1. QUY ĐỊNH BOX XUẤT BẢN :

       

    Đặt Title theo mẫu [Tên truyện] [dấu cách] - [dấu cách] [Tác giả] [Số chương]

    ----•Nội dung cần:

    - Hình minh họa (bìa truyện, hình ảnh,etc,...)

    - Tác giả

    - Dịch giả

    - Đơn vị phát hành

    - Số trang ( nên có)

    - Giá bìa (nên có)

    - Ngày xuất bản (nên có)

    --- Quy định

    1 . Thành viên post có thể tự type hoặc copy từ nơi khác (để nguồn)

    2 . Trình bày topic truyện khoa học, bôi đen số chương để dễ nhìn

    3. Cần có trách nhiệm post đến hết truyện. Nếu không thể tiếp tục post liên hệ

    Ad và Mod

  2. QUY ĐỊNH BOX EBOOK SƯU TẦM

    Khi các bạn post link eBook sưu tầm nhớ chú ý nguồn edit và Link dẫn về chính chủ

    eBook phải tải File trực tiếp lên forum (có thể thêm file mediafire, dropbox ngay văn án)

    Không được kèm link có tính phí và bài viết, hay quảng cáo phản cảm, nếu có sẽ ban nick

    Cách tải ebook có quảng cáo

Đông Cung - Phỉ Ngã Tử Tồn

Thảo luận trong 'Sách XB Hoàn'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
      Phần III
      ĐỔI THAY
      Chương 8





      Tôi biết bơi, gã thích khách kia vừa quăng tôi cú tận lực khiến tôi chìm nghỉm. Bốn phía nước lạnh bao vây, đỉnh đầu phủ màu xanh lam buốt giá và đốm sáng trắng mờ mờ… Nước ùa vào miệng, nhớ lại lần nhảy xuống sông cứu người, lúc đó may nhờ A Độ vớt lên, rồi kiện tụng này nọ ở huyện Vạn Niên, Bùi Chiếu bữa ấy mặc bộ võ phục gọn gàng, trông vậy mà gần gũi đáng .
      bất ngờ, lúc này tôi lại nhớ tới Bùi Chiếu, nhưng ngay lập tức mọi suy nghĩ lại hướng về Lý Thừa Ngân. ngờ chỉ tôi thích cũng thích tôi, song tôi và Lý Thừa Ngân có duyên với nhau… Nếu tình cảm dành cho tôi sâu đậm, bê tên thề trước mặt đông đảo quan quân đâu nhỉ? Suy cho cùng chỉ bởi chúng tôi có duyên phận, may sao vẫn còn Triệu Lương đệ, trước kia tôi chưa từng vui mừng như thế này, vẫn còn có Triệu Lương đệ cơ mà. Nếu tôi phải từ giã cõi đời này, Lý Thừa Ngân mất nhiều thời gian đau buồn đâu, dần dần tôi vào quên lãng, để sống được tốt hơn…
      Nước ngừng xộc vào mũi, vào miệng, tôi bị sặc nước, cảm thấy mình nghẹt thở… Đốm sáng đỉnh đầu mỗi lúc xa vời, cơ thể cứ thể lắng xuống đáy nước sâu. Mọi thứ dần tối sẫm trước mắt, thoáng bên tai có làn gió dịu êm, người đó ôm tôi rơi xuống vực sâu… Chàng cứu tôi, trong làn gió đêm soáy xiết, tôi nép mình trong vòng tay chàng… Theo gió vần xoay… Xoay mãi… Sao điểm đầy trời tưởng giọt mưa sa. Giữa đất trời bao la, trong đôi mắt chàng tôi là tất cả…
      Đôi mắt ấy chỉ chứa đọng riêng mình tôi…
      Và rồi say, tôi sắp say đến lịm người, vùi sâu trong lồng ngực chàng, chính là chàng… Tôi biết chàng tôi tha thiết và tình tôi trao cho chàng cũng đủ đắm say, chỉ cần có chàng ở bên để lòng tôi được bình yên trở lại.
      Cảnh tượng ấy nhiều lần trở về tìm tôi trong giấc mơ, tôi nào có từng nghĩ lúc mình chết đuối...
      Chẳng hề có ai đến cứu…
      Người hùng trong cõi mơ ấy hề đến cứu tôi ngay lúc này…
      Và Lý Thừa Ngân, cũng thể tới cứu tôi…
      Thân thể lúc lắc, đong đưa tựa quả cân, cứ chìm dần… chìm dần…
      Chẳng biết bao lâu, có khi nhiều năm dài đằng đẵng qua, hoặc có khi chỉ là giấc mơ ngắn ngủi, sức ép nơi lồng ngực buộc tôi phải mấp mé mở miệng, nôn ra vũng nước.
      Rốt cuộc mình uống bao nhiêu nước rồi… Ho khạc mãi đến khi kiệt sức mới thôi…
      Nước trong bụng vơi phần nào, lúc ấy tôi mới mê man nằm đờ ở đó, nắng chói chang sao mở mắt được. Tôi cố chếch đầu, thấy kề bên má là đụn cỏ khô, lại gượng chuyển bên, thấy sát bên mặt là đống đất đá.
      Vạt áo gã thích khách lấp ló cách đó xa, hóa ra tôi vừa chết đuối hụt, vậy là tôi vẫn chưa chết. Có lẽ chính gã, chính gã muốn tôi sống lay lắt.
      Người mệt mỏi rã rời, toan mở lời lại nôn ra toàn nước. Tôi cất giọng yếu ớt:
      - Muốn giết muốn chém…
      Thay vì đáp lời, gã lấy bao kiếm gẩy đầu tôi, tôi nghiêng đầu sang bên, tiếp tục nôn ra nước… Nôn rồi lại nôn… Nước trào ra như dòng suối
      Mắt nhắm nghiền, tôi mê mệt thiếp .
      Tôi mơ thấy Đông cung, tôi và Lý Thừa Ngân lại hằm hè. Hắm bênh Triệu Lương đệ của chằm chằm, còn tôi sỉ vả như tát nước. :
      - Nàng tưởng ta cần nàng cứu Phụ hoàng đấy à? Đừng tưởng ta biết ơn nàng!
      Tôi tức sôi máu, mắng lại ngay. Tôi cần biết ơn, ờ kiếm đền nhau, lần trước cứu tôi thoát khỏi thích khách, lần này tôi trả là xong. Ngoài miệng mắng là vậy nhưng trong lòng tôi ức lắm, mới thế rơm rớm nước mắt. Tôi khóc nhưng muốn biết, đành gục mặt bên lồng hương, cái lồng hương nóng giãy, tôi chỉ nhoài người lát mà xương cốt, da dẻ bỏng rát đến khó chịu.
      Tôi cố nhấc mí mắt, có lẽ mắt sưng. Tuy da mặt nóng ran nhưng người ngợm lạnh ngắt, cóng từng cơn, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Phải chăng tuyết rơi? Tôi hỏi A Độ. A Độ dắt con ngựa màu đỏ của tôi tới. Cha vắng, chúng tôi liền tranh thủ cưỡi ngựa rong chơi. Vó ngựa đạp nền tuyết mới thú vị làm sao, chóp mũi tôi đỏ ửng vì mệt. Tuyết buông mình phủ trắng cồn cát, nom mấy cọng cỏ hệt như chòm râu xoăn tít điểm màu hoa râm của cha… Cha mà biết tôi cãi lời, chạy lên đồi tuyết chơi, thế nào cũng mắng cho xem…
      Lý Thừa Ngân chưa được thấy con ngựa của tôi, biết nó chạy khỏe thế nào… Chẳng hiểu sao cái tên Lý Thừa Ngân cứ lởn vởn mãi trong tâm trí, mà đối với tôi nào có ra gì… Tôi bỗng thấy chua chát, thực ra cũng hẳn là tệ bạc, chỉ bởi tôi mơ mộng hão huyền, muốn mình là người duy nhất để ý… song bên mãi mãi có Triệu Lương đệ… Lý Thừa Ngân bẻ đôi mũi tên kia, lần cuối cùng thốt tên tôi:
      - Tiểu Phong…
      Nếu tôi tận đường sống sót, khó bề trở về, có thể buồn lúc… song nỗi buồn ở bên được bao lâu…
      Tôi gắng gượng mở hé mắt, thấy mình nằm trong căn phòng thay vì lùm cỏ ven sông. Ánh trăng len lỏi rọi vào phòng, đổ màu lấp lánh, chắc bước sang tết Nguyên tiêu… Hoa đăng mười dặm, lầu cao chín tầng, pháo rộ tám phương, Thất Tinh bảo tháp, sáu phường rộn rã, ngũ tự rền vang, bốn cổng mở hoang, Tam Doãn hân hoan, đôi lứa sánh vai, đời yên ổn… Cái tết Nguyên tiêu này ắt phải tưng bừng nhộn nhịp lắm… Vậy mà giờ đây, rộn rã ấy chẳng liên quan gì đến tôi… Tôi khấp khởi mong chờ tết Nguyên tiêu để được ngắm hoa đăng cả năm ròng, rốt cuộc vui vẻ chẳng thấy đâu… Toàn thân buốt lạnh khiến tôi rùng mình, bấy giời mới nhận ra tôi cuốn tấm áo lông, chất vải bình thường nhưng sợi mềm mượt, dày dặn, cũng đủ ấm. Lúc bấy giờ tôi mới mình lên cơn sốt, bên ngoài áo lông còn phủ lớp chăn bông, nhưng người Tôi vẫn run rẩy.
      Ánh mắt quen dần với bóng tối, trong căn phòng chất đầy hòm xiếng, có khi đây là gian nhà kho. Gã thích khách ngồi cách tôi xa, thấy tôi tỉnh giấc gã lẳng lặng đặt chiếc bát xuống cạnh tay tôi. Tôi chạm vào miệng bát nóng ran.
      - Canh gừng.
      Gã vẫn bằng chất giọng méo mó. Người tôi bải hoải. Giọng lí nhí như muỗi kêu:
      - Ta …
      Tôi cầm nỗi chiếc bát.
      Đợt ốm kinh hoàng trước đây từng hành tôi phen thập tử nhất sinh, giờ tôi lại ốm. Bình thường khỏe mạnh sao, hễ bệnh là người tôi lại dật dẹo. Tôi gượng dậy mấy lần, tay bủn rủn sao nhấc nỗi bát canh gừng.
      Tôi mong ngóng gì, cũng nghĩ tại sao lại nấu cho mình bát canh gừng, cũng tự hỏi mình ở đâu. Tuy trong phòng chứa rất nhiều đồ đạc, nhưng kín gió và ấm hơn chỗ bờ sông thông thống gió lùa. Tóm lại nằm ở đây vẫn tốt hơn nằm ở ven sông.
      Gã thích khách bước tới gần, cầm bát canh rồi nâng tôi dậy. Cổ họng đau buốt, song tôi chẳng còn sức mà nghĩ ngợi, tôi ôm bát canh uống ừng ực mấy ngụm. Nước gừng cay rất khó uống, nhưng uống xong, máu huyết trong người tôi bắt đầu lưu thông trở lại. uống tôi bỗng ho sặc sụa, ho tới khi mặt đỏ tía tai, cánh tay bê bát canh gừng run rẩy, cầm nổi. Thấy thế tên thích khách liền giơ tay đỡ chiếc bát, tay kia vỗ về lưng tôi, nhịp thở của tôi dần bình thường trở lại. Nhanh như cắt, tôi giật chiếc khăn bịt mặt của gã.
      Đáng lẽ với thân thủ của gã, muốn tránh ắt tránh được ngay, khi gã né người tất phải buông tay, khi gã buông tay gáy tôi đặp xuống chiếc hòm. Tôi đinh ninh gã né người, để tôi chớp thời cơ đặp vỡ chiếc bát sứ rồi giấu mảnh, phòng khi bất trắc. Ngờ đâu gã vẫn trơ như phỗng và điều bất ngờ nhất là gương mặt ra sau khi gỡ bỏ tấm khăn.
      Tôi sững sờ nhìn gã. Ánh trăng sáng tỏ ngoài khung cửa sổ đủ để tôi nhìn .
      Cố Kiếm!
      Sao có thể là gã?
      Hình như máu trong người tôi dồn lên đỉnh đầu, tôi hỏi?
      - Sao lại thế này?
      trả lời mà từ từ đặt bát xuống.
      Tôi gặng hỏi lần nữa.
      - Sao lại thế?
      Sao lại là gã? Sao gã phải uy hiếp Bệ hạ? Sao gã lại có thể giết người ghê tay như vậy? Sao gã phải bắt cóc tôi? Vì sao? Tất cả là vì sao?
      Tôi ngu ngốc, trong thiên hạ có được mấy người võ công cao siêu bằng gã? Sao tôi nhớ ra trong thiên hạ chẳng có mấy người thân thủ xuất quỷ nhập thần như gã thích khách này?
      Thế mà tôi còn khờ khạo bắn tên, ngóng chờ Cố Kiếm đến cứu mình nữa đấy.
      A Độ sống chết thế nào chưa , tôi chỉ còn Cố Kiếm là tia hy vọng cuối cùng, tôi cứ mong gã đến cứu mình.
      Tại sao?
      Gã dửng dưng :
      - Chẳng sao cả.
      - Huynh giết những người đó. – Tôi nén được cơn giận. – Rốt cuộc huynh muốn làm gì? Sao phải tấn công Bệ hạ?
      Cố Kiếm đứng dậy, ánh trăng len qua cửa sổ vương vãi rơi bờ vai gã, giọng gã đều đều:
      - Thích giết. Nếu muội cảm thấy bất bình, ta cũng chẳng còn gì để giải thích.
      - Huynh làm gì A Độ rồi? – Tôi siết chặt tay áo gã. – Nếu huynh dám làm hại A Độ, tôi giết huynh báo thù cho A Độ.
      Cố Kiếm :
      - Ta giết A Độ, tin hay , tùy muội.
      Tôi thở phào, dịu giọng, :
      - Vậy huynh thả tôi về , tôi đảm bảo kể với ai đâu, tôi bảo mình tự trốn thoát.
      Gã bỗng phá lên cười:
      - Sao phải thế hả Tiểu Phong?
      Tôi lấy làm lạ, hỏi:
      - Sao phải thế cái gì?
      - Sao muội phải tử tế với Lý Thừa Ngân đến vậy? Rốt cuộc có chỗ nào tốt đẹp? … xưa nay chỉ lợi dụng muội. Chưa kể bây giờ cưới hết ả đàn bà này đến ả đàn bà nọ, muội thường xuyên bị bọn đàn bà ấy bắt nạt, đến cũng ức hiếp muội. Tương lai đăng cơ hoàng đế, ắt nạp thêm thê thiếp, có nhiều kẻ hùa vào bắt nạt muội? Sao muội phải tử tế với ? Lẽ nào vì Tây Lương mà muội đặng lòng hy sinh hạnh phúc của bản thân, để cả đời quẩn quanh trong chốn thâm cung quạnh sao?
      Tôi ngẩn người, :
      - Tây Lương là Tây Lương, dẫu sao tôi lấy rồi, vả lại đối với tôi cũng đến nỗi nào…
      - đến nỗi nào? Xưa nay chỉ lợi dụng muội. Muội biết tính toán gì ? Tiểu Phong à, muội đấu nổi, muội thắng nổi lũ đàn bà kia đâu, chứ đừng đến việc so trí với Lý Thừa Ngân. Giờ đây, bọn họ xem như còn dè chừng Tây Lương, nhưng tương lai sau này, khi Tây Lương còn giá trị lợi dụng với Trung Nguyên nữa, muội chẳng là gì cả.
      Tôi thở dài, :
      - Tôi nghĩ nhiều vậy đâu, , Lý Thừa Ngân vẫn là phu quân của tôi, tôi thể phản bội phu quân của mình được.
      Cố Kiếm cười khẩy:
      - Nếu Lý Thừa Ngân phản bội muội sao?
      Tôi rùng mình :
      - thể nào?
      Lần đầu tiên đụng độ với thích khách, đẩy tôi, lần thứ hai ở phường Minh Ngọc, ngăn tôi… Lần nào cũng vậy, Lý Thừa Ngân luôn gánh hết nguy hiểm về mình, bao giờ lừa tôi.
      Cố Kiếm cười gằn, :
      - Trước toàn thể thiên hạ, nàng nghĩ mình là ai…? kẻ sắp lên ngôi hoàng đế, tránh sao được máu lạnh và nhẫn tâm. Chẳng đâu xa, ta bắt muội đến đây, muội mong Lý Thừa Ngân đến cứu muội ư? Muội tưởng sốt sắng tìm muội ư? Hôm nay là tết Nguyên tiêu, toàn thành cấm ngựa cho bách tính thưởng đèn. Việc triều chính rối ren mà vẫn mở rộng cổng thành, cấm người ra vào Thượng Kinh, làm ra vẻ thái bình, yên vui. Muội chẳng là gì đâu! Muội đáng để cha con họ phải bỏ ăn Tết… Bọn họ vẫn lên Thừa Thiên Môn chia vui cùng dân chúng, chẳng thèm bận tâm muội sống chết thế nào. Giả sử ta là thích khách , ta giết muội rồi lẩn ra khỏi thành nhân lúc trời tối, sau đó cao chạy xa bay… Mười ngày sau, Thần vũ quân tìm ra chỗ này và thấy xác muội, cùng lắm Lý Thừa Ngân vài giọt nước mắt, sau đó lập Triệu Lương đệ lên làm Thái tử phi, chẳng ai nhớ tới muội, muội vẫn mong nhớ tới mình ư?
      Tôi cúi gầm mặt, lặng im.
      Cố Kiếm kéo tay tôi:
      - thôi, hãy với ta, Tiểu Phong. Chúng ta cùng nhau bỏ trốn, rời xa nơi đầy rẫy mưu mô này, chúng ta đến quan ngoại, cùng nhau chăn ngựa, nuôi dê…
      Tôi vùng khỏi tay gã, :
      - Mặc kệ Lý Thừa Ngân đối với tôi thế nào, đây là con đường tôi tự lựa chọn, cũng là con đường cha tôi chọn cho Tây Lương, tôi thể bỏ của chạy lấy người được, càng thể bỏ Tây Lương…
      Tôi nhìn gã.
      - Huynh hãy thả tôi ra!
      Cố Kiếm lặng thinh nhìn tôi, hồi lâu sau mới trả lời dứt khoát:
      - được!
      Tôi cảm thấy hết sức mệt mỏi, chán chường. Tôi sốt cao, cổ họng nóng ran như có lửa đốt. Nãy giờ nhiều nên mệt, mình mẩy riệu rã, thậm chí hít thở thôi cũng thấy nóng bừng. Tôi xoa xoa cổ họng, lui dần về phía chiếc hòm, buông người tựa vào đó.
      chực gì đó rồi lại thôi, thấy tôi thế này, dường như có vẻ nỡ, giọng cũng gắng nén xuống, chỉ hỏi:
      - Muội muốn ăn gì ko?
      Tôi lắc đầu.
      lại :
      - Vịt nướng ở Vấn Nguyệt lâu sao, để ta mua cho muội nhé?
      Tôi toan lắc đầu, nghĩ thế nào lại gật liên hồi.
      đắp lại chăn cho tôi rồi :
      - Muội hãy chợp mắt lát !
      Tôi nhắm mắt lại mau chóng chìm sâu vào giấc ngủ.
      Khoảng tuần hương sau, tôi mới mở mắt.
      Trong phòng vẫn tăm tối, tĩnh mịch, ánh trăng loang loáng lách mình qua chấn song, ngả màu nhạt nhòa xuống sàn nhà. Tôi ngồi dậy ngắm trăng, ánh trăng sáng như dát bạc, hôm nay ngày rằm tháng Giêng, là Tết Nguyên tiêu, trăng lên đẹp lắm thay, phố chắc nhộn nhịp lắm.
      Tôi quấn chặt áo lông, lần mò ra mở cửa, nhưng cửa khóa ngoài, đẩy mãi được. Tôi nhìn bốn phía, nơi này đúng là nhà kho, cửa thông hơi trổ tít cao. Ô cửa cao vời vợi, tôi thể với tới.
      Song tôi cũng chẳng thiếu cách, tôi đẩy chiếc hòm qua bên đó, chồng thêm chiếc hòm khác, xếp thành hình bậc thang. biết đống hòm xiểng đó chứa gì, may nặng lắm, nhưng vì mình mẩy run rẩy, tay còn chút sức lực, chống được mấy chiếc hòm chạm tới cửa sổ, tôi mệt lả người, mồ hôi nhễ nhại.
      Tôi bò lên đống hòm xiềng. Chấn song cửa làm bằng gỗ chạm trổ, lay hoay vặn bẻ lúc mà nó nhúc nhích. Tôi đành trèo xuống, lục tìm thứ gì đó, Tôi mở từng hòm , ra bên trong đựng tơ lụa các loại. Chẳng hiểu nhà nào lắm tiền dám để các hòm tơ lụa đẹp thế này trong nhà kho, song đây cũng có thể là nhà kho của ấp tơ lụa. Tôi còn sức mà nghĩ nhiều thế, ngán ngẩm đóng nắp hòm lại, cuối cùng nhìn thấy chiếc bát sứ vừa đựng canh gừng.
      Tôi đập vỡ chiếc bát, chọn mảnh sắc nhất, rồi lại trèo lên đống hòm với ý định cưa song cửa sổ.
      Thanh gỗ rất mảnh nhưng cưa mãi được. Tôi hì hục cưa… thậm chí đầu ngón tay bị cứa, ứa máu.
      cưa, tôi bỗng thấy chán chường, chắc bởi Cố Kiếm sắp quay về rồi, mà tôi vẫn chưa thoát được. Đành rằng chưa chắc gã giết tôi, song biết đâu gã cầm tù tôi cả đời, hoặc khiến tôi bao giờ gặp lại A Độ và Lý Thừa Ngân nữa…
      Sau hồi tuyệt vọng, tôi lấy lại tinh thần, tiếp tục cưa song cửa sổ.
      Chẳng biết qua bao lâu, tiếng “rắc” cũng chịu vang lên, tôi cưa đứt chấn song cửa. Tôi mừng quýnh, tiếp tục cưa thanh khác, giải quyết xong hai thanh cửa, tôi gồng mình tách rời chúng.
      Tôi sướng rơn, song chỗ này hơi cao, nhảy xuống chỉ e ngã gãy chân. Tôi rút xấp lụa, đè chặt đầu dưới đáy hòm, đầu kia vắt qua cửa sổ. Bám vào dải lụa, tôi trèo ra ngoài, từ từ bò xuống.
      Tay tôi còn chút sức lực, trong khi dải lụa trơn tuồn tuột, phải vấn chặt cổ tay vào dải lụa, khiến trọng lượng cả cơ thể treo cổ tay, dải lụa thít lại đau đớn, nhưng tôi chẳng màng. Chỉ sợ khẽ lỏng tay ngã nên tôi phải cẩn thận nhả từng đoạn , trườn xuống từ từ. Cho tới khi mũi chân chạm đất, người tôi bủn rủn ngã lăn ra đất.
      May mà ngã đau lắm, tôi liền lồm cồm bò dậy. Vừa đứng thẳng lưng, tôi chợt thấy bóng người đứng cách đấy xa.
      Cố Kiếm!
      Gã cầm gói thức ăn tay, lẳng lặng nhìn tôi.
      Tôi bèn nhếch miệng cười với gã, rồi quay đầu chạy biến.
      Chạy chưa quá bước, Cố Kiếm chộp được tôi. tay gã kẹp chặt cổ tay tôi, tay kia vẫn cầm gói thức ăn.
      Tôi :
      - Huynh thả tôi ra ngay, huynh nhốt tôi ở đây có ích lợi gì? Tôi bao giờ nghe theo huynh.
      Cố Kiếm bật tiếng cười gằn, đoạn bảo:
      - Thả muội cũng được thôi, song muội phải theo ta đến chỗ này trước , chỉ cần đến đó mà muội vẫn đổi ý, ta thả muội ngay lập tức.
      Thoạt nghe tôi có cảm giác ngờ ngợ, bèn cảnh giác hỏi:
      - Nơi nào?
      - Muội khắc biết.
      Tôi lưỡng lự nhìn gã, gã :
      - Nếu sợ thôi, đằng nào ta cũng muốn thả muội, muội càng tốt.
      Sao phải sợ chứ? Tôi hắng giọng :
      - Huynh hứa đấy nhé!
      Cố Kiếm bật cười:
      - Muội làm được ta cũng làm được.
      - Vậy còn đợi gì nữa, mau thôi! – Tôi .
      Cố Kiếm im lặng lúc rồi :
      - Muội hối hận đấy chứ?
      - Sao phải hối hận? – Tôi sực nghĩ. – Có khi người hối hận là huynh đấy.
      Cố Kiếm cười :
      - bao giờ ta hối hận.
      Gã đặt gói thức ăn xuống rồi mở ra, quả nhiên là thịt vịt nướng. Gã :
      - Muội ăn xong rồi chúng ta lên đường.
      Tôi vốn chẳng còn bụng dạ nào mà ăn uống, nhưng trông mặt gã, tôi nhủ thầm, mình mà bướng chịu ăn, chắc chắn đâu được, thôi đành nhấc đũa ăn cho xong món vịt nướng kia vậy. thực, lúc ấy cổ họng tôi khô rát, miệng đắng ngắt, đến đầu lưỡi cũng cứng đờ, triệu trạo nhai miếng thịt vịt mà chẳng thấy mùi vị gì. Tuy thế, tôi vẫn ăn quáng quằng cho xong, vừa buông đũa liền :
      - thôi.
      Cố Kiếm nhìn tôi hỏi:
      - Ngon ?
      Tôi gật đầu lấy lệ. Gã gì thêm, chỉ ngẩng đầu nhìn trăng sáng treo lơ lửng bầu trời rồi giúp tôi kéo cao chiếc áo lông che kín nửa khuôn mặt, :
      - thôi!
      Khinh công của Cố Kiếm nhanh như gió, chỉ thấy cây cối trước mắt trôi tuột về đằng sau, rồi sau vài cái nhảy qua nóc nhà, chúng tôi đứng dưới bờ tường cao chót vót.
      Trông thấy bức tường ấy, tôi thấy có vẻ quen quen.
      Cố Kiếm kéo tôi vọt lên tường, đứng cạnh gã. đó, mắt tôi láo liên ngó quanh quất trước sau, nhìn đến đờ cả người.
      Phía sau bức tường mái ngói lưu ly trải dài ngút tầm mắt, đấu cùng mái cong sừng sững, hùng vĩ, mấy tòa điện chính giữa quen thuộc với tôi hơn bao giờ hết. Lần nào trèo tường hình ảnh ấy cũng đập vào mắt tôi trước tiên. Tôi líu lưỡi, Đông cung ư? Đây là Đông cung mà! Chúng tôi đứng tường bao của Đông cung.
      Cố Kiếm thấy tôi lặng người, liền buông câu nhạt nhẽo:
      - Đúng vậy, nơi chúng ta trú ngụ mấy ngày nay chính là nhà kho của Đông cung.
      Tôi cắn chặt răng thốt nên lời, thế có đáng hận chứ! Đáng lẽ lúc trèo qua cửa sổ, tôi phải hô hoán lên, phải kéo hết thảy Vũ lâm quân trong Đông cung đến, thế có phải tôi được cứu rồi ko? Cố Kiếm tài mấy cũng thể cướp tôi khỏi vòng vây của hàng nghìn thị vệ Vũ lâm quân… đáng tiếc!
      Nhưng có hối hận thêm nữa cũng vô ích. Cố Kiếm kéo tay tôi nhảy khỏi bờ tường cao. Chúng tôi chạy nóc nhà dân, mấy lần rẽ trái rồi rẽ phải, phi từ mái ngói xuống sân vườn của hộ dân nào đó, băng qua sân, mở cánh cổng , thể là quang cảnh phồn hoa mở ra ngay trước mắt.
      Hằng năm cứ vào dịp này, ánh đèn rực rỡ nơi nơi, người người chen vai xuống phố, tiếng cười rộn rã… Dường như thế gian này có bao nhiêu người từng ấy người đổ xuống đường. Dường như thế gian này có bao nhiêu đèn từng ấy đèn giăng xuống phố phường Thượng Kinh. Trăng tròn vành vạnh treo lơ lửng trời, bầu trời tối đen như nghiên mực, trăng sáng tựa gương, vừa trong veo vừa thấp, nhìn ông trăng kia lại tưởng chiếc bánh nếp dập dềnh trong bát canh, trắng trẻo, nõn nà, cắn miếng là cảm nhận mạch nha tứa ra trong miệng. Ánh trăng xà xuống lớp sương mỏng mái ngói, càng soi tỏ càng sáng sắc trời, trông vậy song chẳng hề lạnh. Trong khí thoang thoảng mùi thuốc pháo, cũng thoáng đưa mùi phấn son ngan ngát, thêm làn gió phảng phất mùi đồ ăn ngọt lịm… Chúng hòa quyện vào nhau, tạo thành hương vị đặc trưng của ngày rằm tháng Giêng. Đèn lồng khoe sắc chạy dọc hai bên đường, đèn chăng đầy cành cây, liễu trúc người ta dựng phố cũng kín đèn màu. Đâu đó có người múa đèn rồng, múa kỳ lân, múa thuyền đèn…
      Tôi và Cố Kiếm hòa vào biển người, biển đèn dày đặc, đâu cũng thấy người và đèn. Lách qua dòng người xô bồ, đèn nối đèn trải dày trước mắt, đèn ở hai bên, đèn chạm ngang mày… thi nhau tỏa sáng, nào vàng, nào hồng, nào lam, nào lục, nào tím, nào đỏ… nhìn mãi cũng chóng mặt. Nhất là những chiếc đèn hình kéo quân thêu hình nhân vật cứ quay mòng mòng, rồi đèn lưu ly của Ba Tư sáng chói mắt, rồi đèn chùm, nhiều chùm đèn chụm lại thành bức tranh thư pháp lớn, bên cạnh đó còn có đèn đố chữ, đoán trúng ắt có thưởng, nhưng vĩ đại nhất phải kể đến đèn chín khúc, con sông Hoàng Hà uốn mình chín khúc được mô tả bằng đèn, sa chân vào mê trận ấy chắc chắn bị lạc, rẽ trái ra, rẽ phải cũng ra. Nghe đèn chín khúc được bày theo binh pháp thời cổ, rẽ trái quẹo phải chỉ thấy đèn là đèn, những người bước vào chẳng ai lấy làm sốt ruột, họ cười râm ran, quanh quẩn, mò mẩm tìm lối ra…
      Nếu là trước đây tôi quả thực biết mình mừng vui cỡ nào khi được chứng kiến cảnh phồn hoa đô hội này song hôm nay tôi lại cúi gằm mặt, mặc cho Cố Kiếm nắm tay dẫn . Chúng tôi cất bước lầm lũi dưới dàn đèn treo lơ lửng cao, phía đầu đường dậy vang tiếng reo hò huyên náo, nhiều người tụm lại xem múa đèn rồng, người đứng chen nhau chừa kẻ hở, Cố Kiếm đành dừng bước. Thỉnh thoảng, luồng lửa ánh bạc phụt ra từ miệng rồng, những người đứng chung quanh đó tấm tắc xuýt xoa. Bất ngờ, nó nhô đầu về phía tôi, đột ngột phun ra luồng lửa, khiến ai nấy đều giật thót mình lùi lại phía sau. Ngọn lửa bừng bừng ngay trước mặt, tôi hoảng quá kịp nhắm mắt, lại vướng dòng người xô lấn suýt ngã ngửa, may là sau lưng có Cố Kiếm giơ tay đỡ kịp thời. Tôi hé mắt nhìn mình ngã vào lòng gã, mặt giấu sau ống tay áo.
      Tôi chẳng chẳng rằng, chuồi người ra khỏi vòng tay quàng lấy mình, may sao gã gò ép, chỉ chăm chăm nắm cánh tay tôi, nhích dần về phía trước.
      Chúng tôi vừa ngang qua phố Nam Thị, bỗng có tiếng huýt sáo, liền đó là tiếng nổ “bịch” giữa trung. Người đường đồng loạt ngước nhìn lên, thấy góc trời rợp ánh vàng, ánh bạc, lồng vào nhau đơm thành bông hoa sáng rực, khiến trăng rằm kia cũng phải khép mình nhường bước cho pháo bông nở rộ. ra tháp Thất Tinh bắt đầu thi bắn pháo hoa.
      Tháp Thất Tinh như vẩy vàng, rắc bạc vào trung, những tràng pháo hoa liên tiếp bùng nổ trời, mở đầu là “Đất bằng sấm nổ”, sau là “Mẫu đơn mừng xuân”, tiếp đến là “Thái bình thịnh vượng”, thậm chí có cả “Trăm năm hòa hợp” và muôn vàng những dáng vẻ khác nữa… Người phố đều ngẩng lên ngắm nhìn với vẻ hồ hởi, si mê. Cố Kiếm ngoại lệ, chiếc khăn chít đầu phất phơ trong làn gió đêm nhè mang theo cái se lạnh của ngày xuân, sau lưng gã là con phố rực ánh đèn. Mỗi lần pháo bông vụt sáng, khuôn mặt gã cũng bừng lên rạng rỡ, mỗi lần khói lửa lụi tắt, khuôn mặt kia như phảng phất chìm trong bóng tối. Tôi chằm chằm nhìn gã trong khung cảnh tranh tối tranh sáng ấy.
      Mà thực ra tôi nghĩ, nhân lúc này mình có bỏ chạy, chưa chắc Cố Kiếm đuổi kịp. Đường chật như nêm thế này, Tôi lẩn vào dòng người, gã có tìm đằng trời cũng chẳng ra.
      Ngặt nỗi gã cầm khư khư bàn tay tôi, cầm riết từ bấy tới giờ. Tôi đành tự nhủ, mình khó mà vùng tay ra được.
      Hàng quán ven đường trải dài san sát, họ rao bán tuyết liễu, ngải tằm[1], cờ xuân, hoa thắng[2]… óng ánh, rung rinh, thoạt nhìn lóa cả mắt, nhưng nhiều người thích những thứ như vậy. Tôi nhìn trân trân xuống nước, thèm nhìn những thứ ấy. Bỗng nhiên có gã tiểu thương biết điều chặn chúng tôi lại, đon đả chèo kéo Cố Kiếm.
      [1] Tuyết liễu, ngải tằm: Mũ hình con ngài và tuyết liễu là những đồ trang sức, phụ kiện phụ nữ thường mang trong tiết Nguyên tiêu.
      [2] Hoa thắng: Người xưa cắt giấy màu làm hoa, để cài tóc cho đẹp, gọi là hoa thắng.
      - Công tử ơi, mua cho nương tử nhà ngài cây trâm cài đầu ! Phu nhân nhà ngài duyên dáng thế kia, cài thêm chiếc trâm này, chẳng khác nào gấm đơm hoa, đẹp lại càng thêm xinh! Mười đồng đôi, vừa đẹp lại vừa rẻ!
      Thấy Cố Kiếm định phẩy tay, tôi đoán phẩy tay xua tay bán hàng rong, ngờ gã lại chọn hai chiếc trâm cài đầu rồi trả cho tay kia mười đồng.
      :
      - Cúi đầu xuống nào!
      Tôi bảo:
      - Tôi thích những thứ này.
      Gã cài trâm lên tóc tôi, coi như nghe thấy gì. Cài xong chiếc, lại cài tiếp chiếc kia.
      Do khoảng cách gần kề nên tôi cảm thất ràng hơi thở khẽ khàng, ấm áp của gã, mà còn hơi ngứa ngứa nữa. Cơ thể gã tỏa ra làn hương dịu , phải mùi trầm hay long diên hương hằng ngày tôi vẫn quen thuộc mà là mùi hương nào đó rất khó gọi tên, thơm như mùi dưa lê trồng đất Tây Lương, ngọt thanh mà thoảng cảm giác mát dịu. Cài trâm xong, Cố Kiếm kéo tay tôi để ngắm trái ngắm phải, như thể sợ cài lệch dù chỉ chút. Chưa bao giờ gã nhìn tôi chằm chằm kiểu đó, hai mang tai tôi nóng bừng, mất tự nhiên, bèn giục gã:
      - thôi!
      Thực ra tôi vẫn chưa biết nơi gã định dẫn tôi tới, mà dường như gã cũng vậy. Chúng tôi vừa vừa dừng con phố tưng bừng, tấp nập ấy. Dòng người như cơn thủy triều dồn sóng về phía trước, nhanh khó, mà muốn lách cũng được.
      Cho đến tận chỗ rẽ cuối cùng, con đường Chu Tước thẳng tắp ra ngay trước mắt. Phóng tầm mắt nhìn ra con phố Thiên Nhai dẫn tới Thừa Thiên Môn hằng ngày vốn cấm dân chúng lại gần, thế mà nay người ta đứng chen vai ngóng lên Minh lầu trong ánh đèn lộng lẫy.
      Bấy giờ tôi mới biết gã định đưa mình đâu, thế rồi, nỗi sợ hãi trong tôi vô tình trỗi dậy.
      - Sao, dám à?
      Cố Kiếm ngoái đầu nhìn tôi, thản nhiên cười hỏi. Tôi luôn cảm thấy nụ cười ấy có phần mỉa mai, nhớ lần đầu tiên gặp nhau, gã đâu có cười kiểu này. Lúc ấy, gã mặc áo choàng màu xanh, đứng dưới mái hiên ven đường, dõi theo tôi và A Độ chạy phố.
      Sao bây giờ lại thành ra thế này?
      Tôi tự huyễn hoặc mình, :
      - Rốt cuộc huynh muốn gì?
      - Ta muốn muội đau đớn, quằn quoại tưởng như trái tim ngừng đập. – Giọng gã đều đều, như thể kể câu chuyện phiếm. – Lòng ta như chết, ta muốn muội cũng phải nếm trải cảm giác đó!
      Tôi nào có nghe gã gì, tư tưởng chỉ hướng về cổng lầu xa lắc, chót vót cao kia. Nơi ấy chính là Thừa Thiên Môn, lầu cao khoe đèn lồng đỏ thắm, pha trộn đủ sắc màu tươi vui từ những cụm đèn , cả tòa lầu được điểm xuyến sắc màu lung linh, đèn đuốc ràng vây quanh chân thành, biến Thừa Thiên Môn thành chốn lầu son gác tía trổ lưng chừng trời. Càng bước lại gần, cảnh sắc càng ra ràng. lầu buông lớp màn đỏ thắm, gió đưa mành lụa phất phơ, thấp thoáng sau màn có đội nghi trượng[3] lẫn trong bóng người. đấy in bóng búi tóc cao ngất của đám cung nữ và dáng người thước tha, kiều dạo gót lầu, ánh đèn dán những chiếc bóng xinh đẹp của họ lên tấm màn, gợi tôi nhớ đến màn múa rối nước bóng trước đây từng xem phố. Cổng Thừa Thiên sừng sững cao ngất trời, mọi thứ diễn ra ấy giống như con rối in bóng lên tấm vải trắng, nhất cử nhất động đều mang lại cho tôi cảm giác xa vời.
      [3] Nghi trượng: Vật trang hoàng nơi cung thất, dinh thự, hay dùng khi vua quan đường như tán, cờ, quạt, binh khí, v.v…
      Loáng thoáng có những thanh từ lầu vọng xuống, ngay cả tiếng đàn ca cũng bị đẩy dạt vào xa xăm. Người dân tụ tập dưới chân thành bỗng nhốn nháo, ra tấm màn lầu cao vừa hé mở, đám cung nữ vẫy tay vung đồ xuống, dân chúng đứng dưới tranh nhau nhặt. Cung nữ vừa ném xuống những đồng tiền Thái Bình do nội cung đúc riêng, ngự ban cho bách tính kéo về ngắm hoa đăng. Những đồng tiền vàng rơi tới tấp, đáp xuống nền đá xanh phố Thiên Nhai, phát ra những tiếng leng keng, như cơn mưa rào lộng lẫy ánh vàng. Thiên triều giàu sang, thịnh thế bao nhiêu, chỉ cần lắng nghe trận mưa với tiếng leng keng ấy là … Người ta đua nhau thụp xuống nhặt tiền vàng, còn tôi đứng im như trời trồng, mắt vẫn hướng về Thừa Thiên Môn.
      Lúc đó Lý Thừa Ngân xuất , tuy xa xôi cách trở, song tôi nhận ra chàng với cái nhìn đầu tiên. Chàng khẽ tựa vào lan can Minh lầu, lọng biếc hoa lệ khoe ngọn gió sau lưng, tua cờ buông mình phất phơ, gió gieo cả vào tay áo. Bấy giờ dân chúng đồng loạt quỳ xuống, tung hô: “Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”, tôi mới nhìn thấy Bệ hạ.
      Nhà đế vương phú quý, cảnh thiên hạ thái bình, chưa lần tôi cảm thấy những thứ ấy xa vời đến thế, lạ lẫm đến thế.
      Tôi thấy Triệu Lương đệ mặc trang phục hoàng tộc, từ đằng sau dạo góc tiến lên, đành rằng lộ diện, nhưng tôi vẫn nhận ra bóng hình đổ tấm rèm kia, rồi lại trông cánh tay đưa ra từ sau rèm choàng lên vai Lý Thừa Ngân tấm áo lông đen tuyền. Trời trở gió, tấm áo chao nghiêng, lớp gấm đỏ tươi bên trong chiếc áo lẫn hoa văn thêu nổi bằng kim tuyến lóng lánh dưới ánh đèn nơi Minh lầu. Mọi thứ thu cả vào mắt tôi, Lý Thừa Ngân ngoảnh mặt sang phía đó, ở khoảng cách xa xôi, tôi tài nào nhìn vẻ mặt chàng, phải chăng bờ môi ấy là nụ cười dành cho người đẹp khuất sau rèm?
      Trước kia, tôi chưa từng đặt chân lên Thừa Thiên Môn. Trước kia, tôi chưa từng ăn cái Tết tử tế với Lý Thừa Ngân. Bao năm nay tôi nào có hay, ra mỗi dịp Tết Nguyên tiêu, chàng và Triệu Lương đệ lại vai kề vai, cùng sánh đôi nơi lầu cao, nhìn xuống mười vạn đèn hoa phủ trùm Thượng Kinh.
      Đôi lứa sánh vai, đêm nay đây, đêm nay vốn là đêm se duyên lành.
      Tôi cứ đinh ninh chúng tôi thay đổi. Tôi còn nghĩ, cố ngày hôm qua, đáng lẽ tạo ra khác biệt… Tối qua tôi bị thích khách bắt , chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ mũi tên thề… Tất thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, ngộ nhận chúng tôi đổi thay, thế nhưng sau vẻn vẹn có ngày, chàng đứng kia sánh vai bên người con khác, nhàn nhã ngắm cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân…
      Trong khi… Tôi sống chết thế nào còn chưa hay. Trong khi… tôi còn biệt tăm biệt tích. Trong khi… tôi mới là thê tử của chàng.
      Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình:
      - Tiểu Phong!
      Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
      Gã nhìn tôi chăm chú, tôi cố nặn ra nụ cười, định vài câu.
      Nhưng gió lùa vào khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho thể dứt, cổ họng trước đó đau ghê ghớm, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc yết hầu. Ho cơn nào, đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào bị hòn đá sắc nhọn cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng khó khăn. Tôi còng lưng ho dứt, những cơn ho dữ dội như muốn nôn ra thứ gì đó trong bụng mới thôi. Đau là lẽ đành, mà nơi lồng ngực cũng vô cùng khó chịu. Trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn bệnh… có bệnh tật phải khó chịu thế thôi.
      Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo hồi, cảm thấy như có thứ gì đó vừa nứt đôi. Khi thanh khàn đạt thoát ra khỏi cống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
      Gã nâng mặt tôi lên, tôi nghe tiếng mình vang lên:
      - Cũng chẳng có gì ghê gớm…
      Tôi thấy trong đôi mắt ấy hằn lên ánh nhìn day dứt lạ thường, gã chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
      Dưới ánh đèn, tôi thấy ngón tay gã còn đọng vết máu, những ngấn loang lổ, từng đốm bám cả lên ống tay áo, là máu. Chân tay bủn rủn, mặt mày xây xẩm, tôi biết mình đứng vững, như thể vừa rồi tôi gồng mình nôn ra cục máu ấy. Gã ôm tôi, thầm bên tai:
      - Tiểu Phong, muội cứ khóc , muội cứ khóc trận cho thỏa!
      Tôi đẩy gã bằng chút sức lực cuối cùng.
      - Sao phải khóc? Huynh cố ý dẫn tôi đến đây cơ mà, sao tôi phải khóc? Huynh đừng vờ vĩnh nữa, việc gì tôi phải khóc? Huynh bảo xem xong, huynh lập tức thả người, đúng ? Bây giờ tôi phải đây!
      - Tiểu Phong!
      Gã đuổi theo định đỡ tôi. Bước chân loạng choạng song tôi vẫn gắng đứng vững, ngoái đầu, tuốt trâm cài tóc quẳng xuống chân gã, nhìn gã bằng ánh mắt lạnh lùng, cất giọng:
      - Huynh đừng đụng vào tôi, cũng đừng có theo tôi, bằng tôi chết cho huynh xem. Đành rằng huynh có võ công tuyệt thế, nhưng ngăn thế nào được khi tôi muốn chết. Huynh cản được lần, cản sao được cả đời! Huynh cứ thử theo tôi xem, tôi tự sát bây giờ đấy!
      Có lẽ tôi với giọng cương quyết khiến gã chững lại, dám tiến tới gần.
      Tôi thất thiểu bước , chẳng biết được bao xa, chỉ thấy bốn bề là người, bốn bề là đèn, ánh đèn chói chang đến nhức nhối. Tôi nắm chặt cổ áo khoác, cảm nhận từng cơn run rẩy, lạnh đến nỗi răng và lợi va vào nhau lập cập. Tôi biết mình sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, chẳng còn mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới giàn đèn, giữa những tiếng cười hân hoan, giữa dòng người nhộn nhịp, giữa bầu trời tưng bừng pháo hoa, chắc là tháp Thất Tinh thi bắn pháo hoa. cái tết Nguyên tiêu rực rỡ sắc màu, cái tết Nguyên tiêu nơi phồn hoa đô hội, nhưng tôi phải đâu, về đâu?
      Gầm trời bao la, hỏi có chốn nào cho mình dung thân?
      A Độ ơi, muội ở đâu? Chúng ta về Tây Lương thôi, ta nhớ Tây Lương lắm rồi!
      Trước mắt tôi là chiếc lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thiếp vàng in hình người con , hơi nóng từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn quay mòng mòng. Người con đó thoắt đứng, thoắt ngồi, thoắt kiều, thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… trước mắt tôi tối dần, người con in bóng chao đèn sao có nét hao hao Triệu Lương đệ thế nhỉ? Ả ta bưng miệng cười, ngạo mạng hỏi tôi: “ Tỷ tưởng mọi thứ đổi khác ư? Tỷ nghĩ mình chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay Bệ hạ chàng rủ lòng thương ư...”
      Tôi phải dựa vào thân cây mới có thể đứng vững, lớp vỏ sần sùi, thô ráp cào vào áo lông đau buốt, nhưng lại khiến tôi thấy dễ chịu hơn… chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi ỉ trong lồng ngực. A Độ chẳng thấy đâu, ở Thượng kinh này, tôi trở thành bơ vơ. Tôi có nơi nào để ? thân mình về Tây Lương, dẫu phải tháng, tháng đến ba tháng, ba tháng đến nửa năm, nửa năm đến năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
      Tôi ngước mắt trông trăng, vầng trăng tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Dưới ánh trăng kia, Thượng Kinh yên bình làm sao, phồn thịnh làm sao… Trước đây tôi và A Độ từng dạo khắp phố lớn, ngõ của Thượng Kinh, nhưng nơi này mãi mãi phải nhà tôi, tôi muốn về nhà.
      Tôi lê bước về phía tây, muốn về Tây Lương ắt phải qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến về phía tây qua được Ngọc Môn Quan là đến Tây Lương.
      Tôi phải về nhà thôi.
      Chưa đến được Quang Hoa Môn, bỗng nghe người xung quanh đó xôn xao, có người gào lên:
      - Thừa Thiên Môn bốc cháy rồi!
      Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, lúc đó mọi ánh nhìn đều đổ dồn về phía nam, thoáng thấy ngọn lửa bập bùng Thừa Thiên Môn và những cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều kinh hãi, giương mắt nhìn tòa thành dần chìm trong biển lửa. Những chuỗi đèn như châu như ngọc, những mảnh rèm thắm đỏ, những mái hiên sừng sững, đồ sộ… giờ đây bị nuốt chửng trong ngọn lửa ngùn ngụt. Đám cháy mỗi lúc lớn, lửa bùng lên dữ dội, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao. Thừa Thiên Môn bừng bừng bốc cháy.
      Từ đầu đường đến cuối phố bỗng trở nên hỗn loạn, dân chúng nhốn nháo lo chạy thoát thân, còn biết làm gì vào lúc này nữa. Chếnh chếch bên kia đường xuất người của Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, tiếng vó ngựa ào ào như cơn lốc quét qua, đám người đến cứu hỏa cũng rầm rập xuất ngay sau đó. Họ vác ống gỗ, kéo theo những thùng xe lớn chở đầy nước, lộc cà lộc cộc tiến về phía xảy ra hỏa hoạn. Rằm tháng Giêng năm nào cũng đốt pháo bông và chăng đèn lồng, nếu để xảy ra cháy nổ đúng là đại họa, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, nhưng trước kia chỉ thấy nhà dân bốc cháy, ngờ năm nay lại phải dùng vào việc lớn thế này.
      Tôi đánh mắt trông về phía Thừa Thiên Môn trong vòng vây kín mít của Thần vũ quân. Lát sau thấy toán cung nữ mang nghi trượng, cờ lọng nối đuôi Thần vũ quân về phí Hoàng cung, tôi nghĩ ắt cũng chẳng có gì to tát.
      Mà thực ra, tôi còn lo lắng làm gì nữa, người Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, cho cùng, giờ đâu còn liên quan gì đến tôi…
      Giờ tôi chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn với cha rằng: “Con về”, rồi lấy ngựa, chạy băng băng thảo nguyên như những ngày tháng vô tư lự thuở trước.
      Tôi giữ sức để tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vụt lướt qua, chỉ kịp nghe tiếng voi quất vun vút lẫn trong tiếng hét:
      - Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!
      Tiếng họ ngân vang, đoạn rất xa rồi mà vẫn còn vọng lại:
      - Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành! Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!...
      Tết Nguyên tiêu ngắm hội hoa đăng có lịch sử hàng trăm năm nay, chưa bao giờ để xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn còn chưa hết bàng hoàng vì vụ cháy xảy ra quá đột ngột, đến tận lúc này họ vẫn còn bàn tán xôn xao. biết bao nhiêu thùng nước đổ vào đám cháy, cuối cùng khống chế được ngọn lửa, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc tỏa vào bầu khí.
      - Cổng thành đóng rồi, về thế nào đây?
      - Ôi trời, cháy lớn, sợ loạn nên đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chẳng mở…
      Người phố xôn xao bàn tán khiến tôi sốt ruột. Chưa nhúc nhích thêm được bước nào, đến thở tôi cũng thấy nóng như thể cổ họng ngậm hòn than, ráo và rát cháy. Tôi thở hổn hển rồi ngồi phịch xuống lề đường, ngả đầu vào thân cây.
      Tôi tự nhủ, mình chỉ nghỉ lúc thôi, ngờ tựa vào đó rồi mê man lịm dần.
      Hình như khi còn bé, có lần theo cha săn, tôi ngủ quên lưng ngựa, cha cõng tôi về đến tận nhà. Tôi nhoài người tấm lưng rộng của cha, đánh giấc ngon lành, lúc ngủ còn quyệt nước miếng làm lưng áo cha ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mi mắt, vẫn thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh, huyền ảo, tựa như sao băng thỉnh thoảng bay qua bầu trời đêm mùa hạ thảo nguyên. Nghe nếu may mắn được gặp sao băng, trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước cái gì đó điều ước ắt linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện mà quên thắt đai áo, mải thắt đai áo quên phải cầu nguyện.
      Đêm nay sao lại nhiều sao băng đến vậy? Nếu bây giờ mình ước liệu có điều gì để mình mong muốn nữa nhỉ?
      Tôi gắng nhấc tay định thắt đai áo, vậy mà ngón tay mềm vặt, chút sức lực, tôi buông thõng tay, đành thôi vậy…
      Tôi nhắm mắt, chìm sâu vào giấc ngủ.
      Giấc ngủ kéo dài bao lâu tôi , nó đằng đẵng như trọn vẹn kiếp người, song cũng có thể chỉ là thoáng ngắn ngủi. Giấc ngủ có vẻ sâu nhưng ra rất mơ hồ, lúc nào cũng có cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân xoay tít, giấy thếp vàng tỏa thứ ánh sáng nhức nhối, bên tai lúc nào cũng có tiếng người rì rầm, chịu để cho tôi chút yên tĩnh dù chỉ khắc. Tôi thấy tức tối, bọn họ có để yên cho tôi ngủ chứ? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể lúc nóng lúc lạnh… lúc lạnh, răng nghiến kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ đập răng kia, mũi thở ra bỏng rát…
      Trong cơn mê tôi cũng lẩm nhẩm mấy câu, nào tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn gặp A Độ, tôi muốn con ngựa của mình…
      Tôi muốn có cuộc sống như trước kia, song chỉ mình tôi biết, thứ tôi muốn, ra thể tìm lại được.
      Mới trước đó, lúc ho ra máu, tôi hiểu ra tất thảy.
      Lồng ngực tôi đau đớn, quặn thắt, ý thức mờ dần rồi tôi lả .
      Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa thảo nguyên hoang vu bất tận, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh, lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt rơi, tôi nghe thấy tiếng mình khóc nghẹn.
      Khóc cái gì chứ? Con Tây Lương đâu có dễ sụt sùi vì mấy chuyện vặt vãnh thế này?
      Đến khi tôi lờ mờ tỉnh dậy trong trạng thái toàn thân ê ẩm, mí mắt nặng trĩu, cố mở mắt cũng được. Tôi hé mắt, đập vào mắt là cái nhìn hoen ướt, đỏ au của A Độ bám lấy mình. Bốn bề tối như hũ nút, đỉnh đầu lưa thưa mấy lỗ thủng hứng ánh sáng mờ mờ. Tôi láng máng nhận ra, hình như mình ở trong ngôi miếu hoang. Sao tôi lại ở đây? A Độ đỡ tôi dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực bỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nhắm chặt tay A Độ thào:
      - A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi!
      Giọng tôi khàn đặc, tôi ra hơi, chính tôi cũng chẳng nghe , thế mà A Độ vẫn gật đầu, ngón tay mát rượi của muội ấy vuốt trán tôi, mang lại cảm giác khoan khoái lạ thường. May sao, A Độ trở về rồi, may mà A Độ tìm thấy tôi. Tôi chẳng còn sức để hỏi xem hai ngày nay muội ấy chạy đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn muội ấy cũng nóng ruột lắm. Có A Độ ở bên, lòng tôi nhỏm hẳn. A Độ trở lại và chúng tôi về Tây Lương. Tôi mê man như lại chìm và trong giấc ngủ. Bỗng A Độ đứng phắt dậy, tôi cố gắng mở mắt nhìn muội ấy. A Độ đứng ngay bên cạnh tôi, hình như muội ấy cố gắng lắng nghe điều gì đó, chính tôi cũng nghe thấy tiếng sấm rền vang, đội kỵ binh tiến về phía này.
      A Độ cúi xuống, dìu tôi dậy, người tôi mềm oặt, chẳng còn chút sức lực.
      Nếu những người sắp đến là Thần vũ quân hoặc Vũ lâm lang tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi muốn gặp lại Lý Thừa Ngân, chỉ e A Độ thể dẫn tôi trốn khỏi bọn chúng.
      Có kẻ đạp tung cửa miếu. Chính lúc nước sôi lửa bỏng ấy, từ sàn nhà, bóng trắng bỗng lao xuống. Lưỡi kiếm soáng loáng đâm thẳng hướng cửa, những tiếng rú thảm thiết vang lên tức . ra Cố Kiếm phi thân từ nhà xuống, mà những kẻ ngã xuống ngoài cửa đều vận quan phục của Thần vũ quân. Lúc ấy tôi có cảm giác máu nóng trong người sôi lên, muốn gặp lại Lý Thừa Ngân, đằng này Cố Kiếm còn ra tay giết người.
      A Độ cầm đao, cảnh giác đôi mắt nhìn theo Cố Kiếm và Thần vũ quân đánh nhau, tôi giành lấy thanh đao tay A Độ khiến muội ấy nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
      Tôi dấn bước tới gần đám người ẩu đả ấy, những người của Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm cùng giuộc, chúng bèn hướng vũ khí lao về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị kìm kẹp song mỗi lần có kẻ muốn tấn công tôi, gã đều thừa sức chống đỡ. Gã xuống tay nhanh gọn, để phí đường kiếm nào. Mỗi nhát kiếm vung ra, tức có kẻ gục ngã trước mặt tôi.
      Máu nóng, bắn lên mặt, những kẻ gục xuống xung quanh tôi mỗi lúc nhiều. Vậy mà đám Thần vũ quân như biết sợ, người trước ngã xuống, kẻ sau liền tiến lên, song vẫn đổ gục dưới nhát kiếm của Cố Kiếm, rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng trước mặt tôi, gần trong gang tất. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát đáng có này, chỉ muốn gào lên: “Dừng lại ”, nhưng giọng khàn đặc, cách nào thốt nên lời, Cố Kiếm ngoảnh mặt làm ngơ.
      Tôi nghiến răng, vung đao về phía gã. Gã đẩy thanh đao tay tôi, khiến tôi run tay đánh rơi đao. Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy có thứ gì đó nặng nề xé gió lao tới, dường như có hòn đá to nhằm đúng đầu tôi mà nện. Tôi ngẩng đầu nhìn theo bản năng, thấy A Độ hớt hải lao về phía mình, khói bụi xốc lên, thanh chát chúa như rung chuyển đất trời, muốn nghiền nát ngôi miếu này.
      Có luồng khí vô hình bao lấy tôi, tay A Độ vừa rờ tới gấu váy. Tôi thấy Cố Kiếm toan giữ tôi lại, nhưng đám người hung hãn kia nhanh tay cuốn gã vào cuộc ẩu đả. Mái ngói như chực đổ sụp, đầu vừa đụng vào thứ gì đó, đau buốt khiến tôi mất cảm giác trong nháy mắt, rồi cứ thế sa vào màn đêm vô tận.
      “Tách!”
      Thân thể nặng trĩu lẳng mình xuống nước, nước xanh biếc vây hãm bốn bề, đau như bị ngàn nhát dao sắc lạnh xẻ dọc da thịt. Đành rằng vậy, tôi vẫn yên tâm buông xuôi mọi thứ, thả lỏng cơ thể cho chìm xuống đáy sâu, như đứa con trở về với mẹ, như cánh hoa xinh hạ mình về với đất. Đó là cõi về rất đỗi bình yên trong tôi, tôi hiểu hơn ai hết…
      - Nước sông Quên, đặng quên tình…
      “Có con cáo đơn,

      Ngồi cồn cát ngắm trăng mình,

      Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

      Cáo mong đợi nàng chăn dê.

      Có con cáo bơ vơ,

      Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

      Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

      Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua.”

      - Khó nghe thế! Đổi bài khác !
      - Nhưng tôi chỉ biết mỗi bài này thôi…

      - Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta quên được chàng!

    2. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      Chương 9

      Trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như bức màn sương mù vừa được vén lên, khoe cảnh hư ảo, huyền hoặc. Và bỗng nhiên, tôi thấy chính mình.
      Tôi thấy mình ngồi cồn cát, ngắm mặt trời lặng lẽ khuất bóng, thấy trái tim mình từ từ rũ héo, chờ ánh tà dương le lói rồi chợt tắt sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng biến mất.
      Tôi tuyệt vọng quẳng miếng ngọc bội xuống cát, leo lên ngựa, bỏ ngoảnh lại dù chỉ lần.
      Gã sư phụ tồi! Gã sư phụ đáng ghét! Thế mà cứ huyên thuyên rằng làm mối cho tôi, tìm cho tôi người đàn ông đẹp trai nhất trần đời! Gã lừa tôi ra đây, làm tôi mất công đợi ba ngày ba đêm!
      Mấy ngày trước, Hoàng đế Trung Nguyên phái sứ thần cầu thân với cha tôi, tỏ ý rằng, Thái tử Trung Nguyên nay mười bảy, mong được lấy Công chúa Tây Lương làm chính thất, cốt để thắt chặt mối bang giao tốt đẹp đời đời giữa hai nước. Trung Nguyên từng gả cho Tây Lương công chúa, bây giờ tới lượt chúng tôi phải đưa công chúa sang Trung Nguyên.
      Nhị tỷ và tam tỷ xem chừng muốn lắm, nghe cuộc sống ở Trung Nguyên rất đầy đủ, được ăn ngon, mặc đẹp, nước non dồi dào, phải di cư dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, tránh được nỗi khổ gió cát sa mạc… Mà theo lời sứ thần tương lai, thái tử phi được tấn phong làm hoàng hậu Trung Nguyên, thân phận thể là con thứ thiếp, cho nên họ muốn chọn công chúa là con ruột của đại yên thị[1] và cha tôi. Tôi hiểu đây là quy ước gì nữa, nhưng vì đại yên thị ai khác chính là mẹ tôi, trong khi bà chỉ có mình tôi là con , xem ra số tôi phải đến Trung Nguyên làm dâu rồi. Nhị tỷ và tam tỷ ao ước được tới làm dâu đất Trung Nguyên, song tôi chẳng thích thú gì. Trung Nguyên có gì hay? Đàn ông Trung Nguyên, tôi nhìn chán rồi, mấy gã thương nhân buôn tơ lụa đến từ Trung Nguyên, gã nào gã nấy đều trói gà chặt, đừng đến bắn cung, ngay cả cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Người ta Thái tử Trung Nguyên từ ở lì trong thâm cung, ngoài vẽ tranh, ngâm thơ, hẳn chẳng biết gì khác.
      [1] Đại yên thị: Danh xưng dành cho hoàng hậu của vua Hung Nô.
      Lấy gã chồng đến cung cũng giương nổi, nghĩ thôi tôi tức. Tôi mè nheo mất mấy ngày, cha tôi liền dỗ dành:
      - Con đồng ý lấy Thái tử Trung Nguyên thôi vậy, để ta lựa lời với họ. Nếu con có ý trung nhân rồi, vậy để ta tổ chức lễ đính hôn cho các con, sau đó ta giải thích với người Trung Nguyên, khuyên họ chọn công chúa khác, làm vậy họ có muốn bắt bí chúng ta cũng được.
      Bấy giờ tôi vẫn chưa tròn mười lăm tuổi, đám con trai trong tộc chỉ coi tôi như em , săn thèm rủ, hát hò cũng thèm gọi… Tôi biết đâu tìm ý trung nhân chứ?
      Buồn chết mất thôi!
      Sư phụ biết chuyện liền vỗ ngực khẳng định tìm cho tôi gã đẹp trai nhất trần đời. Sư phụ bảo Trung Nguyên gọi đây là “dạm mặt”, đôi bên nam nữ gặp riêng lần, nếu tâm đầu ý hợp, cha mẹ đứng ra quyết định rồi nhờ người mai mối. Gặp nhau có lần làm sao biết người ta thế nào, song giờ tình hình cấp bách, chỉ cần phải lấy Thái tử Trung Nguyên, tôi liền đồng ý dạm mặt.
      Sư phụ địa điểm dạm mặt ở đồi cát cao nhất cách thành ba dặm. Sư phụ đưa tôi mảnh ngọc bội, dặn rằng mảnh còn lại do người kia cầm, rồi còn bảo tôi nhớ để ý cẩn thận, phải nhìn cho kĩ, xem có vừa ý .
      Biết ngay sư phụ lại giỡn tôi mà, ngày nào người cũng lôi tôi ra làm thú tiêu khiển. Lần trước sư phụ bảo, sau núi Yên Chi có con sông Quên, hại tôi chất lương khô, rong ngựa chẵn mười ngày mười đêm. Rốt cuộc xới tung cả núi Yên Chi, chỉ tìm thấy đồng cỏ mênh mông sau lưng núi, đến đầm nước cũng có, gì tới sông Quên.
      Cả lẫn về mất hai mươi ngày, tôi vòng dưới chân núi suýt nữa lạc, may gặp người chăn dê, loay hoay mãi mới tìm được đường về thành. Mẹ tưởng tôi lạc trở về nữa nên ngã bệnh. Mẹ ôm tôi khóc rấm rức, cha nổi giận lôi đình, nhốt tôi trong Vương thành suốt mấy ngày trời, cấm được bước chân ra khỏi cửa. Sau đó tôi chất vấn sư phụ hòng xả cơn giận, thế mà người còn bảo:
      - Ta mới thế mà muội tin rồi à? Muội phải biết rằng, đời này thế nào cũng có kẻ muốn lừa muội, muội thể tin những gì họ . Ta dạy muội, chớ dạ cả tin, bằng sau này thiệt thân.
      Tôi nhìn đôi mắt sáng long lanh của sư phụ, vô cùng tức tối.
      Sao tôi chẳng rút ra được bài học nào thế nhỉ? Tôi bị sư phụ lừa biết bao nhiêu lần nhưng lần nào tôi cũng tin cách khờ khạo.
      Mà có lẽ, cả đời tôi chẳng thể nào thông minh, mưu trí được như sư phụ.
      Tôi bực bội rong ngựa về, chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ dọc đường, suốt quãng đường về tôi ngẫm nghĩ, hay cứ với cha rằng tôi thích sư phụ, rồi xin phép người cho tôi và sư phụ được đính hôn nhỉ? Đằng nào sư phụ cũng hại tôi nhiều lần lắm rồi, lần này tôi cho sư phụ biết tay, chắc có gì quá quắt đâu.
      Tôi sung sướng nghĩ ý kiến này quá là tuyệt vời, rồi lòng tôi phấn chấn hẳn lên, vừa thúc ngựa phi về Vương thành vừa ngân nga hát:
      “Có con cáo đơn.

      Ngồi cồn cát ngắm trăng mình,

      Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

      Cáo mong đợi nàng chăn dê.

      Có con cáo bơ vơ,

      Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

      Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

      Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua.”

      Tôi cao hứng, bỗng phía sau có người gọi:
      - bé, đồ của muội rơi này!
      Tôi ngoái đầu, thấy kẻ ngồi con ngựa trắng.
      Sư phụ , những kẻ cưỡi ngựa trắng chưa chắc là hoàng tử, mà có khi là Đường Tăng từ Đông thổ Đại Đường đến Tây Thiên thỉnh kinh. Song gã trai này vận áo dài màu trắng chứ phải áo cà sa, phải công nhận, xưa nay tôi chưa từng gặp gã trai nào mặc đồ trắng đẹp như thế này. Những thương nhân người Ba Tư thỉnh thoảng đến đây cũng thường mặc đồ màu trắng, nhưng đám người Ba Tư kia vận màu trắng dưa lê, còn màu trắng người gã trai này có vẻ sáng trong như ánh trăng.
      nom cũng đẹp trai, mắt mày cong cong tựa nét cười, mặt mũi trắng ngần như ngọc Hòa Điền thượng hạng, tóc tết kiểu Tây Lương, mà tiếng Tây Lương của cũng khá lưu loát. Có điều, thoạt trông tôi nhận ra là người Trung Nguyên, đàn ông Tây Lương ai trắng như . ngồi lưng ngựa, toàn thân toát ra khí thế mà tôi từng thấy ở cha mình, lúc người thúc ngựa, vác đao duyệt binh, trong tiếng hô vang của ba quân, ánh mắt người kiêu hãnh nhìn xuống quân đội, lãnh thổ và những đứa con của mình.
      Gã trai này cũng nhìn tôi bằng ánh mắt từa tựa như thế, như thể là vị quân vương duy nhất đời này.
      Con tim tôi nhảy nhót loạn xạ, ánh mắt tựa như cơn lốc xoáy giữa hoang mạc, lao đến, cuốn phăng mọi thứ. Tôi tự nhủ, quả nhiên có sức hút kỳ lạ, khi nhìn tôi, đầu tôi như trống rỗng. Miếng ngọc bội trắng ngần nằm gọn những ngón tay thon dài của , chính là miếng tôi vừa quẳng . :
      - phải đồ của muội đánh rơi à?
      Vừa nhìn thấy nó, tôi lại bực bội, bèn đanh mặt, gắt gỏng:
      - phải.
      :
      - Nơi mênh mông người này, phải là đồ của muội, vậy là đồ của ai?
      Tôi dang tay múa may hồi, :
      - Ai bảo ở đây có người? Chỗ này có cát, có trăng, có sao…
      bỗng nhoẻn miệng cười, cất giọng khe khẽ:
      - Và có cả muội nữa…
      Tôi như bị trúng tà, mặt bỗng nóng bừng. Tuy tuổi còn , song tôi vẫn hiểu trong câu của có mấy phần cợt nhả. Tôi bắt đầu thấy hối hận khi lẻn ra ngoài mình, chỗ nay đồng mông quạnh, mà động thủ, chưa chắc tôi đọ nổi .
      Tôi xẵng giọng, :
      - Huynh biết tôi là ai ? Tôi là Cửu Công chúa của Tây Lương, cha tôi là quốc vương Tây Lương, mẹ tôi là đại yên thị, cũng chính là nữ vương của Đột Quyết, ông ngoại tôi là đại thiền vu[2] Thiết Nhĩ Cách Đạt quyền uy nhất Tây Vực, kền kền sa mạc nghe danh ông ngoại tôi cũng sợ dám đậu xuống. Huynh mà dám xấc xược cha tôi nhất định bắt huynh trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết.
      [2] Thiền vu: Tước hiệu của các lãnh đạo tối cao của dân du mục ở Trung Á trong tám thế kỷ, bắt đầu từ thời nhà Chu (1045-254 TCN) và được thay thế bởi tước hiệu khả hãn vào năm 402 CN. Tước hiệu này được thị tộc Luyên Đê của người Hung Nô sử dụng ở thời nhà Tần (221-206 TCN) và nhà Hán (206 TCN-220 CN).
      thản nhiên mỉm cười, :
      - bé này đáo để , chưa gì dọa người ta? Muội biết ta là ai ? Ta là Cố Ngũ Lang của Trung Nguyên, cha ta là chủ tiệm chè, ông ngoại ta là nông dân trồng chè, tuy gia đình ta quyền cao chức trọng gì nhưng nếu muội bắt ta trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết, chỉ e Tây Lương của muội có chè ngon mà uống đâu.
      Tôi há miệng, trợn mắt nhìn . Chè mới du nhập vào Tây Lương mấy năm qua, trong mắt người dân Tây Lương, nó quả là đồ uống kỳ diệu. Cha tôi rất thích uống chè của Trung Nguyên, mà mọi người ở Tây Lương đều thích uống chè, ai nỡ bỏ dù chỉ ngày. Nếu tên này , vậy phiền phức rồi đây.
      vẫn nhìn tôi chằm chằm, còn cười mỉm nữa chứ.
      cơn bực mình, tôi bỗng nghe sau lưng có tiếng ai đó phì cười.
      Tôi ngoái đầu nhìn, hóa ra là sư phụ. hiểu sư phụ từ đâu ra, còn nhìn tôi rồi cười.
      Tôi bực mình, :
      - Sao cón dám đến gặp ta? Hại ta mất ba ngày ba đêm đợi cồn cát! Cái gã đẹp trai nhất trần đời sư phụ bảo tìm giúp ta đâu hả?
      Sư phụ chỉ vào gã cưỡi ngựa trắng, :
      - Chính đấy thôi!
      Cố Ngũ Lang cười tinh quái, xòe bàn tay. Bấy giờ tôi mới nhận ra, ta phải có mảnh ngọc bội, mà là đôi. Với đôi ngọc bội tay, nom hớn hở như vừa được xem kịch hay.
      Mặt tôi nghệt ra, lúc lâu sau mới sực tỉnh, tôi thèm lấy gã người Trung Nguyên này! Đành rằng đẹp trai đấy, nhưng mồm miệng cũng đáo để ra trò, chẳng chịu nhường ai đến nửa câu, thế còn cả gan chọc người ta nữa chứ, tôi căm ghét nhất kẻ nào dám trêu mình!
      Bụng dạ tức tối, tôi thúc ngựa quay về, chẳng thiết nhìn thêm nữa. Sư phụ và gã Cố Ngũ Lang kia cưỡi ngựa thong dong đằng sau, thỉnh thoảng trao đổi mấy câu.
      Sư phụ :
      - Ta cứ tưởng đệ đến cơ đấy!
      Gã Cố Ngũ Lang đáp:
      - Nhận được bồ câu đưa thư, đệ đến đâu có được.
      Thấy bọn họ trò chuyện thân mật tôi mới hiểu, ra sư phụ và quen biết từ trước, hai người dường như mãi hết chuyện. Dọc đường, sư phụ giảng giải về phong tục tập quán và lễ tiết của Tây Lương cho tay Cố Ngũ Lang ấy nghe. nghe rất chăm chú, thỉnh thoảng có vài câu truyền đến tai tôi. Tôi muốn nghe cũng khó, bọn họ dần chuyển từ chuyện phong thổ sang chuyện thông thương buôn bán, chưa bao giờ tôi nghe sư phụ nhiều đến thế, nghe mãi cũng chán, tôi ngáp ngắn ngáp dài.
      Lớp tường bao màu xám chạy quanh Vương thành thấp thoáng đằng xa, dải tường thành và cổng lầu rất lớn được chất từ tầng tầng lớp lớp gạch vụn. Thành quách sừng sững tựa những rặng núi nối đuôi nhau trải dài, tường thành cao chót vót che lấp góc trời, càng đến gần càng thấy thành lũy cao vời vợi. đất Tây Vực hoang liêu, trong phạm vi mười dặm đổ lại đâu có được tòa thành lớn thế này. Các bộ tộc Tây Lương vốn sống dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, khoảng trăm năm trước, các bộ lạc Tây Vực liên kết với nhau thành liên minh hùng mạnh dưới quyền vị thiền vu, sau đó dựng nên Vương thành hùng vĩ này, từ đó lấy tên là Tây Lương Quốc. Trải qua nhiều thế hệ liên hôn giữa các tộc Đột Quyết, Khâu Từ, Nguyệt Thị, lại được Trung Nguyên phong thưởng; chưa kể Vương thành nằm con đường thông thương quan trọng nối giữa Trung Nguyên và Đại Thục mà các thương nhân ắt phải qua, chính điều đó mang lại phồn vinh cho Vương thành. Bên cạnh đó, các vị thiền vu tiền triều luôn chú trọng vào lực lượng quân , binh sĩ của chúng tôi dũng mãnh, thiện chiến và cho đến ngày nay, Tây Lương vươn lên trở thành cường quốc của Tây Vực. Lãnh thổ tuy , song kể cả Trung Nguyên cũng dám xem tường Tây Lương.
      Thành lũy đồ sộ nổi bật giữa nền trời tím sậm, càng nhìn càng thấy hùng vĩ, tráng lệ. Trông đèn lồng nhấp nháy treo đỉnh lầu lại tưởng vì sao lớn điểm bầu trời đầy sao mênh mông, bất tận. Sao li ti như hạt đường trải khắp bầu trời, còn Vương thành nhìn giống chiếc bánh nang[3] bọc đường, mỗi lần thấy nó, tôi lại có cảm giác thỏa mãn, cứ như vừa được đánh chén no nê.
      [3] Bánh nang: Món ăn chính của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương - Trung Quốc.
      Tôi thúc ngựa chạy nhanh hơn, chuông loan thắt dưới cổ ngựa ngân vang lảnh lót, hòa với tiếng lục lạc nơi xa, nghe rất êm tai. Cổng thành luôn mở qua đêm, vì thể nào chốc nữa cũng có đoàn buôn tranh thủ lên đường nhân lúc trời về đêm mát mẻ. Tôi phi ngựa vào đầu tiên, người bán nước giếng ngoài cổng thành quá quen mặt tôi, liền cất tiếng gọi: “Cửu Công chúa!”, rồi tung cho tôi chùm nho. Đám thương nhân qua đường thường tặng bọn họ, lần nào họ cũng phần tôi chùm to, ngọt nhất.
      Tôi vui vẻ đón chùm nho, ngắt quả bỏ vào miệng, ngấu nghiến nhai lớp vỏ mỏng, vị ngọt mát tan ra nơi đầu lưỡi. Tôi ngoái đầu hỏi sư phụ:
      - Hai người ăn ?
      Bấy lâu nay tôi chưa từng gọi người này tiếng sư phụ, dạo đó tôi nhận sư phụ chẳng qua là do bị lừa. Hồi mới quen, thoạt đầu tôi biết kiếm thuật của gã xuất chúng hơn người, nghe gã thấy nóng gáy nên quyết đấu kiếm trận. Ai thua phải chấp nhận bái người kia làm sư phụ, có thể đoán tôi thua thảm hại cỡ nào, đành xuống nước nhận gã làm sư phụ. Tuy làm sư phụ, song gã thường xuyên giở những trò xứng mặt sư phụ, bảo sao tôi thèm gọi tiếng sư phụ, được cái gã cũng để bụng, mặc kệ tôi suốt ngày gọi trống .
      Sư phụ lắc đầu bâng quơ, rồi lại mải mê chuyện cùng gã mặc áo trắng bên cạnh. Thỉnh thoảng sư phụ cũng dạy tôi mấy câu trong sách vở của người Trung Nguyên, cái gì mà: “Khi thiếp gặp được chàng. Rằng sao mà chẳng rộn ràng vui tươi?”[4], hay “Quân tử khiêm hòa, dịu dàng như ngọc”… cũng phải lại, tôi cứ tưởng quân tử thường mặc áo trắng, sư phụ cũng thích mặc màu trắng, song sư phụ quân tử cái gì chứ, lưu manh có.
      [4] Trích trong bài Phong vũ, thuộc phần Quốc phong – Kinh thi. Bản dịch của Tạ Quang Phát.
      Thời gian Cố Tiểu Ngũ nán lại thành Tây Lương, ở tạm chỗ sư phụ. Nơi sư phụ ở bày biện như bao nhà của người Trung Nguyên khác, mát mẻ, sạch nuôi lạc đà.
      Tôi vẫn ghé nhà sư phụ chơi như thường lệ, dần dần trở nên thân thiết với Cố Tiểu Ngũ. Nghe là thiếu gia của tiệm chè, phần lớn người hay qua lại với là thương nhân buôn chè của Trung Nguyên. Trong buồng ở, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn chè ngon và nhiều thứ ngon lành khác, như bánh ngọt kiểu Trung Nguyên hoặc vài món đồ chơi kì lạ, hay ho, chúng khiến tôi quyến luyến mãi rời. Nhưng ghét nhất là, lần nào gặp tôi, Cố Tiểu Ngũ cũng hỏi:
      - Cửu Công chúa ơi, bao giờ muội mới chịu lấy ta?
      Tôi giận quá hóa thẹn, chỉ tại lão sư phụ mà tình mới ra nông nỗi này. Tôi thường hét toáng lên:
      - Ta thà lấy Thái tử Trung Nguyên, chứ quyết lấy loại người vô lại như huynh.
      Lần nào cũng bật cười giòn tan.
      Thực ra trong lòng tôi tự nhủ, tôi chẳng muốn lấy ai hết, yên lành ở Tây Lương, cớ gì phải làm dâu đất Trung Nguyên xa xôi?
      thế thôi, chứ sứ thần Trung Nguyên lại bắt đầu thúc giục cha tôi, thêm vào đó, Nguyệt Thị ở phía bắc núi Yên Chi, nghe Trung Nguyên phái sứ thần đến cầu thân với cha tôi nên họ cũng sai sứ thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Tây Lương.
      Nguyệt Thị vốn là nước lớn nhất, nhì khắp Tây Vực, binh sĩ trong tay họ lên đến mười vạn, đều là quân dũng mãnh, thiện chiến, cha tôi muốn thất lễ, đành tiếp kiến sứ thần Nguyệt Thị trong Vương cung. Tôi sai hầu nghe trộm họ bàn chuyện, hầu hổn hển chạy về thầm kể tôi nghe, bữa nay sứ thần thay mặt Đại Thiền vu bên Nguyệt Thị đến là để dạm hỏi. Đại Thiền vu của Nguyệt Thị năm nay năm mươi, đại yên thị vợ lão là nữ vương của Đột Quyết, vốn là chị ruột của mẹ tôi, song vị Đại Yên thị này năm ngoái may bệnh nặng qua đời, mà bên cạnh Thiền vu cuả Nguyệt Thị cũng có khá nhiều yên thị, xuất thân từ những bộ lạc khác nhau, họ ngừng tranh chấp, chức đại yên thị đến nay vẫn phải bỏ ngỏ. Giờ Nguyệt Thị nghe Trung Nguyên phái sứ thần đến Tây Lương cầu hôn, họ cũng phái sứ bộ đến hỏi cha tôi, xin được cưới tôi về làm đại yên thị của nước họ.
      Mẹ tôi nghe xong giận lắm, tôi cũng bực kém. Lão Đại Thiền vu kia vốn là bác rể tôi, mà lão cũng ở cái tuổi râu bạc phơ rồi, song vẫn còn muốn lấy tôi về làm đại yên thị của Nguyệt Thị, đừng hòng tôi lấy lão già làm chồng. Cha tôi nỡ đắc tội Trung Nguyên, cũng đành lòng thất lễ với Nguyệt Thị, người buộc phải ậm ờ lần lữa chưa vội quyết. Hiềm vì hai bên sứ thần đều nán lại Vương thành, về lâu về dài khó lòng trì hoãn được nữa, tôi hạ quyết tâm, định lén bỏ sang chỗ ông ngoại.
      Hằng năm, mỗi độ thu về, tầng lớp quý tộc Đột Quyết thường tập trung săn bắt đỉnh núi Thiên Hằng, Trung Nguyên gọi là “Hội săn mùa thu”. Nhân dịp săn, ông ngoại thường sai người đến đón tôi về chơi, nhất là hai năm gần đây, sức khỏe ông có vẻ yếu nên năm nào tôi cũng sang thăm ông, ông luôn :
      - Gặp cháu giống như được gặp mẹ cháu, ông rất mừng.
      Theo tập tục của người Đột Quyết, con xuất giá được phép về nhà ngoại thăm cha mẹ, trừ phi bị nhà chồng đuổi. Vậy nên lần nào tiễn tôi thăm ông, mẹ cũng phấn khởi căn dặn tôi nhớ thay mặt mẹ đến vấn an họ hàng đằng ngoại bên Đột Quyết. Tôi lén đem kế hoạch này tiết lộ với mẹ, dẫu sao mẹ cũng bằng lòng gả tôi đến Trung Nguyên, càng muốn tôi lấy chồng Nguyệt Thị. Mẹ giấu cha giúp tôi chuẩn bị nước và lương khô, rồi nhân lúc cha có trong Vương thành, bí mật đưa tôi ra ngoài.

      Tôi cưỡi ngựa, phi thẳng về hướng núi Thiên Hằng.
      Vương thành ba mặt giáp núi, núi Yên Chi nhấp nhô trùng điệp vắt từ tây sang bắc, những ngọn núi cao ngất nối đuôi nhau tựa thân rồng uốn lượn, đôi khi giống người khổng lồ vươn những cánh tay dài ôm trọn Vương Thành, ngăn gió chặn cát, ngăn khí lạnh, biến Vương thành dưới chân núi trở thành ốc đảo có khí hậu ấm áp, ôn hòa. Hướng đông là núi Thiên Hằng có đỉnh cao chót vót, sừng sững giữa đất trời như muốn chọc thủng mấy tầng mây, chẳng khác nào mấy tấm bình phong mà tiểu thương Trung Nguyên mang đến, chóp núi quanh năm đội nón tuyết trắng tinh, nghe chưa ai leo được lên đó. Vượt qua rặng núi, với những đồng cỏ mênh mông, non tơ trải dài đến tận chân trời, chính là quê ngoại của tôi.
      Lúc ra khỏi thành, tôi để lại mảnh giấy cho sư phụ, dạo gần đây sư phụ bận rộn, kể từ lúc gã Cố Tiểu Ngũ xuất , tôi cũng ít khi được gặp người. Tôi nghĩ bụng, mình Đột Quyết đợt này, qua mùa đông mới trở về nên viết mảnh giấy bảo thầy chớ quên chăm hộ A Ba, A Hạ sau vườn nhà hộ tôi. A Ba và A Hạ là hai chú chuột tôi tình cờ bắt được. Cha cấm tôi nuôi chuột trong phòng ngủ, tôi đành gửi lại chỗ sư phụ.
      Nhân lúc trời mát mẻ, giữa đêm, tôi nối đuôi đội buôn ra khỏi Vương thành, đội lái buôn rẽ hướng tây, tôi vòng hướng đông.
      Sa mạc trong đêm tĩnh lặng quá, vòm trời đen mượt tựa nhung tơ như sà xuống trong tầm tay, sao trời như ở rất gần, sáng lấp lánh, gợi người ta nghĩ tới giọt sương đọng lá nho cũng mang cảm giác mát rượi như thế.
      Tôi băng qua cồn cát rộng lớn, trông đám cỏ lưa thưa để chắc chắn mình bị nhầm đường. Con đường này hầu như năm nào tôi cũng qua lần, có điều lúc ấy luôn cùng những kỵ binh ông ngoại phái tới, còn hôm nay có mình tôi dò dẫm. Nhờ có sao Bắc đẩu chỉ đường, ngựa chạy băng băng sa mạc. Tôi bắt đầu suy tính, lần này gặp ông, nhất định phải nài nỉ ông sai đầy tớ bắt cho tôi con chim biết hót mới được.
      Trời hửng sáng cũng là lúc tôi buồn ngủ díp mắt. Mặt trời đỏ rực sắp ló dạng, ánh hào quang màu tím nhạt bừng lên khắp vùng trời phía đông. Bầu trời xanh xám để lọt vài tia trắng, làn hơi nước bốc lên lưng chừng trời cao, cuộn mình thành lớp sương sớm mỏng manh. Tôi thầm nghĩ, phải tìm chỗ nào đó nghỉ ngơi, càng về trưa, mặt trời càng chói chang, đó phải thời gian thích hợp để lên đường.
      Lội qua dòng sông trong veo, thấy gò đất râm mát, tôi nhảy phắt xuống ngựa, thả ngựa tự gặm cỏ, còn mình gối đầu lên bọc lương khô, đánh giấc. Ngủ mạch tới khi nắng xiên từ phía tây, rọi vào mặt khó chịu vô cùng, tôi mới mở mắt.
      Tôi lấy lương khô trong bọc ra ăn, uống hết phân nửa túi nước, đong đầy lại rồi mới huýt sáo gọi ngựa.
      Thoáng chốc, từ xa vọng lại tiếng vó ngựa quen thuộc, con ngựa chạy băng băng về phía tôi, thở phì phì ra điều khoan khoái. Chớp mắt nó kìm vó, dừng trước mặt tôi, liếm láp tay tôi tỏ vẻ thân quen. Tôi vuốt ve chiếc bờm dài, rồi hỏi nó:
      - Ăn no chưa?
      Tuy nó biết nhưng nó biết dùng ánh mắt để lên cảm xúc, đôi mắt to hiền hòa phản chiếu bóng hình tôi. Tôi vỗ vào bụng nó, nó bỗng hí lên đầy vẻ nóng nảy. Tôi lấy làm lạ, tự nhiên nó hí vang rền rồi nện móng loạn xạ xuống bãi cỏ, tỏ vẻ bất an, lẽ nào gần đây có sói?
      thảo nguyên, loài đáng sợ nhất là chó sói, chúng tập hợp thành bầy đàn, dân du mục mình thảo nguyên chẳng may gặp phải chúng tất bỏ mạng. Có điều giờ là mùa thu, là lúc cỏ tươi tốt mà nước cũng dồi dào, linh dương và thỏ hoang có ở khắp nơi, thức ăn cho bầy sói khá nhiểu, chúng mình núi Thiên Hằng, chẳng có cớ gì để kéo bầy xuống đây, thể có chuyện chúng xuất ở thảo nguyên lúc này được.
      Song chú ngựa tỏ vẻ cáu kỉnh, ắt phải có lý do. Tôi lên ngựa, tiếp tục hành trình, thẳng tiến về phía núi Thiên Hằng, vòng qua chân núi là đến ranh giới giữa Đột Quyết và Tây Lương. Mẹ sai người gửi thư báo cho ông ngoại, thế nào cũng có người đứng đó chờ tôi. Để an toàn, tốt nhất tôi nên đến những nơi có người sinh sống.
      Vừa thúc ngựa chạy chưa được bao xa, bỗng tiếng vó ngựa lọt vào tai tôi. Tôi đứng yên ngựa ngó quanh quất, thấy thấp thoáng đằng xa có đường đen, đoán chừng đám này ít người. Lẽ nào cha sai người đuổi theo tôi? Do khoảng cách xa quá, quả thực tôi nhìn cờ hiệu của đội kỵ binh nọ. Tôi thấy ruột gan cồn cào như lửa đốt, đành thúc ngựa chạy thục mạng tới núi Thiên Hằng. khi đến ranh giới Đột Quyết, gặp được người của ông ngoại, cha cũng thể miễn cưỡng bắt tôi về được.
      Đội kỵ binh đuổi theo càng lúc càng gần, tôi thúc ngựa lao về phía trước như mũi tên bắn khỏi cung. Nhưng giữa thảo nguyên bao la lằn ranh, chướng ngại vật, dù sức ngựa chạy nhanh đến mấy sớm muộn gì cũng bị bắt kịp.
      Tôi ngừng ngoái đầu nhìn đám binh sĩ truy đuổi mình, bọn chúng đuổi tới sát tôi lắm rồi, ít nhất phải có đến nghìn tên. Giữa thảo nguyên, trông đám kỵ binh ấy quả tôi thấy rùng mình. E rằng đến cha tôi cũng tùy tiện điều động nhiều người như vậy chỉ để bắt tôi. Vừa phi ngựa phóng như bay, tôi vừa thắc mắc, rút cuộc, những binh sĩ đó là từ đâu đến?
      Chẳng mấy chốc, vó ngựa của tôi gần đến chân núi Thiên Hằng, phía xa xa, loáng thoáng trông thấy vài đốm đen, tai văng vẳng tiếng ngân dài. Đúng là bài ca chăn cừu của người Đột Quyết rồi, giai điệu ấy vọng vào tai tôi đầy thân thuộc, tôi tự nhủ đó hẳn là người do ông ngoại cử đến đón mình. Tôi bèn kẹp chặt bụng ngựa, thúc nó chạy nhanh hơn nữa. Toán người Đột Quyết cũng nhận ra tôi, họ đứng yên ngựa, gắng sức vẫy tay ra hiệu.
      Tôi cũng vẫy tay chào lại, ắt họ cũng nhìn thấy đội quân phía sau tôi. Ngựa phi mỗi lúc nhanh, tôi mỗi lúc gần họ. Cờ trắng của Đột Quyết ở ngay trước mắt, đuôi cờ buông mình dài thượt, xõa tung trước gió chiều, chẳng khác nào con cá dập dềnh giữa trung. Tôi quen người cầm cờ, ai khác chính là thần cung Hách Thất, vốn là cung thủ dưới trướng được ông ngoại trọng dụng nhất. Thấy đám kỵ binh đuổi theo tôi đông nghịt, Hách Thất liền cắm phịch cán cờ vào giữa khe đá, rút vội cây cung sau lưng.
      Tôi rạp mình yên ngựa phóng băng băng nhưng cũng nhìn thấy . Tôi cuống cuồng thét:
      - Ta biết bọn họ là ai đâu!
      Vì chúng bám đuôi tôi nãy giờ, nên tôi rất tò mò muốn biết, rốt cuộc chúng là lính phe nào.
      Khi khoảnh cách giữa tôi và Hách Thất rút ngắn còn khoảng mười trượng, tôi mới dần nới lỏng cương ngựa. Sau lưng Hách Thất có khoảng mấy chục cung thủ, dưới nắng chiều lấp lóa, tay họ lăm lăm cung tên màu xanh, vừa nheo mắt ngắm bắn đám kỵ binh đuổi theo tôi sát nút, vừa thúc ngựa quây tôi vào giữa phe mình. Hách Thất nở nụ cười tươi chào tôi:
      - Kính chào tiểu công chúa!
      Sở dĩ họ nể mặt mẹ tôi nên ngay từ thưở , đám binh sĩ dưới trướng Đại thiền vu Đột Quyết đều xưng tụng tôi như thế, dù tôi phải nữ vương của Đột Quyết. Gặp được Hách Thất, tôi thấy yên tâm hẳn, thậm chí quên ngay đám kỵ binh đuổi phía sau. Tôi phấn khởi :
      - Hách Thất, chào huynh!
      Đội quân tinh nhuệ ấy chỉ còn cách chúng tôi chừng hai tầm tên bắn[5], chúng đến kéo theo trời rung đất chuyển, tiếng vó ngựa rầm rầp sát bên tai.
      [5] Hai tầm tên bắn: Người xưa dùng khoảng cách khi bắn tên làm thước đo.
      -Chà! - Dường như Hách Thất vừa thở phì tiếng, vẻ mặt khoái trá, . - Quân đông gớm, định đánh nhau với chúng ta chắc?
      Dứt lời, Hách Thất liền giương cung, tên đặt dây, bên cạnh huynh ấy, lá cờ trắng của Đột Quyết no gió tung bay phần phật. Bất kì bộ tộc nào thảo nguyên hễ thấy lá cờ này giương lên ở đâu, tự hiểu dũng sĩ dưới quyền Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt có mặt ở đó, kẻ nào dám đụng vào dũng sĩ của Đột Quyết, kỵ binh của Đột Quyết tất san phằng lán lều bọn chúng ở, bắt sạch dê bò bọn chúng nuôi, diệt tận gốc thị tộc của bọn chúng… Ở Ngọc Môn Quan này, có kẻ nào dám xấc láo, khinh thường lá cờ trắng này cơ chứ!
      Đám kỵ binh kia càng lúc càng đến gần, bọn chúng nghênh ngang như thể xưa nay chưa hề nhìn thấy lá cờ này. Lớp giáp sắt dưới nắng chiều gay gắt trở nên vàng rực, trông càng sáng. Tôi bất giác hít hơi sâu…
      Giáp mỏng, yên ngựa, mũ sắt… chúng là kỵ binh của Nguyệt Thị. Tuy có cờ hiệu, song tôi vẫn nhận ra, đây đích thị là quân của Nguyệt Thị. Mặc dù chưa lần sang Nguyệt thị, nhưng tôi từng chứng kiến quân lính Nguyệt Thị thao luyện ở phủ đô hộ[6] An Tây. Bộ tộc ấy nuôi toàn ngựa khỏe, giáp trụ nét, cung tên sắc bén, lính tráng dũng mãnh, thiện chiến vô cùng… Hách Thất cũng nhận ra, huynh ấy ngoái đầu nhìn tôi, :
      [6] Phủ đô hộ: Là cơ quan quản lý các khu vực biên giới của số triều đại phong kiến ở Trung Quốc.
      - Bẩm Công chúa, bây giờ người nên chạy ngựa về hướng đông, băng qua sông Tân Lý, lều của Đại Thiền vu ở phía đông con sông.
      Tôi gào lên:
      - Muốn đánh cứ đánh , chẳng lẽ ta lại tháo chạy mình hay sao?
      Hách Thất gật đầu rồi nhường đao của mình cho tôi. Lòng bàn tay tôi rịn mồ hôi khi cầm thanh đao. Đội quân của Nguyệt Thị lợi hại thế nào, tôi thừa hiểu, huống hồ quân địch ở trước đông như kiến, phăm phăm lao tới như vũ bão. Dù Hách Thất là thần cung, song phe tôi chỉ khoảng mấy chục người, e là khó lòng địch nổi.
      Đảo mắt thấy đám kỵ binh kia mỗi lúc áp sát, tay tôi bủn rủn, chực đánh rơi thanh đao. Tuy tôi luôn thấy mình chẳng thua kém gì các ca ca của tôi, song cũng phải , xuất trận đánh địch, có lẽ đây là lần đầu.
      Cờ hiệu màu trắng phần phật tung bay ngay sau lưng tôi, vầng dương sắp lặn xuống sát đường chân trời thảo nguyên, cỏ chè vè nhấp nhô dậy sóng theo làn gió, chẳng khác nào gió cát cuồn cuộn sa mạc. Thoắt cái đất trời nhuốm lạnh, mắt tôi hấp háy liên hồi, vì mồ hôi lăn tròn rơi xuống khóe mắt cay sè.
      Đám binh sĩ kia trông thấy bóng cờ trắng, cuối cùng ghìm cương ngựa, chúng dàn ngang thế trận, dần áp sát. Hách Thất gằn giọng, quát:
      - Có Hách Thất của Đột Quyết ở đây, vó ngựa của các ngươi giẫm lên thảo nguyên của Đột Quyết, lẽ nào định tuyên chiến mà đánh hay sao?
      Tài bắn cung của Hách Thất nức tiếng gần xa, Hách Thất trong tiếng Đột Quyết có nghĩa là mũi tên. Nghe truyền, khi Hách Thất muốn bắn trúng con mắt bên trái của con chim nhạn chao lượn bầu trời, tuyệt nhiên lệch sang con mắt bên phải, vì lẽ đó mà Đại Thiền vu vô cùng tin tưởng Hách Thất. Quả nhiên bọn kia vừa nghe đến cái tên Hách Thất, cũng khó tránh khỏi nao núng, tên rong ngựa tiến lên, liến thoắng tuôn tràng dài. Tôi biết tiếng Nguyệt Thị, nhờ Hách Thất phiên dịch mới biết ra đám kỵ binh ấy vừa để lạc mất tên nô lệ nên mới đuổi tới đất này. Còn đây có phải địa giới của Đột Quyết hay thực ra biên giới giữa Nguyệt Thị, Đột Quyết và Tây Lương ở chân núi Thiên Hằng này xưa nay vốn là việc chẳng ai quản lý, nếu đây là lãnh thổ của Đột Quyết, e có phần gượng gạo.
      - Lạc mất nô lệ ư?
      Tôi lấy làm lạ, bèn nhắc lại. Gã thủ lĩnh phe Nguyệt Thị giơ roi ngựa trỏ vào tôi, rồi ngón tay múa may gì đó. Hách Thất phẫn nộ, gào lớn:
      - Công chúa, dám người chính là nô lệ bị lạc của chúng.
      Tôi bực mình, liền tuốt đao, :
      - Hỗn láo!
      Hách Thất gật đầu:
      - Bọn này chỉ giỏi kiếm cớ thôi.
      Thấy gã tướng quân của Nguyệt Thị tiếp tục luyên thuyên, tôi hỏi:
      - gì thế?
      - nếu bên ta giao người cho chúng, chúng buộc phải điều binh đánh cướp. Đột Quyết bao che cho nô lệ của Nguyệt Thị, đẩy hai nước vào thế giao tranh, đều là do người Đột Quyết biết điều.
      Tôi bực lắm, cười phá lên:
      - Có mà bọn chúng biết điều ấy, còn dám đổ vạ cho chúng ta.
      Hách Thất trầm giọng, :
      - Tiểu Công chúa chí phải, có điều địch cậy thế đông, lại nhằm vào tiểu Công chúa… Bẩm công chúa, người cứ về hướng đông tìm lều của Đức vua, rồi bảo người phái viện binh tới. Đám người Nguyệt Thị xấc xược, vô lễ này, nếu địch nổi, hẳn phải báo cho Đại Thiền vu hay, chớ để mình mắc bẫy bọn chúng.
      lại, ý Hách Thất vẫn muốn để tôi thoái lui. Dẫu nơm nớp lo sợ, song tôi vẫn ưỡn ngựa, xẵng giọng, :
      - Huynh cử người khác về báo tin , chứ ta quyết bỏ chạy!
      Hách Thất ngập ngừng rồi :
      - Tiểu Công chúa ở đây, Hách Thất đủ người để bảo vệ Công chúa.
      Ngẫm lại hồi cũng thấy điều Hách Thất là hiển nhiên. Nếu tôi ở đây, chỉ e vướng chân bọn họ. Đành rằng, tôi bắn tên cũng khá, song tôi chưa lần ra trận, trong khi bọn họ đều là những dũng sĩ Đột Quyết được rèn giũa nơi sa trường.
      - Được rồi. - Tôi giữ chặt chuôi đao, . – Để ta báo tin!
      Hách Thất gật đầu, lấy túi nước bên hông ngựa xuống, dặn tôi:
      - thẳng về hướng đông chừng ba trăm dặm, nếu tìm được lều của Đại Thiền vu, rẽ về hướng bắc, quân của Tả Cốc Lãi vương cách đó xa, chừng trăm dặm đổ lại.”
      - Ta biết rồi.
      Hách Thất cầm cán đao đập mạnh vào mông ngựa, quát lớn:
      - !
      Chú ngựa lồng lên rồi lao vút , đám kỵ binh của Nguyệt Thị la om sòm. Thế ngựa phi nhanh như bay, trong nháy mắt bỏ lại sau lưng tất thảy. Tôi ngừng ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy đám người của Nguyệt Thị đen kịt như đàn kiến chuyển tổ ngày mưa, Hách Thất và mấy chục binh sĩ Đột Quyết bị chúng quây lại. đám lính Nguyệt Thị khoảng chục tên tách đoàn định đuổi theo tôi, nhưng mũi tên của Hách Thất lao đến bủa vây, bọn chúng kẻ nào tránh được loạt tên chí mạng ấy, người ngựa đổ rầm, trong lúc gấp gáp kẻ nào đuổi kịp. Ngựa của tôi càng phóng càng nhanh, lúc ngoảnh lại nhìn chỉ còn thấy bóng cờ trắng, những thứ khác đều phai nhòa dưới ráng chiều, sắc trời ảm đạm và bóng đêm phủ mờ vạn vật.
      Tôi thúc ngựa phi nhanh thảo nguyên. Trời trăng sao, oi ả như báo hiệu cơn dông sắp đến. Lần đầu tiên tôi gặp kiểu thời tiết này, nơm nớp lo sợ trời đổ mưa. Giữa thảo nguyên mà gặp mưa to đâu phải chuyện đùa, tôi ngước nhìn bầu trời, trời đen kịt, bóng trăng sao, khó mà đoán được phương hướng, tôi chỉ lo bị lạc đường.
      thảo nguyên làm gì có đường, cứ thế mà thôi. Tôi thúc ngựa chạy suốt đến nửa đêm, may sao đám lính Nguyệt Thị kia đuổi theo. Nhưng phe Hách Thất cũng chưa phá được vòng vây, tôi vừa sốt ruột biết Hách Thất an nguy thế nào, vừa sợ bị lạc đường. cuống lại vội, tôi suýt bật khóc. Bất chợt, tiếng “roẹt” dội tới, tia chớp loằng ngoằng ánh tím xé toạc màn đêm u, lóe sáng góc trời, tiếng sấm dội từng cơn ầm ầm.
      Sắp mưa rồi, tôi phải tìm chỗ trú mưa thôi. Những tia chớp loáng như những con rắn rẽ mây đen trườn khắp bốn phía, nhờ ánh chớp loang loáng, tôi mới nhìn thấy dốc đá phía xa. ra tôi chạy đến tận nửa đêm, quanh quẩn mãi cuối cùng vẫn ở dưới chân núi Thiên Hằng.
      Tìm phiến đá trú mưa trước , thà thế còn hơn chết vì dầm mưa. Tôi thúc ngựa tiến về trước, chú ngựa khéo léo giẫm lên đá núi, tôi lo đá dăm cắm vào móng ngựa, bèn trườn xuống, dắt nó men theo đường núi. Cơn mưa dông ồ ạt kéo đến, mưa như những ngọn roi gân bò quất xối xả lên người, lên mặt đau buốt. Quần áo sũng nước mưa, nước mưa xuôi theo tóc len vào mắt khiến mắt tôi thể nào mở nổi. Tôi vuốt khuôn mặt ướt nhèm, mãi mới trông thấy phiến đá to nhô hẳn ra, núp dưới phiến đá đó có thể trú mưa được rồi.
      Tôi dắt ngựa bò xuống mỏm đá to, cả người cả ngựa co ro ở đó. Bên ngoài, mưa vẫn rào rào như trút nước. Nhớ tới Hách Thất, lòng tôi nóng như lửa đốt. Chú ngựa quỳ đá, dường như nó cũng hiểu nỗi lo lắng của tôi, thỉnh thoảng thè lưỡi liếm láp lòng bàn tay tôi. Tôi ôm cổ nó, thầm:
      - Chẳng đám Hách Thất thế nào rồi…
      Trời vẫn mưa tầm tã, nước đổ xuống từ vách núi cao tụ thành tấm mành nước trắng xóa phủ lên mặt phiến đá. biết trời còn mưa đến bao giờ, lúc lâu sau mưa mới ngớt. Núi đá bên ngoài còn no nước, nước róc rách chảy như dòng suối . Gió vén tấm rèm mây đen, khoe mảnh trăng khuyết trong ngần.
      Tôi hắt xì, áo quần ướt nhẹp, dính vào cơ thể, cơn gió thổi qua mà lạnh run người. Ngòi lấy lửa đem theo ngấm nước mưa, chỗ này lại có củi khô, muốn nhóm lửa cũng được.
      Bên ngoài, tiếng nước chảy dần, chú ngựa sáp lại gần, đầu lưỡi ấm nóng của nó liếm lên mặt tôi. Tôi thầm nghĩ nếu mưa tạnh hẳn cũng nên tranh thủ thời gian xuống núi tìm đường tiếp.
      May mà lúc xuống núi có trăng, trăng chỉ tôi hướng phải . Ngựa cuồng chân dưới vách đá hồi lâu, lúc này hăng hái lắm, lao vun vút về phía rạng đông. Hình như mặt trời sắp ló dạng, nếu sao người tôi lại nóng thế này?
      Tôi mơ hồ nghĩ, tay cương cũng nới lỏng dần, lưng ngựa tròng trành chao nghiêng như chiếc nôi, thoải mái làm sao! Cả đêm thức trắng, giờ tôi buồn ngủ díp cả mắt.
      tôi thiếp bao lâu, hình như mới lúc, mà có khi lâu lắm rồi. Ngựa qua con sông, ngựa lội bì bõm bắn nước lên người lạnh buốt, lúc ấy tôi mới giật mình choàng tỉnh. Đồng mông quạnh trải khắp bốn bề, núi Thiên Hằng lùi lại tít phía sau. Nhìn từ xa, ngọn núi hùng vĩ ấy chẳng khác nào người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất. Người khổng lồ đội đầu chiếc mũ trắng tinh, tích tụ băng tuyết quanh năm tan chảy, con sông dưới chân tôi cũng bắt nguồn từ băng tuyết đỉnh Thiên Hằng gom dòng đổ xuống, vì thế nên nước sông lạnh thấu xương.
      Người run rẩy, tôi nhớ ra mình chưa ăn uống gì, chẳng trách người lại uể oải, mệt mỏi. Lương khô buộc sẵn sau yên ngựa đây rồi, song miệng tôi khô khốc, nhạt nhẽo, chẳng muốn ăn. Tôi thầm nghĩ, hay xuống ngựa, uống chút nước nhỉ? Bỗng thấy gần đó có bóng đen khẽ cử động, chực lao thẳng về phía mình, tôi nghĩ ngay đến bọn lính Nguyệt Thị. Cố căng mắt nhìn, cũng chỉ trông thấy cái bóng lờ mờ, song di chuyển rất nhanh, may sao đằng đó chỉ có người ngựa.
      Nếu là người của Tả Cốc Lãi vương tốt quá… Tôi cố tuốt đao sau lưng, ngộ nhỡ gặp địch dốc sức chiến đấu đến cùng.
      Đấy hẳn là ý nghĩ cuối cùng của tôi, rồi trước mắt sụp tối, tôi ngã nhào khỏi yên ngựa.
      Người Tây Lương từ thạo cưỡi ngựa và bắn cung. Bất kể là trai hay , lúc biết cũng là lúc biết cưỡi ngựa. Tôi từ lớn lên lưng ngựa, đường đường là Cửu Công chúa của Tây Lương mà lại ngã ngựa, chuyện này mà đến tai người dân sống ở Vương thành Tây Lương, chỉ e người ta cười nhạo.
      Lúc tỉnh lại, tay vẫn lăm lăm thanh đao, tôi chớp mắt nhìn bầu trời trong xanh, mây trắng sà xuống như chỉ ngang tầm tay. ra tôi ngả lưng sườn đồi thoai thoải, cây cối sườn đồi che khuất ánh nắng chói chang, gió thu hây hây, mát mẻ, tiếng vó ngựa quen thuộc vọng lại từ nơi nào đó rất gần… Tôi tự nhủ hãy cố thả lỏng…
      - Tỉnh rồi à?
      Giọng này nghe quen quen. Tôi cố gắng ngồi dậy mà đầu óc choáng váng, chớp chớp mắt, vẫn thấy khó mà tin được.
      Gã buôn chè người Trung Nguyên – Cố Tiểu Ngũ - ngồi dốc cỏ, uể oải gặm miếng thịt bò khô.
      Tôi vô cùng sửng sốt:
      - Sao huynh lại ở đây?
      :
      - Tình cờ ngang qua.
      Tôi tin!
      Bụng tôi sôi ùng ục, tôi nhớ sau yên ngựa có lương khô, liền huýt sáo gọi ngựa về. Nó chạy lại, tôi căng mắt nhìn, lưng ngựa có gì, đến bộ yên cũng đâu mất. Tôi nhìn kỹ lần nữa, gã Cố Tiểu Ngũ ngồi chễm trệ yên ngựa của tôi, mà thịt bò sấy gặm, chẳng phải lương khô tôi mang theo đấy ư?
      - Này! - Tôi tức tối, quát. - Lương khô của ta đâu?
      Miệng vẫn nhai thịt, bẽn lẽn giơ nửa miếng thịt tay lên:
      - Vẫn còn miếng cuối cùng….
      Miếng cuối cùng gì chứ, mẩu cuối cùng có.
      Tôi trừng mắt nhìn , đoạn nhét tọt mẩu thịt bò khô bé tẹo vào miệng, tức mình gào lên:
      - Huynh ăn hết rồi? Tôi biết ăn cái gì đây?
      - Muội đói à. - nhấc túi nước,uống ngụm rồi ỡm ờ . – Muội mới ốm dậy, ăn mấy thứ này tốt đâu.
      Ốm cái gì chứ? Tôi nhảy lên:
      - Huynh ở đâu ra thế hả? Lại còn ăn hết lương khô của ta! Đền ! Mau đền cho ta!
      cười giả lả:
      - Muội cũng ăn đấy thôi, còn đền gì nữa!
      Tôi nổi cơn thịnh nộ, sục sạo tìm thanh đao Hách Thất đưa.
      Trông tôi loay hoay như con kiến bò trong chảo nóng, bèn tỉ tê:
      - Hay muội theo ta về Vương thành nhé, ta đền muội hẳn con bò?
      Tôi ném cho cái lườm:
      - Sao ta phải về Vương thành với huynh?
      - Chẳng phải cha muội dán cáo thị thông báo, người thưởng ngay trăm nén vàng cho ai tìm và đưa được muội về Vương thành. - nhìn tôi vẻ rất nghiêm túc. – Những trăm nén vàng đấy! Mua được bao nhiêu bò rồi còn gì!”
      Tôi tức điên lên, chẳng phải tức vì cái gì xa xôi, vì trăm nén vàng kia kìa:
      - Cha ta dán cáo thị như thế à?
      bảo:
      - Chẳng lẽ lại là giả? Ta chắc chắn đấy!
      - Ta chỉ đáng giá trăm nén vàng thôi à? - Tôi thất vọng ra mặt. – Ta cứ tưởng tối thiểu cũng phải vạn thỏi vàng chứ! Chưa kể còn phải phong hầu, thưởng cả vô số dê, bò, nô lệ nữa…
      Thế mà cha vẫn thường bảo tôi là Tiểu Công chúa người quý nhất. quý gì mà chỉ treo thưởng có trăm nén vàng. Người keo kiệt! Keo kiệt quá!
      Cố Tiểu Ngũ phì cười, biết cười cái gì. Tôi rất ghét vẻ mặt lúc cười, nhất là cái kiểu cười mỉm rồi nhìn tôi chằm chằm, chẳng khác nào nhìn trăm nén vàng.
      Tôi quát:
      - Huynh đừng có nằm mơ, còn lâu ta mới về với huynh!
      Cố Tiểu Ngũ :
      - Vậy muội định đâu? Từ lúc muội bỏ , sứ giả Nguyệt Thị tức giận lắm, họ đức vua cố tình để muội . Nguyệt Thị còn sai quân lính tìm muội về. Muội cứ lang thang thảo nguyên thế này, lỡ gặp phải quân Nguyệt Thị khốn…
      Đúng là khốn đốn , chẳng gặp quân Nguyệt Thị rồi còn gì. Nhớ đến đó, tôi bất giác than: “Trời ơi!”, suýt quên mất Hách Thất. Tôi phải khẩn trương báo tin cho ông ngoại!
      Cố Tiểu Ngũ thấy mặt tôi tái mét, liền hỏi:
      - Muội sao thế?
      Tôi định , nhưng thảo nguyên mênh mông này, giờ chỉ có ở bên tôi, hơn nữa, kiếm thuật của sư phụ thuộc hàng hùng cái thế, chưa biết chừng kiếm pháp của gã Cố Tiểu Ngũ này cũng thuộc loại siêu phàm.
      Quả nhiên, sau khi nghe xong chuyện Nguyệt Thị truy đuổi tôi, Cố Tiểu Ngũ liền bảo:
      - Theo như muội lều của Đại Thiền vu cách chỗ này ít nhất ba trăm dặm?
      Tôi gật đầu.
      - Còn Tả Cốc Lãi vương cũng phải cách đây khoảng trăm dặm?
      Tôi lại gật đầu.
      - Ngặt nỗi người dân Đột Quyết du mục nay đây mai đó, muội định tìm kiểu gì?
      - Chuyện đó khỏi phải nghĩ nhiều, kiểu gì tôi cũng phải cứu được Hách Thất.
      Cố Tiểu Ngũ chau mày rồi :
      - Nước xa cứu nổi lửa gần, phủ đô hộ An Tây ở ngay trước mặt, sao mượn quân của họ để đánh Nguyệt Thị?
      Tôi ngẩn người. Phải công nhận Trung Nguyên rất mạnh, về quân , phủ đô hộ An Tây còn đảm đương trọng trách trấn thủ Tây Vực, khiến các nước phải nể sợ. Song cho dù giữa các nước xảy ra tranh chấp cũng chẳng ai cầu cứu viện binh của Trung Nguyên cả. Vì trong mắt người Tây Vực chúng tôi, giao chiến là chuyện giữa người Tây Vực với nhau, Trung Nguyên là thiên triều thượng quốc, phái hùng binh đến đóng giữ ở nơi này là chuyện đành, song chẳng mắc mớ gì đến việc tranh chấp giữa các nước Tây Vực với nhau. Cũng như em trong nhà gây hấn, , làm gì có chuyện gọi người ngoài tới can.
      Tôi :
      - Tuy phủ đô hộ An Tây gần đây nhưng chuyện này thể để họ biết được.
      Cố Tiểu Ngũ nhướng mày:
      - Sao lại thế?
      Tôi chẳng biết thế nào, tóm lại đây là điều cấm kỵ đối với tất cả các nước Tây Vực. Tôi bảo:
      - Chuyện các nước Tây Vực đánh nhau có liên quan gì đến hoàng đế Trung Nguyên?
      Cố Tiểu Ngũ :
      -“Dưới khắp gầm trời, đâu chẳng đất vua, mọi bến bờ, ai thần tử.”[7] Hễ là chuyện thiên hạ, tất có liên quan đến Hoàng đế Trung Nguyên, huống hồ Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây cốt để trấn an Tây Vực. Nguyệt Thị tỏ thái độ xấc xược, cũng đến lúc nên dạy cho bọn họ bài học.
      [7] Trích Kinh thi.
      Mấy lời trưởng giả của , tôi nghe chẳng lọt tai. dắt hai con ngựa, rồi tiếp lời:
      - Rẽ về hướng nam, nửa ngày đường là đến phủ đô hộ An Tây, ta đưa muội cầu viện binh.
      Tôi lưỡng lự, chưa vội quyết:
      - Việc này… hay lắm phải?
      - Thế muội có muốn cứu Hách Thất ?
      - Đương nhiên là muốn!
      đỡ tôi lên ngựa, :
      - Vậy còn chần chờ gì nữa!
      được quãng rất xa, tôi mới sực nhớ ra:
      - Sao huynh tìm được ta?
      Trời trưa nắng gắt, phủ lên khuôn mặt trắng ngần tựa ngọc Hòa Điền hoàn mỹ của . cười tươi, khoe hàm răng trắng bóc:
      - Gặp may thôi!

    3. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 10





                  Chúng tôi thúc ngựa về hướng nam, quả nhiên tới phủ đô hộ An Tây cần tới nửa ngày đường, tầm xế chiều thành lũy sừng sững ngay trước mắt. Khoảng hơn trăm năm về trước, Hoàng đế Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây rồi đóng quân, vỡ hoang, trấn giữ miền hiểm yếu này. Nơi đây vốn là tuyến xung yếu con đường thông thương mà mọi lái buôn từ Nam qua Bắc phải qua, cũng sầm uất kém Vương thành Tây Lương.

                  Tôi cứ lo mình và Cố Tiểu Ngũ, hai kẻ thân thế , thế nào phủ đô hộ An Tây cũng tỏ ra phớt lờ, nào ngờ Cố Tiểu Ngũ dẫn tôi vào thành, xông thẳng đến trước cổng nha môn, gõ trống công đường.

                  Sau này tôi mới biết chiếc trống ấy có ý nghĩa rất lớn, tuy gọi là “trống thái bình” song thực ra nó còn được biết với cái tên “trống tinh”, hồi trống gióng lên kêu gọi chinh chiến. Đám lính canh xông ra, đưa chúng tôi vào phủ, chẳng cho chúng tôi giải thích lời. Đô hộ đại nhân ngồi chễm chệ công đường. Ông ta mặc giáp, chòm râu rậm, rất có dáng vẻ uy phong, lẫm liệt của viên mãnh tướng. Trong số những người Trung Nguyên tôi từng gặp, ông ta là người có dáng dấp của vị tướng cầm binh xông pha trận mạc nhất.

                  Đô hộ đại nhân thấp giọng hỏi chúng tôi, tôi hiểu tiếng Trung Nguyên, đành líu lưỡi nhìn Cố Tiểu Ngũ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại ra hiệu bảo tôi tự trình bày, lần này chắc tôi đành chịu. May sao Đô hộ đại nhân biết tiếng Đột Quyết. Thấy tôi có vẻ biết tiếng Trung Nguyên, ông ta liền hỏi bằng tiếng Đột Quyết:

                  - Kẻ dưới công đường kia vì sao mà gióng trống?

                  Mẹ tôi là người Đột Quyết nên tôi cũng thạo tiếng Đột Quyết. Tôi thuật lại chuyện Nguyệt Thị tràn quân sang địa phận của Đột Quyết rồi khẩn thiết xin ông ấy phái binh cứu Hách Thất.

                  Quan Đô hộ tỏ vẻ băn khoăn, cũng bởi từ khi Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây tới nay, trừ việc dẹp yên quân phiến loạn, họ chưa bao giờ can thiệp vào chuyện chính giữa các tiểu quốc ở Tây Vực. Tuy Nguyệt Thị xâm phạm lãnh thổ Đột Quyết là chuyện sai rành rành, nhưng suy cho cùng, Đột Quyết có quân đội hùng hậu, trong khi Nguyệt Thị vốn yếu, lấy yếu lấn áp mạnh, chuyện hiếm hoi này quả hợp lẽ thường tình nên ông ấy lưỡng lự.



                  Quả nhiên, ông ta :

                  - Kỵ binh Đột Quyết nổi danh khắp quan ngoại, vì cớ gì người Đột Quyết tự mình xuất binh mà phải cầu xin cứu viện?

                  Tôi , sở dĩ chúng tôi xin cứu viện của phủ đô hộ An Tây, cũng bởi lều chúa thường xuyên rời cố định, còn Tả Cốc Lãi vương dù cũng ở gần, song từ đây đến đó e là mất ít thời giờ, tôi chỉ mong phủ đô hộ có thể cứu kịp thời Hách Thất.

                  Cứ nghĩ đến việc phe Hách Thất chỉ có mấy chục mạng người mà phải chống cự với ngần ấy binh sĩ Nguyệt Thị là ruột gan tôi lại nóng như có lửa đốt. Đô hộ đại nhân vẫn do dự, bấy giờ Cố Tiểu Ngũ bất ngờ câu bằng tiếng Trung Nguyên.

                  Cố Tiểu Ngũ vừa dứt lời, gã quan Đô hộ kia có vẻ giật mình kinh hãi, đứng bật dậy. Cố Tiểu Ngũ tiến lên, khom người hành lễ, giọng lí nhí khiến tôi chẳng nghe thấy gì, huống hồ tôi lại biết tiếng Trung Nguyên. Chỉ thấy quan đô hộ gật đầu lia lịa sau vài câu của .

                  Lát sau, quan Đô hộ phái viên Thiên phu trưởng [1] dẫn theo hai nghìn binh sĩ, tháp tùng chúng tôi lên đường cứu người ngay trong đêm.

                  [1] Đây là chức võ quan chỉ huy đơn vị gồm nghìn quân. Ngày xưa, người ta chia quân đội thành những đơn vị mười người, năm mươi người, trăm người, nghìn người, vạn người và tương ứng có các chức vụ: thập phu trưởng, ngũ thập phu trưởng, bách phu trưởng, thiên phu trưởng, vạn phu trưởng.

                  Tôi mừng rơn. Lúc rời phủ đô hộ An Tây, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:

                  - Huynh gì mà gã quan đó lại đồng ý phái quân cứu người thế?

                  Cố Tiểu Ngũ nở nụ cười xảo quyệt, :

                  - Chuyện này thể tiết lộ với muội được!

                  Tôi dẩu môi hờn dỗi.

                  Quân đội Trung Nguyên có kỷ luật rất nghiêm ngặt, tuy hành quân trong đêm, song đội ngũ vẫn chỉnh tề, ngoài tiếng vó ngựa chen lẫn tiếng mai giáp thỉnh thoảng cọ vào nhau sàn sạt, tiếng bó đuốc cháy phần phật, tuyệt nghe thấy bất kỳ thanh nào khác. Tôi để ý thấy người Trung Nguyên dùng đuốc cán gỗ quấn sợi thô, tẩm dầu hoả. Dầu hoả chính là thứ có rất nhiều dưới núi Thiên Hằng, màu đen, rất dễ bắt lửa, thỉnh thoảng dân du mục vẫn dùng để đun nước. Có điều người trong Vương thành chê nó nhiều khói, nặng mùi nên ít khi dùng. ngờ quân sĩ Trung Nguyên lại tẩm lên đuốc. Tôi thấy người Trung Nguyên quả là thông minh, bọn họ nghĩ ra những cách mà chúng tôi tài nào nghĩ ra được.

                  Chúng tôi hành quân suốt đêm, lúc tảng sáng mới đuổi kịp đám quân lính của Nguyệt Thị. Bấy giờ chúng vào đến lãnh thổ Nguyệt Thị.

                  Đạo quân Nguyệt Thị rất nhanh, lúc chúng tôi bắt kịp chẳng thấy màu cờ trắng đâu, thậm chí Hách Thất và mấy chục dũng sĩ Đột Quyết, cả người lẫn ngựa đều mất tăm. Tôi hốt hoảng, chỉ sợ chúng giết toàn bộ quân của Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ quay sang bàn bạc với tay Thiên phu trưởng bằng tiếng Trung Nguyên, binh sĩ Trung Nguyên truyền lệnh rồi bắt đầu dàn đội hình.

                  Cha tôi từng , người Trung Nguyên rất chú trọng trận pháp trong lúc giao chiến, lấy ít địch nhiều vô cùng lợi hại. Nhất là lúc này, binh lực Trung Nguyên hơn hẳn quân sĩ bên Nguyệt Thị bậc, họ ngầm bố trí vòng vây. Gã Tướng quân phe Nguyệt Thị liền ghìm ngựa quay lại, quát tháo om sòm.

                  Tôi chẳng hiểu gì. Cố Tiểu Ngũ buôn chè qua các nước Tây Vực, tất hiểu tiếng Nguyệt Thị. :

                  - Gã đó chất vấn chúng ta, sao lại dẫn binh tràn vào lãnh thổ Nguyệt Thị.

                  Tôi :

                  - Tối qua dẫn binh xông vào địa phận của Đột Quyết sao? thế còn dám ta là nô tì lạc của chúng nữa chứ, bây giờ lại dám giở cái lẽ cây ngay sợ chết đứng à?

                  Cố Tiểu Ngũ dăm ba câu với Thiên phu trưởng đứng bên cạnh, Thiên phu trưởng liền sai người đáp lời. Cố Tiểu Ngũ cười, :

                  - Ta với bọn họ rằng, chúng ta hộ tống Công chúa Tây Lương về, tiện đường ngang qua, rồi bảo bọn họ cần hoảng loạn, chúng ta tuyệt xâm phạm lãnh địa Nguyệt Thị.

                  Tôi thầm nghĩ, nếu đến loại người trơ tráo, vô liêm sỉ, Cố Tiểu Ngũ mà tự nhận mình đệ nhị thiên hạ đố ai dám vỗ ngực xưng mình đệ nhất. dối mà hùng hồn, lý lẽ đâu ra đấy, phải chăng người dân Trung Nguyên ai cũng như ? chỉ sư phụ mà Cố Tiểu Ngũ cũng vậy.

                  Đôi bên vẫn lời qua tiếng lại, tay Thiên phu trưởng dẫn nghìn kỵ binh, nhân lúc trời tờ mờ sáng đánh bọc sườn từ phía sau, đợi khi phe Nguyệt Thị kịp nhận ra quân tiên phong từ đằng này bắt đầu đột kích.

                  Trận chiến này có thắng cũng chẳng có gì lạ. Quân Nguyệt Thị thua to, gần như kẻ nào thoát được, đa số đều bỏ mạng dưới tên đao sắc bén của kỵ binh Trung Nguyên, số còn lại đương nhiên địch nổi, liền buông vũ khí quy hàng. Cố Tiểu Ngũ tuy chỉ là gã buôn chè nhưng cũng gan góc. Đứng trước cảnh máu chảy đầu rơi, thương vong vô số này, lại hề chau mày, cứ như cảnh tàn sát vừa rồi chỉ là trò vui. Tay Thiên phu trưởng người Trung Nguyên hiển nhiên quen nơi chiến trường, gã giải quyết những kẻ đầu hàng đâu ra đấy. Hai nghìn kỵ bịnh áp giải khoảng trăm tên tàn binh của Nguyệt Thị về phía đông.

                  Nhân lúc nhốn nháo, tôi lao vào giữa đám quân Nguyệt Thị tìm Hách Thất, song chẳng thấy tăm hơi huynh ấy đâu. Tay Tướng quân Nguyệt Thị bị bất làm tù binh, bị người ta trói chặt, dẫn đến trước mặt Thiên phu trưởng, gã Thiên phu trưởng lại cung kính giao người cho Cố Tiểu Ngũ. Tôi để Cố Tiểu Ngũ thẩm vấn gã Tướng quân Nguyệt Thị kia, song gã ngang bướng, kiên quyết chịu khai. Cố Tiểu Ngũ lạnh lùng phán:

                  - khai giữ lại có ích gì?

                  Tay Thiên phu trưởng nghe vậy, lập tức sai người lôi chặt đầu. Quân lệnh như sơn, đầu của gã Tướng quân Nguyệt Thị lập tức bị người ta chém bay. Bọn họ còn nắm tóc, giơ cái đầu dâng lên trước mặt chúng tôi. Máu tươi từ cổ chảy xuống bãi cỏ xanh biếc.

                  Tôi kìm nổi lòng mình, thêm vào đó, cả ngày trời chưa có thứ gì lót dạ, đầu tôi váng vất từng cơn, người bên cạnh trông sắc mặt tôi kém tươi, có lòng đưa tôi túi nước, nhưng tôi uống vào, chỉ nghe tiếng Cố Tiểu Ngũ sai người dẫn tới tay lính Nguyệt Thị khác. Trước tiên cho gã thấy thủ cấp của tướng quân mình, sau hỏi tăm tích của Hách Thất. Người Nguyệt Thị tuy dũng mãnh, thiện chiến, song kẻ bị bắt làm tù binh ắt sa sút ý chí, lại tận mắt chứng kiến tướng lĩnh bị chém, sợ đến nỗi khai hết từ đầu đến cuối.

                  ra đám Hách Thất vừa đánh vừa lui về chân núi Thiên Hằng. Bọn họ chiếm núi đá cố thủ, cho đến lúc dùng cạn tên. Song bọn lính Nguyệt Thị cũng giết mà chúng cướp ngựa, đuổi bọn họ vào tận sâu trong núi hoang. Lũ Nguyệt Thị ấy tàn ác, trong núi có bầy sói dữ, mà Hách Thất lại tên ngựa, giả như gặp bầy sói, vậy chỉ có chết chứ sống sao được!

                  Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, vội vã dẫn người tìm Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ :

                  - Người Đột Quyết đâu có dễ chết thế?

                  Thoạt nghe, tôi có cảm giác an ủi mình, nhưng sau đó lại thấy bực bội, khó chịu.

                  Chúng tôi tìm quanh núi Thiên Hằng, mãi đến khi mặt trời gác núi, tôi gần như tuyệt vọng. Núi Thiên Hằng rộng lớn thế này, rốt cuộc đến lúc nào mới tìm ra Hách Thất? Tôi cầu nguyện Hách Thất bị lũ sói ăn thịt, huynh ấy mà bị sói ăn thịt, ông ngoại chắc chắn đau lòng lắm. Nhưng tôi lại tự nhủ Hách Thất là dũng sĩ có tiếng thảo nguyên, đâu dễ bị lũ sói ăn thịt, tuy bên người ngựa, tay tên nhưng Hách Thất là Hách Thất cơ mà, thế nào huynh ấy cũng sống sót trở về.

                  Mặt trời sắp xuống núi, gió thổi mang theo nhiều hơi lạnh của đêm, mấy tên lính trước bỗng la lên, tôi vội ghì cương ngựa, hỏi:

                  - Sao rồi?

                  Đám người ấy liến thoắng la hét bằng tiếng Trung Nguyên, rồi tôi thấy Hách Thất lồm cồm bò lên từ vách đá, tay trái siết chặt hòn đá nhọn, cánh tay phải đẫm máu, theo sau có vài người cũng bò dậy, đứng vách đá. Dáng vẻ họ nhếch nhác, mặt mũi đầy bụi đất, song ánh mắt vẫn dũng, quả cảm nhìn toán quân sĩ Trung Nguyên.

                  Tôi gào toáng lên, lật mình nhảy phắt xuống ngựa, tất tưởi nhào tới ôm chầm lấy Hách Thất. Chắc tôi chạm phải vết thương người Hách Thất khiến huynh ấy nhăn nhó mặt mày, song huynh ấy vẫn nhoẻn miệng cười:

                  - Tiểu Công chúa!

                  Cả đội vui mừng hò reo, trông đám lính Trung Nguyên phấn khởi hơn hẳn chiến thắng lúc sáng.

                  Buổi tối, chúng tôi dựng trại dưới chân núi Thiên Hằng. Lều trại người Trung Nguyên mang theo nhiều, toàn bộ đều dành cho những người bị thương. Hách Thất bị gãy tay phải, Thiên phu trưởng sai người đắp thuốc trị thương cho huynh ấy. Hách Thất hề kêu rên. Tìm được Hách Thất, tôi thấy lòng nhõm hơn hẳn, ăn lát hết cả chiếc bánh nướng to tướng. Cố Tiểu Ngũ ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn tôi ăn bánh. Tôi ăn ngon lành, bỗng dưng bị nhìn chằm chằm nên miếng cuối cùng mắc ở cổ họng, nuốt trôi, mà nhả cũng ra. Thấy tôi bị nghẹn, Cố Tiểu Ngũ cười ngặt nghẽo, đến nước uống cũng chẳng đưa cho tôi.

                  Trầy trật rất lâu tôi mới tìm được túi nước của mình, uống cả túi nước, miếng bánh nướng mới chịu trôi xuống bụng. tính hỏi chuyện nên tôi chẳng thèm so đo với làm gì. Tôi hỏi:

                  - Tối hôm qua, lúc ở phủ đô hộ An Tây, huynh gì mà quan Đô hộ lại đồng ý phát binh cứu viện thế?

                  Cố Tiểu Ngũ cười tươi, khoe hàm răng trắng bóng:

                  - Ta với ông ta rằng, ông ta cứ thấy chết mà cứu , rồi từ nay về sau có chè ngon mà uống nữa đâu.

                  Tôi tin mới lạ đấy!

                  Bầu trời lấp lánh ánh sao, tôi ngẩng đầu trông, ngàn sao trời chẳng khác nào những cụm đèn lồng treo tít cao, xíu, ánh sao sáng tỏ. Giữa ngàn sao có dải sáng trắng mờ mờ, nghe người ta , những nàng tiên thường tắm gội ở dòng sông sao. Lúc những nàng tiên tắm gội, hẳn vốc những ngôi sao lên tay như chúng ta hay dùng tay vốc cát, thế rồi hàng ngàn, hàng vạn giọt sao trượt qua kẽ tay, hoà mình vào dòng sông sao, thỉnh thoảng có giọt bắn toé lên, liền biến thành sao băng. Đúng lúc ấy, vệt sao băng xinh lao vút về đằng chân trời như mũi tên, loáng cái biến mất. Tôi chỉ kịp thốt lên: “Á!” Người ta , thấy sao băng là phải nhanh tay thắt đai áo, vừa thắt vừa ước điều gì đó điều ước ắt linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện quên thắt đai áo, mải thắt đai áo quên mất phải cầu nguyện. Tôi chán nản nằm phịch xuống thảm cỏ, sao băng mất hút rồi còn đâu. Cố Tiểu Ngũ hỏi tôi:

                  - Muội vừa “á” gì đấy?

                  - Có sao băng!

                  - Sao băng có gì hay mà phải “á” lên?

                  - Thấy sao băng trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước điều ước đó ắt thành thực. – Tôi chẳng muốn giải thích cho hiểu – Người Trung Nguyên các huynh hiểu đâu.

                  Hình như vừa phì cười:

                  - Muội định ước gì thế?

                  Tôi bặm môi thèm trả lời. Tôi dễ bị dụ đâu. cũng im lặng hồi, lát sau, bỗng cao giọng, :

                  - À, ta biết rồi nhé, muội ước mình lấy được Thái tử Trung Nguyên chứ gì?

                  Tôi bật phắt dậy:

                  - Thái tử Trung Nguyên là cái gì chứ, còn lâu ta mới lấy !

                  cười tít mắt, :

                  - Ta biết muội thèm lấy , muội ước lấy được ta chứ gì?

                  Bấy giờ tôi mới nhận ra mình mắc bẫy của , bèn “xì” tiếng rồi lờ luôn.

                  Tôi lại thả người xuống bãi cỏ, ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao, gần và thấp thế kia, chỉ cần với tay là chạm tới. Nơi thiên thần trú ngụ quây quần nhiều vì sao thế kia, hẳn phải đông vui lắm.

                  Có chú dế mèn nhảy lên đầu rồi bị vướng vào tóc tôi, lại còn kêu rả rích nữa chứ. Tôi chụp tay bắt nó, từ từ gỡ nó ra khỏi tóc, nó cựa quậy trong lòng bàn tay tôi, tôi thổi phù đưa nó xuống bãi cỏ rồi nó biến mất hút. Chắc nó vẫn quanh quẩn gần đây thôi, vì tôi vẫn nghe thấy tiếng dế rỉ rả trong đêm.

                  Cố Tiểu Ngũ cũng ngả mình nằm gối lên yên ngựa của . Cứ tưởng ngủ rồi, nhưng nhắm mắt, uể oải :

                  - Này! Muội hát bài !

                  Cơn gió hiền hoà, dịu êm như bàn tay mẹ vỗ về khuôn mặt tôi. Tuy tâm trạng khá hơn, song tôi vẫn quen thói tranh cãi với Cố Tiểu Ngũ:

                  - Sao huynh cứ bảo ta hát thế? Sao huynh hát cho ta nghe?

                  - Ta biết hát.

                  - Gì chứ? Ai mà chẳng biết hát. Hát ! Hát bài hồi mẹ huynh hay hát cho huynh nghe ấy.

                  Cố Tiểu Ngũ im lặng lúc lâu, mãi sau tôi mới thấy nhàng lên tiếng:

                  - Ta có mẹ.

                  Tôi có trai, có mẹ, còn mẹ ngã bệnh rồi qua đời lâu, tôi bỗng thấy áy náy. Nhớ lại những lần thấy mẹ tiếp niềm nở hơn hẳn tiếp tôi, trong lòng tôi tự hiểu, có lẽ vì mồ côi mẹ từ , cho nên mẹ tôi mới quan tâm tới nhiều hơn. Tôi bật dậy, trộm nhìn sắc mặt Cố Tiểu Ngũ, chỉ sợ cảm thấy tủi thân. Nhưng dưới ánh sao mờ, sắc mặt ra sao, tôi cũng .

      justify;" align="            “Có con cáo đơn,



      justify;" align="            Ngồi cồn cát ngắm trăng mình,



      justify;" align="            Cơ mà đâu phải ngắm trăng,



      justify;" align="            Cáo mong đợi nàng chăn dê.



      justify;" align="            Có con cáo bơ vơ,



      justify;" align="            Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình,



      justify;" align="            Nào đâu cáo muốn sưởi mình,



      justify;" align="            Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua.”



                  Cuối cùng Cố Tiểu Ngũ cũng lên tiếng. nhăn nhó :

                  - Khó nghe thế! Đổi bài khác !

                  - Ta chỉ biết bài này…

                  Bỗng nghe đâu đó có tiếng kèn vang lên, tôi mừng vui khôn tả, vội vã đứng dậy nhìn quanh, hoá ra là Hách Thất ngồi dưới sườn dốc thoải, thổi kèn tất lật. Trước đây, tôi chỉ nghe danh thần cung của Hách Thất, ngờ huynh ấy thổi kèn lại hay thế. Hách Thất chỉ dùng tay nên nhiều nốt ấn được, nhưng tiếng kèn vẫn dìu dặt, lúc trầm lúc bổng, quyện trong làn gió đêm mát rượi, nghe êm tai quá. Tôi ngẩng đầu nghe, tiếng kèn của Hách Thất nghe não nề, dần dần chỉ còn tiếng hát của mười mấy người Đột Quyết nọ, giọng những người đàn ông trầm ấm mà vang, càng nghe càng thấy bi thương, hùng tráng. Giọng hát ấy tựa gió sa mạc, lại giống cánh chim ưng chao liệng giữa thảo nguyên, quanh quẩn nơi sâu thẳm rồi ngừng ngân vang. Trời đất lặng lẽ như tờ, côn trùng núp trong lùm cỏ còn cất tiếng ngân nga, con ngựa cũng thôi hí rền, những người Trung Nguyên cũng bật tiếng… Làn điệu đồng ca lắng đọng trong lòng.

                  Tôi nghe đến ngây người, tận khi những người Đột Quyết thôi hát, lại rộ tiếng cười đùa. Cố Tiểu Ngũ hỏi câu bâng quơ:

                  - Họ hát bài gì thế?

                  - Bài ca xuất chinh của người Đột Quyết. – Tôi nghĩ lúc rồi . – Trước khi ra trận, họ thường hát bài này. Tang Cách trong bài hát vốn là mỹ nhân nức tiếng người Đột Quyết, người của nàng phải chinh chiến bốn phương, sau này thấy trở về, chỉ có con ngựa quay lại. Bấy giờ nàng vuốt ve yên ngựa, nhìn ống tên trống rỗng của người rồi hát khúc ca này.

                  Hình như mỉm cười:

                  - Sao lại phải chinh chiến bốn phương?

                  - Bọn họ là dũng sĩ của Đột Quyết, chiến đấu vì Đột Quyết, chinh chiến bốn phương là điều bất đắc dĩ thôi. – Tôi bực mình lườm . – Có huynh cũng hiểu.

                  :

                  - Có gì mà hiểu chứ? Người Trung Nguyên có câu: “Cốt khô Vô Định, xót thương. Trong mơ, khuê nữ còn vương vấn tình” [2] , thực ra cũng như nhau cả thôi.

                  [2] Trích Lũng Tây hành của Trần Đào, bản dịch của Phụng Hà.

                  Vừa nghe có chuyện hay, tôi liền háo hức, nằng nặc đòi Cố Tiểu Ngũ kể cho nghe bằng được. Thấy tôi chèo kéo, ngẫm lúc rồi :

                  - Được rồi, kể cũng được, nhưng muội được hỏi gì đâu đấy, chỉ cần câu: “Tại sao lại thế?”, ta kể tiếp nữa.

                  Tuy điều kiện có vẻ hà khắc song cố kìm hỏi “Tại sao lại thế?” cũng dễ, tôi lập tức gật đầu đồng ý. Cố Tiểu Ngũ nghĩ lúc rồi kể:

                  - Rất lâu, rất lâu về trước, có vương quốc ảo, ở vương quốc ảo đó, có nương tuổi độ xuân

                  - nương ấy đẹp ? Dễ thương ? – Tôi nóng lòng hỏi. – Biết cưỡi ngựa ?

                  bật cười:

                  - nương ấy rất đẹp, rất đáng , cũng biết cưỡi ngựa. Mỗi lần cưỡi ngựa dạo chơi ở vương quốc ảo, ấy thường đeo mạng che mặt, chính là loại mũ có rèm sa ấy. hôm, nương ấy thong dong cưỡi ngựa, gió bỗng thổi bay chiếc mũ… vị công tử nhặt được chiếc mũ ấy, liền trả lại cho nương kia. Hai người họ tuy lần đầu gặp mặt, song lòng hẹn ước phải thành thân, tức là cưới gả ấy…

                  Tôi rất thích thú với đoạn mở đầu câu chuyện, liền hỏi:

                  - Vị công tử kia trông đẹp trai chứ? Có xứng với nương xinh xắn đó ?

                  :

                  - Đẹp hay chưa , song vị công tử này là con trai của Đại tướng quân, vô cùng dũng mãnh, thiện chiến. Ước hẹn chưa được bao lâu, vị công tử kia được lệnh xuất chinh, liền dẫn binh xông pha trận mạc. nương nọ ở nhà đợi chàng, đợi mãi, nhiều năm ròng thấy chàng trở về. Người nhà của giục lấy chồng, tuổi thanh xuân phải là mãi mãi, chỉ e ai chịu lấy. nương ấy khăng khăng chịu, mực đợi chờ, nào ngờ tin từ biên ải gửi về, ra chàng công tử kia hy sinh nơi trận mạc.

                  kể đến đó dừng lại, tôi rối rít hỏi:

                  - Vậy nương ấy thế nào? Biết tin chàng công tử kia chết rồi, ấy ra sao?

                  - Nàng rất buồn, song mực tin, võ nghệ của chàng công tử kia rất cao cường, lại tinh thông binh pháp, hơn nữa, hằng năm đều xuất chinh, trải qua bao nhiêu lần chiến , sao có thể rơi vào trận địa mai phục của địch, rồi bị quân địch giết dễ dàng thế được? Nàng nhốt mình trong phòng suy nghĩ suốt mười ngày đêm, cuối cùng hạ quyết tâm, phải tìm cho ra chân tướng việc. Nhưng nàng chỉ là phận chân yếu tay mềm, có quyền thế gì, dẫu người nhà làm quan cũng đủ bản lĩnh để giải quyết những việc này. Lúc ấy, vừa hay Quốc vương của vương quốc ảo hạ chiếu thư tuyển phi tần. Với vẻ đẹp trời ban, nàng tự nguyện nhập cung, trở thành phi tử của hoàng đế. Tính nàng dịu dàng hoà nhã, lại thông minh, nhạy bén, Quốc vương rất mực sủng ái, dần dần nàng có địa vị trong hậu cung. Rồi nàng kết giao với đám quần thần, lợi dụng tay chân của bọn họ, điều tra manh mối về trận chiến mấy năm trước, cốt tìm ra nguyên nhân khiến chàng công tử kia bỏ mạng nơi sa trường. Sau đó, nàng dần thu thập được manh mối, mới biết nguyên nhân cái chết của chàng phải do địch mai phục, mà bị chính phe mình hãm hại. Nàng liền lần theo manh mối để điều tra, kết quả nằm ngoài sức tưởng tượng, hoá ra Hoàng hậu cũng dính líu đến việc này.

                  - Hoàng hậu đố kỵ nàng lâu, bởi Quốc vương hết mực sủng ái nàng, giờ đây nàng lại hạ quyết tâm tìm ra chân tướng cái chết của chàng công tử kia. Chuyện này mà đến tai Quốc vương, Hoàng hậu có thể bị truất ngôi. Đúng lúc này, nàng hạ sinh cho Quốc vương vị hoàng tử, Hoàng hậu liền sai người bỏ độc vào thuốc tẩm bổ. Nàng uống bát thuốc có thuốc độc, ngày hao gầy, ốm yếu, về sau ngã bệnh mà qua đời. Trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của chàng công tử nọ cho dân chúng được biết, nhưng kịp. Hoàng hậu nàng bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng, cấm người khác đến thăm, và còn ẵm mất Tiểu Hoàng tử mới chào đời…

                  Tôi thấy hồi hộp, bèn hỏi:

                  - Hoàng hậu còn muốn giết cả Tiểu Hoàng tử ư?

                  Sắc mặt Cố Tiểu Ngũ vẫn vậy, lắc đầu:

                  - Hoàng hậu giết Tiểu Hoàng tử, bà ta có con nên nuôi Hoàng tử trưởng thành, dạy dỗ Hoàng tử, vậy nên Tiểu Hoàng tử coi Hoàng hậu như mẹ ruột của mình, thế nhưng Tiểu Hoàng tử hề hay biết, mẹ ruột của mình chết dưới tay Hoàng hậu. Sau này Tiểu Hoàng tử mới biết chân tướng việc, nhưng chàng lực bất tòng tâm. Tuổi chàng còn , Hoàng hậu lại có thế lực trong tay. Tiểu Hoàng tử thắng được bà ta. Lúc này, Quốc vương cũng phân vân, bởi lẽ ông ấy chỉ có Tiểu Hoàng tử là con trai, mà còn có rất nhiều hoàng tử khác nữa. Quốc vương do dự, biết nên truyền ngôi cho ai. Trong khi những đứa con khác của ông vẫn ngầm ganh đua quyết liệt, bọn họ thừa biết Tiểu Hoàng tử phải do Hoàng hậu thân sinh, mà Hoàng hậu luôn canh cánh nỗi lo với Tiểu Hoàng tử… Nhưng cuối cùng, Quốc vương vẫn lập Tiểu Hoàng tử làm thái tử. Ở vương quốc ảo, chẳng có mấy vị Thái tử thọ quá tuổi ba mươi, bọn họ bị ám sát cũng bị vua cha phế truất, rồi bị giam cầm cho đến chết. Có Thái tử nuôi dã tâm soán ngôi, thẳng tay mưu sát vua cha… Có người thành công, song cũng có kẻ thất bại. Người thắng lên làm vua, sau cũng chết, kẻ bại trận giành được ngôi báu, tất phải chết… Đông cung thực chất là nơi đẫm máu…

                  Kể đến đó, Cố Tiểu Ngũ bỗng trở nên bần thần, tôi cũng chưng hửng nhìn , câu chuyện này chẳng thú vị gì cả, hay như đoạn đầu. Song hiểu vì sao, tôi hề ngắt lời Cố Tiểu Ngũ. dừng lúc rồi tiếp tục câu chuyện, giọng điệu như có gì:

                  - Mặc dù được làm thái tử, song cuộc sống của Tiểu Hoàng tử cũng chẳng tốt hơn là bao. Hoàng hậu đề phòng chàng, còn Quốc vương lại giao cho chàng câu đố rất khó giải. Quốc vương , con là thái tử, con nên làm tấm gương cho muôn dân trong thiên hạ noi theo, rồi Quốc vương phái Tiểu Hoàng tử đến nơi, giao cho chàng làm chuyện tưởng như cách nào giải quyết được…

                  - Tiểu Hoàng tử đáng thương! – Tôi . – Rốt cuộc Quốc vương muốn chàng ấy làm gì?

                  - Câu chuyện tới đây là hết. – Cố Tiểu Ngũ vỗ vào yên ngựa rồi lại buông mình nằm xuống, vẻ mặt khoan khoái. – Ngủ thôi!

                  Tôi bực mình nghĩ, kể chuyện chẳng đầu chẳng cuối gì cả, bảo người ta ngủ kiểu gì? Tôi :

                  - Ta có hỏi tại sao đâu, sao huynh kể nữa?

                  Cố Tiểu Ngũ :

                  - hết chuyện rồi chứ sao, hết rồi ta biết kể cái gì?

                  xoay người, quay lưng lại phía tôi. Tôi thấy vai co ro trong lớp da dê giữa trời đêm se lạnh, như thể ngủ rồi.

                  Tôi kéo tấm chăn da lên, che tới tận cằm, rúc người trong hơi ấm, thầm nghĩ, gã Cố Tiểu Ngũ trông thế mà vô tình, kể xong chuyện càng khiến người ta thấy ghét. Nhưng nhìn bộ dạng ngủ, tôi lại cảm thấy có vẻ gì đó đáng thương. Tiểu Hoàng tử trong câu chuyện kể có mẹ, cũng mồ côi mẹ từ tấm bé, những người có mẹ đều rất tội nghiệp. Cứ nghĩ tới việc, nếu chẳng may mẹ mình cũng qua đời sớm, tôi lại cầm được nước mắt.

                  Chắc tại tôi nghe câu chuyện kia trước lúc ngủ nên vừa thiu thiu ngủ, Tiểu Hoàng tử nọ theo cả vào trong giấc mơ. Cậu ta xíu, trông dáng vẻ chắc chỉ tầm ba, bốn tuổi, ngồi thu lu, khóc lóc như con thú bị thương. Nhớ có lần tuyết vừa rơi, trong bẫy săn có con cáo bị thương, con cáo ấy cũng co quắp thế này, nó ngước đôi mắt hoen ướt, đen láy nhìn tôi đầy cảnh giác, song cũng phảng phất nét sợ. Vai nó co ro, bất thình lình, nó giấu chiếc mõm nhọn hoắt xuống chân. Tuyết vẫn rơi, tôi thấy mủi lòng, cánh tay bất giác vươn ra toan kéo nó. Ngờ đâu khi vừa ngẩng lên, nó biến thành Cố Tiểu Ngũ. Tôi giật thót mình, lòng cứ thấy kỳ lạ, rồi choàng tỉnh. Lúc ấy trời gần sáng, bóng trăng xế, ánh sao lưa thưa, lửa trại lụi dần, sắc đêm thêm sậm… Hai nghìn kỵ binh thảo nguyên vẫn say giấc nồng, chỉ có lính tuần tra vẫn lại lại. Đám cỏ bên cạnh đẫm sương mai, có giọt xuống mặt, tôi liền lè lưỡi liếm, có vị ngòn ngọt, rồi tôi trở mình, tiếp tục giấc ngủ còn dang dở.

                  Sáng hôm sau, chúng tôi lại nhổ trại lên đường, thẳng tiến về hướng đông năm, sáu ngày liền, mãi mới gặp được quân tuần tra của Đột Quyết. Nghe lều của Đại Thiền vu ở gần đó, Hách Thất mừng rơn. Tôi cũng thấy vui mừng, sắp được gặp ông ngoại rồi. Hai nghìn quân Trung Nguyên hộ tống chúng tôi về lại thể dừng chân lãnh thổ Đột Quyết, họ lập tức cáo từ trở về.

                  Hách Thất rất kính nể đám người Trung Nguyên ấy, thậm chí còn khen họ có quân kỷ nghiêm minh, tác phong nhanh nhẹn, lúc lâm trận vô cùng dũng mãnh, đều là những hảo hán. Hách Thất tiễn bọn họ đoạn khá xa, tôi cũng theo chân tiễn đoàn quân Trung Nguyên về phía tây. Ráng chiều chói chang, Cố Tiểu Ngũ cúi đầu, nhắm mắt như ngủ gật, trông có vẻ uể oải, tôi :

                  - Này, huynh về rồi chuyển lời tới cha ta, bảo ta đến Đột Quyết bình an rồi nhé!

                  Cố Tiểu Ngũ :

                  - Nhưng cũng phải xem ta có về Vương thành buôn chè chứ!

                  Tôi :

                  - Huynh về bán chè , còn định lang thang đâu nữa?

                  cười, song trả lời tôi. Bấy giờ, đoàn quân Trung Nguyên được quãng xa, vẫy tay với tôi rồi rong ngựa đuổi theo.

                  Tôi giơ tay che trán, thảo nguyên bạt ngàn trải dài đến tận chân trời, mãi lâu sau vẫn trông thấy bắt kịp đoàn người, vẫy vẫy tay với chúng tôi. Cuối cùng đoàn quân xa tít tắp, trông theo chỉ còn đám bụi đất cuộn lên. Tôi dõi theo bóng lưng , chợt nhớ lại câu chuyện kể hôm qua, thấy buồn rười rượi, như vừa mất mát thứ gì.

                  Sau lưng bỗng có tiếng cười khì, tôi liền ngoảnh lại, ra là Hách Thất, huynh ấy ghìm cương ngựa đứng ngay đằng sau. Tôi thẹn quá hoá giận, liền hỏi:

                  - Huynh cười gì thế?

                  Hách Thất gật đầu rồi lại lắc lắc, cười, :

                  - Tiểu Công chúa, chúng ta mau về thôi!

                  Gặp ông ngoại tôi vui lắm, bao nhiêu phiền não đều quên sạch. Cả năm chưa gặp, ông ngoại càng cưng chiều, mặc tôi càn quấy, nhõng nhẽo. Cánh tay của Hách Thất bị thương, ông ngoại lo tôi gặp chuyện, liền sai tiểu muội của Hách Thất theo sát tôi mỗi ngày. Tiểu muội của Hách Thất trạc tuổi tôi, từ học võ nghệ, đao thuật vô cùng cao siêu. Tôi thích nhất mỗi lần gọi tên muội ấy.

                  - A Độ! A Độ ơi!

                  Nghe như tôi gọi chú chim non, bất kể tôi ở nơi nào, chỉ cần hô tiếng, muội ấy lập tức xuất trước mặt tôi.

                  Điều khiến tôi bất ngờ nhất là, vua Nguyệt Thị lại sai sứ thần đến, ngỏ lời nhờ ông ngoại tôi quyết định chuyện cưới xin. Ông ngoại mời sứ thần vào lều, chỉ phái người chuyển lời tới sứ thần của vua Nguyệt Thị:

                  - Tuy Tiểu Công chúa phải công chúa của Đột Quyết chúng tôi, song mẫu thân của Công chúa là con Đại Thiền vu. Tiểu Công cháu chính là cháu của người, Đại Thiền vu chỉ hy vọng Công chúa lấy được bậc hùng. Nếu Đức vua Nguyệt Thị có lòng muốn lấy Tiểu Công chúa, vậy mời Đức vua thân chinh tới trước cửa lều, so tài cùng dũng sĩ Đột Quyết chúng tôi. Chỉ cần ngài bắt được vua sói mắt trắng, Đại Thiền vu tức gả Tiểu Công chúa cho ngài. Đây là chỉ dụ của Đại Thiền vu, mà cha của Tiểu Công chúa, tức Quốc vương Tây Lương cũng bằng lòng với sắp đặt của Đại Thiền vu.

                  Sứ thần Nguyệt Thị gặp phải vố này, liền hậm hực bỏ về.

                  Chỉ dụ của Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt chẳng mấy chốc truyền khắp chốn thảo nguyên, ai biết, nếu muốn lấy Tiểu Công chúa Tây Lương, tất phải giết được vua sói mắt trắng. Nghe đồn bầy sói núi Thiên Hằng có hàng nghìn, hàng vạn con, song chúng chỉ tôn con sói mắt trắng duy nhất làm sói đầu đàn. Bầy sói ấy cũng như con người, chúng chỉ khuất phục vua chúa mạnh nhất. Con sói chúa ấy toàn thân đen sì, riêng mắt trái có quầng lông trắng xoá như màu sữa ngựa. Người ta nó rất hung tợn, gần như thành tinh. Bầy sói thảo nguyên vốn đáng gờm, song vua sói mắt trắng mới thực đáng sợ. Những tốp kỵ binh lẻ hoặc dân du mục mà gặp phải vua sói ắt mất mạng. Nó thường dẫn theo bầy phải đến hàng trăm con tấn công loài người, sau đó ăn thịt cả người lẫn ngựa. Chính bà ngoại kể cho tôi nghe câu chuyện này. dạo, tôi cứ ngỡ vua sói mắt trắng chỉ là truyền thuyết, xưa nay chưa ai tận mắt thấy nó, thế mà ai ai cũng thề thốt rằng núi Thiên Hằng quả thực có vua sói, nó thống lĩnh đàn mấy vạn con sói.

                  Vua Nguyệt Thị bị Đại Thiền vu khích, nghe đâu đích thân dẫn người lên núi Thiên Hằng tìm giết vua sói mắt trắng. Nếu lão giết được nó sao nhỉ? Tôi muốn lấy lão già ấy đâu. Nhưng làm gì có ai giết được vua sói mắt trắng. chỉ người Đột Quyết nghĩ vậy mà toàn bộ dân chúng thảo nguyên đều tự nhủ như thế. Đành rằng Vua Nguyệt Thị hùng hổ dẫn người lên núi cũng tìm ra vua sói cũng bởi có ai nhìn thấy con sói ấy đâu, nó chỉ tồn tại trong truyền thuyết mà thôi. Tôi cứ nghĩ vậy để tự an ủi, Vua Nguyệt Thị tuổi già sức yếu, núi Thiên Hằng rộng mấy trăm dặm, có nhiều thú dữ, chưa biết chừng lão ngã ngựa cũng nên, lão mà ngã ngựa chỉ có nằm chỗ, tôi cũng phải lấy lão.

                  Những ngày ở Đột Quyết, tôi ung dung, tự tại và vui vẻ hơn hẳn khi ở Tây Lương. Ngày ngày có A Độ ở bên, chúng tôi săn cũng bẫy chim. Con Đột Quyết thường lấy chồng sớm, A Độ lại tuổi cập kê, thỉnh thoảng có người đứng ngoài lều của muội ấy, hát suốt đêm khiến tôi khó ngủ. Thế mà chẳng ai đến hát ở lều của tôi, tôi tự nhủ, đám người ấy hẳn biết, muốn lấy tôi đồng nghĩa với việc phải giết được vua sói, đối với dũng sĩ thảo nguyên âu đó cũng là việc rất khó, chứ phải vì tôi xấu xí nên chẳng ai đến hát tỏ tình!

                  Hôm ấy, tôi thiu thiu ngủ trong lều, đột nhiên thấy bên ngoài nhốn nháo, ồn ào. Tôi trở mình bật dậy, gọi A Độ toáng lên. Muội ấy hớt hải vén cửa lều bước vào, tôi hỏi:

                  - Sao thế? Có chuyện gì à?

                  Trông mặt A Độ ngơ ngác, tôi nghĩ chắc muội ấy cũng như mình thôi, có biết gì đâu. Lúc ấy, người do ông ngoại sai đến khom lưng vái chào chúng tôi:

                  - Đại Thiền vu cho truyền Tiểu Công chúa đến trước lều.

                  Tôi sốt ruột hỏi:

                  - Sắp đánh nhau à?

                  Lần trước, sứ giả Nguyệt Thị mang bộ mặt sầm sì trở về, mà với tính cách của Vua Nguyệt Thị, đừng hòng lão chịu để yên. Vua Nguyệt Thị bị khích tìm vua sói mắt trắng, song có ai tìm được vua sói đâu. Hiển nhiên, đó chỉ là cái tròng của Đại Thiền vu, người ông thương tôi nhất, dành cho Vua Nguyệt Thị. Nếu Vua Nguyệt Thị giận quá hoá thẹn, chưa biết chừng còn đánh nhau với Đột Quyết cũng nên. Lần này, Nguyệt Thị động binh với Đột Quyết, đối với toàn Tây Vực mà , chẳng phải chuyện đùa. Tuy Đột Quyết là cường quốc mạnh nhất Tây Vực, là nước có thế lực chiếm giữ phía bắc sa mạc, cực đông của lãnh thổ trải dài đến tận ven biển, song Nguyệt Thị cũng là nước lớn nhất, nhì Tây Vực, dẫu cường thịnh bằng Đột Quyết nhưng thực lực cũng phải vừa. Huống hồ trong mười mấy năm thanh bình vừa qua, Tây Vực thông suốt con đường thương mại khiến thành thị ngày sầm uất. Cũng như Tây Lương chúng tôi, nếu có con đường thông thương buôn bán, ắt chẳng được phồn vinh như ngày nay. Nếu xảy ra chiến tranh, có lẽ khó mà xây dựng lại được tất cả.

                  Tôi kéo A Độ, vội vã chạy sang lều của ông ngoại. Trướng lớn của Đại Thiền vu hay còn gọi là lều chúa, được dựng từ nhiều tấm da bò, thêu chi chít hoa văn gam màu tươi tắn, bức hoành trắng muốt treo trước cửa đề chữ cầu may. Dưới nắng thu, nét chữ dát vàng chói mắt, đến nỗi chẳng ai dám ngước nhìn. Đôi câu chữ óng ánh đổ bóng xuống nền đất như thỉnh cầu phù hộ của các chư thần thiên đình. Dưới ánh nắng chói chang, tôi nheo mắt nhìn bóng dáng ai vừa quen thuộc, gần gũi vừa xa lạ, bỡ ngỡ đứng trước lều. Tuy vận người trang phục của dân Tây Lương, song chẳng giống người Tây Lương chút nào. ngoảnh đầu cười với tôi, quả nhiên là người Trung Nguyên chứ phải người Tây Lương.

                  chính là gã lái buôn Cố Tiểu Ngũ.

                  Tôi buột miệng hỏi:

                  - Huynh đến đây làm gì thế?

                  - Cưới muội.

                  Tôi nghệt mặt nhìn , lúc lâu sau mới cười, :

                  - Này, huynh đến đây buôn chè đấy à?

                  Thay vì trả lời, Cố Tiểu Ngũ chậm rãi giơ mũi chân hẩy hẩy thứ gì đó dưới đất.

                  Tôi kinh hãi khi trông thấy thứ ấy, suýt rớt cả cằm.

                  con sói đen trũi, kích thước xem chừng phải gấp đôi những con sói hoang bình thường, dù xác cứng đờ, song con ngươi vẫn trợn trừng như muốn nhảy bổ tới, xé xác ai đó. Duy nhất có chòm lông quanh mắt trái là trắng muốt như màu sữa ngựa. Tôi dụi mắt, sững sờ lúc, rồi khuỵu xuống, nhổ sợi lông mắt trái của con sói. Sợi lông trắng muốt, chắc chắn phải nhuộm, mà đích thực là màu lông vốn có của nó.

                  Tầng lớp quý tộc Đột Quyết tụ tập đông đủ trước lều chúa, lặng lẽ nhìn xác con sói to lớn này. Có đứa mạnh dạn tiến lên, bắt chước tôi nhổ sợi lông mắt trái con sói, nó soi dưới ánh mặt trời rồi gào tướng lên:

                  - Màu trắng! Màu trắng này!

                  Giọng bọn trẻ líu lo khiến tôi thêm bồn chồn. Tiếng ông ngoại xuyên qua đám người:

                  - Bất kể có phải người Đột Quyết hay , tất là dũng sĩ.

                  Mọi người nhao nhao nhường đường cho Đại Thiền vu. Ông ngoại thong dong bước lại gần, đảo mắt trông xác con sói rồi gật gù, quay sang Cố Tiểu Ngũ và :

                  - Giỏi lắm!

                  Được Đại Thiền vu khen câu có khi còn khó hơn tuyết đỉnh Thiên Hằng tan chảy. Có điều, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, trong khi chính Đại Thiền vu tuyên bố, ai giết được vua sói, gả tôi cho người ấy.

                  Chưa bao giờ tôi nghĩ người đó lại là Cố Tiểu Ngũ. Tôi lẵng nhẵng theo sau , gặng hỏi giết vua sói mắt trắng bằng cách nào.

                  chỉ bâng quơ:

                  - Dọc đường dẫn đội buôn chè, tình cờ gặp bầy sói, rồi ta đánh chết con sói đó.

                  Tôi khẽ nhếch mép, làm sao mà tin được lời chứ? Nghe Vua Nguyệt Thị dẫn ba vạn kỵ binh lên núi Thiên Hằng cũng có tìm thấy cọng lông nào của vua sói đâu, mà Cố Tiểu Ngũ chỉ tình cờ buôn chè lại giết được vua sói à?

                  Có đánh chết tôi cũng tin!

                  Nhưng vì Đại Thiền vu hứa ắt phải giữ lời, tức có vài người Đột Quyết xôn xao bàn tán, xem ra gã buôn chè người Trung Nguyên kia sắp lấy Công chúa Tây Lương rồi. Cố Tiểu Ngũ được xem như hùng cái thế, song tôi vẫn có cảm giác giở trò bịp bợm. Rồi hôm đó, Hách Thất ngà ngà say và lời qua tiếng lại với , hai người bọn họ đòi so tài phen.

                  Bọn họ thi thố cũng chán, chẳng hiểu thế nào lại kéo nhau ra thảo nguyên bắn dơi, ai bắn được nhiều hơn người ấy thắng.

                  Chỉ có những kẻ từng bắn dơi mới hiểu, bắn dơi khó thế nào.

                  Dân chúng Đột Quyết đều đinh ninh phần thắng chắc chắn thuộc về Hách Thất, song họ vẫn đánh cược lần xem sao. Bản thân tôi cũng nghĩ Hách Thất thắng, tuy tay phải của huynh ấy chưa lành hẳn những dù là dùng tay trái cũng chẳng ai ở Đột Quyết này bì được tài bắn cung như thần của huynh ấy.

                  Tin tức về cuộc so tài chỉ trong nửa ngày trời truyền khắp nơi. Người ta bảo Hách Thất muốn lấy tôi, dẫu sao huynh ấy cũng là võ sĩ lợi hại nhất dưới trướng Đại Thiền vu, chưa biết chừng sau này còn là tướng quân dũng mãnh nhất của Đại Thiền vu. Còn tôi, tuy là công chúa Tây Lương nhưng ai chẳng biết Đại Thiền vu thương tôi nhất, Hách Thất lấy tôi, Đại Thiền vu ắt càng tín nhiệm huynh ấy.

                  Song tôi vẫn tự nhủ, Hách Thất suy nghĩ kỳ quái thế đâu, tôi đoán có thể do A Độ kể với huynh ấy rằng tôi muốn lấy Cố Tiểu Ngũ.

                  Tôi lờ mờ nhận ra rằng, Cố Tiểu Ngũ phải loại thương nhân tầm thường, nhưng tôi vẫn mong mình phải lấy chồng sớm.

                  Chủ tế của Đột Quyết xướng bài hát ca ngợi rồi máu dê vào bát rượu, sau đó đưa bát rượu cho hai vị hùng sắp tranh tài, bọn họ dốc hơi cạn bát rượu. Tối nay, hai người bọn họ quyết phân tài cao thấp. Hách Thất vốn là người hùng nổi danh khắp Đột Quyết, còn Cố Tiểu Ngũ nhờ chiến công giết được vua sói mắt trắng nên nhiều người Đột Quyết cũng coi như hùng. Hai người họ thi thố phen này khiến dân chúng xôn xao, mà chính tôi cũng thấy khó xử vì mình mong kết quả thắng nghiên về bên nào…

                  Nếu Cố Tiểu Ngũ thắng, chẳng lẽ tôi phải lấy sao?

                  Còn nếu Hách Thất thắng sao? Lẽ nào tôi phải lấy Hách Thất?

                  Tôi giật thót mình khi nghĩ vậy. Hách Thất chỉ thay tôi răn đe Cố Tiểu Ngũ, cho chừa cái lối vênh váo mà thôi, giống mấy tên con trai hay đứng hát nghêu ngao ngoài lều của A Độ, nếu bọn chúng ầm ĩ quá, Hách Thất có cách bắt chúng phải im lặng ngay tức khắc. Tôi nghĩ chuyện này cũng tương tự như vậy, việc Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói khiến ai nấy đều cảm thấy khó tin. còn tỏ vẻ chẳng hề bận tâm, ngang nhiên với ông ngoại rằng muốn cưới tôi, vậy nên Hách Thất mới nghĩ cách để trị .

                  Cuộc so tài đến tai Đại Thiền vu, ông phấn chấn muốn tận mắt đến xem họ thi đấu. Tôi bồn chồn, đứng ngồi yên, bèn theo sau ông ngoại, cùng đám người lúc nào cũng tò mò ra bờ sông. Võ sĩ dưới trướng Đại Thiền vu mang tên đến, chia đều thành hai ống đặt dưới chân hai người. Hách Thất cầm cung tên của mình, thấy tay Cố Tiểu Ngũ trống , bèn :

                  - Đệ lấy cung tên của ta mà dùng!

                  Cố Tiểu Ngũ gật đầu. Đại Thiền vu cười, :

                  - Nơi Đột Quyết ta đóng quân, chẳng lẽ lại có nổi cây cung?

                  Đại Thiền vu ban cây cung sắt của mình cho Cố Tiểu Ngũ, tôi thấy lúng túng thay . Cây cung sắt kia nặng hơn hẳn loại cung bình thường, trông thư sinh, yếu ớt thế kia, chỉ e khó mà giương được cung. Mà hình như Hách Thất cũng nghĩ vậy, huynh ấy muốn xử ép Cố Tiểu Ngũ, liền bẩm với Đại Thiền vu:

                  - Xin Đại Thiền vu ban cây cung này cho thần, còn để Cố Tiểu Ngũ dùng cây cung của thần.

                  Đại Thiền vu lắc đầu, phán rằng:

                  - giương nổi cây cung này gì đến chuyện lấy cháu ta.

                  Đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, bọn họ vẫn tỏ vẻ khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc dây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như thể gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng quanh đó phá lên cười. Trông Cố Tiểu Ngũ trắng trẻo, thư sinh, chẳng khác nào đám nhạc công người Trung Nguyên mà những quý tộc Đột Quyết thường mua về, giờ lại gảy dây cung khiến người Đột Quyết càng khinh thường.

                  Sắc trời dần tối, khoảng ven sông chi chít dơi bay lượn. Đại Thiền vu gật đầu, tuyên bố:

                  - Bắt đầu !

                  Bên cạnh Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ sắp sẵn trăm mũi tên, ai bắn được trăm con dơi trước, người ấy thắng. Hách Thất giương cung đầu tên, tuy dùng tay trái song trăm phát trúng cả trăm, trong chốc lắt thấy dơi bây trời bỗng rơi lả tả. Về phần Cố Tiểu Ngũ, vẫn thong thả, rút năm mũi tên, từ từ căng dây cung.

                  Tôi thốt lên:

                  - Cố Tiểu Ngũ!

                  Tuy biết có rành bắn cung hay , nhưng cũng phải hiểu dây cung chỉ được căng từng mũi thôi chứ! Cố Tiểu Ngũ ngoảnh lại, mỉm cười với tôi rồi kéo dây cung.

                  , tôi vô cùng ngạc nhiên, căng dây cung cách nhàng, những vậy, còn bắn lúc năm phát tên lao vút như sao băng, mũi sau nối đuôi mũi trước, khiến đám người xung quanh khỏi trầm trồ kinh ngạc.

                  - Tên liên hoàn! Tên liên hoàn kìa!

                  Mấy tay quý tộc Đột Quyết sửng sốt thốt lên, thậm chí Đại Thiền vu cũng phải gật gù. Ở Trung Nguyên có vị đại tướng sử dụng ngón sở trường là tên liên hoàn, trong trận giao tranh với Đột Quyết trước đây, ngón tên liên hoàn ấy hạ gục được Tả Đồ Kỳ vương. Nhưng cũng chỉ là truyền miệng thế thôi, chứ mười mấy năm nay, quý tộc Đột Quyết chưa thấy tên liên hoàn bao giờ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại thành thục bắn liên tục mấy phát tên liên hoàn, đám dơi bay nháo nhác cũng tránh khỏi loạt tên của , rơi lộp bộp như mưa rào. Tuy Hách Thất bắn tên rất nhanh, song vẫn bì được với , chỉ trong chốc lát mà Cố Tiểu Ngũ giải quyết hết trăm mũi tên. Đám nô lệ thu gom số dơi, chất thành đống bên bờ sông, trăm con dơi trông chẳng khác nào trăm bông hoa đen đúa, quái dị.

                  Hách Thất cũng bắn được trăm con, nhưng so với Cố Tiểu Ngũ chậm hơn. Sắc mặt Hách Thất vẫn bình tĩnh, huynh ấy :

                  - Ta thua rồi!

                  Cố Tiểu Ngũ :

                  - Nhờ cây cung tốt nên tôi mới bắn được chuỗi liên hoàn vừa rồi, nếu dùng cây cung của huynh, chắc chắn chậm hơn. Vả lại, tay phải của huynh vẫn chưa lành hẳn, phải dùng đến tay trái, nếu bảo trận này tôi thắng huynh cũng chẳng vinh quang gì. Hai chúng ta ai thua ai cả. Huynh là dũng sĩ chân chính, nếu cánh tay bị thương, tôi sao có thể đọ nổi!

                  Kỹ thuật bắn cung của Cố Tiểu Ngũ làm tất cả mọi người dao động, thấy khiêm tốn, điềm đạm, đám người kia càng khỏi trầm trồ khen ngợi. Người Đột Quyết vốn cởi mở, ngay thẳng, sòng phẳng. Người như Cố Tiểu Ngũ xem ra rất hợp với tính khí của người Đột Quyết. Đại Thiền vu cười sang sảng:

                  - Khá lắm, dũng sĩ Đột Quyết của chúng ta hề thua.

                  Ông nhìn Cố Tiểu Ngũ rồi :

                  - Này người Trung Nguyên kia, xem, ngươi muốn được ban thưởng thứ gì?

                  - Bẩm Đại Thiền vu, ngài ban cho tiểu nhân thứ quý giá nhất rồi ạ! – Cố Tiểu Ngũ tủm tỉm cười. – đời này, còn gì quý báu hơn Tiểu Công chúa của ngài?

                  Đại Thiền vu phá lên cười, những quý tộc Đột Quyết khác cũng phấn khởi ra mặt, xem ra vụ cưới xin này chắc như đinh đóng cột rồi.

                  Thầy cúng chọn ngày lành, nhân lúc tiết thu mát dịu để cử hành hôn lễ của chúng tôi. Tôi vẫn còn đắn đo, lén hỏi A Độ:

                  - Theo muội, ta có nên lấy ?

                  A Độ nhìn tôi bằng đôi mắt đen láy luôn đong đầy vẻ điềm đạm, trầm tĩnh. Chính tôi cũng nữa, cuối cùng, tôi mạnh dạn hẹn Cố Tiểu Ngũ ra bờ sông.

                  Tôi biết phải sao, song tôi luôn cảm thấy bất an nếu phải lấy trong tình trạng lơ mơ thế này.


    4. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961

      justify;" align="Chương 11





                  Buổi tối mùa thu, gió lướt qua phả hơi mát lạnh, tôi quấn chặt chiếc áo choàng da, thẫn thờ ngoài bờ sông, nghe dòng nước đổ tiếng róc rách, từ xa xa vọng lại tiếng chim nhạn gọi bầy. Tôi ngẩng đầu ngó quanh, đằng tây nhô cao chòm sao sáng, sắc trời tím sẫm như tảng thạch nho.

                  Có tiếng gió lùa xào xạc trong đám cỏ tranh, Cố Tiểu Ngũ đạp lên bụi cỏ, tiến về phía tôi.

                  Tôi bỗng thấy hốt hoảng. Cố Tiểu Ngũ mặc áo của dân tộc Đột Quyết, thắt lưng dắt con dao nom như người Đột Quyết thực thụ. Cố Tiểu Ngũ những thạo cung nỏ mà còn thuần thục tiếng Đột Quyết, mấy hôm nay, chiếm được cảm tình của Đại Thiền vu. Tuy Cố Tiểu Ngũ là người Trung Nguyên nhưng Đại Thiền vu ngày càng tín nhiệm , thậm chí còn ban cung sắt của người cho . Bên cạnh đó, kể từ buổi so tài nọ, dường như Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ kết tình huynh đệ. Cố Tiểu Ngũ dạy Hách Thất bắn tên liên hoàn, còn Hách Thất chỉ bảo cho vài kinh nghiệm sống thảo nguyên. Mỗi lần gặp bọn họ sánh vai bên nhau, Đại Thiền vu lại gật đầu hài lòng. Đổi dao chính là nghi thức kết nghĩa của người Đột Quyết nên Hách Thất đổi dao với Cố Tiểu Ngũ. chiến trường, em kết nghĩa còn thân thiết hơn cả em ruột thịt, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì nhau. Chẳng trách dao dắt bên thắt lưng Cố Tiểu Ngũ chính là dao của Hách Thất, thoạt nhìn tôi liền nhớ tới lần Hách Thất dúi nó vào tay tôi, giục tôi chạy trước.

                  Nhác trông thấy tôi từ xa, Cố Tiểu Ngũ liền nhoẻn miệng cười, tôi cũng mỉm cười đáp lại. Trông vẻ mặt tươi rói, tôi cũng thấy bình tĩnh hơn. Tuy tôi gì, cũng lên tiếng, song ắt hiểu vì sao tôi hẹn ra đây. Quả nhiên :

                  - Ta mang cho muội cái này.

                  Tim tôi đập như trống dồn, phải thắt lưng đấy chứ? Giả sử bây giờ tặng thắt lưng của cho tôi, tôi nên trả lời thế nào nhỉ? Theo phong tục Đột Quyết và Tây Lương, người con trai hát xong mới trao thắt lưng… còn chưa hát cơ mà! Tôi thẹn thùng, trái tim đập rộn ràng, thế mà lại :

                  - Buổi tối chắc muội chưa ăn no đúng ? Ta đem cho muội miếng sườn dê nướng to đây!

                  Tôi há miệng, trợn mắt, bỗng cảm thấy tức nghẹn họng, mãi sau mới được câu:

                  - Có huynh chưa ăn no ấy!

                  Cố Tiểu Ngũ ngơ ngác :

                  - Dĩ nhiên ta ăn no rồi… Ta thấy tối nay muội chưa ăn gì nên mới mang sườn dê cho muội chứ!

                  Tôi hậm hực lên tiếng, trong gian chỉ lảnh lót tiếng của loài chim nào đó vọng lại từ đằng xa. Dòng nước vẫn róc rách chảy, cá dưới sông quẫy tưng bừng, làm bọt nước bắn lên. Miếng sườn dê thơm phức của Cố Tiểu Ngũ đặt ngay trước mặt tôi, quả thực buổi tối tôi chưa ăn gì, vì bụng dạ chỉ nghĩ tới chuyện chốc nữa hẹn nên thiết ăn. Giờ trông miếng sườn dê thơm phức này, bụng tôi sôi ùng ục. bật cười, đưa con dao cho tôi, :

                  - Ăn nào!

                  Sườn dê ngon quá mất! Miệng tôi bóng mỡ, tôi hớn hở hỏi :

                  - Sao huynh biết ta thích ăn sườn dê?

                  Cố Tiểu Ngũ câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi nghe chẳng hiểu, lại với tôi bằng tiếng Đột Quyết, ra là:

                  - có việc gì khó, chỉ sợ người có lòng.

                  Lần đầu tiên tôi nghe thấy câu ấy, chẳng hiểu sao lại khẽ chột dạ. Người như thế nào được gọi là có lòng nhỉ? Tuy tôi và Cố Tiểu Ngũ quen nhau chưa lâu, nhưng tôi luôn có cảm giác mình biết từ lâu lắm rồi. Chắc bởi giữa chúng tôi từng xảy ra rất nhiều chuyện, lần nào cũng ra tay giúp đỡ, bảo vệ tôi. Mặc dù toàn những lời khiến tôi bực bội, nhưng nghe câu vừa rồi, tôi lại hề tức giận. Chúng tôi lặng lẽ ngồi bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát của người Đột Quyết, đó là bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có chàng dũng sĩ Đột Quyết đứng ngoài cửa lều của người con mình , nhờ lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm thầm kín tận đáy lòng với người ấy.

                  Trước đây, tôi nhận ra giọng hát ấy lại vào lòng người đến thế, nó thoắt , thoắt như tiên khúc. Bầy đom đóm rập rờn quanh những bụi cỏ mọc ven sông, từng đốm chợt sáng rồi chợt tắt, giống những ngôi sao băng, hoặc tựa như nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, bầy đom đóm lập loè ấy chính là sứ giả nhà trời, họ cầm những chiếc đèn lồng xíu, nhóm lên những đốm lửa lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó rải rác những ánh lửa li ti, tiếng cười vui như xa cách cả tầng mây. Tôi chợt nghĩ, nếu thần tiên nhìn xuống trần gian từ trời cao, chắc cũng có chung cảm giác này? Cũng phiêu diêu, cũng hư ảo, cũng mơ hồ và xa xăm…

                  Cuối cùng, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:

                  - Tóm lại huynh có thực lòng muốn lấy ta ?

                  Cố Tiểu Ngũ có vẻ hơi bất ngờ, liếc nhìn tôi rồi :

                  - Đương nhiên ta muốn!

                  - Nhưng tính cách của ta tốt đẹp gì, vả lại huynh là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê… Huynh tiếng Trung Nguyên ta nghe hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà huynh ta cũng . Nếu bảo huynh ở lại Tây Lương, nơi cách Trung Nguyên đến hàng nghìn dặm, chắc chắn huynh rất nhớ nhà. Còn giả sử huynh muốn ở Tây Lương mà về Trung Nguyên ta rất nhớ nhà. Đành rằng huynh giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc là vì ta. Huynh cũng rồi đấy thôi, chẳng qua là tình cờ đường buôn chè… Tuy ta còn nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép buộc…

                  Tôi tuôn lèo ngừng nghỉ, từ lúc quen nhau tới giờ, những gì phiền phức tôi đều hết, đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt miếng sườn dê xuống, uống ngụm nước, mới :

                  - nãy giờ mà toàn những chuyện chẳng liên quan gì! Ta chỉ hỏi muội, rốt cuộc muội có bằng lòng lấy ta ?

                  Nước trong miệng suýt nữa phun ra ngoài, tôi trừng mắt nhìn hồi lâu, mặt bỗng nóng bừng:

                  - Bằng lòng hay … ơ…

                  - ! – Cố Tiểu Ngũ giục – Tóm lại muội có bằng lòng ?

                  Lòng tôi rối bời. Mấy hôm nay, mọi thứ như hư ảo, như mộng mị, nhiều việc xảy ra chớp nhoáng. Tôi thực chưa từng nghĩ mình lấy chồng sớm thế này. Hơn nữa, thoạt đầu tôi thấy gã Cố Tiểu Ngũ này đáng ghét, còn bây giờ lại thể nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào, nhìn những con đom đóm lập loè giữa khoảng , tôi hạ quyết tâm, :

                  - Vậy huynh bắt cho ta trăm con đom đóm, ta bằng lòng lấy huynh.

                  Dứt lời, Cố Tiểu Ngũ liền đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn chẳng khác nào chú nhóc nghịch ngợm, vươn tay tung cú lộn nhào. nhảy vọt lên, như ngôi sao… , giống sao băng, trông như sắp lao thẳng xuống bãi sông. Sau cái khua tay bất ngờ, chụp được mấy con đom đóm, chúng toả sáng lập loè giữa những kẽ tay. Tôi đùm vạt áo, cuống quýt :

                  - Mau lên! Mau lên!

                  thả đom đóm vào cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo rồi lại nhảy lên lần nữa. Võ công của người Trung Nguyên giống như bức tranh, hoặc bài thơ phóng khoáng. Nhất cử nhất động của Cố Tiểu Ngũ như nhảy múa, đời này chẳng có điệu múa nào khí khái, hào hùng đến thế. tung người giữa trung, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đom đóm thoắt thoắt . Ống tay áo khẽ gợn theo làn gió, tôi chỉ hướng cho :

                  - Bên trái kìa! Bên phải có nhiều lắm!

                  - Ối!

                  - Nó chạy mất rồi! Bên kia! Trời ơi, đằng kia kìa!

                  …

                  Tiếng cười của chúng tôi dạt đến tận bờ sông bên kia. Bầy đom đóm gom trong vạt áo mỗi lúc nhiều. Chúng chụm lại, cùng toả ánh hào quang như thể trong lòng tôi có cả vầng trăng rằm. Bầy đom đóm bên bờ sông dạt mất, có những con bị Cố Tiểu Ngũ vơ gọn, đặt vào lòng tôi.

                  - Đủ trăm con chưa?

                  tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài khẽ kéo vạt áo.

                  - Có cần đếm ?

                  Đếm được khoảng mười mấy con, tôi nhận ra người Cố Tiểu Ngũ bỗng thoang thoảng làn hương mát lành, dịu , mùi hương ấy người Đột Quyết và cả người Tây Lương đều có, nó chờn vờn khiến tôi mất tự nhiên, mặt nóng bừng, đứng quá gần. Bỗng đâu có trận gió thổi đến, đưa sợi tóc của phe phẩy mặt tôi, , mềm mà rộn rạo… Tay nâng vạt áo bỗng buông lỏng khiến bầy đom đóm chen nhau bay vụt , tản vào gian như những ngôi sao băng xíu rồi vây quanh chúng tôi. Ánh sáng rạng rỡ chiếu lên khuôn mặt chúng tôi, tôi thấy đôi mắt đen láy của chàng nhìn mình say đắm. Chợt nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều của A Độ, bọn họ nhìn A Độ bằng ánh mắt nóng bỏng, khiến người ta phải mủi lòng. Nhưng ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ điềm đạm hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, lòng tôi khẽ xốn xang. Ánh mắt chúng tôi giao nhau, Cố Tiểu Ngũ chợt thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn những con đom đóm bay trong trung, :

                  - Bay mất rồi!

                  Tôi bất giác :

                  - Giống sao băng nhỉ?

                  cười rộ lên:

                  - Sao băng kìa!

                  Đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Tình này, cảnh này tựa như mơ. Tôi nghĩ mình vĩnh viễn thể nào quên được buổi tối bên bờ sông hôm ấy, hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt toả khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này chăng?

                  Đại Thiền vu sai sứ giả về bẩm báo với cha tôi, ông chọn được đứa cháu rể, chính là Cố Tiểu Ngũ. Cha tôi tiến thoái lưỡng nan giữa Nguyệt Thị và Trung Nguyên, nghe vậy, người liền viết thư hồi , kính mong ông ngoại đứng ra làm chủ hôn cho tôi. Thư trả lời của cha đến nơi cũng là lúc hôn lễ cử hành.

                  Tục cưới hỏi của người Đột Quyết đơn giản những cũng kém phần long trọng, doanh trại quây quần giết mổ bao nhiêu là cừu, gió đưa hương rượu nồng thoảng hương tới muôn nơi. Mấy ngày qua, Cố Tiểu Ngũ kết thân với những quý tộc của Đột Quyết. Người Đột Quyết vốn tôn sùng những bậc hùng, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau đó lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng là vị hùng trẻ tuổi. Thầy tế hát bài ca mừng vui, chúng tôi sánh bước bên nhau, tiến về phía thầy tế đài cao. Đúng lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập, tên lính tất tả chạy đến nơi Đại Thiền vu ngồi.

                  Qua đám đông hyên náo, tôi thấy Đại Thiền vu cau mày, bất chấp thầy tế cao giọng lời ca tụng, tôi chạy như bay đến chỗ ông ngoại:

                  - Ông ơi!

                  Đại Thiền vu xoa đầu tôi, mỉm cười :

                  - có gì đâu, Vua Nguyệt Thị cử người đến mắng vốn thôi, ông sai lính đuổi cổ chúng.

                  biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ xuất ngay sau lưng tôi. Chàng khom người hành lễ theo kiểu của người Đột Quyết:

                  - Bẩm Đại Thiền vu, xin cho cháu được ra trận.

                  - Cháu? – Đại Thiền vu ngước nhìn chàng. – Vua Nguyệt Thị có năm vạn quân đấy.

                  Hơn nữa, Vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường. Cố Tiểu Ngũ tuy thạo cung nỏ nhưng phải đối mặt với hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông đến mấy cũng chẳng ích gì.

                  Cố Tiểu Ngũ :

                  - Đại Thiền vu có thể dụng kế “dĩ dật đãi lao” [1] nghênh địch chỉ bằng ba vạn kỵ binh. Nếu Đại Thiền vu vẫn yên tâm, xin ngài cử viên tướng cùng, cháu áp sát thế trận, nếu có thể bắn lén từ phía sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị trở nên hỗn loạn, âu cũng góp được chút công mọn.

                  [1] Dĩ dật đãi lao: tức lấy an nhàn để đối phó với mệt mỏi. kế trong ba mươi sáu kế.

                  Đại Thiền vu vẫn do dự, Hách Thất liền bẩm:

                  - Binh pháp Trung Nguyên rất khá, đường , chính bọn họ cầm quân đánh bại quân Nguyệt Thị.

                  Sau đó Đại Thiền vu bèn gật đầu, với Cố Tiểu Ngũ:

                  - , rồi đem đầu của thủ lĩnh Nguyệt Thị về đây, làm tế phẩm dâng lên thánh thần trong hôn lễ của các cháu.

                  Cố Tiểu Ngũ quỳ lạy theo lễ nghi của người Trung Nguyên rồi thưa:

                  - Mong trời đất phù hộ Đại Thiền vu!

                  Chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi :

                  - Ta rồi về.

                  Lòng tôi bộn bề lo lắng, đưa mắt dõi nhìn chàng quay người bước . Tôi vội vã đuổi theo, tháo dây lưng của mình thắt lên eo chàng.

                  Theo nghi thức thành hôn, tân lang, tân nương trao nhau dải thắt lưng và hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng trao tôi, nhưng đám nô tài dẫn ngựa đến, để tôi kịp với chàng vài câu. Vừa leo lên ngựa chàng vừa với tôi:

                  - Ta rồi về.

                  Tôi níu tay áo chàng, bịn rịn nỡ rời xa. Trong lòng tôi bỗng vấn vương nhiều chuyện cũ, tôi nhớ ba ngày ba đêm tôi ngồi đợi cồn cát vì chàng trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; tôi nhớ chàng giết vua sói mắt trắng và thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông… Từ dạo ấy, tôi dặn lòng, tôi và chàng mãi mãi bên nhau… Vậy mà giờ đây, chàng sắp ra trận, tôi kìm được nỗi niềm vấn vương.

                  Hình như chàng thấy ánh nhìn của tôi, liền nở nụ cười, cúi người vuốt ve má tôi. Những ngón tay ấm áp, phải tay cha, cũng giống tay ông ngoại, mà giống tay mẹ. Tôi chợt nghĩ chàng tinh thông cung nỏ là thế, sao bàn tay chàng lại chẳng có lấy vết chai?

                  Tôi nghĩ lại vài chuyện vụn vặt chàng rụt tay về, cả đội ba vạn quân chuẩn bị xong xuôi. Vị tướng quân mà Đại Thiền vu phái là ca ca bên họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền vu. Y Mạc Diên cười, bảo tôi:

                  - Tiểu muội yên tâm, ta chăm sóc đệ ấy chu đáo.

                  Người Đột Quyết xưa nay quen chinh chiến, chuyện xông pha nơi chiến trường với họ chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý ca ca Y Mạc Diên lắm, cũng bởi lúc huynh ấy thường dẫn tôi săn, huynh ấy hết mực thương tôi, chúng tôi như huynh muội ruột thịt. Tôi dõng dạc :

                  - Ai cần huynh chăm sóc chàng chứ? Huynh cứ lo thân mình , muội đợi huynh về uống rượu mừng đấy!

                  Ai nấy đều cười, tíu tít :

                  - Tiểu Công chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi mang thủ cấp của tướng Nguyệt Thị về.

                  Cố Tiểu Ngũ cưỡi ngựa theo sau cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của người Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt. Thấy tôi dáo dác tìm chàng trong đám đông, chàng liền nhoẻn cười, giơ tay lên vẫy. Tôi trông dây lưng thắt eo chàng, đai lưng của tôi quấn quanh đai lưng chàng, vừa rồi tôi thắt vội, băn khoăn biết lát nữa nó có tuột ra , dây lưng mà bị tuột xui xẻo lắm… Nhưng đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, tiếng vó ngựa rầm rập cuốn theo bụi mù, tràn xuống thảo nguyên như cơn triều cường, chẳng mấy chốc cách xa tận chân trời.

                  Thấy tôi tiu nghỉu đứng mãi ở đó, A Độ bèn dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết muội ấy an ủi tôi, rằng chỉ lát nữa thôi chàng trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến năm vạn quân, song đám lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn mệt mỏi rã rời, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết chọi mười, ba vạn là đủ để nghênh chiến, huống hồ lều chúa còn đây, mười vạn quân luôn sẵn sàng tiếp ứng bất cứ lúc nào.

                  Dê nướng vàng ruộm lửa, đám nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, khắp nơi rộn rã tiếng cười. Hẳn người ta đều cho rằng, chỉ lát nữa thôi, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết hát khúc ca khải hoàn đường trở về. Lòng tôi canh cánh lúc biệt ly, mặt mày nóng bừng như phát sốt. Y Mạc Diên về mà thấy, biết trêu chọc gì tôi nữa đây? Hẳn huynh ấy tôi nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Y Mạc Diên như người đứng dầu, hội thi hát tối nay, đám người ấy thế nào cũng ngâm nga trêu đùa. Lòng tôi nao nao muộn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ biết hát, chàng về, tôi nhất định phải với chàng, kẻo khi đó lại biết giấu mặt vào đâu.

                  Nhưng tôi hề hay biết, chuyến này, họ ra và vĩnh viễn bao giờ trở lại.

                  Nhiều năm sau, tôi xem sách sử của Trung Nguyên ghi chép lại chuyện này, chỉ sơ sài dăm ba câu: “Tháng Bảy, Thái tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt của Đột Quyết hung hãn chịu hàng, bỏ mạng trong cảnh loạn lạc. Đột Quyết bị giết cả thảy hơn hai mươi vạn người, cả tộc bị diệt vong.”

                  Tôi chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, vết đao kiếm chằng chịt người, máu tuôn xối xả. Huynh ấy gắng sức đưa tôi và A Độ lên con ngựa, trăng trối câu cuối cùng:

                  - A Độ, nhớ chăm sóc Công chúa!

                  Tôi trông trận mưa tên ào ào bắn tới, chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh có buông tay, hẳn sao trời từ tay người rớt xuống cũng thế này chăng…? A Độ gồng mình quất ngựa đưa tôi chạy trốn, chúng tôi mải miết chạy. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề là thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân của Trung Nguyên và Nguyệt Thị như vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song thể địch nổi sức tiến công của chúng… Biết bao người ngã xuống sau lưng chúng tôi, máu bắn lên khắp mình mẩy. Nếu có Hách Thất, chúng tôi thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng. Tôi và A Độ rong ruổi thảo nguyên tròn sáu ngày sáu đêm rồi bị toán lính bắt kịp.

                  Chân tôi bị thương, người A Độ cũng nhiều vết xước, thế mà muội ấy vẫn tuốt đao, che chắn cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa hừng hực cháy, nung nấu người tôi đến khô rát. Tôi ngừng tự nhủ: chính bọn chúng giết ông ngoại, chính bọn chúng giết Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng dồn người dân Đột Quyết vào con đường diệt vong. Tuy phải người Đột Quyết, nhưng nửa dòng máu Đột Quyết chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn giọt máu cuối cùng, tôi cũng thể để ông ngoại chết nhắm được mắt, thể để người dân Đột Quyết mất thể diện.

                  Lúc đó, gã người Trung Nguyên rong ngựa đến. A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ vươn tay ra, thanh đao tay A Độ rơi phịch xuống đất. Tôi điếng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết thuật chăng? sử dụng tà phép sao có thể cướp được thanh đao từ tay A Độ, chẳng những thế mà còn khiến muội ấy chết trân?

                  A Độ trừng mắt nhìn gã. A Độ rất ít khi nổi giận, nhưng tôi biết lúc này muội ấy hận lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi hận đến mức dù kẻ đó là ai, tôi cũng phải giết bằng được!

                  Kẻ nọ cũng khẽ giơ tay, điểm lên người tôi cái, rồi trước mắt tôi tối sầm, chẳng còn hay biết gì nữa.

                  Khi tôi choàng tỉnh dậy, thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang yên ngựa như bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, nhưng tôi sao nhúc nhích nổi. Xung quanh tôi toàn là vó ngựa, hàng nghìn chân ngựa nhấp nhô như lau cỏ dậy sóng trước cơn gió, tôi chếnh choáng hồi, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng biết bao lâu sau mới thấy đàn ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, nhưng đùi bị điểm huyệt quá lâu, đứng vững, liền ngã nhào ra đất.

                  Dưới sàn nhà phủ lớp nỉ dày, đây hẳn là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, có thể là của gã quan đô hộ nọ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, lúc ấy đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ. Biết bao dũng sĩ Đột Quyết tử trận, nhất là ba vạn quân Đột Quyết tiên phong kia, nào có ai sống sót trở về, nhưng Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sống.

                  Chàng vẫn tồn tại đời này, nhưng thay vì bộ giáp trụ, chàng khoác lên mình trang phục của người Trung Nguyên, trông chàng nho nhã như thư sinh, nhưng tôi biết, lều trại này chắc chắn phải chỗ dành cho thư sinh ở. Quanh chàng là những vệ binh, gã tướng quân bắt tôi về vừa tiến vào quỳ xuống lạy chàng, mũ giáp người sột soạt. hành lễ theo nghi thức tối cao của người Trung Nguyên, nghe chỉ khi bái kiến bậc tôn quý nhất, người Trung Nguyên mới thực nghi thức này. Tôi chợt hiểu, chính là Cố Tiểu Ngũ… ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng… chính chàng dẫn địch tập kích bất ngờ. Chẳng hiểu sức lực ở đâu ra, tôi gồng mình, :

                  - Đồ gian tế!

                  Đám vệ binh vùng lên quát tháo, có kẻ đá vào chân tôi, chân tôi mềm oặt rồi ngã nhào ra đất. Tôi thấy gã quan đô hộ khom mình lạy Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng chuyện bằng tiếng Trung Nguyên, tôi nghe hiểu lấy câu. Cố Tiểu Ngũ hề liếc nhìn tôi, gã quan đô hộ rất nhiều, tôi thấy sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm. Khi đám người đó rút khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ mới cầm dao, tiến về phía tôi.

                  Tôi tưởng giết mình, ngờ lại cắt đứt dây trói tay tôi, rồi :

                  - Oan cho nàng rồi!

                  Tôi nghiêng đầu nhìn , cố bằng giọng bình tĩnh:

                  - Cố Tiểu Ngũ, rồi ngày ta giết ngươi, báo thù cho ông ngoại! Đồ phản bội! Đồ gian tế!

                  Tôi thốt nổi lời lăng mạ nào thậm tệ hơn, mấy câu mắng chửi cứ lại, vậy mà vẫn hề nổi cáu, trái lại còn cười:

                  - Nếu thấy giận, nàng cứ chửi vài câu cho bõ tức.

                  Tôi nhìn như nhìn người dưng. Kẻ dắt theo ba vạn binh sĩ Đột Quyết rời khỏi hôn lễ của chúng tôi nghênh chiến. Ngờ đâu, chính kẻ đó thông đồng với Nguyệt Thị, chỉ ba vạn quân tinh nhuệ của Đột Quyết bị tiêu diệt, mà bọn chúng còn kéo vào lều chúa. Ông ngoại trở tay kịp, bị chúng giết chết. Đột Quyết diệt vong rồi! Tôi và A Độ tháo chạy khỏi chốn địa ngục Tu La ấy. Hai mươi vạn dân… cuộc tàn sát… Máu của hai mươi vạn dân tưới ngập thảo nguyên, mà kẻ đầu sỏ còn nhởn nhơ đứng đây.

                  Tôi mắng chửi đến kiệt sức, ngồi co quắp chỗ, song vẫn tự hỏi rốt cuộc lòng dạ được đúc từ thứ sắt đá gì. Tôi mệt mỏi nhìn , hỏi:

                  - Bấy lâu nay ngươi vẫn lừa ta, sao bây giờ giết quách ta ?

                  nhìn tôi, rất lâu sau hề lên tiếng, rồi bỗng quay ra nhìn vệt nắng xuyên qua bức mành rèm chiếu xuống nền đất. Bụi ám tấm rèm ngả xám, chẳng còn vẹn nguyên màu trắng tinh như thuở ban đầu, nắng chớm thu in nền nhà sáng ngời, đổ xuống cái bóng của đôi tôi. Bất thình lình vươn tay chụp lấy cổ tay tôi, tôi yếu ớt buông rơi con dao vừa mới rút ra. Con dao ấy vốn thuộc về , chính là con dao kết nghĩa với Hách Thất, là con dao Hách Thất dúi vào tay tôi. Tôi và A Độ khốn cùng suốt dọc đường, tôi vẫn thủ con dao này trong người, định bụng đến lúc bức bách nhất dùng nó để tự sát, tránh bị giặc làm nhục. Nhưng khi bước vào trướng, tôi liền đổi ý, tôi muốn dùng nó đâm chết người đàn ông đứng trước mặt mình, nhưng may bị phát ra. Phải làm sao mới báo thù được cho ông đây? Tôi nằm vật ra đất, thở hổn hển.

                  nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, rồi :

                  - Nàng đừng làm những chuyện dại đột như thế!

                  Dại dột ư? Tôi muốn phá lên cười, đời còn ai dại dột hơn tôi? Tôi dạ cả tin, suýt nữa lấy gã gian tế của Trung Nguyên làm chồng, tôi cứ đinh ninh bỏ mạng trong cuộc chiến với Nguyệt Thị, tôi còn nuôi hận báo thù cho

                  Đúng lúc ấy, bỗng có người bước vào bẩm báo với Cố Tiểu Ngũ mấy câu bằng tiếng Trung Nguyên. Trông mặt sa sầm, nhấc con dao lên, quẳng lại cho tôi rồi rảo bước ra ngoài. Tôi rệu rã phủ phục xuống sàn. Cũng chẳng biết bao lâu sau, có người kéo áo, gọi tên tôi:

                  - Tiểu Phong!

                  Ngoảnh lại mới nhận ra đó là sư phụ, kiềm được nỗi mừng vui khôn xiết, tôi túm chặt tay sư phụ, hỏi:

                  - Sao sư phụ lại ở đây?

                  Sư phụ :

                  - Nơi này phải chỗ để chuyện, ta đưa muội trốn trước .

                  Sư phụ vung kiếm rạch lên tấm vải bạt, chúng tôi trốn ra từ lối sau lều. Đằng kia buộc sẵn vài con ngựa, chúng tôi lên ngựa. Lúc sắp ra khỏi doanh trại, tôi sực nhớ:

                  - A Độ! Còn A Độ nữa!

                  - A Độ nào?

                  Tôi :

                  - A Độ là tiểu muội của Hách Thất, muội ấy luôn bảo vệ ta, ta thể bỏ mặc muội ấy được.

                  Sư phụ đành chịu thua, dẫn tôi quay lại tìm A Độ. Chúng tôi tìm A Độ trong trại nhốt tù binh, nhưng lại đánh động đám lính canh. Tuy kiếm pháp của sư phụ rất giỏi, song sa chân vào chốn doanh trại này chém giết là điều đương nhiên, khó mà thoát thân được. Đồn trú đầy tiếng xôn xao, người từ bốn phía đổ đến mỗi lúc đông. Thấy thế bất lợi, sư phụ bèn vừa đánh vừa lui, rút về phía chuồng ngựa, quệt mồi lửa quẳng vào đống rơm.

                  Tàu ngựa của doanh trại chất rất nhiều rơm khô làm thức ăn nuôi ngựa, đám rơm khô này mà bùng lên chỉ trong nháy mắt, lửa lan khắp nơi, khó mà dập ngay được. Cả doanh trại lập tức nhốn nháo, quân binh hấp tấp dập lửa, sư phụ chớp thời cơ dẫn tôi và A Độ tháo chạy. Kỷ luật nhà binh của Trung Nguyên rất nghiêm, chỉ trong chốc lát, tiếng huyên náo trong doanh trại dần lắng xuống, vẫn có kẻ cấp tốc cứu hoả, đám khác lại phi ngựa đuổi theo chúng tôi.

                  Vừa đánh vừa lui, lùi dần đến tận chân núi Thiên Hằng, đám quân truy đuổi mỗi lúc đông. Tôi nhìn đám người ấy kéo cờ hiệu màu mơ, bên có viết chữ Trung Nguyên mà tôi hiểu, liền hỏi sư phụ:

                  - Bọn này thuộc phủ đô hộ An Tây à?

                  Quân đóng ở phủ đô hộ An Tây có lực lượng hùng hậu, nhưng ngờ bọn chúng giao chiến cũng lợi hại đến vậy.

                  gò má sư phụ có vết máu, tính sư phụ ưa sạch , vội giơ tay quệt ngang vệt máu, rồi cười khẩy:

                  - Phủ đô hộ An Tây làm gì có nhiều kỵ binh đến thế… Bọn này là Vũ lâm quân của Đông cung, người Trung Nguyên quen gọi là Vũ lâm lang, bọn này toàn con nhà quan, đợt này ra biên thuỳ định kiếm chút công danh, bổng lộc. Muội xem, đứa nào đứa nấy hùng hổ xung phong, muốn lập chiến công đây mà.

                  Tôi hỏi:

                  - Chiến công gì?

                  Sư phụ :

                  - Bắt sống muội chính là chiến công.

                  Xưa nay tôi chưa từng nghĩ mình lại quan trọng đến thế. Bọn Vũ lâm quân quyết truy đuổi chúng tôi đến cùng, chúng ngừng buông lời xỉ vả, có tên trọ trẹ tiếng Tây Lương, chửi chúng tôi chỉ biết cúp đuôi bỏ chạy. Nếu là bình thường, thế nào tôi cũng sửng cồ, quay ngoắt lại, có điều, sau loạt những sóng gió, cuối cùng tôi nghiệm ra điều, kẻ đứng giữa vạn quân chỉ như hạt muối bỏ bể, hoặc như cây cỏ trước cơn bão, ai có thể ngăn được thế tấn công của thiên binh vạn mã. Ông ngoại thể, Hách Thất thể và sư phụ cũng thế mà thôi…

                  Lúc chúng tôi rút lên núi Thiên Hằng trời ập tối, đạo quân kia tiện lên núi, đành dừng lại dưới chân núi. Từ núi đá nhìn xuống, chân núi bập bùng lửa trại, gần đó, những đạo quân tiếp viện từ doanh trại liên tục kéo đến, chúng đốt đuốc nối đuôi nhau tạo thành thân rồng lửa ngoằn ngoèo. Tôi hỏi sư phụ:

                  - Cố Tiểu Ngũ là ai?

                  Giọng sư phụ vẫn bình tĩnh như thường ngày:

                  - vốn mang họ Cố. là Lý Thừa Ngân, con thứ năm của Hoàng đế Trung Nguyên, cũng chính là Đông cung thái tử đương triều.

                  Tôi từng nghi ngờ Cố Tiểu Ngũ phải loại tiểu thương buôn chè bình thường. Sau tất cả những gì xảy ra, tôi vẫn lờ mờ đoán, có lẽ là tướng quân của triều đình Trung Nguyên. Nhưng vì còn trẻ, mà trong số ít ỏi những tướng quân nổi danh của Trung Nguyên, tôi chưa từng nghe có vị tướng quân nào mang họ Cố. ra mang họ Cố, chẳng những thế, thân phận còn đặc biệt như vậy.

      justify;" align="



                  Tôi chẳng biết mình muốn cười hay muốn khóc nữa.

                  Tôi nhớ đến chuyện Trung Nguyên phái sứ thần tới, lúc đó sứ thần thay mặt Thái tử Trung Nguyên đến cầu thân. Vì đâu đến nông nỗi này? Trước kia, tôi có mấy thiện cảm với Trung Nguyên, song giờ đây tôi càng căm thù Trung Nguyên đến tận xương tuỷ.

                  - Sao lại xưng là họ Cố?

                  Sư phụ im lặng lát, ngờ người cũng biết im lặng cơ đấy, sau đó, người cho tôi nghe :

                  - Bởi vì mẹ mang họ Cố.

                  Tôi nhìn sư phụ, thực ra trong bóng tối, tôi chẳng thấy được gì, chỉ nghe thấy giọng người trầm đều:

                  - Đúng vậy, như muội biết, ta cũng mang họ Cố. Mẫu thân của là Thục phi, ruột của ta. Cho nên ta cũng chẳng phải người tốt. Bệ hạ phái đến biên cương Tây Vực, lại sai ta thầm trà trộn vào Tây Lương giúp làm nội ứng…

                  Đầu óc tôi rối bời, ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra cái tên đầy đủ của sư phụ. Tôi bình tĩnh thốt lên cái tên ấy:

                  - Cố Kiếm!

                  Tôi hỏi:

                  - Vậy… bao giờ sư phụ mới giết ta, hoặc bao giờ mới giao ta cho Thái tử Điện hạ?

                  Cố Kiếm im lặng. Trời tối như bưng nhưng tôi vẫn thoáng thấy khoé môi sư phụ đọng nụ cười buồn rười rượi. Rất lâu sau, sư phụ mới :

                  - Muội biết ta làm vậy.

                  thù hận trong tôi bùng cháy như ngọn lửa, ngọn lửa ấy nuốt chửng trái tim tôi. Tôi siết chặt nắm đá dăm, cạnh sắc nhọn găm vào lòng bàn tay sâu hoắm. Tôi nghe giọng mình ai oán:

                  - Lũ Trung Nguyên các người có gì mà dám làm? Các người lừa gạt ta bấy lâu! Cố Tiểu Ngũ lừa ta, ngươi cũng lừa ta hết lần này đến lần khác! Hẳn các ngươi tính kế này từ lâu lắm rồi chứ gì? Lũ các ngươi còn gì dám làm? Ngươi lừa ta từ đầu đến cuối, uổng công cha ta tin tưởng ngươi! Uổng công ta tôn ngươi làm sư phụ…

                  Tôi biết mình gì nữa, tôi mắng ra rả, tôi mắng cả Trung Nguyên là lũ bịp bợm… Nhưng thực ra, trong lòng tôi hiểu rằng, tôi chỉ hận mình Cố Tiểu Ngũ. Sao lại đối xử với tôi như vậy? Tôi chưa từng căm ghét ai đến vậy. Thà Cố Tiểu Ngũ cứ giết tôi , thà sư phụ đừng cứu tôi… biết đâu tôi sớm chết… Tôi chửi mắng đến mệt lử. Tôi nhìn Cố Kiếm, giọng mỉa mai:

                  - Lần này ngươi cứu ta, ngươi định làm gì ta nữa… để sau này gặp Hoàng đế Trung Nguyên lĩnh thưởng?

                  Sư phụ nhìn tôi, lúc lâu sau mới lên tiếng:

                  - Tiểu Phong, đúng là ta cố tình quen biết muội, trước kia ta luôn lừa muội, thế nhưng… thế nhưng lần nào ta cũng buồn bã khôn cùng. Muội vẫn chỉ là đứa trẻ, dù ta thế nào, muội cũng tin. Càng lừa muội, ta càng thêm áy náy. Lúc gửi bồ câu đưa thư cho Lý Thừa Ngân, ta mong đừng bao giờ đến… Muội ngồi đợi cồn cát, còn ta đứng cách đó xa đợi cùng muội, đợi ba ngày ba đêm… Trăng đêm ấy đổ tràn xuống khuôn mặt muội, khuôn mặt muội lúc đó giống hệt con cáo trong bài hát…

                  Giọng sư phụ thấp dần:

                  - Ta biết mình mê muội… ràng muội chỉ là đứa trẻ… nhưng khi đó, tình ta chỉ mong Lý Thừa Ngân vĩnh viễn đừng xuất , rồi ta còn muốn đưa muội bỏ trốn… dẫn muội đến nơi nào đó xa Tây Lương… Nhưng sau đó, vẫn xuất và mọi việc diễn ra theo kế hoạch, buộc lòng ta phải lánh mặt muội… Ta biết nữa… Ta vẫn ôm tia hy vọng nhoi, chỉ cầu mong muội đừng thích … Thế nhưng… lúc Lý Thừa Ngân đòi giết vua sói, ta hiểu, tình còn đường lui nữa rồi. Chính ta giúp giết con sói dữ kia, sói cắn vào chân , ta hỏi: “Sao Điện hạ phải làm vậy?” Thực ra trong lòng ta khinh bỉ chính mình hơn bao giờ hết, sao ta phải làm tất cả những chuyện này… Ta biết giết vua sói để gặp muội. Ta giúp , chính ta đẩy muội vào lòng ...

                  Tôi hiểu sư phụ gì, sắc mặt sư phụ buồn bã, sau cùng chỉ :

                  - Tiểu Phong, ta có lỗi với muội.

                  Tôi lặng thinh đáp, đời này ai có lỗi với tôi cả, mà là tôi có lỗi với tất cả.

                  Tôi có lỗi với ông ngoại, tôi cõng rắn cắn gà nhà, vì tôi nên ông ngoại mới tin tưởng Cố Tiểu Ngũ, khiến Đột Quyết diệt vong…

                  Tôi có lỗi với Hách Thất, nếu vì tôi, chắc huynh ấy phải bỏ mạng…

                  Tôi có lỗi với A Độ, nếu vì tôi, muội ấy chẳng bị tổn thương…

                  Tôi có lỗi với toàn thể nhân dân Đột Quyết, những người họ hàng của tôi, chính tôi vô tình khiến họ bị thảm sát…

                  đời này, chẳng ai có lỗi với tôi cả, trừ Cố Tiểu Ngũ…

                  Nhưng sao, rồi tôi giết , tôi tìm cơ hội giết .

                  Tôi ngước nhìn những vì sao bầu trời đêm, xin thề với thánh thần rằng, có ngày tôi giết .

                  Tảng sáng, tôi vừa chợp mắt được chút, tiếng trống hạt [2] dưới chân núi gọi tôi bừng tỉnh. Tôi mở mắt, thấy A Độ bật dậy. Cố Kiếm mang bộ mặt nặng trĩu, với A Độ:

                  - Dẫn Công chúa !

                  [2] loại trống cổ của Trung Quốc.

                  Tôi bướng bỉnh :

                  - Ta . Nếu chết cả ba cùng chết.

                  Cố Kiếm tuốt kiếm, giọng bình tĩnh:

                  - Ta phải đánh lạc hướng địch, A Độ đưa muội . Con người Lý Thừa Ngân vốn máu lạnh, lẽ nào muội vẫn mong thực lòng với muội? khi muội rơi vào tay , càng tạo điều kiện cho tiến đánh Tây Lương mà thôi.

                  Tây Lương!

                  Tôi suýt nhảy dựng lên. Cố Kiếm nhìn tôi, tôi líu lưỡi, :

                  - định tấn công Tây Lương?

                  Cố Kiếm bật cười:

                  - Đối với bậc đế vương, thiên hạ này biết thuở nào mới có tận cùng?

                  Tôi nghẹn họng, thốt nên lời, tiếng trống hạt gióng quá ba hồi, quân Trung Nguyên dưới núi bắt đầu xung phong.

                  Cố Kiếm :

                  - mau!

                  Tuy người ngợm xây xát, song thân thủ của A Độ vẫn khá linh hoạt, muội ấy kéo tôi leo lên vách núi, tôi vội ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ kịp thấy Cố Kiếm đứng mỏm đá, ánh nắng sớm mai phủ lên người, máu loang đẫm bộ bào trắng, sau đêm, máu chuyển màu đen. Gió thốc tay áo, sư phụ đứng trong nắng sớm như pho tượng, tay lăm lăm trường kiếm. Tôi nghĩ đến những gì sư phụ đêm qua, tưởng như cơn mộng mị. Rồi chợt nhớ dạo dầu khi chúng tôi vừa quen biết, lúc ấy, sư phụ cứu đứa bé trước vó ngựa, người ngã lăn đất, áo trắng nhuộm bụi vàng, vậy mà lúc ấy, sư phụ vẫn oai phong, lẫm liệt vô cùng. Chuyện lúc đó cũng hệt như giấc mơ. Và mọi việc xảy ra trong mấy ngày nay, đối với tôi, tất cả như cơn ác mộng.

                  Tôi và A Độ náu trong núi, ban ngày trốn, ban đêm tiếp tục chạy. Quân lính Trung Nguyên sục sạo khắp nơi, nhưng chúng tôi lanh lẹ lẩn tránh, tạm thời chúng thể tìm ra được. Tôi và A Độ trốn núi nhiều ngày, khát lấy tuyết làm nước uống, đói đào hang chuột, trong đó lúc nào cũng có sẵn quả khô và hạt, ăn cho đỡ xót ruột. Chẳng hay Cố Kiếm còn sống hay chết, mà chính tôi cũng biết mình trốn núi được bao lâu rồi.

                  Có lẽ bước sang tháng Tám, vì tuyết rả rích rơi. Dường như chỉ trong đêm mà tuyết bao trùm cả núi Thiên Hằng, tuyết có ở khắp nơi, cỏ cây rũ tàn, héo úa. Tuyết rơi, ngọn núi này còn là nơi thích hợp để trú , thậm chí loài linh dương cũng còn ra ngoài kiếm ăn nữa. Gió đêm núi lạnh đến mức có thể khiến con người hoá băng. Trước đợt tuyết rơi, đoán chừng toán quân Trung Nguyên rút hẳn, vì quân đồn trú dưới tuyết lâu, cạn kiệt lương thực là điều vô cùng đáng sợ, kẻ cầm đầu buộc phải cân nhắc. Tôi và A Độ cố thủ núi thêm hai ngày, thấy có dấu vết bọn chúng lùng sục nữa, mới đánh liều xuống núi xem sao.

                  Chúng tôi gặp may, xuống núi rồi cả ngày đường về phía nam, lại gặp được dân du mục. Ông ta đun chảy tuyết cho chúng tôi rửa mặt mũi, chân tay, còn luộc thịt dê mời chúng tôi ăn. Tôi và A Độ nhếch nhác như người rừng, mình lâu ngày núi, được ăn bữa no nê, sau đợt tuyết rơi, núi càng khó sống. Ngồi trong căn lều ấm cúng và uống sữa dê, tôi và A Độ như hai kẻ vừa trở về từ địa ngục. Tuy người đàn ông du mục này là dân Nguyệt Thị, song cũng rất đồng cảm với tình cảnh của Đột Quyết, ông ta tưởng chúng tôi là nữ tù nhân vừa trốn khỏi Đột Quyết nên đối đãi với chúng tôi rất ân cần. Ông ta bảo đại quân Trung Nguyên rút về phía nam, mấy nghìn người Đột Quyết cũng bỏ trốn, chạy cả về cực tây.

                  Tôi nghĩ được gì nhiều, sữa nóng đun chảy mọi ý định trả thù. Tôi biết, nếu chỉ dựa vào tôi và A Độ, e rằng chẳng cách nào chống lại được bọn người Trung Nguyên, chứ đừng đến chuyện báo thù cho ông ngoại. Tôi quyết định dẫn A Độ về Tây Lương, tôi rất nhớ cha mẹ tôi. Tôi nghĩ bằng mọi giá phải về được Vương thành, rồi kể cho cha nghe toàn bộ những chuyện xảy ra ở Đột Quyết, người nhất định phải đề phòng bè lũ Trung Nguyên. Ông ngoại mất rồi, hẳn mẹ rất đau lòng, tôi nóng lòng muốn gặp và an ủi bà. Mặc dù ông ngoại còn đời này nữa, song mẹ vẫn còn có tôi ở bên cơ mà.

    5. CQH

      CQH ^^!

      Bài viết:
      192
      Được thích:
      41,961
                  Phần IV
                  VỰC NƯỚC SÂU
       
                  Chương 12


      Dọc đường , lòng tôi nóng như có lửa đốt, chỉ sợ mình về chậm bước, Tây Lương cũng bị Lý Thừa Ngân thảm sát giống như Đột Quyết. Bất chấp gió tuyết, tôi và A Độ gấp rút lên đường, cả chặng đường trải qua bao nhiêu cơ cực, cuối cùng nhìn thấy Vương thành Tây Lương.

      Thấy thành quách vẫn bình yên vô , tôi bất giác thở phào nhõm. Cổng thành vẫn mở toang như thường lệ, tiết trời sắp vào đông, những đội buôn thưa dần, lính gác co mình trong tấm áo da, núp trong cổng tò vò ngủ gật. Tôi và A Độ thầm tiến vào Vương thành.

      Đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, cung điện ra thân thương mà trang nghiêm, tôi đánh động lính gác mà tiến thẳng vào vương cung qua lối cổng . Vương cung của Tây Lương chỉ có vài nghìn cảnh vệ, phòng thủ rất lỏng lẻo, suy cho cùng, Tây Lương chẳng gây thù địch với ai, khách vãng lai đều là dân buôn bán. Tuy là Vương cung nhưng thực chất cảnh giới còn nghiêm ngặt bằng phủ đô hộ An Tây. Trước đây, tôi thường lén ra khỏi Vương cung bằng lối cửa , ở ngoài chơi chán rồi lại về bằng lối ấy, chưa lần nào bị lộ.

      Cả toà cung điện chìm trong giấc ngủ say. Tôi dẫn A Độ về phòng mình, bên trong lặng như tờ, bóng người. Tiết trời buốt lạnh, A Độ lạnh đến mức mặt mày trắng bệch, tôi lấy tấm áo da, choàng lên người muội ấy, ủng nhiều cũng mòn, thủng lỗ, hở cả ngón chân, tôi lại tìm hai đôi ủng mới để , giờ ấm rồi.

      Men theo hành lang, tôi chạy về phía tẩm điện của mẹ, chỉ mong sớm được gặp bà.

      Phía tẩm điện châm đèn, nhưng trong cung có đốt lò, nỉ trải sàn cũng đặt đến mấy chậu sưởi to. Tôi thấy cha ngồi trước lò sưởi, hình như người cúi đầu.

      Tôi khẽ gọi:

      - Cha ơi!

      Cha giật thót người, từ từ quay lại, nhìn tôi, hai mắt đỏ quạch:

      - Con , con bỏ đâu?

      Chưa bao giờ tôi thấy cha như thế này, mắt tôi cay xè, tưởng chừng như nỗi tủi thân trong lòng bấy lâu nay đều vỡ oà, chực theo khoé mắt mà tuôn ra. Tôi kéo tay áo cha, hỏi:

      - Cha ơi, mẹ đâu ạ?

      Mắt cha càng hoen đỏ, tiếng người nghèn nghẹn:

      - Con ơi, mau chạy , mau trốn !

      Tôi ngẩn người nhìn cha, A Độ bật dậy, tuốt đao. Bốn bề bỗng sáng ánh đèn, rất nhiều lính cầm đèn lồng, bó đuốc xông vào. Kẻ dẫn đầu trông rất quen, gã chính là sứ thần mà Trung Nguyên phái đến Tây Lương cầu thân, lúc này gã vênh váo ra vẻ ta đây, thủng thẳng bước vào. Gã nhìn cha tôi, quỳ xuống vái chào mà hống hách :

      - Tây Lương vương, Công chúa về, đến lúc phải thực hôn ước giữa hai nước. Giờ ngài thể kiếm cớ thoái thác được nữa rồi.

      Lũ người này đáng ghét, tôi kéo tay cha, gặng hỏi:

      - Mẹ đâu rồi cha?

      Giọt nước mắt chợt chảy dài gương mặt cha, lần đầu tiên tôi thấy cha khóc. Tôi giật thót mình khi thấy cha bất ngờ tuốt đao bên hông, chỉ thẳng vào lũ người Trung Nguyên, giọng khàn khàn:

      - Lũ Trung Nguyên này… Con ơi, con nhìn đám người Trung Nguyên này , chính chúng nó dồn mẹ con vào chỗ chết. Chính chúng nó ép Tây Lương chúng ta, bắt ta phải giao mẹ con cho chúng, mẹ con cam tâm chịu nhục, bà ấy dùng đao tự vẫn chính tại Vương cung này. Lũ chúng nó… lũ chúng nó còn dám xông vào Vương cung, nhìn thấy xác mẹ con rồi chúng nó mới thoả lòng… Chính chúng nó ra tay sát hại mẹ con…

      Giọng cha giống như nguyền rủa, vang vọng giữa chốn Vương cung, còn tôi như bị đấm cú trời giáng, phải lùi về phía sau. Cha tự rạch má mình, máu đầm đìa mặt, người vung đao về phía sứ thần Trung Nguyên. Thấy người dũng mãnh như loài sư tử, lũ người Trung Nguyên nháo nhác tản ra tứ phía, tiếng động trầm thấp vang lên, đầu sứ thần rơi xuống dưới lưỡi đao của cha. Cha gạt đao, thở hổn hển, đám binh lính Trung Nguyên xộc lên, thắt chặt vòng vây, có kẻ hét:

      - Tây Lương vương, ngài giết sứ thần Trung Nguyên, lẽ nào định tạo phản?

      Mẹ! Mẹ ơi! Tôi vượt muôn ngàn đắng cay để trở về đây, vậy mà vẫn thể gặp mẹ nữa rồi…

      Toàn thân run rẩy, tôi chỉ vào lũ người đó, rít giọng quát:

      - Lý Thừa Ngân đâu? đâu? trốn đâu rồi?

      kẻ nào trả lời. tên bước ra từ đám đông, trông phục sức người có vẻ là tướng quân Trung Nguyên. Gã nhìn tôi, :

      - Bẩm Công chúa, Tây Lương vương trong lúc hoảng loạn ngộ sát sứ thần Trung Nguyên, đợi đến lúc yết kiến Điện hạ, thần bẩm báo lên người để làm sáng tỏ việc. Mong Công chúa bình tĩnh, tránh làm ảnh hưởng đến thể diện hai nước.

      Tôi nhận ra gã Tướng quân này, lúc đuổi theo tôi và A Độ thảo nguyên, chính gã hạ gục thanh đao tay A Độ, còn bắt tôi về đại bản doanh của quân lính Trung Nguyên. Võ công của gã hẳn rất cao cường, chắc chắn tôi phải đối thủ của gã. Lần trước, may nhờ có sư phụ giúp tôi trốn ra khỏi doanh trại của bọn chúng, giờ sư phụ có ở đây, ai có thể cứu tôi?

      Tôi :

      - Ta muốn gặp Lý Thừa Ngân.

      Gã Tướng quân Trung Nguyên đáp:

      - Tây Lương vương hứa gả Công chúa cho Thái tử Điện hạ nhằm kết mối thâm giao giữa hai nước. Thái tử Điện hạ cũng có thành ý, người đích thân hạ giá đến Tây Vực rước Công chúa về. Rồi Công chúa được yết kiến Điện hạ, hà tất phải nóng vội?

      Tôi căm tức nhìn đám binh lính siết chặt vòng vây, cha vung đao đâm loạn xạ, song cuối cùng vẫn bị chúng chế ngự. Vương cung xảy ra chuyện lớn như thế này mà vệ binh nào đến xem xét, chứng tỏ cả Vương thành này, từ trong ra ngoài bị người Trung Nguyên kiểm soát. Cha bị bọn chúng đè sấp xuống đất, người vẫn mắng như tát nước. Lồng ngực tôi nóng sực như chảo dầu sôi, giày vò đè nặng lên lục phủ ngũ tạng, tôi định xông lên bọn chúng kề đao vào cổ cha, chỉ cần tôi manh động, chưa biết chừng chúng giết người ngay tức khắc. Người Trung Nguyên vẫn chúng tôi là lũ man rợ, nhưng chúng giết người còn hung ác hơn chúng tôi, tàn bạo hơn chúng tôi. Khi nước mắt tôi rơi lã chã, gã Tướng quân nọ cất lời:

      - Công chúa, xin người khuyên Vương thượng vài câu, chớ để ngài tự làm mình bị thương.

      Cổ họng nghẹn ứ khiến tôi thốt nên lời. Có người nắm cánh tay tôi, là A Độ, những ngón tay mát lạnh làm chỗ dựa cuối cùng cho tôi. Tôi nhìn muội ấy, đôi mắt đen láy in bóng hình tôi, cái nhìn đầy nôn nóng, sốt ruột. Tôi hiểu, chỉ cần tôi câu thôi, muội ấy chẳng do dự, liều mạng xông lên vì tôi. Nhưng sao phải làm vậy? Sao phải kéo A Độ vào chuyện này? Đột Quyết diệt vọng, Tây Lương rơi vào tay Trung Nguyên, tôi bảo:

      - Cấm các ngươi được đụng vào cha ta, ta theo các ngươi là được chứ gì!

      Cha trở nên lẩm cẩm. Nghe cha ra nông nỗi này từ khi mẹ qua đời, thỉnh thoảng, cũng có lúc người tỉnh táo nhưng cũng có lúc người lẩn thẩn. Khi nào minh mẫn, cha lại đòi đánh giết bọn Trung Nguyên, còn lúc tỉnh táo lại làm những chuyện mà tôi chưa thấy bao giờ. Tôi nghĩ thà cha cứ mãi hồ đồ, mẹ qua đời, trái tim cha cũng chết theo. Các ca ca của tôi bị giam lỏng, những người phụ nữ trong cung hoang mang, lo sợ, còn tôi, tôi vẫn dằn lòng nín nhịn.

      Thù còn đó, sao mình có thể chết dễ dàng được?

      Tôi tiếp nhận chiếu thư của Trung Nguyên, quyết định lấy Lý Thừa Ngân. Trung Nguyên vừa bình định Đột Quyết gấp rút nâng đỡ thế lực mới đất Tây Vực, đề phòng Nguyệt Thị ngày càng lớn mạnh. Đột Quyết vừa diệt vong, các bộ tộc ở Tây Vực càng thêm hỗn loạn, Hoàng đế Trung Nguyên hạ chiếu sắc phong cha tôi làm Định Tây Khả Hãn, tước hiệu ấy tôn quý gì sánh được. Vì thế mà Nguyệt Thị rất bất bình, bọn chúng liên quân với Trung Nguyên đánh bại Đột Quyết, thoạt đầu mơ tưởng nuốt gọn cả vùng lãnh thổ rộng lớn của Đột Quyết, vậy mà Tây Lương lại sắp trở thành thông gia với Trung Nguyên. Các nước chư hầu ở Tây Vực trước kia ngầm tôn vinh Đột Quyết như nước đứng đầu, nay quay sang phục tùng Tây Lương.

      Khoác lên mình tấm áo cưới đỏ rực mà người Trung Nguyên mang đến, tôi theo đoàn quân hộ tống của Trung Nguyên chầm chậm tiến về phía đông.

      Khi đến chân núi Thiên Hằng, tôi mới được gặp Lý Thừa Ngân. Đáng lẽ, theo khuôn phép của Trung Nguyên, vợ chồng chưa cưới được phép gặp mặt trước lễ thành thân, nhưng vì chúng tôi quen biết từ lâu, vả lại giờ đường hành quân, mọi việc đều có thể tuỳ cơ ứng biến. Sau nhiều lần tôi đòi gặp, cuối cùng Lý Thừa Ngân cũng đến lều của tôi. Đám đầy tớ lui ra ngoài, trong trướng chỉ còn lại hai chúng tôi.

      Tôi ngồi thảm nỉ, hồi lâu vẫn cất lời. Cho đến khi trở gót quay , tôi mới :

      - Chàng đồng ý với ta chuyện, ta cam tâm tình nguyện lấy chàng.

      Vẫn quay lưng về phía tôi, chỉ hỏi:

      - Chuyện gì?

      - Chàng bắt cho ta trăm con đom đóm.

      Người cứng đờ, sau cùng mới chậm rãi xoay người nhìn tôi. Thậm chí lúc đó tôi cười:

      - Cố Tiểu Ngũ, chàng bằng lòng ?

      Ánh mắt ấy vẫn như buổi tối nọ bên bờ sông, nhưng chẳng còn điềm đạm, mọi thứ xưa kia rặt phỉnh lừa, dối trá, lòng tôi biết từ lâu. Còn sao? Bấy lâu nay diễn kịch, cũng thấy mệt mỏi rồi chăng?

      Cuối cùng, mở lời, giọng bình thản như chưa từng có sóng gió:

      - Trời vào đông, còn đom đóm nữa. Ở Trung Nguyên rất vui, có đom đóm, có chim chóc, có rất nhiều loài hoa đẹp, trong phòng trang hoàng cũng rất đẹp… Rồi nàng thích Trung Nguyên.

      Tôi nhìn đăm đăm, còn né tránh ánh nhìn của tôi.

      Tôi hỏi:

      - Chàng bao giờ lòng thích ta chưa, dù chỉ chút?

      đáp, thẳng tay vén tấm mành rồi rảo bước ra khỏi lều.

      Gió thốc thẳng vào lều cuốn theo tuyết, gió gợn hơi lửa ảm đạm trong chậu sưởi đặt trong lều, lửa bập bùng, rồi lại tắt. Trời vào đông dậy cơn buốt cóng.

      Tôi và A Độ bỏ trốn lúc nửa đêm. Lý Thừa Ngân đích thân dẫn ba nghìn kỵ binh truy đuổi. Chúng tôi bỏ chạy vào núi, thế mà chúng vẫn theo sát sau lưng.

      Tảng sáng, tôi và A Độ leo lên vách núi cao và dốc.

      náu lâu ngày núi, chúng tôi thường xuyên gặp lũ chó sói. Từ ngày vua sói bị bắn chết, lũ sói mất con đầu đàn, lâm vào cảnh giao tranh kịch liệt. Mỗi lần đụng độ đàn sói, chúng chỉ lo cắn xé lẫn nhau, hề gây hấn với chúng tôi, tôi nghĩ có thể Trung Nguyên dùng cách này để đối phó với Tây Vực. Bọn chúng tiêu diệt Đột Quyết, cũng như giết con sói đầu đàn, những bộ tộc còn lại lao vào giành giật nhau, chém giết rồi nội chiến liên miên… chẳng còn nước nào đe doạ đến Trung Nguyên nữa. Tất cả có khác nào bầy sói kia, chúng chỉ lo tàn sát đồng loại, tranh đoạt ngôi vị vua sói, đâu còn là mối nguy hại đối với con người nữa!

      Tiếng áo quần bị gió thổi phần phật, tôi đứng bên vách núi, gió khiến chúng tôi khó mở nổi mắt. Nếu gieo mình từ đây, phải chăng tất cả những buồn đau như vết khói mờ, tan dần vào hư vô?

      Lý Thừa Ngân đuổi tới nơi, tôi lùi về phía sau bước, tướng quân cầm đầu phe Trung Nguyên lo tôi nhảy , gã :

      - Bẩm Điện hạ, xin người cho phép thần lên khuyên Công chúa.

      Suốt chặng đường hành quân, tôi cũng hiểu sơ sơ vài câu tiếng Trung Nguyên, tôi còn biết vị tướng quân người Trung Nguyên này họ Bùi, còn là đại tướng mà Lý Thừa Ngân trọng dụng nhất. Nhưng giờ đây, ngay cả Bùi Tướng quân cũng khuyên nổi Lý Thừa Ngân, tôi thấy xuống ngựa, leo lên vách núi.

      Tôi cũng cản , chỉ lặng lẽ dõi theo trèo lên vách đá. Gió reo như tiếng nức nở, mây mù bay ngang khe núi, chẳng biết rốt cuộc vực sâu đến chừng nào. đứng bên bờ vực, thở hổn hển sau cả chặng đường vội vã. Tôi chỉ xuống vực sâu, hỏi:

      - Chàng biết dưới đó là gì ?

      Chắc bởi gió tuyết giật đùng đùng nên mặt trắng bệch. Gió thốc hạt tuyết quất vào mặt ran rát, tôi vuốt đám tuyết còn bám mặt, rất có thể biết khuyên tôi thế nào nên lặng thinh. Tôi với :

      - Dưới đó có sông Quên. Nước sông Quên, đặng quên tình… Ở Tây Vực có truyền thuyết, có lẽ xưa nay chàng chưa từng nghe. Truyền thuyết kể rằng chỉ cần nhảy xuống sông Quên là con người ta quên tất cả mọi muộn phiền chốn nhân gian, thay da đổi thịt, làm lại cuộc đời. Thần kỳ lắm, thánh thần lại có sức mạnh như thế đấy, nước thần giũ sạch mọi đau khổ thân thể chúng ta, nước thần cũng cho phép chúng ta quên muộn phiền, song trước nay chưa ai có thể sống sót trở về từ sông Quên, quan tâm của thần thánh, nhiều khi rất đỗi tàn nhẫn… Chàng dùng cha ta, huynh đệ, tỷ muội của ta để uy hiếp ta, buộc ta phải lấy chàng…

      Tôi cười với :

      - Nhưng… sống chết thế nào… ta mới là người quyết định.

      nhìn tôi trân trối, :

      - Nếu nàng dám manh động, ta mai táng cả Tây Lương theo nàng.

      Tôi bình thản , đấy là lần đầu tiên tôi gọi là Điện hạ, mà có lẽ cũng là lần cuối cùng:

      - Điện hạ làm vậy đâu. Điện hạ có chí lớn muốn bình định Tây Vực, thống nhất thiên hạ, chẳng gì có thể bì được với nghiệp trị vì thiên hạ của Điện hạ. Đột Quyết vừa mới ổn định, Nguyệt Thị hùng mạnh, Điện hạ vẫn cần Tây Lương để giữ chân Nguyệt Thị, mà cũng cần Tây Lương để tỏ tấm lòng của Điện hạ với các nước Tây Vực. Điện hạ dùng thủ đoạn nham hiểm để dẹp yên Đột Quyết nhưng lại mở tấm lòng từ bi hòng vỗ về Tây Lương. Thái tử thiên triều cao quý mà lại hạ mình cưới công chúa Tây Lương man di về làm chính phi ư? Các nước chư hầu Tây Vực hẳn cảm động phát khóc trước tấm lòng của Điện hạ.

      Tôi giễu bằng cái nhìn mỉa mai.

      - Nếu Điện hạ tàn sát Tây Lương, những thứ mất chỉ có mình Tây Lương bé, mà còn có tất cả những gì chàng vất vả, tốn sức gây dựng bấy lâu nay.

      Lý Thừa Ngân nghe tôi thế, sắc mặt hơi đổi khác, cuối cùng cưỡng được mình, tiến lên bước, tôi liền lùi lại phía sau bước. Bàn chân chạm vào trống rỗng, hư , gió vách núi lay tôi đứng vững, như thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như lưỡi dao mỏng dính, ngừng cà vào cánh tay. dám tiến thêm bước.

      Tôi :

      - Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi đau này.

      Tôi gằn từng tiếng:

      - Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta quên được chàng!

      Lý Thừa Ngân kinh hãi, vươn người toan túm lấy tôi, thế nhưng chỉ giữ được ống tay áo. Tôi giơ tay trái, lưỡi dao sắc lẹm cắt xẹt cánh tay áo, cơ thể tôi lơ lửng giữa trung. Nhanh như cắt, Lý Thừa Ngân rút dải dây lưng, vung ra như sợi roi dài, quấn lấy người tôi, treo tôi lơ lửng giữa lưng chừng vực sâu. Dải dây lưng ấy, hôm đó chính tôi thắt cho chàng, dải dây lưng của tân nương ngày cưới được nạm chi chít san hô và ngọc trai… Tôi từng khao khát thứ hạnh phúc đầu bạc răng long, tôi từng tưởng thế là vĩnh hằng, tôi từng ngỡ, chính thánh thần se duyên cho tôi con người này… Trước lúc chàng lên đường ra trận, tự tay tôi thắt chiếc dây lưng ấy cho chàng, thầm nhủ vô vàn những thương cùng lòng cảm mến, mong sao chàng bình yên trở về, rồi chính tay chàng thắt cho tôi dải dây lưng của mình… Đến lúc ấy, chúng tôi chính thức trở thành vợ chồng dưới chứng giám của thánh thần… Tôi vung con dao tay, cắt lìa sợi dây, gió núi thổi qua khe gập ghềnh, những hạt ngọc trai tuôn rơi tựa giọt mưa sa… Tôi thấy vẻ mặt chàng lúc đó, khổ sở, đớn đau muôn phần…

      Tôi khẽ ngả người ra sau, cả người buông rơi. Nhiều kẻ hoảng sợ kêu gào, trong đó có cả gã Bùi Tướng quân người Trung Nguyên nọ, giọng có vẻ kinh hãi hơn cả:

      - Điện hạ…

      Mọi thứ vách núi thoáng chốc khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn sắc trời trong veo… cứ ngỡ như gió nâng mây, tôi rơi qua những tầng mây mù. Cơ thể tôi lộn nhào, mặt chúi xuống, chẳng còn thấy bầu trời đâu nữa, gió liên miên đâm chọc khiến tôi tài nào hé mắt được. A Độ từng kể dưới đáy vực này có dòng sông Quên, thế nhưng sông Quên như thế nào? Là hồ nước xanh biếc ư? Hay là vực thẳm có thể nuốt trọn bất kỳ ai… tuyệt vọng, trống rỗng bủa vây, tôi nhớ mẹ, nghĩ mình gặp mẹ thế này hoá ra lại hay. Lòng tôi chết, trần đời này chỉ có mẹ là người thương tôi nhất.

      Bỗng có người nắm lấy tay tôi, gió ào ào lướt qua vành tai, người đó ôm tôi vào lòng. Gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc nhanh… Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy… Nhiều lần toan chụp lấy mỏm đá, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả rơi cùng tôi và chàng, như làn mưa sa… Giống buổi tối nọ ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt tôi và chàng… Giữa đất trời bao la, đôi mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.

      Đôi mắt ấy chỉ đong đầy bóng hình tôi.

      Tôi có nằm mơ cũng ngờ, chàng nhảy xuống giữ tôi. Tôi cứ ngỡ, chàng chưa bao giờ tôi lòng.

      Chàng gọi:

      - Tiểu Phong!

      Gió lướt qua vành môi thổi bạt tiếng chàng, đến nỗi chẳng lọt vào tai. Tôi nghĩ, hẳn mình nghe nhầm rồi chăng, hoặc tất cả chỉ là ảo giác. Làm gì có chuyện chàng nhảy xuống, vì chàng là Lý Thừa Ngân, chứ nào có phải Cố Tiểu Ngũ của tôi. Cố Tiểu Ngũ của tôi chết rồi, chàng hy sinh trong cuộc chiến với Nguyệt Thị và Trung Nguyên.

      Chàng câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi chẳng thể hiểu.

      Câu cuối cùng đọng lại trong hồi ức, mà có lẽ chàng nhảy xuống theo tôi chỉ để với tôi câu đó. Song tôi chẳng muốn biết chàng những gì… Tôi chỉ cảm thấy thanh thản và bình yên, tôi biết vào khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, tôi lẻ loi mình… Thân thể nặng trĩu rơi xuống nước, nước xanh biếc vây xung quanh tôi, đau tựa ngàn nhát dao sắc lạnh xé vào da thịt. Tôi buông xuôi, phó mặc cho người lắng xuống đáy nước sâu, như đứa con trở về với mẹ, như bông hoa xinh đáp mình xuống đất, là cõi về rất đỗi bình yên, bấy lâu nay tôi vẫn luôn hiểu…

      Nước sông Quên, đặng quên tình…



                  “Có con cáo đơn,


                  Ngồi cồn cát ngắm trăng mình,


                  Cơ mà đâu phải ngắm trăng,


                  Cáo mong đợi nàng chăn dê.


                  Có con cáo bơ vơ,


                  Ngồi cồn cát thẩn thơ sưởi mình,


                  Nào đâu cáo muốn sưởi mình,


                  Cáo đợi mình cưỡi ngựa qua.”


      Khó nghe thế! Đổi bài khác !

      Nhưng ta chỉ biết mỗi bài này…



      Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta quên được chàng!

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :