Âm mưu ngày tận thế - Sidney Sheldon (53c)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 14
      Cục Tình báo – Geneva
      13 giờ 00.
      Vị bộ trưởng ngồi trong cán phòng nằm lọt ở trung tâm của toà nhà trụ sở Cục Tình báo Thuỵ Sĩ, nhìn viên phó giám đốc đọc nốt bức điện.
      Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngàn kéo bàn và khoá lại.
      - Hans Beckerman và Fritz Mandel.
      - Phải.
      có vấn đề gì; thưa ngài bộ trưởng. Chuyện nầy được lo liệu chu tất.
      - Tốt.
      - Sao ạ?
      - Thủ tiêu. Ngay lập tức.
      Sáng ngày hôm sau, đường làm, Hans Beckerman lại bị cái bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra mình phải bắt cái thằng cha phóng viên kia xì tiền cho cái vật mà mình nhặt được. Tất cả những tờ tạp chí nầy đều lắm tiền cả. Có thể mình kiếm được vài trăm đồng mác. Và như vậy mình có thể đến bác sĩ tử tế để chữa cái bụng của mình.
      lái xe chạy ngang hồ Turler phía trước, bên lề xa lộ, ông ta thấy người phụ nữ vẫy xin nhờ. Beckerman cho xe chạy chậm lại để có thể nhìn người phụ nữ hơn. ta trẻ trung và trông hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. tiến lại bên xe.
      - Xin chào, - Beckerman - Tôi có thể giúp chứ?
      Ở gần, trông ta còn xinh đẹp hơn.
      - Cảm ơn. - ta có giọng Thuỵ Sĩ. - Em cãi cọ với người bạn trai của em, và ta ném em xuống đây, giữa nơi đồng mông quạnh nầy.
      - Chà, chà. là tồi tệ.
      - Ông phiền lòng cho em nhờ xe tới Zurich chứ?
      - Có gì đâu. Vào , vào !
      mở cửa và vào ngồi cạnh Hans.
      - Ông tốt bụng, - ta . - Tên em là Karen.
      - Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh.
      - Em biết em xoay sở thế nào nếu có ông, Hans ạ.
      - Ồ tôi chắc là ai dừng xe xinh đẹp như .
      xích lại gần ông ta hơn.
      Nhưng em chắc rằng người đó đẹp trai như ông đâu.
      - Thế hả? - Ông ta đưa mắt nhìn sang.
      - Em nghĩ là ông đẹp trai.
      - nên như vậy với vợ tôi. - Ông ta mỉm cười.
      - Ồ, ông có vợ à. - tỏ vẻ thất vọng. - Sao tất cả những người đàn ông tuyệt vời đều có vợ rồi nhỉ? Mà trông ông cũng thông minh nữa.
      Ông ta ngồi thẳng người thêm chút nữa.
      - với ông là em rất lấy làm tiếc vì dính dáng với cái người bạn trai kia của em. - ta cọ quậy người ghế và chiếc váy ngắn hếch lên tới ngang đùi. Hans cố đưa mắt nhìn. - Em thich những người đàn ông đứng tuổi, chín chắn, Hans ạ. Em thấy họ gợi tình hơn so với những người trẻ tuổi. ta cọ người vào ông. - Hans, ông có thích chuyện tình dục ?
      Ông ta hắng giọng.
      - Tôi à? Ồ biết đấy tôi là thằng đàn ông mà…
      - Em có thể thây điều đó, - ta đáp và vuốt ve đùi Beckerman. - Em có thể với ông thế nầy nhỉ? Rằng cái cuộc cãi vã với người bạn trai làm cho em hứng tình đấy. Ông có muốn làm tình với em ?
      Hans thể nào tin được ở vận may của mình. ta xinh đẹp và từ những gì ông ta có thề nhìn thấy ta phải có tấm thân rất quyến rũ. Ông ta nuốt nước bọt.
      - Tôi muốn, nhưng mà tôi đường làm và…
      - chỉ mất it phút thôi mà. - ta mỉm cười. - Phía trước mặt có con đường nhánh dẫn vào rừng. Sao chúng ta lại dừng lại… ở đó nhỉ?
      Ông ta cảm thấy bị kích thích. Mẹ kiếp. Đến lúc mà mình chuyện với đám đàn ông ở sở chuyện nầy. Họ bao giờ tin mất.
      - Được thôi. Sao lại nhỉ? - Hans cho xe rời khỏi xa lộ và chạy theo con đường bụi bặm dẫn vào cánh rừng mà ở đó những chiếc xe chạy ngang thể nhìn thấy họ.
      ả lần tay người lên đùi ông ta:
      - Lạy Chúa, ông có cặp chân khoẻ mạnh.
      - Hồi trẻ, tôi là vận động viên điền kinh mà, - Beckerman khoác lác.
      - Em cởi quần ông ra nhé. - ta cởi chiếc thắt lưng và rồi giúp Hans tụt quần xuống. Ông ta cương cứng.
      - A, là to. - ta bắt đầu ve vuốt nó.
      - Hãy ngậm nó vào miệng. - Ông ta rên rỉ.
      - Ông thích được hôn ở chỗ đó phải ?
      - Phải.
      Vợ ông ta bao giờ làm như vậy cả.
      - Vâng. Ông cứ thoải mái.
      Beckerman thở mạnh và nhắm mắt lại. Hai bàn tay mềm mại của ta vuốt ve cái vật giống đực của ông ta. Hans cảm thấy như có mũi kim châm vào đùi và mở choàng mắt ra. "Cái gì…?"
      Toàn thân ông ta cứng đờ, mắt trợn lên. Cổ ông ta tắc nghẹn và thể nào thở được. Người phụ nữ nhìn ông ta sụp xuống tay lái. ta ra khỏi xe và đẩy cái xác chết sang ghế bên, rồi ngồi vào sau tay lái, cho xe chạy trở lại xa lộ. Tới rìa đoạn đường vắng bóng xe cộ, ta mở cửa xe, giậm ga và khi chiếc xe bắt đầu trườn về phía trước lao ra ngoài, rồi đứng nhìn chiếc xe lộn xuống bờ dốc dựng đứng. Năm phút sau, chiếc xe hơi sang trọng màu đen dừng lại bên cạnh ta.
      - Có gì trục trặc .
      - .
      Fritz Mandel ở trong văn phòng, sắp đóng cửa gara hai người đàn ông bước vào.
      - Xin lỗi, - ta , - tôi chuẩn bị đóng cửa rồi. Tôi thể…
      trong hai người kia cắt ngang.
      - Xe chúng tôi chết xa lộ. Chúng tôi muốn kéo nó .
      - Vợ con tôi đợi. Chúng tôi có việc tối nay.
      - Tôi có thể cho các ông tên
      - Chúng tôi sẵn sàng trả hai trăm đôla. Chúng tôi vội.
      - Hai trăm đôla?
      - Đúng thế. Và chiếc xe của chúng tôi cũng bị hỏng nặng. Chúng tôi muốn sửa chữa nó. Điều đó có thể là chúng tôi phải trả thêm hai hoặc ba trăm đôla nữa.
      - Thé hả? - Mandel trở nên quan tâm hơn.
      - Đó là chiếc Rolls, - trong hai người đàn ông kia . - Hãy cho chúng tôi xem ông có những thiết bị gì ở đây mới được. - Họ, bước vào trong khu xưởng và đứng bên kho dầu mỡ. - Trang thiết bị tốt đấy.
      - Thưa ông, vâng! - Mandel hãnh diện . - Toàn thứ tốt nhất.
      Người lạ mặt móc ví ra.
      - Đây. Tôi có thể trả ông trước chút. - ta lấy ra mấy tờ giấy bạc và trao nó cho Mandel. Khỉ ta đưa tay ra, chiếc ví tuột khỏi tay và rơi vào trong thùng mỡ.
      - Chết rồi. - Đừng lo. - Mandel . - Tôi lấy lên.
      - ta nhoài vào trong thùng. Đúng lúc đó, trong hai người đàn ông kia bước lại bên cái nút bấm dùng để điều khiển chiếc máy nâng thuỷ lực và ấn nút. Chiếc bàn nâng bắt đầu hạ xuống.
      - Cẩn thận. Ông làm gì đấy? - Mandel nhìn lên.
      ta định trèo lên. Khi những ngón tay ta vừa bám lên thành, người đàn ông thứ hai dùng chân đạp nghiến lên và Mandel kêu lên đau đớn, rơi xuống.
      Chiếc bàn nâng thuỷ lực nặng trịch vẫn lạnh lùng hạ xuống phía đầu ta.
      - Hãy cho tôi ra. - ta kêu gào. - Cứu tôi với!
      Chiếc bàn nâng chạm vào vai và bắt đầu ép ta xuống dưới sàn. Vài phút sau, khi những tiếng la thét chấm dứt, trong hai ngựời đàn ông kia bấm nút nâng chiếc bàn nâng lên. Người đồng hành của ta cúi xuống nhặt lấy cái ví, thận trọng để máu giây vào quần áo. Hai người đàn ông quay ra và cho xe chạy biến vào trong màn đêm.
      Điện khẩn.
      Tối mật.
      Cục Tình báo Thuỵ Sĩ gửi Phó giám đốc NSA.
      ghi chép lại.
      Bản số 1 duy nhất.
      Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
      1. Hans Beckerman bị thủ tiêu.
      2. Fritz Manael bị thủ tiêu.
      Hết.
      Ottawa, Canada.
      24 giờ 00.
      Janus phát biểu trước nhóm mười hai thành viên.
      - có những tiến bộ đáng hài lòng. Hai trong số các nhân chứng được bịt miệng. Sĩ quan Bellamy đaag bám theo người thứ ba.
      - có bước đột phá nầy trong Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) chưa? - Người Italia. Dữ dội. kiên nhẫn.
      - Chưa, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật Chiến tranh giữa các hành tinh được hoàn thiện và sớm phát huy tác dụng.
      Chúng ta phải làm mọi việc có thể được để đẩy nhanh nó. Nếu có chuyện tiền bạc … - Người Arập. Bí . Dè dặt.
      - . Chỉ còn phải thử nghiệm thêm mà thôi.
      - Cuộc thử sắp tới diễn ra khi nào? Người Autralia. Nhiệt tình. Thông minh.
      tuần nữa. Chúng ta gặp lại ở đây sau 48 giờ.
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    2. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 15
      Ngày thứ tư - London.
      Thứ năm, ngày 18 tháng Mười.
      Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là người ham mê chương trình "Phong cách của những người giàu có và nổi tiếng", Mothershed chăm chú theo dõi cách đứng, ăn mặc và năng của những vị khách của Robin Leach, bởi vì ta tin rằng ngày nào đó, mình cũng xuất chương trình nầy. Từ khi còn là cậu bé, ta cảm thấy rằng số mệnh của mình là phải trở thành nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng.
      - Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ ta vẫn thường . - Con của mẹ rồi đây nổi tiếng khắp thế giới.
      Cậu bé con thường ngủ với lời đó vang vang trong tai cho đến khi cậu ta thực tin là như thế.
      Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng mình có những khó khăn: Cậu ta hề biết mình trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách nào. dạo, Mothershed ám ảnh với ý nghĩ trở thành ngôi sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. Cũng thoáng thèm muốn trở thành ngôi sao bóng đá, nhưng cậu ta lại phải là vận động viên. Rồi lại nghĩ tới việc trở thành khoa học gia nổi tiếng, hay luật gia vĩ đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. may, học lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường mà cũng gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là cuộc sống nầy công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thiếu cảm tình, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp choằn, chỉ có mét sáu lẻ chút. Mothershed luôn nhấn mạnh tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi mình với thực tế là những người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, Dustin Hoffman, Peter Falk…
      Nghề duy nhất thực làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú là chụp ảnh. Song nó là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. Người ta chỉ cần ấn cái nút.
      Mẹ cậu mua cho cậu cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu của cậu và tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp được. Khi lên mười, Mothershed tin rằng cậu là nhà nhiếp ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng mình hoàn toàn có tài như Ansel Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với khoản cho vay của bà mẹ, Leshe Mothershed mở hiệu ánh ngay trong cái căn hộ ở Whitechpel của mình.
      - Hãy bắt đầu bằng việc , - bà mẹ , - nhưng nghĩ lớn. Và đó chính là điều Leslie làm. ta bắt đầu rất và nghĩ rất lớn, nhưng may là ta hề có tài năng nhiếp ảnh. ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi mình rằng tất cả những thiên tài đều bị phản bác trước khi tài năng của họ được công nhận. ta tự cho mình là kẻ tử vì đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường.
      Và rồi, từ trời cơ hội lớn cho ta tới. Người em họ của bà mẹ ta, làm việc cho hãng xuất bản Harper Collins, tiết lộ vớí Mothershed rằng họ chuẩn bị làm cuốn sách giới thiệu về Thuỵ Sĩ.
      - Lislie, họ vẫn chưa chọn được người nhiếp ảnh vậy cháu nên sang Thuỵ Sĩ ngay và mang về vài tấm ảnh có tầm cỡ cuốn sách nầy có thể là của cháu.
      Lislie Mothershed vội vã thu xếp hành trang và lên đường Thuỵ Sĩ. ta biết, cách , rằng đây chính là cơ hội mà ta tìm kiếm. Cuối cùng những kẻ ngu ngốc cũng sắp phải công nhận tài năng. ta thuê chiếc xe ở Geneva và khắp nơi chụp hình những ngôi nhà gỗ kiểu Thuỵ Sĩ, những thác nước, và những đỉnh núi cao tuyết phủ. ta chụp cảnh hoàng hôn, bình minh và cảnh những người nông dân làm việc những cánh đồng.
      Và rồi, giữa những thứ đó, số mệnh can thiệp và thay đổi cuộc sống của ta. đường đến Bern, động cơ xe của ta bị hỏng. ta dừng xe lại bên lề đường, bực tức. Vì sao lại là mình? ta ngồi đó, cáu kỉnh, tiếc cho thời gian bị mất và món tiền phải trả để kéo xe sửa. Mothershed rền rĩ, vì sao những chuyện nầy luôn xảy ra với mình nhỉ? Phía sau ta mười lăm kilômét là làng Thun. Mình gọi xe kéo ở đó, Mothershed nghĩ. Như vậy đến nỗi quá đắt.
      - ta vẫy chiếc xe chở dầu chạy ngang.
      - Tôi cần cái xe kéo, - Mothershed giải thích. - có thể dừng lại cái gara nào đó ở Thun và bảo họ đến đây hộ tôi được ?
      Người lái chiếc xe bồn lắc đầu.
      - Hôm nay là chủ nhật bạn ạ. Gara gần nhất có thể vẫn làm việc phải là Bern.
      - Bern à? Từ đây đến đó phải năm chục kilômét.
      - Tôi phải trả cả đống tiền mất.
      Người lái xe bồn mỉm cười.
      - Đúng thế. Ở đó họ tính giá làm ngày chủ nhật mà. - Và ta rồ ga chuẩn bị cho xe chạy.
      - Gượm . - Nhà nhiếp ảnh khó khăn lắm mới thốt ra lời.
      - Tôi trả tiền cho chiếc xe kéo từ Bern.
      - Được Tôi bảo họ phái ai đó đến đây.
      Lislie Mothershed ngồi buồn nản trong chiếc xe hỏng của mình. Tất cả những gì mình cần là thế nầy đây, ta cay đắng nghĩ. ta chi quá nhiều tiền để mua phim và bây giờ lại phải trả tiền cho thằng ăn cắp nào đó để kéo chiếc xe nầy . Phải mất gần hai tiếng đồng hồ dài đằng đẵng, chiếc xe kéo mới đến. Khi người thợ máy bắt đầu móc sợi dây cáp từ chiếc xe tải vào chiếc xe của ta từ phía bên kia con đường có vầng sáng loá, kèm theo là tiếng nổ lớn, và Mothershed ngẩng lên, thấy vật thể sáng loá rơi từ trời xuống. Chiếc xe duy nhất khác xa lộ lúc bấy giờ là chiếc bus du lịch, và nó dừng lại sau chiếc xe của Lislie. Hành khách chiếc xe bus vội vã chạy về phía xảy ra vụ tai nạn. Mothershed lưỡng lự, giằng xé giữa tính tò mò và việc muốn tiếp tục lên đường. ta quay người và theo những hành khách của chiếc xe bus.
      Khi đến nơi xảy ra cố, ta đứng đó chết lặng.
      Lạy Chúa, ta nghĩ, đó phải là . ta nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa bay… Lislie Mothershed nghe chuyện về những vật thể lạ và đọc về chúng, nhưng chưa bao giờ ta tin rằng chúng có .
      ta há hốc mồm, kinh hãi trước cái cảnh tượng kỳ quáỉ. Vỏ chiếc đĩa bay bị tung ra, và ta có thể thấy hai cái xác ở trong đó, thó, với những cái đầu to, mắt trũng, có tai và gần như có cằm. Họ có vẻ như mặc những bộ quần áo bằng kim loại màu bạc.
      Nhóm du khách chung quanh ta đứng nhìn trong im lặng ghê sợ. Người đàn ông đứng cạnh ta ngất xỉu. người đàn ông khác quay và nôn mửa. tu sĩ có tuổi nắm chặt lấy chuỗi hạt và cứ lảm nhảm điều gì đó.
      - Lạy Chúa, - ai đó . - Đó là cái đĩa bay.
      Và đối với Mothershed đó chính là lúc Chúa hình. điều kỳ diệu rơi ngày vào trong lòng ta. ta, Lislie Mothershed, có mặt tại chỗ, với máy ảnh, để ghi lại câu chuyện thế kỷ nầy.
      tờ báo hay tạp chí nào thế giới nầy lại bác tấm hình mà ta sắp chụp. cuốn sách giới thiệu về Thuỵ Sĩ ư? Thiếu chút nữa ta cười váng lên với cái ý nghĩ đó. ta sắp làm cho cả thế giới phải ngạc nhiên. Tất cả các chương trình của Robin Leach đầu tiên. ta bán những tấm hình của mình cho các tờ London Times, Sun, Mail, Mirror - Cho tất cả các báo cht tiếng và cho cả các báo chí nước ngoài nữa - Le Figaro và Paris Match, Oggi và Der, Tag, Time và USA Today. Báo chí khắp nơi năn nỉ để có được những tấm ảnh của ta. Nhật Bản và Nam Phi, Nga và Trung Quốc và biết nhưng đâu nữa. Mothershed thấy tim mình đập rộn lên vì quá hồi hộp. Mình cho ké nào được độc quyền cả. Từng tờ báo phải trả tiền trực tiếp cho mình. Mình bắt đầu với giá trăm nghìn bảng tấm, có thể là hai trăm ngàn. Và mình bán bán lại. ta bắt đầu sốt sắng nhẩm tính số tiền sắp sửa thu được.
      Lislie Mothershed mải mê với tương lai may mắn của ta đến mức suýt quên cả việc chụp ảnh.
      - Ôi lạy Chúa. Xin lỗi, - ta , biết là với ai nữa, và chạy như bay trở lại xe để lấy bộ độ nghề chụp ảnh.
      Người thợ máy nâng bổng đầu chiếc xe hỏng lên và sẳn sàng kéo nó .
      - Chuyện gì xảy ra ở đó thế? - ta hỏi.
      - Hãy lại đó mà xem. - Mothershed đáp.
      Hai người chạy ngang qua đường về phía cánh rừng, và Mothershed chen qua đám du khách.
      - Xin lỗi, xin lỗi.
      - ta điều chỉnh ống kính máy ảnh và bắt đầu chụp cái vật thể bay lạ kia với những hành khách kỳ dị của nó. Mỗi khi tiếng máy kêu tạch, Mothershed lại nghĩ, triệu bảng… triệu bảng nữa… triệu bảng nữa.
      Vị tu sĩ bước qua chỗ ta và :
      - Đó là gương mặt của quỷ Satăng.
      Satăng, mẹ kiếp, Mothershed hào hứng nghĩ. Đó là gương mặt cửa tiền bạc. Đây là những bức ảnh đầu tiên chứng tỏ rằng có tồn tại những đĩa bay. Và rồi, đột nhiên, ý nghĩa khủng khiếp nảy ra trong đầu ta. Nếu những tờ tạp chí chết tiệt kia cho rằng những tấm ảnh là giả sao? có hàng đống những tâm ảnh giả về những vật thể bay lạ. Cơn hào hứng của ta biến mất. Nếu như họ tin mình sao? Và đó là lúc Lislie Mothershed chợt có ý nghĩ khác.
      Có chín nhân chứng đứng xung quanh ta. Dù chỉ là vô tình, họ xác nhận tính chân thực cho phát của ta.
      Mothershed quay lại trước nhóm du khách.
      - Thưa quý bà và quý ông, - ta to. - Nếu tất cả quý vị muốn có ảnh của mình được chụp ở đây, xin đứng thành hàng và tôi vui lòng được gửi cho mỗi vị tấm, tặng thôi.
      Những tiếng kêu lên vui vẻ. Chỉ trong tích tắc, các du khách chiếc xe bus, trừ vị tu sĩ, đứng thành hàng bên cạnh xác của chiếc vật thể bay kia. Vị tu sĩ đầy vẻ ái ngại. Ông ta :
      - Tôi thể, đó là quỷ dữ.
      Mothershed cần vị tu sĩ. Ông ta là nhân chứng có sức thuyết phục nhất trong tất cả.
      - Đó chính là vấn đề, - Mothershed cố thuyết phục. - Cha thấy sao? Đây chính là lời chứng của cha về tồn tại của quỷ dữ.
      Và sau cùng vị tu sĩ bị thuyết phục.
      - Đứng giãn ra chút, - Mothershed cầu, - để chúng ta còn có thể nhìn thấy cái đĩa bay chứ.
      Các nhân chứng sửa lại chỗ đứng.
      - Được rồi. Rất tốt. Tuyệt. Giữ nguyên thế nhé, nào.
      - ta chụp khoảng nửa tá ảnh nữa và lấy ra cái bút chì và mẩu giấy.
      - Nếu như các vị ghi tên và địa chỉ lại, tôi lo để mỗi vị nhận được tấm ảnh.
      ta có ý định gửi tấm ảnh nào cả đề mỗi vị nhận được tấm ảnh. Tất cả những gì ta muốn chỉ là những nhân chứng để chứng thực mà thôi. Hãy để mặc những tờ báo và tạp chí chết tiệt kia lo chuyện đó.
      Và rồi, đột nhiên, ta nhận thấy vài người trong nhóm du khách kia cũng có máy ảnh. ta thể để cho ai nữa ngoài ta có những bức ảnh nầy. Chỉ có những tấm ảnh đề "Do Lislie Mothersheđ chụp" mới được tồn tại mà thôi.
      - Xin lỗi, - ta với tất cả. - Những ai trong số quý vị có máy ảnh, nếu các vị muốn tôi chụp giúp để các vị có vài tấm trong máy của chính các vị.
      Những chiếc máy ảnh được nhanh chóng trao cho Lishe. Khi ta quỳ xuống để lấy khuôn hình cho lần chụp đầu, ai để ý thấy rằng Mothershed bật mở buồng phim và cứ để nó hở như thế. Thế, chút ánh sáng mặt trời tươi đẹp nầy giúp cho nhưng tấm ảnh biến mất. tệ, các bạn của tôi, nhưng chỉ có những người chuyên nghiệp mới được phép chớp lấy các cơ hội lịch sử của bọ.
      Mười phút sau, Mothershed có tất cả tên và địa chỉ của đám khách du lịch. ta nhìn chiếc đĩa bay lần cuối và phấn khởi nghĩ: Mẹ đúng, mình trở nên giàu có và nổi tiếng.
      ta thể nào đợi tới lúc quay trở về London để rửa những tấm ảnh quý giá kia.
      - Chuyện quái quỷ gì xảy ra thế nhỉ?
      Suốt đêm, các đồn cảnh sát ở khu vực Uctendort ngập trong những cú điện thoại.
      - Có kẻ nào đó cứ lảng vảng xung quanh nhà tôi…
      - Có những thứ ánh sáng lạ phía bên ngoài…
      - Đàn gia súc của tôi phát điên lên. Hẳn phải có những con sói đâu đây…
      - Có ai đó làm khô kiệt máng nước của nhà tôi…
      Và cú điện thoại khó giải thích trong số đó:
      - Nầy, sếp, ngài nên phái nhiều xe kéo ra trục xa lộ chính ngay thôi. cơn ác mộng. Tất cả giao thông ngừng trệ.
      - Cái gì hả? Vì sao?
      - ai biết cả. Tất cả các động cơ xe đều chết đột ngột.
      Đó là đêm mà họ bao giờ quên.
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    3. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 16
      Nhiệm vụ nầy kéo dài bao lâu nhỉ? Robert nghĩ ngợi trong lúc buộc dây an toàn vào người chiếc ghế hạng nhất của hãng Hàng Thuỵ Sĩ.
      Khi chiếc máy bay lao đường băng, những chiếc động cơ Rolls - Royce khổng lồ của nó như uống lấy khí của trời đêm, Robert thả lỏng người và nhắm mắt lại. Có phải mới chỉ cách đây vài năm mình cũng chuyến bay nầy, cùng với Susan sang London nhỉ? . Có vẻ như cách đây cả đời người rồi.
      Chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Heathrow lúc 6 giờ 29 phút chiểu theo đúng thời gian biểu. Robert ra khỏi đám đông và lên chiếc tắcxi chạy vào thành phố. nhìn hàng trăm cái mốc quen thuộc và như có thể nghe thấy tiếng Susan thích thú bình luận về chúng. Trong nhưng ngày tươi sáng ấy, việc họ ở đâu bao giờ là vấn đề. Đơn giản là họ ở bên nhau, thế là đủ. Họ mang theo bên mình hạnh phúc và những niềm hứng thú đặc biệt đối với nhau. Mối quan hệ của họ ]à cuộc hôn nhân kết thúc vui sướng.
      Gần như thế.
      Những rắc rối của họ bắt đầu cách tình cờ với cú điện thoại của Đô đốc Whittaker khi Robert và Susan du ngoạn ở Thái Lan. Khi đó, Robert rời khỏi Hải quân được sáu tháng và hề chuyện với vị Đô đốc trong suốt quãng thời gian đó. Cú điện thoại, gọi cho họ tại khách sạn Oriental ở Bangkok, là cả ngạc nhiên.
      - Robert hả? Đô đốc Whittaker.
      - Thưa Đô đốc. vui khi nghe thấy tiếng ngài.
      - dễ gì tìm được đâu. theo đuổi chuyện gì vậy hả?
      - có gì nhiều. cách đơn giản là chúng tôi tuần trăng mật dài với nhau.
      - Susan có khoẻ ? Mà là Susan chứ?
      - Vâng. ấy khoẻ, cảm ơn ngài.
      - phải mất bao lâu để trở về Washington hả?
      - Ngài gì cơ ạ?
      - Điều nầy chưa công bố, nhưng tôi được bổ nhiệm chức vụ mới, Robert. Họ cứ tôi làm phó giám đốc Phòng 17 Tình báo hải quân. Tôi muốn cùng làm việc.
      Robert giật mình.
      - Tình báo hải quân ạ? Thưa Đô đốc, tôi hề biết gì về…
      - có thể học. làm công việc rất hữu ích cho đất nước mình, Robert. đến và bàn việc nầy với tôi chứ?
      - Ồ.
      - Tốt. Tôi chờ ở văn phòng của tôi vào ngày thứ hai, lúc 9 giờ 00. Cho tôi gửi lời chào tới Susan nhé.
      Robert kể lại câu chuyện với Susan.
      - Tình báo hải quân à? Có vẻ thú vị đấy.
      - Có thể, - Robert vẻ nghi ngờ. - hề biết công việc thế nào.
      - phải tìm hiểu chứ.
      nhìn trong giây lát.
      - Em muốn nhận phải ?
      quàng tay ôm lấy .
      - Em muốn làm bất kỳ điều gì mà muốn làm. Em nghĩ là sẵn sàng trở lại với công việc. Em để ý thấy là trong mấy tuần vừa qua, trở nên bồn chồn.
      - nghĩ là em tìm cách vứt bỏ , - Robert trêu chọc. - Tuần trăng mật kết thúc rồi.
      Susan kề đôi môi lại sát môi .
      - bao giờ. Em chưa bao giờ với là em đến phát điên lên vì như thế nào hả, chàng thuỷ thủ? Để em cho thấy nhé…
      Sau nầy nghĩ lại, khỉ quá muộn, Robert cho rằng đó chính là lúc bắt đầu của chấm dứt cuộc hôn nhân của họ. Lời đề nghị lúc đó có vẻ tuyệt vời và trở lại Washington để gặp Đô đốc Whittaker.
      - Công việc nầy đòi hỏi trí tuệ, lòng dũng cảm, và sáng tạo, Robert ạ. có cả ba thứ đó. Đất nước chúng ta trở thành mục tiêu của bất kỳ chế độ độc tài tầm thường và bé nào có thể nuôi dưỡng nhóm khủng bố hoặc xây dựng nhà máy chế tạo vũ khí hoá học. trong số các nước nầy tìm cách sản xuất bom nguyên tử để buộc chúng ta phải hối lộ họ. Công việc của tôi là xây dựng mạng lướì tình báo để phát chính xác họ làm gì và tìm cách ngăn chặn lại. Tôi muốn giúp đỡ.
      Sau cùng, Robert chấp nhận công việc ở Tình báo hải quân, và chính cũng ngạc nhiên là thấy thích thú và hơn thế, có năng khiếu với nó. Susan tìm được căn hộ tử tế ở Rosslyn, bang Virginia xa nơi Robert làm việc, và vùi đầu vào việc mua sắm đồ đạc trong nhà. Robert được gửi đến Trang trại - trung tâm huấn luyện của CIA, dành cho những điệp viên hoạt động ngầm.
      Nằm trong khu vực được canh gác cẩn mật thuộc bang Virgineia, Trang trại chiếm diện tích hai mươi dặm vuông, hầu hết được bao phủ bởi những rừng thông cao vút, với những toà nhà chính nằm trong khu quang đãng rộng mười mẫu và cách cổng chính hai dặm. Những con đường đất toả ra qua những cánh rừng, với những barie chắn ngang và những tấm biển Miễn vào đặt ở mọi nơi. Tại sân bay , những chiếc máy bay số hiệu hạ cánh và cất cánh vài lần mỗi ngày. Trang trại có vẻ bề ngoài đầy yên bình, với cây lá sum suê, hươu nai chạy nhảy trong rừng và những toà nhà nằm rải rác thanh thản quanh khu đất rộng lớn. Tuy nhiên, bên trong khu vực nầy lại là thế giới khác hẳn.
      Robert nghĩ là được huấn luyện cùng với người của Hải quân, nhưng ngạc nhiên khi thấy học viên là pha trộn cả người của CIA, Lính thuỷ đánh bộ, Lục quân, Hải quân và quân. Mỗi học viên mang con số riêng và ở trong căn phòng như kiểu nhà ngủ tập thể thuộc trong số những ngôi nhà Spartan hai tầng xây bằng gạch.
      Tại khu dành cho các sĩ quan độc thân, nơi Robert ở mỗi người có phòng riêng và dùng chung phòng tắm với người khác. Phòng ăn chung ở phía bên kia đường, đối diện với khu nhà nầy.
      Hôm Robert nhập trường, được đưa tới giảng đường cùng với ba mươi người mới tới khác.
      đại tá người da đen to lớn phát biểu với nhóm học viên. Ông ta chừng ở giữa tuổi 50, tạo ấn tượng bằng vẻ thông minh, sắc sảo và lạnh lùng. Ông ta cách ràng, sinh động và câu thừa.
      - Tôi là đại tá Frank Johnson. Tôi muốn hoan nghênh các bạn có mặt ở đây. Trong thời gian nầy, các bạn chỉ dùng tên đầu của mình. Từ giờ phút nầy trở cuộc đời các bạn cuốn sách đóng kín.
      Tất cả các bạn được tuyên thệ giữ bí mật. Tôi khuyên các bạn phải giữ lời thề đó, nghiêm ngặt. Các bạn bao giờ được phép bàn công việc của mình với bất kỳ ai - Vợ con, gia đình, bè bạn. Các bạn được tuyển lựa đưa tới đây bởi vì các bạn có những phẩm chất đặc biệt. Trước mặt các bạn có nhiều công việc nặng nề để phát triển nhưng phẩm chất đó, và phải tất cả các bạn đều vượt qua được. Các bạn tham gia vào những công việc mà trước đây các bạn chưa từng bao giờ nghe đến. Tôi thể nào hết được tầm quan trọng của công việc mà các bạn làm sau khi kết thúc ở đây. Trong các giới tự do nào đó, người ta lấy việc chỉ trích các ngành tình báo của chúng ta làm thứ mốt, dù đó là CIA, Lục quân, Hải quân hay quân, nhưng tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng nếu có những người chịu hy sinh như các bạn đất nước nầy gặp phải những khó khăn khủng khiếp. Ngăn chặn điều đó là công việc của các bạn. Những người nào trong số các bạn tốt nghiệp trường nầy trở thành các sĩ quan chỉ huy. Mà thẳng ra sĩ quan chỉ huy là điệp viên. ta hoạt động bí mật.
      Trong lúc ở đây, các bạn được huấn luyện tốt nhất thế giới trong lĩnh vực tình báo và phản gián.
      Các bạn có những bài giảng về liên lạc điện đài, mật mã, vũ khí và bản đồ. Các bạn dự lớp về mối quan hệ giao tiếp giữa con người với nhau.
      Các bạn được hướng dẫn cách xây dựng mối quan hệ như thế nào làm sao kết luận được về các động cơ của cá nhân, lảm sao để làm cho đối tượng của bạn cảm thấy yên tâm.
      Cả lớp nghe từng lời.
      Các bạn học cách gặp gỡ và tuyển gián điệp như thế nào. Các bạn được huấn luyện để đảm bảo rằng các địa điểm gặp gỡ là an toàn. Các bạn hợc về các "hộp thư chết", về cách liên lạc bí mật với các nguồn tin của các bạn. Nếu các bạn thành công với những việc làm nầy, các bạn hoàn thành nhiệm vụ của mình cách bí mật và bị lộ.
      Robert cảm thấy khí hồi hộp bao trùm tất cả.
      số trong các bạn hoạt động dưới bình phong chinh thức. Nó có thể là bình phong ngoại giao hoặc quân . Những người khác làm việc dưới những bình phong bán chính thức trong tư cách cá nhân; như những nhà kinh doanh, những nhà khảo cổ, hoặc những nhà văn., bất kỳ nghề nghiệp gì cho phép các bạn tiếp cận được những lĩnh vực và những loại người có thể có những thông tin quan trọng mà các bạn tìm kiếm. Và bây giờ, tôi trao các bạn lại cho các hướng dẫn viên của các bạn. Chúc may mắn.
      Robert thấy công việc huấn luyện hấp dẫn. Hướng dẫn viên là những người từng hoạt động ngoài địa bàn và đều là những chuyên gia đầy kinh nghiệm.
      Robert tiếp thu các thông tin kỹ thuật khá dễ dàng. Ngoài những chương trình mà đại tá Johnson đề cập đến, còn có chương trình ôn luyện các ngôn ngữ và chương trình về mật mã khó khăn.
      Đại tá Johnson là cả hấp dẫn đối với Robert. Người ta xì xào rằng ông ta có những mối quan hệ chặt chẽ tại Nhà Trắng và từng tham gia vào những hoạt động ngầm cao cấp. Ông ta thường biến mất khỏi Trang trại vào ngày nào đó và đột nhiên lại xuất .
      điệp viên tên Ron điều khiển buổi lên lớp.
      "Trong chuyên án nghiệp vụ ngầm có sáu giai đoạn. Đầu tiên là phát . Khi bạn biết bạn cần thông tin gì, thách thức đầu tiên đối với bạn là phát và nghiên cứu những cá nhân có khả năng tiếp cận với thông tin đó. Giai đoạn hai là đánh giá. khi bạn phát được đối tượng, bạn phải đánh giá ta có có thông tin mà bạn cần và liệu có thể tuyển chọn ta được . Động cơ gì thúc đẩy ta? ta có hài lòng với công việc ? ta có hằn học gì với sếp của ta ? ta có khó khăn về tiền bạc ? Nếu triển vọng là có thể tiếp cận được và có động cơ nào đó có thể khai thác được thi các bạn chuyển sang giai đoạn ba.
      "Giai đoạn ba là giai đoạn phát triển. Các bạn xây dựng mối quan hệ với đối tượng dự tuyển.
      Đầu tiên, các bạn phải tạo được tiếp xúc nhiều nhất có thể. Giai đoạn tiếp theo là tuyển chọn. Khi bạn nghĩ là sẵn sàng, bạn phải nghiên cứu ta về mặt tâm ly. Bạn sử dụng bất kỳ thứ vũ khí tâm lý gì mà bạn có trong tay: trả thù sếp của ta, tiền bạc, tác động của nó. Nếu sĩ quan chỉ huy làm tốt công vĩẹc của ta thường là đối tượng dự tuyển đồng ý.
      Đến thế là tốt rồi. Bạn gián điệp làm việc cho bạn. Bước tiếp theo là điều khiển ta. Bạn phải đảm bảo an toàn chỉ cho chính bạn mà còn cho cả ta nữa. Bạn phải tổ chức các cuộc gặp gỡ bí mật và huấn luyện ta sử dụng vi phim và, nếu thích hợp, cả điện đài nữa. Bạn huấn luyện cho ta cách phát ngoại tuyến, cách khai báo khi bị tra hỏi, vân vân.
      "Giai đoạn cuối cùng là chấm dứt liên lạc. Sau thời gian, có thể là người được bạn tuyển chọn bị thuyên chuyển tới vị trí công tác khác và còn tiếp cận được với nguồn thông tin nữa, hoặc có thể chúng ta còn cần tới nguồn thông tin mà ta có. Trong bất kỳ tình huống nào, mối quan hệ đó phải chấm dứt, nhưng điều quan trọng là phái chấm dứt nó ra sao để gián điệp đó cảm thấy bị lợi dụng và tìm cách trả thù…
      Đại tá Johnson đúng. phải tất cả đều qua được khoá học. Những gương mặt quen cứ biến mất. chút dấu tích. ai biết vì sao.
      ai hỏi.
      hôm, trong khi nhóm học chuẩn bị Richmond để thực tập ngoại tuyến, hướng dẫn viên của Robert :
      - Chúng ta xem khả năng của thế nào, Robert ạ. Tôi phái ai đó bám đuôi . Tôi muốn cắt đuôi. có nghĩ là có thể làm được điều đó ?
      - Có thưa ông.
      - Chúc may mắn.
      Robert xe bus đến Richmond và rồi bắt đầu bộ các đường phố. Chỉ trong vòng năm phút nhận diện được nhưng người bám theo .
      Bọn họ có hai người. người bộ và người trong ô tô. Robert tìm cách lẩn vào trong các tiệm ăn và các cửa hiệu rồi nhanh chóng ra bằng các cửa sau, nhưng thể nào dứt họ được. Họ được huấn luyện quá tốt. Sau cùng, lúc gần như đến giờ phải trở về Trang trại, Robert vẫn chưa thể nào thoát khỏi họ. Họ bám theo quá chặt chẽ. Robert bước vào cửa hiệu bách hoá, và hai người kia đứng vào những vị trí mà họ có thể khống chế được cả các lối vào lẫn lối ra. Robert dùng thang máy lên khu bán quần áo cho đàn ông. Ba mươi phút sau, khi xuống, mặc người bộ complê khác, cái áo khoác và mũ khác, và vừa vừa chuyện với người phụ nữ, trong tay bế đứa trẻ.
      - ngang qua những người theo dõi hề bị nhận ra.
      Ngày hôm đó, là người duy nhất cắt "đuôi" thành công.
      Bản thân những thuật ngữ được dạy ở Trang trại cũng là thứ ngôn ngữ rồi.
      "Các bạn có thể dùng đến tất cả những thuật ngữ nầy, - người hướng dẫn viên với cả lớp nhưng các bạn nên biết chúng. Có hai loại gián điệp khác nhau: gián điệp gây ảnh hưởng và gián điệp hành động. Người gián điệp gây ảnh hưởng tìm cách thay đổi dư luận ở quốc gia nơi ta hoạt động.
      Còn gián điệp hành động được phái để gây rối và tạo ra những tình hình lộn xộn. "Đòn bẩy sinh vật là tiếng lóng của CIA chỉ việc hăm doạ. Cũng có nhưng vụ "túi đen", thay đổi từ những vụ hối lộ đến những vụ đột nhập. Watergate là vụ như vậy.
      Ông ta nhìn quanh lớp để tin rằng cả lớp chú ý. Họ nghe như uống lấy từng lời.
      Đôi khi các bạn có thể cần tới "thợ giày" - đó là người làm hộ chiếu giả mạo.
      Robert băn khoăn, liệu có bao giờ cần tới thợ giày hay .
      Thuật ngữ "Giáng cấp tối đa" là thuật ngữ đáng sợ. Nó có nghĩa là thanh lọc bằng cách giết . Từ thanh loại cũng như vậy. Nếu bạn nghe ai đó về "Công ty", đó là biệt danh chúng ta dùng đề cập tới Cơ quan tình báo . Nếu bạn được cầu "tẩy uế" căn phòng, bạn tìm các tổ mối mà bạn phải tìm ra các dụng cụ nghe trộm.
      Lối nầy làm cho Robert thấy hứng thú.
      "Các tiểu thư" là tiếng lóng chỉ các được phái để dàn xếp với đối tượng. "Huyền thoại" là lai lịch của gián điệp được tạo ra để cung cấp cho ta vỏ bọc. " riêng" có nghĩa là rời khỏi nghề.
      Hướng dẫn viên đưa mắt nhìn cả lớp.
      - Có ai trong các bạn biết "người dạy sư tử" là thế nào hả?
      Ông ta đợi câu trả lời. Im lặng.
      - Khi gián điệp bị bỏ rơi, đôi khi ta cảm thấy tức bực và có thể đe doạ tiết lộ những gì ta biết. người đầy cơ bắp, tài tử dạy sư tử, được gọi đến để làm cho ta dịu . Tôi tin chắc ai trong số các bạn phải đối mặt với tài tử như thế.
      Lời bình luận gây ra tiếng cười sợ hãi.
      Rồi có từ "lên sởi". Nếu đối tượng chết vì lên sởi điều đó có nghĩa là đối tượng bị giết cách khéo léo đến mức cái chết có vẻ như là tai nạn hoặc do những lý do tự nhiên. cách gây bệnh sởi là đúng hợp chất "Tabun". Đó là hợp chất màu hoặc hơi nâu, gây tê liệt thần kinh khi ngấm qua da. Nếu ai đó trao cho bạn cái "đàn hộp" điều đó có nghĩa là họ trao cho bạn máy phát vô tuyến. Người sử dụng điện đài được gọi là nhạc sĩ. Trong tương lai, số trong các bạn phải hoạt động "trần trụi". Đừng vội cởi bỏ quần áo điều đó đơn giản có nghĩa là bạn chỉ có mình và hỗ trợ nào cả. Còn điều nữa mà tôi muốn đến hôm nay. trùng lặp tình cờ. Trong công việc của chúng ta, có "con vật" đó: Nó thường báo hiệu nguy hiểm. Nếu các bạn thường xuyên chạm trán cùng người nào đó, hoặc khi hoạt động các bạn thường xuyên phát chiếc xe nào đó, hãy che cái mông của mình . Có thể các bạn gặp chuyện chẳng lành. Cuối cùng, tôi nghĩ là hôm nay thế là đủ, thưa quý vị. Ngày mai chúng ta lại tiếp tục nơi chúng ta ngừng lại nầy.
      Thỉnh thoảng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn phòng của ông ta để "chuyện gẫu", như cách ông ta . Các câu chuyện có vẻ bình thường cách tin nổi và Robert biết trong đó là cuộc thăm dò diễn ra.
      - Tôi nghe cuộc hôn nhân hạnh phúc, Robert.
      - Đúng vậy ạ.
      Suốt nửa giờ sau đó, họ chuyện về hôn nhân, lòng trung thành, và lòng tin.
      lần khác:
      - Đô đốc Whittaker coi như con, Robert. biết thế chứ?
      - Vâng. Nỗi đau về cái chết của Edward là cái gì đó bao giờ qua .
      Họ chuyện về trung thành, bổn phận và cái chết.
      - Robert, đối mặt với cái chết hơn lần. có sợ chết ?
      . Nhưng chết cho đáng chết, Robert nghĩ. Chứ phải cái chết vô nghĩa.
      Những cuộc gặp làm cho Robert chán nản bởi vì họ như nhìn vào tấm gương dị dạng. Đại tá Johnson có thể nhìn , nhưng bản thân đại tá lại vô hình, con người bi được bao bọc bởi bức màn bí mật.
      Khoá học kéo dài 16 tuần, và trong thời gian đó, ai trong số họ được giao tiếp với thế giới bên ngoài. Robert nhớ Susan cách ghê gớm. Đây là thời gian họ xa nhau lâu nhất. Khi hết bốn tháng, đại tá Johnson gọi Robert vào văn phòng của ông ta.
      - Đây là cuộc gặp để tạm biệt. làm việc rất tuyệt vời, Robert. Tôi nghĩ là thấy tương lại của mình rất hấp dẫn đấy.
      - Cám ơn ngài. Tôi cũng hy vọng như thế.
      - Chúc may mắn.
      Đại tá Johnson nhìn Robert bước ra. Ông ta ngồi yên trong năm phút rồi có quyết định. Ông ta bước tới bên cửa và khoá trái lại. Rồi ông ta nhấc điện thoại lên gọi.
      Susan đợi . mở cửa căn hộ của họ, người là chiếc váy ngủ trong veo chẳng che đậy được gì cả. lao vào trong vòng tay và ôm chặt.
      - Chào , chàng thuỷ thuỷ. muốn cuộc vui chứ?
      - có đây thôi, - Robert đầy vẻ hạnh phúc, - Chỉ bằng việc ôm em.
      - Chúa ơi, em nhớ quá. - Susan lùi lại và thốt lên. - Nếu có chuyện gì xảy ra với em nghĩ là em chết mất.
      - Chẳng bao giờ có chuyện gì xảy ra với cả.
      - hứa chứ?
      - hứa.
      - Trông có vẻ mệt mỏi. - nhìn , thoáng lo lắng.
      - Đó là khoá học rất căng thẳng, - Robert thừa nhận. bớt . Với tất cả bài vở phải học, cùng với các bài thực hành trực tiếp, học viên nào có thể ngủ quá vài tiếng đêm. có mấy lời phàn nàn chỉ vì lý do rất đơn giản: Họ đều biết rằng cái mà họ học, ngày nào đó có thể cứu mạng sống cho họ.
      - Em biết chính xác là cần gì bây giờ, - Susan tuyên bố.
      - . - Robert nhoẻn cười. ôm lấy .
      - Khoan . Cho em vài phút. cởi quần áo .
      - nhìn bước và nghĩ, Sao người ta lại có thể may mắn thế nhỉ? bắt đầu cởi quần áo.
      Vài phút sau, Susan quay lại. dịu dàng .
      - Hừm, em thích trần truồng cơ.
      nghe thấy giọng người hướng dẫn viên :
      " số trong các bạn hoạt động trần trụi. Điều đó có nghĩa là bạn chỉ có mình và hỗ trợ nào?" Mình lao vào chuyện gì thế nhỉ? đẩy Susan vào chuyện gì vậy?
      dẫn vào trong phòng tắm. Bồn tắm được bơm đầy nước có lẫn nước hoa, và căn phòng mờ tối với bốn ngọn nến lung linh.
      - Đón về nhà, . - cởi chiếc váy ngủ mỏng dính và bước vào bồn tắm. theo bước .
      - Susan.
      - Đừng . Hãy dựa vào người em.
      - cảm thấy hai bàn tay vuốt ve lưng và hai bả vai , cảm thấy những đường cong mềm mại của thân thể áp vào người , và quên nỗi mệt của mình. Họ làm tình với nhau, trong làn nước ấm, và khi họ lau khô người, Susan :
      - Chơi trước thế là quá nhiều đấy. Bây giờ mình mới vào cuộc nhé.
      Họ lại làm tình và sau đó, khi Robert sắp thiếp ôm Susan trong tay, nghĩ, luôn luôn là như thế nầy. Mãi mãi.
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    4. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 17
      Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Phòng 17 Cục Tình báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng nhiệt:
      - Chúc mừng trở về, Robert. ràng là rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.
      - Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. - Robert mỉm cười.
      Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:
      - sẵn sàng làm việc chưa hả?
      - Rất sẵn sàng.
      - Tốt. Chúng ta có vụ việc ở Rhodesia…
      Làm việc ở Cục Tình báo hải quân thậm chí còn hấp dẫn hơn cả những gì Robert chờ đón. Mỗi nhiệm vụ khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối nhạy cảm. mang về người đào nhiệm cho biết hoạt động buôn lậu ma tuý của Noriega ở Panama, phát điệp viên làm việc cho Marcos trong toà lãnh quán Mỹ ở Manila, và giúp dựng lên trạm nghe lén ở Morocco. được cử công tác tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm phiền muộn là việc phải xa Susan lâu. muốn phải xa thường nhớ cách khủng khiếp. hứng thú trong công việc của mình nhưng Susan có gì cả.
      Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày càng tăng lên. ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.
      Mỗi khi Robert về đến nhà, và Susan thường lao vào vòng tay của nhau cách đầy thèm khát và rồi làm tình đầy cuồng nhiệt. Nhưng những lúc như thế mỗi ngày mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về lại lập tức bị phái với nhiệm vụ mới.
      Chuyện càng xấu thêm khi Robert thể nào bàn công việc của với . Susan hề biết đâu, làm gì. chỉ biết rằng liên quan với những công việc nguy hiểm và lo sợ rằng ngày nào đó bao giờ trở về nữa. dám hỏi . cảm thấy mình như người lạ, hoàn toàn bị tách khỏi phần quan trọng trong đời sống của . Đời sống của họ. Mình thể tiếp tục như thế nầy được. Susan quyết định.
      Khi Robert trở về sau bốn tuần công tác ở Trung Mỹ, Susan :
      - Robert, em nghĩ chúng ta nên chuyện với nhau.
      - Có chuyện gì vậy? - Robert hỏi. biết là có chuyện gì.
      - Em sợ. Chúng mình mất nhau, và em muốn thế. Em thể chịu được.
      - Susan.
      - Khoan . Để em nốt. có biết trong bốn tháng qua chúng mình được ở bên nhau bao lâu ? Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi trở về, em cảm thấy dường như người khách chứ phải là chồng em.
      ôm chặt Susan vào trong lòng.
      - Em biết là em đến thế nào mà.
      - Xin đừng để chuyện gì xảy ra cho chúng mình. - tựa đầu vào .
      - để như thế, - hứa. - chuyện với Đô đốc Whittaker.
      - Bao giờ nào?
      - Ngay lập tức.

      - Đô đốc gặp ông bây giờ, thưa ông chỉ huy.
      - Cảm ơn.
      Đô đốc Whittaker ngồi sau bàn làm việc, ký giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm cười.
      - Chúc mừng trở về và xin có lời khen ngợi. Công việc của làm ở El Salvador là tuyệt vời.
      - Cảm ơn ngài.
      - Mời ngồi. Tôi có thể mời chút cà phê chứ?
      - , xin cảm ơn Đô đốc.
      - muốn chuyện với tôi hả? Thư ký của tôi là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm gì cho nào?
      là khó mở đầu.
      - Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân thôi. Tôi cưới vợ chưa đầy hai năm và…
      - lựa chọn tuyệt vời đấy, Robert. Susan là phụ nữ đáng .
      - Vâng, tôi đồng ý như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi xa hầu hết thời gian, và ấy bất hạnh về chuyện đó - vội thêm. - Và ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó phải là chuyện bình thường.
      Đô đốc Whittaker dựa người lưng ghế và trầm ngâm :
      - Tất nhiên là được làm việc trong điều kiện bình thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.
      - Tôi biết, - Robert bướng bỉnh đáp, - nhưng tôi hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó là quá sức đối với tôi.
      - Tôi hiểu. Thế cầu gì nào? - Vị Đô đốc nhìn dò xét.
      - Tôi hy vọng là ngài có thể tìm cho tôi vài công việc mà tôi phải xa nhà nhiều như vậy. Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.
      - Nghĩa là gần nhà hơn.
      - Vâng.
      Vị đô đốc chậm rãi :
      - Chắc chắn là toại nguyện. Tôi cho là thể dàn xếp được chuyện như vậy.
      Robert mỉm cười nhõm.
      - Ngài tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi rất biết ơn về điều đó
      - Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta có thể thu xếp chuyện đó. Hãy hộ tôi với Susan là vấn đề được giải quyết.
      - Tôi còn biết cảm ơn ngài như thế nào cho phải. - Robert đứng dậy, rạng rỡ.
      Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ý cho ra.
      - Tôi thể để chuyện gì xảy ra đối với nhân viên quý báu như được. Còn bây giờ hãy về nhà với người vợ trẻ của .
      Khi Robert lại với Susan, sướng run lên. choàng tay ôm lấy .
      - Ôi . là tuyệt diệu.
      - xin ông ta nghỉ vài tuần để chúng ta có thể có chuyến đâu đó. Nó là tuần trăng mật thứ hai của chúng ta.
      - Em quên mất thế nào là tuần trăng mật rồi, - Susan thầm. - Hãy cho em thấy !
      Robert cho thoả lòng.

      Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi Robert.
      - Tôi muốn biết rằng tôi thu xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.
      - Cảm ơn Đô đốc. - Bây giờ là lúc đến chuyện xin nghỉ phép đây. - Thưa ngài…
      Đô đốc Whittaker :
      - Robert, có chuyện thế nầy. - Vị Đô đốc bắt đầu lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ lo lắng sâu sắc. - Tôi vừa được thông báo rằng CIA bị đối phương cấy người vào. Dường như có tiết lộ đều đặn các thông tin tối mật. Tất cả những gì họ biết về điệp viên nầy chỉ là cái mật danh Con Cáo của ta. nay ta ở Argentina. Họ cần người bên ngoài CIA lo cho vụ nầy. Giám đốc CIA cầu . Họ muốn tìm ra điệp viên kia và mang ta về đây. Tôi bảo với họ là quyết định nầy tuỳ thuộc ở . có muốn nhận nó hay ?
      - Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa Đô đốc. - Robert lưỡng lự.
      - Robert, tôi tôn trọng quyết định của . phải liên tục và chưa bao giờ từ chối nhiệm vụ nào. Tôi biết là điều đó dễ dàng gì đối với đời sống vợ chồng của .
      - Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ nầy. Chỉ có điều - cần phải đâu, Robert. Ý kiến của tôi về công việc và cống hiến của vẫn giữ nguyên.
      - Tôi chỉ mong ở điều thôi.
      - Điều gì vậy thưa Đô đốc?
      - Ông phó giám đốc CIA cầu được gặp , bất luận quyết định của là thế nào. Vì phép lịch . phiền lòng chứ?
      - Tất nhiên là , thưa ngài.
      Ngày hôm sau, Robert lái xe đến Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.
      - Xin mời ngồi, ông sĩ quan, - Viên phó giám đốc khi Robert bước vào phòng đầu căn nhà rộng lớn. - Tôi nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp cả.
      - Cảm ơn ngài.
      Đó là người đàn ông sang tuổi sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và bộ ria mép cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan nầy được thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ nay của trong những cơ quan tình báo lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới.
      Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng tôi tôn trọng quyết định của ông.
      Bellamy gật đầu.
      - Tuy nhiên, có việc mà tôi cảm thấy cần phải lưu ý với ông.
      - Chuyện gì vậy, thưa ngài?
      - Tổng thống đích thân tham gia vào chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.
      - Thưa ngài, tôi biết điều đó.
      - Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan nầy kể từ khi ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đình ông, và tôi chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực người đàn ông có khuynh hướng gia đình. Nhưng việc ông nhận nhiệm vụ nầy có thể, tôi phải thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục Tình báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.
      - Đô đốc có liên quan gì tới quyết định của tôi thưa ngài, - Robert .
      - Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay ?
      Tuần trăng mật phải bị hoãn lại mất, Robert nghĩ.
      Khi Robert báo tin với Susan, nhàng :
      - Đây là chuyến công tác ra nước ngoài cuối cùng của . Sau chuyến nầy, ở nhà nhiều đến mức em phát chán lên cho mà xem.
      mỉm cười với .
      - đời nầy làm gì có nhiều thời gian đến thế.
      - Chúng mình ở bên nhau mãi mãi.
      Cuộc săn đuổi Con Cáo là trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. tìm được dấu vết của ở Argentina nhưng chậm so với con mồi ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi Malaisia. Dù Con Cáo là ai biết, để lại chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi có mặt nhưng bao giờ đến được có mặt.
      Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như ngày nào cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu là: " trở về nhà sau vài ngày thôi, em ". Và rồi, " có thể về nhà vào tuần tới". Và sau cùng " là khi nào về được". Cuối cùng, Robert phải bỏ cuộc. bám theo dấu vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà có kết quả gì.
      Khi trở về với Susan, có vẻ thay đổi. Hơi lạnh nhạt chút.
      - xin lỗi, em , - Robert xin lỗi. - hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. Chỉ là…
      - Họ bao giờ buông tha , có phải , Robert?
      - Gì cơ? Tất nhiên là họ phải buông ra.
      - Em nghĩ như thế. Em nhận việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. - lắc đầu.
      - Em gì? - giật mình.
      - Em lại là y tá. Em thể cứ ngồi chờ trở về nhà với em, phiền muộn về việc ở đâu và làm gì, phiền muộn hiểu chết hay còn sống nữa.
      - Susan,
      - Cũng được thôi mà, của em. It nhất em cũng làm được việc gì đó có ích trong những lúc vắng. Điều đó làm cho chờ đợi trở nên nhàng hơn.
      Và Robert còn biết trả lời thế nào. báo cáo lại thất bại của mình với Đô đốc Whittaker. Vị Đô đốc tỏ ra thông cảm.
      - Tôi có lỗi trong việc đồng ý để làm nhiệm vụ đó Từ nay trở , chúng ta để cho CIA tự giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.
      Robert với ông về việc Susan nhận làm y tá.
      - Có thể đó là ý kiến hay đấy, - Vị Đô đốc trầm ngâm . - Nó làm cho cuộc sống vợ chồng của bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như ảnh có những công tác ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.
      Cái gọi là thỉnh thoảng kia hoá ra gần như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân bắt đầu tan rã.
      Susan làm việc tại bệnh viện Memorial cương vị y tá giúp việc ở phòng mổ, và khi Robert có nhà, thường cố gắng xin nghỉ để ở bên , nhưng càng ngày càng bận rộn hơn với công việc.
      - Em cảm thấy thích thú, ạ. Em cảm thấy em làm được công việc có ích.
      thường chuyện với Robert về các bệnh nhân của , và nhớ từng chăm sóc như thế nào, giúp trở nên khoẻ mạnh và trở lại với cuộc sống ra sao. hài lòng thấy rằng làm công việc tốt mà cảm thấy thích, song có thực tế là họ ngày càng gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về tình cảm giữa họ ngày càng rộng ra. Có ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như hai người xa lạ, cố gắng cách tuyệt vọng để bắt chuyện với nhau.
      Khi Robert trở lại Washington sau sáu tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, đưa Susan ăn tối ở Sans Souci.
      Sulsan :
      - Ở bệnh viện chỗ em mới có bệnh nhân. ta bị tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ nghĩ rằng ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em chăm sóc để ta có thể qua được. - Đôi mắt bừng sáng.
      Vớí mình, ấy cũng như vậy. Robert nghĩ. băn khoăn biết liệu cũng cúi xuống bên người bệnh mới nầy và : "Hãy mau khoẻ. Em đợi " hay . cố dứt bỏ ý nghĩ đó.
      - Robert, ta tuyệt lắm. Tất cả các y tá đều phát điên lên vì ta.
      - Tất cả ư? ngẫm nghĩ.
      Trong lòng nhen nhóm chút nghi ngờ, dằn vặt nhưng dẹp được ý nghĩ đó .
      Họ gọi bữa ăn.
      Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert Bồ Đào Nha và ba tuần lễ sau, khi trở về, Susan mừng rỡ chào đón .
      - Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte lại được. - Nụ hôn của đầy vẻ qua quýt.
      - Monte?
      - Monte Banks. Đó là tên ta. ta đâu vào đấy. Các bác sĩ thể tin nổi, nhưng mà tụi em chịu đâu.
      - Tụi em.
      - Kể cho nghe về ta xem nào.
      - ta đáng mến. ta luôn luôn cho mấy đứa bọn em quà. ta rất giàu có. ta lái chiếc máy bay riêng và ta bị tai nạn khủng khiếp, và…
      - Những quà gì hả?
      - Ồ, biết đấy, chỉ những thứ lặt vặt ấy mà - kẹo, hoa, sách và đĩa hát. ta muốn tặng những chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn em phải từ chối rồi.
      - tất nhiên.
      - ta có chiếc du thuyền, những con ngựa…
      Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi ta là Cái túi tiền (moneybags).
      Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan cũng chuyện về ta.
      - Robert, ta chân thành.
      Chân thành là nguy hiểm đây.
      - Và ta rất quan tâm đến người khác. có biết hôm nay ta làm gì ? cầu tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.
      Thằng cha nầy kinh tởm . lố bịch, Robert cảm thấy mình trở nên cáu kỉnh.
      - Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó của em có vợ chưa hả?
      - Chưa, . Nhưng sao cơ?
      - chợt nghĩ vậy thôi.
      - Hãy vì Chúa, ghen đấy chứ? - cười vang.
      - Với cái thằng cha già cỗi mới học ấy ư? Tất nhiên là .
      Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng hề muốn làm phiền lòng .
      Khi Robert ở nhà, Susan cố nhắc tới bệnh nhân của , nhưng nếu Robert lại gợi chuyện.
      - Cái túi tiền thế nào rồi?
      - Tên ta phải là Cái túi tiền, - vẻ trách móc, mà là Monte Banks.
      - Gì chả được.
      tiếc là cái thằng chó đẻ đó chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.
      Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.
      - Nầy, bảo nhé, - Robert sốt sắng , - Chúng ta làm lễ kỷ niệm. Chúng ta và có bữa tối tuyệt vời ở đâu đó và…
      - Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 8 giờ cơ.
      - Cũng được. tới đón em ở đó.
      - Được đấy Monte muốn gặp lắm. Em về rất nhiều cho ta nghe.
      - cũng muốn gặp thằng cha đó, - Robert quả quyết với .
      Khi Robert tới bệnh viện, người thường trực :
      - Xin chào ông sĩ quan. Susan làm việc khoang chỉnh hình ở tầng ba. ấy đợi ông đấy. - Chị ta nhấc điện thoại lên.
      Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, Susan đứng chờ trong bộ đồng phục trắng bong, và tim đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.
      - Xin chào người đẹp.
      Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy thoải mái cách hơi lạ.
      - Chào , Robert. Vài phút nữa là em hết phiên trực. Nào . Em giới thiệu với Monte.
      - Tôi sốt ruột đây.
      dẫn vào phòng riêng rộng rãi, đầy những sách và hoa quả, và :
      - Monte, đây là chồng… em, Robert.
      Robert đứng đó, nhìn người đàn ông nằm giường. ta lớn hơn chừng ba, bốn tuổi và rất giống Paul Newman. Thoáng nhìn, Robert thấy coi thường ta.
      - Tôi rất vui lòng được gặp ông, ông sĩ quan. Susan kể tất cả về ông cho tôi nghe.
      Phải chăng đó là thứ chuyện họ với nhau vào lúc nửa đêm khi ấy ở bên giường ta?
      - ấy rất tự hào về ông. - Cái túi tiền thêm.
      Thế đấy bạn, lại còn ném ra vài mẩu bánh nữa.
      Susan nhìn Robert, lòng những mong xử cho lịch thiệp. phải cố gắng lắm.
      - Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi đây.
      - Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của ông. ấy là người y tá kỳ diệu.
      Nào, chàng thuỷ thủ. nghĩ là em để cho gã nào đó được có tấm thân tuyệt vời nầy ư?
      - Vâng, đó chính là đặc tính của ấy. - Robert thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng của mình.
      Bữa tiệc sinh nhật là cả tuyệt vọng. Susan chỉ những muốn chuyện về người bệnh nhân của .
      - ta có làm cho nhớ tới ai , ?
      - Đến Boris Karloff.
      - Sao cứ phải thô lỗ với ta thế nhỉ?
      - nghĩ là xử lịch thiệp. Có đíều thích ta. - lạnh lùng .
      - Thậm chí chưa hề quen biết gì. ta có gì để thích nào? - Susan nhìn chằm chằm.
      - thích cái lối ta nhìn em. thích cái lối em nhìn ta. thích thấy cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta tiêu tan như thế nầy. Lạy Chúa, muốn mất em.
      - Xin lỗi. cho là hơi mệt.
      Họ im lặng suốt bữa ăn.
      Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới sở, Susan :
      - Robert, em có chuyện muốn với
      cảm thấy như bị cú đánh vào bụng.
      thể nào chịu được việc sắp thành lời những gì xảy ra.
      - Susan…
      - biết là em . Em luôn . là người đàn ông đáng nhất, tuyệt vời nhất mà em từng biết.
      - Thôi nào…
      - , để em nốt. Em khó ra chuyện nầy. Trong năm qua, chúng ta khơng mấy khi được sống bên nhau: Chúng ta còn cuộc sống vợ chồng nữa. Chúng ta xa cách nhau.
      Mỗi lời của như phát dao đâm vào thân thể .
      - Em đúng, - với vẻ tuyệt vọng. - thay đổi. thôi việc ở cơ quan. Ngay bây giờ. Hôm nay. Chúng mình đâu đó và…
      lắc đầu:
      - , Robert. Cả hai chúng ta đều biết là như thế được. làm công việc mà muốn làm. Nếu vì em mà bỏ việc, luôn luôn dằn vặt về chuyện đó. Đây phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều - Chuyện là thế. Em muốn ly dị.
      Tất cả dường như tối sầm trước mắt . Đột nhiên, cảm thấy bụng quặn lên.
      - Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta tìm cách để…
      - Quá muộn rồi. Em nghĩ về chuyện nầy từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian xa và em ở nhà mong ngóng , em nghĩ về điều nầy. Chúng ta sống những cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà thể cho em được nữa.
      đứng lặng, cố kiềm chế tình cảm của mình.
      - Chuyện nầy - Chuyện nầy có liên quan gì tới thằng cha Cái túi tiền hả?
      - Monte ngỏ lời cầu hôn với em. – Susan lưỡng lự.
      - Và em bằng lòng ư? - cảm thấy tim mình thắt lại.
      - Vâng.
      Đó là cơn ác mộng điên rồ. phải chuyện nầy xảy ra, nghĩ. thể như thế được. Nước mắt ứa ra.
      Susan choàng tay, ôm chặt lấy .
      - Em bao giờ cảm thấy ngứời đàn ông như em cảm thấy được. Em bằng cả tâm hồn và trái tim mình. Em luôn luôn . là người bạn quý nhất của em. - lùi ra và nhìn vào mắt . - Song như thế chưa đủ. có hiểu thế ?
      Tất cả những gì hiểu là vò xé .
      - Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta làm lại và…
      - Robert, em xin lỗi. - Giọng nghẹn lại. - Em xin lỗi, nhưng mọi chuyện đđ hết rồi.
      Susan bay Reno để làm thủ tục ly dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ liền.

      Nhưng thói quen cũ khó mất. Robert gọi điện cho người bạn ở Cục Điều tra Liên bang (FBI).
      Trước đây, Al Traynor nhiều dịp có quan hệ với Robert và tin cậy ta.
      - Tray, tôi cần cậu giúp đờ.
      - Giúp đỡ? Cậu cần bác sĩ thần kinh có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?
      Chuyện của họ có thể lan khắp cả thành phố. Đó là cả câu chuyện dài và buồn.
      - Robert, tôi lấy làm tiếc. ấy là phụ nữ tuyệt vời. Tôi… mà thôi. Tôi có thể giúp gì cậu?
      - Tôi muốn cậu kiểm tra về người máy tính điện tử.
      - Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.
      - Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra thông thường thôi.
      - Rồi. Cậu muốn biết những gì?
      - Có thể là ta có trong hồ sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có… ta có bao giờ bị phạt vì chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông thường ấy mà.
      - Chắc chắn là thế rồi.
      - Tôi muốn biết kiếm tiền ở đâu ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của .
      - Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, phải vậy ?
      - Và nầy, Tray, chỉ giữ chuyện nầy riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?
      - có gì cả. Tôi gọi cho cậu vào sáng mai.
      - Cảm ơn. Tôi nợ cậu bữa trưa đấy.
      - Bữa tối.
      - Cũng được.
      Robert gác máy và nghĩ: Hình ảnh người vớ những cọng rơm. Mình hy vọng vào chuyện gì nhỉ, rằng ta và tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào vòng tay mình chăng?

      Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton cho gọi Robert.
      - Ông làm gì vậy, ông sĩ quan?
      Ông ta thừa biết mình làm gì mà, Robert nghĩ. - Tôi giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại giao Singapore, và…
      - Việc đó có vẻ như nhưng chiếm bao nhiêu thời gian của ông.
      - Ông gì ạ?
      - Ông sĩ quan, trong trường hợp ông quên, tôi xin nhắc là Cục Tình báo hải quân được phép điều tra về các công dân Mỹ.
      Robert nhìn ông ta, kinh ngạc.
      - Ông…
      - Tôi mới được bên FBI thông báo rằng ông tìm cách thu thập những thông tin hoàn toàn thuộc thấm quyền của Cục nầy.
      Robert cảm thấy cơn giận chợt bùng lên. Thằng chó đẻ Traynor kia phản bội . eòn gì là bạn bè nữa.
      - Đó là chuyện cá nhân, - Robert . - Tôi…
      - Các máy tính của FBI phải là để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng phải là để giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông chưa?
      - .
      - Thế thôi.
      Robert chạy lao về phía phòng của . Những ngón tay run rẩy khi quay số 202-324-3000. giọng trả lời:
      - FBI đây.
      - Cho tôi gặp Al Traynor.
      - Xin chờ chút.
      phút sau, có tiếng người đàn ông.
      - Xin chào. Tôi có thể giúp gì ông vậy?
      - Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.
      - Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor còn ở cơ quan nầy.
      - Cái gì? - Robert cảm thấy giật mình.
      - Điệp viên Traynor bị thuyên chuyển.
      - Thuyên chuyển à?
      - Phải.
      - Đến đâu?
      - Boiso. Nhưng ta còn chưa có mặt tại đó thời gian. Tôi e là thời gian dài đấy.
      - Ý ông gì vậy?
      - Đêm qua, trong khi chạy trong công viên Rock Creek, ta bị chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. Ông có thể tin được hả? thằng khốn kiếp nào đó hẳn uống say đến phát rồ. lao xe của đường chạy. Traynor bị quăng xa tới hơn chục mét. ta khó mà qua khỏi được.
      Robert gác máy. Đầu óc quay cuồng. Chuyện quỷ quái gì xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng giàu có, mắt xanh ấy được bảo vệ. Bảo vệ cái gì? Ai bảo vệ ? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan lao vào chuyện gì biết nữa?
      đến thăm ngay chiều hôm đó.
      ở tại căn hộ mới của mình, căn hộ kép đẹp đẽ phố M. tự hỏi biết có phải Cái túi tiền mua cho hay . mấy tuần họ gặp nhau, và như nghẹt thở khi nhìn thấy .
      - Susan, xin lỗi vì đường đột như thế nầy. biết là hứa làm vậy.
      - là có chuyện gì đó nghiêm trọng.
      Đúng thế. Bây giờ, khi ở đây, biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, đến để cứu em ư? ấy cười vào mặt .
      - Có chuyện gì vậy?
      - Đó là chuyện về Monte.
      - Chuyện gì về ấy vậy? - chau mầy.
      - Đây mới là phần khó khăn. Làm sao có thể với chuyện mà chính cũng chưa biết? Tất cả những gì biết là có chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Đúng là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với phiêu lưu ý: được tiết lộ thông tin nào nếu được cho phép thích hợp. Và việc thẩm tra lập tức bị đá ngược lại đối với Cục Tình báo hải quân. Vì sao?
      - nghĩ là ta, ta có gì đó có vẻ .
      - Em hiểu.
      - Susan, ta kiếm tiền từ đâu hả?
      có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi nầy.
      - Monte có doanh nghiệp xuất khẩu rất thành công.
      Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất thế gian nầy.
      Lẽ ra phải biết là nên đến đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của mình mới phải. cảm thấy mình ngớ ngẩn. Susan đợi câu trả lời và có gì để .
      - Vì sao lại hỏi như thế?
      - , chỉ muốn tin chắc rằng ta là người thích hợp cho em mà thôi, - Robert ra đâu vào đâu.
      - Ôi Robert. - Giọng đầy vẻ thất vọng.
      cho là nên đến đây. Đúng thế, bạn.
      - xin lỗi em.
      Susan bước đến và ôm lấy . dịu dàng .
      - Em hiểu.
      Nhưng đâu có hiểu gì. hiểu rằng cuộc thẩm tra bình thường về Monte Banks bị chặn đứng lại, hất ngược về Cục Tình báo hải quân và cái người toan tìm kiếm những thông tin đó bị loại bỏ.
      Có những cách khác để thu thập thông tin và Robert bắt tay vào việc tìm kiếm chúng cách thận trọng.
      gọi điện cho người bạn làm ở tạp chí Forbes.
      - Robert. Lâu quá gặp. Tôi có thể giúp gì thế?
      Robert chuyện với ta.
      - Monte Banks à? Rất thú vị là nhắc đến tên ta. Chúng tôi nghĩ rằng ta phải có tên trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes nầy, nhưng mà kiếm đâu ra thông tin về ta cả. có gì cho chúng tôi đấy?
      con số .
      Robert tới thư viện công cộng tìm kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. ta có tên trong đó.
      - quay lại tìm kiếm trong bộ phận lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có mẩu về vụ tai nạn nầy. Nó nhắc đến Banks như nhà doanh nghiệp.
      Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể mình nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks nầy chẳng có vấn đề gì cả. Chính phủ bảo vệ cho nếu như tên gián điệp, tên tội phạm hoặc tên buôn lậu ma tuý… là mình vẫn cố bám vào Susan mà thôi.

      Trở lại với cuộc sống độc thân là nỗi đơn, trống rỗng, chuỗi những ngày bận rộn và những đêm mất ngủ. cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên cách bất chợt và thường phải khóc. khóc cho bản thân mình, cho Susan và cho tất cả những gì mà họ mất. diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ nầy vẫn đầy kỷ niệm về . Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi phòng đều hành hạ với những hồi tưởng về giọng của Susan, tiếng cười và nồng ấm của . nhớ tất cả những đường cong mềm mại thân thề cộ khi nằm trần truồng giường đợi , và nỗi đau trong thể chịu đựng nổi.
      Bạn bè quan tâm tới .
      - Đừng phiền muộn, Robert.
      quan tâm của họ đều thống nhất ở việc:
      - Tớ kiếm cho cậu con bé.
      Họ là những xinh đẹp và gợi tình, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những thư ký, những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những nữ luật sư. Nhưng có ai trong số họ là Susan. có gì chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện trò chút với những xa lạ mà hề quan tâm chỉ làm cho cảm thấy đơn hơn. Robert có ham muốn kéo ai trong số họ vào giường ngủ. muốn có mình. muốn quay lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó. Khi nhìn lại, dễ thấy những sai lầm của , dễ thấy phải sửa lại cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.
      CIA bị thâm nhập bởi người mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc cầu để tìm kiếm .
      , thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi chuẩn bị đưa vợ tôi hưởng tuần trăng mật thứ hai.

      muốn thay đổi lại cuộc đời mình, để nó có kết thúc đẹp đẽ. Nhưng quá muộn. Cuộc sống dành cho những cơ hội lần thứ hai. hoàn toàn độc. tự mua sắm, tự nấu ăn và tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi ở nhà.
      Đó là thời gian đơn và khổ sở nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn còn chưa phải là điều tệ hại nhất. người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh đẹp mà gặp ở Washington mấy lần gọi điện mời ăn tối. Robert muốn, nhưng sau cùng cũng nhận lời. ta chụẩn bị bữa tối ngon lành cho hai người dưới ánh sáng của những ngọn nến.
      - Em là đầu bếp giỏi, - Robert .
      - Chuyện gì em cũng giỏi cả. - Và có gì để nhẩm lẫn trong ý ta hết. ta nhích lại gần hơn. - Hãy để em chứng tỏ cho thấy nhé. - ta đặt tay lên hai đùi và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi .
      lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là quá lâu .
      Họ cùng nhau lên giường, và trước thất kinh của Robert, đó là tai hoạ. Lần đầu tiên trong đời, hoàn toàn bất lực. cảm thấy nhục nhã.
      - Đừng phiền lòng, , - ta . - Rồi đâu vào đấy thôi.
      ta nhầm.
      Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng ngùng và chán nản. biết rằng là điên rồ và ngớ ngần, cảm thấy việc làm tình với phụ nữ khác là phản bội đối với Susan. Sao mình lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?
      Vài tuần sau đó, lại thứ làm tình với nữ thư ký xinh xắn ở Cục Tình báo hải quân. giường, đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể và ngậm trong cái miệng nóng ấm của . Nhưng ăn thua gì. chỉ muốn có Susan. Sau lần ấy thử nữa. nghĩ tới việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. biết câu trả lời đối với vấn đề của , và nó hề có liên quan gì đến chuyện y tế cả. đành dồn tất cả sức lực của mình vào công việc.
      Susan gọi điện cho ít nhất mỗi tuần lần.
      "Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu giặt, - thường . Hoặc. "Em cho giúp việc đến chỗ để dọn dẹp căn hộ. Em cá với rằng nhà cửa rất lộn xộn đấy".
      Mỗi cú điện thoại lại làm cho đơn độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.
      gọi điện cho vào đêm trước ngày cưới.
      - Robert, em muốn biết rằng ngày mai em cưới.
      thấy ngạt thở. hổn hển .
      - Susan.
      - Em Monte, - , nhưng em cũng . Em đến chết. Em muốn quên điều đó.
      Còn biết đáp lại thế nào?
      - Robert, có sao ?
      Chắc chắn là sao. Mạnh khoẻ. Trừ việc mình là thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ đó .
      - Robert?
      - thể nào làm phiền lòng vì chuyện của mình.
      - khoẻ. Song, xin em điều thôi, được chứ, em ?
      - Bất cứ điều gì mà em có thể làm được.
      - Đừng… đừng để ta đưa em trong tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta từng đến.
      cúp máy, lao ra ngoài và uống đến say mèm.
      Đó là chuyện năm trước. Đó là quá khứ. bị buộc phải đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về người khác. buộc phải sống trong tại. có công việc để làm. Bây giờ đến lúc phải chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ ảnh chụp những tấm hình và có tên của các nhân chứng mà Robert có nhiệm vụ phải tìm kiếm trong chuyến công tác cuối cùng nầy của .
      Last edited: 8/8/14
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    5. thuytinhtim_1102

      thuytinhtim_1102 Well-Known Member

      Bài viết:
      1,916
      Được thích:
      3,133
      CHƯƠNG 17
      Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Phòng 17 Cục Tình báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng nhiệt:
      - Chúc mừng trở về, Robert. ràng là rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.
      - Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. - Robert mỉm cười.
      Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:
      - sẵn sàng làm việc chưa hả?
      - Rất sẵn sàng.
      - Tốt. Chúng ta có vụ việc ở Rhodesia…
      Làm việc ở Cục Tình báo hải quân thậm chí còn hấp dẫn hơn cả những gì Robert chờ đón. Mỗi nhiệm vụ khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối nhạy cảm. mang về người đào nhiệm cho biết hoạt động buôn lậu ma tuý của Noriega ở Panama, phát điệp viên làm việc cho Marcos trong toà lãnh quán Mỹ ở Manila, và giúp dựng lên trạm nghe lén ở Morocco. được cử công tác tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm phiền muộn là việc phải xa Susan lâu. muốn phải xa thường nhớ cách khủng khiếp. hứng thú trong công việc của mình nhưng Susan có gì cả.
      Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày càng tăng lên. ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.
      Mỗi khi Robert về đến nhà, và Susan thường lao vào vòng tay của nhau cách đầy thèm khát và rồi làm tình đầy cuồng nhiệt. Nhưng những lúc như thế mỗi ngày mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về lại lập tức bị phái với nhiệm vụ mới.
      Chuyện càng xấu thêm khi Robert thể nào bàn công việc của với . Susan hề biết đâu, làm gì. chỉ biết rằng liên quan với những công việc nguy hiểm và lo sợ rằng ngày nào đó bao giờ trở về nữa. dám hỏi . cảm thấy mình như người lạ, hoàn toàn bị tách khỏi phần quan trọng trong đời sống của . Đời sống của họ. Mình thể tiếp tục như thế nầy được. Susan quyết định.
      Khi Robert trở về sau bốn tuần công tác ở Trung Mỹ, Susan :
      - Robert, em nghĩ chúng ta nên chuyện với nhau.
      - Có chuyện gì vậy? - Robert hỏi. biết là có chuyện gì.
      - Em sợ. Chúng mình mất nhau, và em muốn thế. Em thể chịu được.
      - Susan.
      - Khoan . Để em nốt. có biết trong bốn tháng qua chúng mình được ở bên nhau bao lâu ? Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi trở về, em cảm thấy dường như người khách chứ phải là chồng em.
      ôm chặt Susan vào trong lòng.
      - Em biết là em đến thế nào mà.
      - Xin đừng để chuyện gì xảy ra cho chúng mình. - tựa đầu vào .
      - để như thế, - hứa. - chuyện với Đô đốc Whittaker.
      - Bao giờ nào?
      - Ngay lập tức.

      - Đô đốc gặp ông bây giờ, thưa ông chỉ huy.
      - Cảm ơn.
      Đô đốc Whittaker ngồi sau bàn làm việc, ký giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm cười.
      - Chúc mừng trở về và xin có lời khen ngợi. Công việc của làm ở El Salvador là tuyệt vời.
      - Cảm ơn ngài.
      - Mời ngồi. Tôi có thể mời chút cà phê chứ?
      - , xin cảm ơn Đô đốc.
      - muốn chuyện với tôi hả? Thư ký của tôi là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm gì cho nào?
      là khó mở đầu.
      - Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân thôi. Tôi cưới vợ chưa đầy hai năm và…
      - lựa chọn tuyệt vời đấy, Robert. Susan là phụ nữ đáng .
      - Vâng, tôi đồng ý như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi xa hầu hết thời gian, và ấy bất hạnh về chuyện đó - vội thêm. - Và ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó phải là chuyện bình thường.
      Đô đốc Whittaker dựa người lưng ghế và trầm ngâm :
      - Tất nhiên là được làm việc trong điều kiện bình thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.
      - Tôi biết, - Robert bướng bỉnh đáp, - nhưng tôi hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó là quá sức đối với tôi.
      - Tôi hiểu. Thế cầu gì nào? - Vị Đô đốc nhìn dò xét.
      - Tôi hy vọng là ngài có thể tìm cho tôi vài công việc mà tôi phải xa nhà nhiều như vậy. Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.
      - Nghĩa là gần nhà hơn.
      - Vâng.
      Vị đô đốc chậm rãi :
      - Chắc chắn là toại nguyện. Tôi cho là thể dàn xếp được chuyện như vậy.
      Robert mỉm cười nhõm.
      - Ngài tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi rất biết ơn về điều đó
      - Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta có thể thu xếp chuyện đó. Hãy hộ tôi với Susan là vấn đề được giải quyết.
      - Tôi còn biết cảm ơn ngài như thế nào cho phải. - Robert đứng dậy, rạng rỡ.
      Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ý cho ra.
      - Tôi thể để chuyện gì xảy ra đối với nhân viên quý báu như được. Còn bây giờ hãy về nhà với người vợ trẻ của .
      Khi Robert lại với Susan, sướng run lên. choàng tay ôm lấy .
      - Ôi . là tuyệt diệu.
      - xin ông ta nghỉ vài tuần để chúng ta có thể có chuyến đâu đó. Nó là tuần trăng mật thứ hai của chúng ta.
      - Em quên mất thế nào là tuần trăng mật rồi, - Susan thầm. - Hãy cho em thấy !
      Robert cho thoả lòng.

      Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi Robert.
      - Tôi muốn biết rằng tôi thu xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.
      - Cảm ơn Đô đốc. - Bây giờ là lúc đến chuyện xin nghỉ phép đây. - Thưa ngài…
      Đô đốc Whittaker :
      - Robert, có chuyện thế nầy. - Vị Đô đốc bắt đầu lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ lo lắng sâu sắc. - Tôi vừa được thông báo rằng CIA bị đối phương cấy người vào. Dường như có tiết lộ đều đặn các thông tin tối mật. Tất cả những gì họ biết về điệp viên nầy chỉ là cái mật danh Con Cáo của ta. nay ta ở Argentina. Họ cần người bên ngoài CIA lo cho vụ nầy. Giám đốc CIA cầu . Họ muốn tìm ra điệp viên kia và mang ta về đây. Tôi bảo với họ là quyết định nầy tuỳ thuộc ở . có muốn nhận nó hay ?
      - Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa Đô đốc. - Robert lưỡng lự.
      - Robert, tôi tôn trọng quyết định của . phải liên tục và chưa bao giờ từ chối nhiệm vụ nào. Tôi biết là điều đó dễ dàng gì đối với đời sống vợ chồng của .
      - Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ nầy. Chỉ có điều - cần phải đâu, Robert. Ý kiến của tôi về công việc và cống hiến của vẫn giữ nguyên.
      - Tôi chỉ mong ở điều thôi.
      - Điều gì vậy thưa Đô đốc?
      - Ông phó giám đốc CIA cầu được gặp , bất luận quyết định của là thế nào. Vì phép lịch . phiền lòng chứ?
      - Tất nhiên là , thưa ngài.
      Ngày hôm sau, Robert lái xe đến Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.
      - Xin mời ngồi, ông sĩ quan, - Viên phó giám đốc khi Robert bước vào phòng đầu căn nhà rộng lớn. - Tôi nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp cả.
      - Cảm ơn ngài.
      Đó là người đàn ông sang tuổi sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và bộ ria mép cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan nầy được thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ nay của trong những cơ quan tình báo lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới.
      Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng tôi tôn trọng quyết định của ông.
      Bellamy gật đầu.
      - Tuy nhiên, có việc mà tôi cảm thấy cần phải lưu ý với ông.
      - Chuyện gì vậy, thưa ngài?
      - Tổng thống đích thân tham gia vào chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.
      - Thưa ngài, tôi biết điều đó.
      - Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan nầy kể từ khi ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đình ông, và tôi chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực người đàn ông có khuynh hướng gia đình. Nhưng việc ông nhận nhiệm vụ nầy có thể, tôi phải thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục Tình báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.
      - Đô đốc có liên quan gì tới quyết định của tôi thưa ngài, - Robert .
      - Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay ?
      Tuần trăng mật phải bị hoãn lại mất, Robert nghĩ.
      Khi Robert báo tin với Susan, nhàng :
      - Đây là chuyến công tác ra nước ngoài cuối cùng của . Sau chuyến nầy, ở nhà nhiều đến mức em phát chán lên cho mà xem.
      mỉm cười với .
      - đời nầy làm gì có nhiều thời gian đến thế.
      - Chúng mình ở bên nhau mãi mãi.
      Cuộc săn đuổi Con Cáo là trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. tìm được dấu vết của ở Argentina nhưng chậm so với con mồi ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi Malaisia. Dù Con Cáo là ai biết, để lại chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi có mặt nhưng bao giờ đến được có mặt.
      Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như ngày nào cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu là: " trở về nhà sau vài ngày thôi, em ". Và rồi, " có thể về nhà vào tuần tới". Và sau cùng " là khi nào về được". Cuối cùng, Robert phải bỏ cuộc. bám theo dấu vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà có kết quả gì.
      Khi trở về với Susan, có vẻ thay đổi. Hơi lạnh nhạt chút.
      - xin lỗi, em , - Robert xin lỗi. - hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. Chỉ là…
      - Họ bao giờ buông tha , có phải , Robert?
      - Gì cơ? Tất nhiên là họ phải buông ra.
      - Em nghĩ như thế. Em nhận việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. - lắc đầu.
      - Em gì? - giật mình.
      - Em lại là y tá. Em thể cứ ngồi chờ trở về nhà với em, phiền muộn về việc ở đâu và làm gì, phiền muộn hiểu chết hay còn sống nữa.
      - Susan,
      - Cũng được thôi mà, của em. It nhất em cũng làm được việc gì đó có ích trong những lúc vắng. Điều đó làm cho chờ đợi trở nên nhàng hơn.
      Và Robert còn biết trả lời thế nào. báo cáo lại thất bại của mình với Đô đốc Whittaker. Vị Đô đốc tỏ ra thông cảm.
      - Tôi có lỗi trong việc đồng ý để làm nhiệm vụ đó Từ nay trở , chúng ta để cho CIA tự giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.
      Robert với ông về việc Susan nhận làm y tá.
      - Có thể đó là ý kiến hay đấy, - Vị Đô đốc trầm ngâm . - Nó làm cho cuộc sống vợ chồng của bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như ảnh có những công tác ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.
      Cái gọi là thỉnh thoảng kia hoá ra gần như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân bắt đầu tan rã.
      Susan làm việc tại bệnh viện Memorial cương vị y tá giúp việc ở phòng mổ, và khi Robert có nhà, thường cố gắng xin nghỉ để ở bên , nhưng càng ngày càng bận rộn hơn với công việc.
      - Em cảm thấy thích thú, ạ. Em cảm thấy em làm được công việc có ích.
      thường chuyện với Robert về các bệnh nhân của , và nhớ từng chăm sóc như thế nào, giúp trở nên khoẻ mạnh và trở lại với cuộc sống ra sao. hài lòng thấy rằng làm công việc tốt mà cảm thấy thích, song có thực tế là họ ngày càng gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về tình cảm giữa họ ngày càng rộng ra. Có ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như hai người xa lạ, cố gắng cách tuyệt vọng để bắt chuyện với nhau.
      Khi Robert trở lại Washington sau sáu tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, đưa Susan ăn tối ở Sans Souci.
      Sulsan :
      - Ở bệnh viện chỗ em mới có bệnh nhân. ta bị tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ nghĩ rằng ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em chăm sóc để ta có thể qua được. - Đôi mắt bừng sáng.
      Vớí mình, ấy cũng như vậy. Robert nghĩ. băn khoăn biết liệu cũng cúi xuống bên người bệnh mới nầy và : "Hãy mau khoẻ. Em đợi " hay . cố dứt bỏ ý nghĩ đó.
      - Robert, ta tuyệt lắm. Tất cả các y tá đều phát điên lên vì ta.
      - Tất cả ư? ngẫm nghĩ.
      Trong lòng nhen nhóm chút nghi ngờ, dằn vặt nhưng dẹp được ý nghĩ đó .
      Họ gọi bữa ăn.
      Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert Bồ Đào Nha và ba tuần lễ sau, khi trở về, Susan mừng rỡ chào đón .
      - Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte lại được. - Nụ hôn của đầy vẻ qua quýt.
      - Monte?
      - Monte Banks. Đó là tên ta. ta đâu vào đấy. Các bác sĩ thể tin nổi, nhưng mà tụi em chịu đâu.
      - Tụi em.
      - Kể cho nghe về ta xem nào.
      - ta đáng mến. ta luôn luôn cho mấy đứa bọn em quà. ta rất giàu có. ta lái chiếc máy bay riêng và ta bị tai nạn khủng khiếp, và…
      - Những quà gì hả?
      - Ồ, biết đấy, chỉ những thứ lặt vặt ấy mà - kẹo, hoa, sách và đĩa hát. ta muốn tặng những chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn em phải từ chối rồi.
      - tất nhiên.
      - ta có chiếc du thuyền, những con ngựa…
      Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi ta là Cái túi tiền (moneybags).
      Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan cũng chuyện về ta.
      - Robert, ta chân thành.
      Chân thành là nguy hiểm đây.
      - Và ta rất quan tâm đến người khác. có biết hôm nay ta làm gì ? cầu tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.
      Thằng cha nầy kinh tởm . lố bịch, Robert cảm thấy mình trở nên cáu kỉnh.
      - Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó của em có vợ chưa hả?
      - Chưa, . Nhưng sao cơ?
      - chợt nghĩ vậy thôi.
      - Hãy vì Chúa, ghen đấy chứ? - cười vang.
      - Với cái thằng cha già cỗi mới học ấy ư? Tất nhiên là .
      Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng hề muốn làm phiền lòng .
      Khi Robert ở nhà, Susan cố nhắc tới bệnh nhân của , nhưng nếu Robert lại gợi chuyện.
      - Cái túi tiền thế nào rồi?
      - Tên ta phải là Cái túi tiền, - vẻ trách móc, mà là Monte Banks.
      - Gì chả được.
      tiếc là cái thằng chó đẻ đó chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.
      Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.
      - Nầy, bảo nhé, - Robert sốt sắng , - Chúng ta làm lễ kỷ niệm. Chúng ta và có bữa tối tuyệt vời ở đâu đó và…
      - Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 8 giờ cơ.
      - Cũng được. tới đón em ở đó.
      - Được đấy Monte muốn gặp lắm. Em về rất nhiều cho ta nghe.
      - cũng muốn gặp thằng cha đó, - Robert quả quyết với .
      Khi Robert tới bệnh viện, người thường trực :
      - Xin chào ông sĩ quan. Susan làm việc khoang chỉnh hình ở tầng ba. ấy đợi ông đấy. - Chị ta nhấc điện thoại lên.
      Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, Susan đứng chờ trong bộ đồng phục trắng bong, và tim đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.
      - Xin chào người đẹp.
      Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy thoải mái cách hơi lạ.
      - Chào , Robert. Vài phút nữa là em hết phiên trực. Nào . Em giới thiệu với Monte.
      - Tôi sốt ruột đây.
      dẫn vào phòng riêng rộng rãi, đầy những sách và hoa quả, và :
      - Monte, đây là chồng… em, Robert.
      Robert đứng đó, nhìn người đàn ông nằm giường. ta lớn hơn chừng ba, bốn tuổi và rất giống Paul Newman. Thoáng nhìn, Robert thấy coi thường ta.
      - Tôi rất vui lòng được gặp ông, ông sĩ quan. Susan kể tất cả về ông cho tôi nghe.
      Phải chăng đó là thứ chuyện họ với nhau vào lúc nửa đêm khi ấy ở bên giường ta?
      - ấy rất tự hào về ông. - Cái túi tiền thêm.
      Thế đấy bạn, lại còn ném ra vài mẩu bánh nữa.
      Susan nhìn Robert, lòng những mong xử cho lịch thiệp. phải cố gắng lắm.
      - Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi đây.
      - Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của ông. ấy là người y tá kỳ diệu.
      Nào, chàng thuỷ thủ. nghĩ là em để cho gã nào đó được có tấm thân tuyệt vời nầy ư?
      - Vâng, đó chính là đặc tính của ấy. - Robert thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng của mình.
      Bữa tiệc sinh nhật là cả tuyệt vọng. Susan chỉ những muốn chuyện về người bệnh nhân của .
      - ta có làm cho nhớ tới ai , ?
      - Đến Boris Karloff.
      - Sao cứ phải thô lỗ với ta thế nhỉ?
      - nghĩ là xử lịch thiệp. Có đíều thích ta. - lạnh lùng .
      - Thậm chí chưa hề quen biết gì. ta có gì để thích nào? - Susan nhìn chằm chằm.
      - thích cái lối ta nhìn em. thích cái lối em nhìn ta. thích thấy cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta tiêu tan như thế nầy. Lạy Chúa, muốn mất em.
      - Xin lỗi. cho là hơi mệt.
      Họ im lặng suốt bữa ăn.
      Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới sở, Susan :
      - Robert, em có chuyện muốn với
      cảm thấy như bị cú đánh vào bụng.
      thể nào chịu được việc sắp thành lời những gì xảy ra.
      - Susan…
      - biết là em . Em luôn . là người đàn ông đáng nhất, tuyệt vời nhất mà em từng biết.
      - Thôi nào…
      - , để em nốt. Em khó ra chuyện nầy. Trong năm qua, chúng ta khơng mấy khi được sống bên nhau: Chúng ta còn cuộc sống vợ chồng nữa. Chúng ta xa cách nhau.
      Mỗi lời của như phát dao đâm vào thân thể .
      - Em đúng, - với vẻ tuyệt vọng. - thay đổi. thôi việc ở cơ quan. Ngay bây giờ. Hôm nay. Chúng mình đâu đó và…
      lắc đầu:
      - , Robert. Cả hai chúng ta đều biết là như thế được. làm công việc mà muốn làm. Nếu vì em mà bỏ việc, luôn luôn dằn vặt về chuyện đó. Đây phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều - Chuyện là thế. Em muốn ly dị.
      Tất cả dường như tối sầm trước mắt . Đột nhiên, cảm thấy bụng quặn lên.
      - Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta tìm cách để…
      - Quá muộn rồi. Em nghĩ về chuyện nầy từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian xa và em ở nhà mong ngóng , em nghĩ về điều nầy. Chúng ta sống những cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà thể cho em được nữa.
      đứng lặng, cố kiềm chế tình cảm của mình.
      - Chuyện nầy - Chuyện nầy có liên quan gì tới thằng cha Cái túi tiền hả?
      - Monte ngỏ lời cầu hôn với em. – Susan lưỡng lự.
      - Và em bằng lòng ư? - cảm thấy tim mình thắt lại.
      - Vâng.
      Đó là cơn ác mộng điên rồ. phải chuyện nầy xảy ra, nghĩ. thể như thế được. Nước mắt ứa ra.
      Susan choàng tay, ôm chặt lấy .
      - Em bao giờ cảm thấy ngứời đàn ông như em cảm thấy được. Em bằng cả tâm hồn và trái tim mình. Em luôn luôn . là người bạn quý nhất của em. - lùi ra và nhìn vào mắt . - Song như thế chưa đủ. có hiểu thế ?
      Tất cả những gì hiểu là vò xé .
      - Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta làm lại và…
      - Robert, em xin lỗi. - Giọng nghẹn lại. - Em xin lỗi, nhưng mọi chuyện đđ hết rồi.
      Susan bay Reno để làm thủ tục ly dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ liền.

      Nhưng thói quen cũ khó mất. Robert gọi điện cho người bạn ở Cục Điều tra Liên bang (FBI).
      Trước đây, Al Traynor nhiều dịp có quan hệ với Robert và tin cậy ta.
      - Tray, tôi cần cậu giúp đờ.
      - Giúp đỡ? Cậu cần bác sĩ thần kinh có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?
      Chuyện của họ có thể lan khắp cả thành phố. Đó là cả câu chuyện dài và buồn.
      - Robert, tôi lấy làm tiếc. ấy là phụ nữ tuyệt vời. Tôi… mà thôi. Tôi có thể giúp gì cậu?
      - Tôi muốn cậu kiểm tra về người máy tính điện tử.
      - Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.
      - Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra thông thường thôi.
      - Rồi. Cậu muốn biết những gì?
      - Có thể là ta có trong hồ sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có… ta có bao giờ bị phạt vì chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông thường ấy mà.
      - Chắc chắn là thế rồi.
      - Tôi muốn biết kiếm tiền ở đâu ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của .
      - Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, phải vậy ?
      - Và nầy, Tray, chỉ giữ chuyện nầy riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?
      - có gì cả. Tôi gọi cho cậu vào sáng mai.
      - Cảm ơn. Tôi nợ cậu bữa trưa đấy.
      - Bữa tối.
      - Cũng được.
      Robert gác máy và nghĩ: Hình ảnh người vớ những cọng rơm. Mình hy vọng vào chuyện gì nhỉ, rằng ta và tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào vòng tay mình chăng?

      Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton cho gọi Robert.
      - Ông làm gì vậy, ông sĩ quan?
      Ông ta thừa biết mình làm gì mà, Robert nghĩ. - Tôi giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại giao Singapore, và…
      - Việc đó có vẻ như nhưng chiếm bao nhiêu thời gian của ông.
      - Ông gì ạ?
      - Ông sĩ quan, trong trường hợp ông quên, tôi xin nhắc là Cục Tình báo hải quân được phép điều tra về các công dân Mỹ.
      Robert nhìn ông ta, kinh ngạc.
      - Ông…
      - Tôi mới được bên FBI thông báo rằng ông tìm cách thu thập những thông tin hoàn toàn thuộc thấm quyền của Cục nầy.
      Robert cảm thấy cơn giận chợt bùng lên. Thằng chó đẻ Traynor kia phản bội . eòn gì là bạn bè nữa.
      - Đó là chuyện cá nhân, - Robert . - Tôi…
      - Các máy tính của FBI phải là để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng phải là để giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông chưa?
      - .
      - Thế thôi.
      Robert chạy lao về phía phòng của . Những ngón tay run rẩy khi quay số 202-324-3000. giọng trả lời:
      - FBI đây.
      - Cho tôi gặp Al Traynor.
      - Xin chờ chút.
      phút sau, có tiếng người đàn ông.
      - Xin chào. Tôi có thể giúp gì ông vậy?
      - Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.
      - Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor còn ở cơ quan nầy.
      - Cái gì? - Robert cảm thấy giật mình.
      - Điệp viên Traynor bị thuyên chuyển.
      - Thuyên chuyển à?
      - Phải.
      - Đến đâu?
      - Boiso. Nhưng ta còn chưa có mặt tại đó thời gian. Tôi e là thời gian dài đấy.
      - Ý ông gì vậy?
      - Đêm qua, trong khi chạy trong công viên Rock Creek, ta bị chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. Ông có thể tin được hả? thằng khốn kiếp nào đó hẳn uống say đến phát rồ. lao xe của đường chạy. Traynor bị quăng xa tới hơn chục mét. ta khó mà qua khỏi được.
      Robert gác máy. Đầu óc quay cuồng. Chuyện quỷ quái gì xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng giàu có, mắt xanh ấy được bảo vệ. Bảo vệ cái gì? Ai bảo vệ ? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan lao vào chuyện gì biết nữa?
      đến thăm ngay chiều hôm đó.
      ở tại căn hộ mới của mình, căn hộ kép đẹp đẽ phố M. tự hỏi biết có phải Cái túi tiền mua cho hay . mấy tuần họ gặp nhau, và như nghẹt thở khi nhìn thấy .
      - Susan, xin lỗi vì đường đột như thế nầy. biết là hứa làm vậy.
      - là có chuyện gì đó nghiêm trọng.
      Đúng thế. Bây giờ, khi ở đây, biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, đến để cứu em ư? ấy cười vào mặt .
      - Có chuyện gì vậy?
      - Đó là chuyện về Monte.
      - Chuyện gì về ấy vậy? - chau mầy.
      - Đây mới là phần khó khăn. Làm sao có thể với chuyện mà chính cũng chưa biết? Tất cả những gì biết là có chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Đúng là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với phiêu lưu ý: được tiết lộ thông tin nào nếu được cho phép thích hợp. Và việc thẩm tra lập tức bị đá ngược lại đối với Cục Tình báo hải quân. Vì sao?
      - nghĩ là ta, ta có gì đó có vẻ .
      - Em hiểu.
      - Susan, ta kiếm tiền từ đâu hả?
      có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi nầy.
      - Monte có doanh nghiệp xuất khẩu rất thành công.
      Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất thế gian nầy.
      Lẽ ra phải biết là nên đến đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của mình mới phải. cảm thấy mình ngớ ngẩn. Susan đợi câu trả lời và có gì để .
      - Vì sao lại hỏi như thế?
      - , chỉ muốn tin chắc rằng ta là người thích hợp cho em mà thôi, - Robert ra đâu vào đâu.
      - Ôi Robert. - Giọng đầy vẻ thất vọng.
      cho là nên đến đây. Đúng thế, bạn.
      - xin lỗi em.
      Susan bước đến và ôm lấy . dịu dàng .
      - Em hiểu.
      Nhưng đâu có hiểu gì. hiểu rằng cuộc thẩm tra bình thường về Monte Banks bị chặn đứng lại, hất ngược về Cục Tình báo hải quân và cái người toan tìm kiếm những thông tin đó bị loại bỏ.
      Có những cách khác để thu thập thông tin và Robert bắt tay vào việc tìm kiếm chúng cách thận trọng.
      gọi điện cho người bạn làm ở tạp chí Forbes.
      - Robert. Lâu quá gặp. Tôi có thể giúp gì thế?
      Robert chuyện với ta.
      - Monte Banks à? Rất thú vị là nhắc đến tên ta. Chúng tôi nghĩ rằng ta phải có tên trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes nầy, nhưng mà kiếm đâu ra thông tin về ta cả. có gì cho chúng tôi đấy?
      con số .
      Robert tới thư viện công cộng tìm kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. ta có tên trong đó.
      - quay lại tìm kiếm trong bộ phận lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có mẩu về vụ tai nạn nầy. Nó nhắc đến Banks như nhà doanh nghiệp.
      Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể mình nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks nầy chẳng có vấn đề gì cả. Chính phủ bảo vệ cho nếu như tên gián điệp, tên tội phạm hoặc tên buôn lậu ma tuý… là mình vẫn cố bám vào Susan mà thôi.

      Trở lại với cuộc sống độc thân là nỗi đơn, trống rỗng, chuỗi những ngày bận rộn và những đêm mất ngủ. cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên cách bất chợt và thường phải khóc. khóc cho bản thân mình, cho Susan và cho tất cả những gì mà họ mất. diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ nầy vẫn đầy kỷ niệm về . Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi phòng đều hành hạ với những hồi tưởng về giọng của Susan, tiếng cười và nồng ấm của . nhớ tất cả những đường cong mềm mại thân thề cộ khi nằm trần truồng giường đợi , và nỗi đau trong thể chịu đựng nổi.
      Bạn bè quan tâm tới .
      - Đừng phiền muộn, Robert.
      quan tâm của họ đều thống nhất ở việc:
      - Tớ kiếm cho cậu con bé.
      Họ là những xinh đẹp và gợi tình, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những thư ký, những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những nữ luật sư. Nhưng có ai trong số họ là Susan. có gì chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện trò chút với những xa lạ mà hề quan tâm chỉ làm cho cảm thấy đơn hơn. Robert có ham muốn kéo ai trong số họ vào giường ngủ. muốn có mình. muốn quay lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó. Khi nhìn lại, dễ thấy những sai lầm của , dễ thấy phải sửa lại cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.
      CIA bị thâm nhập bởi người mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc cầu để tìm kiếm .
      , thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi chuẩn bị đưa vợ tôi hưởng tuần trăng mật thứ hai.

      muốn thay đổi lại cuộc đời mình, để nó có kết thúc đẹp đẽ. Nhưng quá muộn. Cuộc sống dành cho những cơ hội lần thứ hai. hoàn toàn độc. tự mua sắm, tự nấu ăn và tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi ở nhà.
      Đó là thời gian đơn và khổ sở nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn còn chưa phải là điều tệ hại nhất. người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh đẹp mà gặp ở Washington mấy lần gọi điện mời ăn tối. Robert muốn, nhưng sau cùng cũng nhận lời. ta chụẩn bị bữa tối ngon lành cho hai người dưới ánh sáng của những ngọn nến.
      - Em là đầu bếp giỏi, - Robert .
      - Chuyện gì em cũng giỏi cả. - Và có gì để nhẩm lẫn trong ý ta hết. ta nhích lại gần hơn. - Hãy để em chứng tỏ cho thấy nhé. - ta đặt tay lên hai đùi và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi .
      lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là quá lâu .
      Họ cùng nhau lên giường, và trước thất kinh của Robert, đó là tai hoạ. Lần đầu tiên trong đời, hoàn toàn bất lực. cảm thấy nhục nhã.
      - Đừng phiền lòng, , - ta . - Rồi đâu vào đấy thôi.
      ta nhầm.
      Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng ngùng và chán nản. biết rằng là điên rồ và ngớ ngần, cảm thấy việc làm tình với phụ nữ khác là phản bội đối với Susan. Sao mình lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?
      Vài tuần sau đó, lại thứ làm tình với nữ thư ký xinh xắn ở Cục Tình báo hải quân. giường, đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể và ngậm trong cái miệng nóng ấm của . Nhưng ăn thua gì. chỉ muốn có Susan. Sau lần ấy thử nữa. nghĩ tới việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. biết câu trả lời đối với vấn đề của , và nó hề có liên quan gì đến chuyện y tế cả. đành dồn tất cả sức lực của mình vào công việc.
      Susan gọi điện cho ít nhất mỗi tuần lần.
      "Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu giặt, - thường . Hoặc. "Em cho giúp việc đến chỗ để dọn dẹp căn hộ. Em cá với rằng nhà cửa rất lộn xộn đấy".
      Mỗi cú điện thoại lại làm cho đơn độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.
      gọi điện cho vào đêm trước ngày cưới.
      - Robert, em muốn biết rằng ngày mai em cưới.
      thấy ngạt thở. hổn hển .
      - Susan.
      - Em Monte, - , nhưng em cũng . Em đến chết. Em muốn quên điều đó.
      Còn biết đáp lại thế nào?
      - Robert, có sao ?
      Chắc chắn là sao. Mạnh khoẻ. Trừ việc mình là thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ đó .
      - Robert?
      - thể nào làm phiền lòng vì chuyện của mình.
      - khoẻ. Song, xin em điều thôi, được chứ, em ?
      - Bất cứ điều gì mà em có thể làm được.
      - Đừng… đừng để ta đưa em trong tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta từng đến.
      cúp máy, lao ra ngoài và uống đến say mèm.
      Đó là chuyện năm trước. Đó là quá khứ. bị buộc phải đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về người khác. buộc phải sống trong tại. có công việc để làm. Bây giờ đến lúc phải chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ ảnh chụp những tấm hình và có tên của các nhân chứng mà Robert có nhiệm vụ phải tìm kiếm trong chuyến công tác cuối cùng nầy của .
      Hyunnie0302Jenny Nguyen thích bài này.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :