảm, đập vào chân chàng. Con sư tử tinh xảo ấy móc vào quần, kéo rách toạc đường khá dài. Chàng đau đến nhăn nhó mặt mày, tay ấn chặt vào vết thương đùi. Tôi thấy chân chàng có vết sẹo, răng của loài dã thú khoét vết sâu hoắm, nhìn gớm ghiếc. Sau bao nhiêu năm mà vết thương ấy vẫn đáng sợ. Tôi sực nhớ những gì Cố Kiếm , chàng giết vua sói mắt trắng để xin cưới tôi, sau bị vua sói cắn vào chân. Nhưng đâu có phải vì muốn cưới tôi, chàng cấu kết với bọn Nguyệt Thị hòng lừa ông ngoại… Lòng tôi càng thêm bứt rứt, nhưng chỉ thất thần lát, chàng dằn tôi xuống thảm, bẻ quặt cánh tay tôi.

                  Chân tôi đá loạn xị, chàng đè tôi xuống, cho tôi cử động. Cổ tôi nhớp nháp mồ hôi, áo quần dính vào da thịt. Chúng tôi vật lộn đến nỗi mồ hôi đầm đìa trán chàng, chảy dài xuống má, đến tận cằm, sắp rơi xuống mặt tôi. Tôi vội vàng né tránh, Lý Thừa Ngân lại tưởng tôi vùng vẫy toan chụp con sư tử bằng đồng đặt gần đó, nhanh nhẹn giữ chặt vai tôi. Chẳng ngờ lúc vặn người hòng tránh né, tôi nghe “xoẹt” tiếng, vai áo bị chàng kéo rách, móng tay cào xước da thịt, cảm giác rất xót. Tôi nổi giận tính lên gối thụi chàng, tiếc là hụt. Ngoài trời bỗng rền vang tiếng sấm, lằn chớp tím đổ lên rèm, rọi vào điện sáng bừng. Tôi thấy khuôn mặt chàng đỏ gay, đôi mắt vằn tia đỏ, chàng loạng choạng bổ nhào về phía tôi.

                  Sẵn tinh thần cảnh giác, tôi lăn lê toan trốn, nhưng bị chàng kéo giật váy lại, tôi đạp cánh tay chàng ra, song chàng chịu buông, ngược lại, còn vươn tay túm chặt thắt lưng tôi. Cung nữ thắt cho tôi cái nút đôi, nhìn có vẻ phức tạp, song thực tế, chỉ cần rút là tuột. Chỉ chốc lát chàng giũ tung đống dây lưng, tôi còn tưởng chàng định trói tôi lại nên thầm tính phải nhanh chóng giằng lấy đầu dây. Tiếng sấm rền vang bên ngoài, những tia chớp thi nhau bổ toác nền trời, cơn gió khiến cửa sổ mở toang, rèm mành trong điện bay phất phơ. Tôi gồng mình để giằng lấy chàng bất ngờ nới lỏng tay siết, buông đầu dây bên kia ra, khiến tôi ngã nhào về phía sau, gáy đập trúng con sư tử bằng đồng đặt dưới sàn. Cơn đau nhói khiến tôi điếng người, hồi lâu phản ứng được. Khuôn mặt Lý Thừa Ngân ở rất gần, chàng trừng trộ khiến tôi có cảm giác bất cứ lúc nào chàng cũng có thể thẳng tay cho tôi cái tát, nhưng . Sấm rền mỗi lúc vang, như thể sét đánh ngay mái nhà, rồi bỗng dưng chàng cúi đầu, thay vì cho tôi trận như tôi tưởng, chàng lại ngấu nghiến hôn tôi.

                  Lý Thừa Ngân nghiến rách cả vành môi tôi. Tôi cũng cắn chặt lưỡi chàng cho đến khi bật máu, vị tanh lan khắp vòm miệng, vậy mà chàng vẫn chưa chịu buông. Khuôn mặt chàng dữ tợn, giọng hằm hè tra hỏi:

                  - Cố Tiểu Ngũ là ai? Cố Tiểu Ngũ là ai hả? ! Có phải là gã thích khách kia ?

                  Cố Tiểu Ngũ là ai ư? Tôi ra sức vùng vẫy, tay chân đấm đá loạn xạ, vậy mà chàng vẫn trơ trơ, mặc kệ những cú đá, cú đấm ào ào nện vào người, xé toạc xiêm y của tôi. Tôi bật khóc nức nở:

                  - Cố Tiểu Ngũ là Cố Tiểu Ngũ. Cố Tiểu Ngũ tốt hơn chàng ngàn vạn lần!

                  Tôi rất thực lòng, chẳng ai bì được với Cố Tiểu Ngũ của tôi. Chàng từng giết vua sói mắt trắng vì tôi, chàng từng gom trăm con đóm đóm vì tôi, đáng lẽ tôi là vợ chàng, nhưng chàng ra vào đúng ngày chúng tôi thành thân… Tiếng khóc của tôi vỡ òa, Lý Thừa Ngân nổi điên, thô bạo, căm hờn của chàng tưởng chừng có thể xé nát thân thể tôi thành trăm nghìn mảnh. Chưa bao giờ tôi trải qua những chuyện kinh khủng thế này. Tôi khóc lóc gọi Cố Tiểu Ngũ đến cứu mình… nhưng trong lòng tôi hiểu , chàng vĩnh viễn bao giờ tới.

                  Đôi mắt Lý Thừa Ngân vằn vện những tia máu đỏ, như con sói đơn độc bầy đàn tôi từng gặp sa mạc, dáng vẻ dữ tợn rất đáng sợ. Cuối cùng, chàng bịt kín miệng tôi, nước mắt tuôn rơi mặn đắng khóe môi, nụ hôn thô bạo khác nào cắn xé khiến tôi đau nhói.

                  Trời bắt đầu đổ mưa, chỉ lát sau, mưa xối xả đổ mái hiên, như thiên binh vạn mã xé gió lao đến, trời đất chỉ còn lại tiếng nước đổ ào ào.

                  Tôi khóc đến sưng mọng cả mắt, đến rạng sáng mưa ngớt, mái hiên thỉnh thoảng những giọt nước lại gieo lộp bộp, gió đưa tiếng chuông đồng. Trong điện im lìm như nấm mồ, tôi mệt bã người bởi vì khóc, tiếng thút thít vẫn ngừng. Lý Thừa Ngân ôm tôi từ đằng sau, chàng giam chặt tôi trong vòng tay mình. Tôi nằm ngoảnh mặt vào trong để phải nhìn thấy khuôn mặt chàng. Nước mắt tôi rơi đẫm gối làm má lạnh ngắt. Khẽ vén phần tóc gáy đẫm mồ hôi của tôi, chàng lại đặt lên đó nụ hôn nóng rực.

                  Tôi vẫn còn run rẩy trong cơn thút thít, chỉ hận thể giết được chàng.

                  Chàng :

                  - Tiểu Phong, sau này ta chăm sóc, thương nàng, nàng quên gã Cố Tiểu Ngũ kia , được ? Ta.. ra ta thực lòng… thực lòng…

                  Chàng lập lại hai lần từ “thực lòng”, nhưng cuối cùng cũng bỏ ngỏ những gì muốn .

                  Cả đời này, có lẽ chàng chưa từng thẽ thọt, khúm núm đến thế. Chúng tôi nằm sát bên nhau, khi đó, tôi quay phắt lại, chàng liền giật ngửa về phía sau, như thể ánh mắt tôi vừa thiêu đốt chàng.

                  Tôi :

                  - bao giờ ta quên Cố Tiểu Ngũ.

                  Tôi tự nhủ, tôi cũng bao giờ quên vẻ mặt chàng lúc này. Lúc đó, khuôn mặt chàng cắt còn giọt máu, nước da trắng bóc giờ đây tái ngắt như da người bệnh. Chàng giương mắt, ngây ra nhìn tôi. Tôi cười khẩy:

                  - Cố Tiểu Ngũ tốt hơn chàng ngàn vạn lần, chàng bao giờ bì được với Cố Tiểu Ngũ. Chàng tưởng trò cưỡng bức này khiến ta cam chịu theo chàng ư? Thế này có là gì đâu, cũng chỉ như bị chó cắn mà thôi.

                  Vẻ mặt chàng lúc đó khiến tôi thấy hả hê vô cùng, nhưng trong tôi là hụt hẫng và trái tim trống rỗng. Ánh mắt chàng đờ đẫn, mặt mày nhợt nhạt. Thoạt đầu, tôi đoán chúng tôi lại cãi vã, hoặc chàng xua tôi , sau này bao giờ gặp nhau nữa, nhưng chàng vẫn lặng im.

                  Người trong Đông Cung ai biết chuyện tối qua, rằng tôi bị thương, cổ tay cổ chân bầm tím, Lý Thừa Ngân cũng chẳng khá hơn, mặt mũi bị tôi cào xước cũng bị tôi cắn ngấu nghiến. Đám người hầu xì xào, Vĩnh Nương bối rối ra mặt, vừa xoa bóp vết bầm cho tôi, vừa :

                  - Nương nương nên ôn tồn hơn với Điện hạ.

                  Chưa cho chàng nhát đao là ôn tồn với chàng lắm rồi. Chẳng qua vì võ công của tôi kém cỏi, nếu , thể nào tôi cũng giết chàng. Tôi từng nhủ thầm, đợi đến lúc chàng ngủ say, tôi giết chàng, hiềm nỗi chàng cho tôi cơ hội ấy. Lúc Vĩnh Nương xoa bóp chân tay cho tôi cung nữ hớt hải chạy vào, thưa rằng thấy Tiểu Tuyết đâu.

                  Tiểu Tuyết quen thói nghịch ngợm, hay trốn ra ngoài chơi, Vĩnh Nương bèn sai cung nữ thường xuyên để mắt đến nó. Giờ thấy Tiểu Tuyết đâu, cung nữ liền chạy vào bẩm báo tôi.

                  Vĩnh Nương gọi nhiều người tìm, song tìm ra. Tôi chẳng còn lòng dạ nào nhớ Tiểu Tuyết, tôi chỉ nghĩ cách làm sao để báo thù được cho mẹ. Giờ tôi lại cảm thấy Lý Thừa Ngân làm nhiều chuyện đáng hận thế, nếu chỉ đâm cho Lý Thừa Ngân nhát dao chết ngay tức khắc dễ dàng cho chàng quá. Tôi bảo rồi, bao nhiêu đau đớn khổ sở chàng đổ xuống thân tôi, tôi trả lại bấy nhiêu cho chàng, trả dần dần từng chút .

                  Hôm sau là Tết Đoan Ngọ, trong Đông Cung cắt xương bồ [1] bỗng nhiên có cung nữ nhìn thấy nhúm lông trắng nổi giữa hồ, vớt lên xem mới biết là Tiểu Tuyết.

                  [1] loại cỏ thơm, dung làm thuốc, mọc ở ven đầm, ao hoặc nơi ẩm thấp. Tết Đoan Ngọ nhà nào cũng treo xương bồ kết thành hình nhân để trừ tà.

                  Nó bị dìm đến chết.

                  Tôi thấy buồn rầu. Dù là ai, là thứ gì khi bước chân vào chốn này, cuộc sống đều khốn cùng, bi đát, đến con mèo mà cũng may mắn hơn.

                  Tôi đoán Lý Thừa Ngân cũng biết chuyện, hôm sau chàng sai người đem tặng tôi con mèo khác.

                  Cũng màu lông trắng muốt, cũng đôi mắt như thế. Nghe , chàng cất công phái người tới tìm sứ thần Xiêm La để xin, vậy mà tôi chỉ ngồi chỗ, chẳng buồn ngó ngàng đến nó. ngờ cái chết của Tiểu Tuyết lại kéo cơn giông tố ập đến.

                  Có người nhìn thấy cung nữ của Triệu Lương đệ quẳng Tiểu Tuyết xuống hồ. Chuyện tới tai Lý Thừa Ngân, chàng bất ngờ nổi đóa, phạt đánh ả cung nữ nọ bốn mươi trượng, lĩnh bốn mươi trượng ấy ả chết là điều đương nhiên. Vĩnh Nương tất tả chạy vào bẩm báo tôi, đáng lẽ tôi nên ôm đồm những chuyện chẳng đâu vào đâu này, nhưng mạng người quan trọng hơn cả, tôi buộc phải đến điện Lệ Chính.

                  Quả nhiên, bầu khí u ám ngột ngạt bao trùm điện Lệ Chính. Lý Thừa Ngân thay y phục, vẫn chưa ra. Mấy cung nữ quỳ ở góc điện vẫn sụt sùi khóc lóc. Tôi vừa bước vào, chưa kịp mở miệng lời nào thái giám loan báo, Triệu Lương đệ đến.

                  Hiển nhiên Triệu Lương đệ cũng tức tốc đến ngay, mặt mày u ám, vừa bước chân qua cửa quỳ sụp xuống, gào lên thống thiết:

                  - Điện hạ, thần thiếp bị oan… Người của thần thiếp xưa nay vốn biết điều, tuyệt đối làm những chuyện này. Oan cho thần thiếp quá…

                  Chưa dứt lời, nước mắt ả tuôn như mưa.

                  Trông ả cũng tội nghiệp, tôi kìm được tiếng thở dài, với Lý Thừa Ngân:

                  - Thôi, chuyện này liên quan gì đến Triệu Lương đệ.

                  Tuy tôi thương Tiểu Tuyết , nhưng cũng chẳng đến nỗi vì con mèo mà phải đánh chết vài người.

                  Lý Thừa Ngân hằm hằm :

                  - Hôm nay hại mèo, thế nào mai sau cũng hại người!

                  Triệu Lương đệ nghe xong tức lắm, ngẩng phắt lên, mắt ngấn lệ:

                  - Cớ sao điện hạ lại hoài nghi thiếp như vậy?

                  Thoạt đầu, tôi định xin cho mấy cung nữ kia, vậy mà Triệu Lương đệ lại chẳng biết điều, ả gào lên:

                  - Chính tỷ! Chắc chắn là tỷ, tỷ dựng sẵn cái bẫy này, tỷ đúng là loài rắn độc! Tỷ trừ khử Tự Bảo lâm, bây giờ lại quay sang hãm hại tôi!

                  đợi tôi lên tiếng, Lý Thừa Ngân nạt nộ:

                  - Nàng điều xằng bậy gì đấy!

                  Triệu Lương đệ quệt nước mắt, đứng thẳng dậy, :

                  - Thần thiếp hề điều xằng bậy. Thái tử phi làm bùa ngải nguyền rủa thần thiếp rồi đổ vạ cho Tự Bảo lâm. Cung nữ hầu hạ Tự Bảo lâm do chính tay Thái tử phi chọn, Thái tử phi sai bọn chúng đặt bùa gỗ đào trong phòng Tự Bảo lâm. Ngay sau khi vụ việc bị phát giác, Thái tử phi cứ lần lữa, cho điều tra hòng chia rẽ thần thiếp và Tự Bảo lâm. Cái bẫy “ mũi tên trúng hai đích” này của Thái tử phi quả là độc ác! Bẩm điện hạ, chuyện Tự Bảo lâm qua đời rất kỳ lạ, muội ấy yếu ớt nhưng cùng lắm cũng chỉ là suy nhược cơ thể thôi, làm gì đến nỗi yểu mệnh qua đời? Chắc chắn có kẻ mưu giết người diệt khẩu!

                  Tôi tức đến mức miệng líu ríu, bèn mắng át ả:

                  - láo!

                  Triệu Lương đệ ngước nhìn tôi, ràng khuôn mặt ả còn nguyên vệt nước mắt, vậy mà ánh nhìn lại thản nhiên khác thường. Ả nhìn tôi:

                  - Nhân chứng vật chứng đầy đủ cả, xin thưa với Thái tử phi, chẳng qua hôm nay tỷ gài bẫy ám hại tôi, chứ thực lòng tôi cũng định giấu chuyện này hộ tỷ. ngờ tỷ nhẫn tâm đến nỗi vừa giết Tự Bảo lâm giết con mèo hòng hại tôi. Thái tử phi quá độc ác.

                  Tôi nổi cáu, :

                  - Nhân chứng vật chứng đâu? Có giỏi ngươi đưa ra đây!

                  - Được thôi.

                  rồi Triệu Lương đệ quay phắt người, dặn bọn thuộc hạ mấy câu, chẳng mấy chốc, lũ người kia áp giải hai cung nữ đến.

                  Tôi chưa bao giờ nghĩ, chuyện lại ra nông nỗi này. Hai cung nữ của Tự Bảo lâm thú nhận rằng chính tôi sai chúng đặt bùa gỗ đào dưới gầm giường của Tự Bảo lâm.

                  - Thái tử phi người muốn trừ khử Triệu Lương đệ, nếu Triệu Lương đệ bị nguyền chết, chắc chắn người đối xử tử tế hơn với Bảo lâm, sau này người khuyên điện hạ lập Bảo lâm làm Lương đệ, cùng nhau hưởng phú quý…

                  - Thái tử phi , dù bị phát giác cũng chớ lo, đương nhiên người bênh Bảo lâm…

                  Nghe hai cung nữ ấy tố cáo mình, tôi chợt thấy người lạnh toát.

                  Triệu Lương đệ dàn dựng cái bẫy này từ bao giờ? Từ khi nào ả toan tính dụ tôi vào tròng? Trước kia tôi chỉ lờ mờ đoán, có lẽ ả ưa tôi, mà cũng có thể ả ghét cay ghét đắng tôi, tóm lại vì tôi cướp ngôi vị Thái tử phi của ả, mà chung quy, lỗi là ở tôi, tôi ngáng giữa ả và Lý Thừa Ngân. Nhưng thể ngờ, ả lại hận tôi đến thế.

                  Triệu Lương đệ quỳ gối thưa:

                  - Từ lúc phát ra Thái tử phi có dính líu đến chuyện bùa ngải, thần thiếp chỉ nghĩ có lẽ Thái tử phi nhất thời hồ đồ mới làm vậy, nên thần thiếp dám hé răng oán thán với điện hạ. Có điện hạ làm chứng, bấy lâu nay, trước mặt điện hạ, thần thiếp chưa từng phàn nàn gì về Thái tử phi, thậm chí, thần thiếp còn khuyên điện hạ nên gần gũi Thái tử phi. Nỗi khổ tâm của thần thiếp, có trời cao chứng giám. Mãi đến khi Tự Bảo lâm qua đời, thần thiếp mới sinh nghi, song chưa có lệnh nên dám tự ý điều tra, chỉ thầm nhắc nhở mình nên đề phòng. ngờ Thái tử phi lại bày trò giết con mèo hòng hãm hại thần thiếp. Tại sao thần thiếp lại giết con mèo chứ? Chuyện này quả thực nực cười, chắc chắn Thái tử phi muốn mượn cớ nhằm kích động điện hạ, khiến người hắt hủi thần thiếp. Xin điện hạ đòi lại công bằng cho thần thiếp!

                  Lý Thừa Ngân nhìn hai cung nữ quỳ dưới sàn, lúc lâu sau mới :

                  - đến nước này, vậy cho điều tra chuyện của Tự Bảo lâm, lấy bã thuốc niêm phong ra đây.

                  Sau đó, chàng còn triệu cả thái y đến đối chứng. Kết quả là, trong bã thuốc mà Tự Bảo lâm uống còn sót lại hoa đỗ mai. Tuy loại hoa đỗ mai này có độc tính, nhưng trong đơn thuốc hằng ngày của Tự Bảo lâm có rễ sâm, rễ sâm sắc cùng hạt hoa đỗ mai tạo độc tính , về lâu dài, uống vào khiến cơ thể yếu dần cho đến chết. Cung nữ sắc thuốc khai rằng, mỗi bận thái y kê đơn, chính tôi sai người lấy thuốc. Cung nữ chỉ phụ trách sắc thuốc, am hiểu dược liệu, sắc xong liền dâng lên cho Tự Bảo lâm uống, ngờ trong thuốc lại có độc.

                  Với tính hấp tấp của tôi và chiếc bẫy tỉ mỉ đến từng chi tiết này, có cho tôi vạn cái miệng cũng chẳng biện bạch.

                  Tôi giận quá liền phá lên cười:

                  - Tại sao ta phải giết Tự Bảo lâm? Lẽ nào khúc củi khô lại nguyền chết được ? Vì ta ngu ngốc, nên mới rơi vào bước đường này.

                  Triệu Lương đệ quay ngoắt lại, với Lý Thừa Ngân:

                  - Bẩm điện hạ…

                  Lý Thừa Ngân bỗng bật cười:

                  - Đúng là gì độc ác hơn lòng dạ đàn bà.

                  Tôi nhìn Lý Thừa Ngân, rất lâu sau mới thốt ra được câu:

                  - Chàng cũng tin ả sao?

                  Lý Thừa Ngân lạnh lùng :

                  - Sao ta lại tin?

                  Tự nhiên, tôi thấy nhõm hẳn:

                  - Đằng nào ta cũng ngán cái ghế Thái tử phi này từ lâu rồi, chàng muốn phế cứ phế .

                  Phế , để tôi còn về Tây Lương.

                  Lý Thừa Ngân lạnh lùng buông câu:

                  - Nàng đừng có mơ.

                  Hóa ra tôi mơ mộng . Lý Thừa Ngân triệu Dịch đình lệnh đến, tội trạng của tôi được liệt kê dài dằng dặc, như bản tính cợt nhả, tuân thủ cung quy… Thôi tính tôi được hiền thục nên có mang tội như vậy cũng chẳng sai, song hai tội nghiêm trọng nhất là bỏ bùa và hại chết Tự Bảo lâm.

                  Tôi bị giam lỏng ở điện Khang Tuyết, nơi quạnh nhất trong Đông Cung. Xưa nay chưa từng có ai ở đó, mà nghe đồn nơi đó cũng chẳng khác lãnh cung là mấy.

                  Khi phế truất Hoàng hậu, tôi mới biết, giả sử Lý Thừa Ngân muốn phế tôi, cũng cần thông qua rất nhiều bước phức tạp. Trước tiên Hoàng thượng hạ chiếu chỉ cho Trung Thư Tỉnh, sau đó mới đến Môn Hạ Tỉnh đồng ý. Chưa kể đến đám quần thần kia, như lần Hoàng Hậu bị phế, có kẻ dâng lời can gián, dọa dập đầu xuống bậc thềm ở Thừa Thiên Môn, sau đó ông ta dập đầu , may mà vẫn giữ được mạng sống. Cuối cùng, Bệ hạ nổi trận lôi đình, còn Hoàng Hậu vẫn bị phế.

                  Thực ra tôi nghĩ, nếu nơi này canh gác lỏng lẻo, tôi và A Độ dễ dàng bỏ trốn.

                  Nguyệt Nương đến thăm lúc tôi lúi húi trồng hoa trong vườn.

                  Hai tay tôi lấm lem bùn đất, thoạt đầu Nguyệt Nương bật cười rồi lại tỏ vẻ buồn phiền:

                  - Điện hạ cử ta tới thăm muội. Sao lại ra nông nỗi này?

                  Bấy giờ tôi mới biết, ra vị ái phi tử tên Nương Tử được Bệ hạ sủng ái gần đây, chính là Nguyệt Nương.

                  Tôi nhìn Nguyệt Nương lượt, tỷ ấy vận xiêm y mới của hoàng cung, áo lụa mỏng, tóc mây, trán điểm vàng, nom kiều đầy mê hoặc. Tôi cười nhạt :

                  - May mà Lý Thừa Ngân cần muội nữa, bằng muội phải gọi tỷ là mẹ kế, vậy thiệt thòi cho muội quá.

                  Nguyệt Nương nhăn mày:

                  - Muội còn cười được à?

                  Nguyệt Nương cũng nhìn tôi lượt rồi chau mày :

                  - Muội nhìn lại mình , đến nước này rồi mà vẫn còn tâm tư trồng hoa ư?

                  Nguyệt Nương kể cho tôi nghe số chuyện ở bên ngoài mà tôi hay biết.

                  Chuyện là, gia tộc nhà họ Triệu vốn nắm quyền hành trong triều, giờ bới móc, chỉ trích tội danh của tôi, đòi xử tôi tội chết. Bệ hạ rất khó xử, người từng triệu Lý Thừa Ngân vào chầu. Bệ hạ cho đám hầu cận lui hết ra ngoài, biết hai cha con họ gì mà sau đó Bệ hạ nổi trận lôi đình, còn Lý Thừa Ngân hằm hằm bỏ về. Bây giờ, đến cả cha con thiên tử cũng xích mích. Nguyệt Nương ở bên khéo giúp, song cũng đành bó tay.

                  Nguyệt Nương :

                  - Tỷ biết những tội trạng đó đều do bọn họ vu khống cho muội, nhưng giờ tình thế bức bách, tỷ xin bệ hạ cho phép đến thăm muội, muội có gì muốn hoặc muốn gặp ai ?

                  Tôi :

                  - Muội chẳng muốn gặp ai cả.

                  Nguyệt Nương biết tôi hiểu ý, bèn nhẫn nại giảng giải hồi. ra tỷ ấy muốn tôi gặp Lý Thừa Ngân lần, rồi khéo với chàng vài câu. Chỉ cần Lý Thừa Ngân quyết tâm Triệu Lương đệ dẫu có làm mình làm mẩy vẫn có cách biến chuyện to thành chuyện , chuyện thành có gì. cho cùng Tự Bảo lâm kia vốn xuất thân tầm thường, mà chuyện bùa ngải này, thực ra cũng chẳng phải chuyện gì to tát.

                  Nguyệt Nương :

                  - Tỷ nghe trước đây, trong cung từng xảy ra chuyện tương tự. Nhưng vì chuyện năm đó liên quan đến vị Quý phi mà hoàng đế rất mực ân sủng, Trung Tông hoàng đế chỉ hạ lệnh đánh chết cung nữ chứ điều tra ràng, dẫu người đời có đôi lời xì xào, sau lưng cũng làm được gì đâu.

                  Bảo tôi phải khúm núm trước Lý Thừa Ngân ư? Thà giết tôi còn hơn.

                  Tôi lạnh nhạt :

                  - Muội làm chuyện đó đâu, bọn họ đổ vạ cho muội, muốn giết muốn chém gì tùy, nhưng bảo muội van nài Lý Thừa Ngân tuyệt đối .

                  Nguyệt Nương khuyên tôi hồi lâu, song tôi nhất quyết đồng ý. Sau cùng, tỷ ấy chực khóc vì tức, tôi bèn kéo Nguyệt Nương ra xem hoa tôi trồng.

                  Ở điện Khang Tuyết, tôi trồng rất nhiều hoa hồng tỷ muội. Người phụ trách trông coi điện Khang Tuyết đối xử với tôi và A Độ rất mực cung kính, tôi muốn hoa giống, họ liền mua cây giống cho tôi, tôi cần phân bón, bọn họ lập tức đem phân bón tới. Loài hoa này chỉ ở Trung Nguyên mới có. Nhớ dạo còn ở phường Minh Ngọc, Nguyệt Nương thường cài bông lên tóc. Tôi với Nguyệt Nương:

                  - Bao giờ hoa nở, muội tặng tỷ mấy bông để cài lên tóc.

                  Nguyệt Nương chau mày, :

                  - Muội lo cho bản thân mình à?

                  Tôi múc gáo nước tưới cho khóm hoa hồng:

                  - Tỷ cứ nhìn những bông hoa này mà xem, chúng mọc lên từ đất, yên lành lại bị người ta nhổ cả rễ, đem bán tới đây, vậy mà chúng vẫn sống được, còn nở những bông xinh xắn. Trước nay chúng hề bận lòng thân mình ra sao. Con người ta sống ở đời, sao cứ phải lo quẩn lo quanh? Dù thế nào cũng được, lo lắng mãi có ích gì?

                  Đằng nào Lý Thừa Ngân cũng chẳng tin tôi. Tôi chỉ ước giá như mình đừng nhớ lại những chuyện xưa kia. May thay, chỉ mình tôi nhớ ra, còn chàng vẫn vậy. Thôi tôi cứ đợi, bao giờ có cơ hội, tôi muốn chấm dứt mọi chuyện, sau đó rời xa nơi này, bao giờ gặp lại Lý Thừa Ngân nữa.

                  Tôi tuôn tràng khiến Nguyệt Nương dở khóc dở cười, đành bỏ về cung.

                  Tôi thấy sống ở đây cũng chẳng đến nỗi nào, ngoại trừ bữa ăn có phần đạm bạc ra nơi này rất yên tĩnh.

                  Vậy mà trước kia tôi lại thích những nơi xô bồ, náo nhiệt.

                  hôm, nửa đêm ngủ, đột nhiên A Độ lay tôi dậy. Tôi dụi mắt hỏi:

                  - Sao thế?

                  Nom A Độ vẻ hốt hoảng, muội ấy kéo tôi ra cửa sổ phía đông, chỉ ra mái tường.

                  Thấy có ánh lửa và khói đen bốc lên nghi ngút, tôi giật thót mình kinh ngạc. Sao tự nhiên lại có cháy?

                  Lửa lan nhanh, chẳng mấy chốc cháy bùng bùng, A Độ đạp tung cửa sổ phía tây, chúng tôi nhảy vọt qua cửa sổ, rồi muội ấy kéo tôi lao lên bờ tường phía sau. Chúng tôi chưa kịp đứng vững bên tai vang lên tiếng rít, A Độ nhanh tay đẩy tôi ngã dúi xuống chân tường. Tôi thấy A Độ vung đao chém thứ gì đó đánh “keng” tiếng, ra là mũi tên bằng thép. Lúc A Độ lao mình xuống toan kéo tôi biết liên tiếp những mũi tên thứ hai, thứ ba… từ đâu bắn ra. A Độ vung đao chém vài phát, mưa tên vẫn ào ào bắn đến. Mái ngói tường bị bắn thủng lỗ chỗ. Tôi giương mắt nhìn mũi tên xé gió lao đến, cắm phập vào vai A Độ, máu tức bắn ra, tôi hét lên:

                  - A Độ!

                  Vậy mà muội ấy bất chấp cả vết thương vai, chỉ lo vùng vẫy, lao người xuống định nắm lấy tay tôi. Gió xé bên tai ào ào, tôi nhớ lần chúng tôi trèo tường cũng gặp trận mưa tên, lúc đó A Độ giữ được tôi, chính Bùi Chiếu đỡ tôi. Có điều bây giờ cả tôi lẫn A Độ đều biết rằng Bùi Chiếu thể xuất ở nơi này.

                  Giữa làn mưa tên, cuối cùng A Độ cũng túm được cánh tay tôi. Thanh đao vạch vào bờ tường, làm tóe lên tia lửa, những viên gạch xanh ào ào giũ bụi. Chúng tôi lao như bay, vai phải của A Độ bị thương, đủ sức để găm đao bám vào tường, trong khi tên ập đến mỗi lúc nhiều. Tôi liền hét lên:

                  - Buông tay , A Độ! Buông tay ngay!

                  Nếu bây giờ mà buông tay cả hai cùng chết. Bờ tường cao chót vót, dưới kia là nền đá, rơi xuống thế nào cũng thịt nát xương tan.

                  Máu từ vai A Độ xuống mặt tôi, tôi ra sức vằng khỏi tay muội ấy. Bất thình lình, A Độ gồng mình quăng tôi bay vút lên cao, cơ thể tôi bị ném vào trung, vút lên như cưỡi mây cưỡi gió, chân tay quơ cào loạn xạ, thế rồi cũng bám được vào mái ngói. Tôi lóp ngóp bò lên tường, trơ mắt nhìn A Độ trúng thêm vài phát tên. A Độ thực đuối sức, may còn có thanh đao cắm vào tường, nên giảm được phần nào tốc độ rơi. Sau cùng muội ấy thể đỡ nổi, vừa buông tay liền rơi phịch xuống nền đá.

                  Tôi bật khóc nức nở, giữa đêm đen mù mịt, trận mưa tên tấn công dồn dập vào mái ngói bên cạnh tôi. Chúng xuyên vào gạch ngói, tạo thành chuỗi những tiếng “phịch, phịch” quấy động màn đêm, mảnh vỡ văng cả vào mặt tôi, vô cùng đau đớn. Tôi gào khóc gọi tên A Độ, bốn bề tên trút như mưa. Chưa bao giờ tôi thấy mình bơ vơ, trơ trọi như thế này.

                  Có bóng người đứng chắn trước mặt tôi, chỉ với cái phất tay mà làn tên xé gió lao bỗng tản ra tứ phía, văng lệch đến mấy trượng, lao xiêu vẹo xuống mặt đất. Qua làn nước mắt, tôi thấy màu áo trắng nổi bật tựa ánh trăng.

                  Là Cố Kiếm.

                  Sư phụ gạt phăng mớ mũi tên, kéo tôi phi thẳng lên mái ngói lưu ly nóc điện, tôi ra sức kêu gào:

                  - Còn A Độ nữa! Mau cứu A Độ!

                  Cố Kiếm đẩy tôi núp sau đuôi diều hâu [1] , đoạn quay người nhào khỏi mái ngói. Trong màn đêm, tôi thấy ống tay áo của sư phụ bị gió thổi căng phồng, tưởng như cánh chim trắng sà xuống tường. Bên dưới bất ngờ xuất rất nhiều những đầu hỏa tiễn, xé toang màn đêm tịch mịch, ập đến như mưa sao băng, lao về phía sư phụ. Tôi nghe tiếng mũi tên cắm vào tường “bụp bụp”, chẳng khác nào bầy thiêu thân thi nhau đâm đầu vào lửa, thắp lên những đốm lửa bập bùng, rải rác mà cũng chóng lụi tàn trong trung. Nhanh như cắt, Cố Kiếm ẵm được A Độ lên nhưng loạt hỏa tiễn kia ào ào lao tới mỗi lúc nhiều, mùi khét đặc quánh bầu khí. Khắp nơi tiếng mũi tên rít lên, kéo theo cái đuôi lửa nhắm thẳng vào Cố Kiếm. Núp sau đuôi diều hâu, tôi thò đầu ra nhìn, thấy dưới đó đen kịt màu giáp trụ, quân lính tiến từng bước, siết chặt vòng vây, tiếng giáp sắt va vào nhau sàn sạt. biết bọn chúng có mấy nghìn, mấy vạn tên.

                  [1] biểu tượng kiến trúc thường được chạm hoặc đắp nổi nóc, mái của các công trình kiến trúc thời cổ.

                  tay Cố Kiếm ôm A Độ, tay kia cầm kiếm đánh chặn làn tên bay. Những mảnh tên gẫy còn hừng hực lửa chất thành đống dưới chân sư phụ, ánh lửa hắt vào tấm áo trắng lúc tỏ lúc mờ. Bóng sư phụ xuất quỷ nhập thần, chuyển động liên tục. Tên bay rào rào ngay trước mặt, sư phụ khó mà thoát được vòng vây của loạt mưa tên. Áo trắng nhuốm máu, tôi biết đó là máu của sư phụ hay máu của A Độ. Mặc dù A Độ được Cố Kiếm ẵm tay, nhưng cánh tay kia buông thong, bất động, vết thương của muội ấy thế nào. Cứ thế này, cả sư phụ và A Độ bị trúng tên mất. Lòng tôi nóng như có lửa đốt, những kẻ mai phục kia là ai. Chợt nghĩ những kẻ này mang khiên giáp, lại bắn hỏa tiễn sáng lóa cả Đông Cung thế này hẳn phải thích khách. Nghĩ tới đó tôi liền đứng phắt dậy, phía sau có kẻ khẽ ấn vào lưng tôi, :

                  - Nằm xuống.

                  Tôi quay lại nhìn, ra là Bùi Chiếu, theo sau gã là toán Vũ Lâm lang vận giáp mỏng. Bọn chúng im lặng, nhoài người mái ngói, tay lăm lăm cung nỏ kéo căng, tầm ngắm rơi vào thế trận dưới kia. Những kẻ này phục kích cao, kể cả khi Cố Kiếm có thể dứt được vòng vây, ắt chúng đồng loạt phóng tên, dồn sư phụ vào đường chết.

                  Tôi rối rít với Bùi Chiếu:

                  - Mau bảo bọn họ dừng lại!

                  Bùi Chiếu khẽ đáp:

                  - Bẩm Thái tử phi, Thái tử Điện hạ có lệnh phải giết bằng được thích khách, xin thứ tội cho mạt tướng thể tuân theo ý người.

                  Tôi túm chặt cánh tay gã:

                  - Nhưng người đó phải thích khách, hơn nữa sư phụ ta còn bảo vệ A Độ, A Độ cũng phải thích khách. Mau bảo bọn chúng dừng lại ngay!

                  Bùi Chiểu bối rối ra mặt, rồi gã từ từ rút cánh tay lại. Tôi nổi đóa mắng:

                  - Đúng là Cố Kiếm từng hành thích bệ hạ, nhưng bệ hạ có làm sao đâu. Vả lại các ngươi muốn bắt Cố Kiếm cứ bắt , nhưng A Độ vô tội, ngươi mau bảo người của ngươi dừng lại ngay.

                  Bùi Chiếu trầm giọng :

                  - Điện hạ có lệnh, khi thích khách xuất , dù thế nào cũng phải hạ gục , tuyệt đối để thoát. Xin Thái tử phi thứ lỗi, mạt tướng thể nghe theo ý của người.

                  Tôi tức tối, :

                  - Vậy còn ta? Nếu Cố Kiếm giữ ta trong tay, các ngươi cũng bắn chết cả ta lẫn sư phụ ư?

                  Bùi Chiếu ngước nhìn tôi, ánh mắt u án, ánh lửa của trận tên như chùm hoa lửa li ti bập bùng trong mắt gã, rồi tàn lụi trong chốc lát. Tôi :

                  - Nhanh bảo bọn họ dừng lại, nếu ta nhảy xuống đó chết cùng họ!

                  Bùi Chiếu bất ngờ giơ tay, :

                  - Mạt tướng xin thất lễ!

                  Người tôi bỗng tê rần, rồi chân cẳng bủn rủn, tôi ngồi thụp xuống, thể nào nhúc nhích được nữa. Gã dám điểm huyệt tôi. Tôi mắng chửi hồi, vậy mà lờ , chỉ ngoảnh lại, hô:

                  - Chuẩn bị!

                  Ba ngàn quân nóc điện đồng loạt nhỏm dậy, bọn chúng nửa ngồi nửa quỳ, tay kéo căng dây cung, đầu mũi tên hướng thẳng vào hai người bị bủa vây giữa thế trận lửa dưới kia.

                  Tôi tức đến phát khóc, chỉ biết gào thét:

                  - Bùi Chiếu! Hôm nay ngươi thử bắn xem, ta thề giết ngươi!

                  Bùi Chiếu bỏ ngoài tai những gì tôi , quay đầu thét lớn:

                  - Bắn!

                  Tôi nghe những tiếng rít xé toạc gian, biết bao nhiêu mũi tên bay vọt qua đỉnh đầu, lao thẳng vào người đứng giữa vòng lửa. Cố Kiếm nhảy vọt lên định thoát thân, nhưng làn tên dày khiến sư phụ phải thoái lui. Mắt tôi nhòe nước, chỉ còn thấy trận mưa tên bao phủ đất trời. Cố Kiếm bất ngờ gạt tay, thả A Độ xuống đất, hẳn sư phụ muốn thoát thân trước, nhưng tên bay mỗi lúc dày, mũi này nối mũi kia, có lấy khe hở, bóng dáng Cố Kiểm và A Độ bị che khuất. Tôi điên cuồng mắng chửi, vậy mà Bùi Chiều vẫn nhắm mắt làm ngơ. Tôi gào khóc thảm thiết, trước kia tôi chưa bao giờ khóc lóc thê thảm như thế này, thậm chí tôi còn van nài gã cho quân lính dừng lại, vậy mà Bùi Chiếu vẫn màng đến.

                  Chẳng biết bao lâu sau Bùi Chiếu mới hô ngừng, lúc ấy mắt mũi tôi nhòe nhoẹt, chỉ thấy phía dưới kia những mũi tên chất thành gò núi , chẳng thấy bóng dáng người đâu. Đám Vũ lâm lang thân đeo khiên giáp đứng chắn hàng đầu lùi về phía sau bước, cho hàng quân thứ hai tay lăm lăm giáo mác chọc vào gò núi chất bằng tên kia, rồi hò nhau xới tung cả đám tên lên.

                  Tôi thấy máu nhuộm đỏ màu áo trắng của Cố Kiếm.

                  Tôi há hốc miệng mà tài nào khóc bật ra được tiếng khóc, những giọt nước mắt lăn theo gò má, chảy vào miệng, mặn chát. A Độ, A Độ của tôi.

                  Ba năm nay, A Độ và tôi luôn sát cánh bên nhau, đến hận nước thù nhà còn chưa trả mà muội ấy vẫn theo tôi vượt nghìn dặm xa xôi tới đây, A Độ luôn che chở cho tôi bằng cả tính mạng của mình… Vậy mà tôi lực bất tòng tâm, giương mắt nhìn muội ấy chết dưới làn tên bay.

                  Chẳng tự lúc nào, Bùi Chiếu thả tôi xuống dưới, gã vừa giải huyệt đạo người, tôi liền giật lấy thanh kiếm rồi chỉ thẳng vào mặt gã. Gã nhìn tôi, :

                  - Thái tử phi muốn giết xin cứ giết, lệnh vua khó cưỡng, mạt tướng thể theo.

                  Chân nam đá chân chiêu, tôi chạy về phía A Độ, bọn lính đứng chặn ở giữa cho tôi qua. Tôi liếc nhìn Bùi Chiếu, phất tay. Lúc đó, bọn Vũ lâm lang mới rẽ ra tạo thành lối cho tôi.

                  Khắp người A Độ vấy toàn máu. Tôi gào khóc, nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt muội ấy. Cơ thể A Độ vẫn còn ấm, tôi kiểm tra khắp người muội ấy, cốt tìm xem muội ấy có bị thương chỗ nào , còn chữa trị được chăng? người A Độ có vết thương, chỉ có phần đùi bị thương, tôi vừa khóc vừa gọi tên A Độ, rồi mí mắt muội ấy khẽ cử động.

                  Tôi nửa mừng nửa kinh ngạc, nức nở gọi tên A Độ. Cuối cùng A Độ cũng mở mắt. Sau đó, muội ấy gắng gượng chỉ vào Cố Kiếm nằm bên, tôi hiểu gì cả, chỉ thấy muội ấy ngóng sang Cố Kiếm, còn tay nắm chặt vạt áo tôi.

                  - Muội muốn ta qua đó xem à?

                  Tôi đoán thế. A Độ khẽ gật đầu.

                  Tôi A Độ muốn làm gì, nhưng giờ đây, trong cơn hấp hối, muội ấy muốn tôi làm gì, tôi quyết làm bằng được.

                  Tôi đến bên Cố Kiếm, đôi mắt sư phụ khép hờ, sư phụ vẫn còn sống.

                  Tôi vô cùng kinh ngạc, mắt sư phụ hơi hấp háy, sư phụ nhận ra tôi, lưng người găm chi chít mũi tên, chi chít như lưng con nhím, chừa lấy tấc da thịt còn nguyên vẹn. Lòng tôi quặn đau, bao lần sư phụ từng cứu tôi, lúc ở núi Thiên Hằng sư phụ cứu tôi, vừa nãy thôi giữa làn mưa tên, sư phụ cũng cứu tôi… Tôi khuỵu xuống, gọi tên người.

                  Tôi biết Lý Thừa Ngân lại giăng cái bẫy này, chính tôi bắt tội sư phụ.

                  Khóe môi Cố Kiếm mấp máy, tôi xích lại gần hơn, Bùi Chiếu tiến lên toan ngăn tôi:

                  - Nương nương, xin người cẩn thận kẻo thích khách giở trò.

                  Tôi cáu gắt:

                  - Sư phụ ta ra nông nỗi này rồi, lẽ nào còn tấn công được ai?

                  Tôi kề tai bên môi Cố Kiếm, nghe sư phụ thào:

                  - A Độ… sao rồi…?

                  ngờ sư phụ còn nhớ tới A Độ, tôi :

                  - sao đâu, muội ấy chỉ bị thương thôi.

                  Khóe môi sư phụ khẽ nhếch lên như mỉm cười.

                  Lưng sư phụ chi chít vết thương, trong khi A Độ chỉ bị thương ở đùi. Bỗng nhiên tôi hiểu ra:

                  - Sư phụ che cho muội ấy ư?

                  Thay vì trả lời, sư phụ nhìn tôi với ánh mắt ngây dại.

                  Bất chợt, tôi thấy xao lòng, đáng lẽ sư phụ thoát được rồi, vậy mà người lại cứu A Độ, ràng người thả A Độ xuống. Chỉ cần bỏ lại A Độ, chưa biết chừng cố có thể thoát được thân, thế mà người vẫn nỡ, thế mà người vẫn liều cả mạng sống của mình để cứu A Độ. Sao người lại cứu A Độ?

                  ràng tôi biết câu trả lời, vậy mà vẫn cố hỏi:

                  - Sao sư phụ lại cứu A Độ…?

                  Tiếng sư phụ rất , dường như bị gió cuốn phăng bất cứ lúc nào, tôi đành xích lại gần hơn, nghe được tiếng người thều thào:

                  - Muội ấy… Nếu như muội ấy… muội rất đau lòng…

                  Lòng tôi quặn thắt, vậy mà sư phụ vẫn cười:

                  - Ta muốn… làm muội buồn…

                  Tôi :

                  - Sao sư phụ ngốc thế? Ta lại chẳng thích người… Sao sư phụ khờ thế…?

                  Sư phụ đăm đăm nhìn tôi:

                  - Là ta…có lỗi với muội…

                  Tôi đọc thấy trong đôi mắt ấy dâng đầy nỗi ân hận, mà bản thân chẳng nỡ lòng nào, sư phụ sắp trụ được nữa rồi. Cuối cùng, nước mắt tôi giàn giụa:

                  - Sư phụ…

                  Sư phụ ngước nhìn bầu trời sao, hơi thở gấp dần:

                  - Sao… ngày hôm đó… cũng sáng… như hôm nay… Muội ngồi cồn cát… hát… hát bài… con cáo…

                  Sư phụ ngắt quãng, thành câu, nhưng tôi chợt hiểu, liền dịu giọng :

                  - Ta biết… ta hát… ta hát cho người nghe nhé…

                  Tôi khẽ nâng đầu sư phụ lên, mặc kệ Bùi Chiếu nghĩ sao, mà cũng mặc kệ đám Vũ lâm lang nghĩ gì, lòng tôi đau như cắt, tôi nhớ bài hát ấy, bài hát duy nhất tôi thuộc:

      justify;" align="            “Có con cáo đơn



      justify;" align="            Ngồi cồn cát… ngắm trăng mình.



      justify;" align="            Cơ mà đâu phải… ngắm trăng



      justify;" align="            Cáo mong đợi… nàng chăn dê…”



                  Mấy câu hát ngắc ngứ. Bài này tôi thuộc làu nhưng hôm nay, chẳng hiểu sao mà hát câu nào câu nấy đều lạc giọng. Tôi cứ hát, cứ hát, lúc sau mới nhận ra mình khóc, nước mắt rơi xuống khuôn mặt Cố Kiếm. Sư phụ mỉm cười nhìn tôi, cho đến khi cơ thể dần lạnh ngắt… tay người mới thõng mặt đất. Bộ quần áo màu trắng bị tên bắn rách bươm, loang lổ máu. Tôi thấy có thứ gì dưới vạt áo, liền khẽ rút ra xem, ra là đôi hoa thắng nhuốm màu máu. Tôi chợt nhớ buổi tối hôm tết Nguyên Tiêu ấy, sư phụ mua cho tôi cặp hoa thắng, nhưng sau đó tôi gỡ xuống, quẳng dưới chân người. ra sư phụ vẫn luôn giữ nó bên mình. Thứ tôi vứt mà sư phụ lại nâng niu như báu vật như thế này ư?

                  Tôi quỳ gối bên sư phụ, buông giọng hát thảm thiết. Dường như có trận gió sa mạc quét qua, gió siết vào cuống họng, đau thể thành lời:

      justify;" align="            “Có con cáo bơ vơ



      justify;" align="            Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình.



      justify;" align="            Nào đâu cáo muốn sưởi mình



      justify;" align="            Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua…”



                  Bùi Chiếu bước lại gần, đỡ tôi:

                  - Thái tử phi…

                  Tôi vung tay vả vào mặt gã, dường như gã ngẩn người, nhưng vẫn kéo tôi đứng dậy:

                  - Mạt tướng đưa Thái tử phi đến gặp Điện hạ.

                  - Ta gặp ai hết!

                  Tôi lạnh lùng , rồi lườm gã:

                  - Lũ các người… các người…

                  Tôi lắp bắp nghĩ ra từ nào để mắng chửi chúng. Chúng chỉ nghe theo lệnh của Lý Thừa Ngân, Lý Thừa Ngân mới chính là kẻ đầu trò.

                  Cố Kiếm chết, A Độ lay lắt…

                  Tất cả là tại tôi, là vì tôi…

                  Đáng lẽ Cố Kiếm sa vào cái bẫy chúng giăng, nhưng chỉ vì tôi…

                  Đáng lẽ Cố Kiếm chết, tất cả chỉ tại tôi…

                  Chính tôi bảo Cố Kiếm cứu A Độ, nên sư phụ mới liều mình cứu A Độ…

                  Hết lần này đến lần khác, những người thân thiết lần lượt bỏ mạng vì tôi…

                  Bọn chúng giết ông ngoại, giết mẹ, giết Hách Thất, giờ chúng lại giết cả Cố Kiếm…

                  Bọn chúng giết người thân của tôi, giết những người thương tôi, bọn chúng giết trừ ai…

                  Bùi Chiếu :

                  - Vết thương của A Độ cần chữa trị kịp thời. Bẩm Thái tử phi, mạt tướng sai người mời thái y…

                  Tôi lạnh lùng trừng mắt với gã, song Bùi Chiếu hề né tránh ánh nhìn của tôi, cũng chẳng biện bạch điều gì.

                  Tôi muốn gì với gã nữa.

                  Vết thương của A Độ rất nghiêm trọng nhưng tôi để bọn chúng chạm vào người muội ấy, tự tay tôi bế muội ấy lên. Lần nào A Độ cũng bế tôi, cuối cùng cũng có ngày chúng tôi đổi vị trí cho nhau. Cơ thể A Độ bẫng, lần trước A Độ bị thương nặng, may nhờ có Cố Kiếm mới tai qua nạn khỏi, lần này chẳng biết có vượt qua được ?

                  Xương bả vai phải của A Độ bị gãy, ngoài ra còn gãy chiếc xương sườn. Thái y rút mũi tên, sau đó cố định lại xương, đắp thuốc xong xuôi, A Độ chìm vào hôn mê.

                  Tôi ngồi thu lu bên giường muội ấy, ai đến khuyên cũng mặc, thậm chí chẳng buồn ngước mắt nhìn lên. Hai tay tôi ôm chặt lấy thân mình, lòng quyết, đợi A Độ lành lặn, tôi dẫn muội ấy về Tây Lương.

                  Bấy giờ quần áo người tôi khô vết máu, tóc tai tôi bù xù xổ tung. Lúc Lý Thừa Ngân đến, chàng chau mày, :

                  - Thay quần áo cho Thái tử phi.

                  Vĩnh Nương bối rối. Bà ấy vừa bước lên, tôi rút thanh đao ra, gườm gườm nhìn bà ấy.

                  Lý Thừa Ngân phẩy tay, kẻ hầu người hạ đều lui ra ngoài.

                  Chàng bước đến trước mặt tôi, qua lọn tóc lòa xòa, tôi thấy mũi giầy chàng tiến từng bước, từng bước lại gần… Tôi định vung đao, chàng lại chậm rãi khom lưng ngồi xuống, nhìn tôi.

                  Tôi cũng chằm chằm nhìn lại.

                  Chàng khẽ :

                  - Tiểu Phong, kẻ đó tất phải loại trừ, võ công của lợi hại hơn người. dám uy hiếp hoàng đế, trong vòng vây truy sát mà vẫn thoát dễ dàng, ta buộc phải giết

                  Tôi lạnh lùng nhìn chàng thay vì tức giận.

                  - Để nàng làm mồi nhử là lỗi của ta, nhưng ta bất đắc dĩ mới phải làm vậy. Triệu Lương đệ là con nhà thế gia, cả cha và trai ả đều là trọng thần, ta cần lý do chính đáng mới trừ khử được ả. Nhà họ Triệu và Cao tể tướng cấu kết với nhau, Phụ hoàng muốn loại bỏ bè phái nhà họ Cao nên mới hạ quyết tâm lật lại vụ án nhà họ Trần. khi phá được án cũ của Trần Thị, Cao Vu Minh ắt bị trừng trị… Vụ Triệu Lương đệ hãm hại nàng… thoạt đầu ta chỉ có thể tương kế tựu kế… Giờ nàng yên tâm, mọi việc kết thúc rồi…

                  Chuyện chàng phức tạp quá, tôi thể hiểu được.

                  Chàng kể thêm rất nhiều chuyện, phần lớn liên quan tới cục diện chính trị trong triều. Nhân có oan tình từ mười năm trước của gia đình Nguyệt Nương, mọi việc mới được truy xét. Bây giờ cả nhà họ Cao bị bêu đầu, họ Triệu bị gán tội chết, vụ Triệu Lương đệ đầu độc Tự Bảo lâm hòng hãm hại tôi cũng bị phơi bày, ả bị trục xuất khỏi Đông cung, tủi hổ mà quyên sinh… Xưa kia, nhà họ Cao ỷ vào thế lực của Hoàng hậu, sau khi Hoàng hậu bị phế bỏ, bọn chúng lại mưu đưa Cao Quý phi ra hòng tranh giành ngôi vị Hoàng hậu. Nhưng mưu mô nhất phải kể tới nhà họ Triệu, chúng từng góp tay giúp Hoàng hậu hãm hại mẹ ruột chàng. Hậu cung luôn là nơi chứa đựng những mưu, đấu đá, toan tính và lọc lừa… Chàng báo thù cho mẫu thân, tất cả những kẻ dính líu đến chuyện hai mươi năm về trước, chàng đều truy xét trừ ai. Có lẽ đây chính là chuyện khiến chàng đắc ý nhất trong cuộc đời, có lẽ là thế này chăng?

                  Cái gì mà Cao tể tưởng? Cái gì mà nhà họ Triệu? Cái gì mà Cố Kiếm, thậm chí còn có cả Nguyệt Nương…?

                  Tôi hiểu được.

                  Nhất là khẩu khí của chàng khi về Triệu Lương đệ, dửng dưng như thể chàng kể về con kiến vừa bị giẫm chết.

                  Người con từng ‘đầu ấp tay gối’ với chàng ba năm, người con chàng từng coi như báu vật đấy sao?

                  ra tất cả đều là diễn kịch cả ư?

                  Lẽ nào chút ân tình cũng chưa từng có ư?

                  Trước kia tôi rất ghét Triệu Lương đệ, nhất là khi ả vu cáo hãm hại tôi. Vậy mà giờ khắc này, tôi chỉ cảm thấy ả đáng thương, vô cùng đáng thương.

                  Trái tim Lý Thừa Ngân hẳn là được đẽo từ đá. Dẫu là con chó, con mèo, nuôi nó ba năm cũng chẳng nhẫn tâm giết bỏ, gì đến con người… Tôi cứ tưởng ba năm trôi qua, mọi rồi biến đổi, thế nhưng kẻ duy nhất thay đổi chính là chàng. Bất kể chàng có từng nhảy xuống sông Quên hay , dù chàng có lãng quên tất cả hay , chàng vĩnh viễn thể nào quên được quyền lực, mưu tính của mình. Chàng chưa lần ngại ngần khi lợi dụng những kẻ xung quanh, chàng hề tiếc rẻ khi lợi dụng tình cảm, chỉ cốt sao đạt được mục đích.

                  Chàng vươn tay, định xoa mặt tôi.

                  Tôi liền :

                  - Cút !

                  Lý Thừa Ngân :

                  - Bọn họ làm nàng bị thương đâu, họ đều là những tay cung cự phách trong Vũ lâm lang do đích thân Bùi Chiếu đôn đốc. Những mũi tên ấy bắn ra, chỉ đáp xuống quanh nàng, tuyệt đối có mũi nào có thể bắn trúng nàng. Ta nên đưa nàng vào tình thế nguy hiểm như vậy, thực lòng ta rất hối hận …

                  - Vậy A Độ sao?

                  Tôi lạnh nhạt nhìn chàng.

                  - Lỡ như A Độ chết cùng Cố Kiếm sao…

                  Chàng ngẩn người, :

                  - Tiểu Phong, A Độ chỉ là đứa nô tì…

                  Tôi tát “bốp” vào mặt chàng. Chàng hề né tránh, còn tôi giận run người:

                  - Muội ấy dùng cả tính mạng để bảo vệ ta, muội ấy theo ta lặn lội vạn dặm xa xôi từ Tây Lương tới đây… A Độ trong mắt chàng chỉ là đứa nô tì, nhưng trong lòng ta, muội ấy chẳng khác nào chị em ruột thịt.

                  Tôi nhớ tới Cố Kiếm, nhớ sư phụ hy sinh thân mình cứu A Độ. Người với tôi rằng, người muốn làm tôi buồn thêm nữa. Đến cả Cố Kiếm cũng hiểu, nếu A Độ ra , tôi đau lòng mà chết.

                  Lý Thừa Ngân đưa tay ra ôm tôi, :

                  - Tiểu Phong, ta nàng. Ngày ta bị ốm, khư khư nắm tay nàng, đến lúc tê rần mà nàng vẫn buông, lúc ấy ta tự nhủ, sao đời lại có ngốc đến thế, nhưng ta ngờ, ta lại ngốc nghếch ấy. Khi nàng bị thích khách bắt cóc, quả thực ta sốt ruột đến phát điên… Lúc ấy ta tự hỏi, nếu cứu được nàng, ta phải làm sao… Xưa nay ta chưa từng sợ hãi… vậy mà lúc nàng trở về, nàng bảo rằng nàng Cố Tiểu Ngũ. Ta biết Cố Tiểu Ngũ chính là Cố Kiếm, ghen tuông khiến ta suýt hóa điên. Phải, ta cố tình giết , bởi những là thích khách mà còn là Cố Tiểu Ngũ. Giờ Cố Tiểu Ngũ chết rồi, là lỗi của ta, ta nên giết . Nhưng Tiểu Phong, tất cả chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Từ nay trở về sau, còn ai dám hại nàng nữa, ta thề với nàng, nàng hãy tin ta lần này, được ?

                  Nước mắt tôi rơi ướt mu bàn tay, sao tôi lại hay khóc thế này?

                  Ba năm trước nhảy xuống sông Quên, lòng tôi não nùng, chỉ mong vĩnh viễn quên con người này. Cuối cùng, tôi quên chàng, tôi chỉ nhớ những chuyện sau khi lấy Lý Thừa Ngân mà thôi, lúc ấy chàng khôi ngô tuấn tú, chàng ôn tồn lịch thiệp… Lúc ấy tôi lòng dạ mong chàng thích mình, dẫu chỉ là thi thoảng chàng cười với tôi thôi cũng được.

                  Giờ chàng ôm tôi trong lòng, những lời đắm say, thế nhưng tất cả những thứ ấy phải điều tôi ao ước.

                  Tôi lắc đầu, thoát khỏi vòng tay chàng:

                  - Sư phụ phải Cố Tiểu Ngũ. Cố Tiểu Ngũ chết lâu rồi.

                  Chàng ngơ ngác nhìn tôi, rất lâu sau mới cất được lời:

                  - Ta nhận lỗi rồi, nàng còn muốn ta phải làm sao nữa?

                  Tôi thấy mệt nhoài, muối gì thêm, đành ngả đầu vào cột trụ:

                  - ra chàng thích Triệu Lương đệ như thế, chỉ vì ả mà ngày ngày chàng cãi vã với ta. Giờ đây chàng lại , tình cảm đó chỉ là lừa gạt... Thoạt đầu chàng qua lại mật thiết với Cao tể tướng, giờ lại bảo, lão đại nghịch bất đạo, đáng tội chết… Thoạt đầu chàng ghét cay ghét đắng ta, nằng nặc đòi bỏ ta, bây giờ lại ta… Loại người như chàng… chàng bảo ta phải tin thế nào đây…

                  Lý Thừa Ngân im lặng, lúc sau mới lên tiếng:

                  - Tiểu Phong, ta là Thái Tử, có rất nhiều chuyện… đó là bổn phận của ta.

                  Tôi bật cười:

                  - Phải rồi, kẻ muốn lên ngôi hoàng đế, tránh sao khỏi nhẫn tâm và máu lạnh.

                  Khi đó, Cố Kiếm với tôi câu này, tôi hoàn toàn bận tâm, bây giờ tôi mới hiểu.

                  khi xích gần đến ngôi vị hoàng đế, chàng phải ruồng rẫy chà đạp lên rất nhiều, rất nhiều những thứ tình cảm khác. Tình cảm giữa tôi và A Độ, chàng thể hiểu được, bởi chàng có tình cảm đó. Người như chàng nào tin tưởng ai, nào dành cho ai…

                  Tôi hỏi:

                  - Nếu ngày nào đó, ta là mối đe dọa tới ngôi vua của chàng, giang sơn của chàng, xã tắc của chàng, liệu chàng có giết cả ta?

                  Lý Thừa Ngân vờ né tránh:

                  - Tiểu Phong, so với Hoàng cung, Đông cung là nơi nguy hiểm hơn cả, làm Thái tử còn khó hơn làm Hoàng đế… Con đường ta đầy gian truân, nàng biết…

                  Tôi ngắt lời chàng:

                  - Chàng làm thế phải ? ngày chàng giết cả ta?

                  Chàng đau đáu nhìn tôi, cuối cùng :

                  - bao giờ.

                  Tôi cười, từ tốn :

                  - Chàng làm vậy.

                  Tôi thủng thẳng từng tiếng:

                  - Chàng từng nghe đến nơi gọi là sông Quên chưa?

                  Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi.

                  - Nước sông Quên, đặng quên tình…

                  Tôi chậm rãi quay người, lại ngân nga bài ca dao quen thuộc:

      justify;" align="            “Có con cáo bơ vơ



      justify;" align="            Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình.



      justify;" align="            Nào đâu cáo muốn sưởi mình



      justify;" align="            Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua…”



                  Tôi biết, Cố Tiểu Ngũ trong lòng tôi chết rồi…

                  Lý Thừa Ngân biết Triệu Lương đệ sai người đầu độc Tự Bảo lâm, vậy mà chàng coi như biết gì...

                  Người con từng cùng chàng ‘má ấp tay kề’, tính mệnh cũng chỉ như cỏ rác…

                  ràng Lý Thừa Ngân chỉ lợi dụng Triệu Lương đệ, vậy mà ngày ngày chàng vẫn có thể đằm thắm, mặn nồng với ả.

                  Người con chàng từng thề nguyện bên nhau đến đầu bạc răng long, tính mệnh cũng chỉ như cỏ rác…

                  Lý Thừa Ngân biết Triệu Lương đệ hãm hại tôi, vậy mà chàng vẫn tỉnh bơ. Chàng cố tình lấy tôi làm mồi nhử hòng dụ Cố Kiếm xuất , rồi thừa cơ giết chết sư phụ...

                  Chàng bao giờ nhảy xuống sông Quên với tôi thêm lần nữa…

                  Cố Tiểu Ngũ trong trái tim tôi ra vĩnh viễn rồi…

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 15





                  Bất kể ngày đêm tôi quản cực nhọc túc trực bên giường A Độ. Lúc vết thương chuyển biến xấu, muội ấy sốt cao gợi tôi lại nhớ đến Cố Kiếm, lần trước có Cố Kiếm cứu giúp, lần này chẳng còn ai.

                  Lúc A Độ sốt cao, tôi cũng lăn đùng ra ốm.

                  Hôm đó, trời mưa tầm tã, tôi bưng chậu đá qua cầu, chẳng may trượt chân, ngã đau điếng người.

                  Lúc ấy ngã chỉ sứt trán chút thôi, vậy mà đến tối, tôi lại sốt cao.

                  Bấy giờ A Độ cũng sốt, Lý Thừa Ngân tại A Độ truyền bệnh cho tôi, rồi chuyển A Độ nơi khác. Chàng như thế bệnh của tôi mới khỏi được.

                  Là ai hại A Độ ra nông nỗi này?

                  Tôi tức đến phát điên, tay lăm lăm thanh đao của A Độ, kẻ nào dám tiến đến gần.

                  Lý Thừa Ngân cũng bực tức, liền sai người kéo tôi bằng được.

                  biết chúng đưa A Độ đến nơi nào, tôi bị nhốt trong điện, chẳng còn sức mà gây gổ, tôi chỉ cần A Độ, mà biết A Độ ở đâu.

                  Tôi ăn cơm, cũng uống thuốc, Vĩnh Nương bưng thuốc lên, tôi hất văng bát thuốc tay bà ấy. Tôi chỉ cần A Độ thôi, tôi thể ở lại Đông cung này thêm ngày nào nữa. Tôi cần A Độ, tôi muốn về Tây Lương.

                  Tôi mê man suốt ngày trời, những cơn ác mộng tìm về triền miên. Tôi mơ thấy mẹ, tôi mơ thấy mình khóc rất nhiều. Tôi mơ thấy cha, cảm nhận bàn tay thô ráp của người xoa đầu mình. Cha :

                  - Con ơi, khổ cho con quá.

                  Con khổ, con chỉ thấy kiệt quệ vì mỏi mệt, sao vùng vẫy được nữa. Con như con cá thiếu nước; bông hoa đến độ héo tàn.

                  Lý Thừa Ngân và Đông cung là thứ gông cùm nặng nề nhất đời này, con mang nổi.

                  Sau đó Vĩnh Nương khẽ lay tôi dậy, bà ấy :

                  - A Độ về rồi.

                  Đúng là họ đưa A Độ về, dù muội ấy vẫn hôn mê giường. hiểu sao Lý Thừa Ngân lại đổi ý.

                  Tôi xoa tay A Độ, cảm giác bàn tay muội ấy nóng ran. A Độ vẫn sốt ly bì, nhưng chỉ cần muội ấy ở đây, để tôi được chăm sóc muội ấy, thế là đủ.

                  Vĩnh Nương :

                  - A Độ về rồi, Thái tử phi uống thuốc .

                  Tôi tu hơi hết sạch bát thuốc to đắng ngắt, song tôi cũng chẳng buồn ăn thêm quả hạnh ngâm cho đỡ đắng. Tôi cười tươi với Vĩnh Nương, chẳng hiểu sao mà bà ấy lại rơm rớm nước mắt.

                  Tôi lấy làm lạ, bèn hỏi:

                  - Vĩnh Nương, bà sao thế?

                  Vĩnh Nương , chỉ thẽ thọt:

                  - Tóc Thái tử phi bị rối rồi, để nô tì hầu người chải tóc.

                  Chiếc lược sừng lướt tóc mang lại cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Tay Vĩnh Nương dịu dàng và ấm áp như bàn tay mẹ. Bà ấy chải đầu cho tôi, giọng đều đều kể:

                  - Nhớ hồi mới tới Đông cung, Thái tử phi đổ bệnh nặng, mấy đêm liền người nóng hầm hập. Thái y dám tùy tiện cắt thuốc, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nô tì túc trực bên người, lúc ấy người vẫn chưa thạo tiếng Trung Nguyên, trong mơ người nghẹn ngào gọi ‘thiện tử, thiện tử’, sau này nô tì mới biết, ra thiện tử trong tiếng Tây Lương có nghĩa là mẹ.

                  Tôi quên cả rồi, chỉ nhớ hồi chân ướt chân ráo tới Đông cung, tôi từng ốm trận, lúc ấy nhờ Vĩnh Nương và A Độ chăm sóc mãi mới khỏi.

                  Vĩnh Nương nhàng giúp tôi vấn tóc lên:

                  - Năm đó người mới mười lăm tuổi, thoáng chốc ba năm trôi qua.

                  Tôi ngoảnh đầu lại thấy bà ấy nhoẻn miệng cười:

                  - Người trong cung nhớ ngày sinh của nương nương mà điện hạ cũng quên mất, hôm nay nương nương tròn mười tám tuổi.

                  Tôi quên khuấy mất. A Độ còn sống dở chết dở, tôi nào còn tâm trí nhớ tới điều này. Đáng lẽ Dịch đình lệnh phải nhớ những chuyện này, song nghe tình hình hậu cung cũng rối như canh hẹ. Từ lúc Cao Quý phi xảy ra chuyện, những kẻ còn lại chắc chẳng ai chú ý tới những việc vặt vãnh này.

                  Duy chỉ có Vĩnh Nương còn nhớ.

                  Bà ấy lấy lược dày, chăm chút chải hai bên tóc mai cho tôi:

                  - Từ giờ về sau, Thái tử phi là người lớn rồi, nên buông tuồng, cẩu thả nữa.

                  Buông tuồng, cẩu thả?

                  Tôi thấy bốn tiếng ấy xa xăm lắm… Tôi của ngày xưa buông tuồng, cẩu thả dường như biến mất từ lâu lắm rồi. Ba năm trước, tôi chết giữa dòng sông Quên, mà tôi của ngày nay, chỉ trú ngụ trong cái xác của nàng ta, sống quãng đời ba năm vô tri vô giác. Tôi quên hất tất thảy, tôi quên sạch thù sâu oán nặng, tôi chung sống với kẻ thù suốt ba năm nay, cho đến khi… chàng thêm lần nữa.

                  Có điều, chàng mãi mãi nhớ ra tôi.

                  Cũng may, mong sao chàng đừng bao giờ nhớ ra.

                  Sức khỏe của A Độ dần hồi phục cũng là lúc mùa hè sắp qua.

                  Trong lúc dưỡng thương, muội ấy dùng tay ra hiệu, với tôi số việc, ví dụ như, Cố Kiếm cứu muội ấy thế nào. ra từ lâu lắm rồi, vì giúp A Độ trị thương mà Cố Kiếm hao tổn mất nửa nội lực. Nếu phải vậy, có lẽ sư phụ chẳng chết vùi giữa làn mưa tên.

                  A Độ cũng ngốc y như tôi vậy.

                  Rồi tôi chậm rãi ra dấu tay hỏi A Độ:

                  - Muội thích sư phụ đúng ?

                  A Độ trả lời, nhưng tôi thấy làn sương mỏng dâng đầy trong mắt muội ấy, lát sau muội ấy ngoảnh mặt trông ra hồ hoa sen ngoài cửa sổ rồi quay lại liền nhoẻn cười với tôi.

                  Tôi biết, muội ấy vừa khóc.

                  A Độ giống hệt tôi, ngay cả lúc khóc cũng cố cười.

                  A Độ tôi mới biết khá nhiều việc, ví như lần đầu tiên Lý Thừa Ngân bị đâm, lúc đó A Độ đuổi theo thích khách rồi bị gã đánh trọng thương. Tôi cứ tưởng đó là người do Hoàng hậu phái đến, cuối cùng A Độ lại phát phải như thế.

                  - Người của Điện hạ. - A Độ viết giấy. - Do Tôn Nhị cầm đầu.

                  Cái tên ấy khiến tôi quá đỗi kinh ngạc. Tôn Nhị? Nếu Tôn Nhị là người của Lý Thừa Ngân, vậy Hoàng hậu bị vu oan ư? Vậy ra bà ấy sai người hành thích Lý Thừa Ngân, mà mọi chuyện đều là khổ nhục kế do chính Lý Thừa Ngân tự dàn dựng thôi sao? Lúc ở phường Minh Ngọc, cũng chính Tôn Nhị kéo đồng bọn đến bày trò vảy mực, hòng tách tôi và Lý Thừa Ngân ra khỏi Bệ hạ. ra tất thảy những mưu này, cốt là để Lý Thừa Ngân khỏi liên can ư?

                  Rốt cuộc chàng làm gì? Rốt cuộc Lý Thừa Ngân làm những gì…

                  A Độ từ từ viết ra giấy, thuật lại từng chi tiết cho tôi nghe: Bữa đó, muội ấy canh bên ngoài phường Minh Ngọc, chợt cảm thấy có gì bất thường, liền bám theo Tôn Nhị, cốt để dò xét chân tướng việc. ngờ lại bị Tôn Nhị phát , bọn tay chân dưới quyền Tôn Nhị đều là những kẻ võ công cao cường, mình A Độ thể đấu lại chúng. Thay vì giết A Độ, bọn chúng nhốt muội ấy vào chỗ kín đáo. May thay, vài hôm sau Cố Kiếm đến cứu A Độ, sau đó dẫn muội ấy đến ngôi miếu hoang gặp tôi. A Độ gặng hỏi Cố Kiếm, vì sao lại đưa tôi đến trốn ở miếu hoang, bấy giờ mới hay, ra cả Cố Kiếm và Tôn Nhị đều do Lý Thừa Ngân sai khiến. Mà cũng chính Lý Thừa Ngân sai Cố Kiếm đến uy hiếp Bệ hạ, hòng khiến Bệ hạ tưởng có kẻ muốn ngăn cản người lật lại bản án cũ nhà họ Trần. ngờ tôi lại xông ra, tình nguyện làm con tin, thế là Cố Kiếm mới tương kế tựu kế toan dẫn tôi bỏ trốn.

                  Tôi còn dám nghĩ, mà cũng muốn nghĩ gì thêm nữa. Cứ nghĩ tới là cả người lại như rơi vào tiết đông rét buốt, lạnh toát, run rẩy từng hồi. Giờ đây, đối với tôi, Lý Thừa Ngân hoàn toàn là người xa lạ, người xa lạ đáng sợ, tôi chẳng bao giờ biết chàng toan tính những gì. Ba năm trước, chàng từng làm những chuyện khủng khiếp, ba năm sau chàng càng đáng sợ. Chàng giăng bẫy Cố Kiếm, phải chăng muốn giết người diệt khẩu? ràng Cố Kiếm còn là họ hàng với chàng, sư phụ từng giúp chàng làm bao nhiêu việc ác. Ngay cả A Độ mà Lý Thừa Ngân cũng nương tay, phải chăng chàng muốn tôi bao giờ biết được ?

                  Tôi cảm thấy tim mình hóa băng, rốt cuộc, chàng làm gì? Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy lòng dạ con người thế gian này nham hiểm, cõi Đông cung này hiểm ác, và Lý Thừa Ngân vô cùng đáng sợ.

                  Đáng sợ đến mức tôi phải run lên vì khiếp sợ.

                  Tôi và A Độ vẫn bị giam lỏng, nhưng giờ tôi phó mặc. Chốn Đông cung quạnh này chỉ có tôi và A Độ nương tựa lẫn nhau.

                  Nguyệt Nương đến thăm tôi mấy lần, tôi dặn tỷ ấy:

                  - Tỷ thân thế ở trong cung, nhớ phải cẩn thận.

                  Tình của bậc đế vương, sao có thể bền lâu được? Hoàng thượng đưa tỷ ấy vào cung, cốt mượn tiếng hòng lật lại bản án cũ nhà họ Trần, chứ mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, e là còn nhiều hơn cả Đông cung nữa. Cao Quý phi qua đời đột ngột, nghe người ta xì xào Cao Quý phi mất chỗ dựa, đâm bấn loạn đến nỗi nuốt vàng tự vẫn. Chuyện hậu cung truyền đến Đông cung lúc nào chẳng tức .

                  Tôi biết tình cảnh của Nguyệt Nương có phần tế nhị, đành rằng nhìn bề ngoài Hoàng thượng có vẻ hết mực ưu ái tỷ ấy, nhưng xét cho cùng Nguyệt Nương vẫn là xuất thân từ chốn thanh lâu. Giờ đây, những thế lực mới trong triều dần hình thành, Bệ hạ lại nạp thêm phi tử. Quần thần khuyên người nên sắc lập Hoàng hậu, song Bệ hạ còn chần chừ chưa quyết.

                  Nếu có Hoàng hậu mới, biết liệu Nguyệt Nương có bị Hoàng hậu mới sinh lòng đố kị hay ? Vĩnh Nương từng kể chuyện Lan Phi đời triều trước, cũng chỉ vì xuất thân hèn kém mà bị Hoàng hậu hại chết. Thực lòng tôi muốn Nguyệt Nương rơi vào thảm cảnh đó.

                  Nguyệt Nương nở nụ cười rạng rỡ, với tôi:

                  - Muội yên tâm, tỷ biết cách ứng phó mà.

                  Rồi Nguyệt Nương gảy cho tôi nghe khúc nhạc.

                  “Thu về hái sen hồ Nam

                  Sen cao quá đầu

                  Cúi đầu bóc hạt sen

                  Hạt thanh tưởng nước” [1]

                  [1] Trích Tây Châu khúc, bài dân ca tiêu biểu cho nghệ thuật dân ca của Nam Thiếu.

                  Tiếng hát Nguyệt Nương tha thiết êm đềm tựa giọt sương đọng lá sen long lanh. Giọng hát như cơn gió vút qua tường cao vời vợi trong chốn thâm cung, gió lay xích đu đong đưa, bầu trời xanh gọi gió xôn xao, mây trôi lững lờ… trời biếc có chú chim sải cánh bay mãi về phía tây, nó bay về Tây Lương, dẫu Tây Lương có hồ sen đẹp như thế này, dẫu Tây Lương có người đẹp hái sen… nhưng Tây Lương vẫn là quê hương của tôi…

                  Tôi nhớ những tháng ngày ở phường Minh Ngọc, dạo ấy tôi sống vui vẻ, vô tư biết mấy.

                  Tôi thở dài:

                  - Chẳng biết lúc nào tỷ mới lại hát cho muội nghe nữa nhỉ?

                  Nguyệt Nương :

                  - Lần sau tỷ lại đến thăm muội.

                  Tôi lên tiếng, bởi lòng hạ quyết tâm phải về Tây Lương.

                  Vết thương của A Độ bình phục, chúng tôi có thể khởi hành được rồi.

                  Lý Thừa Ngân sai Bùi Chiếu chọn ra mấy người làm tùy tùng của tôi, danh nghĩa là bảo vệ, còn thực chất là để canh chừng. Đám người ấy canh giữ tôi chút sơ hở, nếu tôi và A Độ cứ liều mình bỏ trốn, e là hơi khó. Thôi đành tùy cơ ứng biến vậy.

                  Ngày Thất tịch mùng bảy tháng bảy, đối với hoàng cung đây là ngày vui. Từ hơn nửa tháng trước, trong cung rục rịch đăng đèn, kết hoa, sắm thuyền, bày biện ngự uyển là bởi ngày mừng thọ Bệ hạ trùng với đêm Thất tịch. Bữa đó, yến được thết ở đảo Quỳnh Sơn giữa hồ Nam Uyển, lầu Đế Hoa và đình Thiên Lục đảo có gian thoáng mát là nơi thích hợp để nghỉ ngơi dịp hè.

                  Lý Thừa Ngân nhập cung từ sáng sớm tinh mơ, tôi tới muộn hơn. Theo lệ, cứ vào dịp mừng thọ, Bệ hạ lại ban thưởng cho quần thần, nên trong điện Thừa Đức cũng thết yến. Còn tiệc ở hậu cung do Hiền phi, người mới được Bệ hạ sắc phong chủ trì, mọi việc được bố trí hết sức ổn thỏa. Tôi lên thuyền từ phía sau điện Cam Lộ, thuyền còn vẳng nghe có tiếng nhạc từ đôi bờ đưa về, ra Hiền phi bố trí những nghệ nhân hòa tấu sáo trúc đứng dưới bóng râm bên bờ hồ. Nước gợn sóng nhạc, phiêu bồng tựa cõi tiên.

                  Mặt trời ngả núi cũng là lúc yến tiệc chính thức bắt đầu, hồ Nam Uyển rợp bông trắng lá xanh, lớp lớp bông sen tinh khôi gối đầu lên nhau, chỉ là sen có mùi hương. Hiền Phi sai người thả đèn hoa sen có kèm bánh thơm xuống hồ, bánh thơm cách ánh nến qua lớp đĩa đồng, hơi nóng dậy hương nồng nàn, hương theo gió bay xa, ngay cả cung tần, mỹ nữ hậu cung cũng sánh được. đình hóng mát ven hồ, bộ Nhạc dàn dựng khúc Lăng Ba [2] , cung nữ xập xòe váy áo xanh biếc như những nàng tiên lá sen dập dìu trong điệu Lăng Ba. Ánh nến đình lung linh chảy tràn xuống sông nước dập dờn, hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh tựa ngàn sao.

                  [2] vũ khúc nổi tiếng ở thời Đường.

                  Bệ hạ rất hài lòng với cách bài trí ở nơi đây, người khen Hiền phi linh hoạt, tinh tế, nhất là tiết mục đèn sen tỏa hương. Hiền phi mỉm cười thưa rằng:

                  - Chỉ tiếc đây phải ý tưởng của thần thiếp, chuyện là thần thiếp hay cảm khái, hoa sen rất đẹp, chỉ tiếc là có hương. Cung nữ A Mãn theo hầu thần thiếp vốn thông minh, nhanh nhạy, liền nghĩ cách, sai người làm loại đèn hoa sen này. Được Bệ hạ khen ngợi, âu cũng là phúc của A Mãn, thần thiếp xin được gọi A Mãn đến tạ ơn Bệ hạ.

                  cung nữ tên A Mãn kia chỉ khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, lúc ấy, ta khoan thai bước đến, uyển chuyển hành lễ với Bệ hạ. Khi nàng ngước nhìn lên khiến nhiều người khỏi giật mình, A Mãn này xem ra còn thanh thoát, kiều hơn cả Nguyệt Nương. Ai nấy đều nghĩ, nàng đẹp tựa búp sen. Bấy giờ Bệ hạ cũng sững sờ, chắc bởi vẻ mỹ miều của cung nữ. Sau đó, người thưởng cho A Mãn đôi bình ngọc, tráp trầm hương. Tôi cứ nghĩ Bệ hạ nạp A Mãn làm phi tử, ngờ Bệ hạ lại hỏi Lý Thừa Ngân:

                  - Ngân Nhi, con thấy cung nữ này thế nào?

                  Lý Thừa Ngân ngồi đối diện tôi, trông chàng có vẻ uể oải, từ đầu đến giờ chưa hề lên tiếng. Nghe Bệ hạ nhắc tên mình, chàng mới đảo mắt nhìn lướt qua A Mãn rồi thưa câu nhạt nhẽo:

                  - Cũng đẹp ạ.

                  Bệ Hạ :

                  - Bên con thiếu người hầu hạ, chi bằng gọi A Mãn đến Đông cung, ta sai Dịch đình lệnh chọn người khác giữ chức nữ quan bên chỗ Hiền Phi.

                  Lý Thừa Ngân thưa:

                  - Nhi thần đội ơn thiện chí của phụ hoàng, có điều nhi thần thiếu người hầu hạ.

                  Thấy tôi nhấp nhổm, Bệ hạ liền hỏi:

                  - Thái tử phi có gì muốn ?

                  Tôi bẩm:

                  - Bẩm phụ hoàng, điện hạ tính hay e thẹn, người ngượng dám nhận. A Mãn xinh đẹp như vậy, điện hạ cần, vậy kính xin phụ hoàng ban A Mãn cho con.

                  Bệ hạ cười khà khà, rồi chuẩn y.

                  Tôi biết Lý Thừa Ngân trừng trộ với mình, song tôi xem như biết. Hiền phi dường như rất vui, ngay lập tức sai A Mãn đến hầu bên bàn tôi. Đêm khuya, tiệc tàn, lúc xuất cung, Hiền phi còn chuẩn bị xe ngựa chu đáo đưa tiễn A Mãn theo sau xe tôi.

                  Tiệc tùng trong cung khiến tôi mệt lử, nhất là phải đội đầu cả bộ trâm cài nặng trịch. Xe chạy tròng trành lắc lư, như sắp gãy cổ đến nơi, tôi bèn gỡ bộ trâm cài đầu phiền phức xuống, rồi buông tiếng thở dài, thầm ước ao cuộc sống như thế này sớm chấm dứt.

                  Mãi xe mới dừng, rèm hé mở, thái giám soi đèn lồng đứng bên ngoài, kê ghế cho tôi bước xuống. Tôi vừa cúi người, Lý Thừa Ngân nhảy phắt xuống ngựa, hằm hằm lao về phía tôi, vung chân đá ghế chiếc. Đám thái giám giật thót mình, lùi về phía sau, quỳ sụp xuống.

                  Tôi khỏi tò mò hỏi:

                  - Chàng làm trò gì thế?

                  Chàng vươn tay, lôi tôi từ trong xe ra ngoài như diều hâu quắp gà con.

                  A Độ định xông lên cứu tôi nhưng bị Bùi Chiếu chặn lại. Lý Thừa Ngân xốc tôi lên vai, còn tôi mắng chửi chàng như tát nước. Bấy giờ A Độ đụng tay đụng chân với Bùi Chiếu, thân thủ của Bùi Chiếu rất cao siêu, nhất thời A Độ chưa thể dứt ra ngay được. Tôi vùng vằng mắng chửi cắn cấu Lý Thừa Ngân, rồi nhéo cật lực vào eo chàng. Ngọc trắng khảm thắt lưng rụng sót chiếc nào, song chàng vẫn vác tôi lao thẳng vào điện Lệ Chính.

                  Phịch!

                  Đầu tôi đập vào chiếc gối sứ, đau điếng người! Lý Thừa Ngân quẳng tôi lên giường như quẳng bao gạo. Tôi chồm dậy, chàng đưa tay đẩy tôi ngã xuống giường. Mấy tháng chưa đánh nhau, quả nhiên chân tay bớt linh hoạt ít nhiều. Hai chúng tôi chỉ còn thiếu đập cả tòa điện này nữa. Nội thị đứng ngoài cửa thụt thò ngó ra ngó vào, bị Lý Thừa Ngân quẳng bình hoa suýt trúng người, gã sợ hãi, vội rụt lại, quên cài then cửa. Quần nhau trận làm tôi thở ra hơi, cuối cùng tôi mệt lử, nằm im, chẳng buồn nhúc nhích. Tôi còn vùng vằng nữa, Lý Thừa Ngân cũng ôn tồn hơn.

                  Chàng ôm tôi từ phía sau, hình như chàng rất thích ôm tôi như thế này. Tôi gối đầu lên cánh tay chàng, có cảm giác cồm cộm.

                  Hẳn chàng cũng mệt lắm rồi, hơi thở phả vào gáy tôi tê tê. Chàng thầm điều gì đó, đại khái dỗ ngon dỗ ngọt hòng lừa tôi.

                  Tôi hé môi nửa lời.

                  lúc lâu sau thấy chàng gì, tôi mới lén ngoái lại nhìn, ra chàng ngủ rồi.

                  Tôi giơ tay ấn mi mắt chàng, chàng ngủ say, nằm bất động, nhúc nhích.

                  Tôi rón rén bò dậy, trước tiên mặc áo váy tử tế, sau đó mở cửa sổ. A Độ lẳng lặng tiến vào, đưa tôi chiếc kéo.

                  Tôi ngồi dưới đèn, bắt đầu cắt tỉa móng tay cho kỹ càng.

                  Tôi thận trọng tránh để hơi thở của mình thổi bạt đống bột trắng dính dưới móng tay.

                  Loại thuốc mê của Đại Thực này quả nhiên hiệu nghiệm, tôi chỉ cào xước cánh tay Lý Thừa Ngân có chút mà giờ chàng lăn ra ngủ.

                  Cắt móng tay xong xuôi, tôi rửa tay sạch , kiểm tra thuốc mê bị sót lại rồi mới thay bộ quần áo màu đen.

                  A Độ đưa đao cho tôi. Thấy Lý Thừa Ngân say ngủ, tôi chỉ muốn kề đao vào cổ chàng, cứa cái và tất cả thù hận tan thành mây khói.

                  Chàng ngủ yên giấc, tuy ngấm thuốc mê, song chân mày vẫn hơi cau lại, mí mắt giật giật, dường như mơ. Tôi kề lưỡi đao sắc bén, lạnh ngắt vào cổ chàng, chàng hề hay biết, chỉ cần tôi hơi dùng sức chút thôi, cổ họng chàng bị cứa rách.

                  Khóe môi chàng khẽ giật, hình như chàng giấc mơ đau khổ đến tột cùng. Tôi xích thanh đao từng chút, từng chút lại gần chàng, lưỡi đao cứa da thịt, rướm tia máu mảnh như sợi chỉ, chỉ cần mạnh tay chút nữa thôi… Dường như trong mơ chàng cũng cảm nhận được cơn đau này, cơ mặt bắt đầu giần giật, ngón tay khẽ run lên như muốn chụp nắm thứ gì. Có lẽ chàng kêu la, gào thét, nhưng những tiếng phát ra chỉ khe khẽ, đến mức tôi gần như chẳng nghe .

                  Tay tôi khẽ run lên, thanh đao tuột khỏi tay đáp xuống sàn gạch đánh “keng”. A Độ tưởng Lý Thừa Ngân tỉnh, liền hớt hải xông đến. Còn tôi hai tay bưng mặt.

                  Cuối cùng tôi nhớ ra, nhớ khi rơi xuống sông Quên, chàng theo tôi nhảy xuống. Chàng ôm tôi vào lòng. Gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc nhanh…. Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy… Nhiều lần toan chụp mỏm đá, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả rơi cùng tôi và chàng, như làn mưa sa…. Giống buổi tối nọ ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt chàng và tôi… Giữa đất trời bao la, đôi mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi…

                  Biết bao lần cảnh ấy lặp lại trong mơ, giấc mơ nối tiếp giấc mơ, song chẳng bao giờ ngờ, người đó lại là chàng.

                  Đến khi nhớ lại chuyện ba năm trước, tôi vẫn thể nào nhớ ra, tiếng gió vờn bên tai cùng lời chàng .

                  ra chỉ câu này: “Ta và nàng cùng quên.”

                  Nước sông Quên xanh biếc, lạnh buốt ùa đến bủa giăng chúng tôi. Tôi thoi thóp thở giữa dòng chảy, xộc vào miệng là làn nước giá lạnh. Chàng nhảy xuống túm lấy tôi, chỉ để với tôi câu như thế.

                  “Ta và nàng cùng quên.”

                  Tất thảy những khó khăn, gian nguy, ra chàng cũng biết, chàng cũng thấy mình có lỗi với tôi.

                  bờ vực con sông Quên, chàng chút do dự nhảy xuống theo tôi, thực ra chàng cũng như tôi, muốn quên tất cả.

                  Chàng cũng hiểu, Cố Tiểu Ngũ chết rồi, chúng tôi chết dưới đáy sông Quên.

                  Chúng tôi như hồn dã quỷ, chúng tôi chưa từng sống lại. Tôi bám víu lấy ba năm quên lãng, sống tạm bợ qua ngày, còn chàng, chàng gạt phăng tất cả quá khứ chỉ bằng ba năm quên lãng.

                  thế gian này, ai gian truân hơn ai?

                  thế gian này, lãng quên luôn hạnh phúc hơn khắc ghi.

                  A Độ nhặt thanh đao lên, chuyển đến tay tôi.

                  Vậy mà tôi đủ dũng khí để giết chàng.

                  Tôi ngắm nhìn khuôn mặt ấy, dù trong mơ mà chàng cũng lộ vẻ đau đớn. Tiểu hoàng tử mà chàng từng kể sống đáng thương như thế nào, cho đến ngày hôm nay, chàng vẫn mang vẻ đáng thương ấy. Giữa chốn Đông cung này chẳng có lấy người thân, chàng vẫn đơn, lẻ loi tồn tại giữa cõi đời này, đơn, lẻ loi tiến đến ngôi vị Hoàng đế. Tất cả những thương, những tình nồng, những cảm thông và trân trọng, chàng đều bỏ lại con đường phải . Biết đâu, quên lãng đối với chàng lại là trừng phạt hữu ích hơn cả, chàng vĩnh viễn bao giờ biết, tôi từng chàng biết bao.

                  Tôi kéo A Độ bỏ trốn.

                  Thoạt đầu, Lý Thừa Ngân để Bùi Chiếu bố trí hơn mười cao thủ theo sát tôi, nhưng vì tối nay tôi và Lý Thừa Ngân gây gổ, tình hình có vẻ căng thẳng, đám người đó biết điều lánh . Tôi và A Độ thuận lợi ra khỏi điện Lệ Chính.

                  Đối với tôi, lẻn ra khỏi Đông cung chỉ là chuyện cơm bữa, huống hồ lần này, chúng tôi lên kế hoạch từ rất lâu. những thuộc lòng lịch tuần tra của Vũ lâm quân, mà còn nhân lúc tháng sáu trời nóng nực, nội thị trong Đông cung thường luân phiên đổi ca, lúc ấy chúng tôi mở cánh cửa phụ để lách ra ngoài. Tôi và A Độ lẩn tránh suốt dọc đường, men theo bờ tường, luồn lách qua mấy lối rẽ, lúc sắp đến cánh cửa kia, bỗng A Độ kéo giật tôi lại.

                  Tôi thấy Vĩnh Nương đứng ở đó, tay cầm đèn lồng, thỉnh thoảng bà ấy lại đảo mắt nhìn xung quanh, như chờ ai đó.

                  Tôi và A Độ núp sau khóm trúc xanh, hồi lâu sau mà Vĩnh Nương vẫn còn đứng đó.

                  Tôi kéo tay áo A Độ, A Độ hiểu ý, liền từ từ tuốt đao, rón chân tiến lại gần Vĩnh Nương.

                  Vĩnh Nương chợt buông tiếng thở dài rồi chống đầu gối ngồi xuống.

                  A Độ quay sống đao, điểm huyệt Vĩnh Nương, cả cơ thể bà ấy tức khắc trở nên cứng đờ, còn động đậy được nữa.

                  Tôi vươn tay, ôm cơ thể cứng ngắc của Vĩnh Nương vào lòng, thầm:

                  - Vĩnh Nương ơi, ta đây, ta nhớ bà lắm.

                  Ở Đông cung này, chỉ có mình Vĩnh Nương với A Độ là hết mực quan tâm tới tôi.

                  Khóe môi Vĩnh Nương hơi nhích lên, huyệt câm cũng bị điểm, bà ấy tài nào thốt ra tiếng. Tôi siết chặt vòng tay, mới nhận ra trước ngực bà ấy phồng lên, cồm cộm chọc vào người hơi đau. biết là thứ gì, tôi liền rút ra xem, hóa ra là bọc vàng. Vĩnh Nương vẫn chăm chăm nhìn tôi, mắt rơm rớm. Tôi thấy mũi mình cay xè, chợt hiểu, ra bà ấy đợi mình.

                  Bà ấy cũng chuẩn bị cho tôi bọc vàng này.

                  Tôi biết nên gì. Trước kia bà ấy luôn ép tôi đọc sách, ép tôi học phép tắc, ép tôi làm cái này làm cái nọ, ép tôi lấy lòng Lý Thừa Ngân…

                  Cho nên lúc vạch kế hoạch chạy trốn, tôi đề cao cảnh giác với bà ấy.

                  ngờ bà ấy sớm nhận ra, nhưng hề bẩm báo với Lý Thừa Ngân. Nếu bà ấy bẩm báo Lý Thừa Ngân , chúng tôi mãi mãi chẳng bao giờ trốn thoát.

                  Ở Đông cung này, ra cũng có người tử tế, lòng với tôi.

                  A Độ kéo tay áo tôi, tôi biết càng nấn ná càng dễ bị người ta phát . Tôi nén dòng nước mắt, ôm Vĩnh Nương chặt, rồi kéo A Độ, lẳng lặng qua cánh cửa phụ.

                  Cánh cửa này vốn dành cho người hầu, đằng sau cánh cửa có con hẻm . Chúng tôi qua hẻm, luồn lách qua nhà dân, tạt ngang con phố chợ Đông, mãi tới khi tờ mờ sáng, mới chui tọt vào quán rượu của Mễ La.

                  Mễ La đợi chúng tôi. Tỷ ấy thầm:

                  - Cổng thành phía Tây thế nào cũng bị kiểm tra gắt gao, chỉ e dễ ra khỏi thành. Hôm nay có đội buôn nhân sâm người Cao Ly chuẩn bị lên đường rời thành, đáng lẽ bọn họ về hướng đông bắc, nhưng tỷ đưa tiền cho tay dẫn đoàn rồi, hai muội theo họ rời thành. Thân hình đám người Cao Ly ấy thấp bé, còi cọc, bọn muội đứng chen ở giữa cũng khiến người khác nghi ngờ đâu.

                  Mễ La chuẩn bị sẵn cho chúng tôi y phục của người Cao Ly, thậm chí có cả mũ và râu giả. Chúng tôi rục rịch hóa trang, thay quần áo, dán râu, sau cùng đội mũ theo kiểu Cao Ly. Lúc soi gương đồng, quả nhiên giống hệt hai gã dân buôn Cao Ly thó.

                  Trời hửng sáng, phố dần đông người qua lại, quán trọ cũng dậy tiếng ồn ào, cửa hàng bên cạnh gỡ ván lát, bà chủ bên đó rửa mặt, ông chủ phốp pháp ngáp dài cái, đãi bôi với Mễ La. Đám người Cao Ly vừa xuống lầu, họ bằng chất giọng Cao Ly vừa nhanh vừa xoắn xít. Kể từ lúc đại tướng quân Bùi Huống bình định Cao Ly, vấn đề thông thương giữa Trung Nguyên và Cao Ly càng trở nên nhộn nhịp, chung quy dân buôn thường hám lợi, bao nhiêu của ngon vật lạ ở Trung Nguyên trở thành thứ thường ngày thể thiếu đối với người Cao Ly.

                  Chúng tôi cùng đám thương nhân người Cao Ly lấy bánh ăn sáng, sau đó thu vén hành trang chuẩn bị lên đường. Đội buôn này có khoảng trăm con ngựa thồ nhân sâm và dược liệu từ Cao Ly đến, sau đó lại mua tơ tằm và lá chè ở Trung Nguyên để trở về Cao Ly. Ngựa cột trong sân chờ chất hàng, hòm xiểng lần lượt được bốc lên lưng ngựa. Đàn ngựa thắt chuông đồng ở cổ rung leng keng chen lẫn thứ tiếng Cao Ly như cãi nhau, ồn ào, om sòm.

                  Tôi và A Độ mỗi người ngựa, trà trộn vào đoàn người, theo bọn họ rời thành. Lính canh cổng kiểm soát vô cùng gắt gao, có người kể với chúng tôi rằng tên tội phạm vừa trốn khỏi thiên lao nên chín cổng thành phải tăng cường kiểm tra, gắt gao nhất chính là cổng thành phía Tây. Nghe quân lính kiểm tra, rà soát tất cả những ai ra khỏi thành tây vào ngày hôm nay, chỉ cần có vẻ khả nghi là lập tức bắt giữ, rồi đưa về nha môn. Tôi và A Độ nơm nớp lo sợ, những tội phạm bỏ trốn mà họ kia, rất có thể chính là tôi và A Độ.

                  Ai ai cũng bị vặn hỏi nên những người xếp hàng đợi mỗi lúc đông trước cổng thành. Tôi sốt ruột chờ đợi, bao lâu sau mới đến lượt chúng tôi. Tay hiệu úy [3] giữ thành kiểm tra giấy tờ thông hành cẩn thận, sau khi đếm số người, gã chau mày hỏi:

                  [3] chức quan võ thời xưa.

                  - Sao lại thừa ra hai người?

                  Gã người Cao Ly dẫn đoàn khoa chân múa tay hồi, bập bõm vài câu tiếng Trung Nguyên mới giải thích cho lính gác cổng hiểu. Chuyện là bọn họ gặp hai người đồng hương ở Thượng Kinh, trước lúc đánh nhau cư ngụ ở Thượng Kinh, giờ nghe chiến ổn định rồi, muốn trở về cố hương.

                  Gã đó bảo:

                  - được, giấy thông hành ghi mười bốn người là mười bốn người, được phép thừa ra dù chỉ người.

                  Đột nhiên tôi tinh ý, trỏ vào tôi và A Độ, bắt chước chất giọng Trung Nguyên trọ trẹ của dân Cao Ly, :

                  - Hai húng ôi ở nại, cho các chậu (Hai chúng tôi ở lại, cho các cậu ).

                  Gã hiệu úy dò xét chúng tôi lúc, ngẫm ngợi, đoạn trả giấy thông hành cho trưởng đoàn, sau đó trỏ vào hai người Cao Ly đứng sau tôi, :

                  - Hai người này ở lại. Những người khác có thể .

                  Gã trưởng đoàn người Cao Ly khua chân múa tay, rối rít van nài lính gác thành, nếu cả đoàn phải cùng . Tôi cũng xin hộ mấy câu, chúng tôi nhao nhao thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô, khiến gã gác cổng bực bội :

                  - Có nào, hay ở lại cả lũ với nhau?

                  Nhưng chúng tôi nào có chịu buông xuôi, cả nhóm vây quanh lính gác cổng, đua nhau . Bấy giờ, hàng người xếp phía sau càng lúc càng dài, nhiều người sốt ruột nhao nhao la ó. Trước đây, triều đình và Cao Ly từng xung đột trong nhiều năm, người Trung Nguyên vốn có thành kiến với Cao Ly, nay càng thêm phần khinh miệt, họ chê người Cao Ly bát nháo có phép tắc.

                  Đám dân buôn Cao Ly tức tím tái mặt mày, chực lao vào đánh nhau. Tay hiệu úy thấy tình hình căng thẳng, sợ lớn chuyện, lại thêm phần lo đám người đứng ở cổng càng lúc càng đông, gã vội khoát tay:

                  - Hai đứa Cao Ly ta vừa điểm mặt được phép rời thành, còn lại, mau đuổi những kẻ khác ra ngoài!

                  Cả đám người lẫn đàn ngựa thồ bị đuổi khỏi cổng thành, hai gã thương nhân người Cao Ly kia đành chịu nán lại trong thành. Trong lòng tôi áy náy vô cùng, gã trưởng đoàn lén giật tay áo, đoạn chìa tay với tôi.

                  Tôi chưa kịp hiểu ý, gã vân vê chòm râu, cười bằng thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô:

                  - Ưa chiền đây! (Đưa tiền đây!)

                  Tôi sửng sốt:

                  - Mễ La chẳng đưa tiền cho ông rồi còn gì?

                  Gã trưởng đoàn người Cao Ly cười giảo hoạt:

                  - Hai người, ong ành, chêm chiền! (Hai người ở trong thành, thêm tiền.)

                  Tôi nhớ hai gã cùng đoàn bị giữ lại trong thành, liền bảo A Độ đưa cho gã thỏi vàng.

                  Kể từ lúc đó, tôi thấy hối hận vì hào phóng của mình.

                  Mắt gã Cao Ly như phát sáng khi thấy thỏi vàng. Suốt đường , gã luôn kiếm cớ vòi vĩnh, nào là ăn cơm bọn tôi trả tiền, rồi ở trọ bọn tôi cũng phải móc hầu bao, suốt cả ngày, hễ mở miệng là lại thét giá. Tuy tôi chậm hiểu nhưng ba năm nay, hầu như ngày nào tôi cũng long nhong dạo khắp các phố phường Thượng Kinh với A Độ, tôi thừa biết giá cả thế nào. Bình thường, chỉ cần hai lá vàng là có thể mua căn nhà rồi, đằng này bọn Cao Ly kia ăn mỗi bữa cơm thôi mà cũng đòi tôi lá vàng, chúng vòi vĩnh chẳng khác nào coi tôi là kẻ tiêu tiền như nước. Tôi thầm nhủ, đằng nào cũng là tiền của Lý Thừa Ngân, tôi vung tay chút cũng xót ruột. Huồng hồ, bạn chúng còn bị giữ chân trong thành, thôi để chúng ăn chặn chút cũng chẳng đáng bao nhiêu, tôi đành giả vờ mình mù mờ giá cả. Tuy lũ Cao Ly ấy tham lam vô độ, nhưng sống cũng cơ cực lắm, hàng ngày trời chưa sáng phải thức dậy, rồi đến tối muộn mới được nghỉ chân. Ngày nào cũng rong ruổi suốt tám, chín khắc, ba năm rồi, bây giờ tôi mới có dịp ngồi lâu lưng ngựa đến thế. Ngựa lắc lư khiến xương cốt đau ê ẩm, tối đến vừa dừng chân trong quán trọ, đầu chạm gối là tôi ngủ ngay tức .

                  Đêm nay, tôi ngủ ngon A Độ chợt lay tôi dậy. Muội ấy lăm lăm thanh đao tay, trong bóng tối, hai mắt mở to. Tôi cuồng cuồng bật dậy, thào hỏi:

                  - Người của Lý Thừa Ngân tìm đến à?

                  A Độ lắc đầu. Cũng chẳng muội ấy biết, hay đoán ra.

                  Chúng tôi nín lặng chờ đợi trong bóng tối, bỗng tiếng “xẹt” vang lên, nếu tinh ý, chắc cũng chẳng nghe thấy. Rồi đoạn ống trúc xíu chọc qua giấy dán cửa sổ, thò vào. A Độ và tôi đưa mắt nhìn nhau, đầu ống trúc chợt phun khói trắng, tôi vừa hít cảm giác chân tay bủn rủn, ra thứ khói trắng ấy là thuốc mê. A Độ xông lên, dùng ngón tay cái bịt đầu ống trúc, giữ chặt đằng rồi bất ngờ đẩy mạnh.

                  Ngoài kia khẽ vang lên tiếng rên rỉ rồi “rầm” tiếng, dường như có thứ gì đó nặng lắm vừa chạm đất. Đầu óc tôi choáng váng, A Độ mở cửa sổ, gió mát lạnh ùa vào giúp tôi tỉnh táo hơn. A Độ lấy nước cho tôi uống, lúc bấy giờ mới đỡ ngấm thuốc. A Độ mở cửa phòng, hóa ra là gã trưởng đoàn người Cao Ly nằm sóng soài ngoài hành lang. Gã bị ống trúc chứa thuốc mê chọc đúng huyệt đạo, miệng há hốc, ngồi bất động. A Độ cầm đao kề vào gáy gã, rồi quay sang nhìn tôi.

                  Tôi chỉ sợ bên trong có tình, liền với A Độ:

                  - Kéo vào đây, tra hỏi trước .

                  A Độ lôi gã vào rồi đóng chặt cửa. Tôi đá cho gã cú, hỏi:

                  - Ngươi là ai?

                  Gã vẫn tỏ ra bướng bỉnh:

                  - Ngươi muốn giết giết , đại trượng phu hành tẩu khắp giang hồ, sẩy tay, hà tất phải hỏi.

                  - ra loại người đánh thuốc mê người khác, thủ đoạn hèn hạ như thế mà cũng được gọi là đại trượng phu hả?

                  Mặt gã trâng tráo, biết thẹn là gì, gã hắng giọng :

                  - Vì lợi ích quyết từ thủ đoạn!

                  Tôi :

                  - Giờ ngươi lỗ rồi nhé!

                  Gã còn định gì thêm nhưng A Độ rạch nhát lên đùi gã, máu tuôn xối xả. Gã kêu rống lên như lợn bị cắt tiết, hỏi gì cũng bằng hết. ra thấy tôi hào phóng, gã Cao Ly này thèm thuồng nên nảy sinh ý đồ giết người cướp của. Gã định đánh thuốc mê tôi và A Độ, ngờ vừa thổi được ít khói bị A Độ chọc ngược lại, điểm trúng huyệt đạo.

                  - Hóa ra là phường đạo tặc giả dạng thương nhân! - Tôi giơ chân đạp gã. - mau! Rốt cuộc ngươi hại bao nhiêu người rồi hả?

                  Nước mắt giàn giụa, gã liên tục xin tha mạng. Gã gã đích thực là dân buôn, chẳng qua nhất thời nổi lòng tham, nên mới trót dại làm liều, chứ xưa nay chưa từng hại ai, nhà còn có mẹ già bảy mươi tuổi và đứa con mới lên ba.

                  Phải chăng người đời ai cũng tham lam vô độ như gã? Gã Cao Ly này hám tiền tài, quan viên hám chức tước, còn Hoàng đế lúc nào cũng muốn mở mang lãnh thổ, vậy nên chiến tranh mới triền miên…

                  Xưa nay, chưa có ai được thỏa mãn.

                  Tôi sực nhớ tới Lý Thừa Ngân, từ khi chàng còn là tiểu hoàng tử, cũng phải lần từng bước mới tới được ngày hôm nay. Phụ hoàng lấy ngôi vua để cám dỗ chàng, vậy nên chàng cứ bước dần cho đến ngày hôm nay.

                  Mà tôi, tôi chỉ cần người cùng tôi chăn cừu, thả ngựa mảnh đất Tây Lương. Ham muốn của tôi chỉ đơn sơ, giản dị vậy thôi, song cũng khó mà đạt được.

                  A Độ gõ chuôi đao vào đầu gã, đầu gã vẹo sang bên rồi lăn đùng ra ngất xỉu. Tôi và A Độ bịt miệng gã, trói dưới gầm bàn... A Độ ra hiệu hỏi tôi có nên trừ khử gã , tôi lắc đầu:

                  - Gã dám báo quan đâu, , tại gã có ý đồ giết người cướp của trước. Cứ trói gã ở đây , chúng ta thể tiếp tục chung đường với gã được nữa, cũng đúng lúc phải rẽ về phía Tây.

                  Trời còn chưa sáng , chúng tôi nhanh chóng rời quán trọ, tránh để lộ tung tích. được lúc, mặt trời mới mọc. Đến chiều, chúng tôi tạt vào chợ bán ngựa và đổi sang cỗ xe bò. Tôi và A Độ cải trang thành nông dân và phụ nữ nông thôn, thong dong tiến về hướng tây.

                  Tất nhiên vẫn có binh mã đuổi theo, nhiều lúc bị cả đội quân từ phía sau bắt kịp, nhưng chúng trông chiếc xe bò tồi tàn của chúng tôi, liền phóng mất hút, thèm liếc lấy cái. Cứ qua thành trì, tình hình kiểm soát lại càng thêm gắt gao, nhưng mấy lần tôi và A Độ vào thành mà vòng qua đường làng. Cuộc hành trình đương nhiên nhiều cơ cực, cũng chẳng được bao lâu, mãi mới đến được Ngọc Môn Quan.

                  Trước mắt là cửa ải hiểm yếu canh giữ giữa núi, lúc ấy tôi thấy phấn chấn hẳn lên.


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 16





                  Chỉ cần qua được cửa khẩu là đặt chân lên lãnh thổ Tây Vực rồi, dù Lý Thừa Ngân có là đương kim Hoàng đế cũng khó tránh khiến các nước Tây Vực xôn xao nếu chàng cố tình đưa quân sang bên kia biên giới, vì lúc đó chỉ e họ nghĩ chàng muốn tuyên chiến, rồi xảy ra đánh nhau . Cũng vì thế mà ở Ngọc Môn Quan, hình dáng tôi và A Độ lúc hóa trang thành đàn ông bất ngờ bị vẽ cáo thị truy nã khâm phạm, tuy nhiên, tên cáo thị lại phải của chúng tôi.

                  thực lòng, bức tranh ấy vẽ rất giống. Lý Thừa Ngân chỉ nhìn thấy tôi mặc đồ nam lần, thế mà chàng cũng sai người vẽ được.

                  Song giờ đây cả tôi và A Độ đều vận đồ nữ, mà tội phạm khét tiếng cáo thị lại là nam nên chúng tôi vẫn hòa mình vào dòng người xếp hàng chờ qua cửa khẩu. Có điều cả hai đều có giấy thông hành, vấn đề hóc búa bây giờ là phải làm sao để qua được.

                  Tôi cũng căng thẳng lắm, trong tay nải có ít vàng bạc, cộng với võ công cao cường của A Độ, cùng lắm là ẩu đả trận, thua đút ít tiền là xong.

                  Chẳng ngờ phen này chúng tôi chỉ thua, mà còn hết đường mua chuộc.

                  Tôi liếc nhìn vị tướng quân trấn ải.

                  Là Bùi Chiếu.

                  Lý Thừa Ngân xảo quyệt. Tôi vòng vèo khắp thiên hạ hòng tránh chàng, song vẫn phải vượt Ngọc Môn Quan mới về được Tây Lương, giờ chàng lại sai Bùi Chiếu đứng án ngữ ở Ngọc Môn Quan, kiểm tra từng người . Dù võ công của A Độ cao cường đến mấy lúc đánh nhau cũng kinh động đến vạn quân đồn trú quanh năm ở đây, lúc ấy, chỉ sợ tôi và A Độ có mọc cánh cũng khó mà thoát nổi.

                  Tôi cười giả lả với Bùi Chiếu. Bùi Chiếu cười lại với tôi.

                  Tôi :

                  - Ô, Bùi tướng quân cũng ở đây à?

                  Bùi Chiếu :

                  - Mạt tướng được điện hạ phái đến lùng bắt phạm nhân bỏ trốn.

                  Tôi vẫn cười, :

                  - Bùi tướng quân là Kim ngô tướng quân, thống lĩnh ba nghìn Vũ lâm quân của Đông cung, tội phạm vượt ngục nào lại kinh động đến cả tướng quân, mà phải đuổi đến tận Ngọc Môn Quan thế này?

                  Bùi Chiếu buông câu nhạt thếch:

                  - Đương nhiên là tội phạm quan trọng của triều đình rồi.

                  Tôi cười hềnh hệch :

                  - Tội phạm quan trọng của triều đình…

                  A Độ hơi cử động, phía sau tường lũy xuất đám binh sĩ, giương sẵn cung, lạnh lùng nhắm vào hai chúng tôi.

                  Tôi thở dài, với Bùi Chiếu:

                  - Hôm nay ta quyết phải qua cửa khẩu, ngươi muốn cản ta bắn chết ta , chuyện này đâu phải lần đầu tiên.

                  Bùi Chiếu lại thưa:

                  - Thái tử phi hiểu lầm Điện hạ rồi, thực ra Điện hạ lòng dạ chung tình với Thái tử phi.

                  Tôi :

                  - Chung tình ư? Ta và Lý Thừa Ngân chẳng còn tình nghĩa gì cả, ngươi chớ có nhắc đến Lý Thừa Ngân trước mặt ta.

                  Bùi Chiếu :

                  - Thực ra, Thừa Thiên Môn cháy phải do nến.

                  Tôi hơi sửng sốt.

                  - Tết Nguyên tiêu cho muôn dân vào thành trẩy hội, lúc đó quả thực thể đóng cổng thành. Điện hạ nôn nóng trong lòng, chỉ sợ thích khách ép Thái tử phi xuất thành, khó bề truy bắt, Điện hạ liền bất chấp tất cả, sai người ngầm phóng hỏa đốt Thừa Thiên Môn.

                  Giọng Bùi Chiếu vẫn đều đều:

                  - Vì Thái tử phi mà Điện hạ bất chấp tất cả, trong khi Thái tử phi lại thể tha thứ cho Điện hạ.

                  Tin này khiến tôi quá đỗi kinh ngạc, mãi sau thốt nên lời. Thừa Thiên Môn tượng trưng cho quyền lực đế vương, từ khi Thừa Thiên Môn xảy ra hỏa hoạn, trong triều tránh khỏi xôn xao bàn tán. Bệ hạ cũng vì chuyện này mà phải viết Tội kỷ chiếu [1] , nhận tội thất đức về mình. Có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ, ra Lý Thừa Ngân sai người phóng hỏa chứ phải tình cờ mà cháy.

                  [1] Các vua chúa ngày xưa ban chiếu tự nhận là có lỗi với dân gọi là Tội kỷ chiếu.

                  Bùi Chiếu : “Điện hạ thân làm Thái tử, thân bất do kỷ [2] . Hôm đó phục kích thích khách, lại ngộ thương A Độ, đều do mạt tướng cố chấp làm theo ý mình. Thái tử phi nếu có hỏi tội, đương nhiên mạt tướng gánh chịu, Thái tử phi đừng vì thế mà trách oan Điện hạ.”

                  [2] Thân thể do mình làm chủ.

                  Dù tôi chẳng nghĩ gì, song cũng đâu phải đứa ngốc, tôi :

                  - Ngươi đừng hòng lừa ta.

                  Bùi Chiếu :

                  - Mạt tướng dám.

                  Tôi lạnh lùng :

                  - Có gì mà ngươi dám, chẳng phải lệnh vua khó cưỡng đó sao? có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám điều động Vũ Lâm quân bao vây tiêu diệt thích khách sao? có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám sai chúng phóng tên sao? Ngươi nhận hết tội về mình, chẳng qua muốn khuyên ta quay về, nhưng ta mắc lừa các ngươi nữa đâu. Ba năm trước, khi ta nhảy xuống sông Quên, ta tưởng phải gặp lại các ngươi nữa. Ba năm qua, ta quên hết tất cả, nhưng chắc ngươi cũng tính đến chuyện ta nhớ lại từ đầu. Những gì Lý Thừa Ngân từng làm, ta mãi mãi tha thứ. Hôm nay ngươi ngăn ta qua cửa khẩu, ta liều xông qua, muốn chém muốn giết gì tùy ngươi.

                  Bùi Chiếu trầm mặc lát, rồi :

                  - Mạt tướng

                  Tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao:

                  - Ngươi cái gì?

                  Gã ngước mắt nhìn tôi:

                  - Bữa đó Thái tử phi hỏi, nếu thích khách bắt người làm con tin, phải chăng mạt tướng vẫn ra lệnh trừ khử người và thích khách? Bây giờ mạt tướng trả lời người, mạt tướng làm vậy.

                  Tôi chợt hiểu, liền ra dấu với A Độ, A Độ lập tức rút đao, kề cổ tôi.

                  Tôi :

                  - Mở cổng mau!

                  Bùi Chiếu xẵng giọng:

                  - Thích khách uy hiếp Thái tử phi, chớ làm Thái tử phi bị thương, mau mở cổng.

                  Cổng thành được mở, cánh cổng nặng trịch, phải cần mười mấy người đẩy dịch từng chút . Phía bên kia, mặt trời chói gắt đổ nắng chang chang khiến người bỏng rát.

                  Ánh mặt trời ngoài Ngọc Môn Quan vẫn luôn nhức nhối như vậy, tôi kìm nén hả hê, thúc ngựa chạy về phía cổng thành.

                  Bất ngờ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa vang rền, đoàn kỵ binh lao về phía này. Cờ quạt trước phấp phới, tôi thấy hoa văn hình rồng thêu long trọng lá cờ. Tôi nheo mắt nhìn đạo quân kia lao đến mỗi lúc gần, rồi nhận ra, Lý Thừa Ngân dẫn đầu đoàn quân ấy.

                  Trái tim tôi chợt chùng xuống.

                  Tôi và A Độ thúc ngựa lao về phía cổng thành.

                  Xa xa vẳng lại tiếng hét:

                  - Đóng cổng thành! Điện hạ có lệnh! Mau đóng cổng thành!

                  Đám quân lính nhanh chóng đẩy cánh cửa về phía trước, toan khép cổng thành.

                  Cánh cổng nặng trịch gần ngay trước mắt. Lính tráng còng lưng đẩy cổng thành, cánh cổng mỗi lúc hẹp, mỗi lúc gần, kẽ hở chỉ vừa đủ lọt con ngựa, xem ra kịp nữa rồi. A Độ lao lên trước, muội ấy ngoái lại, toan kéo tôi sang ngồi cùng ngựa. Tôi vung tay quất mạnh roi da, ngựa của A Độ bị đau liền hí tràng dài rồi nhảy vọt qua cổng thành.

                  Cổng thành từ từ khép lại, tôi thấy A Độ hốt hoảng ngoái đầu nhìn tôi. Muội ấy ghìm cương, quay ngựa định vòng lại, nhưng cánh cổng nặng nề kia đóng lại. A Độ chọc đao vào cánh cổng nhưng cũng chẳng thể làm gì. Cổng thành đóng, chốt sắt cài, tôi nghe tiếng đao chém cật lực vào then cài, song những vết chém chỉ làm tóe ra những tia lửa vô vọng. Muội ấy biết nên thốt được tiếng nào, tôi thấy lưỡi đao chém điên cuồng giữa khe cửa, nhưng nhát nào nhát nấy đều phí hoài công sức.

                  Toán Vũ lâm lang xông lên, tôi quay người chạy về phía quan ải, chạy miết lên thành lầu. Nhoài mình tường trổ, tôi khom người nhìn xuống A Độ vẫn bơ vơ nện vào cánh cổng. Cửa ải hiểm yếu phòng thủ vô cùng kiên cố, chỉ mình muội ấy sao đủ sức lay động được nó dù chỉ là chút? Thấy A Độ khóc trong câm lặng, gợi tôi nhớ đến Hách Thất, huynh ấy phó thác tôi cho A Độ, đồng nghĩa với việc gửi gắm A Độ cho tôi. Nếu có tôi, có lẽ A Độ cũng chẳng thiết sống nữa. Tôi cũng vậy, nếu có A Độ, tôi chết từ lâu rồi.

                  Đột Quyết diệt vong, A Đô bơ vơ hơn tôi gấp nhiều lần. Hai mươi vạn dân Đột Quyết chết trong vòng vây của Nguyệt Thị và Trung Nguyên, mối thù đội trời chung còn đó, vậy mà muội ấy vẫn ở Trung Nguyên suốt ba năm, vì tôi.



                  Đến hôm nay, A Độ là người duy nhất khiến tôi ăn năn.

                  Vũ lâm quân áp sát chân thành, nhiều kẻ xúm quanh Lý Thừa Ngân vừa xuống ngựa. Tôi nghe sau lưng có tiếng bước chân nhốn nháo, chúng xông lên thành lầu.

                  Tôi hề sợ hãi, cứ đứng lặng ở đó.

                  Cổ Lý Thừa Ngân quấn sa trắng, nếu tôi cứa mạnh hơn, có lẽ lúc này chàng đứng ở đây.

                  Chàng tiến về phía tôi, chàng tiến bước, tôi lùi bước. Tôi cứ lùi dần, cho đến khi chạm bờ tường trổ thấp, còn đường lùi nữa. Gió tây đùa giỡn khiến ống tay áo tung bay phần phật, giống ngày đó bên bờ sông Quên, tôi đứng ở ngay mép vực, dưới chân vực là sông sâu, mây mù vấn vít ngang lưng.

                  Lý Thừa Ngân nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, cuối cùng, chàng cất lời:

                  - Lẽ nào nàng muốn làm thê tử của ta đến vậy ư?

                  Tôi cười, song đáp.

                  Chàng hỏi:

                  - Rốt cuộc gã Cố Tiểu Ngũ kia có gì tốt đẹp?

                  Bàn chân tôi chạm vào trống rỗng, hư , chỉ có mũi chân vẫn bám tường trổ, cả người đong đưa như thể buông mình rơi xuống bất cứ lúc nào. Vũ lâm quân đứng rạt ra xa, lặng lẽ nhìn tôi, còn ánh mắt Lý Thừa Ngân chất chứa những nỗi khổ sở, phức tạp kìm nén.

                  Tôi :

                  - Cố Tiểu Ngũ có gì tốt đẹp, bao giờ ta cho chàng biết.

                  Lý Thừa Ngân cười phá lên:

                  - Tiếc thay chết rồi.

                  Phải, tiếc thay chàng chết rồi.

                  Chàng với tôi:

                  - Nàng theo ta về, ta bỏ qua tất cả, chẳng những thế, ta thương nàng nhiều hơn. Dù nàng còn nhớ nhung gã Cố Tiểu Ngũ kia hay , chỉ cần nàng theo ta về, ta hứa bao giờ đến chuyện này nữa.

                  Tôi cười với chàng, rồi :

                  - Chỉ cần chàng hứa với ta việc, ta cam tâm theo chàng quay về.

                  Khuôn mặt chàng đanh lạnh, chút biểu cảm, chàng hỏi:

                  - Chuyện gì?

                  Tôi :

                  - Chàng bắt cho ta trăm con đom đóm.

                  Chàng hơi thảng thốt, nhìn tôi vẻ khó hiểu. Tôi thấy trước mắt dần nhạt nhòa, nhưng miệng vẫn nhoẻn cười:

                  - Nước sông Quên, đặng quên tình… Sông Quên thần kỳ cho ta ba năm quên lãng, nhưng để ta đời được quên.

                  Nước mắt lăn dài gò má, tôi cười :

                  - Giá mà ta có thể quên được như chàng, tốt biết bao.

                  Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi, như thể từ đầu đến cuối, chàng hiểu những gì tôi . Còn tôi, tôi biết sắc mặt mình thế nào, ràng tôi cười mà nước mắt vẫn rơi. Tôi :

                  - Lần này, ta nhất định quên được chàng.

                  Tôi quay người, như chú chim tung cánh giữa trời, như cánh bướm sà đậu bên khóm hoa, tôi mảy may do dự gieo mình xuống. Tôi biết rằng, nơi đây phải sông Quên, dưới kia là vô số những mảnh đá dăm lởm chởm, khi ngã xuống, chỉ có thịt nát xương tan.

                  Tôi nghe thấy nhiều tiếng kêu la thất thanh, Lý Thừa Ngân lao lên, chàng vung dây lưng quấn lấy tôi. Mọi dường như tái diễn lại cảnh từ ba năm về trước. Người tôi treo lơ lửng giữa trung, còn chàng mấp mé bên mép tường vì lao theo tôi. tay bám vào gạch tường, tay kia kéo tôi, bàn tay chàng nổi gân xanh, hình như vết thương ở cỗ rỉ máu, song chàng quyết buông tay, còn hét lớn:

                  - Người đâu!

                  Tôi biết khi Vũ lâm quân xông lên giúp chàng, tôi còn bất kỳ cơ hội nào nữa, tôi với tay cắt xẹt trước mắt chàng. Chàng thét lên:

                  - !

                  Tôi cắt dải dây lưng, giữa trung, dải lụa mỏng manh đứt lìa. Tôi cố mỉm cười tươi, nụ cười cuối cùng dành cho chàng:

                  - Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ.

                  Tôi thấy trong đôi mắt ấy vẻ bàng hoàng, máu vẫn ứa ra từ cổ, dường như chàng vừa chịu đựng nỗi đau đớn nặng nề mà đường đột, chàng hơi ngửa ra sau. Tôi thấy máu rỉ ra từ vết thương của chàng, rơi xuống mặt mình. Tôi nhoẻn cười nhìn chàng, có lẽ chàng muốn kéo tôi lại nhưng vô ích, thứ duy nhất níu được chỉ là gió. Tiếng chàng thảm thiết vang lên bên tai tôi:

                  - Là ta… Tiểu Phong ơi… Ta là Cố Tiểu Ngũ…

                  Tôi biết, cuối cùng chàng nhớ ra, đây có lẽ là trả thù đau đớn nhất mà tôi dành cho chàng. Ba năm trước, chính chàng bày ra cuộc thảm sát ấy, giết chết tình cảm giữa chúng tôi. Ba năm sau, cơ đến nước này, tôi đành cắt lìa những gì từng có giữa chúng tôi.

                  Tôi thấy chàng định lao xuống, có lẽ chàng định nối bước theo tôi giống ba năm về trước, nhưng nơi này nào phải sông Quên, nếu nhảy xuống chỉ có thịt nát xương tan. Bùi Chiếu ngăn chàng, tôi thấy chàng vung tay đấm vào ngực Bùi Chiếu khiến gã chảy máu miệng. Hẳn chàng đấm rất mạnh, song Bùi Chiếu vẫn quyết buông tay, lại thêm nhiều người xông lên giữ chàng.

                  Bầu trời trong xanh… Tiếng gió rót ào ào bên tai, tất cả dần trở nên nhạt nhòa trước mắt.

                  Tôi thấy mình ngồi cồn cát, ngắm mặt trời khuất bóng. Tôi thấy trái tim mình dần rũ héo, chờ ánh tà dương le lói sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng biến mất.

                  Dường như tôi thấy đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng nên vẫn khinh thường ra mặt. Chàng nhấc cây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng đứng quanh đó phá lên cười ngặt nghẽo. Trong tiếng cười nhạo báng, chàng bắn rụng trăm con dơi với loạt tên liên hoàn...

                  Dường như tôi thấy rất nhiều con đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và chàng, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt tỏa khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này chăng?

                  Dường như tôi thấy mình đứng bên bờ sông Quên, bàn chân chạm vào trống rỗng, hư , gió vách núi lay tôi đứng vững, như thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như lưỡi dao mỏng dính, ngừng cà vào cánh tay. Chàng dám tiến thêm bước. Tôi với chàng:

                  - Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ mới sinh ra cảnh nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi đau này.

                  Tôi gằn từng tiếng:

                  - Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta quên được chàng!

                  Dường như tôi thấy mình ngồi bơ vơ trong đêm tân hôn ngày đó. Đêm tân hôn ấy, chàng nhấc bỏ chiếc khăn đầu tôi. Khăn voan được nhấc lên, trước mắt sáng lóa, ánh nến lung linh soi rọi khắp phòng, chảy tràn khuôn mặt, người chàng. Chàng mặc bào đen thêu rất nhiều hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi thuộc làu quyển “Điển lễ”, giờ hiểu đấy là chín chương thêu áo đen và xiêm cam. Năm chương áo gồm rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; rau tảo, gạo trắng, phủ, phất hợp thành bốn chương xiêm. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ phủ, viền xanh đen, có soạn và tà áo. Thắt đai da, móc vàng sáng chói, dây đai bản to màu trắng lót đỏ, viền đỏ xanh, khuy đan bện. Áo tế đồng màu với xiêm, gồm hai chương là núi và lửa.

                  Chàng mặc áo cổn, mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng rủ chín chuỗi, kết thành tua, màu như lụa, bông tơ xanh che tai, trâm cài sừng tê… tôn lên vẻ khôi ngô, tuấn tú, dáng vẻ đường hoàng.

                  Lúc đó, tôi tưởng đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp gỡ, nhưng ngờ, chúng tôi từng gặp nhau ở đất Tây Lương, dưới ánh trăng ngập tràn.

                  Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình cắt lìa dải dây lưng, lệ tràn trong đôi mắt chàng.

                  Nhưng muộn rồi, ba năm đôi ta chỉ có cãi vã, vậy mà vẫn nhau. Đây là trừng phạt mà thánh thần dành cho những kẻ từng uống nước sông Quên. Lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia lìa, mãi mãi được nhớ về nhau.

                  Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống vực sâu, chờ đợi thân mình vỡ vụn.

                  Nhưng tôi bị hẫng lại, chẳng thấy cơn đau như trong tưởng tượng, tôi liền mở mắt, thấy cánh tay mát rượi của A Độ ôm lấy mình. Tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song ai đời có thể chịu được sức rơi mạnh đến thế, hình như tôi còn nghe tiếng xương cốt của A Độ vỡ vụn. Muội ấy lấy thân mình làm tấm đệm cho tôi tiếp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào lên:

                  - A Độ!

                  Hai chân tôi đau nhói, thể nào đứng lên được, tôi cố gắng bò dậy, cuống quýt muốn ôm lấy A Độ, nhưng chỉ cần khẽ cử động lại đau buốt. Vẻ mặt A Độ đầy đau đớn, song đôi mắt đen láy của muội ấy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, mảy may trách móc, như thể tôi vừa bày trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như trước kia, tôi từng dẫn muội ấy lẻn ra phố. Tôi ôm A Độ, thào gọi tên muội ấy.

                  Tôi biết , từ lâu, tôi còn Tây Lương để về. Tôi chỉ mong A Độ bỏ chạy trước, nhưng tôi có lỗi với A Độ. Tôi biết, A Độ để mình tôi phải lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng biết, tôi thể để A Độ mình bơ vơ. A Độ nhắm mắt, mặc cho tôi có gọi thế nào chăng nữa, muội ấy cũng hay.

                  Tôi nghe tiếng cổng thành mở, binh lính đổ về phía chúng tôi. Tôi biết bọn chúng vẫn muốn đưa tôi về kiếp sống khốn khổ, chúng muốn đưa tôi về chốn Đông cung quạnh. Nhưng tôi muốn phải chịu đựng những nỗi khổ sở ấy thêm nữa.

                  Tôi với A Độ:

                  - Chúng ta cùng về Tây Lương thôi.

                  Tôi nhặt thanh đao của A Độ, lưỡi đao sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ chém cật lực vào then sắt. Cuối cùng tôi cắm phập thanh đao vào lồng ngực mình. Chẳng hề đau. Có lẽ tôi nếm trải đủ mọi đớn đau, khổ sở cõi đời, chết có là gì nữa đâu…

                  Máu tuôn rơi, đôi bàn tay nhuốm máu nắm chặt tay A Độ, tôi nhoài người nằm bên muội ấy. Tôi biết, cuối cùng chúng tôi cũng được về nhà.

                  Những cảm giác, ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng phi ngựa về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ bắt trăm con đom đóm cho tôi thôi.

                  Giờ đây, tôi muốn tự tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và chúng tôi mãi mãi chia lìa.

                  Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.

                  mảnh đất hoang vu, dường như có ai hát bài ca nọ:

      justify;" align="            “Có con cáo đơn



      justify;" align="            Ngồi cồn cát ngắm trăng mình.



      justify;" align="            Cơ mà đâu phải ngắm trăng



      justify;" align="            Cáo mong đợi nàng chăn dê



      justify;" align="            Có con cáo bơ vơ



      justify;" align="            Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình.



      justify;" align="            Nào đâu cáo muốn sưởi mình



      justify;" align="            Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua…”



                  ra con cáo ấy đợi được người con nó mong hoài bấy lâu.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Ngoại truyện: Hồ Thái Dịch phù dung vẫn nở

                  - A Mục!

                  Tôi kéo tay áo cậu ấy, nhưng sửa lại cách xưng hô, khẽ gọi:

                  - Điện hạ…

                  A Mục ngước nhìn tôi vẻ ngỡ ngàng. Cậu ấy vận áo bào trắng rộng thùng thình, con ngươi đen láy, vẻ mặt còn vương nét ngây thơ.

                  Theo quy định của cung cấm, tôi được phép gọi thẳng tên mụ của Thái tử, song từ năm bảy tuổi tôi tiến cung, A Mục tuổi hơn tôi, lúc đó mới lên năm. Hai chúng tôi thân nhau như em, tôi lớn hơn nên lúc nào cũng che chở cậu ấy. Lúc cậu ấy thuộc bài, ngay trước mắt Thái phó mà tôi cũng lén gỡ bí, lúc cậu ấy bị phạt, tôi còn bắt chước nét chữ của cậu ấy, chép giúp cậu ấy tập sách dày mà hề bại lộ. Chúng tôi cùng nhau bắn nỏ trong ngự hoa viên, cùng nhau chơi chọi dế, trèo cây, trêu ghẹo vài cung nữ khó tính…

                  Chúng tôi dần trưởng thành, nhưng tôi biết, tình bạn giữa chúng tôi hề thay đổi. Mỗi lần buồn phiền, A Mục thường tâm với tôi. Còn tôi, tôi luôn nghĩ cách giải quyết giúp cậu ấy.

                  Chuyện buồn phiền của A Mục nhiều lắm, Bệ hạ chỉ có mình cậu ấy là con trai, đương nhiên đặt nhiều kỳ vọng vào cậu ấy. Song, đứng trước vị Hoàng đế minh, dù là ai cũng thấy mình tầm thường, bé.

                  A Mục từng hỏi tôi:

                  - Đệ phải làm gì mới được như Phụ hoàng đây?

                  Tôi biết nên trả lời thế nào.

                  Bệ hạ là vị quân vương có tài thao lược về quân , từng chinh phạt Tây Vực, bình định Nam Di, đánh bại vô số thành trì lớn , xây dựng cơ nghiệp bền vững muôn đời… Đứng trước địa đồ núi sông của bản triều, người ta khó kìm được cảm giác sục sôi. Hơn trăm năm kể từ ngày dựng nước, lãnh thổ quốc gia chưa bao giờ rộng lớn đến thế. Hằng năm cứ đến kỳ tuế cống [1] , chư hầu các nước lại đổ về chầu, dâng cống phẩm tỏ lòng quy phục. Tôi từng được theo cha, hầu Bệ hạ lên Thừa Thiên Môn, nghe muôn dân tung hô vạn tuế, thanh vang dội khắp cửu thành. Ngay cả những đứa trẻ còn chưa hiểu chuyện như chúng tôi cũng có cảm giác trời đất rung chuyển, khí huyết sục sôi. Vậy mà Bệ hạ cũng chẳng nhếch mép cười lấy lần, mỗi lần người chỉ đứng chốc lát rồi sai người hầu buông rèm, xa giá về thẳng Tây cung. Dường như trong mắt vị đế vương kiêu hãnh, lạnh lùng ấy, những phồn hoa đời cũng chỉ là mây khói…

                  [1] Nộp cống hằng năm.

                  Có người cha như thế, chẳng trách A Mục đáng thương.

                  Bệ hạ thông thạo cả cung lẫn ngựa, thiên triều giành được thiên hạ từ lưng ngựa. Trong quá trình dạy dỗ các thế hệ con em quý tộc cưỡi ngựa, bắn tên là môn học vỡ lòng, văn võ chỉ đứng thứ hai. tay cha dạy dỗ tôi thành tài, trong số các em cùng trang lứa, võ công của tôi được đánh giá ở mức khá, song vẫn kém xa với Bệ hạ.

                  Tôi từng được chứng kiến Bệ hạ thể bản lĩnh. Hôm đó, tôi và A Mục hầu người bách bộ trong ngự hoa viên, có đôi chim non líu lo hót cành, Bệ hạ cầm bộ nỏ tay A Mục, nhón viên đạn vàng, nhắm bắn đôi chim kia. Có lẽ câu mũi tên trúng hai con chim nhạn” chính là đây. Chỉ viên đạn bắn rơi hai con chim, ắt hẳn lực bắn phải rất mạnh.

                  Bệ hạ vốn thích những thứ thành đôi, thành cặp. Các triều đại trước, khi hồ Thái Dịch trong cung nở sen Tịnh đế [2] , người ta coi đó là điềm lành, có ít những vị học sĩ tức cảnh sinh tình nảy ý thơ. Vậy mà năm Khâm Hòa thứ hai, hồ Thái Dịch nở sen Tịnh đế, ai dám tâu lên Bệ Hạ, sau cùng nội thị họ Vương đánh bạo, sai người lén cắt cành sen ấy mới yên chuyện.

                  [2] Là hai đóa sen nở cùng cuống, loài hoa sen thanh tao, thuần khiết, hiếm có bậc nhất, xưa kia dành để tiến vua nên mới có tên “Tịnh đế”

                  Cũng bởi tính khí Bệ hạ vốn kỳ quái, lúc xây Tây Uyển, thậm chí đến cả số điện thờ phụ cũng là số lẻ. Công bộ lang trung Trương Liễm vốn là người tỉ mỉ, cẩn thận, nhưng trong chuyện này lại vô cùng thoải mái. Tuy Lễ bộ [3] cũng biết làm thế là phạm phải quy tắc của liệt tổ liệt tông, nhưng cho cùng Tây Uyển cũng chỉ là rừng uyển của hoàng thất, thể xem như cung điện chính thống được, nên đành mắt nhắm mắt mở cho qua.

                  [1] Bộ Lễ hay Lễ bộ là tên gọi của cơ quan hành chính thời phong kiến, tương đương với Bộ giáo dục và Bộ Ngoại giao ngày nay.

                  Sở dĩ Lễ bộ biết điều như thế cũng bởi tính khí ngang tàng của Bệ hạ tăng dần theo năm tháng, nhưng ai dám khuyên can.

                  vậy, song Bệ hạ phải vị vua mê muội, lẩm cẩm. Người vẫn vô cùng minh khi chọn người hiền tài, chuyện triều chính giải quyết đâu ra đấy.

                  Còn ở hậu cung lại chẳng có vị phi tử nào đắc sủng. Bệ hạ cũng mấy mặn mà với thanh sắc, thỉnh thoảng có mở hội săn, song cũng hẳn là thú vui. Quần thần cũng đành chịu thua vị vua đam mê tửu sắc, ham thích những thú vui hay của ngon, vật lạ này.

                  Nghe các bậc bề tôi rất đỗi lo lắng vì Bệ hạ chỉ có vị hoàng tử nối dõi. Đối với hoàng thất, chuyện này thực nghiêm trọng, nên tránh sao khỏi nỗi buồn lo.

                  Rất nhiều tấu chương nhắc nhở được dâng lên, như thể nếu Bệ hạ sinh được chín, mười hoàng tử, e rằng có lỗi với bàn dân thiên hạ.

                  Vậy mà Bệ hạ vẫn chẳng mảy may quan tâm.

                  Năm Khâm Hòa thứ tư, cuối cùng Hiền phi Lý Thị cũng mang thai. Triều đình và muôn dân đều mong ngóng Hiền phi hạ sinh cho Bệ hạ thêm người con trai. may Lý Thị sinh khó, vượt cạn sinh được công chúa Hiền phi qua đời.

                  Công chúa có hiệu là Triêu Dương.

                  Bệ hạ lấy tên chính điện Triêu Dương để phong thụy hiệu cho công chúa, đủ thấy người cưng chiều con thế nào.

                  Công chúa Triêu Dương sinh ra trắng trẻo, đáng vô cùng. Có lẽ vì thương công chúa vừa chào đời mồ côi mẹ nên đích thân Bệ hạ chăm sóc công chúa ngày đêm. Thậm chí trong những buổi thiết triều, Bệ hạ còn dắt theo công chúa, đặt công chúa ngồi đùi mình, dường như việc chơi đùa với con còn quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại ...

                  Thoạt đầu quần thần cũng bất bình, dần dà lại nhận ra mặt tích cực của công chúa Triêu Dương.

                  Nếu Bệ hạ có nổi giận, kẻ nào dám làm trái ý thiên tử, chỉ cần sai bảo mẫu ẵm công chúa đến, có khi tội tày trời cũng thành vô tội.

                  Công chúa Triêu Dương thường bật cười khanh khách, vươn tay sà vào lòng Bệ hạ.

                  Lúc Bệ hạ ẵm công chúa, gương mặt luôn nở nụ cười rạng rỡ.

                  Năm Triêu Dương lên bốn tuổi được vua ban thực ấp [4] vạn hộ cùng rất nhiều nô bộc. Thậm chí vì thương con mà Bệ hạ tiếc công xây dựng ngự hoa viên Ly Sơn, chỉ bởi công chúa Triêu Dương mắc chứng hen suyễn, Thái y khuyên nên đưa công chúa đến vùng suối nước nóng để tĩnh dưỡng.

                  [4] Vùng đất và những hộ dân được ban cho quan lại và chịu quản lý của họ.

                  Người trong thiên hạ đều hay biết, báu vật Bệ hạ coi trọng nhất đời chỉ có mình Triêu Dương.

                  A Mục thường với tôi rằng:

                  - Trọng An này, biết mai sau ai có phúc lấy được Triêu Dương nhỉ?

                  Tôi hiểu ý cậu ấy, ai lấy được Triêu Dương, người ấy có cả thiên hạ.

                  Triêu Dương ngày trưởng thành, càng thêm xinh xắn, nhưng cũng nghịch ngợm hơn hẳn thuở bé.

                  Giữa chốn hoàng cung này, chỉ có Triêu Dương là sống hồn nhiên, vô tư.

                  Tôi thường nghe tiếng công chúa cười, như tiếng chuông ngân vang lảnh lót, lại như loài chim biết hát, phải chính công chúa là chú chim non lém lỉnh đấy chứ?

                  Khi trưởng thành, Triêu Dương rất thích quấn chân A Mục, cũng bởi Bệ hạ chỉ có  người con trai và người con , bọn họ là em ruột thịt. Công chúa thường vận đồ nam, cùng chúng tôi lén xuất cung ra ngoài chơi, dù sao trong cung cũng chẳng ai dám ngăn cản muội ấy. Ba chúng tôi thường xuyên ra phố, vào quán uống trà, xem ca hát tạp kỹ, nghe nghệ nhân kể chuyện ...

                  Những ngày tháng đó vui vẻ, trong sáng và thuần khiết.

                  Giờ nhớ lại, cả cuộc đời tôi, quãng thời gian hạnh phúc nhất là khi có A Mục và Triêu Dương bên mình.

                  Khi Triêu Dương qua đời, trái tim chúng tôi tan vỡ.

                  Nhưng người đau khổ nhất chính là Bệ hạ, chỉ qua đêm mà tóc người bạc trắng.

                  Bệ hạ ngồi mình trong điện Triêu Dương, lặng lẽ quan tâm đến bất kì ai.

                  A Mục quỳ rất lâu ngoài điện, song cũng chẳng được người triệu kiến.

                  Bệ hạ hạ chiếu mai táng cho Triêu Dương ở Du Lăng.

                  Nơi ấy là lăng tẩm của người, toàn bộ được xây dựng theo lễ chế của Hoàng đế, cũng bởi công trình quá đồ sộ, nên mãi vẫn chưa hoàn thành. Giờ đây, trở thành nơi mai táng cho đứa con người hằng thương. Triều thần cùng muôn dân ngớt lời bàn tán, dị nghị, cuối cùng Bệ hạ buộc phải bỏ bớt tượng đặt trước lăng, thu hẹp chiều dài của mộ đạo, chỉ cốt làm lắng những lời bàn tán ồn ào.

                  Mười ngày thiết triều, trăm ngày quốc tang, Bệ hạ thực tất cả các lễ chế để truy điệu Triêu Dương. Nhưng thực tế, chuyện triều chính chỉ ngưng mười ngày, bởi từ đó trở về sau, Bệ hạ còn thiết triều nữa.

                  Tấu chương của quan lại các cấp chất thành chồng cao tại Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Thái phó khỏi than thở với A Mục. Nhiều lần A Mục tiến cung, song vẫn được Bệ hạ triệu kiến. Tôi biết A Mục lo lắng vô cùng, nhưng cũng chỉ biết an ủi:

                  - Đợi Bệ hạ vượt qua nỗi đau này rồi mọi chuyện ổn thôi.

                  Thế nhưng trong cung ai cũng biết, Bệ hạ thể nào vượt qua nỗi đau này. Dường như Bệ hạ biến thành người khác, chẳng còn hứng thú với bất kì ai, bất kì việc gì nữa. Nếu trước đây người là vị vua lạnh lùng, có hoài bão lớn, giờ đây vị vua ấy chỉ là người cha với trái tim nguội lạnh, âu sầu.

                  Tình hình sức khỏe của Bệ hạ ngày suy yếu, có thời gian người ngã bệnh rất trầm trọng, vậy mà vẫn mực sai người triệu sứ thần Tây Lương.

                  Tây Lương là nước thuộc địa lạ lùng nhất dưới quyền thiên triều: đất nước bé, thế lực yếu, lại toàn là sa mạc... Các nước chư hầu khác theo lệ phải phái hoàng tử đến Thượng Kinh, lấy danh nghĩa là học hỏi lễ nghi của Trung Nguyên, nhưng thực tế là làm con tin. Vậy mà duy nhất Tây Lương có con tin, chẳng những vậy, Tây Lương còn tỏ thái độ ngạo mạn xấc xược, thường xuyên đến triều cống, nhưng Bệ hạ lại rất nể nang Tây Lương. Người chinh chiến Tây Vực, bình định các nước xung quanh, chỉ chừa lại Tây Lương.

                  Nghe người già trong cung , có lẽ nguồn cơn của việc này bắt đầu từ Minh Đức Hoàng hậu.

                  A Mục và tôi đều biết, Minh Đức Hoàng hậu là cái tên cấm kị, tuyệt đối được nhắc đến.

                  Minh Đức Hoàng hậu vốn là Thái tử phi ở Đông cung của Bệ hạ khi người còn tại vị Thái tử, tiếc thay phúc mỏng phận bạc, năm Nguyên Khánh thứ hai mươi, trước khi Bệ hạ nối ngôi qua đời vì bạo bệnh. Hình như Bệ hạ chẳng mấy tình nghĩa với Thái tử phi quá cố này, đến tận năm Khâm Hòa thứ chín, Lễ bộ nhắc tới, lúc ấy người mới miễn cưỡng hạ chiếu thư, truy phong người đó làm Minh Đức Hoàng hậu. Chuyện xưa trôi qua hai mươi năm, lễ truy phong cũng vô cùng sơ sài, đơn giản. Minh Đức Hoàng hậu được an táng tại Định Lăng, Bệ hạ cũng hề ban chiếu xây lăng tẩm theo lễ chế dành cho Hoàng hậu, thậm chí người hề hạ chiếu sau khi mình tạ thế, để vị Hoàng hậu được truy phong này tuẫn táng tại Dụ Lăng.

                  Trước và sau khi truy phong Hoàng hậu, Bệ hạ hề đến lễ an táng Thái tử phi.

                  Trong cung đồn rằng Bệ hạ ưa vị Thái tử phi này, năm đó vì mối bang giao giữa hai nước, Bệ hạ bị ép phải sắc lập người con ngoại tộc làm Thái tử phi, người luôn cho rằng đó là mối nhục của hoàng thất. Có lẽ vì thế mà trong sử sách chỉ ghi chép dòng gồm hơn mười chữ giới thiệu về cuộc đời của vị Minh Đức Hoàng hậu này.

                  A Mục nhớ mãi chuyện cấm kị ấy, bởi có lần công chúa Triêu Dương biết tìm đâu ra bộ quần áo của người Hồ, muội ấy hớn hở vận lên người rồi yết kiến Bệ hạ. ngờ Bệ hạ lại nổi trận lôi đình. Người hạ lệnh đánh chết tất cả người hầu bên cạnh Triêu Dương, Triêu Dương khóc lịm cả người, vì quá sợ hãi mà ngã bệnh suốt mười ngày liền. Mà Bệ hạ cũng rất hối hận, người túc trực bên giường công chúa, cho đến khi công chúa khỏi hẳn mới thôi.

                  Vì chuyện này mà Trần quý phi bị phế truất, nghe chính bà ấy xúi bẩy công chúa mặc xiêm áo của người Hồ.

                  Lúc tôi đưa A Mục đến thăm Triêu Dương, bà bảo mẫu già nua thào kể cho chúng tôi nghe, Bệ hạ kỵ nhất việc có người trông giống Minh Đức Hoàng hậu. Trần quý phi xui công chúa mặc quần áo của người Hồ, tội đáng chết.

                  A Mục quả là to gan, cậu ta gặng hỏi bà bảo mẫu: “Vậy, A Hoàng có giống Minh Đức Hoàng hậu ?

                  Phụng Hoàng là tên mụ của Triêu Dương, A Mục quen gọi là A Hoàng.

                  Bà bảo mẫu ngẩn người lúc, rồi lắc đầu : “ giống chút nào, vẻ ngoài của Minh Đức Hoàng hậu giống công chúa.”

                  Tôi thầm nghĩ, khó mà giống nhau được. biết con ngoại tộc có tướng mạo thế nào nhỉ?

                  Bà bảo mẫu lại : “Minh Đức Hoàng hậu có nước da trắng sáng, thân hình gầy, , tuy có nét mặt hoa da phấn như con Trung Nguyên nhưng rất hiếu động.”

                  đến đây, bà ấy chợt thở dài: “Thoáng cái mà gần ba mươi năm, chẳng ngờ…”

                  Bà ấy tiếp, tôi thấy A Mục dường như trầm ngâm suy nghĩ gì đó.

                  Đấy là lần đầu tiên Bệ hạ nổi giận với Triêu Dương, và cũng là lần cuối cùng.

                  A Mục từng rằng, đời này, người duy nhất Bệ hạ thực thương, chỉ có Triêu Dương.

                  Sâu thẳm trong thâm tâm mình, tôi cũng nghĩ vậy.

                  Nhưng Triêu Dương qua đời sau đó...

                  Từ lúc Triêu Dương qua đời, ngày qua ngày Bệ hạ càng chán chường việc triều chính, mà sức khỏe của người cũng dần suy yếu. Người còn hứng thú với việc triều chính như còn hứng thú với chính sinh mệnh của mình. Người còn săn, dự yến tiệc, thường xuyên nhốt mình trong điện, uống rượu mà cũng chẳng sa vào thanh sắc, sức khỏe của người lại yếu dần theo thời gian.

                  Dường như cái chết của Triêu Dương mang theo toàn bộ sức sống của người, chẳng những mái tóc người bạc phơ, đến cả trái tim cũng héo tàn. Tôi chưa thấy ai đau lòng đến như thế này. A Mục và tôi cũng rất đau buồn vì ra của Triêu Dương, song có vẻ nỗi đau buồn ấy bằng phần của Bệ hạ.

                  Đích thân cha vào cung khuyên giải Bệ hạ. Cha ốm yếu bấy lâu nay, bao năm chinh chiến khiến người mắc rất nhiều bệnh. Người còn ốm gượng dậy nổi, song vẫn cố chấp đòi vào cung.

                  Người nhà can ngăn được, đành chuẩn bị xe đưa cha vào cung. Kẻ hầu người hạ trong điện đều lui ra ngoài, duy có tôi hầu cha quỳ trước mặt Bệ hạ, cảm giác cơ thể người run rẩy. Tôi dám lỏng tay đỡ, tôi biết nếu mình lỏng tay, hẳn cha sụp xuống bất cứ lúc nào. Và tôi cũng biết mình nên lánh , nhưng cha suy nhược như thế này, tôi đành lòng lui xuống. Cách Bệ hạ đối xử với cha tôi hơn hẳn những người khác, Bệ hạ đích thân đưa tay ra dìu cha dậy.

                  Trong hơi thở hổn hển, người nắm chặt tay Bệ hạ, như thường ngày tôi vẫn nắm tay A Mục, :

                  - Bệ hạ, Thái tử phi tạ thế từ lâu rồi.

                  Giọng cha run rẩy, nhưng những câu chữ thốt ra bẫng, tôi gần như chẳng nghe thấy gì. Chỉ câu đó thôi khiến Bệ hạ thảng thốt, tôi thấy tóc người điểm hoa râm, cặp mắt đục ngầu, bàn tay cầm tay cha tôi run rẩy. Tự lúc nào, Bệ hạ trở thành ông già suy sụp đến mức này?

                  Cha thở dốc, :

                  - Thái tử phi an giấc ngàn thu từ ba mươi năm trước rồi.

                  Dường như mắt cha đong đầy nước mắt, người tiếp:

                  - Bệ hạ, xin người hãy tỉnh táo lại, Thái tử phi chết lâu rồi.

                  Chưa bao giờ tôi thấy Bệ hạ mang vẻ mặt như lúc này, người luôn ôn tồn với cha, duy chỉ lúc này là cục cằn, khuôn mặt méo xẹo. Người níu chặt vạt áo cha, mu bàn tay vằn vện gân xanh, tiếng gầm gừ dữ tợn trở nên khàn đục:

                  - Ngươi láo!

                  Cha tôi run rẩy, còn tôi dám thở mạnh. Trong điện chỉ nghe thấy tiếng thở dồn dập từng hồi của cha. Giọng Bệ hạ dịu xuống, thậm chí người cười, :

                  - Bùi Chiếu, ngươi biết nàng ấy ở Tây Lương. Nàng ấy lừa chúng ta, chẳng lẽ thông minh như ngươi mà cũng mắc lừa nàng ấy?

                  Cha vừa ho vừa thở hổn hển rồi cất tiếng gọi khẽ:

                  - Bệ hạ…

                  Ánh mắt cha đau đáu, vô vọng. Tiếng người chẳng khá hơn:

                  - Công chúa Triêu Dương phải do Thái tử phi thân sinh. Công chúa hề giống Thái tử phi, trong lòng người hiểu hơn ai hết. Công chúa do Hiền phi Lý Thị hạ sinh. Thái tử phi về trời ba mươi năm rồi… Mười mấy năm trước thần từng đến viếng thăm, cỏ phủ xanh mộ rồi…

                  Đó là lần đầu tiên tôi thấy Bệ hạ khóc. Giọt nước mắt trào ra, xuống ngực áo bào trong câm lặng. Ngực áo bào thêu họa tiết tinh xảo, giọt nước mắt loang loáng đầu rồng, chực rơi xuống. Cha tôi ôm gối của người, như xoa dịu, như an ủi, lại như cảm thông... Lúc ấy, Bệ hạ khóc nấc lên như đứa trẻ…

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :