Âm Mưu Ngày Tận Thế - Sidney Sheldon

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 15



      Ngày thứ tư - London.

      Thứ năm, ngày 18 tháng Mười.

      Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là người ham mê chương trình "Phong cách của những người giàu có và nổi tiếng", Mothershed chăm chú theo dõi cách đứng, ăn mặc và năng của những vị khách của Robin Leach, bởi vì ta tin rằng ngày nào đó, mình cũng xuất chương trình này. Từ khi còn là cậu bé, ta cảm thấy rằng số mệnh của mình là phải trở thành nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng.

      - Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ ta vẫn thường . - Con của mẹ rồi đây nổi tiếng khắp thế giới.

      Cậu bé con thường ngủ với lời đó vang vang trong tai cho đến khi cậu ta thực tin là như thế.

      Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng mình có những khó khăn: Cậu ta hề biết mình trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách nào. dạo, Mothershed ám ảnh với ý nghĩ trở thành ngôi sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. Cũng thoáng thèm muốn trở thành ngôi sao bóng đá, nhưng cậu ta lại phải là vận động viên. Rồi lại nghĩ tới việc trở thành khoa học gia nổi tiếng, hay luật gia vĩ đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. may, học lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường mà cũng gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là cuộc sống này công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thiếu cảm tình, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp choằn, chỉ có mét sáu lẻ chút. Mothershed luôn nhấn mạnh tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi mình với thực tế là những người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, Dustin Hoffman, Peter Falk...

      Nghề duy nhất thực làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú là chụp ảnh. Song nó là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. Người ta chỉ cần ấn cái nút.

      Mẹ cậu mua cho cậu cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu của cậu và tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp được. Khi lên mười, Mothershed tin rằng cậu là nhà nhiếp ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng mình hoàn toàn có tài như Ansel Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với khoản cho vay của bà mẹ, Leslie Mothershed mở hiệu ảnh ngay trong cái căn hộ ở Whitechpel của mình.

      - Hãy bắt đầu bằng việc , - bà mẹ , - nhưng nghĩ lớn. Và đó chính là điều Leslie làm. ta bắt đầu rất và nghĩ rất lớn, nhưng may là ta hề có tài năng nhiếp ảnh. ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi mình rằng tất cả những thiên tài đều bị phản bác trước khi tài năng của họ được công nhận. ta tự cho mình là kẻ tử vì đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường.

      Và rồi, từ trời cơ hội lớn cho ta tới. Người em họ của bà mẹ ta, làm việc cho hãng xuất bản Harper Collins, tiết lộ với Mothershed rằng họ chuẩn bị làm cuốn sách giới thiệu về Thụy Sĩ.

      - Leslie, họ vẫn chưa chọn được người nhiếp ảnh vậy cháu nên sang Thụy Sĩ ngay và mang về vài tấm ảnh có tầm cỡ cuốn sách này có thể là của cháu.

      Leslie Mothershed vội vã thu xếp hành trang và lên đường Thụy Sĩ. ta biết, cách , rằng đây chính là cơ hội mà ta tìm kiếm. Cuối cùng những kẻ ngu ngốc cũng sắp phải công nhận tài năng. ta thuê chiếc xe ở Geneva và khắp nơi chụp hình những ngôi nhà gỗ kiểu Thụy Sĩ, những thác nước, và những đỉnh núi cao tuyết phủ. ta chụp cảnh hoàng hôn, bình minh và cảnh những người nông dân làm việc những cánh đồng.

      Và rồi, giữa những thứ đó, số mệnh can thiệp và thay đổi cuộc sống của ta. đường đến Bern, động cơ xe của ta bị hỏng. ta dừng xe lại bên lề đường, bực tức. Vì sao lại là mình? ta ngồi đó, cáu kỉnh, tiếc cho thời gian bị mất và món tiền phải trả để kéo xe sửa. Mothershed rền rĩ, vì sao những chuyện này luôn xảy ra với mình nhỉ? Phía sau ta mười lăm kilômét là làng Thun. Mình gọi xe kéo ở đó, Mothershed nghĩ. Như vậy đến nỗi quá đắt.

      - ta vẫy chiếc xe chở dầu chạy ngang.

      - Tôi cần cái xe kéo, - Mothershed giải thích. - có thể dừng lại cái gara nào đó ở Thun và bảo họ đến đây hộ tôi được ?

      Người lái chiếc xe bồn lắc đầu.

      - Hôm nay là chủ nhật bạn ạ. Gara gần nhất có thể vẫn làm việc phải là Bern.

      - Bern à? Từ đây đến đó phải năm chục kilômét.

      - Tôi phải trả cả đống tiền mất.

      Người lái xe bồn mỉm cười.

      - Đúng thế. Ở đó họ tính giá làm ngày chủ nhật mà. - Và ta rồ ga chuẩn bị cho xe chạy.

      - Gượm . - Nhà nhiếp ảnh khó khăn lắm mới thốt ra lời.

      - Tôi trả tiền cho chiếc xe kéo từ Bern.

      - Được. Tôi bảo họ phái ai đó đến đây.

      Leslie Mothershed ngồi buồn nản trong chiếc xe hỏng của mình. Tất cả những gì mình cần là thế này đây, ta cay đắng nghĩ. ta chi quá nhiều tiền để mua phim và bây giờ lại phải trả tiền cho thằng ăn cắp nào đó để kéo chiếc xe này . Phải mất gần hai tiếng đồng hồ dài đằng đẵng, chiếc xe kéo mới đến. Khi người thợ máy bắt đầu móc sợi dây cáp từ chiếc xe tải vào chiếc xe của ta từ phía bên kia con đường có vầng sáng lóa, kèm theo là tiếng nổ lớn, và Mothershed ngẩng lên, thấy vật thể sáng lóa rơi từ trời xuống. Chiếc xe duy nhất khác xa lộ lúc bấy giờ là chiếc bus du lịch, và nó dừng lại sau chiếc xe của Leslie. Hành khách chiếc xe bus vội vã chạy về phía xảy ra vụ tai nạn. Mothershed lưỡng lự, giằng xé giữa tính tò mò và việc muốn tiếp tục lên đường. ta quay người và theo những hành khách của chiếc xe bus.

      Khi đến nơi xảy ra cố, ta đứng đó chết lặng.

      Lạy Chúa, ta nghĩ, đó phải là . ta nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa bay... Leslie Mothershed nghe chuyện về những vật thể lạ và đọc về chúng, nhưng chưa bao giờ ta tin rằng chúng có .

      ta há hốc mồm, kinh hãi trước cái cảnh tượng kỳ quái. Vỏ chiếc đĩa bay bị tung ra, và ta có thể thấy hai cái xác ở trong đó, thó, với những cái đầu to, mắt trũng, có tai và gần như có cằm. Họ có vẻ như mặc những bộ quần áo bằng kim loại màu bạc.

      Nhóm du khách chung quanh ta đứng nhìn trong im lặng ghê sợ. Người đàn ông đứng cạnh ta ngất xỉu. người đàn ông khác quay và nôn mửa. tu sĩ có tuổi nắm chặt lấy chuỗi hạt và cứ lảm nhảm điều gì đó.

      - Lạy Chúa, - ai đó . - Đó là cái đĩa bay.

      Và đối với Mothershed đó chính là lúc Chúa hình. điều kỳ diệu rơi ngày vào trong lòng ta. ta, Leslie Mothershed, có mặt tại chỗ, với máy ảnh, để ghi lại câu chuyện thế kỷ này.

      tờ báo hay tạp chí nào thế giới này lại bác tấm hình mà ta sắp chụp. cuốn sách giới thiệu về Thụy Sĩ ư? Thiếu chút nữa ta cười váng lên với cái ý nghĩ đó. ta sắp làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên. Tất cả các chương trình của Robin Leach đầu tiên. ta bán những tấm hình của mình cho các tờ London Times, Sun, Mail, Mirror - Cho tất cả các báo cht tiếng và cho cả các báo chí nước ngoài nữa - Le FigaroParis Match, Oggi Der, Tag, TimeUSA Today. Báo chí khắp nơi năn nỉ để có được những tấm ảnh của ta. Nhật Bản và Nam Phi, Nga và Trung Quốc và biết nhưng đâu nữa. Mothershed thấy tim mình đập rộn lên vì quá hồi hộp. Mình cho kẻ nào được độc quyền cả. Từng tờ báo phải trả tiền trực tiếp cho mình. Mình bắt đầu với giá trăm nghìn bảng tấm, có thể là hai trăm ngàn. Và mình bán bán lại. ta bắt đầu sốt sắng nhẩm tính số tiền sắp sửa thu được.

      Leslie Mothershed mải mê với tương lai may mắn của ta đến mức suýt quên cả việc chụp ảnh.

      - Ôi lạy Chúa. Xin lỗi, - ta , biết là với ai nữa, và chạy như bay trở lại xe để lấy bộ đồ nghề chụp ảnh.

      Người thợ máy nâng bổng đầu chiếc xe hỏng lên và sẵn sàng kéo nó .

      - Chuyện gì xảy ra ở đó thế? - ta hỏi.

      - Hãy lại đó mà xem. - Mothershed đáp.

      Hai người chạy ngang qua đường về phía cánh rừng, và Mothershed chen qua đám du khách.

      - Xin lỗi, xin lỗi.

      ta điều chỉnh ống kính máy ảnh và bắt đầu chụp cái vật thể bay lạ kia với những hành khách kỳ dị của nó. Mỗi khi tiếng máy kêu tạch, Mothershed lại nghĩ, triệu bảng... triệu bảng nữa... triệu bảng nữa.

      Vị tu sĩ bước qua chỗ ta và :

      - Đó là gương mặt của quỷ Satăng.

      Satăng, mẹ kiếp, Mothershed hào hứng nghĩ. Đó là gương mặt của tiền bạc. Đây là những bức ảnh đầu tiên chứng tỏ rằng có tồn tại những đĩa bay. Và rồi, đột nhiên, ý nghĩ khủng khiếp nảy ra trong đầu ta. Nếu những tờ tạp chí chết tiệt kia cho rằng những tấm ảnh là giả sao? có hàng đống những tấm ảnh giả về những vật thể bay lạ. Cơn hào hứng của ta biến mất. Nếu như họ tin mình sao? Và đó là lúc Leslie Mothershed chợt có ý nghĩ khác.

      Có chín nhân chứng đứng xung quanh ta. Dù chỉ là vô tình, họ xác nhận tính chân thực cho phát của ta.

      Mothershed quay lại trước nhóm du khách.

      - Thưa quý bà và quý ông, - ta to. - Nếu tất cả quý vị muốn có ảnh của mình được chụp ở đây, xin đứng thành hàng và tôi vui lòng được gửi cho mỗi vị tấm, tặng thôi.

      Những tiếng kêu lên vui vẻ. Chỉ trong tích tắc, các du khách chiếc xe bus, trừ vị tu sĩ, đứng thành hàng bên cạnh xác của chiếc vật thể bay kia. Vị tu sĩ đầy vẻ ái ngại. Ông ta :

      - Tôi thể, đó là quỷ dữ.

      Mothershed cần vị tu sĩ. Ông ta là nhân chứng có sức thuyết phục nhất trong tất cả.

      - Đó chính là vấn đề, - Mothershed cố thuyết phục. - Cha thấy sao? Đây chính là lời chứng của cha về tồn tại của quỷ dữ.

      Và sau cùng vị tu sĩ bị thuyết phục.

      - Đứng giãn ra chút, - Mothershed cầu, - để chúng ta còn có thể nhìn thấy cái đĩa bay chứ.

      Các nhân chứng sửa lại chỗ đứng.

      - Được rồi. Rất tốt. Tuyệt. Giữ nguyên thế nhé, nào.

      ta chụp khoảng nửa tá ảnh nữa và lấy ra cái bút chì và mẩu giấy.

      - Nếu như các vị ghi tên và địa chỉ lại, tôi lo để mỗi vị nhận được tấm ảnh.

      ta có ý định gửi tấm ảnh nào cả để mỗi vị nhận được tấm ảnh. Tất cả những gì ta muốn chỉ là những nhân chứng để chứng thực mà thôi. Hãy để mặc những tờ báo và tạp chí chết tiệt kia lo chuyện đó.

      Và rồi, đột nhiên, ta nhận thấy vài người trong nhóm du khách kia cũng có máy ảnh. ta thể để cho ai nữa ngoài ta có những bức ảnh này. Chỉ có những tấm ảnh đề "Do Leslie Mothershed chụp" mới được tồn tại mà thôi.

      - Xin lỗi, - ta với tất cả. - Những ai trong số quý vị có máy ảnh, nếu các vị muốn tôi chụp giúp để các vị có vài tấm trong máy của chính các vị.

      Những chiếc máy ảnh được nhanh chóng trao cho Leslie. Khi ta quỳ xuống để lấy khuôn hình cho lần chụp đầu, ai để ý thấy rằng Mothershed bật mở buồng phim và cứ để nó hở như thế. Thế, chút ánh sáng mặt trời tươi đẹp này giúp cho nhưng tấm ảnh biến mất. tệ, các bạn của tôi, nhưng chỉ có những người chuyên nghiệp mới được phép chớp lấy các cơ hội lịch sử của họ.

      Mười phút sau, Mothershed có tất cả tên và địa chỉ của đám khách du lịch. ta nhìn chiếc đĩa bay lần cuối và phấn khởi nghĩ: Mẹ đúng, mình trở nên giàu có và nổi tiếng.

      ta thể nào đợi tới lúc quay trở về London để rửa những tấm ảnh quý giá kia.

      ***

      - Chuyện quái quỷ gì xảy ra thế nhỉ?

      Suốt đêm, các đồn cảnh sát ở khu vực Uetendort ngập trong những cú điện thoại.

      - Có kẻ nào đó cứ lảng vảng xung quanh nhà tôi...

      - Có những thứ ánh sáng lạ phía bên ngoài...

      - Đàn gia súc của tôi phát điên lên. Hẳn phải có những con sói đâu đây...

      - Có ai đó làm khô kiệt máng nước của nhà tôi...

      Và cú điện thoại khó giải thích trong số đó:

      - Này, sếp, ngài nên phái nhiều xe kéo ra trục xa lộ chính ngay thôi. cơn ác mộng. Tất cả giao thông ngừng trệ.

      - Cái gì hả? Vì sao?

      - ai biết cả. Tất cả các động cơ xe đều chết đột ngột.

      Đó là đêm mà họ bao giờ quên.


      Chương 16



      Nhiệm vụ này kéo dài bao lâu nhỉ? Robert nghĩ ngợi trong lúc buộc dây an toàn vào người chiếc ghế hạng nhất của hãng Hàng Thụy Sĩ.

      Khi chiếc máy bay lao đường băng, những chiếc động cơ Rolls - Royce khổng lồ của nó như uống lấy khí của trời đêm, Robert thả lỏng người và nhắm mắt lại. Có phải mới chỉ cách đây vài năm mình cũng chuyến bay này, cùng với Susan sang London nhỉ? . Có vẻ như cách đây cả đời người rồi.

      Chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Heathrow lúc 6 giờ 29 phút chiều theo đúng thời gian biểu. Robert ra khỏi đám đông và lên chiếc tắcxi chạy vào thành phố. nhìn hàng trăm cái mốc quen thuộc và như có thể nghe thấy tiếng Susan thích thú bình luận về chúng. Trong nhưng ngày tươi sáng ấy, việc họ ở đâu bao giờ là vấn đề. Đơn giản là họ ở bên nhau, thế là đủ. Họ mang theo bên mình hạnh phúc và những niềm hứng thú đặc biệt đối với nhau. Mối quan hệ của họ là cuộc hôn nhân kết thúc vui sướng.

      Gần như thế.

      Những rắc rối của họ bắt đầu cách tình cờ với cú điện thoại của Đô đốc Whittaker khi Robert và Susan du ngoạn ở Thái Lan. Khi đó, Robert rời khỏi Hải quân được sáu tháng và hề chuyện với vị Đô đốc trong suốt quãng thời gian đó. Cú điện thoại, gọi cho họ tại khách sạn Oriental ở Bangkok, là cả ngạc nhiên.

      - Robert hả? Đô đốc Whittaker.

      - Thưa Đô đốc. vui khi nghe thấy tiếng ngài.

      - dễ gì tìm được đâu. theo đuổi chuyện gì vậy hả?

      - có gì nhiều. cách đơn giản là chúng tôi tuần trăng mật dài với nhau.

      - Susan có khỏe ? Mà là Susan chứ?

      - Vâng. ấy khỏe, cảm ơn ngài.

      - phải mất bao lâu để trở về Washington hả?

      - Ngài gì cơ ạ?

      - Điều này chưa công bố, nhưng tôi được bổ nhiệm chức vụ mới, Robert. Họ cử tôi làm phó giám đốc Phòng 17 Tình báo hải quân. Tôi muốn cùng làm việc.

      Robert giật mình.

      - Tình báo hải quân ạ? Thưa Đô đốc, tôi hề biết gì về...

      - có thể học. làm công việc rất hữu ích cho đất nước mình, Robert. đến và bàn việc này với tôi chứ?

      - Ồ.

      - Tốt. Tôi chờ ở văn phòng của tôi vào ngày thứ hai, lúc 9 giờ 00. Cho tôi gửi lời chào tới Susan nhé.

      Robert kể lại câu chuyện với Susan.

      - Tình báo hải quân à? Có vẻ thú vị đấy.

      - Có thể, - Robert vẻ nghi ngờ. - hề biết công việc thế nào.

      - phải tìm hiểu chứ.

      nhìn trong giây lát.

      - Em muốn nhận phải ?

      quàng tay ôm lấy .

      - Em muốn làm bất kỳ điều gì mà muốn làm. Em nghĩ là sẵn sàng trở lại với công việc. Em để ý thấy là trong mấy tuần vừa qua, trở nên bồn chồn.

      - nghĩ là em tìm cách vứt bỏ , - Robert trêu chọc. - Tuần trăng mật kết thúc rồi.

      Susan kề đôi môi lại sát môi .

      - bao giờ. Em chưa bao giờ với là em đến phát điên lên vì như thế nào hả, chàng thủy thủ? Để em cho thấy nhé...

      Sau này nghĩ lại, khi quá muộn, Robert cho rằng đó chính là lúc bắt đầu của chấm dứt cuộc hôn nhân của họ. Lời đề nghị lúc đó có vẻ tuyệt vời và trở lại Washington để gặp Đô đốc Whittaker.

      - Công việc này đòi hỏi trí tuệ, lòng dũng cảm, và sáng tạo, Robert ạ. có cả ba thứ đó. Đất nước chúng ta trở thành mục tiêu của bất kỳ chế độ độc tài tầm thường và bé nào có thể nuôi dưỡng nhóm khủng bố hoặc xây dựng nhà máy chế tạo vũ khí hóa học. trong số các nước này tìm cách sản xuất bom nguyên tử để buộc chúng ta phải hối lộ họ. Công việc của tôi là xây dựng mạng lưới tình báo để phát chính xác họ làm gì và tìm cách ngăn chặn lại. Tôi muốn giúp đỡ.

      Sau cùng, Robert chấp nhận công việc ở Tình báo hải quân, và chính cũng ngạc nhiên là thấy thích thú và hơn thế, có năng khiếu với nó. Susan tìm được căn hộ tử tế ở Rosslyn, bang Virginia xa nơi Robert làm việc, và vùi đầu vào việc mua sắm đồ đạc trong nhà. Robert được gửi đến Trang trại - trung tâm huấn luyện của CIA, dành cho những điệp viên hoạt động ngầm.

      Nằm trong khu vực được canh gác cẩn mật thuộc bang Virginia, Trang trại chiếm diện tích hai mươi dặm vuông, hầu hết được bao phủ bởi những rừng thông cao vút, với những tòa nhà chính nằm trong khu quang đãng rộng mười mẫu và cách cổng chính hai dặm. Những con đường đất tỏa ra qua những cánh rừng, với những barie chắn ngang và những tấm biển "Miễn vào" đặt ở mọi nơi. Tại sân bay , những chiếc máy bay số hiệu hạ cánh và cất cánh vài lần mỗi ngày. Trang trại có vẻ bề ngoài đầy yên bình, với cây lá sum suê, hươu nai chạy nhảy trong rừng và những tòa nhà nằm rải rác thanh thản quanh khu đất rộng lớn. Tuy nhiên, bên trong khu vực này lại là thế giới khác hẳn.

      Robert nghĩ là được huấn luyện cùng với người của Hải quân, nhưng ngạc nhiên khi thấy học viên là pha trộn cả người của CIA, Lính thủy đánh bộ, Lục quân, Hải quân và quân. Mỗi học viên mang con số riêng và ở trong căn phòng như kiểu nhà ngủ tập thể thuộc trong số những ngôi nhà Spartan hai tầng xây bằng gạch.

      Tại khu dành cho các sĩ quan độc thân, nơi Robert ở mỗi người có phòng riêng và dùng chung phòng tắm với người khác. Phòng ăn chung ở phía bên kia đường, đối diện với khu nhà này.

      Hôm Robert nhập trường, được đưa tới giảng đường cùng với ba mươi người mới tới khác.

      đại tá người da đen to lớn phát biểu với nhóm học viên. Ông ta chừng ở giữa tuổi 50, tạo ấn tượng bằng vẻ thông minh, sắc sảo và lạnh lùng. Ông ta cách ràng, sinh động và câu thừa.

      - Tôi là đại tá Frank Johnson. Tôi muốn hoan nghênh các bạn có mặt ở đây. Trong thời gian này, các bạn chỉ dùng tên đầu của mình. Từ giờ phút này trở cuộc đời các bạn cuốn sách đóng kín.

      Tất cả các bạn được tuyên thệ giữ bí mật. Tôi khuyên các bạn phải giữ lời thề đó, nghiêm ngặt. Các bạn bao giờ được phép bàn công việc của mình với bất kỳ ai - Vợ con, gia đình, bè bạn. Các bạn được tuyển lựa đưa tới đây bởi vì các bạn có những phẩm chất đặc biệt. Trước mặt các bạn có nhiều công việc nặng nề để phát triển nhưng phẩm chất đó, và phải tất cả các bạn đều vượt qua được. Các bạn tham gia vào những công việc mà trước đây các bạn chưa từng bao giờ nghe đến. Tôi thể nào hết được tầm quan trọng của công việc mà các bạn làm sau khi kết thúc ở đây. Trong các giới tự do nào đó, người ta lấy việc chỉ trích các ngành tình báo của chúng ta làm thứ mốt, dù đó là CIA, Lục quân, Hải quân hay quân, nhưng tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng nếu có những người chịu hy sinh như các bạn đất nước này gặp phải những khó khăn khủng khiếp. Ngăn chặn điều đó là công việc của các bạn. Những người nào trong số các bạn tốt nghiệp trường này trở thành các sĩ quan chỉ huy. Mà thẳng ra sĩ quan chỉ huy là điệp viên. ta hoạt động bí mật.

      Trong lúc ở đây, các bạn được huấn luyện tốt nhất thế giới trong lĩnh vực tình báo và phản gián.

      Các bạn có những bài giảng về liên lạc điện đài, mật mã, vũ khí và bản đồ. Các bạn dự lớp về mối quan hệ giao tiếp giữa con người với nhau.

      Các bạn được hướng dẫn cách xây dựng mối quan hệ như thế nào làm sao kết luận được về các động cơ của cá nhân, làm sao để làm cho đối tượng của bạn cảm thấy yên tâm.

      Cả lớp nghe từng lời.

      - Các bạn học cách gặp gỡ và tuyển gián điệp như thế nào. Các bạn được huấn luyện để đảm bảo rằng các địa điểm gặp gỡ là an toàn. Các bạn học về các "hộp thư chết", về cách liên lạc bí mật với các nguồn tin của các bạn. Nếu các bạn thành công với những việc làm này, các bạn hoàn thành nhiệm vụ của mình cách bí mật và bị lộ.

      Robert cảm thấy khí hồi hộp bao trùm tất cả.

      - số trong các bạn hoạt động dưới bình phong chính thức. Nó có thể là bình phong ngoại giao hoặc quân . Những người khác làm việc dưới những bình phong bán chính thức trong tư cách cá nhân: như những nhà kinh doanh, những nhà khảo cổ, hoặc những nhà văn., bất kỳ nghề nghiệp gì cho phép các bạn tiếp cận được những lĩnh vực và những loại người có thể có những thông tin quan trọng mà các bạn tìm kiếm. Và bây giờ, tôi trao các bạn lại cho các hướng dẫn viên của các bạn. Chúc may mắn.

      Robert thấy công việc huấn luyện hấp dẫn. Hướng dẫn viên là những người từng hoạt động ngoài địa bàn và đều là những chuyên gia đầy kinh nghiệm.

      Robert tiếp thu các thông tin kỹ thuật khá dễ dàng. Ngoài những chương trình mà đại tá Johnson đề cập đến, còn có chương trình ôn luyện các ngôn ngữ và chương trình về mật mã khó khăn.

      Đại tá Johnson là cả hấp dẫn đối với Robert. Người ta xì xào rằng ông ta có những mối quan hệ chặt chẽ tại Nhà Trắng và từng tham gia vào những hoạt động ngầm cao cấp. Ông ta thường biến mất khỏi Trang trại vào ngày nào đó và đột nhiên lại xuất .

      điệp viên tên Ron điều khiển buổi lên lớp.

      "Trong chuyên án nghiệp vụ ngầm có sáu giai đoạn. Đầu tiên là phát . Khi bạn biết bạn cần thông tin gì, thách thức đầu tiên đối với bạn là phát và nghiên cứu những cá nhân có khả năng tiếp cận với thông tin đó. Giai đoạn hai là đánh giá. khi bạn phát được đối tượng, bạn phải đánh giá ta có có thông tin mà bạn cần và liệu có thể tuyển chọn ta được . Động cơ gì thúc đẩy ta? ta có hài lòng với công việc ? ta có hằn học gì với sếp của ta ? ta có khó khăn về tiền bạc ? Nếu triển vọng là có thể tiếp cận được và có động cơ nào đó có thể khai thác được các bạn chuyển sang giai đoạn ba.

      "Giai đoạn ba là giai đoạn phát triển. Các bạn xây dựng mối quan hệ với đối tượng dự tuyển.

      Đầu tiên, các bạn phải tạo được tiếp xúc nhiều nhất có thể. Giai đoạn tiếp theo là tuyển chọn. Khi bạn nghĩ là sẵn sàng, bạn phải nghiên cứu ta về mặt tâm lý. Bạn sử dụng bất kỳ thứ vũ khí tâm lý gì mà bạn có trong tay: trả thù sếp của ta, tiền bạc, tác động của nó. Nếu sĩ quan chỉ huy làm tốt công việc của ta thường là đối tượng dự tuyển đồng ý.

      Đến thế là tốt rồi. Bạn gián điệp làm việc cho bạn. Bước tiếp theo là điều khiển ta. Bạn phải đảm bảo an toàn chỉ cho chính bạn mà còn cho cả ta nữa. Bạn phải tổ chức các cuộc gặp gỡ bí mật và huấn luyện ta sử dụng vi phim và, nếu thích hợp, cả điện đài nữa. Bạn huấn luyện cho ta cách phát ngoại tuyến, cách khai báo khi bị tra hỏi, vân vân.

      "Giai đoạn cuối cùng là chấm dứt liên lạc. Sau thời gian, có thể là người được bạn tuyển chọn bị thuyên chuyển tới vị trí công tác khác và còn tiếp cận được với nguồn thông tin nữa, hoặc có thể chúng ta còn cần tới nguồn thông tin mà ta có. Trong bất kỳ tình huống nào, mối quan hệ đó phải chấm dứt, nhưng điều quan trọng là phải chấm dứt nó ra sao để gián điệp đó cảm thấy bị lợi dụng và tìm cách trả thù...

      Đại tá Johnson đúng. phải tất cả đều qua được khóa học. Những gương mặt quen cứ biến mất. chút dấu tích.

      ai biết vì sao.

      ai hỏi.

      hôm, trong khi nhóm học chuẩn bị Richmond để thực tập ngoại tuyến, hướng dẫn viên của Robert :

      - Chúng ta xem khả năng của thế nào, Robert ạ. Tôi phái ai đó bám đuôi . Tôi muốn cắt đuôi. có nghĩ là có thể làm được điều đó ?

      - Có thưa ông.

      - Chúc may mắn.

      ***

      Robert xe bus đến Richmond và rồi bắt đầu bộ các đường phố. Chỉ trong vòng năm phút nhận diện được những người bám theo .

      Bọn họ có hai người. người bộ và người trong ô tô. Robert tìm cách lẩn vào trong các tiệm ăn và các cửa hiệu rồi nhanh chóng ra bằng các cửa sau, nhưng thể nào dứt họ được. Họ được huấn luyện quá tốt. Sau cùng, lúc gần như đến giờ phải trở về Trang trại, Robert vẫn chưa thể nào thoát khỏi họ. Họ bám theo quá chặt chẽ. Robert bước vào cửa hiệu bách hóa, và hai người kia đứng vào những vị trí mà họ có thể khống chế được cả các lối vào lẫn lối ra. Robert dùng thang máy lên khu bán quần áo cho đàn ông. Ba mươi phút sau, khi xuống, mặc người bộ complê khác, cái áo khoác và mũ khác, và vừa vừa chuyện với người phụ nữ, trong tay bế đứa trẻ.

      ngang qua những người theo dõi hề bị nhận ra.

      Ngày hôm đó, là người duy nhất cắt "đuôi" thành công.

      ***

      Bản thân những thuật ngữ được dạy ở Trang trại cũng là thứ ngôn ngữ rồi.

      "Các bạn có thể dùng đến tất cả những thuật ngữ này, - người hướng dẫn viên với cả lớp nhưng các bạn nên biết chúng. Có hai loại gián điệp khác nhau: gián điệp gây ảnh hưởng và gián điệp hành động. Người gián điệp gây ảnh hưởng tìm cách thay đổi dư luận ở quốc gia nơi ta hoạt động.

      Còn gián điệp hành động được phái để gây rối và tạo ra những tình hình lộn xộn. "Đòn bẩy sinh vật" là tiếng lóng của CIA chỉ việc hăm dọa. Cũng có những vụ "túi đen", thay đổi từ những vụ hối lộ đến những vụ đột nhập. Watergate là vụ như vậy.

      Ông ta nhìn quanh lớp để tin rằng cả lớp chú ý. Họ nghe như uống lấy từng lời.

      Đôi khi các bạn có thể cần tới "thợ giày" - đó là người làm hộ chiếu giả mạo.

      Robert băn khoăn, liệu có bao giờ cần tới thợ giày hay .

      Thuật ngữ "Giáng cấp tối đa" thuật ngữ đáng sợ. Nó có nghĩa là thanh lọc bằng cách giết . Từ thanh loại cũng như vậy. Nếu bạn nghe ai đó về "Công ty", đó là biệt danh chúng ta dùng đề cập tới Cơ quan tình báo . Nếu bạn được cầu "tẩy uế" căn phòng, bạn tìm các tổ mối mà bạn phải tìm ra các dụng cụ nghe trộm.

      Lối này làm cho Robert thấy hứng thú.

      "Các tiểu thư" là tiếng lóng chỉ các được phái để dàn xếp với đối tượng. "Huyền thoại" là lai lịch của gián điệp được tạo ra để cung cấp cho ta vỏ bọc. " riêng" có nghĩa là rời khỏi nghề.

      Hướng dẫn viên đưa mắt nhìn cả lớp.

      - Có ai trong các bạn biết "người dạy sư tử" là thế nào hả?

      Ông ta đợi câu trả lời. Im lặng.

      - Khi gián điệp bị bỏ rơi, đôi khi ta cảm thấy tức bực và có thể đe dọa tiết lộ những gì ta biết. người đầy cơ bắp, tài tử dạy sư tử, được gọi đến để làm cho ta dịu . Tôi tin chắc ai trong số các bạn phải đối mặt với tài tử như thế.

      Lời bình luận gây ra tiếng cười sợ hãi.

      Rồi có từ "lên sởi". Nếu đối tượng chết vì lên sởi điều đó có nghĩa là đối tượng bị giết cách khéo léo đến mức cái chết có vẻ như là tai nạn hoặc do những lý do tự nhiên. cách gây bệnh sởi là dùng hợp chất "Tabun". Đó là hợp chất màu hoặc hơi nâu, gây tê liệt thần kinh khi ngấm qua da. Nếu ai đó trao cho bạn cái "đàn hộp" điều đó có nghĩa là họ trao cho bạn máy phát vô tuyến. Người sử dụng điện đài được gọi là nhạc sĩ. Trong tương lai, số trong các bạn phải hoạt động "trần trụi". Đừng vội cởi bỏ quần áo, điều đó đơn giản có nghĩa là bạn chỉ có mình và hỗ trợ nào cả. Còn điều nữa mà tôi muốn đến hôm nay. trùng lặp tình cờ. Trong công việc của chúng ta, "con vật" đó: Nó thường báo hiệu nguy hiểm. Nếu các bạn thường xuyên chạm trán cùng người nào đó, hoặc khi hoạt động các bạn thường xuyên phát chiếc xe nào đó, hãy che cái mông của mình . Có thể các bạn gặp chuyện chẳng lành. Cuối cùng, tôi nghĩ là hôm nay thế là đủ, thưa quý vị. Ngày mai chúng ta lại tiếp tục nơi chúng ta ngừng lại này.

      Thỉnh thoảng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn phòng của ông ta để "chuyện gẫu", như cách ông ta . Các câu chuyện có vẻ bình thường cách tin nổi và Robert biết trong đó là cuộc thăm dò diễn ra.

      - Tôi nghe cuộc hôn nhân hạnh phúc, Robert.

      - Đúng vậy ạ.

      Suốt nửa giờ sau đó, họ chuyện về hôn nhân, lòng trung thành, và lòng tin.

      lần khác:

      - Đô đốc Whittaker coi như con, Robert. biết thế chứ?

      - Vâng. Nỗi đau về cái chết của Edward là cái gì đó bao giờ qua .

      Họ chuyện về trung thành, bổn phận và cái chết.

      - Robert, đối mặt với cái chết hơn lần. có sợ chết ?

      . Nhưng chết cho đáng chết, Robert nghĩ. Chứ phải cái chết vô nghĩa.

      Những cuộc gặp làm cho Robert chán nản bởi vì họ như nhìn vào tấm gương dị dạng. Đại tá Johnson có thể nhìn , nhưng bản thân đại tá lại vô hình, con người bí được bao bọc bởi bức màn bí mật.

      Khóa học kéo dài 16 tuần, và trong thời gian đó, ai trong số họ được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Robert nhớ Susan cách ghê gớm. Đây là thời gian họ xa nhau lâu nhất. Khi hết bốn tháng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn phòng của ông ta.

      - Đây là cuộc gặp để tạm biệt. làm việc rất tuyệt vời, Robert. Tôi nghĩ là thấy tương lai của mình rất hấp dẫn đấy.

      - Cám ơn ngài. Tôi cũng hy vọng như thế.

      - Chúc may mắn.

      Đại tá Johnson nhìn Robert bước ra. Ông ta ngồi yên trong năm phút rồi có quyết định. Ông ta bước tới bên cửa và khóa trái lại. Rồi ông ta nhấc điện thoại lên gọi.

      ***

      Susan đợi . mở cửa căn hộ của họ, người là chiếc váy ngủ trong veo chẳng che đậy được gì cả. lao vào trong vòng tay và ôm chặt.

      - Chào , chàng thủy thủ. muốn cuộc vui chứ?

      - có đây thôi, - Robert đầy vẻ hạnh phúc, - Chỉ bằng việc ôm em.

      - Chúa ơi, em nhớ quá. - Susan lùi lại và thốt lên. - Nếu có chuyện gì xảy ra với em nghĩ là em chết mất.

      - Chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra với cả.

      - hứa chứ?

      - hứa.

      - Trông có vẻ mệt mỏi. - nhìn , thoáng lo lắng.

      - Đó là khóa học rất căng thẳng, - Robert thừa nhận. bớt . Với tất cả bài vở phải học, cùng với các bài thực hành trực tiếp, học viên nào có thể ngủ quá vài tiếng đêm. có mấy lời phàn nàn chỉ vì lý do rất đơn giản: Họ đều biết rằng cái mà họ học, ngày nào đó có thể cứu mạng sống cho họ.

      - Em biết chính xác là cần gì bây giờ, - Susan tuyên bố.

      - . - Robert nhoẻn cười. ôm lấy .

      - Khoan . Cho em vài phút. cởi quần áo .

      nhìn bước và nghĩ, Sao người ta lại có thể may mắn thế nhỉ? bắt đầu cởi quần áo.

      Vài phút sau, Susan quay lại. dịu dàng .

      - Hừm, em thích trần truồng cơ.

      nghe thấy giọng người hướng dẫn viên :

      " số trong các bạn hoạt động trần trụi. Điều đó có nghĩa là bạn chỉ có mình và hỗ trợ nào." Mình lao vào chuyện gì thế nhỉ? đẩy Susan vào chuyện gì vậy?

      dẫn vào trong phòng tắm. Bồn tắm được bơm đầy nước có lẫn nước hoa, và căn phòng mờ tối với bốn ngọn nến lung linh.

      - Đón về nhà, . - cởi chiếc váy ngủ mỏng dính và bước vào bồn tắm. theo bước .

      - Susan.

      - Đừng . Hãy dựa vào người em.

      cảm thấy hai bàn tay vuốt ve lưng và hai bả vai , cảm thấy những đường cong mềm mại của thân thể áp vào người , và quên nỗi mệt của mình. Họ làm tình với nhau, trong làn nước ấm, và khi họ lau khô người, Susan :

      - Chơi trước thế là quá nhiều đấy. Bây giờ mình mới vào cuộc nhé.

      Họ lại làm tình và sau đó, khi Robert sắp thiếp ôm Susan trong tay, nghĩ, luôn luôn là như thế này. Mãi mãi.
      piipp thích bài này.

    2. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 17



      Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Phòng 17 Cục Tình báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng nhiệt:

      - Chúc mừng trở về, Robert. ràng là rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.

      - Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. - Robert mỉm cười.

      Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:

      - sẵn sàng làm việc chưa hả?

      - Rất sẵn sàng.

      - Tốt. Chúng ta có vụ việc ở Rhodesia...

      Làm việc ở Cục Tình báo hải quân thậm chí còn hấp dẫn hơn cả những gì Robert chờ đón. Mỗi nhiệm vụ khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối nhạy cảm. mang về người đào nhiệm cho biết hoạt động buôn lậu ma túy của Noriega ở Panama, phát điệp viên làm việc cho Marcos trong tòa lãnh quán Mỹ ở Manila, và giúp dựng lên trạm nghe lén ở Morocco. được cử công tác tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm phiền muộn là việc phải xa Susan lâu. muốn phải xa thường nhớ cách khủng khiếp. hứng thú trong công việc của mình nhưng Susan có gì cả.

      Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày càng tăng lên. ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.

      Mỗi khi Robert về đến nhà, và Susan thường lao vào vòng tay của nhau cách đầy thèm khát và rồi làm tình đầy cuồng nhiệt. Nhưng những lúc như thế mỗi ngày mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về lại lập tức bị phái với nhiệm vụ mới.

      Chuyện càng xấu thêm khi Robert thể nào bàn công việc của với . Susan hề biết đâu, làm gì. chỉ biết rằng liên quan với những công việc nguy hiểm và lo sợ rằng ngày nào đó bao giờ trở về nữa. dám hỏi . cảm thấy mình như người lạ, hoàn toàn bị tách khỏi phần quan trọng trong đời sống của . Đời sống của họ. Mình thể tiếp tục như thế này được. Susan quyết định.

      Khi Robert trở về sau bốn tuần công tác ở Trung Mỹ, Susan :

      - Robert, em nghĩ chúng ta nên chuyện với nhau.

      - Có chuyện gì vậy? - Robert hỏi. biết là có chuyện gì.

      - Em sợ. Chúng mình mất nhau, và em muốn thế. Em thể chịu được.

      - Susan.

      - Khoan . Để em nốt. có biết trong bốn tháng qua chúng mình được ở bên nhau bao lâu ? Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi trở về, em cảm thấy dường như người khách chứ phải là chồng em.

      ôm chặt Susan vào trong lòng.

      - Em biết là em đến thế nào mà.

      - Xin đừng để chuyện gì xảy ra cho chúng mình. - tựa đầu vào .

      - để như thế, - hứa. - chuyện với Đô đốc Whittaker.

      - Bao giờ nào?

      - Ngay lập tức.

      ***

      - Đô đốc gặp ông bây giờ, thưa ông chỉ huy.

      - Cảm ơn.

      Đô đốc Whittaker ngồi sau bàn làm việc, ký giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm cười.

      - Chúc mừng trở về và xin có lời khen ngợi. Công việc của làm ở El Salvador là tuyệt vời.

      - Cảm ơn ngài.

      - Mời ngồi. Tôi có thể mời chút cà phê chứ?

      - , xin cảm ơn Đô đốc.

      - muốn chuyện với tôi hả? Thư ký của tôi là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm gì cho nào?

      là khó mở đầu.

      - Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân thôi. Tôi cưới vợ chưa đầy hai năm và...

      - lựa chọn tuyệt vời đấy, Robert. Susan là phụ nữ đáng .

      - Vâng, tôi đồng ý như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi xa hầu hết thời gian, và ấy bất hạnh về chuyện đó - vội thêm. - Và ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó phải là chuyện bình thường.

      Đô đốc Whittaker dựa người lưng ghế và trầm ngâm :

      - Tất nhiên là được làm việc trong điều kiện bình thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.

      - Tôi biết, - Robert bướng bỉnh đáp, - nhưng tôi hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó là quá sức đối với tôi.

      - Tôi hiểu. Thế cầu gì nào? - Vị Đô đốc nhìn dò xét.

      - Tôi hy vọng là ngài có thể tìm cho tôi vài công việc mà tôi phải xa nhà nhiều như vậy. Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.

      - Nghĩa là gần nhà hơn.

      - Vâng.

      Vị đô đốc chậm rãi :

      - Chắc chắn là toại nguyện. Tôi cho là thể dàn xếp được chuyện như vậy.

      Robert mỉm cười nhõm.

      - Ngài tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi rất biết ơn về điều đó

      - Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta có thể thu xếp chuyện đó. Hãy hộ tôi với Susan là vấn đề được giải quyết.

      - Tôi còn biết cảm ơn ngài như thế nào cho phải. - Robert đứng dậy, rạng rỡ.

      Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ý cho ra.

      - Tôi thể để chuyện gì xảy ra đối với nhân viên quý báu như được. Còn bây giờ hãy về nhà với người vợ trẻ của .

      Khi Robert lại với Susan, sướng run lên. choàng tay ôm lấy .

      - Ôi . là tuyệt diệu.

      - xin ông ta nghỉ vài tuần để chúng ta có thể có chuyến đâu đó. Nó là tuần trăng mật thứ hai của chúng ta.

      - Em quên mất thế nào là tuần trăng mật rồi, - Susan thầm. - Hãy cho em thấy !

      Robert cho thỏa lòng.

      ***

      Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi Robert.

      - Tôi muốn biết rằng tôi thu xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.

      - Cảm ơn Đô đốc. - Bây giờ là lúc đến chuyện xin nghỉ phép đây. - Thưa ngài...

      Đô đốc Whittaker :

      - Robert, có chuyện thế này. - Vị Đô đốc bắt đầu lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ lo lắng sâu sắc. - Tôi vừa được thông báo rằng CIA bị đối phương cấy người vào. Dường như có tiết lộ đều đặn các thông tin tối mật. Tất cả những gì họ biết về điệp viên này chỉ là cái mật danh Con Cáo của ta. nay ta ở Argentina. Họ cần người bên ngoài CIA lo cho vụ này. Giám đốc CIA cầu . Họ muốn tìm ra điệp viên kia và mang ta về đây. Tôi bảo với họ là quyết định này tùy thuộc ở . có muốn nhận nó hay ?

      - Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa Đô đốc. - Robert lưỡng lự.

      - Robert, tôi tôn trọng quyết định của . phải liên tục và chưa bao giờ từ chối nhiệm vụ nào. Tôi biết là điều đó dễ dàng gì đối với đời sống vợ chồng của .

      - Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ này. Chỉ có điều... cần phải đâu, Robert. Ý kiến của tôi về công việc và cống hiến của vẫn giữ nguyên.

      - Tôi chỉ mong ở điều thôi.

      - Điều gì vậy thưa Đô đốc?

      - Ông phó giám đốc CIA cầu được gặp , bất luận quyết định của là thế nào. Vì phép lịch . phiền lòng chứ?

      - Tất nhiên là , thưa ngài.

      Ngày hôm sau, Robert lái xe đến Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.

      - Xin mời ngồi, ông sĩ quan, - Viên phó giám đốc khi Robert bước vào phòng đầu căn nhà rộng lớn. - Tôi nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp cả.

      - Cảm ơn ngài.

      Đó là người đàn ông sang tuổi sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và bộ ria mép cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan này được thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ nay của trong những cơ quan tình báo lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới.

      - Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng tôi tôn trọng quyết định của ông.

      Bellamy gật đầu.

      - Tuy nhiên, có việc mà tôi cảm thấy cần phải lưu ý với ông.

      - Chuyện gì vậy, thưa ngài?

      - Tổng thống đích thân tham gia vào chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.

      - Thưa ngài, tôi biết điều đó.

      - Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan này kể từ khi ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đình ông, và tôi chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực người đàn ông có khuynh hướng gia đình. Nhưng việc ông nhận nhiệm vụ này có thể, tôi phải thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục Tình báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.

      - Đô đốc có liên quan gì tới quyết định của tôi thưa ngài, - Robert .

      - Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay ?

      Tuần trăng mật phải bị hoãn lại mất, Robert nghĩ.

      Khi Robert báo tin với Susan, nhàng :

      - Đây là chuyến công tác ra nước ngoài cuối cùng của . Sau chuyến này, ở nhà nhiều đến mức em phát chán lên cho mà xem.

      mỉm cười với .

      - đời này làm gì có nhiều thời gian đến thế.

      - Chúng mình ở bên nhau mãi mãi.

      Cuộc săn đuổi Con Cáo trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. tìm được dấu vết của ở Argentina nhưng chậm so với con mồi ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi Malaisia. Dù Con Cáo là ai biết, để lại chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi có mặt nhưng bao giờ đến được nơi có mặt.

      Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như ngày nào cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu là: " trở về nhà sau vài ngày thôi, em ". Và rồi, " có thể về nhà vào tuần tới". Và sau cùng " là khi nào về được". Cuối cùng, Robert phải bỏ cuộc. bám theo dấu vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà có kết quả gì.

      Khi trở về với Susan, có vẻ thay đổi. Hơi lạnh nhạt chút.

      - xin lỗi, em , - Robert xin lỗi. - hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. Chỉ là...

      - Họ bao giờ buông tha , có phải , Robert?

      - Gì cơ? Tất nhiên là họ phải buông ra.

      - Em nghĩ như thế. Em nhận việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. - lắc đầu.

      - Em gì? - giật mình.

      - Em lại là y tá. Em thể cứ ngồi chờ trở về nhà với em, phiền muộn về việc ở đâu và làm gì, phiền muộn hiểu chết hay còn sống nữa.

      - Susan, ...

      - Cũng được thôi mà, của em. Ít nhất em cũng làm được việc gì đó có ích trong những lúc vắng. Điều đó làm cho chờ đợi trở nên nhàng hơn.

      Và Robert còn biết trả lời thế nào. báo cáo lại thất bại của mình với Đô đốc Whittaker. Vị Đô đốc tỏ ra thông cảm.

      - Tôi có lỗi trong việc đồng ý để làm nhiệm vụ đó Từ nay trở , chúng ta để cho CIA tự giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.

      Robert với ông về việc Susan nhận làm y tá.

      - Có thể đó là ý kiến hay đấy, - Vị Đô đốc trầm ngâm . - Nó làm cho cuộc sống vợ chồng của bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như có những công tác ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.

      Cái gọi là thỉnh thoảng kia hóa ra gần như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân bắt đầu tan rã.

      Susan làm việc tại bệnh viện Memorial cương vị y tá giúp việc ở phòng mổ, và khi Robert có nhà, thường cố gắng xin nghỉ để ở bên , nhưng càng ngày càng bận rộn hơn với công việc.

      - Em cảm thấy thích thú, ạ. Em cảm thấy em làm được công việc có ích.

      thường chuyện với Robert về các bệnh nhân của , và nhớ từng chăm sóc như thế nào, giúp trở nên khỏe mạnh và trở lại với cuộc sống ra sao. hài lòng thấy rằng làm công việc tốt mà cảm thấy thích, song có thực tế là họ ngày càng gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về tình cảm giữa họ ngày càng rộng ra. Có ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như hai người xa lạ, cố gắng cách tuyệt vọng để bắt chuyện với nhau.

      Khi Robert trở lại Washington sau sáu tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, đưa Susan ăn tối ở Sans Souci.

      Sulsan :

      - Ở bệnh viện chỗ em mới có bệnh nhân. ta bị tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ nghĩ rằng ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em chăm sóc để ta có thể qua được. - Đôi mắt bừng sáng.

      Với mình, ấy cũng như vậy. Robert nghĩ. băn khoăn biết liệu cũng cúi xuống bên người bệnh mới này và : "Hãy mau khỏe. Em đợi " hay . cố dứt bỏ ý nghĩ đó.

      - Robert, ta tuyệt lắm. Tất cả các y tá đều phát điên lên vì ta.

      - Tất cả ư? ngẫm nghĩ.

      Trong lòng nhen nhóm chút nghi ngờ, dằn vặt nhưng dẹp được ý nghĩ đó .

      Họ gọi bữa ăn.

      Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert Bồ Đào Nha và ba tuần lễ sau, khi trở về, Susan mừng rỡ chào đón .

      - Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte lại được. - Nụ hôn của đầy vẻ qua quýt.

      - Monte?

      - Monte Banks. Đó là tên ta. ta đâu vào đấy. Các bác sĩ thể tin nổi, nhưng mà tụi em chịu đâu.

      - Tụi em.

      - Kể cho nghe về ta xem nào.

      - ta đáng mến. ta luôn luôn cho mấy đứa bọn em quà. ta rất giàu có. ta lái chiếc máy bay riêng và ta bị tai nạn khủng khiếp, và...

      - Những quà gì hả?

      - Ồ, biết đấy, chỉ những thứ lặt vặt ấy mà - kẹo, hoa, sách và đĩa hát. ta muốn tặng những chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn em phải từ chối rồi.

      - tất nhiên.

      - ta có chiếc du thuyền, những con ngựa...

      Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi ta là Cái túi tiền (moneybags).

      Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan cũng chuyện về ta.

      - Robert, ta chân thành.

      Chân thành là nguy hiểm đây.

      - Và ta rất quan tâm đến người khác. có biết hôm nay ta làm gì ? cầu tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.

      Thằng cha này kinh tởm . lố bịch, Robert cảm thấy mình trở nên cáu kỉnh.

      - Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó của em có vợ chưa hả?

      - Chưa, . Nhưng sao cơ?

      - chợt nghĩ vậy thôi.

      - Hãy vì Chúa, ghen đấy chứ? - cười vang.

      - Với cái thằng cha già cỗi mới học ấy ư? Tất nhiên là .

      Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng hề muốn làm phiền lòng .

      Khi Robert ở nhà, Susan cố nhắc tới bệnh nhân của , nhưng nếu Robert lại gợi chuyện.

      - Cái túi tiền thế nào rồi?

      - Tên ta phải là Cái túi tiền, - vẻ trách móc, mà là Monte Banks.

      - Gì chả được.

      tiếc là cái thằng chó đẻ đó chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.

      ***

      Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.

      - Này, bảo nhé, - Robert sốt sắng , - Chúng ta làm lễ kỷ niệm. Chúng ta và có bữa tối tuyệt vời ở đâu đó và...

      - Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 8 giờ cơ.

      - Cũng được. tới đón em ở đó.

      - Được đấy Monte muốn gặp lắm. Em về rất nhiều cho ta nghe.

      - cũng muốn gặp thằng cha đó, - Robert quả quyết với .

      Khi Robert tới bệnh viện, người thường trực :

      - Xin chào ông sĩ quan. Susan làm việc khoang chỉnh hình ở tầng ba. ấy đợi ông đấy. - Chị ta nhấc điện thoại lên.

      Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, Susan đứng chờ trong bộ đồng phục trắng bong, và tim đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.

      - Xin chào người đẹp.

      Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy thoải mái cách hơi lạ.

      - Chào , Robert. Vài phút nữa là em hết phiên trực. Nào . Em giới thiệu với Monte.

      - Tôi sốt ruột đây.

      dẫn vào phòng riêng rộng rãi, đầy những sách và hoa quả, và :

      - Monte, đây là chồng... em, Robert.

      Robert đứng đó, nhìn người đàn ông nằm giường. ta lớn hơn chừng ba, bốn tuổi và rất giống Paul Newman. Thoáng nhìn, Robert thấy coi thường ta.

      - Tôi rất vui lòng được gặp ông, ông sĩ quan. Susan kể tất cả về ông cho tôi nghe.

      Phải chăng đó là thứ chuyện họ với nhau vào lúc nửa đêm khi ấy ở bên giường ta?

      - ấy rất tự hào về ông. - Cái túi tiền thêm.

      Thế đấy bạn, lại còn ném ra vài mẩu bánh nữa.

      Susan nhìn Robert, lòng những mong xử cho lịch thiệp. phải cố gắng lắm.

      - Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi đây.

      - Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của ông. ấy là người y tá kỳ diệu.

      Nào, chàng thủy thủ. nghĩ là em để cho nào đó được có tấm thân tuyệt vời này ư?

      - Vâng, đó chính là đặc tính của ấy. - Robert thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng của mình.

      Bữa tiệc sinh nhật là cả tuyệt vọng. Susan chỉ những muốn chuyện về người bệnh nhân của .

      - ta có làm cho nhớ tới ai , ?

      - Đến Boris Karloff.

      - Sao cứ phải thô lỗ với ta thế nhỉ?

      - nghĩ là xử lịch thiệp. Có điều thích ta.

      lạnh lùng .

      - Thậm chí chưa hề quen biết gì. ta có gì để thích nào? - Susan nhìn chằm chằm.

      - thích cái lối ta nhìn em. thích cái lối em nhìn ta. thích thấy cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta tiêu tan như thế này. Lạy Chúa, muốn mất em.

      - Xin lỗi. cho là hơi mệt.

      Họ im lặng suốt bữa ăn.

      Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới sở, Susan :

      - Robert, em có chuyện muốn với ...

      cảm thấy như bị cú đánh vào bụng.

      thể nào chịu được việc sắp thành lời những gì xảy ra.

      - Susan...

      - biết là em . Em luôn . là người đàn ông đáng nhất, tuyệt vời nhất mà em từng biết.

      - Thôi nào...

      - , để em nốt. Em khó ra chuyện này. Trong năm qua, chúng ta mấy khi được sống bên nhau: Chúng ta còn cuộc sống vợ chồng nữa. Chúng ta xa cách nhau.

      Mỗi lời của như nhát dao đâm vào thân thể .

      - Em đúng, - với vẻ tuyệt vọng. - thay đổi. thôi việc ở cơ quan. Ngay bây giờ. Hôm nay. Chúng mình đâu đó và...

      lắc đầu:

      - , Robert. Cả hai chúng ta đều biết là như thế được. làm công việc mà muốn làm. Nếu vì em mà bỏ việc, luôn luôn dằn vặt về chuyện đó. Đây phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều - Chuyện là thế. Em muốn ly dị.

      Tất cả dường như tối sầm trước mắt . Đột nhiên, cảm thấy bụng quặn lên.

      - Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta tìm cách để...

      - Quá muộn rồi. Em nghĩ về chuyện này từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian xa và em ở nhà mong ngóng , em nghĩ về điều này. Chúng ta sống những cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà thể cho em được nữa.

      đứng lặng, cố kiềm chế tình cảm của mình.

      - Chuyện này... Chuyện này có liên quan gì tới thằng cha Cái túi tiền hả?

      - Monte ngỏ lời cầu hôn với em. - Susan lưỡng lự.

      - Và em bằng lòng ư? - cảm thấy tim mình thắt lại.

      - Vâng.

      Đó là cơn ác mộng điên rồ. phải chuyện này xảy ra, nghĩ. thể như thế được. Nước mắt ứa ra.

      Susan choàng tay, ôm chặt lấy .

      - Em bao giờ cảm thấy người đàn ông như em cảm thấy được. Em bằng cả tâm hồn và trái tim mình. Em luôn luôn . là người bạn quý nhất của em. - lùi ra và nhìn vào mắt . - Song như thế chưa đủ. có hiểu thế ?

      Tất cả những gì hiểu là vò xé .

      - Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta làm lại và...

      - Robert, em xin lỗi. - Giọng nghẹn lại. - Em xin lỗi, nhưng mọi chuyện hết rồi.

      Susan bay Reno để làm thủ tục ly dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ liền.

      ***

      Nhưng thói quen cũ khó mất. Robert gọi điện cho người bạn ở Cục Điều tra Liên bang (FBI).

      Trước đây, Al Traynor nhiều dịp có quan hệ với Robert và tin cậy ta.

      - Tray, tôi cần cậu giúp đỡ.

      - Giúp đỡ? Cậu cần bác sĩ thần kinh có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?

      Chuyện của họ có thể lan khắp cả thành phố. Đó là cả câu chuyện dài và buồn.

      - Robert, tôi lấy làm tiếc. ấy là phụ nữ tuyệt vời. Tôi... mà thôi. Tôi có thể giúp gì cậu?

      - Tôi muốn cậu kiểm tra về người máy tính điện tử.

      - Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.

      - Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra thông thường thôi.

      - Rồi. Cậu muốn biết những gì?

      - Có thể là ta có trong hồ sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có... ta có bao giờ bị phạt vì chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông thường ấy mà.

      - Chắc chắn là thế rồi.

      - Tôi muốn biết kiếm tiền ở đâu ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của .

      - Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, phải vậy ?

      - Và này, Tray, chỉ giữ chuyện này riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?

      - có gì cả. Tôi gọi cho cậu vào sáng mai.

      - Cảm ơn. Tôi nợ cậu bữa trưa đấy.

      - Bữa tối.

      - Cũng được.

      Robert gác máy và nghĩ: Hình ảnh người vớ những cọng rơm. Mình hy vọng vào chuyện gì nhỉ, rằng ta là tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào vòng tay mình chăng?

      ***

      Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton cho gọi Robert.

      - Ông làm gì vậy, ông sĩ quan?

      Ông ta thừa biết mình làm gì mà, Robert nghĩ. - Tôi giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại giao Singapore, và...

      - Việc đó có vẻ như nhưng chiếm bao nhiêu thời gian của ông.

      - Ông gì ạ?

      - Ông sĩ quan, trong trường hợp ông quên, tôi xin nhắc là Cục Tình báo hải quân được phép điều tra về các công dân Mỹ.

      Robert nhìn ông ta, kinh ngạc.

      - Ông...

      - Tôi mới được bên FBI thông báo rằng ông tìm cách thu thập những thông tin hoàn toàn thuộc thẩm quyền của Cục này.

      Robert cảm thấy cơn giận chợt bùng lên. Thằng chó đẻ Traynor kia phản bội . còn gì là bạn bè nữa.

      - Đó là chuyện cá nhân, - Robert . - Tôi...

      - Các máy tính của FBI phải là để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng phải là để giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông chưa?

      - .

      - Thế thôi.

      Robert chạy lao về phía phòng của . Những ngón tay run rẩy khi quay số 202-324-3000. giọng trả lời:

      - FBI đây.

      - Cho tôi gặp Al Traynor.

      - Xin chờ chút.

      phút sau, có tiếng người đàn ông.

      - Xin chào. Tôi có thể giúp gì ông vậy?

      - Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.

      - Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor còn ở cơ quan này.

      - Cái gì? - Robert cảm thấy giật mình.

      - Điệp viên Traynor bị thuyên chuyển.

      - Thuyên chuyển à?

      - Phải.

      - Đến đâu?

      - Boiso. Nhưng ta còn chưa có mặt tại đó thời gian. Tôi e là thời gian dài đấy.

      - Ý ông gì vậy?

      - Đêm qua, trong khi chạy trong công viên Rock Creek, ta bị chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. Ông có thể tin được hả? thằng khốn kiếp nào đó hẳn uống say đến phát rồ. lao xe vào đường chạy. Traynor bị quăng xa tới hơn chục mét. ta khó mà qua khỏi được.

      Robert gác máy. Đầu óc quay cuồng. Chuyện quỷ quái gì xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng giàu có, mắt xanh ấy được bảo vệ. Bảo vệ cái gì? Ai bảo vệ ? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan lao vào chuyện gì biết nữa?

      đến thăm ngay chiều hôm đó.

      ở tại căn hộ mới của mình, căn hộ kép đẹp đẽ phố M. tự hỏi biết có phải Cái túi tiền mua cho hay . mấy tuần họ gặp nhau, và như nghẹt thở khi nhìn thấy .

      - Susan, xin lỗi vì đường đột như thế này. biết là hứa làm vậy.

      - là có chuyện gì đó nghiêm trọng.

      Đúng thế. Bây giờ, khi ở đây, biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, đến để cứu em ư? ấy cười vào mặt .

      - Có chuyện gì vậy?

      - Đó là chuyện về Monte.

      - Chuyện gì về ấy vậy? - chau mày.

      Đây mới là phần khó khăn. Làm sao có thể với chuyện mà chính cũng chưa biết? Tất cả những gì biết là có chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Đúng là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với phiếu lưu ý: được tiết lộ thông tin nào nếu được cho phép thích hợp. Và việc thẩm tra lập tức bị đá ngược lại đối với Cục Tình báo hải quân. Vì sao?

      - nghĩ là ta, ta có gì đó có vẻ .

      - Em hiểu.

      - Susan, ta kiếm tiền từ đâu hả?

      có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi này.

      - Monte có doanh nghiệp xuất khẩu rất thành công.

      Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất thế gian này.

      Lẽ ra phải biết là nên đến đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của mình mới phải. cảm thấy mình ngớ ngẩn. Susan đợi câu trả lời và có gì để .

      - Vì sao lại hỏi như thế?

      - , chỉ muốn tin chắc rằng ta là người thích hợp cho em mà thôi, - Robert ra đâu vào đâu.

      - Ôi Robert. - Giọng đầy vẻ thất vọng.

      cho là nên đến đây. Đúng thế, bạn.

      - xin lỗi em.

      Susan bước đến và ôm lấy . dịu dàng .

      - Em hiểu.

      Nhưng đâu có hiểu gì. hiểu rằng cuộc thẩm tra bình thường về Monte Banks bị chặn đứng lại, hất ngược về Cục Tình báo hải quân và cái người toan tìm kiếm những thông tin đó bị loại bỏ.

      Có những cách khác để thu thập thông tin và Robert bắt tay vào việc tìm kiếm chúng cách thận trọng.

      gọi điện cho người bạn làm ở tạp chí Forbes.

      - Robert. Lâu quá gặp. Tôi có thể giúp gì thế?

      Robert chuyện với ta.

      - Monte Banks à? Rất thú vị là nhắc đến tên ta. Chúng tôi nghĩ rằng ta phải có tên trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes này, nhưng mà kiếm đâu ra thông tin về ta cả. có gì cho chúng tôi đấy?

      con số .

      Robert tới thư viện công cộng tìm kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. ta có tên trong đó.

      quay lại tìm kiếm trong bộ phận lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có mẩu về vụ tai nạn này. Nó nhắc đến Banks như nhà doanh nghiệp.

      Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể mình nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks này chẳng có vấn đề gì cả. Chính phủ bảo vệ cho nếu như tên gián điệp, tên tội phạm hoặc tên buôn lậu ma túy... là mình vẫn cố bám vào Susan mà thôi.

      ***

      Trở lại với cuộc sống độc thân là nỗi đơn, trống rỗng, chuỗi những ngày bận rộn và những đêm mất ngủ. cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên cách bất chợt và thường phải khóc. khóc cho bản thân mình, cho Susan và cho tất cả những gì mà họ mất. diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ này vẫn đầy kỷ niệm về . Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi phòng đều hành hạ với những hồi tưởng về giọng của Susan, tiếng cười và nồng ấm của . nhớ tất cả những đường cong mềm mại thân thể khi nằm trần truồng giường đợi , và nỗi đau trong thể chịu đựng nổi.

      Bạn bè quan tâm tới .

      - Đừng phiền muộn, Robert.

      quan tâm của họ đều thống nhất ở việc:

      - Tớ kiếm cho cậu con bé.

      Họ là những xinh đẹp và gợi tình, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những thư ký, những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những nữ luật sư. Nhưng có ai trong số họ là Susan. có gì chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện trò chút với những xa lạ mà hề quan tâm chỉ làm cho cảm thấy đơn hơn. Robert có ham muốn kéo ai trong số họ vào giường ngủ. muốn có mình. muốn quay lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó. Khi nhìn lại, dễ thấy những sai lầm của , dễ thấy phải sửa lại cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.

      CIA bị thâm nhập bởi người mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc cầu để tìm kiếm .

      , thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi chuẩn bị đưa vợ tôi hưởng tuần trăng mật thứ hai.

      ***

      muốn thay đổi lại cuộc đời mình, để nó có kết thúc đẹp đẽ. Nhưng quá muộn. Cuộc sống dành cho những cơ hội lần thứ hai. hoàn toàn độc. tự mua sắm, tự nấu ăn và tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi ở nhà.

      Đó là thời gian đơn và khổ sở nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn còn chưa phải là điều tệ hại nhất. người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh đẹp mà gặp ở Washington mấy lần gọi điện mời ăn tối. Robert muốn, nhưng sau cùng cũng nhận lời. ta chuẩn bị bữa tối ngon lành cho hai người dưới ánh sáng của những ngọn nến.

      - Em là đầu bếp giỏi, - Robert .

      - Chuyện gì em cũng giỏi cả. - Và có gì để nhầm lẫn trong ý ta hết. ta nhích lại gần hơn. - Hãy để em chứng tỏ cho thấy nhé. - ta đặt tay lên hai đùi và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi .

      lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là quá lâu .

      Họ cùng nhau lên giường, và trước thất kinh của Robert, đó là tai họa. Lần đầu tiên trong đời, hoàn toàn bất lực. cảm thấy nhục nhã.

      - Đừng phiền lòng, , - ta . - Rồi đâu vào đấy thôi.

      ta nhầm.

      Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng ngùng và chán nản. biết rằng là điên rồ và ngớ ngẩn, cảm thấy việc làm tình với phụ nữ khác là phản bội đối với Susan. Sao mình lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?

      Vài tuần sau đó, lại thử làm tình với nữ thư ký xinh xắn ở Cục Tình báo hải quân. giường, đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể và ngậm trong cái miệng nóng ấm của . Nhưng ăn thua gì. chỉ muốn có Susan. Sau lần ấy thử nữa. nghĩ tới việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. biết câu trả lời đối với vấn đề của , và nó hề có liên quan gì đến chuyện y tế cả. đành dồn tất cả sức lực của mình vào công việc.

      Susan gọi điện cho ít nhất mỗi tuần lần.

      "Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu giặt, - thường . Hoặc. "Em cho giúp việc đến chỗ để dọn dẹp căn hộ. Em cá với rằng nhà cửa rất lộn xộn đấy".

      Mỗi cú điện thoại lại làm cho đơn độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.

      gọi điện cho vào đêm trước ngày cưới.

      - Robert, em muốn biết rằng ngày mai em cưới.

      thấy ngạt thở. hổn hển .

      - Susan.

      - Em Monte, - , nhưng em cũng . Em đến chết. Em muốn quên điều đó.

      Còn biết đáp lại thế nào?

      - Robert, có sao ?

      Chắc chắn là sao. Mạnh khỏe. Trừ việc mình là thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ đó .

      - Robert!

      thể nào làm phiền lòng vì chuyện của mình.

      - khỏe. Song, xin em điều thôi, được chứ, em ?

      - Bất cứ điều gì mà em có thể làm được.

      - Đừng... đừng để ta đưa em trong tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta từng đến.

      cúp máy, lao ra ngoài và uống đến say mèm.

      ***

      Đó là chuyện năm trước. Đó là quá khứ. bị buộc phải đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về người khác. buộc phải sống trong tại. có công việc để làm. Bây giờ đến lúc phải chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ ảnh chụp những tấm hình và có tên của các nhân chứng mà Robert có nhiệm vụ phải tìm kiếm trong chuyến công tác cuối cùng này của .


      Chương 18



      Leslie Mothershed ở trong tâm trạng phấn khích. Ngay khi trở về tới London, khư khư cuộn phim quý giá, ta vội vã lao vào cái phòng kho ta biến thành buồng tối và kiểm tra lại mọi thứ đồ nghề: khay tráng, nhiệt biểu, những cái cặp, bốn cái bình lớn, đồng hồ, thuốc rửa, thuốc , thuốc hãm. ta bật ngọn đèn đỏ phía đầu rồi hai bàn tay run lên, lấy cuộn phim ra. ta thở mạnh, cố tự kiềm chế.

      ta thở mạnh, cố tự kiềm chế. Lần này được để có sai sót gì, ta nghĩ. sai sót gì cả. Mẹ ơi, cái này là để cho mẹ đây.

      cách thận trọng, ta cuốn phim vào chiếc lõi đặt vào trong khay và đổ thuốc rửa vào, thứ dung dịch đầu tiên mà ta phải dùng đến. Nó đòi hỏi giữ đều ở nhiệt độ 200C và thỉnh thoảng lại phải khuấy đều. Sau mười phút, ta đổ hết cái dung dịch đó và đổ thuốc hãm vào.

      Leslie lại bắt đầu hồi hộp, lo sợ có nhầm lẫn nào đó. ta trút bỏ thuốc hãm để rửa lần đầu và rồi để phim nằm trong khay đầy nước trong vòng mười phút. Sau đó là hai phút liên tục khuấy động trong chất tẩy, và mười hai phút nữa trong nước. Ba mươi giây ngâm trong dung dịch khác để đảm bảo còn những vết lỗi phim bản. Sau cùng, hết sức thận trọng, ta lấy phim ra và treo nó lên bằng những chiếc cặp và dùng miếng thấm để thấm những giọt nước cuối cùng phim. ta đợi cách kiên nhẫn để cuộn phim bản khô .

      đến lúc nhìn thấy chút. Mothershed cầm đoạn phim đầu tiên lên, nín thở trong tiếng tim đập thình thịch, và giơ nó lên trước ánh sáng. Hoàn hảo.

      Tuyệt đối hoàn hảo.

      Mỗi tấm phim là viên ngọc, bức ảnh mà bất kỳ nhiếp ảnh gia nào thế giới cũng phải tự hào nếu như chụp được nó. Mọi chi tiết của chiếc phi thuyền gian lạ kia đều ràng, kể cả những cái xác của hai sinh vật lạ nằm trong đó.

      Mắt Mothershed chợt chú ý vào hai thứ mà trước đó ta hề để ý, và ta xem lại cẩn thận hơn. Ở nơi mà vỏ chiếc phi thuyền vỡ ra, ta có thể trông thấy ba cái văng bên trong thế nhưng lại chỉ có hai sinh vật lạ. Điều lạ nữa là bàn tay của trong hai sinh vật kia bị chặt đứt. hề nhìn thấy chỗ nào trong tấm ảnh đó có bàn tay đó. Có thể là sinh vật này chỉ có tay, Mothershed nghĩ. Lạy Chúa, những bức ảnh này là tuyệt tác. Mẹ đúng. Mình là thiên tài. ta nhìn quanh căn phòng và nghĩ. Lần sau mình rửa phim trong căn buồng tối rộng rãi, đẹp đẽ trong biệt thự của mình ở Eaton Square.

      ta sờ mó những tấm phim quý giá như kẻ hà tiện sờ mó những đồng vàng của mình. tờ báo hay tạp chí nào thế giới lại bất chấp mọi giá để có được tấm hình này. Suốt những năm vừa qua, những kẻ khốn kiếp đó khước từ những tấm ảnh của ta với dòng ghi chú đầy báng bổ. Cảm ơn ông gửi những tấm ảnh mà chúng tôi gửi trả nơi đây. Chúng phù hợp với nhu cầu nay của chúng tôi? Và, Cảm ơn ông gửi tới. Chúng quá giống với những tấm ảnh mà chúng tôi in. Hay đơn giản là, Chúng tôi gửi trả những tấm ảnh mà ông gửi tới?

      Trong nhiều năm, ta phải cầu cạnh những kẻ khốn kiếp này để có công ăn việc làm và bây giờ chúng phải bò đến đây, và ta bắt chúng phải trả giá.

      Leslie thể chờ đợi được nữa. ta phải bắt đầu ngay lập tức. Do chỗ cái công ty Điện thoại đốn mạt kia cắt điện thoại của ta chỉ đơn thuần vì lẽ quý vừa qua chậm trả tiền có vài ba tuần lễ, Mothershed phải ra ngoài để gọi. Cao hứng, ta quyết định tới tiệm Langan, tiệm ăn có tiếng, và tự thết mình bữa trưa xứng đáng. Tiệm Langan là quá cao so với khả năng tài chính của Leslie, nhưng nếu như có dịp kỷ niệm nào đó chính là lúc này đây. Chẳng nhẽ phải ta sắp trở nên giàu có và nổi tiếng sao?

      Người phục vụ đưa Mothershed tới ngồi vào chiếc bàn nơi góc phòng, và ở đó, tại bàn cách chừng ba mét, ta nhìn thấy hai khuôn mặt quen thuộc. ta đột nhiên nhận ra họ là ai, và thoáng run người lên. Chính là Michael Caine và Roger Moore.

      Leslie mong giá như mẹ mình còn sống để có thể nghe kể lại về điều này. Bà rất thích được đọc về những minh tinh màn bạc. Hai người đàn ông kia cười vui vẻ có chút bận tâm gì đời, và Mothershed thể nào nhìn họ. Họ hề để mắt đến ta. Hai thằng cha hợm hĩnh. Leslie Mothershed nghĩ cách giận dữ. Chắc họ chờ mình tới xin chữ ký. Hừm, chỉ vài ngày nữa họ phải xin mình ấy chứ. Họ sấp sấp ngửa ngửa để mà giới thiệu mình với bạn bè của họ. "Leslie, tôi muốn ông gặp Charles và Di, và đây là Fergie và Andrew. Leslie, các vị biết rồi, người chụp nhưng bức ảnh nổi tiếng về cái vật thể bay lạ kia". Lúc Mothershed ăn xong, ta qua hai minh tinh kia và lên gác để tới buồng điện thoại. Bộ phận hỏi đáp cho số máy của tờ Sun.

      - Tôi muốn gặp người phụ trách biên tập ảnh.

      - Chapman đây. - giọng đàn ông cất lên.

      - Liệu có giá trị gì với ông nếu như ông có những tấm ảnh về vật thể bay lạ với những xác chết của hai sinh vật lạ trong đó hả?

      Giọng ở đầu dây đằng kia :

      - Nếu như những tấm ảnh xem được chúng tôi có thể sử dụng như là thí dụ về trò đùa thông minh và...

      Mothershed cách gay gắt:

      - Chuyện này phải là trò đùa. Tôi có tên của chín nhân chứng có tiếng tăm, là những người làm chứng rằng đó là , trong đó có tu sĩ.

      Giọng của người đàn ông kia thay đổi.

      - Ô? Và những bức ảnh này được chụp ở đâu thế?

      - Chuyện đó ông khỏi quan tâm, - Leslie thoái thác. ta chịu để họ lừa để biết bất kỳ thông tin nào. - Ý ông thế nào?

      Giọng kia đầy vẻ thận trọng:

      - Nếu như ông có thể chứng minh những bức ảnh đó là xác thực, đúng là chúng tôi rất quan tâm tới chúng.

      Chắc chắn là thế rồi, Leslie sung sướng nghĩ.

      - Tôi liên lạc lại với ông. - ta gác máy.

      Hai cú điện thoại nữa cũng hài lòng như thế. Leslie phải tự nghĩ rằng việc kiếm tên và địa chỉ của các nhân chứng là nước cờ thiên tài. Giờ kẻ nào có thể vu cho ta là cố tình bịp bợm. Những tấm ảnh này chuẩn bị xuất trang đầu của tất cả những tờ báo và tạp chí lớn nhất thế giới. Với tên tuổi của mình: ảnh của Leslie Mothershed.

      Khi Mothershed rời tiệm ăn, ta thể cưỡng lại việc bước lại bên chiếc bàn nơi hai ngôi sao màn bạc ngồi.

      - Xin lỗi. Xin lỗi vì quấy rầy quý vị, song tôi muốn được xin chữ ký của quý vị, được chứ ạ?

      Roger Moore và Michael Caine mỉm cười cách thân mật. Họ ký tên lên hai mảnh giấy và trao chúng cho tay thợ chụp ảnh.

      - Cảm ơn.

      Khi Leslie Mothershed ra tới bên ngoài, ta xé toạc những mảnh giấy và ném chúng .

      Thây kệ họ. ta nghĩ. Mình còn quan trọng hơn họ nhiều.

    3. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 19



      Robert lên chiếc xe taxi để Whitechapel. Chiếc xe chạy qua City, khu thương mại lớn của London, hướng về phía đông cho tới khi gặp đường Whitechapel, khu vực đầy tai tiếng từ cả thế kỷ trước với Jack kẻ cướp. Dọc theo đường Whitechapel là hàng tá gian hàng ngoài trời bán đủ mọi thứ, từ vải vóc, rau tươi đến những tấm thảm.

      Khi chiếc taxi đến gần địa chỉ Mothershed, phố xá trông mỗi lúc tồi tàn hơn. Những hình vẽ nguệch ngoạc đầy các bờ tường. Xe chạy ngang qua tiệm Đôi tay của Weaver, Robert nghĩ: Đó hẳn là nơi lui tới của Mothershed. tấm biển khác đề: Cá ngựa, Walter... Có thể là Mothershed chơi cá ngựa ở đây.

      Sau cùng, họ tới số 213 A đường Grove. Robert để chiếc taxi và xem xét tòa nhà trước mặt. Đó là ngôi nhà hai tầng xấu xí được chia thành những căn hộ , trong đó có người đàn ông có danh sách toàn bộ những nhân chứng mà Robert được phái tìm.

      Leslie Mothershed ở trong phòng khách, mê mải nghĩ tới cái điều may mắn trời cho nghe tiếng chuông gọi cửa. ta nhìn lên, giật mình, và chợt cảm thấy lo sợ cách lạ lùng. Tiếng chuông lặp lại lần nữa. Mothershed vơ lấy những tấm ảnh quý giá và vội vã vào phòng tối, để xen chúng vào giữa chồng ảnh cũ kỹ, rồi trở ra phòng khách và bước tới mở cửa. ta nhìn chằm chằm vào người lạ mặt đứng đó.

      - Gì thế hả?

      - Ông là Leslie Mothershed?

      - Đúng thế. Tôi có thể giúp gì được ông?

      - Cho phép tôi vào nhà được chứ?

      - Tôi biết. Có chuyện gì chứ?

      Robert móc ra tấm thẻ căn cước của Bộ Quốc phòng và giơ lên.

      - Ông Mothershed, tôi tới đây vì công việc. Chúng ta có thể chuyện ở đây hoặc về là Bộ.

      Đó là trò bịp. Thế nhưng có thể thấy nỗi sợ hãi mặt tay thợ ảnh.

      - Tôi ông về chuyện gì cả, nhưng... mời vào. - Leslie nuốt nước miếng.

      Robert bước vào căn phòng tồi tàn. Nó đầy vẻ ảm đạm, chẳng ra đâu vào đâu, chỗ mà chẳng ai muốn sống cả.

      - Xin ông vui lòng giải thích là ông đến có việc gì ạ? - Mothershed cố lấy giọng bình thản.

      - Tôi tới để chất vấn ông về vài tấm ảnh mà ông chụp.

      ta biết mà. ta biết ngay từ khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa. Bọn khốn kiếp toan cướp vận may của mình. Hừ, mình để cho chúng làm được điều đó.

      - Ông những bức ảnh nào vậy?

      - Những bức ảnh mà ông chụp tại nơi vật thể bay lạ bị rơi. - Robert cách kiên nhẫn.

      Mothershed nhìn Robert thoáng, như thể bị ngạc nhiên, và rồi cố phá lên cười.

      - Ồ, ra thế. Tôi mong giá mà tôi có chúng để đưa cho ông.

      - Ông chụp những tấm ảnh đó chứ?

      - Tôi cố.

      - Ý ông gì... ông cố ư?

      - Chẳng được cái quái gì cả. - Mothershed húng hắng ho. - Máy của tôi bị lọt sáng. Đây là lần thứ hai tôi bị thế này. - ta bắt đầu ba hoa. - Thậm chí tôi ném cả phim . Chúng chẳng ra làm sao. Phí cả phim. Và hẳn ông biết là độ này phim đắt thế nào.

      ta là kẻ dối tồi, Robert nghĩ. ta quá lo sợ.

      Robert vẻ thông cảm:

      - Chán . Lẽ ra những tấm ảnh đó rất có ích đấy.

      đả động gì tới danh sách những hành khách kia. Nếu như Mothershed dối về những tấm ảnh ta cũng dối về những hành khách. Robert đưa mắt nhìn quanh. Những tấm ảnh và cả bản danh sách phải được giấu đâu đó. Hẳn là khó tìm. Căn hộ bao gồm phòng khách , phòng ngủ, phòng tắm và có cái cửa hình như dẫn vào phòng xép. có cách nào có thể buộc người đàn ông này đưa ra những thứ kia. Nhưng muốn có những tấm ảnh và bản danh sách đó trước khi Cơ quan Tình báo mò tới và nẫng chúng . cần bản danh sách đó cho chính mình.

      - Vâng. - Mothershed thở dài. - Những tấm ảnh đó đáng giá cả gia tài ấy chứ.

      - Hãy kể cho tôi nghe về chiếc phi thuyền gian xem nào, - Robert .

      Mothershed nhún vai ra vẻ miễn cưỡng. Cái cảnh khủng khiếp đó in vào óc ta mãi mãi.

      - Tôi bao giờ quên được nó, - ta . - Chiếc phi thuyền dường như... rung động, như thể nó vẫn còn hoạt động. Nó có cái gì đó khủng khiếp. Và ở bên trong có xác của hai sinh vật lạ.

      - Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về những người khách chiếc xe bus được chứ.

      Chắc chắn rồi, Mothershed nghĩ cách hả hê. Tôi có tên và địa chỉ của họ.

      - , tôi sợ là thể. - Mothershed tiếp tục cố giấu hồi hộp của mình. - Lý do tôi thể giúp gì ông về những người khách là ở chỗ tôi chiếc xe đó. Tất cả bọn họ đều là những người lạ.

      - Tôi hiểu. Ồ, cảm ơn về hợp tác của ông, ông Mothershed. Tôi đánh giá cao điều đó. Lấy làm tiếc về những tấm ảnh của ông.

      - Tôi cũng vậy, - Mothershed .

      ta nhìn cánh cửa khép lại sau lưng người lạ kia và sung sướng nghĩ. Mình cừ . Mình qua mặt bọn chó đẻ kia.

      Bên ngoài hành lang, Robert xem xét cái ổ khóa cánh cửa. ổ khóa Chubb. Và là model cổ. chỉ cần vài giây để mở nó. theo dõi ngôi nhà vào lúc nửa đêm và chờ tay thợ ảnh rời khỏi nhà vào buổi sáng. khi mình có danh sách những hành khách kia trong tay nhiệm vụ còn lại là đơn giản.

      ***

      Robert thuê phòng trong khách sạn gần căn hộ của Mothershed và gọi điện cho tướng Hilliard.

      - Thưa tướng quân, tôi có tên của tay nhân chứng người .

      - Đợi chút. Rồi. , ông sĩ quan.

      - Leslie Mothershed. ta sống ở Whitechael, số 213 A đường Grove.

      Robert nhắc tới bản danh sách hành khách và những tấm ảnh. Cái đó là những con chủ bài của trong vụ này.

      ***

      Cửa hiệu Reggie nằm trong ngõ cụt đường Brompton. Đó là cửa hiệu mà khách hàng của nó chủ yếu là đám nhân viên và thư ký làm việc quanh đó. Những bức tường cửa hiệu phủ đầy áp phích quảng cáo về bóng đá và những phần tường còn có thể nhìn thấy hề được quét vôi kể từ cuộc chiến tranh ở kênh Suez.

      Chiếc điện thoại ở sau quầy hàng réo vang hai lần trước khi người đàn ông to lớn mặc chiếc áo len to sù nhấc ống nghe lên. Người đàn ông trông là kẻ sống ở khu Đông thành phố, trừ cái kính mắt có gọng bịt vàng được gắn chặt phía trong tròng là ràng đối với bất kỳ ai nhìn ông ta kỹ chút: Con mắt kia của ông ta là bằng thủy tinh màu xanh da trời thường thấy các quảng cáo du lịch.

      - Reggie đây.

      - Đây là Giám mục.

      - Dạ, thưa ngài, - Reggie , giọng ông ta đột nhiên chỉ còn là lời thầm.

      - Tên của khách hàng chúng ta là Mothershed. Tên thường gọi là Leslie. Sống ở 213 A đường Grove. Chúng tôi muốn đơn đặt hàng này phải được thực nhanh chóng. chưa.

      - Thưa ngài, việc coi như xong.


      Chương 20



      Leslie Mothershed miên man trong giấc mơ vàng ngọc.

      ta được giới báo chí quốc tế phỏng vấn. Họ hỏi về cái lâu đài khổng lồ mà ta vừa mua ở Scotland, về cái biệt thự của ta ở miền Nam nước Pháp và về chiếc du thuyền lớn. Và có đúng là Nữ Hoàng mời ông nhận chân nhiếp ảnh gia chính thức của Hoàng gia ?. Đúng. Tôi là tôi trả lời sau. Còn bây giờ, thưa các quý bà và quý ông, xin tất cả các vị thứ lỗi cho, tôi kịp hẹn chương trình của tôi với đài BBC mất...

      Cơn mơ màng của ta bị phá ngang bởi tiếng chuông cửa. ta nhìn đồng hồ. Mười giờ. Thằng chó đẻ quay lại à? ta bước đến bên cửa và thận trọng mở cửa. Trước ngưỡng cửa là người đàn ông thấp lùn hơn Mothershed (đó là điều đầu tiên ta chú ý) với cặp kính dầy cộp và khuôn mặt gầy guộc, tái xám.

      - Xin lỗi, - người đàn ông rụt rè . - Tôi xin lỗi là làm phiền ông vào giờ này. Tôi sống ở cuối phố.

      - Tôi thấy tấm biển ở ngoài ông là thợ ảnh.

      - Việc gì hả?

      - Ông có làm ảnh hộ chiếu ạ?

      Leslie Mothershed làm ảnh hộ chiếu? Con người sắp có cả thế giới này ấy à? Điều đó cũng giống như đòi Mechelangelo quét vôi buồng tắm vậy.

      - , - ta thô bạo và toan khép cửa lại.

      - Thực là tôi muốn làm phiền ông, nhưng tôi kẹt quá: Chuyến bay Tokyo của tôi là vào tám giờ sáng mai, thế mà trước đây chút tôi lấy hộ chiếu ra xem và lạ rằng hiểu thế nào mà cái ảnh bị bong ra. thấy đâu cả. Tôi tìm khắp mọi nơi. Họ cho tôi lên máy bay khi mà hộ chiếu có ảnh. - Người đàn ông bé gần như sắp phát khóc.

      - Tôi lấy làm tiếc, - Mothershed , - tôi thể giúp ông.

      - Tôi xin trả ông trăm bảng.

      trăm bảng? Cho người có cả lâu đài biệt thự và du thuyền ư? Đó là xúc phạm.

      Người đàn ông bé, yếu ớt kia tiếp:

      - Thậm chí tôi có thể trả cao hơn. Hai trăm hoặc ba trăm. Ông biết đấy, thực là tôi phải có mặt chuyến bay đó, nếu tôi bị mất chỗ làm việc của mình.

      Ba trăm bảng để chụp tấm ảnh hộ chiếu.

      kể việc rửa ảnh nó chỉ mất chừng mười giây Mothershed bắt đầu tính toán. Điều đó có nghĩa là 1800 bảng phút. nghìn tám trăm bảng phút có nghĩa là 10800 bảng giờ. Nếu như ta làm ngày tám tiếng, điều đó có nghĩa là 94400 bảng ngày. Trong tuần, con số đó là...

      - Ông làm chứ ạ?

      hợm hĩnh của Mothershed bị thách thức bởi lòng tham và lòng tham thắng. Mình có thể có chút tiền tiêu vặt.

      - Mời vào, - Mothershed . - Đứng sát vào bức tường kia .

      - Cám ơn. Tôi biết ơn ông.

      Mothershed thầm mong ta có chiếc máy ảnh polaroid. Cái máy đó làm mọi việc trở nên đơn giản. ta cầm chiếc Vivitar của mình lên và :

      - Yên nhé.

      Mười giây sau, việc xong.

      - phải mất chút thời gian để rửa ảnh, Mothershed . - Nếu như ông trở lại vào lúc...

      - Nếu có gì phiền tôi xin chờ.

      - Tùy ông thôi.

      Mothershed cầm chiếc máy ảnh vào phòng tối, đút nó vào trong cái túi đen, tắt chiếc đèn đầu và bật ngọn đèn đỏ, rồi tháo phim ra. ta làm việc này cách qua quýt. Dù sao ảnh hộ chiếu trông cũng thường xấu xí. Mười lăm phút sau, khi Mothershed ngâm phim trong thuốc bắt đầu ngửi thấy mùi khói. ta ngừng tay. Có phải là mình tưởng tượng ra nhỉ? . Mùi khói mỗi lúc nồng nặc hơn. ta quay ra mở cửa.

      Cửa dường như bị kẹt. Mothershed đẩy mạnh. Cánh cửa vẫn đóng chặt.

      - Này, - ta gọi vọng ra. - Có chuyện gì ngoài ấy thế?

      có tiếng đáp lại.

      - Này! - ta tì vai vào cánh cửa cố đẩy ra nhưng dường như ở phía ngoài có vật gì đó đè nặng giữ chặt cánh cửa. - Ông gì ơi?

      có tiếng trả lời. thanh duy nhất mà ta nghe thấy ở bên ngoài đó là tiếng đổ vỡ lớn. Mùi khói càng thêm nồng nặc. Căn hộ bị cháy. Có thể vì thế mà ông ta chạy ra. Hẳn là ông ta kêu cứu. Leslie Mothershed lao vai vào cánh cửa mạnh hơn, nhưng cánh cửa bật ra.

      - Cứu - ta thét lên. - Cứu tôi với.

      Khói bắt đầu tràn vào phía dưới cánh cửa, và Mothershed cảm thấy lửa bắt đầu liếm vào nó. khí trở nên ngột ngạt. ta bắt đầu nghẹt thở. Phổi ta bỏng rát và ta bắt đầu ngất . ta khuỵu xuống.

      - Ôi lạy Chúa, xin đừng để con chết vào lúc này. Đừng vào lúc mà con sắp làm giàu có và nổi tiếng...

      ***

      - Reggie đây.

      - Đơn đặt hàng làm xong chưa?

      - Thưa ngài, rồi ạ. Hơi quá lửa chút nhưng đúng lúc.

      - Tuyệt vời.

      ***

      Vào lúc hai giờ sáng, khi Robert đến đường Grove để bắt đầu việc theo dõi, thấy đường phố bị tắc nghẽn. Khúc phố đầy những xe cứu hỏa, xe cấp cứu và xe cảnh sát. Robert lách qua đám đông những người đứng xem và vội vã chen vào sát bên trong. Toàn bộ tòa nhà bị ngọn lửa trùm lên. Từ bên ngoài, có thể thấy rằng căn hộ của tay thợ ảnh ở tầng hai bị thiêu rụi hoàn toàn.

      - Chuyện xảy ra thế nào vậy? - Robert hỏi người lính cứu hỏa.

      - Chúng tôi chưa . Xin đứng lùi lại cho.

      - Người bà con của tôi sống trong căn hộ kia. ấy có làm sao ?

      - Tôi e là nghiêm trọng. - Giọng ta trở nên thông cảm. - họ mang ta ra khỏi tòa nhà đấy.

      Robert trông theo hai nhân viên y tế đẩy chiếc cáng bên thi thể vào trong chiếc xe cấp cứu.

      - Tôi sống cùng với ấy, - Robert . - Tất cả xống áo của tôi ở cả trong đó. Tôi muốn vào và...

      - Chẳng ích gì đâu, thưa ông. Trong đó chẳng còn gì ngoài đống tro tàn. - Người lính cứu hỏa lắc đầu.

      còn gì ngoài tro tàn. Kể cả những tấm ảnh và bản danh sách hành khách quý giá kia với tên tuổi và địa chỉ của họ. may khốn kiếp, Robert cay đắng nghĩ.

      ***

      Tại Washington, Dustin Thornton ăn trưa với ông bố vợ trong phòng ăn riêng xa hoa ở khu văn phòng của Williard Stone.

      Dustin Thornton cảm thấy hồi hộp. Trước mặt ông bố vợ đầy thế lực bao giờ ông ta cũng mất vẻ tự nhiên.

      Williard Stone ở trong tâm trạng vui vẻ.

      - Tối qua, tôi cùng ăn tối với Tổng thống. Ông ta với tôi rằng ông ta rồi hài lòng về công việc của , Dustin.

      - Con rất biết ơn.

      - làm việc khá đấy. giúp vào việc chống lại đám người đó.

      - Đám người nào.

      - Những kẻ muốn bắt đất nước vĩ đại này phải quỳ gối. Nhưng chỉ là những kẻ thù bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác. Đám đó là cả những kẻ làm ra bộ phục vụ đất nước của chúng ta, nhưng hoàn thành bổn phận của mình. Nhưng kẻ chấp hành mệnh lệnh.

      - Những kẻ lầm lạc.

      - Đúng thế đó. Dustin. Những kẻ lầm lạc. Chúng phải bị trừng phạt. Nếu như...

      người đàn ông bước vào phòng.

      - Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông Stone. Các quý ông đó đến. Họ đợi ông ạ.

      - Được. - Stone quay sang con rể. - Ăn cho xong Dustin. Tôi có chút việc quan trọng phải làm. Có thể hôm nào đó tôi lại cho nghe.



      Chương 21



      Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có những hình thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những thân hình to lớn, kỳ cục, những cặp mắt xíu và mầu da giống như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và ghét cái thứ mùi hôi hám tỏa ra từ thân thể họ. số thuộc giống cái mang người những mảnh da thú, sản phẩm còn lại của những thú vật bị họ giết hại. vẫn còn choáng váng với cái tai nạn khủng khiếp cướp sống của các bạn đồng hành của .

      ở trái đất bốn chu kỳ thời gian mà những sinh vật lạ lùng này gọi là ngày, và ăn gì trong suốt thời gian đó. khát đến lả người ...

      Chút nước duy nhất mà uống được là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó trời hề có mưa. Ngoài thứ nước đó mọi thứ nước trái đất này là thể uống được.

      vào nơi để ăn uống những thứ xa lạ nhưng thể nào chịu nổi mùi hôi hám. thử ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị gì và ngon lành như thức ăn ở nhà.

      có tên là Duyên Dáng 1, dáng người cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, hóa thân thành người trái đất, và qua những đám đông mà hề bị để ý.

      ngồi trước cái bàn, cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và đọc những ý nghĩ của những sinh vật ở quanh .

      Có hai sinh vật ngồi bên chiếc bàn gần kề. sinh vật to:

      - Đó là cơ hội cả đời chỉ có lần, Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là có thể bắt đầu rồi. có năm mươi ngàn francs, phải nào? - đọc những ý nghĩ trong đầu ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.

      - Tất nhiên, nhưng tôi biết. - Tôi phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.

      - bao giờ tôi xui bậy trong chuyện đầu tư chưa hả? - Hãy quyết định .

      - Đó là khoản tiền lớn. - ta bao giờ đưa nó cho tôi cả.

      - Nhưng còn về tiềm năng? Đó là cơ hội kiếm bạc triệu đấy? - Hãy đồng ý .

      - Thôi được Tôi tham gia. - Có thể phải bán ít nữ trang của ấy.

      - Mình ăn được nó rồi. Frank, bao giờ phải hối tiếc đâu. - ta hoàn toàn có thể thua thiệt về thuế.

      Duyên Dáng 1 hề hiểu nổi câu chuyện đó có ý nghĩa gì.

      Ở phía cuối phòng ăn, người đàn ông và người đàn bà cùng ngồi bên chiếc bàn. Họ thầm chuyện với nhau. định thần để lắng nghe câu chuyện của họ.

      - Lạy Chúa. - Người đàn ông . - Quái quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? là đồ ngu ngốc.

      - Thế nghĩ vì sao mà em có chửa hả? - Vì báu vật giống đực của đấy.

      Có chửa là cách mà những sinh vật này thai nghén, sinh sản cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục, của họ, giống như những con vật cánh đồng vậy.

      - Tina, về chuyện này em định thế nào? - ta phải phá thai.

      - Ê. muốn em làm gì hả? bảo là với vợ về em mà. - thằng dối khốn kiếp.

      - Này em , , nhưng lúc này được. - Tôi dính với cách là điên rồ. Lẽ ra tôi phải biết là kẻ gây rắc rối.

      - Paul, lúc này em cũng buồn. Thậm chí em còn nghĩ là em. - Xin hãy em .

      - Tất nhiên là em. Chỉ có điều ngay lúc này chính là lúc vợ gặp hoàn cảnh khó khăn. - Tôi hề định để mất ấy.

      - Lúc này em cũng gặp khó khăn. hiểu điều đó à? Em mang bầu đứa con của . - Và hề có ý định cưới tôi.

      Nước mắt chảy ra từ hai mắt ta.

      - Bình tĩnh nào, em . đảm bảo với em là mọi chuyện rồi ổn cả. cũng muốn có con như em thôi. - Mình phải thuyết phục ta phá thai.

      Ở cái bàn kề bên họ, sinh vật giống đực ngồi mình.

      - Họ hứa với mình. Họ là cuộc đua được ấn định, rằng mình thể thua, và như thằng ngốc, mình ném tất cả tiền cho bọn họ. Mình phải tìm cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Mình thể nào chịu được nếu họ tống mình vào tù. Mình tự sát trước. Thề có Chúa, mình tự sát.

      Tại chiếc bàn khác, người đàn ông và người đàn bà dở câu chuyện.

      - hề có chuyện như vậy. Đơn giản là mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp núi này, và nghĩ là tốt cho em khi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. - Chúng ta có nhiều thời gian nghỉ ngơi giường của , bé ạ.

      - Claude, em biết. Em chưa bao giờ xa với người đàn ông nào. - Mình ngờ là ta tin như thế.

      - Phải, nhưng đây phải là chuyện tình dục đâu. chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi vì em là em cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về như người trai của em - Và chúng ta thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú và cổ lỗ kia xem sao.

      Duyên Dáng 1 hề biết rằng những người khác nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ có thể chen vào trong đầu họ bằng ý thức của mình và hiểu họ gì.

      Mình phải tìm cách liên lạc với tàu mẹ, nghĩ.

      lấy ra nột cái máy phát xách tay màu bạc. Đó là hệ thống mạch liên hợp phân cách mà nửa gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm hợp chất kim loại của hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng nghìn tế bào đơn lẻ để khi chúng chết , những tế bào mới được nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. may, cái bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát gãy ra và rơi mất. thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận này chiếc máy phát trở nên vô tích .

      cố ăn thêm lá rau diếp nữa, nhưng còn chịu nổi mùi vị của nó. đứng dậy và bước ra phía cửa. thu ngân gọi phía sau:

      - Thưa , xin chờ phút. chưa trả tiền ăn.

      - Tôi xin lỗi. Tôi có thứ phương tiện thanh toán của các bạn.

      - có thể điều đó với cảnh sát ấy.

      Duyên Dáng 1 nhìn thẳng vào mắt thu ngân và chờ ta khuỵu xuống. quay và bước khỏi chỗ ăn uống đó.

      Mình phải tìm cái bộ phận tinh thể. Họ chờ nghe tin tức của mình. phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường như cứ nhòe và méo mó. có nước, biết thế, chết mất.



      Chương 22



      Ngày thứ năm.

      Bern, Thụy Sĩ.

      Robert vào ngõ cụt. nhận ra là trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ mờ nhạt. Lẽ ra mình phải đoạt bản danh sách kia lúc mình ở trong căn hộ của Mothershed.

      Điều đó dạy cho mình bài học. Tất nhiên. ý nghĩ đâu đó có trong đầu chợt nổi lên. Hans Beckerman có : "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lão già ấy cứ phàn nàn đòi sớm về Bern bởi vì lão ta phải chuẩn bị bài giảng ở trường đại học". Chuyện mơ hồ, nhưng đó là tất cả những gì Robert có trong tay.

      thuê cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học này gồm dăm tòa nhà, cao bốn tầng, với hai dãy ngang và những tượng đá lớn mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của tòa nhà là những cửa sổ bằng kính của những phòng học, và ở phía sau trường là khoảng vườn lớn nhìn ra sông Aare.

      Robert bước lên bậc thềm của tòa nhà hành chính và bước vào phòng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho là ông khách đó người Đức và ông ta chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.

      sinh viên chỉ cho tới Phòng hành chính.

      phụ nữ ngồi sau bàn có vóc người dễ sợ. Bà ta mặc bộ complê cắt rất vừa vặn, mang cặp kính gọng đen và tóc được búi thành búi . Bà ta ngước nhìn lên khi Robert bước vào.

      - Xin mời.

      Robert móc ra tấm thẻ cảnh sát quốc tế.

      - Tôi thực cuộc điều tra, và tôi đánh giá cao hợp tác, thưa .

      - Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện gì vậy?

      - Tôi tìm kiếm giáo sư.

      - Tên ông ta? - Bà ta cau mày.

      - Tôi biết.

      - Ông biết cả tên ông ta?

      - . Ông ta là giảng viên mời thôi. Ông ta có bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.

      - Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn gì?

      - Bà gì ạ?

      - Ông ta dạy môn gì? - Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học gì?

      - Tôi biết.

      Bà ta giấu vẻ bực tức.

      - Trời đất. Tôi thể giúp ông. Và tôi giờ cho những chuyện phù phiếm này.

      Bà ta định quay .

      - Ồ, đây phải là chuyện phù phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy. - cúi xuống và thấp giọng . - Tôi phải để bà biết công việc của tôi... Vị giáo sư này liên quan tới tổ chức đĩ điếm.

      Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.

      - Cảnh sát quốc tế theo dõi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng này. - đứng thẳng người lên. - Nếu bà muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành cuộc điều tra chính thức tại trường này. Tất nhiên, dư luận...

      - , . - Bà ta . - thể để nhà trường liên quan tới chuyện như vậy. - Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. - Ông là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?

      - Ngày mười lăm. Thứ hai.

      Schreiber nhỏm dậy và tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.

      - Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.

      - Người tôi muốn biết là người Đức.

      - Tất cả họ đều là người Đức. - Schreiber quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. - bài giảng là về các vấn đề kinh tế, về hóa học và về tâm lý...

      - Tôi có thể xem chúng được ?

      cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.

      xem kỹ từng tờ. mỗi tờ đều có cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.

      - Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.

      - , cảm ơn. - nhớ tất cả những cái tên và những con số. - có ai trong số này là người mà tôi tìm kiếm.

      Bà Schreiber thở phào nhõm.

      - Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi bao giờ dính dáng đến chuyện như vậy.

      - Xin lỗi làm phiền bà vì chuyện đâu.

      Robert ra và hướng tới trạm điện thoại công cộng trong thành phố.

      Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.

      - Giáo sư Streubek phải ạ?

      - Phải.

      - Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông du lịch ở Thụy Sĩ và...

      - Tôi hiểu ông muốn chuyện gì nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.

      - Ông ở Thụy Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy , thưa giáo sư?

      - . Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.

      - Và ông chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?

      - Tôi giờ cho chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là người bận rộn. - Và ông giáo sư gác máy.

      Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.

      - Giáo sư Heinrich phải ạ?

      - Đây là giáo sư Heinrich!

      - Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thụy Sĩ vào ngày mười bốn tháng này phải ạ?

      - Vì sao mà ông muốn biết?

      - Bởi vì chúng tôi tìm thấy chiếc cặp của ông trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và...

      - Ông nhầm người rồi, tôi có mặt chiếc xe bus du lịch nào hết.

      - Ông tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?

      - Tôi với ông rồi, .

      - Tôi xin lỗi vì làm phiền ông.

      Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.

      - Giáo sư Otto Schmidt phải ạ?

      - Vâng.

      - Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông để quên chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và...

      - Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.

      Tim Robert thắt lại. thua. còn gì để mà tiếp tục nữa.

      Giọng ở đầu dây kia tiếp tục.

      - Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.

      Robert chợt thấy phấn chấn.

      - Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải ạ?

      - Vâng, vâng, nhưng tôi rồi, tôi mất gì cả mà.

      - Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. - Robert gác máy. Vớ bở rồi.

      Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút với tướng Hilliard.

      - Tôi có hai việc phải báo cáo. - Robert . - Về nhân chứng ở London mà tôi với ngài.

      - Sao?

      - ta chết trong vụ cháy đêm qua.

      - Thế hả? tệ quá.

      - Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi phát nhân chứng khác. Tôi để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.

      - Tôi chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.

      Tướng Hilhard báo cáo với Janus.

      - Sĩ quan Bellamy phát nhân chứng nữa.

      - Tốt. Nhóm công tác trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện loang ra trước khi SDI vào hoạt động.

      - Tôi sớm có những thông tin nữa cho ngài.

      - Tôi muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.

      - Vâng, thưa ngài Janus.

      ***

      Plattenstrasse, ở Munich, là khu phố , yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám xịt co cụm lại với nhau như thể để phòng vệ.

      Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi nhà hàng xóm. Bên trong cổng là dãy hộp thư. tấm biển dưới trong những hộp thư có ghi dòng chữ "Giáo sư Otto Schmidt". Robert bấm chuông.

      người đàn ông cao, gầy với mớ tóc bạc lòa xòa mở cửa. Ông ta mặc chiếc áo nhàu nhĩ, mồm ngậm chiếc tẩu. Robert hiểu liệu ông ta tạo ra hình ảnh giáo sư đại học mô phạm hay chính cái hình ảnh đó là tạo ra ông ta.

      - Ông là giáo sư Schmidt?

      - Phải!

      - Tôi biết liệu tôi có thể chuyện với ông lát được . Tôi ở...

      - Chúng ta chuyện với nhau, - giáo sư Otto Schmidt . - Ông là người gọi điện thoại cho tôi sáng nay. Tôi là chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết giọng . Mời vào.

      - Cám ơn ông.

      Robert bước vào căn phòng bề bộn sách vở. các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách bàn, sàn, ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn phòng dường như là những việc làm chưa được nghĩ kỹ.

      - Ông chẳng phải là từ hãng du lịch Thụy Sĩ nào cả, có phải thế hả?

      - Ô tôi...

      - Ông là người Mỹ.

      - Vâng.

      - Và cuộc viếng thăm này liên quan gì đến cặp kính hề bị mất của tôi.

      - Ồ , thưa ông.

      - Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ mà tôi nhìn thấy. Đó là cảnh tượng ghê sợ. Tôi luôn tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi bao giờ nghĩ là tôi được chứng kiến.

      - Hẳn phải là cú sốc khủng khiếp.

      - Đúng thế.

      - Ông có thể kể cho tôi nghe chút gì về chuyện đó ?

      - Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. , có thể là hơi xám chút. Tôi, tôi chắc.

      nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời... rồi lại xanh lá cây. Nó bị vỡ toang ra và tôi nhìn thấy được hai xác chết trong đó. ... mắt to. Họ mặc thứ gì đó giống như bộ quần áo bằng bạc vậy..."

      - Ông có thể kể gì với tôi về những bạn đồng hành của ông ?

      - Những người cùng với tôi chiếc xe bus ấy à?

      - Vâng.

      Vị giáo sư nhún vai.

      - Tôi biết gì về họ cả. Tất cả bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi tập trung về bài giảng mà tôi giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ý tới những hành khách khác.

      Robert nhìn vẻ mặt ông ta, chờ đợi.

      - Nếu như nó là có ích cho ông, - Vị giáo sư , - tôi có thể cho ông biết họ là người nước nào. Tôi dạy hóa học, nhưng có sở thích về nghiên cứu thanh.

      - Bất kỳ những gì ông nhớ được đều đáng quý cả.

      - Có tu sĩ người Italia, người , người Hungary, người Mỹ giọng Texas, Nga.

      - Nga à?

      - Phải. Nhưng ta phải dân Mátxcơva. Theo giọng , tôi đoán ta ở Kiev, hoặc là rất gần đó.

      Robert chờ đợi, nhưng chỉ còn có im lặng.

      - Ông nghe thấy bất kỳ ai trong số họ nhắc tới tên hay chuyện về nghề nghiệp của họ à?

      - Xin lỗi. Tôi rồi. Tôi suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người Mỹ giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi biết ông tu sĩ thậm chí có hiểu hay .

      - Ông tu sĩ...

      - Ông ta giọng La Mã.

      - Ông có thể thêm gì nữa về bất kỳ ai trong số họ ?

      - Tôi sợ là . - Vị giáo sư nhún vai. Ông ta hút hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là thể giúp gì cho ông.

      ý nghĩ chợt đến với Robert.

      - Ông ông là nhà hóa học phải nhỉ?

      - Phải.

      - Tôi biết liệu ông có bằng lòng nhìn cái này chút , thưa giáo sư. - Robert thò tay vào túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đưa cho . - Ông có thể bảo tôi cái này là cái gì được ạ?

      Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.

      - , kiếm cái này ở đâu?

      - Tôi sợ là tôi thể được. Ông có biết nó là cái gì ?

      - Có vẻ như nó là bộ phận của chiếc máy phát.

      - Ông có chắc thế ?

      Ông ta lật lật miếng kim loại trong tay.

      - Tinh thể này là chất dilithium. Rất hiếm. Thấy những vết khía này ? Chúng cho thấy miếng này được gắn vào bộ phận lớn hơn. Bản thân miếng kim loại... Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc động. - Ông có thể để cho tôi giữ nó trong vài ngày được ? Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.

      - Tôi e là thể được, - Robert .

      - Nhưng...

      - Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim loại.

      Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.

      - Thôi, ông có thể mang nó lại sau vậy. Sao ông cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi còn nhớ thêm được gì nữa, tôi gọi cho ông.

      - Có vẻ như tôi chẳng còn tấm nào ở đây cả. - Robert lục lọi trong túi chút.

      - Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. - Giáo sư Schmidt thủng thẳng .

      ***

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy máy.

      - Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard nhấc máy.

      - Tên của nhân chứng mới nhất là giáo sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.

      - Cám ơn ông sĩ quan. Tôi thông báo với nhà chức trách Đức ngay lập tức.

      Robert toan : "Tôi e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể tìm được", nhưng có điều gì đó chặn lại. muốn phải thú nhận thất bại. Vậy mà các dấu vết trở nên mờ nhạt. người Texas và vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mã tới. thời gian. Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và có cách nào để nhận dạng ông ta cả: Mình có lựa chọn. - Robert nghĩ. - Mình có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là mình có thể Rome và cố lần cuối cùng...

      ***

      Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở trung tâm Berlin, đường Neumarkterstrasse. Đó là tòa nhà lớn màu xám có gì đặc biệt, khó có thể phân biệt được với những tòa nhà xung quanh.

      Bên trong, tầng ba, sếp cơ quan, thanh tra Otto Joachim xem bức điện. Ông ta đọc nó hai lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ bàn.

      ***

      Ngày thứ sáu.

      Munich, Đức.

      Sáng hôm sau, đường đến phòng thí nghiệm hóa học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẩu kim loại đó có thể từ đâu ra nhỉ? vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia làm cho ông ta ngạc nhiên.

      Ông ta là quan tâm tới những người khách chiếc xe bus. Vì sao? Bởi vì tất cả họ đều là những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ được khuyến cáo là được bàn tán? Nếu vậy vì sao người Mỹ kia khuyến cáo mình? Có chuyện gì lạ vậy, vị giáo sư kết luận.

      Ông ta vào trong phòng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên móc và mặc lên người cái áo choàng rồi bước lại chiếc bàn nơi ông ta làm việc nhiều tuần nay với thí nghiệm hóa học. Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều này có thể có nghĩa là giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào bình chứa đựng thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Mình nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế này.

      Tiếng nổ là khủng khiếp. Căn phòng thí nghiệm nổ tung, và những mảnh thủy tinh cùng với những mảnh thịt người văng tung tóe lên những bức tường.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      BFV gửi Phó giám đốc NSA.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      Otto Schmidt bị thủ tiêu

      Hết.



      Robert nghe được tin về cái chết của vị giáo sư. có mặt chuyến bay của hãng hàng Alitalia, đường tới Rome.
      piipp thích bài này.

    4. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 23



      Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền lực và nó cứ như thứ ma túy lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào thế giới bí khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lão vẫn chưa thực lời hứa đó.

      cách hoàn toàn ngẫu nhiên, Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ mình cũng biến mất. Thornton gọi điện xin ăn trưa với lão.

      - Xin lỗi, - thư ký của Williard Stone trả lời, - nhưng hôm nay ngài Stone vắng.

      - Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới sao?

      - Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới ngài Stone cũng vắng.

      Lạ nhỉ và thậm chí nó còn trở nên lạ hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận được cùng câu trả lời. Thứ sáu nào lão già cũng biến đâu thế nhỉ? Lão ta phải là người say mê chơi gôn hay đam mê thú vui nào cả.

      Lý do hẳn là người đàn bà. Vợ của Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là phụ nữ đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu lão ta vụ ngoại tình, Thornton nghĩ, điều đó có nghĩa là mình tóm được gáy lão. Ông ta hiểu là phải tìm ra cho bằng được.

      5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó, Dustin Thornton ngồi sùm sụp sau tay lái của chiếc Ford Taurus rất bình thường, đậu cách tòa dinh thự sừng sững của Willard Stone nửa dãy phố. Đó là buổi sáng lạnh giá và ảm đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta làm gì ở đó. Có thể là có lời giải thích hoàn toàn hợp lý nào đó cho cái tượng kỳ cục này của Stone.

      Mình phí thời gian, Thornton nghĩ. Nhưng có điều gì đó kìm chân ông ta lại.

      Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và chiếc xe xuất . Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay vì chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc này lão ta ngồi trong chiếc xe chở hàng , màu đen mà đám gia nhân vẫn sử dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp. Ông ta biết là mình phát chuyện gì đó. Người ta thường sống theo khuôn phép riêng, và Stone phá vỡ cái khuôn phép ấy.

      Phải là chuyện người đàn bà.

      Lái xe cách thận trọng và giữ khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố vợ xuyên qua các đường phố Washington tới con đường dẫn Arlington.

      Mình phải tế nhị trong chuyện này, Thornton nghĩ. Mình muốn làm quá mạnh. Mình thu thập tất cả các thông tin có thể có được về lão, và rồi mình lật quân bài. Mình với lão rằng mình chỉ quan tâm tới chuyện bảo vệ cho lão mà thôi. Lão hiểu. Lão chẳng bao giờ muốn có chuyện bê bối om sòm.

      Dustin Thornton quá mải mê với những suy nghĩ đến nỗi suýt rẽ theo Williard Stone. Họ tới khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiên mất hút vào con đường chạy dài trong bóng cây.

      Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách theo dõi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard trước chung thủy của lão ta lúc này ? Hay nên đợi cho đến khi Stone khỏi và chuyện với người đàn bà kia trước ? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần thiết và rồi chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải tìm hiểu cụ thể.

      Thornton đậu xe ở đường phụ và vòng theo con đường ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó có trở ngại gì. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.

      Ông ta đứng trước khu vườn lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía sau.

      Ông ta nhàng dưới hàng cây chạy ngang bãi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện xảy ra. có nó lão già cười vào mặt cho. Dù chuyện gì xảy ra bên trong kia lúc này cũng đều có thể là chìa khóa dẫn tới tương lai của ông ta. Phải tìm ra cho được.

      Rất nhàng, Thornton thử mở cánh cửa sau.

      được khóa. Ông ta lọt vào bên trong và thấy mình đứng trong phòng bếp lớn kiểu cổ. có ai xung quanh cả. Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ, nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía đầu kia là cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới phòng thư viện. Thornton bước tới hết sức nhàng. Ông ta đứng nép bên cánh cửa.

      hề có tiếng động gì bên trong. Có thể là lão già ở trong phòng ngủ gác.

      Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn chục người đàn ông ngồi trong phòng, quanh chiếc bàn lớn.

      - Vào Dustin, - Williard . - Chúng tôi chờ đấy.




      Chương 24



      Tình hình ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, cuộc thử thách tinh thần làm cho kiệt sức. nghỉ tuần trăng mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng nghĩa với Roberto, người quản lý khách sạn Hassler cho mẹ ta, người nặng tai nhưng có thể nhìn miệng người để hiểu với năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước trăm dòng suối do con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân. Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Tòa thánh Vatican và những bức bích họa nổi tiếng của Michelangelo. Rome là pha trộn giữa những giai điệu du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui của Susan, và tiếng : "Robert, hãy hứa với em là chúng mình luôn hạnh phúc như thế này nhé".

      Mình làm cái quái gì ở đây nhỉ? Robert băn khoăn. Mình hề biết tí gì về vị tu sĩ kia, hay thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay . đến lúc nghỉ ngơi, về nhà và quên hết những thứ này.

      Nhưng có điều gì đó trong , nét bướng bỉnh thừa kế từ ông tổ nào đó chết từ lâu, ngăn cho làm như vậy. Mình cố gắng ngày nữa, Robert quyết định. ngày nữa thôi.

      Sân bay Leonardo da Vinci đông người và đối với Robert dường như bất kỳ ai cũng có thể là tu sĩ. tìm kiếm tu sĩ trong thành phố có, bao nhiêu? Năm mươi nghìn tu sĩ phải nhỉ? Hay trăm nghìn? taxi đến khách sạn Hassler, chú ý tới những đám đông các tu sĩ mặc áo choàng đường phố. thể được, Robert nghĩ. Mình hẳn là điên rồi.

      được viên phó quản lý chào đón ở tiền sảnh khách sạn Hassler.

      - Ông Bellamy. mừng là lại được thấy ông.

      - Cám ơn. Pietro. Ông có phòng cho tôi nghỉ lại đêm ?

      - Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn sẵn sàng.

      Robert được đưa đến phòng mà từng ở.

      - Nếu có cần gì xin ông cứ...

      Tôi cần điều kỳ diệu khốn kiếp, Robert nghĩ.

      ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.

      Vì sao tu sĩ ở Rome lại Thụy Sĩ nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể nghỉ, hoặc có thể dự hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất chiếc xe bus đó. Điều đó có nghĩa gì nhỉ? gì cả. Ngoài điều là ông ta cùng với nhóm, có thể như vậy thôi. Bởi thế có thể là chuyến thăm bạn bè hay gia đình của ông ta. Hoặc cũng có thể là ông ta cùng nhóm, và riêng ngày hôm đó họ có những chương trình riêng lẻ. Những ý nghĩ của Robert cứ quẩn quanh trong cái vòng tuyệt vọng.

      Hãy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ này tới Thụy Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta nhờ, nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta bằng máy bay tầu hỏa hoặc xe bus. Nếu là nghỉ ông ta hẳn có nhiều thời gian. Bởi vậy hãy giả thiết rằng ông ta bằng máy bay.

      Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả. Các hãng hàng ghi lại nghề nghiệp của hành khách. Vậy vị tu sĩ kia cũng chỉ có cái tên như bao nhiêu những cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là thành viên của nhóm...

      ***

      Tòa thánh Vatican, nơi ở chính thức của Giáo hoàng, vươn lên cách uy nghi đồi Vatican, bên bờ Tây sông Tiber, phía tây bắc thành Rome. Mái vòm cao của nhà thờ Basilica, do Michellangelo thiết kế, đứng sừng sững quảng trường rộng lớn, đêm ngày đầy những khách thuộc đủ mọi tín ngưỡng.

      Quảng trường này được bao quanh bởi những chiếc cột trụ hình bán nguyệt được xây dựng xong vào năm 1667 dưới bàn tay của Bernini, với 284 chiếc cột đá hoa cương xếp thành bốn hàng và đó là bao lớn đỡ 140 bức tượng. Robert thăm nơi này tới cả chục lần, nhưng lần nào cũng cảm thấy nghẹt thở trước quang cảnh ở đó.

      Tất nhiên, phía trong Tòa thánh, quang cảnh còn ngoạn mục hơn nữa. Nhà thờ Sistine: tòa bảo tàng và Cung Sala đẹp đến mức thể tả xiết.

      Nhưng vào ngày hôm đó, Robert đến đây phải để ngắm cảnh: tìm được Phòng quan hệ với công chúng của Tòa Thánh ở khu dành cho những việc liên quan đến bên đời. Người đàn ông trẻ tuổi ngồi sau bàn rất lịch thiệp.

      - Tôi có thể giúp ông ạ?

      Robert đưa nhanh tấm thẻ ra.

      - Tôi ở tạp chí Time. Tôi làm bài viết về số giáo sĩ tham dự hội nghị tôn giáo ở Thụy Sĩ cách đây hai tuần gì đó. Tôi cần những tư liệu về thân thế.

      Người đàn ông kia nhìn thoáng, rồi chau mày.

      - Chúng tôi có số giáo sĩ dự hội nghị ở Venise tháng trước. Gần đây có giáo sĩ nào của chúng tôi đến Thụy Sĩ cả. Xin lỗi, tôi sợ là tôi thể giúp gì cho ông.

      - Việc này rất quan trọng, - Robert vội vã . - Làm thế nào để tôi có thể có những thông tin đó được?

      - Cái nhóm mà ông tìm kiếm... họ đại diện cho dòng tu nào thế? Ông gì ạ? Đạo Thiên chúa có rất nhiều dòng: Dòng Francis, Marist, Benetdictine, Trappist, Jesuit, Dominic và số dòng khác nữa.

      - Tôi khuyên ông đến dòng tu của họ và hỏi ở đó xem.

      Chỗ đó là chỗ quái nào? Robert nghĩ.

      - Ông có gợi ý nào khác hả?

      - Tôi e là .

      Mình cũng thế, Robert nghĩ. Mình tìm thấy đống cỏ. Mình thể nào tìm được cái kim.

      rời khỏi Tòa Thánh và lang thang các đường phố của thành Rome, mải mê với khó khăn của mình mà hề để ý đến những người xung quanh đến quảng trường Appolo, ngồi vào tiệm cà phê ngoài trời và gọi ly Cinzano. Ly rượu vẫn ở yên trước mặt , hề được động.

      Với tất cả những gì biết vị tu sĩ kia có thể vẫn còn ở Thụy Sĩ. Ông ta thuộc dòng tu nào?

      Mình biết. Và mình chỉ có mỗi lời vị giáo sư kia rằng ông ta là người La Mã.

      uống ngụm.

      chuyến bay Washington vào lúc chiều tối. Mình chuyến đó, Robert quyết định: Mình bỏ cuộc thôi. Ý nghĩ đó làm bực tức. Nhảy ra, nhưng phải là cười mà là khóc. đến lúc phải rồi.

      - Tiền này.

      - Thưa ngài, vâng.

      Robert đưa mắt bâng khuâng nhìn quanh quảng trường. Phía bên đối diện với tiệm cà phê, chiếc xe bus lấy khách. Trong dãy hành khách có hai tu sĩ, Robert nhìn hành khách đưa tiền vé và rồi xuống phía cuối xe.

      Khi hai tu sĩ tới chỗ người bán vé, họ mỉm cười với ông ta và ngồi xuống ghế mà trả tiền.

      - Séc của ngài, thưa ngài, - người bồi bàn .

      Thậm chí Robert nghe thấy ta. Đầu óc quay cuồng. Nơi đây, ngay trong lòng nhà thờ Thiên Chúa, các tu sĩ có những đặc quyền nhất định. Có thể có thế thôi...

      ***

      Văn phòng của hãng Hàng Thụy Sĩ nằm ở số 10 đường P. chỉ cách đường Veneto khoảng 5 phút. Robert được người đàn ông ngồi sau dãy bàn dài tiếp.

      - Xin cho được gặp ông giám đốc?

      - Tôi là giám đốc đây. Tôi có thể giúp gì ông?

      - Michael Hudson, cảnh sát quốc tế. - Robert chìa ra tấm thẻ.

      - Tôi có thể làm gì cho ông được, ông Hudson?

      - số hãng hàng quốc tế phàn nàn về việc giảm giá vé bất hợp pháp ở châu Âu, và ở Rome riêng. Thể theo công ước quốc tế...

      - Ông Hudson, tôi xin lỗi, nhưng Hàng Thụy Sĩ cho giảm giá. Mọi người đều phải trả theo giá công bố...

      - Tất cả hả?

      - Tất nhiên là trừ những nhân viên của hãng.

      - Các ông giảm giá cho các giáo sĩ à?

      - . Với hãng này, họ phải trả cả vé.

      - Cám ơn ông dành thời giờ. - Và Robert bước ra.

      ***
      Chỗ dừng tiếp theo - Và cũng là hy vọng cuối cùng của - là hãng Alitalia.

      - Có chuyện giảm giá bất hợp pháp ? - Ông giám đốc sững người nhìn Robert, kinh ngạc. - Chúng tôi chỉ giảm giá cho nhân viên của chúng tôi.

      - Các ông giảm giá cho các tu sĩ à?

      Gương mặt ông giám đốc sáng lên.

      - A, chuyện đó có: Nhưng đó phải là bất hợp pháp. Chúng tôi có những thỏa thuận với bên Nhà thờ.

      Tim Robert rộn lên.

      - Vậy đó nếu như tu sĩ muốn bay từ Rome, chẳng hạn như đến Thụy Sĩ, ông ta đến hãng này chứ?

      - Ồ, vâng, như vậy ông ta đỡ tiền hơn.

      Robert :

      - Để có thông tin mới nhất cho các máy tính của chúng tôi, rất có ích nếu như ông có thể cho tôi biết bao nhiêu tu sĩ bay đến Thụy Sĩ trong hai tuần lễ qua. Ông có hồ sơ chứ?

      - Vâng, tất nhiên. Để dễ cho chuyện thuế má.

      - Tôi cần những thông tin đó.

      - Ông muốn biết có bao nhiêu tu sĩ bay Thụy Sĩ trong hai tuần qua phải ạ?

      - Đúng. Zurich hoặc Geneva.

      - Xin đợi cho chút. Tôi gọi từ máy tính ra.

      Năm phút sau, ông giám đốc quay lại với bản in từ máy tính.

      - Trong hai tuần qua chỉ có duy nhất tu sĩ bay bằng Alitalia Thụy Sĩ. - ông ta xem tờ giấy trong tay. - Ông ta rời khỏi Rome vào ngày 7, Zurich. Ông ta đăng ký bay trở về hai ngày sau đó.

      - Tên ông ta? - Robert hít hơi sâu.

      - Cha Romero Patrini.

      - Địa chỉ?

      Ông ta lại nhìn xuống.

      - Ông ấy sống ở Orvieto. Nếu ông cần gì thêm. - Ông ta ngước nhìn lên, Robert khỏi.


      Chương 25



      Ngày thứ bảy.

      Orvieto, Italia

      dừng xe tại chỗ đỗ bên lề đường 5-71, và phía bên kia thung lũng, sười núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm Etruscan cổ với nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ khác và tu sĩ, người chứng kiến vụ tai nạn của vật thể bay lạ.

      Thành phố vẫn nguyên vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân mang bán gà và rau quả tươi.

      Robert tìm được nơi để đỗ xe quảng trường Duomo. băng ngang quảng trường và vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.

      ***

      - Xin lỗi Cha, - Robert . Tôi tìm kiếm tu sĩ ở thành phố này: người ở Thụy Sĩ hồi tuần trước. Có thể Cha...

      Vị tu sĩ sững lại, mặt đầy vẻ khó chịu.

      - Tôi thể với ông chuyện này.

      - Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn tìm.

      Robert ngạc nhìn ông ta ngạc nhiên.

      - Ông ấy ở nhà thờ này. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.

      Và vị tu sĩ nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế nhỉ?

      ***

      Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, khu vực đầy màu sắc với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. tu sĩ trẻ tuổi chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nhìn lên khi Robert lại gần.

      - Xin chào ông.

      - Xin chào. Tôi tìm kiếm tu sĩ, người ở Thụy Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy...

      - Phải, phải. Tội nghiệp Cha Patrini. điều khủng khiếp xảy đến với ông ấy.

      - Tôi hiểu. Chuyện khủng khiếp gì vậy?

      - Nhìn thấy cỗ xe của quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy bị cơn sốc thần kinh, tội nghiệp.

      - Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó, - Robert . - Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn chuyện với ông ấy.

      - Ông ấy ở bệnh viện gần quảng trường San Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ cho phép ai thăm ông ấy đâu.

      Robert đứng đó, bối rối. Chẳng mấy ích lợi gì với người bị thần kinh.

      - Tôi hiểu. Cám ơn ông rất nhiều.

      ***

      Bệnh viện đó là tòa nhà tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô thành phố. dừng xe và bước vào trong hành lang . Có y tá ngồi sau bàn đón tiếp.

      - Xin chào, - Robert . - Tôi muốn gặp Cha Patrini.

      - Rất tiếc, nhưng... điều đó là thể được. Ông ấy thể gì với bất kỳ ai.

      Lúc này, Robert quyết để bị chặn lại. phải lần theo dấu vết mà giáo sư Schmidt trao cho .

      - hiểu, - Robert nhàng . - Cha Patrini cầu gặp tôi. Tôi từ Orvieto đến đây theo cầu của ông ấy.

      - Ông ấy cầu gặp ông?

      - Phải. Ông ấy viết thư sang Mỹ cho tôi. Tôi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để gặp ông ấy thôi.

      y tá lưỡng lự.

      - Tôi biết thế nào. Ông ấy rất nặng.

      - Tôi tin chắc là ông vui hơn khi thấy tôi.

      - Bác sĩ có ở đây... - quyết định. - Thôi được ông có thể tới phòng ông ấy, thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.

      - Tôi cũng chỉ cần có thế thôi, - Robert .

      - Ông lối này.

      Họ theo hành lang ngắn, hai bên là những căn phòng , gọn gàng. y tá dẫn Robert vào trong những phòng đó.

      - Chỉ vài phút thôi nhé, thưa ông.

      - Cảm ơn.

      Robert bước vào căn phòng bé. Người đàn ông nằm giường trông như hình nhân nhợt nhạt tấm vải trải giường trắng toát. Robert lại gần ông ta và nhàng :

      - Thưa Cha...

      Vị tu sĩ quay mặt để nhìn lên , và Robert chưa bao giờ nhìn thấy nỗi thống khổ nào như thế trong mắt con người.

      - Thưa Cha, tên tôi là...

      Ông ta túm lấy cánh tay Robert.

      - Giúp tôi với, - Vị tu sĩ lầm bầm, - Ông phải giúp tôi. Lòng tin của tôi mất. Cả đời tôi, tôi thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ tôi biết là có Chúa. Chỉ có quỷ sứ và nó đến để hại chúng ta...

      - Thưa Cha, nếu Cha...

      - Chính mắt tôi nhìn thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng còn nữa. Ôi! Những tên khác kéo đến. Hãy chờ xem. Tất cả chúng ta bị đày xuống địa ngục.

      - Xin Cha hãy nghe tôi. Cái mà Cha nhìn thấy phải là quỷ sứ. Đó là con tàu vũ trụ mà.

      Vị tu sĩ buông tay Robert và đột nhiên nhìn Robert với vẻ tỉnh táo hơn.

      - Ông là ai? Ông muốn gì hả?

      - Tôi đến đây để hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha ở đất Thụy Sĩ. - Robert .

      - Chiếc xe bus. Giá mà tôi đừng đến gần nó. - Vị tu sĩ lại trở nên kích động.

      Robert muốn thúc ép ông ta, nhưng có cách nào khác.

      - Cha ngồi bên người đàn ông chiếc xe đó. người Texas. Cha chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ ?

      - câu chuyện. Người Texas. Có, tôi nhớ.

      - Ông ta có với Cha là ông ta sống ở đâu ?

      - Phải, tôi có nhớ ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.

      - Đúng. Từ Texas. Ông ta có với Cha nhà ông ta ở đâu ?

      - Có, có, ông ta có với tôi.

      - Ở đâu thế, Cha? Nhà ông ta ở đâu?

      - Texas. Ông ta về Texas.

      - Đúng thế. - Robert gật đầu vẻ khuyến khích.

      - Chính mắt tôi nhìn thấy chúng. Tôi mong Chúa làm cho tôi bị mù. Tôi...

      - Thưa Cha, người đàn ông từ Texas. Ông ta có với Cha ông ấy ở đấy ? Ông ta có nhắc tới cái tên nào ?

      - Texas, có. Ponderosa.

      Robert vẫn cố gắng.

      - Đó là tivi. Đây là người đàn ông cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha ...

      Vị tu sĩ lại hôn mê.

      - Chúng đến đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh dối. Chính quỷ dữ xâm chiếm trái đất này. - Lúc này ông ta hét lên to. - Nhìn kìa. Nhìn kìa. Tôi có thể nhìn thấy chúng.

      y tá vội vã bước vào. nhìn Robert vẻ bằng lòng.

      - Ông phải ra thôi, thưa ông.

      - Tôi cần phút nữa thôi.

      - , thưa ông. Đủ rồi.

      Robert nhìn vị tu sĩ lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người bước . còn có thể làm gì hơn được nữa. cố hết sức để vị tu sĩ dẫn dắt đến người Texas kia, nhưng thua.

      Robert trở ra xe và chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà bỏ lại - nếu chúng có thể được coi là những dấu vết - là lời nhắc đến phụ nữ Nga, người Texas, và người Hungary. Nhưng có cách nào để tìm ra họ được. Nước cờ tàn. là buồn khi xa đến thế này để rồi lại bị chặn lại. Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho vài thông tin cần thiết. Chỉ chút nữa. Ông tu sĩ gì nhỉ?

      Ponderosa. Ông tu sĩ già xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, ràng là ông ta lẫn người Texas kia vào chương trình "Bonanza" của đạo diễn nổi tiếng tivi. Ponderosa, nơi gia đình bí Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng lại bên đường, những ý nghĩ vùn vụt trong đầu . quay ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.

      Nửa giờ sau, Robert chuyện với người chủ quán của quán ở quảng trường Republica.

      - Các ông có thành phố đẹp. - Robert . - thanh bình.

      - Ồ vâng, thưa ông. Chúng tôi hoàn toàn hài lòng với nơi đây. Ông bao giờ đến Italia trước đây chưa?

      - Tôi có phần của tuần trăng mật ở Rome.

      Robert, làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành . Từ hồi em còn là con bé con, em muốn được đến Rome đấy?

      - À, Rome. Quá lớn. Quá ồn ào.

      - Tôi công nhận.

      - Ở nơi đây, chúng tôi sống cuộc sống bình dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.

      Robert bình thản :

      - Tôi để ý thấy nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.

      - Ồ vâng, đúng thế. Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.

      - Cái đó . Thành phố này nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?

      - Duy nhất chỉ .

      - Tôi nghĩ là các ông có khá nhiều chương trình tivi của Mỹ chứ?

      - , . Đây là kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương trình được thực ở Italia thôi.

      - Cám ơn. Trúng rồi.

      ***

      Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.

      thư ký trả lời máy.

      - Văn phòng Đô đốc Whittaker đây.

      Robert có thể hình dung ra căn phòng. Nó thường là chỗ kín đáo khuất mắt dành cho những người hết thời mà chính phủ còn sử dụng vào việc gì được nữa.

      - Xin cho tôi được chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.

      - Xin ông chờ chút, ông chỉ huy.

      Robert băn khoăn liệu có còn ai liên hệ gì nữa với Đô đốc khi mà giờ đây, vị Đô đốc thời đầy quyền lực kia thành viên của đội quân về vườn. Có thể là .

      - Robert, rất mừng là gọi lại. - Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. - ở đâu thế?

      - Thưa ngài, tôi thể được.

      thoáng ngập ngừng.

      - Tôi hiểu. Tôi có thể làm gì cho đây?

      - Có, thưa ngài. Việc này bất tiện vì tôi được lệnh tiếp xúc với bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi biết ngài có thể kiểm tra việc cho tôi được ?

      - Chắc chắn là tôi có thể cố gắng. muốn biết gì nào?

      - Tôi cần biết liệu có cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa ?

      - Như trong chương trình Bonanza ấy à?

      - Vâng, thưa ngài.

      - Tôi có thể làm được, Tôi liên lạc với thế nào?

      - Thưa Đô đốc, tôi nghĩ tốt hơn là tôi gọi lại cho ngài.

      - Phải. Cho tôi hoặc hai tiếng nhé. Tôi giữ việc này chỉ có hai chúng ta biết thôi.

      - Cảm ơn ngài.

      Dường như Robert cảm thấy mệt mỏi biến mất trong giọng của ông già. Ít nhất ông cũng được cầu làm việc gì đó, cho dù rằng đó chỉ bình thường là việc tìm ra cái trang trại.

      Hai tiếng sau, Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.

      - Tôi đợi đây, - Vị Đô đốc . Trong giọng ông có vẻ hài lòng. - Tôi có thông tin mà muốn.

      - Và sao? - Robert nín thở.

      - Có cái trại Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là ông Dan Wayne nào đó.

      Robert thở ra nhõm.

      - Cám ơn ngài rất nhiều, thưa đô đốc, - Robert . - Tôi nợ ngài bữa tối khi nào tôi trở về.

      - Robert, tôi mong ngóng dịp đó.

      Cú điện thoại tiếp theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.

      - Tôi phát nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.

      - tu sĩ à?

      - Vâng. Ở Orvieto. Ông ta nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia thể gì được với ông ta.

      - Tôi chuyển lời ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.

      Hai phút sau, tướng Hilliard chuyện điện thoại với Janus.

      - Tôi vừa nghe sĩ quan chỉ huy Bellamy báo cáo.

      - Nhân chứng mới nhất là tu sĩ. cha Patrini nảo đó ở Orvieto.

      - Lo chuyện đó .



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      NSA gửi Phó giám đốc SIFAR.

      trích chép.

      bản duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận thế.

      5. Cha Patrini - Orvieto.

      Hết điện.



      Trụ sở SIFAR nằm đường Pineta, ở rìa ngoại ô phía nam thành Rome, trong khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho người qua đường chú ý tới tòa nhà bằng đá trông đầy vẻ công nghiệp, bình thường kia với hai khối nhà lớn là bức tường cao vây quanh, có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có trạm gác. Nằm trong khu quân , nó là trong những cơ quan an ninh bí mật nhất thế giới mà người ta ít biết đến nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, ghi dòng chữ: " bước qua giới hạn này".

      Trong căn phòng kiểu Spartan tầng hai của tòa nhà chính, đại tá Francesco Cesar xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với vóc người khỏe mạnh và gương mặt rỗ, lì lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.

      Vậy là sau cùng Chiến dịch Ngày Tận thế diễn ra. may là chúng ta chuẩn bị cho điều này. Cesar nghĩ. Ông ta nhìn xuống bức điện lần nữa. tu sĩ.

      ***

      quá nửa đêm khi bà xơ ngang qua phòng của các y tá trực đêm tại cái bệnh viện ở Orvieto.

      - Tôi đoán là bà ấy đến gặp bà Fillipi, - y tá Tomasino .

      - Hoặc bà ấy, hoặc ông già Rigano. Cả hai đều nguy kịch lắm rồi.

      Bà xơ kia lặng lẽ vòng qua các góc nhà và bước thẳng vào phòng của vị tu sĩ. Ông ta ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để ngực như thể cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.

      Bà xơ lấy từ dưới áo ra cái hộp . cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt thủy tinh rất đẹp và để nó vào trong lòng hai bàn tay ông tu sĩ già.

      Trong khi sửa lại những hạt thủy tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng hạt quệt nhanh lên ngón tay cái của ông. vết xước mờ xuất . Bà xơ lấy ra cái lọ bé xíu có đầu giọt và cẩn thận ba giọt lên chỗ vết xước kia.

      Chỉ cần vài phút để cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong khi làm dấu thánh trước người chết. Rồi bà bỏ , lặng lẽ như lúc đến.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      SIFAR gửi Phó giám đốc NSA.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      5. Cha Patrini - Orvielo bị thủ liêu.

      Hết điện.

    5. banglangtrang123

      banglangtrang123 Well-Known Member Staff Member Super Moderator

      Bài viết:
      26,213
      Được thích:
      47,825

      Chương 26



      Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta từng là lính Mũ nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông minh.

      - Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, - Janus . - Tiếp xúc với ông ta cách thận trọng. Tôi muốn để mất người này.

      Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. đại úy chuyện với Frank Johnson.

      - Ông phiền muộn gì về chính phủ của chúng ta à? - Viên đại úy hỏi. - Nó được điều hành bởi nhúm những kẻ yếu đuối phung phí nguồn tài lực. Đất nước này cần có sức mạnh hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia ngăn chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ cho phép khai thác dầu ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, . Họ lo lắng cho những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ gì về chuyện đó ?

      - Tôi hiểu ý ông, - Frank Johnson .

      - Tôi biết là ông hiểu bởi vì ông có đầu óc. Viên đại úy vừa vừa quan sát vẻ mặt Johnson. - Nếu như Quốc hội làm gì để cứu vớt đất nước của chúng ta số nào đó trong chúng ta phải làm gì đó.

      Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.

      - số trong chúng ta à?

      - Phải. - Bây giờ thế là đủ rồi, viên đại úy nghĩ. - Chúng ta về chuyện đó sau.

      Buổi chuyện sau vào việc cụ thể hơn.

      - Có nhóm những người nước muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị có quyền lực lớn. Họ thành lập Ủy ban. Ủy ban này có thể phải vượt qua số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt hiệu quả, nhưng mà sau cùng, điều đó cũng đáng giá. Ông có quan tâm ?

      - Tôi rất quan tâm. - Frank Johnson mỉm cười.

      Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson gặp số thành viên trong Ủy ban này... Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế lực ở chừng chục nước.

      - Chúng ta được tổ chức tốt, - thành viên giải thích với Frank Johnson. - Chúng ta có hệ thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Phòng Tuyên truyền, Tuyển chọn, Chiến thuật, Liên lạc... và Đội biệt kích.

      Ông ta tiếp.

      - Gần như tất cả các tổ chức tình báo thế giới là bộ phận của nó.

      - Ý ông là những người đứng đầu của...?

      - , phải là những người đứng đầu.

      - Các cấp phó. Những người trực tiếp biết chuyện gì xảy ra, và bỉết nguy cơ nào mà các nước gặp phải.

      ***

      Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi thế giới - Thụy Sĩ, Marốc, Trung Quốc, - Và Johnson có mặt đầy đủ.

      Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.

      Viên tướng cho triệu tập ông ta.

      - Tôi mới nhận được những báo cáo rất tốt đẹp về ông, đại tá.

      - Tôi ưa thích công việc của mình, - Frank Johnson mỉm cười.

      - Tôi cũng nghe như thế. Ông ở vị trí rất thuận lợi để có thể giúp đỡ chúng tôi.

      Frank Johnson ngồi thẳng người lên hơn.

      - Tôi làm bất cứ việc gì có thể được.

      - Tốt. Ở Trang trại, ông phụ trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ quan khác nhau?

      - Đúng thế.

      - Và ông biết họ cùng những khả năng của họ.

      - Rất tường tận.

      - Điều tôi muốn ông làm là, - Janus , - tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy có ích nhất cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người tốt nhất.

      - Đó là việc dễ dàng, - đại tá Johnson . - có vấn đề gì - Ông ta thoáng lưỡng lự. - Tôi băn khoăn...

      - Gì vậy?

      - Tôi có thể làm việc đó bằng tay trái của mình. Tôi muốn làm hơn thế, việc gì đó lớn hơn. - Ông ta dướn mình về phía trước. - Tôi có nghe về Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn được tham gia, thưa ngài.

      Janus ngồi nhìn ông ta hồi lâu. Rồi gật đầu.

      - Được ông vào cuộc rồi đó.

      - Cảm ơn ngài. - Johnson mỉm cười. - Ngài phải ân hận gì.

      Đại tá Frank Johnson sung sướng rời khỏi cuộc gặp.

      Bây giờ ông ta thừa để cho họ thấy ông ta có thể làm được những gì.


      Chương 27



      Ngày thứ tám.

      Waco. Texas.



      Dan Wayne có ngày vui. Mà chính xác ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa trở về từ tòa án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được nửa tất cả những gì mà ông có (điều đó có nghĩa là gì cả, như ông quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông phải mất trong những con bò đấu có hạng của mình. Dan Wayne cảm thấy số mệnh đen đủi. Ông làm gì để đến nỗi phải chịu tất cả những chuyện này. Ông là người chồng tốt, chủ trại giỏi giang. Ông ngồi lặng trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về tương lai ảm đạm.

      Dan Wayne là người đàn ông kiêu hãnh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những người Texas to mồm, khoác tấc đến trời, nhưng ông vẫn cảm thấy mình có điều gì đó đáng hãnh diện.

      Ông sinh ra ở Waco, trong khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos. Waco là thị trấn đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của quá khứ, thời mà nó hình thành, tồn tại và phát triển năm cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hóa. Wayne mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ chuyến du lịch bằng xe bus ở Thụy Sĩ kia, gần như ông suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương mình.

      Vị tu sĩ với ông là muốn rèn luyện tiếng , nhưng thực ra, khi nghĩ lại, hóa ra là gần như chỉ có mình ông cả câu chuyện.

      - Waco có tất cả mọi thứ, - Ông ta tâm với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi tuyệt vời. Chúng tôi cho phép trời quá nóng hay quá lạnh. Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài truyền hình. Chúng tôi có Phòng truyền thống mà ông phải choáng cả người. Ý tôi , ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa Cha, sông Brazos là nơi mà ông thể quên. Rồi chúng tôi còn có khu săn bắn và trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi cam đoan với ông, Waco là trong những thành phố có hai thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.

      Và vị tu sĩ già mỉm cười, gật gật đầu, còn Dan Wayne nghi hoặc, hiểu ông ta nghe được bao nhiêu tiếng .

      Dan Wayne thừa kế của người cha ngàn mẫu đất trang trại, và làm đàn gia súc sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại còn con ngựa đua đáng giá cả gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp toan cướp tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu mình là tìm ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các chủ nợ và giữ lại chút tiền lãi...

      Wayne nghe có người Thụy Sĩ giàu có muốn mua trang trại ở Texas, và ông ta bay Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là trò thả mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột đó là hay hai mẫu đất với cái vườn rau xinh xinh.

      Đó là lý do vì sao mà vô tình ông lại có mặt chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ kia xảy ra. Ông có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện chủ bút tờ báo địa phương.

      - Johnny, tôi mới nhìn thấy cái đĩa bay với mấy xác người kỳ quặc chết trong đó.

      - Thế hả? Ông có chụp tấm ảnh nào thế, Dan?

      - . Tôi có chụp mấy tấm, nhưng hỏng cả.

      - sao. Chúng tôi cho tay nhiếp ảnh tới đó. Nó trang trại của ông phải ?

      - Ồ . Thực ra là nó ở Thụy Sĩ kia.

      thoáng im lặng.

      - Ồ ra vậy, nếu như ông tình cờ nhìn thấy nó trang trại của ông, Dan, gọi lại cho tôi nhé.

      - Khoan. thằng cha cũng nhìn thấy, nó gửi cho tôi tấm ảnh mà...

      Nhưng Johnny gác máy.

      Thế đó.

      Gần như là Wayne mong có cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể họ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe thấy có tiếng xe chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ nhìn ra. Có vẻ là gã ở miền Đông.

      Có thể lại là chủ nợ khác. Những ngày này họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.

      Dan Wayne mở cửa trước.

      - Xin chào.

      - Ông là Daniel Wayne...

      - Bạn bè gọi tôi là Dan. Tôi có thể làm gì cho ông thế?

      Dan Wayne hề như Robert hình dung: mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta thanh mảnh, dáng quý tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất thể gốc gác của ông ta là giọng .

      - Tôi biết liệu có thể xin ông vài phút được ?

      - Tôi cũng chỉ còn ngần ấy thời gian, - Wayne . - Nhân tiện xin được hỏi, ông phải là chủ nợ ư?

      - chủ nợ ấy à? ?

      - Tốt. Xin mời vào.

      Hai người cùng ngồi ở phòng khách. Đó là căn phòng lớn với đồ đạc rất tiện nghi theo kiểu miền Tây.

      - Ông có chỗ ở đẹp quá, - Robert .

      - Dạ. Tôi được sinh ra trong ngôi nhà này. Tôi có thể mời ông uống gì nhỉ? chút gì mát, được ?

      - , cảm ơn. Tôi khát.

      - Xin mời ngồi.

      Robert ngồi xuống chiếc văng bọc da mềm mại.

      - Ông gặp tôi có việc gì thế?

      - Tôi được biết là ông có tuyến du lịch bằng xe bus ở Thụy Sĩ hồi tuần trước?

      - Đúng thế. vợ cũ thuê người theo dõi tôi à? Ông làm việc cho ta đấy chứ?

      - , thưa ông.

      - Ồ, - ông ta chợt hiểu ra. - Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ gì. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy gì khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc. Và những sinh vật chết kia nữa. - Ông ta rùng mình. - Tôi vẫn nằm mơ thấy nó.

      - Ông Wayne, ông có thể với tôi bất kỳ điều gì về những người khách cùng chuyến xe đó được ?

      - Xin lỗi. Tôi thể giúp gì ông. Tôi mình.

      - Tôi biết, nhưng ông có chuyện với những người khách khác chứ, phải nào?

      - với ông, tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi chẳng chú ý mấy tới bất kỳ ai khác.

      - Ông có nhớ bất kỳ chuyện gì về bất kỳ ai trong số họ ?

      Day Wayne im lặng lát.

      - Ồ, có tu sĩ người Italia. Tôi có chuyện với ông ta chút. Ông ta có vẻ là người dễ mến. Tôi muốn để ông biết là cái đĩa bay kia làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ mãi về chuyện quỷ sứ.

      - Ông có chuyện với ai khác nữa ?

      Day Wayne nhún vai.

      - hẳn... Chờ phút. Tôi còn trò chuyện với ông chủ nhà băng ở Canada. - Ông ta đưa lưỡi liếm môi. - với ông, tôi chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại này. Có thể là tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao tôi nghĩ là cái thằng cha này có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi chuyện với ông ta về việc thu xếp kiểu tín dụng nào đó ở đây. Nhưng cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. thể nào hờ hững hơn thế được.

      - Ông ta ở Canada à?

      - Phải, Fort Smith, mãi vùng Các lãnh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả những gì tôi có thể với ông rồi đấy.

      Robert cố giấu tâm trạng kích động của mình.

      - Ông Wayne, xin cảm ơn ông, ông giúp ích rất nhiều. - Robert đứng dậy.

      - Thế thôi à?

      - Thế thôi.

      - Ông có muốn ở lại dùng bữa tối ?

      - , cảm ơn. Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại nhé.

      - Cảm ơn.

      Fort Smith, Canada. Các lãnh thổ Tây Bắc.

      ***

      Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất máy.

      - Có ông sĩ quan hả?

      - Tôi tìm được nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa, trang trại bên ngoài Waco, Texas.

      - Rất tốt. Tôi để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas chuyện với ông ta.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      NSA gửi Phó giám đốc CIA:

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      6. Daniel Wayne - Waco.

      Hết.



      Tại Langley, Virginia, phó giám đốc Cục Tình báo Trung ương trầm ngâm xem bức điện số 6. Công việc trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy làm việc tuyệt hảo. Janus đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực . Bao nhiêu quyền lực... Ông ta nhìn bức điện lần nữa. Chuyện này khó khăn gì. Rồi nhấn cái nút.

      ***

      Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh sẫm.

      Họ đỗ xe ngoài sân, ra khỏi xe và thận trọng nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên của Dan Wayne là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.

      - Ông là Dan Wayne?

      - Vâng. Tôi đây.

      Ông ta chỉ mới được có thế.

      Người đàn ông thứ hai bước vòng lại phía sau và cầm cái bình da dùng để đựng rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.

      trong hai người đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại bất tỉnh lên vai và mang ông ta ra ngoài chuồng bò. Hai người đàn ông phớt lờ những con vật và thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang đó là con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.

      Người đàn ông cao to :

      - Đây chỗ này.

      ta hạ Wayne xuống.

      Người đàn ông thứ hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. cú đánh mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và lòng trắng mắt ngầu lên.

      - Nào, - người đàn ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của con ngựa đực.

      Họ đứng nhìn cái quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài lòng bỏ .



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      Phó giám đốc CIA gửi Phó giám đốc NSA.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      6. Daniel Wayne - Waco - bị thủ tiêu.

      Hết.


      Chương 28



      Ngày thứ chín.

      Fort Smith, Canada.



      Fort Smith nằm ở vùng Các lãnh thổ Tây Bắc là thị trấn thịnh vượng với hai nghìn dân phần đông là chủ trại và những người chăn nuôi gia súc cùng với số ít thương nhân. Khí hậu ở đây khắc nghiệt, với những mùa đông dài và băng giá, còn bản thân thị trấn này là bằng chứng sống động đối với thuyết Darwin về tồn tại của những gì thích nghi nhất.

      William Mann là trong những sinh vật thích nghi đó, kẻ sống sót. Ông ta sinh ra ở Michigan, nhưng hồi ngoài ba mươi tuổi, đến Fort Smith chiếc tàu đánh cá và cho rằng cộng đồng nơi đây cần có nhà băng tốt hơn. Ông ta chộp được cơ hội. Ở đó chỉ còn nhà băng khác nữa và William Mann mất đầy hai năm để đẩy đối thủ của mình ra ngoài cuộc đấu. Mann điều hành nhà băng rất đúng cách. Vốn say mê toán học, ông ta coi sóc để sao cho những con số luôn luôn là có lợi cho mình. Ông rất hay tới câu chuyện đùa về người đàn ông đến ông chủ nhà băng mượn tiền cho ca mổ khẩn cấp cho đứa con của mình. Khi người vay tiền có gì thế chấp, ông chủ nhà băng bèn đuổi ông ta ra.

      - Tôi , - người đàn ông , - nhưng tôi muốn bảo cho ông biết rằng cả đời tôi chưa bao giờ thấy ai nhẫn tâm như ông cả.

      - Đợi chút, - Ông chủ nhà băng đáp lại. - Tôi cho ông khả năng này. trong hai con mắt tôi làm bằng thủy tinh. Nếu ông có thể đó là bên mắt nào, tôi cho ông vay.

      - Con mắt trái của ông. - Ngay lập tức, ông vay tiền đáp.

      - ai biết chuyện này cả. Làm sao mà ông có thể đoán được? - Ông chủ nhà băng kinh ngạc.

      - dễ thôi. Trong thoáng, tôi tưởng là thấy ánh nhìn thông cảm ở con mắt bên trái, bởi vậy tôi biết nó là con mắt thủy tinh.

      Câu chuyện đó, đối với William Mann, là bài học tốt cho nhà kinh doanh. Người ta thể buôn bán cơ sở thông cảm. Phải nhìn xuống mức thấp nhất. Trong khi các nhà băng khác ở Canada và Mỹ đổ liểng xiểng nhà băng của William Mann mạnh hơn bao giờ hết. Nguyên tắc của ông ta rất đơn giản: cho vay tín dụng để khởi đầu công việc làm ăn. đầu tư với những trái phiếu vô tích . cho những người láng giềng vay, dù họ có đứa con cần được giải phẫu gấp.

      Mann hết sức kinh hãi trước hệ thống nhà băng Thụy Sĩ Những ông thần giữ của ở Zurich là chủ của các chủ nhà băng. Bởi vậy, hôm, William Mann quyết định phải Thụy Sĩ, trao đổi với vài ông chủ nhà băng ở đó để xem ông ta còn thiếu sót gì , còn cách nào để có thể vắt thêm từng xu Canada được . Ông ta được tiếp đón tử tế, nhưng rốt cuộc cũng học được gì thêm. Các phương thức kinh doanh ngân hàng của ông ta là đáng ngưỡng mộ, và các ông chủ nhà bằng Thụy Sĩ hề ngần ngại ra điều đó.

      Hôm phải lên đường trở về, Mann quyết định tự cho mình cuộc du ngoạn dãy Alps. Chuyến chán ngắt. Phong cảnh đẹp, nhưng cũng chẳng hơn gì cảnh quan Fort Smith. trong số những du khách, người Texas, cả gan toan thuyết phục ông ta cấp tín dụng cho cái trang trại vỡ nợ: ông ta cười vào mũi gã. Điều duy nhất trong chuyến được coi là có chút thích thú, chính là vụ tai nạn của cái gọi là đĩa bay kia. Trong giây, Mann tin vào đó. Ông ta tin đó là do chính phủ Thụy Sĩ bày đặt ra để gây ấn tượng cho khách du lịch. Ông ta từng đến Thế giới Walt Disney, và nhìn thấy những điều tương tự, trông như nhưng lại là giả. Đó là con mắt thủy tinh của Thụy Sĩ, ông ta mỉa mai thầm nghĩ.

      William Mann sung sướng được trở về nhà.

      Từng phút của ông chủ nhà băng này đều được ấn định tỉ mỉ cho mỗi ngày làm việc, và khi viên thư ký bước vào người lạ muốn được gặp, ý nghĩ đầu tiên của Mann là mời ông ta .

      - Ông ta muốn gì?

      - Ông ta muốn phỏng vấn ông. Ông ta viết bài báo về các chủ nhà băng.

      Đó lại là vấn đề hoàn toàn khác. xuất đúng cách là tốt cho công cuộc kinh doanh. William Mann chỉnh lại chiếc áo khoác, vuốt tóc ngay ngắn, và :

      - Đưa ông ta vào.

      Khách là người Mỹ, ăn mặc sang trọng, điều đó chứng tỏ ông ta làm việc cho tạp chí hoặc tờ báo lớn.

      - Ông là Mann phải ạ?

      - Phải.

      - Tôi là Robert Bellamy.

      - Thư ký của tôi rằng ông muốn viết bài báo về tôi.

      - Ồ, phải là hoàn toàn về ông, - Robert . - Nhưng tất nhiên là ông nổi bật trong đó. Tờ báo của tôi.

      - Tờ nào vậy?

      - Nhật báo Wall Strees.

      - À thế tuyệt vời.

      - Tờ Nhật báo cảm thấy rằng hầu hết các chủ nhà băng đều quá xa rời với những gì xảy ra thế giới. Họ ít khi di chuyển, họ chịu tới những nước khác. Trái lại, thưa ông Mann, ông có tiếng là rất hay .

      - Tôi nghĩ là như vậy, - Mann cách khiêm nhường. - Thực tế là tôi vừa mới trở về từ chuyến Thụy Sĩ tuần trước.

      - thế ư? Ông có hài lòng với nó ?

      - Có. Tôi gặp gỡ vài chủ nhà băng ở đó. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề kinh tế thế giới.

      Robert rút ra cuốn sổ và ghi chép.

      - Ông có thời gian giải trí ?

      - hẳn. Ờ, tôi có chuyến du ngoạn bằng xe bus. Trước đây, tôi chưa bao giờ được thấy dãy Alps.

      Robert ghi chép thêm chút.

      - chuyến du lịch. Đó chính là cái mà chúng tôi tìm kiếm, - Robert đầy vẻ khuyến khích. - Tôi hình dung là ông gặp nhiều người đáng mến chuyến xe bus đó.

      - Đáng mến ư? - Ông ta nghĩ đến cái người đàn ông Texas toan vay tiền. - hẳn là như thế.

      - Ô?

      Mann nhìn ông khách. Tay phóng viên này ràng là chờ ông ta thêm. "Tất nhiên là ông nổi bật trong đó"

      - Có người Nga.

      - Thế ư? Hãy với tôi về ta. - Robert ghi vào sổ.

      - Ồ, chúng tôi bắt chuyện với nhau, và tôi giải thích cho ta hiểu nước Nga lạc hậu như thế nào và hướng tới những khó khăn khủng khiếp ra sao, trừ phi họ thay đổi.

      - Hẳn là ta bị gây ấn tượng rất mạnh, - Robert .

      - Ồ, có chứ. Có vẻ là thông minh. Nghĩa là với người Nga. Ông biết đấy, tất cả họ đều bị lập quá. ta có tên ?

      - , à..., khoan nào. Olga gì đó.

      - ta có ngẫu nhiên là từ đâu tới ?

      - Có. ta làm việc tại thư viện lớn ở Kiev.

      - Đó là chuyến nước ngoài đầu tiên của ấy, tôi đoán, là nhờ có cải tổ. Nếu như ông muốn biết ý kiến của tôi... - Ông ta ngừng lời để cho Robert ghi lại - Về mặt chính trị, Gorbachev quá nhanh, còn về mặt kinh tế ông ta lại quá chậm.

      - là kỳ lạ. - Robert lẩm bẩm.

      bỏ ra nửa giờ nữa với tay chủ nhà băng, nghe những bình luận chủ quan của ông ta về đủ mọi thứ, từ Thị trường chung đến kiểm soát vũ trang. thể có thêm thông tin gì về những hành khách khác.

      ***

      Khi Robert trở về khách sạn, gọi ngay cho tướng Hilliard.

      - Xin chờ chút, ông chỉ huy Bellamy.

      - nghe thấy loạt tiếng lách cách, và rồi tiếng tướng Hilliard vang lên.

      - Có! Ông sĩ quan?

      - Thưa tướng quân, tôi vừa tìm ra hành khách nữa.

      - Tên?

      - William Mann. Ông ta có nhà băng ở Fort Smith, Canada.

      - Cảm ơn. Tôi báo cho giới chức Canada chuyện với ông ta ngay lập tức.

      - Nhân thể có việc là ông ta trao cho tôi manh mối khác. Tối nay tôi phải bay Nga. Tôi cần có thị thực của Intourist Nga.

      - Ông gọi từ đâu đấy?

      - Fort Smith.

      - Dừng lại khách sạn Visigoth ở Stockholm. phong bì cho ông ở chỗ tiếp tân.

      - Cảm ơn ngài.

      ***

      Vào lúc 11 giờ đêm hôm đó, chuông cửa nhà William Mann réo vang. Ông ta hề đợi ai, và càng ưa những khách viếng thăm bất ngờ. Người quản gia nghỉ, và vợ ông ta yên giấc trong phòng riêng gác. Khó chịu, Mann ra mở cửa. Hai người đàn ông mặc đồ đen đứng sững trước ông.

      - Ông là William Mann phải ?

      - Phải.

      trong hai người kia rút ra tấm căn cước.

      - Chúng tôi ở Ngân hàng Canada. Chúng tôi có thể vào được ?

      - Có chuyện gì vậy? - Mann chau mày.

      - Chúng tôi muốn thảo luận ở trong nhà, nếu như ông phản đối.

      - Được - Ông ta dẫn họ vào phòng khách.

      - Mới đây ông đến Thụy Sĩ phải ?

      Câu hỏi làm cho ông ta bị bất ngờ.

      - Cái gì? Phải, nhưng có chuyện quái quỷ gì thế?

      - Trong thời gian ông vắng, chúng tôi kiểm tra sổ sách của ông, ông Mann. Ông có biết là tại ngân hàng của ông thiếu hụt triệu đô la ?

      William Mann nhìn hai người đàn ông, thất kinh.

      - Các ông cái gì vậy? Tuần nào tôi cũng đích thân kiểm tra sổ sách mà. Chưa bao giờ thiếu đồng xu nào cả.

      - triệu đô la, thưa ông Mann. Chúng tôi nghĩ là ông phải chịu trách nhiệm biển thủ số tiền đó.

      Mặt đỏ bừng lên, Mann thấy mình lắp bắp.

      - Sao, sao các người dám... Cút khỏi đây ngay trước khi tao gọi cảnh sát.

      - Điều đó chẳng có lợi gì cho ông cả. Cái chúng tôi muốn ở ông là phải biết hối hận.

      Lúc này, ông ta nhìn họ chằm chằm, tức tối.

      - Hối hận? Hối hận chuyện gì hả? Các người điên rồi.

      - đâu, thưa ông.

      trong hai người đàn ông rút ra khẩu súng.

      - Ông Mann, ngồi xuống.

      - Ôi, lạy Chúa! Mình bị cướp rồi.

      - Này, - Mann , - hãy lấy bất kỳ thứ gì các người muốn. cần phải bạo hành và...

      - Xin mời ngồi xuống.

      Người đàn ông thứ hai bước đến bên tủ rượu. Nó bị khóa. đập vỡ tấm kính và lấy ra cái cốc uống nước lớn, rót đầy rượu và mang đến chỗ Mann ngồi.

      - Uống . Nó làm cho ông thấy thoải mái.

      - Tôi, tôi bao giờ uống sau bữa tối. Bác sĩ của tôi...

      - Uống , nếu cái ly đầy óc của ông đấy. - Gã kia gí súng vào thái dương Mann.

      Bây giờ Mann hiểu là mình ở trong tay hai thằng điên. Ông ta run run cầm cốc rượu lên và uống ngụm.

      - Uống cạn .

      Ông ta uống ngụm lớn hơn.

      - Các các ông muốn gì? - Ông ta cất cao giọng, hy vọng rằng bà vợ có thể nghe thấy và xuống nhà, nhưng đó chỉ là mong muốn tuyệt vọng. Ông biết bà luôn ngủ say như chết. ràng là hai người này đến để cướp bóc. Tại sao họ vơ vét rồi chuồn nhỉ?

      - Muốn lấy gì lấy, - Ông ta . - Tôi ngăn trở gì.

      - Uống nốt .

      - cần phải thế này. Tôi...

      - Uống nốt .

      Gã đàn ông đánh mạnh vào phía tai, Mann kêu lên đau đớn.

      Ông ta uống nốt chỗ Wishky còn lại và cảm thấy choáng váng.

      - Két của tôi ở trong phòng ngủ gác, - Ông ta , giọng bắt đầu líu lại. - Tôi mở nó cho các . - Có thể điều đó làm cho vợ mình thức giấc và bà ta gọi điện cho cảnh sát.

      - vội gì, - gã cầm súng . - Ông có nhiều thời gian để uống.

      Người thứ hai lại chỗ tủ rượu và rót đầy ly khác.

      - Đây!

      - , mà, - William Mann phản đối. - Tôi muốn.

      Ly rượu được ấn vào tay.

      - Uống .

      - Tôi ...

      quả đấm giáng vào chỗ bị báng súng đập. Mann suýt ngất vì đau đớn.

      - Uống .

      Thôi được nếu như đó là điều chúng mày muốn sao lại nhỉ? Cơn ác mộng này càng qua nhanh càng tốt. Ông ta uống ngụm lớn và đưa tay bịt miệng.

      - Nếu như tôi uống nữa, tôi nôn mất.

      - Nếu như mà nôn, tôi giết ông. - Gã kia ngay.

      Mann ngước nhìn , rồi gã cùng với . Dường như cứ mỗi tên biến thành hai vậy.

      - Các người muốn gì cơ chứ? - Ông ta lẩm nhẩm.

      - Ông Mann, chúng tôi rồi. Chúng tôi muốn ông hối hận.

      - Được Tôi hối hận. - William Mann ngật ngưỡng gật đầu.

      Hai gã mỉm cười.

      - Ông thấy đấy, đó là tất cả những gì chúng tôi cầu. Bây giờ... - ấn mẩu giấy vào tay Mann. - Tất cả những gì ông phải làm là viết. Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi...

      - Có thế thôi hả? - William ngước mắt lên vẻ u muội.

      - Thế thôi. Và rồi chúng tôi khỏi đây.

      Ông ta đột nhiên cảm thấy phấn chấn. Vậy là chuyện chỉ có thế. Họ là những kẻ cuồng tín. Ngay sau khi họ , mình gọi cảnh sát và cho bắt hết. Mình kiện để những kẻ khốn kiếp này bị treo cổ.

      - Viết ông Mann.

      Ông ta thấy khó tập trung đầu óc.

      - muốn tôi viết gì hả?

      - Hãy viết, "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi".

      - Phải. - Ông ta cầm bút cách khó khăn, cố tập trung và bắt đầu viết. "Tôi xin lỗi. Hãy tha thứ cho tôi!"

      Gã nhặt mảnh giấy từ tay Mann, những ngón tay cầm sát mép giấy.

      - Ông Mann, thế là tốt. Thấy dễ dàng chưa?

      Căn phòng bắt đầu quay cuồng.

      - Phải. Cảm ơn. Tôi hối hận. Bây giờ các chứ?

      - Tôi thấy là ông thuận tay trái?

      - Sao cơ?

      - Ông thuận tay trái.

      - Đúng.

      - Gần đây, vùng này có nhiều tội phạm, ông Mann. Chúng tôi để cho ông giữ khẩu súng này.

      Mann cảm thấy khẩu súng được đặt vào bàn tay trái mình.

      - Ông có biết sử dụng khẩu súng như thế nào ?

      - .

      - Rất đơn giản. Ông dùng như thế này nhé... - Gã ta đàn ông nâng khẩu súng lên thái dương William và miết ngón tay của ông chủ nhà băng lên cò súng.

      tiếng nổ bị bóp nghẹt. Mẩu giấy dính máu được thả xuống sàn nhà.

      - Thế là xong, - trong hai gã . - Chúc ngủ ngon, ông Mann.



      Điện khẩn.

      Tối mật.

      CGHQ gửi Phó giám đốc NSA.

      ghi chép lại.

      Bản số 1 duy nhất.

      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.

      7. William Mann - Fort Smih - bị thủ tiêu

      Hết.

      ***



      Ngày thứ mười.

      Fort Smith, Canada.



      Sáng hôm sau, các nhân viên thanh tra ngân hàng báo cáo về việc mất triệu đô la tại nhà băng của Mann. Cảnh sát xếp cái chết của Mann vào dạng tự sát.

      Khoản tiền bị mất kia chẳng bao giờ được tìm thấy.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :