Âm mưu ngày tận thế - Sidney Sheldon (53c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 18
      Lislie Mothershed ở trong tâm trạng phấn khích. Ngay khi trở về tới London, khư khư cuộn phim quý giá, ta vội vã lao vào cái phòng kho ta biến thành buồng tối và kiểm tra lại mọi thứ đồ nghề: khay tráng, nhiệt biểu, những cái cặp bốn cái bình lớn, đồng hồ, thuốc rửa, thuốc , thuốc hãm. ta bật ngọn đèn đỏ phía trền đầu rồi hai bàn tay run lên, lấy cuộn phim ra. ta thở mạnh, cố tự kiềm chế.
      ta thở mạnh, cố tự kiềm chế. Lần nầy được để có sai sót gì, ta nghĩ. sai sót gì cả. Mẹ ơỉ, cái nầy là để cho mẹ đây.
      cách thận trọng, ta cuốn phim vào chiếc lõi đặt vào trong khay và đổ thuốc rửa vào, thứ dung dịch đầu tiên mà ta phải dùng đến. Nó đòi hỏi giữ đều ở nhiệt độ 20oC và thỉnh thoảng lại phải khuấy đều. Sau mười phút, ta đổ hết cái dung dịch đó và đổ thuốc hãm vào.
      Lishe lại bắt đầu hồi hộp, lo sợ có nhầm lẫn nào đó. ta trút bỏ thuốc hãm để rửa lần đầu và rồi để phim nằm trong khay đầy nước trong vòng mười phút. Sau đó là hai phút liên tục khuấy động trong chất tẩy; và mười hai phút nữa trong nước. Ba mươi giây ngâm trong dung dịch khác để đảm bảo còn những vết lỗi phim bản. Sau cùng, hết sức thận trọng, ta lấy phim ra và treo nó lên bằng những chiếc cặp và dùng miếng thấm để thấm những giọt nước cuối cùng phim. ta đợi cách kiên nhẫn để cuộn phim bản khô .
      đến lúc nhìn thấy chút. Mothershed cầm đoạn phim đầu tiên lên, nín thở trong tiếng tim đập thinh thịch, và giơ nó lên trước ánh sáng. Hoàn hảo.
      Tuyệt đối hoàn hảo.
      Mỗi tấm phim là viên ngọc, bức ảnh mà bất kỳ nhiếp ảnh gia nào thế giới cũng phải tự hào nếu như chụp được nó. Mọi chi tiết của chiếc phi thuyền gian lạ kia đều ràng, kể cả những cái xác của hai sinh vật lạ nằm trong đó.
      Mắt Mothershed chợt chú ý vào hai thứ mà trước đó ta hề để ý, và ta xem lại cẩn thận hơn. Ở nơi mà vỏ chiếc phi thuyền vỡ ra, ta có thể trông thấy ba cái văng bên trong thế nhưng lại chỉ có hai sinh vật lạ. Điều lạ nữa là bàn tay của trong hai sinh vật kia bị chặt đứt. hề nhìn thấy chỗ nào trong tấm ảnh đó có bàn tay đó. Có thể là sinh vật nầy chỉ có tay, Mothershed nghĩ. Lạy Chúa, những bức ảnh nầy là tuyệt tác. Mẹ đúng. Mình là thiên tài. ta nhìn quanh căn phòng và nghĩ. Lần sau mình rửa phim trong căn buồng tối rộng rãi, đẹp đẽ trong biệt thự của mình ở Eaton Square.
      ta sờ mó những tấm phim quý giá như kẻ hà tiện sờ mó những đồng vàng của mình. tờ báo hay tạp chí nào thế giới lại khỏng bất chấp mọi giá để có được tấm hình nầy. Suốt những năm vừa qua, những kẻ khốn kiếp đó khước từ những tấm ảnh của ta vớì dòng ghi chú đầy báng bổ. Cảm ơn ông gửi những tấm ảnh mà chúng tôi gửi trả nơi đây. Chúng phù hợp với nhu cầu nay của chúng tôi? Và, Cảm ơn ông gửi tới. Chúng quá giống với những tấm ảnh mà chúng tôi in. Hay đơn giản là, Chúng tôi gửi trả những tấm ảnh mà ông gửi tới?
      Trong nhiều năm, ta phải cầu cạnh những kẻ khốn kiếp nầy để có công ăn việc làm và bây giờ chúng phải bò đến đây, và ta bắt chúng phải trả giá.
      Lishe thể chờ đợi được nữa. ta phải bắt đầu ngay lập tức. Do chỗ cái công ty Điện thoại đốn mạt kia cắt điện thoại của ta chỉ đơn thuần vì lẽ quý vừa qua chậm trả tiền có vàì ba tuần lễ, Mothershed phải ra ngoài để gọi. Cao hứng, ta quyết định tới tiệm Langan, tiệm ăn có tiếng, và tự thết mình bữa trưa xứng đáng. Tiệm Langan là quá cao so với khả năng tài chính của Lislie, nhưng nếu như có dịp kỷ niệm nào đó chính là lúc nầy dây. Chẳng nhẽ phải ta sắp trở nên giàu có và nổi tiếng sao?
      Người phục vụ đưa Mothershed tới ngồi vào chiếc bàn nơi góc phòng, và ở đó, tại bàn cách chừng ba mét, ta nhìn thấy hai khuôn mặt quen thuộc ta đột nhiên nhận ra họ là ai, và thoáng run người lên. Chính là Michael Caine và Roger Moore.
      Lislie mong giá như mẹ mình còn sống để có thể nghe kể lại về điều nầy. Bà rất thích được đọc về những minh tinh màn bạc. Hai người đàn ông kia cười vui vẻ có chút bận tâm gì đời, và Mothershed thể nào nhìn họ. Họ hề để mắt đến ta. Hal thằng cha hợm hĩnh. Leslie Mothershed nghĩ cách giận dữ. Chắc họ chờ mình tới xin chữ ký. Hừm, chỉ vài ngày nữa họ phải xin mình ấy chứ. Họ sấp sấp ngửa ngửa để mà giới thiệu mình với bạn bè của họ. "Leslie, tôi muốn ông gặp Charles và Di, và đây là Fergie và Andrew. Leslie, các vị biết rồi, người chụp nhưng bức ảnh nổi tiếng về cái vật thể bay lạ kia". Lúc Mothershed ăn xong, ta qua hai minh tinh kia và lên gác để tới buồng điện thoại. Bộ phận hỏi đáp cho số máy của tờ Sun.
      - Tôi muốn gặp người phụ trách biên tập ảnh.
      - Chapman đây. - giọng đàn ông cất lên.
      - Liệu có giá trị gì với ông nếu như ông có những tấm ảnh về vật thể bay lạ vớì những xác chết của hai sinh vật lạ trong đó hả?
      Giọng ở đầu dây đằng kia :
      - Nếu như những tấm ảnh xem được chúng tôi có thể sử dụng như là thí dụ về trò đùa thông minh và…
      Mothershed cách gay gắt:
      - Chuyện nầy phải là trò đùa. Tôi có tên của chín nhân chứng có tiếng tăm, là những người làm chứng rằng đó là , trong đó có tu sĩ.
      Giọng của người đàn ông kia thay đổi.
      - Ô? Và những bức ảnh nầy được chụp ở đâu thế?
      - Chuyện đó ông khỏi quan tâm, - Leslie thoái thác. ta chịu để họ lừa để biết bất kỳ thông tin nào. - Ý ông thế nào?
      Giọng kia đầy vẻ thận trọng:
      - Nếu như ông có thể chứng minh những bức ảnh đó là xác thực, đúng là chúng tôi rất quan tâm tới chúng.
      Chắc chắn là thế rồi, Leslie sung sướng nghĩ.
      - Tôi liên lạc lại với ông. - ta gác máy.
      Hai cú điện thoại nữa cũng hài lòng như thế. Leslie phải tự nghĩ rằng việc kiếm tên và địa chỉ của các nhân chứng là nước cờ thiên tài. Giờ kẻ nào có thể vu cho ta là cố tình bịp bợm. Những tấm ảnh nầy chuẩn bị xuất trang đầu của tất cả những tờ báo và tạp chí lớn nhất thế giới. Với tên tuổi của mình: ảnh của Leslie Mothershed.
      Khi Mothershed rời tiệm ăn, ta thể cưỡng lại việc bước lại bên chiếc bàn nơi hai ngôi sao màn bạc ngồi.
      - Xin lỗi. Xin lỗi vì quấy rầy quý vị, song tôi muốn được xin chữ ký của quý vị, được chứ ạ?
      Roger Moore và Michael Caine mỉm cười cách thân mật. Họ ký tên lên hai mảnh giấy và trao chúng cho tay thợ chụp ảnh.
      - Cảm ơn.
      Khi Leslie Mothershed ra tới bên ngoài, ta xé toạc những mảnh giấy và ném chúng .
      Thây kệ họ. ta nghĩ. Mình còn quan trọng hơn họ nhiều.
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 19
      Robert lên chiếc xe taxi để Whitechapel. Chiếc xe chạy qua City, khu thương mại lớn của London, hướng về phía đông cho tới khi gặp đường Whitechapel, khu vực đầy tai tiếng từ cả thế kỷ trước với Jack kẻ cướp. Dọc theo đường Whitechapel là hàng tá gian hàng ngoài trời bán đủ mọi thứ, từ vải vóc, rau tươi đến những tấm thảm.
      Khi chiếc taxi đến gần địa chỉ Mothershed, phố xá trông mỗi lúc tồi tàn hơn. Những hình vẽ nguệch ngoạc đầy các bờ tường. Xe chạy ngang qua tiệm Đôi tay của Weaver, Robert nghĩ: Đó hẳn là nơi lui tới của Mothershed. tấm biển khác đề: Cá ngựa, Walter… Có thể là Mothershed chơi cá ngựa ở đây.
      Sau cùng, họ tới số 213 A đường Grove. Robert để chiếc taxi và xem xét toà nhà trước mặt. Đó là ngôi nhà hai tầng xấu xí được chia thành những căn hộ , trong đó có người đàn ông có danh sách toàn bộ những nhân chứng mà Robert được phái tìm.
      Leslie Mothershed ở trong phòng khách, mê mải nghĩ tới cái điều may mắn trời cho nghe tiếng chuông gọi cửa. ta nhìn lên, giật mình, và chợt cảm thấy lo sợ cách lạ lùng. Tiếng chuông lặp lại lần nữa. Mothershed vơ lấy những tấm ảnh quý giá và vội vã vào phòng tối, để xen chúng vào giữa chồng ảnh cũ kỹ, rồi trở ra phòng khách và bước tới mở cửa. ta nhìn chằm chằm vào người lạ mặt đứng đó.
      - Gì thế hả?
      - Ông là Leslie Mothershed?
      - Đúng thế. Tôi có thể giúp gì được ông?
      Cho phép tôi vào nhà được chứ?
      - Tôi biết. Có chuyện gì chứ?
      Robert móc ra tấm thẻ căn cước của Bộ Quốc phòng và giơ lên.
      - Ông Mothershed, tôi tới đây vì công việc. Chúng ta có thể chuyện ở đây hoặc về là Bộ.
      Đó là trò bịp. Thế nhưng có thể thấy nỗi sợ hãi mặt tay thợ ảnh.
      - Tôi ông về chuyện gì cả; nhưng… mời vào. - Leslie nuốt nước miếng.
      Robert bước vào căn phòng tồi tàn. Nó đầy vẻ ảm đạm, chẳng ra đâu vào đâu, chỗ mà chẳng ai muốn sống cả.
      - Xin ông vui lòng giải thích là ông đến có việc gì ạ? Mothershed cố lấy giọng bình thản.
      - Tôi tới để chất vấn ông về vài tấm ảnh mà ông chụp.
      - ta biết mà. ta biết ngay từ khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa. Bọn khốn kiếp toan cướp vận may của mình. Hừ, mình sẹ để cho chúng làm được điều đó.
      - Ông những bức ảnh nào vậy?
      - Những bức ảnh mà ông chụp tại nơi vật thể bay lạ bị rơi. - Robert cách kiên nhẫn.
      Mothershed nhìn Robert thoáng, như thể bị ngạc nhiên, và rồi cố phá lên cười.
      - Ồ, ra thế. Tôi mong giá mà tôi có chúng để đưa cho ông.
      - Ông chụp những tấm ảnh đó chứ?
      - Tôi cố.
      - Ý ông gì… ông cố ư?
      - Chẳng được cái quái gì cả. - Mothershed húng hắng ho. - Máy của tôi bị lọt sáng. Đây là lần thứ hai tôi bị thế nầy. - ta bắt đầu ba hoa.- Thậm chí tôi ném cả phim . Chúng chẳng ra làm sao. Phí cả phim. Và hẳn ông biết là độ nầy phim đắt thế nào.
      ta là kẻ dối tồi, Robert nghĩ. ta quá lo sợ. Robert vẻ thông cảm:
      - Chán . Lẽ ra những tấm ảnh đó rất có ích đấy.
      đả động gì tới danh sách những hành khách kia. Nếu như Mothershed dối về những tấm ảnh ta cũng dối về những hành khách. Robert đưa mắt nhìn quanh. Những tấm ảnh và cả bản danh sách phải được giấu đâu đó. Hẳn là khó tìm. Căn hộ bao gồm phòng khách , phòng ngủ, phòng tắm và có cái cửa hình như dẫn vào phòng xép. có cách nào có thể buộc người đàn ông nầy đưa ra những thứ kia. Nhưng muốn có những tấm ảnh và bản danh sách đó trước khi Cơ quan Tình báo mò tới và nẫng chúng . cần bản danh sách đó cho chính mình.
      - Vâng. - Mothershed thở dài. - Những tấm ảnh đó đáng giá cả gia tài ấy chứ.
      - Hãy kể cho tôi nghe về chiếc phi thuyền gian xem nào, - Robert .
      Mothershed nhún vai ra vẻ miễn cưỡng. Cái cảnh khủng khiếp đó in vào óc ta mãi mãi.
      - Tôi bao giờ quên được nó, - ta . - Chiếc phi thuyền dương như… rung động, như thể nó vẫn còn hoạt động. Nó có cái gì đó khủng khiếp. Và ở bên trong có xác của hai sinh vật lạ.
      - Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về những người khách chiếc xe bus được chứ.
      Chắc chắn rồi, Mothershed nghĩ cách hả hê. Tôi có tên và địa chỉ của họ.
      - , tôi sợ là thể. - Mothershed tiếp tục cố giấu hồi hộp của mình. - Lý do tôi thể giúp gì ông về những người khách là ở chỗ tôi chiếc xe đó. Tất cả bọn họ đều là những người lạ.
      - Tôi hiểu. Ồ, cảm ơn về hợp tác của ông, ông Mothershed. Tôi đánh giá cao điều đó. Lấy làm tiếc về những tấm ảnh của ông.
      - Tôi cũng vậy, - Mothershed .
      ta nhìn cánh cửa khép lại sau lưng người lạ kia và sung sướng nghĩ. Mình cừ . Mình qua mặt bọn chó đẻ kia.
      Bên ngoài hành lang, Robert xem xét cái ổ khoá cánh cửa. ổ khoá Chubb. Và là model cổ. chỉ cần vài giây để mở nó. theo dõi ngôi nhà vào lúc nữa đêm và chờ tay thợ ảnh rời khỏi nhà vào buổi sáng. khi mình có danh sách những hành khách kia trong tay nhiệm vụ còn lại là đơn giản.

      Robert thuê phòng trong khách sạn gần căn hộ của Mothershed và gọi điện cho tướng Hilliard.
      - Thưa tướng quân, tôi có tên của tay nhân chứng người .
      - Đợi chút. Rồi. , ông sĩ quan.
      - Leslie Mothershed. ta sống ở Whitechael, số 213 A đường Grove.
      Robert nhắc tới bản danh sách hành khách và những tấm ảnh. Cái đó là những con chủ bài của trong vụ nầy.

      Cửa hiệu Reggir nằm trong ngõ cụt đường Brompton. Đó là cửa hiệu mà khách hàng của nó chủ yếu là đám nhân viên và thư ký làm việc quanh đó. Những bức tường cửa hiệu phủ đầy áp phích quảng cáo về bóng đá và những phần tường còn có thể nhìn thấy hề được quét vôi kể từ cuộc chiến tranh ở kênh Suez.
      Chiếc điện thoại ở sau quầy hàng réo vang hai lần trước khi người đàn ông to lớn mặc chiếc áo len to sù nhấc ống nghe lên. Người đàn ông trông là kẻ sống ở khu Đông thành phố, trừ cái kính mắt có gọng bịt vàng được gắn chặt phía trong tròng à ràng đối với bất kỳ ai nhìn ông ta kỹ chút: Con mắt kia của ông ta là bằng thuỷ tinh màu xanh da trời thường thấy các quảng cáo du lịch.
      - Reggie đây.
      - Đây là Giám mục.
      - Dạ, thưa ngài, - Reggie , giọng ông ta đột nhiên chỉ còn là lời thầm.
      - Tên của khách hàng chúng ta là Mothershed. Tên thường gọi là Leslie. Sống ở 213 A đường Grove. Chúng tôi muốn đơn đặt hàng nầy phải được thực nhanh chóng. chưa.
      - Thưa ngài, việc coi như xong.
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 20
      Leslie Mothershed miên man trong giấc mơ vàng ngọc.
      ta được giới báo chí quốc tế phỏng vấn. Họ hỏi về cái lâu đài khổng lồ mà ta vừa mua ở Scotland, về cái biệt thự của ta ở miền Nam nước Pháp và về chiếc du thuyền lớn. Và có đúng là Nữ Hoàng mời ông nhận chân nhiếp ảnh gia chính thức của Hoàng gia ?. Đúng. Tôi là tôi trả lời sau. Còn bây giờ, thưa các quý bà và quý ông, xin tất cả các vị thứ lỗi cho, tôi kịp hẹn chương trình của tôi với đài BBC mất…
      Cơn mơ màng của ta bị phá ngang bởi tiếng chuông cửa. ta nhìn đồng hồ. Mười giờ. Thằng chó đẻ quay lại à? ta bước đến bên cửa và thận trọng mở cửa. Trước ngưỡng cửa là người đàn ông thấp lùn hơn Mothershed (đó là điều đầu tiên ta chú ý) với cặp kính dầy cộp và khuôn mặt gầy guộc, tái xám.
      - Xin lỗi, - người đàn ông rụt rè . - Tôi xin lỗi là làm phiền ông vào giờ nầy. Tôi sống ở cuối phố.
      - Tôi thấy tấm biển ở ngoài ông là thợ ảnh.
      - Việc gì hả?
      - Ông có làm ảnh hộ chiếu ạ?
      Leslie Mothershed làm ảnh hộ chiếu? Con người sắp có cả thế giới nầy ấy à? Điều đó cũng giống như đòi Mechelangelo quét vôi buồng tắm vậy.
      - , - ta thô bạo và toan khép cửa lại.
      - Thực là tôi muốn làm phiền ông, nhưng tôi kẹt quá: Chuyến bay Tokyo của tôi là vào tám giờ sáng mai, thế mà trước đây chút tôi lấy hộ chiếu ra xem và lạ rằng hiểu thế nào mà cái ảnh bị bong ra. thấy đâu cả. Tôi tìm khắp mọi nơi. Họ cho tôi lên máy bay khi mà hộ chiếu có ảnh. - Người đàn ông bé gần như sắp phát khóc.
      - Tôi lấy làm tiếc, - Mothershed , - tôi thể giúp ông.
      - Tôi xin trả ông trăm bảng.
      trăm bảng? Cho người có cả lâu đài biệt thự và du thuyền ư? Đó là xúc phạm.
      Người đàn ông bé, yếu ớt kia tiếp:
      - Thậm chí tôi có thể trả cao hơn. Hai trăm hoặc ba trăm. Ông biết đấy, thực là tôi phải có mặt chuyến bay đó, nếu tôi bị mất chỗ làm việc của mình.
      Ba trăm bảng để chụp tấm ảnh hộ chiếu.
      kể việc rửa ảnh nó chỉ mất chừng mười giây Mothershed bắt đầu tính toán. Điều đó có nghĩa là 1800 bảng phút. nghìn tám trăm bảng phút có nghĩa là 10800 bảng giờ. Nếu như ta làm ngày tám tiếng, điều đó có nghĩa là 94400 bảng ngày. Trong tuần, con số đó là…
      - Ông làm chứ ạ?
      hợm hĩnh của Mothershed bị thách thức bởi lòng tham và lòng tham thắng. Mình có thể có chút tiền tiêu vặt.
      - Mời vào, - Mothershed . - Đứng sát vào bức tường kia .
      - Cám ơn. Tôi biết ơn ông.
      Mothershed thầm mong ta có chiếc máy ảnh polaroid. Cái máy đó làm mọi việc trở nên đơn giản. ta cầm chiếc Vivitar của mình lên và :
      - Yên nhé.
      Mười giây sau, việc xong.
      phải mất chút thời gian đề rửa ảnh, Mothershed . - Nếu như ông trở lại vào lúc…
      - Nếu có gì phiền tôi xin chờ.
      - Tuỳ ông thôi.
      Mothershed cầm chiếc máy ảnh vào phòng tối, đút nó vào trong cái túi đen, tắt chiếc đèn đầu và bật ngọn đèn đỏ, rồi tháo phim ra. ta làm việc nầy cách qua quýt. Dù sao ảnh hộ chiếu trông cũng thường xấu xí. Mười lăm phút sau, khi Mothershed ngâm phim trong thuốc bắt đầu ngửi thấy mùi khói. ta ngừng tay. Có phải là mình tưởng tượng ra nhỉ? . Mùi khói mỗi lúc nồng nặc hơn. ta quay ra mở cửa.
      Cửa dường như bị kẹt. Mothershed đẩy mạnh. Cánh cửa vẫn đóng chặt.
      - Nầy, - ta gọi vọng ra. - Có chuyện gì ngoài ấy thế?
      có tiếng đáp lại.
      - Nầy! - ta tì vai vào cánh cửa cố đẩy ra nhưng dường như ở phía ngoài có vật gì đó đè nặng giữ chặt cánh cửa. - Ông gì ơi?
      có tiếng trả lời. thanh duy nhất mà ta nghe thấy ở bên ngoài đó là tiếng đổ vỡ lớn. Mùi khói càng thêm nồng nặc. Căn hộ bị cháy. Có thể vì thế mà ông ta chạy ra. Hẳn là ông ta kêu cứu. Leslie Mothershed lao vai vào cánh cửa mạnh hơn, nhưng cánh cửa bật ra.
      - Cứu - ta thét lên. - Cứu tôi với.
      Khói bắt đầu tràn vào phía dưới cánh cửa, và Mothershed cảm thấy lửa bắt đầu liếm vào nó. khí trở nên ngột ngạt. ta bắt đầu nghẹt thở. Phổi ta bỏng rát và ta bắt đầu ngất . ta khuỵu xuống.
      - Ôi lạy Chúa, xin đừng để con chết vào lúc nầy. Đừng vào lúc mà con sắp làm giàu có và nổi tiếng…

      - Reggie đây.
      - Đơn đặt hàng làm xong chưa?
      - Thưa ngài, rồi ạ. Hơi quá lửa chút nhưng đúng lúc.
      - Tuyệt vời.

      Vào lúc hai giờ sáng, khi Robert đến đường Grove để bắt đầu việc theo dõi, thấy đường phố bị tắc nghẽn. Khúc phố đầy những xe cứu hoả, xe cấp cứu và xe cảnh sát. Robert lách qua đám đông những người đứng xem và vội vã chen vào sát bên trong. Toàn bộ toà nhà bị ngọn lứa trùm lên. Từ bên ngoài, có thể thấy rằng căn hộ của tay thợ ảnh ở tầng hai bị thiêu rụi hoàn toàn.
      - Chuyện xảy ra thế nào vậy? - Robert hỏi người lính cứu hoả.
      - Chúng tôi chưa . Xin đứng lùi lại cho.
      - Người bà con của tôi sống trong căn hộ kia. ấy có làm sao ?
      - Tôi e là nghiêm trọng. - Giọng ta trở nên thông cảm. - họ mang ta ra khỏi toà nhà đấy.
      Robert trông theo hai nhân viên y tế đẩy chiếc cáng bên thi thể vào trong chiếc xe cấp cứu.
      - Tôi sống cùng với ấy, - Robert . - Tất cả xống ảo của tôi ở cả trong đó. Tôi muốn vào và…
      - Chẳng ích gì đâu, thưa ông. Trong đó chẳng còn gì ngoài đống tro tàn. - Người lính cứu hoả lắc đầu.
      còn gì ngoài tro tàn. Kể cả những tấm ảnh và bản danh sách hành khách quý giá kia với tên tuổi và địa chỉ của họ. may khốn kiếp, Robert cay đắng nghĩ.

      Tại Washington, Dustin Thornton ăn trưa với ông bố vợ trong phòng ăn riêng xa hoa ở khu văn phòng của Williard Stone. Dustin Thornton cảm thấy hồi hộp. Trước mặt ông bố vợ đầy thế lực bao giờ ông ta cũng mất vẻ tự nhiên.
      Williard Stone ở trong tâm trạng vui vẻ.
      - Tối qua, tôi cùng ăn tối với Tổng thống. Ông ta với tôi rằng ông ta rồi hài lòng về công việc của , Dustin.
      - Con rất biết ơn.
      - làm việc khá đấy. giúp vào việc chống lại đám người đó.
      - Đám người nào.
      - Những kẻ muốn bắt đất nước vĩ đại nầy phải quỳ gối. Nhưng chỉ là những kẻ thù bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác. Đám đó là cả những kẻ làm ra bộ phục vụ đất nước của chúng ta, nhưng hoàn thành bổn phận của mình. Nhưng kẻ chấp hành mệnh lệnh.
      - Những kẻ lầm lạc.
      - Đúng thế đó. Dustin. Những kẻ lầm lạc. Chúng phải bị trừng phạt. Nếu như…
      người đàn ông bước vào phòng.
      - Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông Stone. Các quý ông đó đến. Họ đợi ông ạ.
      - Được Stone quay sang con rể. - Ăn cho xong Dustin. Tôi có chút việc quan trọng phải làm. Có thể hôm nào đó tôi lại cho nghe. ​
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 21
      Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có những hình thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những thân hình to lớn, kỳ cục, những cặp mắt xíu và mầu da giống như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và ghét cái thứ mùi hôi hám toả ra từ thân thể họ. số thuộc giống cái mang người những mảnh da thú, sản phẩm còn lại của những thú vật bị họ giết hại. vẫn còn choáng váng với cái tai nạn khủng khiếp cướp sống của các bạn đồng hành của .
      ở trái đất bốn chu kỳ thời gian mà những sinh vật lạ lùng nầy gọi là tháng, và ăn gì trong suốt thời gian đó. khát đến lả người
      Chút nước duy nhất mà uống được là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó trời hề có mưa. Ngoài thứ nước đó mọi thứ nước trái đất nầy là thể uống được.
      vào nơi để ăn uống những thứ xa lạ nhưng thể nào chịu nổi mùi hôi hám. thử ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị gì và ngon lành như thức ăn ở nhà.
      có tên là Duyên Dáng 1, dáng người cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, hoá thân thành người trái đất, và qua những đám đông mà hề bị để ý.
      ngồi trước cái bàn, cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và đọc những ý nghĩ của những sinh vật ở quanh .
      Có hai sinh vật ngồi bên chiếc bàn gần kề. sinh vật to:
      Đó là cơ hội cả đời chỉ có lần, Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là có thể bắt đầu rồi. có năm mươi ngàn francs, phải nào? - đọc những ý nghĩ trong đầu ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.
      Tất nhiên, nhưng tôi biết. - Tôi phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.
      bao giờ tôi xui bậy trong chuyện đầu tư chưa hả? - Hãy quyết định .
      Đó là khoản tiền lớn. - ta bao giờ đưa nó cho tôi cả.
      Nhưng còn về tiềm năng? Đó là cơ hội kiếm bạc triệu đấy? - Hãy đồng ý .
      Thôi được Tôi tham gia. - Có thể phải bán ít nữ trang của ấy.
      Mình ăn được nó rồi. Frank, bao giờ phải hối tiếc đâu. - Hãn ta hoàn toàn có thể thua thiệt về thuế.
      Duyên Dáng 1 hề hiểu nổi câu chuyện đỏ có ý nghĩa gì.
      Ở phía cuối phòng ăn, người đàn ông và người đàn bà cùng ngồi bên chiếc bàn. Họ thầm chuyện với nhau. định thần để lắng nghe câu chuyện của họ.
      Lạy Chúa. - Người đàn ông . - Quái quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? là đồ ngu ngốc.
      Thế nghĩ vì sao mà em có chửa hả? - Vì báu vật giống đực của đấy.
      Có chửa là cách mà những sinh vật nầy thai nghén, sinh sản cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục, của họ, giống như những con vật cánh đồng vậy.
      Tina, về chuyện nầy em định thế nào? - ta phải phá thai.
      Ê. muốn em làm gì hả? bảo là với vợ về em mà. - thằng dối khốn kiếp.
      Nầy em , , nhưng lúc nầy được. - Tôi dính với cách là điên rồ. Lẽ ra tôi phải biết là kẻ gây rắc rối.
      Paul, lúc nầy em cũng buồn. Thậm chí em còn nghĩ là em. - Xin hãy em . - Tất nhiên là em. Chỉ có điều ngay lúc nầy chính là lúc vợ gặp hoàn cảnh khó khăn. - Tôi hề định để mất ấy.
      Lúc nầy em cũng gặp khó khăn. hiểu điều đó à? Em mang bầu đứa con của . - Và hề có ý định cưới tôi. Nước mắt chảy ra từ hai mắt ta.
      Bình tĩnh nào, em . đảm bảo với em là mọi chuyện rồi ổn cả. cũng muốn có con như em thôi. - Mình phải thuyết phục ta phá thai.
      Ở cái bàn kề bên họ, sinh vật giống đực ngồi mình.
      Họ hứa với mình. Họ là cuộc đua được ấn định, rằng mình thể thua, và như thằng ngốc, mình ném tất cả tiền cho bọn họ. Mình phải tìm cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Mình thể nào chịu được nếu họ tống mình vào tù. Mình tự sát trước. Thề có Chúa, mình tự sát.
      Tại chiếc bàn khác, người đàn ông và người đàn bà dở câu chuyện.
      - hề có chuyện như vậy. Đơn giản là mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp núi nầy, và nghĩ là tốt cho em khi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. - Chúng ta có nhiều thời gian nghỉ ngơi giuờng của , bé ạ.
      Claude, em biết. Em chưa bao giờ xa với người đàn ông nào. - Mình ngờ là ta tin như thế.
      Phải, nhưng đây phải là chuyện tình dục đâu. chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi vì em là em cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về như người trai của em - Và chúng ta thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú và cổ lỗ kia xem sao.
      Duyên Dáng 1 hề biết rằng những người khác nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ có thể chen vào trong đầu họ bằng ý thức của mình và hiểu họ gì.
      Mình phải tìm cách liên lạc với tàu mẹ, nghĩ.
      lấy ra nột cái máy phát xách tay màu bạc. Đó là hệ thống mạch liên hợp phân cách mà nửa gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm hợp chất kim loại của hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng nghìn tế bào đơn lẻ để khi chúng chết , những tế bào mới được nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. may, cái bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát gãy ra và rơi mất. thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận nầy chiếc máy phát trở nên vô tích .
      cố ăn thêm lá rau diếp nữa, nhưng còn chịu nổi mùi vị của nó. đứng dậy và bước ra phía cửa. thu ngân gọi phía sau:
      - Thưa , xin chờ phút. chưa trả tiền ăn.
      - Tôi xin lỗi. Tôi có thứ phương tiện thanh toán của các bạn.
      - có thể điều đó với cảnh sát ấy.
      Duyên Dáng 1 nhìn thẳng vào mắt thu ngân và chờ ta khuỵu xuống. quay và bước khỏi chỗ ăn uống đó.
      Mình phải tìm cái bộ phận tinh thể. Họ chờ nghe tin tức của mình. phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường như cứ nhoè và méo mó. có nước, biết thế, chết mất.
      Hyunnie0302, Jenny NguyenOtaku Bi thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 22
      Ngày thứ năm.
      Bern, Thuỵ Sĩ.
      Robert vào ngõ cụt. nhận ra là trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ mờ nhạt. Lẽ ra mình phải đoạt bản danh sách kia lúc mình ở trong căn hộ của Mothershed.
      Điều đó dạy cho mình bài học. Tất nhiên. ý nghĩ đâu đó có trong đầu chợt nổi lên. Hans Beckerman có : "Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lão già ấy cứ phàn nàn đòi sớm về Benr bởi vì lão ta phải chuẩn bị bài giảng ở trường đại học". Chuyện mơ hồ, nhưng đó là tất cả những gì Robert có trong tay.
      thuê cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm toà nhà, cao bốn tầng, với hai dãy ngang và những tượng đá lớn mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ bằng kính của nhữtng phòng hộc, và ở phía sau trường là khoảng vườn lớn nhìn ra sông Aare.
      Robert bước lên bậc thềm của toà nhà hành chính và bước vào phòng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho là ông khách đó người Đức và ông ta chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
      sinh viên chỉ cho tới Phòng hành chính.
      phụ nữ ngồi sau bàn có vóc người dễ sợ. Bà ta mặc bộ complê cắt rất vừa vặn, mang cặp kính gọng đen và tóc được búi thành búi . Bà ta ngước nhìn lên khi Robert bước vào.
      - Xin mời.
      Robert móc ra tấm thẻ cảnh sát quốc tế.
      - Tôi thực cuộc điều tra, và tôi đánh giá cao hợp tác, thưa .
      - Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện gì vậy?
      - Tôi tìm kiếm giáo sư.
      - Tên ông ta? - Bà ta cau mầy.
      - Tôi biết.
      - Ông biết cả tên ông ta?
      - . Ông ta là giảng viên mời thôi. Ông ta có bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.
      - Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn gì?
      - Bà gì ạ?
      - Ông ta dạy môn gì? - Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. - Ông ta dạy môn học gì?
      - Tôi biết.
      Bà ta giấu vẻ bực tức.
      - Trời đất. Tôi thể giúp ông. Và tôi giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định quay .
      - Ồ, đây phải là chuyện phù phiếm. - Robert cam đoan với bà ta. - Hoàn toàn nghiêm túc đấy. - cúi xuống và thấp giọng . - Tôi phải để bà biết công việc của tôi. - Vị giáo sư nầy liên quan tới tổ chức đĩ điếm.
      Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
      - Cảnh sát quốc tế theo dõi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng nầy. - đứng thẳng người lên. - Nếu bà muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành cuộc điều tra chính thức tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
      - , . - Bà ta . - thể để nhà trường liên quan tới chuyện như vậy. - Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. - Ông là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?
      - Ngày mười lăm. Thứ hai.
      Schreiber nhỏm dậy và tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.
      - Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.
      - Người tôi muốn biết là người Đức.
      Tất cả họ đều là người Đức. - Schreiber quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. - bài giảng là về các vấn đề kinh tế, về hoá học và về tâm lý…
      - Tôi có thể xem chúng được ?
      cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.
      - xem kỹ từng tờ. mỗi tờ đều có cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
      - Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.
      - , cảm ơn. - nhớ tất cả những cái tên và những con số. có ai trong số nầy là người mà tôi tìm kiếm.
      Bà Schreiber thở phào nhõm.
      Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi bao giờ dinh dáng đến chuyện như vậy.
      - Xin lỗi làm phiền bà vì chuyện đâu.
      Robert ra và hướng tới trạm điện thoại công cộng trong thành phố.
      Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
      - Giáo sư Streubek phải ạ?
      - Phải.
      Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
      - Tôi hiểu ông muốn chuyện gì nữa. - Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
      - Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy , thưa giáo sư?
      - . Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.
      - Và ông chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?
      - Tôi giờ cho chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là người bận rộn. - Và ông giáo sư gác máy.
      Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
      - Giáo sư Heinrich phải ạ?
      - Đây là giáo sư Heinrich!
      Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải ạ?
      - Vì sao mà ông muốn biết?
      Bởi vì chúng tôi tìm thấy chiếc cặp của ông trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và…
      - Ông nhầm người rồi, tôi có mặt chiếc xe bus du lịch nào hết.
      - Ông tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?
      - Tôi với ông rồi, .
      - Tôi xin lỗi vì làm phiền ông.
      Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.
      - Giáo sư Otto Schmidt phải ạ?
      - Vâng.
      - Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông để quên chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
      Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
      Tim Robert thắt lại. thua. còn gì để mà tiếp tục nữa. Giọng ở đầu dây kia tiếp tục.
      - Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.
      Robert chợt thấy phấn chấn.
      - Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải ạ?
      - Vâng, vâng, nhưng tôi rồi, tôi mất gì cả mà.
      - Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. - Robert gác máy. Vò bở rồi.
      Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút với tướng Hilliard.
      - Tôi có hai việc phải báo cáo. - Robert . - Về nhân chứng ở London mà tôi với ngài.
      - Sao?
      - ta chết trong vụ cháy đêm qua.
      - Thế hả? tệ quá.
      - Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi phát nhân chứng khác. Tôi để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.
      - Tôi chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.
      Tướng Hilhard báo cáo với Janus.
      - Sĩ quan Bellamy phát nhân chứng nữa.
      - Tốt. Nhóm công tác trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện loang ra trước khi SDI vào hoạt động.
      - Tòi sớm có những thông tin nữa cho ngài.
      - Tôi muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.
      - Vâng, thưa ngài Janus.

      Platténstrasse, ở Munich, là khu phố , yên tĩnh với những ngôi nhà xây bằng gạch màu nâu xám xịt co cụm lại với nhau như thể để phòng vệ.
      Ngôi nhà số 5 giống hệt với những ngôi nhà hàng xóm. Bên trong cổng là dãy hộp thư. tấm biển dưới trong những hộp thư có ghi dòng chữ "Giáo sư Otto Schmidt". Robert bấm chuông.
      người đàn ông cao, gầy với mớ tóc bạc loà xoà mở cửa. Ông ta mặc chiếc áo nhàu nhĩ, mồm ngậm chiếc tẩu. Robert hiểu liệu ông ta tạo ra hình ảnh giáo sư đại học mô phạm hay chính cái hình ảnh đó là tạo ra ông ta.
      - Ông là giáo sư Schmidt?
      - Phải!
      - Tôi biết liệu tôi có thể chuyện với ông lát được . Tôi ở…
      - Chúng ta chuyện với nhau, - giáo sư Otto Schmidt . - Ông là người gọi điện thoại cho tôi sáng nay. Tôi là chuyên gia trong lĩnh vực nhận biết giọng . Mời vào.
      - Cám ơn ông.
      Robert bước vào căn phòng bề bộn sách vở. các bức tường, từ sàn nhà lên tới trần là những giá sách đầy kín. Ở đâu cũng thấy sách bàn, sàn, ghế. Đặc điểm nổi bật trong căn trong căn phòng dường như là những việc làm chưa được nghĩ kỹ.
      - Ông chẳng phải là từ hãng du lịch Thuỵ Sĩ nào cả, có phải thế hả?
      - Ô tôi…
      - Ông là người Mỹ.
      - Vâng.
      - Và cuộc viếng thăm nầy liên quan gì đến cặp kính hề bị mất của tôi.
      - Ồ , thưa ông.
      - Ông quan tâm đến cái vật thể bay lạ mà tôi nhìn thấy. Đó là cảnh tượng ghê sợ. Tôi luôn tin rằng có thể có những thứ đó, nhưng tôi bao giờ nghĩ là tôi được chứng kiến.
      - Hẳn phải là cú sốc khủng khiếp.
      - Đúng thế.
      - Ông có thể kể cho tôi nghe chút gì về chuyện đó ?
      - Nó, nó dường như vẫn hoạt động. Có thứ ánh sáng lung linh bao quanh nó. Xanh da trời. có thể là hơi xám chút. Tôi, tôi chắc.
      nhớ lại lời mô tả của Mandel: "Nó liên tục thay đổi màu sắc. Trông nó thoáng xanh da trời… rồi lại xanh lá cây. Nó bị vỡ toang ra và tôi nhìn thấy được hai xác chết trong đó. … mắt to. Họ mặc thứ gì đó giống như bộ quần áo bằng bạc vậy…"
      - Ông có thể kể gì với tôi về những bạn đồng hành của ông ?
      - Những người cùng với tôi chiếc xe bus ấy à?
      - Vâng.
      Vị giáo sư nhún vai.
      - Tôi biết gì về họ cả. Tất cả bọn họ đều là những người lạ. Khi đó tôi tập trung về bài giảng mà tôi giảng vào sáng ngày hôm sau. Tôi rất ít để ý tới những hành khách khác.
      Robert nhìn vẻ mặt ông ta, chờ đợi.
      - Nếu như nó là có ích cho ông, - Vị giáo sư , - tôi có thể cho ông biết họ là người nước nào. Tôi dạy hoá học, nhưng có sở thích về nghiên cứu thanh.
      - Bất kỳ những gì ông nhớ được đều đáng quý cả.
      - Có tu sĩ người Italia, người , người Hungary, người Mỹ giọng Texas, Nga.
      - Nga à?
      - Phải. Nhưng ta phải dân Mátxcơva. Theo giọng , tôi đoán ta ở Kiev, hoặc là rất gần đó.
      Robert chờ đợi, nhưng chỉ còn có im lặng.
      Ông nghe thấy bất kỳ ai trong số họ nhắc tới tên hay chuyện về nghề nghiệp của họ à?
      - Xin lỗi. Tôi rồi. Tôi suy nghĩ về bài giảng của tôi. Rất khó tập trung suy nghĩ. Người Mỹ giọng Texas và vị tu sĩ ngồi cùng với nhau. Người Mỹ đó luôn mồm. Đủ mọi thứ chuyện. Tôi biết ông tu sĩ thậm chí có hiểu hay .
      - Ông tu sĩ…
      - Ông ta giọng La Mã.
      - Ông có thể thêm gì nữa về bất kỳ ai trong số họ ?
      - Tôi sợ là . - Vị giáo sư nhún vai. Ông ta hút hơi thuốc. - Tôi lấy làm tiếc là thể giúp gì cho ông.
      ý nghĩ chợt đến với Robert.
      - Ông ông là nhà hoá học phải nhỉ?
      - Phải.
      - Tôi biết liệu ông có bằng lòng nhìn cái nầy chút , thưa giáo sư. - Robert thò tay vào túi và lôi ra mẩu kim loại mà Beckerman đưa cho . - Ông có thể bảo tôi cái nầy là cái gì được ạ?
      Giáo sư cầm cái mẩu kim loại từ tay Robert, và trong lúc xem xét nó, vẻ mặt ông ta chợt thay đổi.
      - , kiếm cái nầy ở đâu?
      - Tôi sợ là tôi thể được. Ông có biết nó là cái gì ?
      Có vẻ như nó là bộ phận của chiếc máy phát.
      - Ông có chắc thế ?
      Ông ta lật lật miếng kim loại trong tay.
      - Tinh thể nầy là chất dilithium. Rất hiếm. Thấy những vết khía nầy ? Chúng cho thấy miếng nầy được gắn vào bộ phận lớn hơn. Bản thân miểng kim loại… Lạy Chúa, tôi chưa bao giờ trông thấy cả. - Giọng ông ta đầy xúc động. - Ông có thể đề cho tôi giữ nó trong vài ngày được ? Tôi muốn có những phân tích quang phổ về nó.
      - Tôi e là thể được, - Robert .
      - Nhưng…
      - Xin lỗi, - Robert cầm lại miếng kim loại.
      Vị giáo sư cố giấu vẻ thất vọng.
      - Thôi, ông có thể mang nó lại sau vậy. Sao ông cho tôi danh thiếp của ông nhỉ. Nếu tôi còn nhớ thêm được gì nữa, tôi gọi cho ông.
      - Có vẻ như tôi chẳng còn tấm nào ở đây cả. - Robert lục lọi trong túi chút.
      - Phải rồi, tôi cũng nghĩ là thế. - Giáo sư Schmidt thủng thẳng .

      - Sĩ quan chỉ huy Bellamy máy.
      - Đây ông sĩ quan? - Tướng Hilliard nhấc máy.
      - Tên của nhân chứng mới nhất là giáo sư Schmidt. Ông ta sống ở số 5 Plattenstrasse, Munich.
      - Cám ơn ông sĩ quan. Tôi thông báo với nhà chức trách Đức ngay lập tức. - Robert toan : "Tôi e rằng đó là nhân chứng cuối cùng mà tôi có thể tìm được", nhưng có điều gì đó chặn lại. muốn phải thú nhận thất bại. Vậy mà các dấu vết trở nên mờ nhạt. người Texas và vị tu sĩ. Vị tu sĩ kia từ La Mã tới. thời gian. Cùng với cả triệu vị tu sĩ khác. Và có cách nào để nhận dạng ông ta cả: Mình có lựa chọn. - Robert nghĩ. - Mình có thể từ bỏ và trở về Washington, hoặc là mình có thể Rome và cố lần cuối cùng…

      Trụ sở của Cục Bảo vệ Hiến Pháp, nằm ở trung tâm Berlin, đường Neumarkterstrasse. Đó là toà nhà lớn màu xám có gì đặc biệt, khó có thể phân biệt được với những toà nhà xung quanh.
      Bên trong, tầng ba, sếp cơ quan, thanh tra Otto Joachim xem bức điện. Ông ta đọc nó hai lần, rồi với tay nhấc chiếc điện thoại đỏ bàn.

      Ngày thứ sáu.

      Munich, Đức.
      Sáng hôm sau, đường đến phòng thí nghiệm hoá học, Otto Schmidt nghĩ lại câu chuyện trao đổi với người Mỹ tối hôm trước. Cái mẫu kim loại đó có thể từ đâu ra nhỉ? vật mà ông chưa bao giờ thấy. Và cái người Mỹ kia làm cho ông ta ngạc nhiên.
      Ông ta là quan tâm tới những người khách chiếc xe bus. Vì sao? Bởi vì tất cả họ đều là những nhân chứng trước cái đĩa bay kia ư? Phải chăng họ được khuyến cáo là được bàn tán? Nếu vậy vì sao người Mỹ kia khuyến cáo mình?
      Có chuyện gì lạ vậy, vị giáo sư kết luận. Ông ta vào trong phòng thí nghiệm, cởi áo khoác treo lên móc và mặc lên người cái áo choàng rỏi bước lại chiếc bàn nơi ông ta làm việc nhiều tuần nay với thí nghiệm hoá học. Nếu thành công, ông ta nghĩ, điều nầy có thể có nghĩa là giải Nobel. Ông ta nhấc cái cốc đựng nước tinh khiết và rót vào bình chứa đựng thứ chất lỏng màu vàng. Lạ nhỉ. Mình nghĩ là nó lại có màu vàng sáng thế nầy.
      Tiếng nổ là khủng khiếp. Căn phòng thí nghiệm nồ tung, và những mảnh thuỷ tinh cùng với những mảnh thịt người văng tung toé lên những bức tường.
      Điện khẩn.
      Tối mật.
      BFV gửi Phó giám đốc NSA.
      ghi chép lại.
      Bản số 1 duy nhất.
      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
      Otto Schmidt bị thủ tiêu
      Hết.
      Robert nghe được tin về cái chết của vị giáo sư. có mặt chuyến bay của hãng hàng Alitalia, đường tới Rome.
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :