Vụ Giết Người Bí Ẩn - James H. Chase(Trinh thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Tên : Vụ Giết Người Bí

      Tác Giả: James H. Chase

      Thể Loại: Trinh Thám, Kinh Dị, Văn học phương Tây

      Dịch Giả: Phạm Văn Thiều

      Nguồn: vnthuquan.net

      Giới thiệu:

      James Hadley Chase là bút danh của tác giả người - Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall.

      Ông sinh ra ở Luân Đôn, là con của đại tá người phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có nghiệp khoa học, bước đầu cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước khi tập trung vào nghiệp viết lách với hơn 80 cuốn sách trinh thám. Năm 1933, ông cưới Chase Sylvia Ray và có con trai.

      Trong Thế chiến II, ông phục vụ trong quân Hoàng gia, cuối cùng đạt được thứ hạng lãnh đạo Đội tàu chiến. Chase biên tập Tạp chí quân Hoàng gia cùng với David Langdon với nhiều câu chuyện, nó được phát hành sau chiến tranh trong cuốn sách Slipstream.


      Chase chuyển đến Pháp năm 1956 và sau đó đến Thụy Sĩ vào năm 1961, sống cuộc sống dật ở Corseaux-Sur-Vevey, phía bắc của hồ Geneva, từ năm 1974. Ông qua đời yên bình vào ngày 6/2/1985.

      Các tác phẩm của Chase được xuất bản tại Việt Nam:

      - Cả thế gian trong túi: Hội văn học nghệ thuật Quảng Nam-Đà Nẵng, 1988.
      - Buôn da trắng: Nxb Sông Bé, 1989.
      - Thiên đường của vũ nữ Châu: Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1988. (bản dịch khác: bông sen cho nhẩy Sài Gòn)
      - Những que diêm bí : Lao động, 1992.
      - Tệ đến thế là cùng: Thể dục thể thao, 1992.
      - Xác chết câm lặng :Quân đội nhân dân, 1992.
      - Phu nhân của tỷ phú Giêm :Lao động, 1992.
      - múa rắn: Hội nhà văn, 1992.
      - Tình nhân gã vệ sĩ : Văn học, 1992.
      - Người đàn bà mộng du : Lao động, 2000.
      - Trở về từ cõi chết : Nxb. Hội Nhà Văn, 2001.
      - Hãy đặt nàng lên tấm vải hoa : Văn học, 2001.
      - Người đàn bà tham vọng : Công an nhân dân, 2001.
      - Móng vuốt tử thần : Văn học, 2002.
      - Vòng tay thần chết : Văn học, 2002.
      - Chạy trốn : Truyện ngắn NXB Công an nhân dân, 2003.
      - Cạm bẫy: Công an nhân dân, 2004
      - Cạm bẫy dành cho Johnny: Nxb. Đà Nẵng, 2004.
      - "Muốn sống hãy ..." : Công an nhân dân, 1991.
      - Hứng trọn 12 viên : Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1991.
      - Sa bẫy của nàng : Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1988.
      - Chẳng bao giờ hiểu được đàn bà : Hội nhà văn, 1992.
      - Choáng ngợp : Văn học. - 19cm
      - Thằng khùng: Nxb. Hội nhà văn, 1992.
      - Kẻ đội lốt hay tử thần săn đuổi : Nxb. Quảng Ninh, 1992.
      - nơi nấp : Nxb. Hải Phòng, 1992.
      - Thám tử phu nhân : Nxb. Hội nhà văn, 1993.
      - Này em ... : Văn học, 1993. -
      - Mùi vàng - Hội nhà văn, 1995.
      - Ngươì đẹp Gilda : Công an nhân dân, 1995.
      - Tình ngang trái : Công an nhân dân, 1995.
      - Cái chết của thiếu phụ: Thể dục Thể thao, 2001.
      - Buổi hẹn cuối cùng : Nxb. Hội Nhà văn, 2003.
      - Cú sốc : Văn học, 2005
      - Chỉ là ảo vọng : Quân đội nhân dân, 1993.
      - Vụ giết người bí (Những con ếch bí ): Văn học, 1999
      - Tiền phải là tất cả : Thể dục thể thao, 1998.
      - Đừng dối trá nữa : Công an nhân dân, 1996
      - Người tình nguy hiểm :: Lao động, 1995.
      - múa rắn: Nxb. Hội Nhà văn, 2001
      - Chiếc nhẫn giết người : Công an nhân dân, 2002
      - Kẻ phạm tội run sợ : Công an nhân dân, 1994.
      - Kẻ đào thoát: Nxb. Hội Nhà văn, 2001.
      - Hạnh phúc dành cho em : Nxb. Trẻ, 1990
      - Quan tài từ Hồng Kông : Quân đội nhân dân, 1996.
      - Vụ tống tiền bí hiểm: Công an nhân dân, 2001
      - Đam mê và thù hận : Công an nhân dân, 2002.
      - Đoá lan rừng nổi loạn : Văn học, 2002.
      - Tiền mùi vị: Thể dục thể thao, 2002.
      - Chim kền kền rình mồi : Văn học, 2002
      - Dã tràng xe cát : Nxb. Văn hoá Sài Gòn, 2009
      - Thà sống đơn : Nxb. Tổng hợp Sông Bé, 1988
      - Trả giá cho đêm vui: Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1988.
      - Trong bàn tay mafia: Lao động, 1992.
      - Tiền mất tật mang Văn học, 2001
      - Chủ bài trong tay: Phụ nữ, 2001.
      - Cái chết đến từ trời : Văn học, 2001
      - Kinh cầu hồn cho ai : Văn học, 2001.
      - Dựng xác chết dậy nhảy múa: Văn học, 2001.
      - Tệ đến thế là cùng: Văn học, 2001
      - Viên đạn cuối cùng : Công an nhân dân, 2003
      - Người đàn bà mất tích : Nxb. Hội nhà văn, 2003.
      - Vành khăn cho em (bản dịch khác: có hoa phong lan cho Blandish)
      - Tỉa dần: NXB Văn Hóa Thông Tin 2008

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 1
      Chuông điện thoại nội bộ réo.
      Chick Barley nhâm nhi li thứ hai buổi sáng, nghe tiếng chuông điện thoại rót thêm chút uytky nữa, miệng lầu bầu chửi tục, rồi ấn nút.
      Tiếng Glenda Kerry the thé trong máy:
      - Bảo Dirk tới gặp đại tá ngay, mà nhanh lên đấy!
      Đoạn ta cúp máy. Chick nhìn tôi, lúc đó ngồi ở bàn làm việc:
      - Cậu nghe mụ ta rồi đấy. thể chịu nổi. Khi mà mụ đàn bà…
      đợi nghe hết câu tôi lao ra khỏi phòng, chạy thục mạng dọc theo cái hành lang rộng mênh mông dẫn tới văn phòng của đại tá Victor Parnell.
      Của đáng tội, tôi mới vào làm việc cho “Hãng thám tử tư Parnell” được đúng tuần. Đây là hãng nổi tiếng nhất và cũng đắt giá nhất của vùng bờ biển Đại Tây Dương này. Nó được đặt tầng cuối cùng của tòa nhà Truman, đại lộ Paradise, thành phố Paradise, bang Floridạ Hãng chủ yếu phục vụ đám khách hàng giàu có và chịu chơi và tôi vẫn còn chưa hết cảm giác thán phục trước bầu khí sang trọng toát ra từ nơi này.
      Nguyên là cựu chiến binh trong cuộc chiến tranh Việt nam, đại tá Parnell nhờ vào số tài sản được thừa kế từ người cha, lập ra hãng này khoảng năm năm trước và ngay lập tức nổi tiếng khắp vùng. Hãng có hai mươi thám tử nguyên là các nhân viên cảnh sát hoặc quân cảnh, làm việc theo từng nhóm hai người. Tôi thế chỗ cho người trong số họ và may mắn được làm việc cùng với Chick Barley, nguyên là trung úy quân cảnh, chàng to con với mái tóc hung và được xem là điều tra viên giỏi nhất của Parnell.
      Tôi đúng là may mắn được tuyển vào làm việc ở đây, vì số người đệ đơn xin vào có cả đống. Tôi kiếm được chỗ này chỉ bởi vì trước kia cha tôi có giúp ông Parnell việc gì đó. Chính xác là việc gì tôi bao giờ biết, nhưng đại tá quên.
      Trong suốt ba mươi năm, cha tôi lãnh đạo “Hãng điều tra Wallace” ở Miami, chuyên về các vụ ly hôn. Học xong, tôi vào làm nghề điều tra viên cho cơ quan này khoảng mười năm. Cha tôi truyền cho tôi tất cả các ngón nghề mà ông biết, nghĩa là chả thiếu thứ gì. Nhưng rồi mệt mỏi vì tuổi tác, ông quyết định xin nghỉ hưu. Hãng lâm vào tình trạng khó khăn, có lúc nó chỉ còn có ba người cộng với tôi. Khi cha tôi về hưu, tôi trở thành điều tra viên duy nhất, nhưng thực tế cũng chẳng có gì mà làm. Đúng lúc đó đại tá Parnell lại tìm người thay thế cho gã điều tra viên vừa mới bị phát tên lừa đảo. Cha tôi bèn viết thư cho ông rằng tồi nếu ông nhận tôi vào chỗ đó. Cuộc hội kiến diễn ra khá suôn sẻ và từ đó đến nay tôi làm cho hãng Parnell.
      Ban đầu, trong tuần lễ tôi cùng với Chick lo về vụ trộm tại trạm bán xăng tự động. Đó là công việc chẳng có gì thích thú, nhưng đối với các điều tra viên các công việc loại như vậy thường gặp như cơm bữa, chẳng hạn như theo dõi bà vợ hoặc ông chồng, tìm người mất tích hoặc đại loại như vậy. Để trở thành thám tử giỏi cần phải có tính kiên nhẫn, bền bỉ và óc tò mò. Tôi có đủ các phẩm chất đó và thêm vào đó còn có nhiều hoài bão nữa.
      Đại tá Parnell cộng tác rất chặt chẽ với cảnh sát ở Paradise Citỵ Nếu nghi ngờ vụ nào đó có dấu hiệu tội phạm, Parnell báo ngay cho Terrel, chánh cảnh sát thành phố. Về phần mình, Parnell cũng nhận được hợp tác đầy đủ từ phía cảnh sát, điều hết sức quan trọng đối với điều tra viên.
      Những người giàu có thường giao cho hãng những công việc rất hệ trọng mà cảnh sát bao giờ nghe tới: những vụ tống tiền, các tiểu thư bỏ trốn theo những gã cầu bơ cầu bất, những cặp vợ chồng nghiện ngập, những chàng công tử đồng tính luyến ái và đủ thứ linh tinh khác. Những vụ việc này được giữ tuyệt mật và chính ở đây Parnell hốt bạc. Những gia đình giàu có thường tới tiết lộ với ông những chuyện kín như thế với điều kiện phải giữ bí mật hoàn toàn. Chính Chick cho tôi biết điều đó. bảo tôi, rồi ngày nào đó cậu cũng được nâng bậc vì giúp những người giàu có che đậy được những vấn đề của họ.
      Tôi gõ cửa phòng Parnell, đứng đợi lát, rồi bước vào căn phòng rộng, bày biện tiện nghi hoàn toàn trái ngược với căn phòng chật chội, tối tăm và ảm đạm của cha tôi trước kia.
      Ông đứng ngắm biển và hàng cây số bãi biển qua chiếc cửa sổ lớn nhìn ra đại lộ Paradisẹ Thấy tôi vào, ông quay lại.
      Parnell là người đàn ông cao lớn, tuổi trạc lục tuần. Gương mặt phong sương đỏ au, đôi mắt xanh tinh và cái miệng khinh khỉnh như nhắc nhở mọi người đừng bao giờ quên rằng ông từng là người lính.
      - Dirk hả? Vào đây và ngồi xuống , - Ông .
      Ông bước lại gần bàn làm việc và thả cái thân hình đồ sộ của mình xuống chiếc ghế phôtơi cũng vĩ đại kém.
      - Thế nào, cháu bắt đầu quen chưa?
      Tôi rụt rè ngồi xuống mép ghế. Đứng trước Parnell bao giờ tôi cũng cảm thấy nhút nhát. Ngay cả Chick, người từng làm việc nhiều năm với Parnell, cũng phải thú nhận rằng trước mặt Parnell ta cũng trở nên mất tự chủ.
      - Thưa bác, cháu quen rồi, - tôi .
      - Chick có với bác là cháu làm việc rất tốt. Mà cũng phải thôi. Cha cháu từng là thám tử tuyệt vời. Cháu được đào tạo ở môi trường tốt.
      - Cám ơn bác.
      - Bác có việc định giao cho cháu đây. Cháu hãy đọc cái này . - Ông và đẩy về phía tôi bức thư đặt bàn.
      Nét chữ trong thư nguệch ngoạc, giấy viết nhom nhem cứ như được đặt viết mặt bàn bẩn thỉu.
      Ngõ Cá Sấu
      West Creek,
      Thưa Đại tá Parnell,
      Khi con trai tôi chết trận, ngài có lòng tốt cho tôi biết cháu hy sinh trong hoàn cảnh nào và còn cho tôi biết ngài đề nghị cho cháu được truy tặng Huân Chương Danh dư.
      Tôi được biết rằng ngài hãng thám tử tư ở Paradise City, gần nơi tôi sinh sống. Tôi cần thám tử. Đứa cháu nội tôi vừa bị mất tích. Cảnh sát khu vực chẳng quan tâm gì tới chuyện này. Tôi nhất định phải biết cháu tôi nay ra sao. Tôi gửi kèm theo đây trăm đôla cho thám tử tìm giúp tôi cháu bé. Tôi thể trả cho ngài nhiều hơn, nhưng tôi trông cậy vào giúp đỡ của ngài vì những gì con trai tôi làm cho trung đoàn của ngài.
      Xin chân thành cám ơn ngài.

      Fredrick Jackson
      Qua Glenda Kerry, người cùng với viên kế toán Charles Edwards chịu trách nhiệm về tài chính của hãng, tôi được biết rằng hãng chỉ tiếp nhận những khách hàng có thể đặt cọc dưới năm ngàn đô và chi ngay trước ngàn đôlạ Tôi nhíu mày nhìn Parnell.
      - Đúng thế, - Ông khi đoán được ý nghĩ của tôi. - Đôi khi chúng ta vẫn nhận được những bức thư cầu thám tử như thế này từ những người có tiền. Và Glenda đều từ chối khéo. Nhưng lần này khac, - Ông ngắt lời để châm điếu xìgà rồi tiếp - Cháu có nghe về Mitch Jackson ?
      - Thưa bác có.
      Cái tên này cho tôi khái niệm lờ mờ về điều gì đó, nhưng cụ thể là gì tôi biết.
      - Mitch Jackson vốn là hạ sĩ quan trong cơ quan tham mưu của bác. Bác chưa bao giờ từng biết người lính như vậy. (Parnell nheo mắt vẻ nghĩ ngợi). tay tuyệt vời. Cực kỳ hiệu quả và dũng cảm. Chính vì thế mà chúng ta phải giúp đỡ cha cậu ấy, Dirk ạ. Chúng ta nhận trăm đôla của ông ta và làm tất cả những gì có thể cho ông ấy. Cháu hiểu chứ?
      - Vâng, cháu hiểu.
      - Cháu hoàn toàn lo vụ này. - Parnell nhìn tôi với con mắt nhà binh và tiếp. - Cháu tới gặp ông già và cố gắng biết được điều gì làm cho ông ta lo lắng như vậy. Hãy cư xử với ông ấy như với nhân vật quan trọng, cháu hiểu chứ?
      - Cháu hiểu.
      - Cháu hãy tìm hiểu và về báo cáo cho bác. Có các chi tiết trong tay, ta mới xem có thể làm được gì. Cháu lên đường ngay sáng mai. (Ông nhìn xoáy vào mắt tôi). Đây là cơ hội để cháu chứng tỏ khả năng của mình. Cháu hiểu chứ? (Ông ném tờ trăm đô xuống bàn). Đây là tiền chi phí cho cháu.- Và với nụ cười tinh quái, ông thêm. - Và cấm lời nào với Glenda đấy. Nếu biết bác nhận lời khách hàng chỉ trả có trăm đô ta tức điên lên mất.
      - Vâng, thưa bác.
      - Tốt lắm. Đừng có lề mề, chúng ta có nhiều thời gian đâu, nhưng bác muốn vụ này phải được giải quyết.
      đoạn, ông ra hiệu cho tôi có thể . Tôi trở về văn phòng cùng ngồi chung với Chick. nghiên cứu tập hồ sơ dày cộm về các nhân viên của trạm bán xăng tự động mà chúng tôi cùng nhau điều trạ Thấy tôi, ngước mắt lên: - Có gì mới ?
      Tôi ngồi xuống ghế và kể lại toàn bộ câu chuyện.
      - Mitch Jackson à? ( huýt tiếng sáo dài). gã cực kỳ đấy! Hồi làm tham mưu trưởng cho đại tá, mình từng làm việc với . Mình hề biết có vợ kia đấy. Chắc cưới trong tháng nghỉ phép. chưa bao giờ kể về chuyện này cả. (Chick nhìn tôi với vẻ trầm tư). Đại tá có kể cho cậu bị chết như thế nào ?
      -
      - Đó là bí mật quân . Nhưng tốt nhất là cậu nên biết để hớ trước mặt ông già . Và nhớ giữ kín đấy.
      - chết thế nào?
      - trò nhầm lẫn kinh điển của quân đội ấy mà. Người ta gửi đội tuần tra gồm hai mươi người vào khu rừng rậm bị nghi là có Việt cộng. Nguyên do là trước đó có quá nhiều người bị những tay súng phục kích bắn hạ, làm cho việc tiến quân bị chậm trễ. Đội tuần tra do hạ sĩ già chỉ huỵ Họ có nhiệm vụ rà soát khu rừng và phát quân phục kích. Các đơn vị còn lại của trung đoàn đợi ngọn đồi. Tổng hành dinh lúc đó biết rằng trung đoàn bị bao vây. Mitch rất muốn tham gia trong đội tuần trạ là kẻ chỉ thích hành động, nhưng lần này đại tá cho . Đội tuần tra vừa mới vào rừng bộ tham mưu cho biết rằng các máy ném bom vừa mới cất cánh để thiêu hủy cánh rừng bằng bom napan. thằng chó chết ở lực lượng quân đếm xỉa đến thông báo của đại tá về đội tuần tra vừa mới vào rừng và cứ cho máy bay ném bom cất cánh. Lúc đó quá muộn để gọi họ quay trở lại. Mitch lập tức nhảy lên chiếc xe jeep và phóng . Đại tá hét gọi quay lại, nhưng chỉ nghĩ tới hai mươi đồng đội và gì có thể giữ được . phóng như bay và ít phút sau chiếc xe đâm vào gốc cây. bỏ xe chạy bộ, vừa chạy vừa hét gọi những người trong đội tuần tra quay lại. Mười bảy người quay lại kịp ra khỏi rừng đúng lúc máy bay bắt đầu rải bom napan. Người ta thấy Mitch trở về cùng với họ. Nhưng đột nhiên dừng lại và chợt thấy rằng còn thiếu ba người. ra lệnh cho mười bảy người vừa được cứu sống trở về ngọn đồi, còn mình quay lại rừng. Cánh rừng lúc đó bốc cháy và đám cháy mỗi lúc lan rộng. Đó là hành động cực kỳ điên rồ nhưng cũng cực kỳ dũng cảm mà tôi bao giờ muốn thấy lại.
      - Rồi sau đó sao?
      - Mitch chết, sau khi cứu sống được mười bảy mạng người. Phần xương thịt còn lại của chỉ đựng đầy cái túi du lịch. May mà còn tìm được chiếc vòng thép ghi số hiệu chúng tôi mới biết rằng đó chính là xác .
      - Thế còn ba người kia?
      - Chẳng còn gì. Trừ mấy mẩu xương và dăm ba mẩu thịt cháy thui. Điều tệ hại nhất là trong rừng lại chẳng có tên Việt cộng nào. Họ rút từ lâu trước khi chúng tôi đến. Viên tướng quân bị thuyên chuyển. Đại tá vẫn làm ầm ĩ cả lên nhưng cấp buộc ông phải im tiếng. Ông đòi phải truy tặng Mitch huân Chương Danh dự. Và người ta tuyên dương công trạng của Mitch là cứu sống được mười bảy đồng đội và bị Việt cộng bắn hạ trong lúc dẫn mọi người thoát ra khỏi ổ phục kích. (Chick nhún vai). Dù sao đối với ông già điều này cũng ít khủng khiếp hơn là .
      - Cám ơn cho tôi biết chuyện này. Tôi chú ý khi chuyện với ông già .
      Chick kéo tập hồ sơ về phía mình.
      - Chà, mình rất muốn biết ông già là người thế nào. Nếu như giống ông con phải coi chừng đấy!
      Sáng hôm sau, với chiếc vali và tấm bản đồ tỉ lệ lớn, tôi lên đường tới West Creek chiếc ôtô của hãng. Mặc dù phần lớn thời gian tôi sống ở Florida, nhưng vùng này đối với tôi hoàn toàn xa lạ. Theo bản đồ tôi biết rằng West Creek nằm cách hồ Placid về phía bắc vài cây số. Tôi cũng xem cuốn sách hướng dẫn du lịch và biết rằng dân cư của West Creek chỉ có năm mươi sáu người, sống chủ yếu bằng nghề nuôi ếch. Vào mùa đông, việc đánh bắt khó khăn, giá ếch tăng vọt. Các nhà hàng xịn ở vùng bờ biển này đều có những khách hàng nặng túi rất thích món ếch.
      Sau khi chạy gần ba tiếng, tôi cho xe dừng lại ở Searle, làng phát đạt chuyên trồng cà chua, hạt tiêu, khoai tây và cách West Creek chừng vài cây số. Bữa sáng chỉ có ly cà phê, nên bây giờ tôi cảm thấy đói cồn cào. Vả lại, chuyện vãn với dân nhậu thường là rất hữu ích đối với cánh điều tra viên chúng tôi trước khi tiến hành điều tra tại chỗ.
      Tôi bước vào quán ăn sạch , ngồi vào bàn ở cạnh cửa sổ nhìn ra đường phố lớn đậu kín xe tải chất đầy rau quả.
      tiến lại gần và mỉm cười chào tôi. bé khá xinh, tóc vàng, mặc quần bò bó và chiếc áo phông còn bó chặt hơn nữa.
      - gọi gì ạ? - ta hỏi và chống tay lên bàn làm nổi bộ ngực dưới làn áo mỏng.
      - Có món gì đặc sản ? - Tôi hỏi và cố nén để thọc ngón tay vào ngực ta.
      - Có món thịt gà rán. phải loại gà chết già đâu.
      - Thôi được. Món ấy hợp với tôi đấy.
      Tôi nhìn theo nhún nhảy đôi mông xinh vào bếp. Chà, ở cái nơi khỉ ho cò gáy như Searle này mà cũng có những bé khêu gợi gớm.
      Tôi nhận thấy trong quán còn có ông già, vóc dáng cao lớn với hàng ria rậm muối tiêu, trạc bảy mươi tuổi. Ông ta mặc bộ complê cũ sờn, bẩn thỉu và nhàu nát.
      Ông ta nhìn tôi, tôi mỉm cười và gật đầu đáp lại. Ông nhìn tôi như thăm dò khá lâu, rồi cầm cốc tiến đến bàn tôi.
      - Chào vị khách lạ. - Ông và ngồi xuống ghế. - Ở cái xó rừng này hiếm lắm mới thấy gương mặt lạ.
      - Cháu lang thang qua đây chơi thôi mà. - Tôi đáp. - Cháu nghỉ hè.
      - thế à? (Ông uống ngụm). Ở đây có khối thứ hay để xem. Ngày xưa đây là khu nuôi cá sấu. Mà bây giờ ở sông Peace cũng vẫn còn.
      - Cháu xem cá sấu ở Everglages rồi. Hay lắm.
      đưa đến món gà rán và đặt uỵch xuống trước mặt tôi. Rồi quay lại nhìn ông già.
      - Ông gọi gì gọi hay chỉ ngồi cho nóng ghế?
      - chả gọi là gì đây, - Ông già và giơ chiếc cốc lên. - Giá tôi trẻ hơn mười tuổi chắc tôi mời thứ khác kia.
      - cứ là ba mươi tuổi , chắc gì tôi màng tới. - cười gượng đáp rồi nhún nhảy bỏ .
      Ông già lắc đầu:
      - Bọn trẻ bây giờ còn coi người già ra gì.
      Tôi định bọn trẻ bây giờ chẳng có lý do gì phải tôn trọng người già, nhưng kìm lại được. Dây vào những chuyện như thế này chẳng có ích lợi gì.
      Tôi bèn tấn công món gà rán.
      - Xứ cá sấu, - Ông già lại lên tiếng. - có nghe về Platt cá sấu ? à? Mà phải, còn quá trẻ mà. Ở đây có cả truyền thuyết kia đấy.
      Tôi gặm sái cả hàm, đúng là con gà chết già.
      - Truyền thuyết?
      - Phải. biết . Platt nấp bờ, đợi cho cá sấu nổi lên mới lao xuống quần nhau với nó. ta xiên con cá và chọc hai ngón tay vào mắt nó. bao giờ trật cả, nhưng phải khỏe và gan lắm mới làm được như vậy. ta rằng bắn chết con cá sấu, tốn viên đạn.
      - Đó là chuyện xưa rồi, - tôi đáp.
      - Chỉ có duy nhất làm được chuyện đó. Nhưng rồi hôm, điều bất hạnh xảy ra. Platt, chính ta, lại chết giường, nhưng ông già Fred Jackson mất trọn cặp giò.
      Trong các cuộc điều tra, đôi khi nhờ chuyện vãn mà tôi vớ được cả mỏ vàng. Nhưng chưa bao giờ lại nhanh như lần này.
      - Fred Jackson? – tôi thản nhiên hỏi. - Có phải là bố của Mitch Jackson, người hùng ở Việt nam ?
      Ông già chằm chằm nhìn tôi.
      - Chính thế. Làm sao biết Fred sống ở đây?
      - cháu có biết đâu. Chính bác vừa cho cháu biết đấy chứ.
      Tôi nhìn thẳng vào mắt ông.
      - Mà cháu còn chưa biết tên bác, tên cháu là Dirk Wallacẹ Bác làm nghề gì ạ?
      - Silas Wood. Rất hân hạnh được làm quen với . Thế làm nghề gì?
      - Cháu làm cho hãng.
      - hãng? Hãng nào vậy?
      - Cháu tìm tư liệu cho các nhà văn.
      Xem ra có ấn tượng lắm.
      - thế ? Bác về hưu rồi. Bây giờ trồng cà chuạ Nhưng cạnh tranh khiếp quá. Bác bán sạch rồi.
      - Bác Wood này, thế ông Fred mất cặp giò trước hay sau khi con ông ấy chết?
      Câu hỏi của tôi có vẻ như làm cho ông già ngạc nhiên. Ông lấy tay vuốt chiếc mũi dài ngoằng của mình vẻ nghĩ ngợi.
      - Vì hỏi, - cuối cùng ông già cũng trả lời. - Fred mất cặp giò khi Mitch còn là thằng nhóc. Bây giờ ông ấy chắc cũng phải ngoài bảy mươi rồi. Mitch phải chăm sóc bố cho tới lúc nó nhập ngũ. Lúc đó Fred quen sống thiếu cặp giò rồi. Ông già nạng mà xoay xở giỏi ra phết, lại còn chiếm quán quân về câu ếch và kiếm ăn cũng khá lắm.
      - Bác có biết về Mitch ?
      - quá ấy chứ! (Ông già lại vuốt chiếc mũi dài). Ở cái xó xỉnh này ai mà chẳng biết thằng Mitch. ai lại nghĩ rằng nó lại trở thành hùng. Đúng là thể xét đoán bọn trẻ được. như con bé vừa nãy đấy. Nó có thể lấy chồng giàu sang, nhưng bao giờ là hùng dân tộc được. Tôi cầm chắc như vậy.
      - Mitch là đứa cứng đầu lắm à?
      Ông già uống nốt ly rượu rồi buồn bã nhìn chiếc ly rỗng .Tôi hiểu ý cầm cốc ra hiệu cho đứng tựa ngực vào quầy nhìn chúng tôi.
      ta mang rượu tới và đặt trước mặt ông già.
      - Đây là ly thứ hai và cũng là cuối cùng đấy nhé. - nhìn tôi tiếp. - Ông ta chịu nổi tới quá hai ly đâu, đừng có thử.
      đoạn, ta lại quay trở lại quầy, Wood nhìn tôi vẻ tinh quái.
      - Tôi với rồi đấy. Bọn trẻ còn coi người già ra gì.
      - Cháu hỏi bác có phải Mitch là thằng cứng đầu lắm phải ?
      Tôi đánh vật xong với đĩa gà quay, và mừng là mình ăn xong. Hàm mỏi nhừ.
      - Cứng đầu ấy à? Thế là còn ít. Phải nó là thằng quỷ sứ mới đúng. - Wood uống ngụm rồi tiếp. - Lúc nào cũng có chuyện với cảnh sát. Trong vòng cây số có đứa con nào được yên với . thằng ăn trộm và chuyên bắn trộm thú rừng. Tôi thể chắc nó ăn cắp bao nhiêu cà chua của tôi và bao nhiêu con gà, con ếch của những người khác biến mất. Cảnh sát biết mười mươi Mitch la kẻ trộm. Nhưng ma lanh lắm. Rồi lại còn chuyện đánh lộn nữa chứ. Thường tối nào cũng kiếm chuyện cãi cọ với ai đó trong làng. chỉ thích đấm đá thôi. hôm có bốn thằng cậy đông xông vào đánh Mitch. Người ta phải đưa cả bốn đứa vào bệnh viện. Tôi dây với . Thực ra tôi cũng sợ . Mà chả phải tôi, cảnh sát cũng ngán . Cả làng đều thở phào khi nhập ngũ và khỏi phải nhìn thấy nó nữa. - Ông già ngừng và làm thêm ngụm nữa. - Và rồi nó được nhận huân Chương Danh dự, nó có quyền được tha thứ và người ta cũng quên chuyên cũ . Bây giờ cả làng tự hào về nó. Ấy là tôi người ta xá cho quá khứ ấy mà.(Ông nháy mắt với tôi). Khối đứa con khóc suốt đêm khi nghe tin chết đấy. Chỉ cần búng ngón tay cái là khối con bé dạng chân ra.
      Tôi chăm chú nuốt từng lời của ông già.
      - Thế cha có giống ?
      - Fred ấy à? . Ông ta là người lao động trung thực. Cục tính nhưng đàng hoàng lắm. Khi bị mất cặp giò tính nết ông lão thay đổi hẳn. Trước kia ông ấy hay xuống làng tán gẫu với bạn bè. Sau này tịt hẳn. Ông muốn gặp bất cứ ai. Ông vẫn bắt ếch với Mitch, nhưng bao giờ xuống làng và tiếp đón rất cục cằn những ai tới thăm. Bây giờ cũng vậy, tuổi cao rồi ông ấy vẫn bắt ếch. tuần lần người ta đến mua rồi chở . Ông già chỉ ăn thỏ và cá. Dễ đến hơn mười năm tôi chưa gặp ông ta.
      - Thế còn mẹ Mitch? Bà ấy còn sống ?
      - Tôi biết. Mà cũng chẳng ai biết. Người ta đồn rằng có bà khách du lịch tới thăm và chụp ảnh Fred cùng các con cá sấu. Ấy là tôi hồi ông ta còn trẻ cợ Chuyện đàn bà con chắc ông ta cũng như thằng Mitch thôi. Chuyện hư thế nào tôi biết, chỉ biết rằng vào hôm đẹp trời, người ta thấy Fred bế đứa bé taỵ Ai đó bỏ nó trước túp lều của ông tạ Đó là thằng Mitch sau này. Ấy là ở Searle này người ta đồn như vậy. Fred nuôi thằng bé chật vật lắm, nhưng ông ấy cũng cho nó ăn học hẳn hoi. Và sau khi mất cặp giò, Mitch nuôi sống ông tạ Từ đó Mitch chăm sóc ông già cho tới tận khi nó biết chạy theo lũ con . Đó là lời khen duy nhất tôi có thể về nó. Nó ngưỡng mộ Fred, điều này ai có thể nghi ngờ.
      - Hay đấy chứ. - Tôi .
      - Đúng như vậy. Người ta nhiều về chuyện này khắp làng. hùng dân tộc. Đào đâu ra ở những làng như làng chúng tôi. Rồi ông ta lại có đứa cháu nội nữa chứ.
      Tôi làm ra vẻ mấy quan tâm.
      - Con trai của Mitch?
      - Đúng vậy. Mà cũng ly kỳ lắm. Đâu như chín năm trước, có thằng bé ghé qua đây. Nó khoảng tám chín tuổi gì đấy. Tôi còn nhớ là gặp nó tới. Trông cứ như thằng lang thang vô gia cự Bẩn thỉu, tóc tai bù xù, giày rách tướp. Nó xách chiếc vali cũ xộc xệch chằng bằng dây. Tôi thương thằng bé quá. Tôi vốn trẻ mà. Tôi hỏi nó tới đây làm gì. Nó trả lời lưu loát lắm. Nó bảo nó tìm Fred Jackson, ông nội của nó. Tôi sững cả người. Rồi tôi chỉ cho thằng bé nhà của ông nó. Thằng bé xem chừng đói lả đến nơi, tôi mời nó ăn sáng cùng, nhưng nó lịch từ chối và rằng nó muốn gặp ông nó càng sớm càng tốt. Đúng lúc đó chiếc xe tải của Josh, viên bưu tá, chuẩn bị chạy. Tôi nhờ ta chở giúp thằng bé. Hồi đó Mitch tại ngũ. Làm sao mà ngờ có chuyện như thế này, thế là cả làng đàm tiếu um cả lên. Rồi thầy giáo làng đến gặp Fred. Trái với thông lệ, lần này ông giáo được Fred đón tiếp rất tử tế. Rốt cục, Johnny Jackson cũng được đến trường. Nó xuống đây học bằng xe đạp.
      - Thế Johnny co giống cha nó ?
      - Chẳng giống tẹo nào. Thằng bé người nhắn, xinh trai, tính tình điềm đạm, lịch và có lẽ hơi ủy mị, nhưng học rất giỏi. Những đứa con trai khác thích chơi với nó. Nó thích giao du và bao giờ về Mitch. Khi bọn trẻ hỏi, nó đáp rằng nó hề biết bố nó. Nó ra đời sau khi bố nó sang Việt nam. Khi người ta thông báo rằng Mitch chết và được trao huân Chương, thằng bé đến trường nữa. Khi ấy nó mới mười bốn tuổi. Thầy giáo làng đến tìm gặp Fred, nhưng ông đuổi ra, tiếp. Từ đấy sáu năm rồi, ai còn gặp thằng bé nữa. Tôi chắc thằng bé khốn khổ chịu nổi chuồn rồi. Mà làm sao nó có thể sống nổi cơ chứ? Cái lão Fred ấy nhiếc móc thậm tệ lắm. (Wood uống cạn ly, buông tiếng thở dài, rồi lấy chiếc đồng hồ bạc cũ kỹ ra xem giờ). Thôi đến lúc tôi phải rồi. Bà vợ tôi nấu bữa trưa nóng sốt chắc đợi tôi cả tiếng rồi. Về muộn quá bà ấy lại càu nhàu. (ông đứng dậy bắt tay tôi). Chúc kỳ nghỉ hè vui vẻ. Hy vọng gặp lại. Rồi ta có dịp lai rai với nhau.
      Sau khi ông già khỏi, tôi ra hiệu cho hầu bàn mang cà phê tới. Lúc này rất đông cánh lái xe tải vào ăn trưa. ai để ý đến tôi. Về phần mình , tôi cũng chỉ quan tâm tới thổ dân ở đây mà thôi.
      mang cà phê tới.
      - đừng có tin lời lão già ấy, - và đặt tách cà phê lên bàn. - Lão ấy lẩm cẩm rồi. Mà lão gì với vậy?
      - Về Mitch Jackson ấy mà.
      Gương mặt sáng lên vẻ xúc động.
      - ấy mới là đàn ông, người đàn ông đích thực. ( ta nhắm mắt lại rồi thở dài). Mitch mất sáu năm rồi, nhưng ở đây ai cũng còn nhớ ấy. Em chỉ gặp ấy có lần, hồi còn bé, nhưng bao giờ quên được.
      - Nhưng ông Wood có với tôi rằng là thằng quỷ sứ. Nhưng tôi nghĩ người được huân Chương Danh dự chắc là tuyệt vời lắm.
      Tôi vậy chẳng qua bởi vì cứ theo nét mặt hân hoan của ta, tôi hiểu rằng đối với Mitch còn hơn cả Elvis Presley đối với hàng triệu thanh niên.
      - đúng quá chứ! Ai có thể nghĩ rằng thằng con trai ấy lại ẻo lả như vậy.
      Tôi nhấm nháp ly cà phệ Đúng là ngày may mắn của tôi.
      - thế ư?
      - Tất cả bọn con ở trường đều chạy theo nó, vì Mitch là bố nó. Nhưng nó lẩn như thỏ. Đúng là đồ thỏ đế!
      tay lái xe hét gọi món ăn. nhăn mặt rồi chạy . Tôi vừa nhâm nhi ly cà phê vừa ngẫm nghĩ lại những điều mình vừa biết được. Theo Wood, từ khi biết tin Mitch tử trận, người ta nhìn thấy thằng bé nữa. Cũng theo ông già mọi người trong làng đều nghĩ Johnny bỏ rồi. Chuyện này quả mình hiểu. Nếu thằng bé biến mất từ sáu năm trước tại sao bây giờ Fred Jackson mới viết thư nhờ Parnell tìm hộ sau thời gian dài như vậy?
      Tôi quyết định phải biết thêm thông tin trứơc khi tới Ngõ Cá Sấu. Tôi ghi chép vắn tắt rồi bước ra đường phố náo nhiệt. Tôi nhìn quanh và thấy tấm biển đề: MORGAN & WEATHERSPOON
      Món đùi ếch tuyệt hảo
      Tôi chợt nhớ Fred Jackson chuyên bắt ếch. Biết đâu ở chả kiếm được ít thông tin. Theo hướng chỉ của mũi tên, tôi dọc theo con đường tới ngôi nhà có treo biển: MORGAN & WEATHERSPOON
      Chuyên bán ếch - Mời vào
      Mùi tanh tưởi xộc ra từ bên trong hàng rào gỗ cao khiến tôi suýt nôn mửa. Tôi đẩy cửa bước vào cái sân rộng đậu đầy những chiếc xe tải mui trần. Xe nào cũng xếp đầy những chiếc thùng tôno, từ đó vọng ra những tiếng rột roạt.
      Ở phía đối diện là toà nhà bêtông. Phía sau cửa sổ lớn tôi nhìn thấy người đàn ông mặc áo blu trắng ngồi làm việc. Tôi bước lên bậc tam cấp, mở cửa và bước vào căn phòng có điều hoà nhiệt độ. Tôi phải khép ngay cửa lại để cho mùi tanh từ sân lọt vào.
      Người đàn ông niềm nở đón tôi. Ông ta chạc bốn mươi lăm tuổi, gầy gò với mái tóc đen lưa thưa và nét mặt tiều tụy.
      - Tôi có thể giúp gì ông đây? - Ông ta đứng dậy hỏi và chìa tay cho tôi. - Tôi là Harry Weatherspoon.
      - Tôi là Dirk Wallace, - tôi và bắt tay Harrỵ - Thưa ông Weatherspoon, tôi muốn phiền ông ít phút, và tôi hy vọng là ông từ chối.
      Nụ cười nở rộng môi, nhưng đôi mắt sắc lạnh của ông ta nhìn tôi có vẻ lo lắng.
      - thời tôi có thời gian, ông Wallace ạ. nửa giờ nữa tôi có việc bận, nhưng bây giờ tôi còn phải ăn trưa. Mời ông ngồi và cho tôi biết ông có chuyện gì.
      Chúng tôi cùng ngồi xuống.
      - Tôi làm cho hãng chuyên thu thập thông tin cho các nhà văn và nhà báo, - tôi lặp lại trò ngụy trang khá thành công cho đến lúc này. - Nhiệm vụ của tôi là chỉ cung cấp các kiện. Còn họ khai thác và kiếm bạc triệu đấy. Tôi chẳng xơ múi gì. (Tôi cười buồn). tại tôi điều tra về Mitch Jackson, vị hùng dân tộc của chúng ta cùng với những con ếch và cha tạ tạp chí lớn đề nghị viết bài báo về Mitch.
      Người đàn ông gãi cái đầu hói tới gần đỉnh
      - Còn có gì mới nữa đâu. Người ta viết hết rồi còn gì.
      - Ông là người biết mọi chuyện, ông Weatherspoon ạ. Nhưng tôi muốn đề cập vấn đề này dưới góc độ khác.
      Người đàn ông nhún vai.
      - Về ếch tôi có thể chuyện thoải mái với ông, nhưng Mitch tôi chưa gặp bao giờ. Vả lại, theo những chuyện mà người ta đồn đại về ta, tôi cũng chẳng lấy đó làm thiệt. Thôi ta về những con ếch vậy. Chắc ông ngửi thấy mùi rồi chứ? Rồi cũng phải quen thôi. Loài ếch có mùi rất tanh tưởi và nó sống ở những chỗ cũng chẳng thơm tho gì. Nhưng đùi ếch bán hơi bị đắt. Riêng tôi tôi chẳng thú cái món này, nhưng nhiều kẻ giàu có lại rất khoái. Đây là cả nền công nghiệp phát đạt đấy. Chúng tôi thu gom ếch từ những người nuôi, sơ chế rồi đem bán cho các khách sạn.
      Ông ta ngả người vào lưng ghế và cứ theo cái điệu bộ hùng hồn của ông ta tôi hiểu những con ếch quý giá với ông ta tới mức nào.
      - Tất nhiên khâu khó khăn nhất là đánh bắt, - Ông ta tiếp, - Nhưng may đó phải là nhiệm vụ của tôi. Fred Jackson là người cung cấp chính cho chúng tôi trong vòng ba mươi năm quạ chỉ về số lượng đâu, mà cả chất lượng nữa. Khốn nỗi bây giờ chúng tôi thể trông cậy vào ông ta được nữa. Ông ta già rồi… cũng như tất cả mọi người mà, có phải vậy ông? (Ông ta lại cười lớn). Còn chuyện nuôi ếch thế này: người ta mua hoặc thuê khoảnh đất có nhiều đầm lầy và ao hồ. Ông già Fred khôn lắm. Ông ta mua đất từ đời nào với giá rẻ như bèo. Ếch chỉ sống bằng côn trùng. Những người nuôi ếch như ông già Jackson ném thịt ôi vào đầm lầy. Thịt ôi thu hút bầy nhặng xanh to kềnh mà ếch rất khoái. Trong khi bầy ếch mải bắt nhặng, người ta cứ ung dung mà chộp ếch. Có thể Fred là chuyên gia về khoản này. Nếu thấy việc đánh bắt ban ngày chưa đủ, ông ta cho thắp đèn điện sáng trưng xung quanh khu đầm để thu hút lũ bướm và côn trùng. Ếch cũng ra ăn vào ban đêm, và đây là lúc để bắt chúng. con ếch cái ấp từ mười đến ba mươi ngàn trứng năm. Chín mươi ngày sau, trứng nở ra nòng nọc. Chỉ cần khoảng hai năm là có thể xài được. (Ông ta lại cười). Thôi hội nghị xin được kết thúc ở đây.
      - Cám ơn ông. - Tôi . - Đó đúng là những chi tiết mà tôi cần. (Tôi ngừng lát trước khi tiếp tục). Nhưng ông lại cho rằng đó chẳng phải là thiệt thòi gì đối với ông cả, mặc dù ta là hùng dân tộc. Ông giải thích điều này thế nào?
      Ông ta có vẻ hơi lúng túng và nhún vai.
      - Ông Wallace ạ, trứơc hết ông cần biết rằng tôi phải là người sinh ra ở đây. Cũng phải mất thời gian người ta mới chấp nhận tôi. Tôi mua số cổ phần của doanh nghiệp với Morgan lúc ông ta về hưu. Ông ta mới qua đời cách đây lâu. Bây giờ mình tôi cai quản doanh nghiệp này. Mitch Jackson quá nổi tiếng ở đây vì được tặng huân Chương, vì vậy tôi muốn ông đừng trích dẫn lên tôi làm gì. Đối với bọn thanh niên hồi ức về ta là điều thiêng liêng, còn những điều tôi với ông chỉ là giữa chúng ta với nhau thôi.
      - sao, - tôi . - Tôi nhắc gì đến ông nếu ông muốn như vậy.
      - Đúng là tôi muốn như vậy. (Ông ta nhìn tôi với vẻ nghiêm khắc và tiếp). Tôi tới vùng Searle này sau khi Mitch chết. Tôi được nghe đủ thứ chuyện về tạ Bọn trẻ trong vùng sợ ta lắm. Theo như họ ta là thằng du thủ du thực bẩn thỉu. Nhưng khi Mitch được tặng huân Chương, ta bước vào truyền thuyết của cả vùng rồi. Bọn con khóc như lũ ngốc. Và bây giờ người ta về cứ như là ngôi sao nhạc pop.
      Tôi gì. Hồi còn trẻ thần tượng của tôi là Sinatrạ Tất cả bọn trẻ đều cần phải có thần tượng.
      - Nếu ông cần những chi tiết về cá nhân Mitch có thể đến hỏi Abe Levị - Weatherspoon tiếp. Đó là trong số những người lái xe tải của tôi chuyên thu gom ếch. Ông ta nhận ếch của Jackson từ nhiều năm naỵ ( đoạn, Weatherspoon xem đồng hồ). Giờ chắc ông ta ở nhà chế biến. Ông có muốn chuyện với ông ta ?
      - Rất sẵn lòng và xin cám ơn ông nhiều, ông Weatherspoon ạ. câu hỏi cuối cùng, ông có thể gì về Fred Jackson?
      Weatherspoon lắc đầu.
      - Chẳng có gì để cả. Tôi gặp ông ta bao giờ đâu. Tôi nghe ông ta mất cặp giò vì đánh nhau với cá sấu. Trong thời gian ông ta dưỡng bệnh Mitch là người bắt ếch. Sau này ông ta cũng nhúc nhắc lại bằng nạng, nhưng sản lượng gần đây giảm nhiều. Ở tuổi của ông ấy thế cũng phải thôi. Theo như tôi nghe ông ấy là người bủn xỉn nhưng trung thực.
      Tôi đứng dậy.
      - Tôi gặp Levi ngay bây giờ.
      Weatherspoon chỉ tay qua cửa sổ.
      - Ông ta ở cái nhà kho lớn kia kìa. Chắc là ông ta ăn trưa. (Ông ta cũng đứng dậy). Rất hân hạnh được làm quen với ông, ông Wallace ạ. Nếu ông muốn biết kỹ hơn về những con ếch ông biết tìm tôi ở đâu rồi đấy.
      Chúng tôi bắt tay nhau. Tôi bước ra và ngay lập tức cái mùi tanh tưởi ấy lại vây lấy tôi.
      Trong nhà kho mà Weatherspoon chỉ cho tôi có nhiều da đen lột ếch (cảnh tượng và mùi tanh làm cho tôi buồn nôn), và tôi thấy ông già chừng sáu nhăm tuổi ăn món đậu trắng đựng trong cái vỏ đồ hộp. Tôi hiểu sao người ta lại có thể ngồi ăn giữa cái mùi tanh khó chịu này. Nhưng ông già bé , béo lùn và săn chắc với bộ râu xoăn tít kia xem chừng vẫn bình thản ngồi ăn. Tôi nhắc lại với ông già những điều tôi với Weatherspoon. Rằng tôi thu thập thông tin cho hãng. Ông già cứ vừa ăn vừa nghe tôi , rồi ông nhìn tôi bằng đôi mắt xám lấp lánh ánh tinh quái vốn có của những người nghèo khổ.
      nhiều năm làm nghề săn tin, tôi thừa hiểu ý nghĩa của cái nhìn đó.
      - Ông Weatherspoon có với cháu rằng bác có thể cung cấp số thông tin, - tôi mào đầu. - Tất nhiên cháu xin bác. Năm đô, bác thấy thế nào?
      Tôi rút ví ra lấy tờ năm đôla và ve vẩy trứơc mặt ông già.
      - Năm đô chỉ là bắt đầu thôi. Tùy vào những điều bác
      Ông già giật năm đôla từ tay tôi nhanh như con thạch sùng đớp muỗi.
      - Đồng ý. Thế muốn biết về cái gì?
      - Hãy cho cháu biết về Fred Jackson. Hình như bác quen ông ta nhiều năm.
      - Đúng vậy. Nhưng càng gặp tôi lại càng ít muốn lui tới nhà ông tạ Đó là lão già độc ác. Đồng ý rằng phần lớn người ta rồi trở nên xấu tính nếu bị mất cặp giò, nhưng Fred lúc nào cũng vậy hà.
      - Xấu tính ư? Có phải bác muốn ông ta là người keo kiệt?
      - Tôi muốn thế, mặc dù ông ta đúng là gã keo kiệt. Ông ta là kẻ xấu tính. Đó là loại người có thể làm những điều tệ hại ngay cả với người bạn thân nhất của mình cách bình thản nhất trần đời. Vả lại, ông ta làm gì có bạn. Fred bẩn thỉu chẳng khác gì con trai .
      - Nhưng con trai ông ta được tặng huân Chương Danh dự kia mà.
      Levi với giọng đầy bực tức.
      - được tặng là bởi vì thằng cục súc, xấu tính và độc ác. Nó lúc nào cũng cắm đầu xông vào bất cứ đâu. Tôi cho đó phải là dũng cảm, mà là ngu ngốc. Cả nhà Jackson đều là những kẻ xấu tính xấu nết. Họ chẳng quan tâm tới ai khác. hơn hai chục năm nay, tuần nào cũng tới nhà lão, nhưng chưa bao giờ cả cha lẫn con mời tôi lấy lon bia. Chưa bao giờ họ giúp tôi tay xếp các thùng ếch lên xe. Mà những thùng này có phải đâu. Tất nhiên, bây giờ khi Fred mất cặp giò rồi tôi đâu dám nhờ, nhưng khi thằng Mitch đứng ngay đó, nó cũng chỉ nhe răng và trắng dã mắt nhìn tôi làm vã mồ hôi. Trong khi những gia đình nuôi ếch khác ai cũng mời bia tôi, cũng đỡ tôi tay chất thùng lên xe. Bố con Jackson bao giờ. (Ông già nhìn cái vỏ đồ hộp, vét hết mấy hạt đậu còn sót lại và cho vào mồm). Tất cả cái trò rầm rĩ về chủ nghĩa hùng của Mitch làm tôi muốn nôn mửa. Thực ra dân ở đây ai cũng mừng là thoát được .
      Levi vẫn chưa cho tôi thông tin gì mới hơn so với Weatherspoon.
      - Thế bác có gặp thằng cháu nội của Fred ?
      - Chỉ lần duy nhất. Tôi đánh xe tới thấy nó giặt giũ trong chiếc chậu gỗ . Chắc Fred bắt nó làm để trả công nuôi nấng nó. Ngay khi thấy tôi, thằng bé chạy tót vào lán và lão Fred liền bước ra. Tôi chưa có dịp nào chuyện với thằng bé. Chắc nó ngán sống với Fred đến tận cổ nên sau khi nghe tin Mitch chết chuồn rồi. Tôi chỉ nhìn thấy nó lần, mà cũng sáu năm rồi còn gì.
      - Chắc bấy giờ nó cũng mười ba mười bốn tuổi rồi.
      - Để tôi nghĩ xem nào. Thằng bé gầy gò chẳng giống nhà Jackson tẹo nào. Tôi cứ băn khoăn tự hỏi, biết nó có đúng là con của Mitch . Mitch có kiểu mặt mà người ta thường thấy trong hồ sơ của cảnh sát. Còn thằng bé này có hạng lắm. Bọn trẻ cùng lớp đều phải thừa nhận điều đó. Chúng thằng bé này khác biệt với chúng. Chắc là nó giống mẹ.
      - Thế bác có biết gì về chị ta ?
      - Chẳng có ai biết gì hết. Chắc là đứa con nào đó mà Mitch chơi bời. Mà lũ này trong vùng có vô khối. Mitch chẳng bao giờ để chúng nó được yên. Nhưng đứa nào tôi biết. Thằng bé có lẽ cũng có tính nết như bố nó. Tôi nhớ là tôi có gặp đứa con ở đó. (Ông già ngẫm nghĩ lát rồi lắc đầu). Nhưng chỉ cách ở đây chừng bốn năm tháng gì đó, rất lâu sau khi thằng bé biến mất.
      Cố gắng che đậy vẻ quan tâm của mình, tôi hỏi cách thờ ơ.
      - Bác kể cho cháu về bé ấy .
      - Tôi cũng chỉ nhìn thoáng thấy nó thôi. Nó ngồi giặt bên cái chậu gỗ như thằng bé ngày nào. Ngay khi tôi vượt qua chỗ ngoặt, con bé chạy tọt vào nhà. Khi Fred ra tội hỏi ông mới có người giúp việc à, ông ta chỉ ậm ừ tỏ vẻ khó chịu. Với ông ta đừng có hy vọng gì hơn. Tôi nghĩ chắc ông ta thuê ở thành phố về thay thế cho thằng cháu. Phải thú điều đó khiến tôi càng thêm tò mò. Tôi dò hỏi mọi người, nhưng chẳng ai biết con bé làm việc ở nhà Fred. (Ông già nhún vai). Tôi bao giờ gặp lại con bé nữa.
      - Con bé nhìn thế nào? Chừng bao nhiêu tuổi? Levi liếm chiếc thìa giữ trong tay và cho vào túi.
      - Nó còn trẻ, mảnh mai với mái tóc vàng thả dài.
      - Nó ăn mặc ra sao?
      - Quần bò, còn gì nữa tôi nhớ. Có thể thằng Johnny cũng ở đó và lòng thòng với con bé. Fred chắc cáu lắm. Ngày xưa ông ta cũng bực vì những chuyện trai của thằng Mitch. (Levi ngừng lời và lại nhìn tôi bằng cái nhìn tinh quái). có quan tâm tới chuyện này ?
      - câu hỏi cuối cùng. Có vẻ như Mitch là gã thích độc. người bạn nào sao?
      Levi gãi râu.
      - Nó cũng có giao du với thằng du thử du thực như . (Ông già như nhìn vào cõi hư vô). Nhưng tên nó tôi quên rồi.
      Tôi rút ra tờ năm đôla nữa nhưng giữ ở ngoài tầm với của Levị Ông già nhìn tờ giấy bạc, gãi đầu rồi gật gật đầu.
      - À, tôi nhớ ra rồi. tên là Syd Watkins. đăng lính cùng đợt với Mitch. Cả làng đều mừng là cả hai thằng đều cho khuất mắt. Cha mẹ nó đều là người tử tế cả. Họ có cửa hàng thực phẩm ở Searlẹ Nhưng khi người vợ chết, ông ta cũng bỏ luôn. Thiếu bà ấy, ông thể mình trông nom cửa hàng được. Thằng Syd cả đời động chân động tay lấy giờ.
      - Thế Mitch là bạn của Syd à?
      Ông già nhăn mặt.
      - Chuyện đó tôi biết. Chỉ biết bọn nó kết bè hết đảng quậy phá. Khi Mitch gây gổ với ai đó, thằng Syd bao giờ dây vào. Cứ như nó là cái đầu còn thằng Mitch là chân tay ấy.
      - Thế sau chiến tranh Syd có trở về ?
      - . Thi thoảng tôi có lai rai với ông già nó. Ông già ngày nào cũng chờ tin nó, nhưng đến tận bây giờ vẫn chẳng thấy tăm hơi. Người ta chỉ biết Syd giải ngũ, về Mỹ và mất hút. Theo tôi chắc nó chẳng làm được điều gì tốt lành đâu.
      Tôi ngẫm nghĩ lúc rồi đưa tờ năm đôla cho ông già.
      - Nếu cháu cần điều gì nữa cháu còn đến gặp bác. – Tôi .
      Tôi nóng lòng muốn ra ngoài mong được hít thở chút khí trong lành.
      - Bác thường ở đây vào giờ này chứ?
      - Ngày nào vào giờ này tôi cũng có mặt ở đây.
      - Ông già và nhét vội tờ giấy bạc vào túi.
      - Nhờ bác chỉ giúp đường đến nhà Fred.
      - xe hơi à? Ông ta ở cách đây bảy tám cây số thôi à. – Rồi ông ta chỉ dẫn tỉ mỉ đường cho tôi. – Coi chừng lão Fred đấy, nghe chưa. kẻ thô tục.
      Nhẩm lại những điều vừa biết được, tôi tới chỗ đỗ xe và phóng thẳng đến Ngõ Cá sấu. Lúc rẽ đường cái, tôi ngó thấy đồn cảnh sát. Tôi đắn đo biết có nên vào trình diện hay . Kinh nghiệm dạy tôi rằng cảnh sát đôi khi rất ghét cánh thám tử thọc mạch vào những chuyện địa phương họ. Nhưng tôi quyết định trước hết phải tới gặp Fred Jackson . Chả gì ông ta cũng trả tiền cho hãng để tìm đứa cháu nội của ông tạ Biết đâu ông ta chả muốn việc điều tra được giữ kín.
      Levi báo trước với tôi rằng có biển chỉ đường đến Ngõ Cá sấu. Ông ta dặn dò phải tìm con đường gần như bị các bụi cây che khuất. Sau khi cho xe chạy chậm mà cản trở giao thông tôi tìm được chỗ rẽ và cho xe quặt vào con đường đất ngoằn nghèo trông giống như con rắn quằn quại dẫy chết. Hai bên đường là rừng rậm. Qua được ba cây số, con đường rộng hẳn ra: ở đây các xe tải có thể đợi xuống con đường dẫn ra đường cái.
      Tiếng kêu ỳ ộp của lũ ếch cho tôi biết rằng tôi đến gần nhà Jackson. Con đường hẹp dần và đột ngột ngoặt góc vuông. Tôi cho xe dấn tới. Rồi tôi thấy căn nhà gỗ, cái giếng, cái xô đặt trước cửa, chiếc ghế băng đặt dưới cửa sổ đóng kín mít và thùng tônô đựng ếch. Nghĩa là tôi tới nơi.
      Tôi dừng xe, tắt máy và bấm còi.
      động tĩnh gì, ngoài tiếng ỳ ộp của lũ ếch.
      Tôi đợi lát rồi lại bấm còi.
      Vẫn im lặng.
      Tôi nghĩ chắc là Fred bắt ếch và xuống xe. Trời nóng và oi. ngọn gió. Cây cối đứng im phăng phắc. Tiếng ỳ ộp ngừng của lũ ếch tác động đến thần kinh của tôi. Những thanh của chúng phát ra có vẻ gì đó như là của con người. Tôi có cảm giác như nghe thấy tiếng hắng giọng của những ông già. Tôi châm thuốc và tiến hành xem xét ngôi nhà. Nó được xây dựng khá chắc chắn bằng gỗ thông. Xét theo bên ngoài, nó gồm phòng khách và hai phòng .
      Tôi thấy cửa ra vào hé mở.
      Tôi toát mồ hôi: hơi nóng, bản hợp ca của lũ ếch và vẻ liêu của ngôi nhà khiến tôi cảm thấy căng thẳng. Nó tạo cho nơi này bầu khí bí rờn rợn.
      Tôi tiến lại gần và gõ cửa. thấy động tĩnh gì. Sau khi gõ cửa lần thứ hai và chờ đợi lát, tôi đẩy cửa. Tiếng ken két của những bản lề hen rỉ khiến tôi nhảy lùi lại.
      Tôi căng mắt nhìn vào bóng tối ngự trị trong căn phòng lớn. Trong phòng đầy những đồ gỗ kềnh càng thường thấy ở những chỗ bán đấu giá mà ngày nay chẳng còn ai mua nữa. Tôi thấy Jackson ngồi lên chiếc bàn lớn. Chắc chắn là Jackson vì ông già râu ria ngồi đó có chân. Trước mặt ông ta là đĩa thức ăn. Tôi nhìn trong đĩa có món gì vì ruồi bâu kín.
      Tôi chợt nhìn thấy con ếch bự ngồi đớp ruồi ở mép bàn. Nó giương cặp mắt xanh lóe sáng nhìn, rồi nhảy về phía tôi. Tôi vội cúi người xuống.
      Con ếch chạm đất rồi biến mất.
      - Ông Jackson…, - tôi vẫn đứng bên ngoài lên tiếng.
      Ông già vẫn ngồi bất động.
      Mắt tôi giờ quen với bóng tối. Tôi bước vào phòng.
      - Ông Jackson…
      Những con ruồi vo ve bay lên, rồi lại đậu xuống đĩa thức ăn.
      Tôi nhìn thấy dòng máu vẫn rỉ chảy mặt Fred và lỗ đạn ở ngay giữa cái trán cáu bẩn của ông già.
      Ông già chết, như đứa con trai của ông nhưng bị giết cách sạch hơn.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 2

      Tôi dừng xe trước cửa đồn cảnh sát và nhìn xung quanh. Bài trí trong đồn quá quen thuộc với tôi. Đó là những cái mà người ta thường thấy trong hầu hết các phim truyền hình: giá súng, những chiếc còng số tám treo móc, hai chiếc bàn văn phòng và ba buồng giam trống vắng.

      Bầu khí trễ nải và buồn tẻ bảng lảng trong đồn như lớp bụi.

      Cảnh sát trưởng Tim Mason, như tấm biển đặt bàn cho thấy, ngồi sau chiếc bàn văn phòng lớn, ngay trứơc mặt tôi như Đức Phật ngồi tòa sen. Tôi có cảm giác như chỉ có chiếc áo kaki cáu bẩn có gắn ngôi sao cảnh sát và chiếc quần mới giữ được lớp mỡ người ông ta phì ra. Chưa bao giờ tôi gặp người đàn ông nào béo đến thế. Hơn nữa, nhìn gương mặt đỏ au, với những mạch máu nổi mồn , đôi mắt vằn đỏ và mồ hôi rỏ ròng ròng mặt, tôi biết rằng chắc ông ta nốc dưới chai.

      chiếc bàn khác là thanh niên có đôi mắt xanh, trông cứ như em sinh đôi của Mickey Rooney vào hồi ngôi sao xinê này còn trẻ. Tấm biển đặt bàn ta cho biết rằng ta là phó cảnh sát Bill Anderson. Mason nhìn tôi bằng con mắt vô hồn. Người phó của ông ta đứng dậy. ta con nhưng cơ bắp xem ra săn chắc lắm.

      - Tôi giúp gì được ông đây?- ta hỏi với nụ cười còn hơi rụt rè.

      Tôi ước ta chỉ khoảng hăm hai hăm ba tuổi. Tôi bước hẳn vào phòng và tiến đến gần Anderson.

      - Tôi tới để báo cho các ông biết rằng Fred Jackson ở Ngõ Cá Sấu bị giết chết. - Tôi .

      chàng phó cảnh sát nhảy lùi lại cứ như tôi vừa thoi cho cú vào cằm.

      - là ai? - Mason lên tiếng.

      Tôi lấy ví, rút thẻ, tiến lại và đặt bàn ông ta.

      Ông ta cầm chiếc thẻ của tôi bằng bàn tay run run, và phải khá lâu mới đọc xong.

      - Mẹ kiếp, lại bốc mùi ruồi nhặng rồi đây. - Ông ta với vẻ bực bội. - Tôi là chúa ghét bọn thám tử các . làm gì ở vùng chúng tôi?

      - Tôi tới để báo cho các ông biết Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, bị giết rồi. - tôi rành rọt.

      Ông ta lại đọc lại những điều ghi thẻ của tôi. ràng là những điều tôi chưa lọt đựơc vào bộ não của ông ta.

      - Tôi là chúa ghét bọn ruồi nhặng các . - Ông ta nhắc lại. - Tôi muốn có các ở đây, chưa. Hãy xéo ngay và đừng bao giờ đặt chân vào cái phòng này nữa, hiểu chưa?

      - Tôi báo cho ông biết rằng Fred Jackson bị giết rồi. - Tôi vẫn kiên trì cao giọng .

      Ông ta đứng dậy như con voi, rồi ì ạch vòng qua bàn.

      - Bill, cậu hãy lo thằng chó này, - Ông ta , - Hãy tống khứ nó và đợi tôi lát.

      Tôi cầm lấy thẻ và đưa đến đặt bàn của Anderson.

      - Lúc nào các cũng làm việc như thế này à? - tôi hỏi.

      Anderson đu đưa chân, đọc thẻ của tôi rồi nhìn tôi lắc đầu.

      - đến đúng lúc, Wallace ạ. Bây giờ là lúc sếp phải uống thuốc. Chưa uống xong ông ấy chẳng hiểu gì hết.

      - Thế có chai nào ở đây hay sao?

      - Ông ấy thích uống mình. Về chuyện , làm báo cáo chưa?

      Khó khăn lắm tôi mới giữ được kiên nhẫn. Tôi tự nhủ: mình có việc với lũ chó chết, lại ở nơi khỉ ho cò gáy như thế này.

      - Fred Jackson, ông già nuôi ếch ấy, bị giết rồi.

      Anderson nhảy bật dậy.

      - Đúng là tôi nghĩ có nghe ông như vậy, nhưng tôi tin. có chắc ?

      - Ông ấy chết rồi. viên đạn găm vào đầu. có vũ khí ở cạnh ông tạ Nghĩa là ông ấy bị ai đó bắn chết.- Tôi vẫn kiên nhẫn giải thích.

      - Chính mắt thấy à?

      - Tôi vừa mới ở nhà ông tạ cần phải tới ngay và chở ông ta tới nhà xác. Nhà ông ta ruồi nhặng kéo đến khiếp lắm.

      Anderson mặt tái mét và lại ngồi xuống.

      - Bị giết! Đây là lần đầu tiên có tội phạm ở đây,- ta lẩm bẩm.

      - bây giờ có rồi đấy. Nó làm cho các phải thay đổi.

      - Lạy Chúa! Tội phạm!

      Tôi bắt đầu cảm thấy thương tạ ta còn quá trẻ để làm phó cảnh sát. Còn quá ít kinh nghiệm, ta chỉ đủ sức giả quyết những vụ trộm cắp, đậu xe chỗ cấm, say rượu, hoặc đôi khi cùng lắm là những vụ cưỡng dâm. Còn tội phạm quả là vượt quá khả năng của ta.

      - Tôi đề nghị trước hết hãy gọi điện cho cảnh sát bang,- tôi bằng mội giọng dịu đị- Họ lo hết cho các .

      Anderson trợn mắt.

      - được! Mason bao giờ chịu làm như thế đâu. Ông ấy là cảnh sát trưởng ở đây hai mươi năm và bao giờ gọi cảnh sát bang hết.

      - Hoặc là ngay bây giờ hoặc là bao giờ. Dầu sao cũng phải gọi, mà phải gọi ngay lập tức.

      Anderson dùng mu bàn tay gãi cằm. Tôi có cảm tưởng như nghe thấy cả tiếng lạo xạo trong bộ Óc vật vã suy nghĩ của ta và càng cảm thấy thương ta hơn. Dẫu sao ta cũng nghiêm chỉnh hơn gã sâu rượu kia. Tôi cũng biết rằng nếu cảnh sát bang tới đây và thấy Mason cái chức cảnh sát trưởng của y bay là cái chắc.

      - Mason về hưu vào cuối năm nay,- Anderson như chính mình.- Ông ấy là tay cừ khôi, nhưng rượu làm hỏng ông ấy. Ở đây ai cũng mến ông ấy. Nhưng nếu cảnh sát bang thấy…

      Lại lần nữa ta gãi cằm và nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng.

      - Tôi báo cho các rằng ở đây xảy ra tội phạm,- tôi ,- Còn các muốn làm gì tùy.

      Anderson lại cầm xem thẻ hành nghề của tôi.

      - làm việc cho đại tá Parnell à?

      - Điều đó ghi thẻ rồi còn gì.

      - hãng cực kỳ đấy.

      - Đúng vậy.

      - Người ta với tôi rằng hãng kiếm điều tra viên. Tôi viết đơn. ( ta lại gãi cằm). Nhưng may là họ kiếm được ai đó rồi. Tôi sẵn sàng trả giá đắt để được làm việc trong hãng của . có cho rằng còn có cơ hội ?

      - Còn chứ. Tất cả đều phụ thuộc vào nhu cầu công việc. Mà đại tá chỉ tuyển những điều tra viên năng động thôi.

      - Lương bổng có khá , hầy?

      - Khá.

      - Thế tuyệt vời nếu tôi được làm việc cho đại tá Parnell. ( ta lại gãi cằm và nhìn tôi. Chắc là theo đuổi những ước mơ đầy tham vọng). Tôi ngán đến tận cổ cái làng khỉ ho cò gáy này lắm rồi.

      - Rồi nó trở thành nổi tiếng,- tôi .- tội phạm bao giờ cũng xuất với hàng tít lớn trang nhất.

      Anderson nhảy phắt dậy, dường như ta quên biến là có tội phạm mà ta cần phải giải quyết.

      - Đúng vậy, thế mà tôi nghĩ ra. Lạy Chúa, tôi phải làm gì bây giờ nhỉ?

      - Phải gọi điện ngay cho cảnh sát bang trước khi Jackson bị giòi bọ làm cho trương ra.

      Anderson tái mặt.

      - thể được. ( ta nhìn tôi vẻ cầu khẩn). Ở địa vị tôi làm gì?

      - Nếu tôi thể gọi cảnh sát bang, tôi cho gọi xe cấp cứu và bác sĩ tới đó để xem điều gì xảy rạ- Tôi .- Mà rốt cuộc có tin lời tôi ?

      ta mừng rỡ trông thấy.

      - Đúng là tôi phải làm như vậy ,- ta và với tay nhấc điện thoại.

      Trong khi ta chuyện, tôi ra cửa đứng nhìn ra đường phố huyên náo. Tôi có cảm tưởng cứ như mình bị đẩy vào cuốn phim hoạt hình, nhưng rồi suy nghĩ lại tôi thấy rằng giúp Anderson, tôi có thể nhận được những thông tin lý thú cho bản báo cáo trình đại tá của tôi.

      Sau khi đặt máy, Anderson ra cửa đứng với tôi.

      - Xe cấp cứu tới cùng bác sĩ Steed. Ông ấy là bác sĩ pháp y của chúng tôi. ( ta nhìn tôi vẻ lúng túng). Ông ấy già rồi, nhưng theo cảnh sát trưởng, đó là người quan trọng nhất ở làng này đấy. chắc là thạo về những vụ hình lắm nhỉ?

      ta ràng tính rằng tôi trả lời khẳng định và tôi làm ta phải thất vọng.

      - Chúng tôi làm đủ thứ: tội phạm, tống tiền, bắt cóc… thôi chả thiếu thứ gì. Tôi cũng được tham gia nhiều.

      ta tỏ vẻ thỏa mãn lắm.

      - Tôi rất muốn biết có chấp nhận tới đó với chúng tôi ? có thể phát những chi tiết mà chúng tôi có thể bỏ qua.

      - được đâu. Tôi chắc là ông Mason đồng ý. Ông ấy vốn ghét cay ghét đắng cánh thám tử chúng tôi mà. Tôi muốn kiếm chuyện với ông ấy.

      - đừng lọ Ngay khi có tý cay, ông ấy con người khác. Tôi đùa đâu. Mọi chuyện là do tới đúng lúc đấy thôi. Ông ấy rất mừng nếu được giúp đỡ.

      - Vậy trước hết, hãy hỏi ông ấy xem . Ông ấy phải tẩy trần trong bao lâu?

      - Ông ấy thể quay về đây trước hai giờ, nhưng khỏi cần phải hỏi ông tạ Khi gặp lại ông ta nhận ra đâu. Khi uống xong ly uytski Êcốt thường lệ, Mason là người dễ thương nhất làng này đấy.

      Đúng lúc đó chiếc xe cấp cứu cũ rích tới đỗ trước cửa. Có hai người da đen mặc áo blu trắng và ông già dễ ngoài tám mươi râu tóc bạc trắng. Ông già khập khiễng xuống xe và nhìn chúng tôi. Gương mặt ông nhăn nheo như quả táo héo.

      - Đây là bác sĩ Steed,- Anderson giới thiệu với tôi và bước xuống chào ông già.

      Tôi đứng đợi để Anderson giải thích mọi chuyện với ông già. Steed nhìn tôi với đôi mắt còn sáng và rất tinh .

      Tôi bước xuống và bắt bàn tay ông chìa sẵn.

      - Tội nghiệp ông già Fred Jackson!- Ông bằng giọng và rè. kinh khủng! Bị giết hả? Bill với tôi về , bạn trẻ ạ. Chúng tôi rất mừng nếu được giúp đỡ. Thường chúng tôi phải gọi cảnh sát bang, nhưng chúng tôi muốn tự giải quyết những vụ việc trong làng để cho người ngoài thọc mũi vào. Chúng tôi cần đến kinh nghiệm của .

      - Tôi sẵn sàng hợp tác, nhưng tôi nghĩ nên báo cho cảnh sát bang. Đây là vụ giết người cơ mà.

      Ông già nhìn tôi cười tinh quái.

      - Người quyết định chuyện này là tôi, bạn trẻ ạ. Ông già Fred còn mục tiêu sống nữa. Có thể vì thế ông ấy quyết định tự kết liễu đời mình.

      - Nhưng có vũ khí ở đó.

      - Để rồi chúng ta xem!

      Steed khập khiễng tới xe cấp cứu và leo lên.

      Tất cả dân Searle có mặt đường phố đều đứng há hốc mồm nhìn chúng tôi. Thấy xe cấp cứu đậu trước đồn cảnh sát, lại có cả bác sĩ pháp y và người lạ mặt nữa là điều mới lạ đối với họ.

      - Chúng ta lên xe thôi,- Anderson đề nghị.

      Tôi cùng với ta leo lên chiếc Chevrolet cũ rích và theo sau chiếc xe cấp cứu rẽ lên đường cái lớn.

      - Jackson còn họ hàng thân thích ?- Tôi hỏi.

      - Có thằng cháu nội, nhưng ai biết nó ở đâu. Theo như tôi biết còn ai khác.

      - Jackson có báo cho các biết về chuyện thằng bé mất tích ?

      - Có. Vào khoảng hai tháng trước. Ông ta nhắn qua viên bưu tá rằng ông muốn gặp Mason. Cảnh sát trưởng có lên gặp ông ta, nhưng khi quay về với tôi rằng cái lão ấy chỉ gây những chuyện đâu. Thằng bé chắc ngán sống với Fred nên bỏ , thế thôi. Mason còn rằng chuyện đó đáng làm bận tâm cảnh sát bang. Họ có khối kẻ mất tích cần phải tìm kiếm rồi.

      - rằng Fred báo cho cảnh sát qua người bưu tá. Vậy ra Fred vẫn nhận được thư từ à?

      - Chắc là như vậy. Chính xác tôi biết. ( quay sang nhìn tôi). nghĩ chuyện đó là quan trọng ư? Ý tôi muốn là việc Fred nhận thư có thể cho đầu mối gì ?

      - Có thể. Tôi đơn giản chỉ lấy làm lạ là ông già sống biệt lập như vậy mà vẫn nhận được thư từ.

      - Để rồi tôi hỏi Josh, viên bưu tá của chúng tôi xem.

      - Đúng, thư thả rồi cứ hỏi xem. Chẳng đâu mà vội.

      Lúc này chúng tôi cho xe chạy theo con đường hẹp dẫn tới nhà Fred. Chiếc xe cấp cứu làm tung bụi mù mịt và Anderson lại bám quá sát.

      Khi xe cấp cứu dừng lại trước ngôi nhà, hai người da đen lấy xuống chiếc cáng rồi mang vào nhà. Tôi cũng xuống xe và tới cửa vào ngôi nhà.

      Bác sĩ Steed đứng trước thi thể của Fred Jackson. Ruồi bay vo ve xung quanh chiếc mũ của ông. Mùi tanh nồng nặc khiến người tôi nôn nao.

      - Hãy nhìn , bạn trẻ,- Ông ta và chỉ chiếc gói ở cạnh chân ghế mà Fred ngồi. Chắc là bỏ sót chi tiết này.

      đất, và bị chiếc ghế che khuất phần là khẩu súng ngắn, kiểu Beretta cỡ 22.

      - Hoàn toàn đúng như tôi nghĩ,- Steed tiếp với vẻ thỏa mãn khuôn mặt già nuạ- Ông già tội nghiệp tự sát. vụ giết người ư? (Ông ta cười mỉa). bạn trẻ ạ, cần phải quan sát tinh tường hơn. Đây đúng là vụ tự sát. Điều này hiển nhiên như chiếc mũi ở mặt tôi vậy.

      Khi được nghe từ miệng công dân có uy tín nhất Searle này, người mà tôi chia sẻ ý kiến cho rằng đây có thể là vụ giết người, rằng tôi chỉ là kẻ quan sát hời hợt, chẳng có nghiệp vụ gì, tôi chỉ còn biết đứng yên đáp. Nhưng trong thâm tâm tôi biết chắc chắn rằng khẩu súng hề có ở đó khi tôi ra khỏi ngôi nhà để báo cảnh sát. Tôi hoàn toàn tin chắc như vậy.

      ***

      Trong khi Anderson và tôi theo chiếc xe cấp cứu chở thi hài Fred tới nhà xác, Anderson với tôi bằng giọng trách móc.

      - Tôi xin lỗi, nhưng tôi lấy làm lạ là tại sao lại phát thấy khẩu súng đó? Thế mà tôi cũng tin đây là vụ giết người.

      - Đừng vội nản chí,- tôi và lấy bao thuốc.- Vẫn còn có thể đấy.

      Tôi châm thuốc và nhìn qua đám mây bụi.

      - Bác sĩ Steed chả đây là vụ tự sát mười mươi rồi là gì.

      - Đó là ông ta .

      Anderson lại bắt đầu gãi cằm.

      - Thế tin ông ấy à?

      - Mọi chuyện đều có thể xảy ra ở cái thế giới kỳ cục này. Ông già Fred ăn trưa. Ông ta lại bỗng ngừng ăn và quyết định tự sát ự vậy, sau khi bắn viên đạn vào đầu rồi lại còn giấu súng . Sau khi tôi phát thấy ông ta chết, Fred lại còn lấy khẩu súng ra khỏi chỗ giấu và đặt nó xuống dưới ghế. Rồi sau đó mới bắt đầu chết lại. Đấy, như tôi với , tất cả đều có thể xảy ra trong cái thế giới kỳ cục này.

      Anderson lặng lẽ lái gì, sau đó mới nhận xét.

      - đùa đấy chứ, Wallace?

      - Khẩu súng có ở đó, khi tôi phát ra ông Jackson. Theo tôi đây chỉ là trò “lá nho”.

      - Trò lá nho ư? Tôi hiểu.

      - Mình hỏi , có đúng là cậu muốn làm việc chỗ đại tá Parnell ?

      - Sao lại .- ta cao giọng.- Tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả những thứ tôi có đời này để được rời Searle và được làm việc ở chỗ đại tá Parnell.

      - Thôi được rồi. Nếu cậu giúp tôi, tôi cũng giúp cậu,- tôi và vẩy tàn thuốc ra ngoài cửa sổ.- giới thiệu nhiệt thành của tôi cũng có trọng lượng lắm đấy. Đại tá bao giờ cũng tìm kiếm những người thông minh, có tinh thần hợp tác và từng ở ngành cảnh sát.

      - có thể tin cậy ở tôi, Wallace ạ,- Anderson nhiệt tình .- Chỉ cần cho tôi biết muốn gì? hoàn toàn có thể tin cậy ở tôi.

      - Rất tuyệt. Tôi vừa mới với cậu rằng ở đây có trò lá nhọ Chả là ở chỗ đại tá Parnell chúng tôi có hệ thống tiếng lóng riêng mà. Khi chúng tôi dùng thuật ngữ này, có nghĩa là muốn rằng có chuyện che giấu . Adam chẳng ăn vụng quả táo và che đậy cái của quý của mình bằng chiếc lá nho là gì. Cậu hiểu rồi chứ? Lá nho có nghĩa là che giấu.

      - Thế nghĩ là có ai đó giết Jackson à?

      - Tôi tin chắc như vậy. Đây là vụ án mạng, Bill ạ. Đừng có nhầm lẫn. Chuyện có thể xảy ra như thế này: Tên sát nhân vẫn còn lẩn quất đâu đó khi tôi bước vào nhà. Sau khi tôi ra, quay trở vào và đặt khẩu súng xuống gầm ghế. Mình tin chắc tuyệt đối là đúng như vậy, nhưng đó là điều có thể. giả thuyết khác, hợp lý hơn, là chính bác sĩ Steed đặt khẩu súng vào chỗ đó. Ông ta thừa biết rằng nếu Jackson bị giết, phải gọi cảnh sát bang và khi đó Mason mất chức. Tôi nghĩ rất có thể là khi cậu thông báo cho ông ta qua điện thoại rằng Jackson bị giết, ông ta tìm khẩu súng, rồi tới nơi trước chúng ta và đặt khẩu súng vào chỗ đó để cho Mason lá nho.

      - Chưa bao giờ bác sĩ Steed lại làm việc tương tự như vậy!- Anderson hoảng hốt .

      - Hãy nghe mình đây, Bill. Cậu còn trẻ, những chuyện như vậy rồi tới với cậu. Những người bạn già vốn rất trung thành với nhau. Tại sao Steed lại phải bận tâm về cái chết của lão già tồi tệ như Jackson, trong khi nó có nguy cơ làm tổn hại đến người bạn thân thiết của mình? vụ tự sát tránh được chuyện cảnh sát bang nhúng mũi vào. Vả lại, vụ giết người liên quan đến cảnh sát, chứ dính líu gì đến tôi. Tôi chỉ có nhiệm vụ tìm thằng cháu nội của Jackson. Ông ta trả tiền cho hãng để làm việc đó. Nhưng đừng bao giờ quên rằng nếu cậu thực muốn làm việc ở chỗ bọn mình, mình hy vọng có cộng tác của cậu.

      - Trời ơi, chuyện vặt ấy mà. có thể tin vào cộng tác của tôi.

      - Nếu vậy, cậu chỉ có việc phải làm là ngậm chặt miệng lại và mở to mắt và tai ra, nghe chưa?- tôi và nhìn vẻ mặt băn khoăn của bạn trẻ.- Mình báo trước cho cậu rồi đấy. được gì hết, cứ để bác sĩ Steed muốn làm gì làm.

      Nửa giờ sau tất cả chúng tôi ngồi xung quanh bàn của Mason: bác sĩ Steed, Anderson và tôi. Nhìn gương mặt bóng nhẫy và ân cần của Mason, tôi trộm nghĩ rằng tác dụng của thứ uytski Êcốt là thần kỳ. Mason người vẫn ướt đẫm mồ hôi, nhưng bây giờ trông ông giống như ông già Noel hạnh phúc. Sau khi nghe Steed kể xong, ông quay sang tôi với nụ cười rất tươi.

      - Chúng tôi ở đây có chuyện rắc rối ,- Ông .- Hãy cho phép tôi được với rằng tôi có nghe về đại tá Parnell. Tôi rất tự hào được gặp trong số các thám tử của ông. (Ông nghiêng người về phía trước và vỗ vào cánh tay tôi). hãng tuyệt vời! Với các thám tử tuyệt vời!

      - Cám ơn,- tôi .

      - sai lầm , phải vậy ? (Ông ta nheo đôi mắt ti hí như mắt lợn và cười khẽ). Ngay cả khi người ta tinh thông nghề nghiệp của mình, vẫn có thể phạm những sai lầm cơ mà. Có phải vậy ?

      - Đúng vậy,- tôi , mặt lạnh băng.

      - Đó là chuyện thường tình mà,- bác sĩ Steed lắc đầu buồn bã .- Tôi chẳng hề ngạc nhiên chút nào, Tim ạ. Lão già tội nghiệp sống trong những hoàn cảnh rất tồi tệ. Mất cháu, phải sống mình. Các thấy đấy, cứ nghĩ tới chuyện đó chết là điều may mắn. Tôi phán xét ông ấy. Sống mà có đôi chân, ai chăm sóc. … chết được là phúc lắm.

      - Đúng vậy. (Mason bỏ mũ ra, lau mồ hôi trán rồi lại đội lên vẻ buồn bã). Bắt cảnh sát bang phải bận tâm về cái vụ buồn bã này chẳng ích lợi gì.

      - Hẳn nhiên rồi. Các vụ tự sát bắt buộc cảnh sát bang phải có mặt,- bác sĩ Steed như đinh đóng cột.

      Mason cười rất to và xoa xoa tay.

      - Tuyệt lắm, tôi rất ghét những thằng cha đó. Khi nào tiến hành điều tra, Lary?

      - Hai hôm nữa. Tôi kết thúc nhanh vụ này thôi. Có lẽ phải dùng quỹ của làng để lo an táng cho Fred, Tim ạ. Ông ta chắc là chẳng có xu nào đâu. Chuyện này chúng ta có thể lo được. Chắc dân làng cũng sẵn lòng tổ chức đám tang cho ông ấy cách tử tế.

      - đúng. Đó là cha người hùng kia mà. Hãy xin ý kiến hội đồng, Lary ạ. (Mason lấy ví và rút ra tờ năm đôla nhàu nát). Đây là đóng góp của cá nhân tôi. Mọi chuyện cứ thế mà làm. Phải tổ chức đám tang long trọng.

      Bác sĩ Steed đứng dậy và nhét tờ giấy bạc vào túi.

      - Tôi luôn luôn rằng vốn là người tốt bụng mà. Thôi, tôi đây. Tôi lo việc an táng. (Rồi ông quay sang phía tôi). Rất hân hạnh được làm quen với , Wallace ạ. Rất tiếc là ghé qua chỗ chúng tôi lại đúng vào lúc có chuyện buồn như thế này. Fred Jackson là con người tuyệt vời. Cả con trai ông ấy cũng thế. Ở cái làng bé này tất cả chúng tôi đều rất tự hào về họ.

      Tôi đứng dậy, bắt tay Steed rồi nhìn ông ta khập khiễng ra cửa. Chợt ông ta dừng lại cười với tôi cách tinh quái, rồi bước ra đường phố nắng chói chang.

      - Thế còn , Wallacẻ- mason và mỉm cười với tôi.- Tôi nghĩ là cũng thôi chứ. có muốn uống ly trước khi chúng ta chia tay ? (Ông ta lấy từ tủ bàn ra chai uytski Êcốt) - Lúc này ,- tôi và nhìn thẳng vào mắt Mason.- Tôi còn ở đây vài ngày nữa. Ông biết đấy, Jackson cầu hãng chúng tôi tìm đứa cháu nội ông ấy. Và lại trả tiền rồi. Thành ra, mặc dù ông ấy chết nhưng vẫn còn là thân chủ của chúng tôi.

      Đôi mắt Mason tối sầm lại. Vẻ tươi tắn của ông ta hoàn toàn biến mất.

      - Tìm thằng bé đó ở đây chỉ tốn thời gian vô ích thôi. Nó rời khỏi đây ít ra cũng năm sáu năm rồi còn gì.

      - Dù sao tôi cũng phải tìm thử xem,- tôi và vẫn nhìn thẳng vào mắt ông tạ- Ông cho là bất tiện nếu tôi dò hỏi số người trong vùng này chứ? Hay ông muốn chuyện với đại tá Parnell? Theo như tôi hiểu ông báo cho cảnh sát bang về biến mất của thằng bé. Đại tá Parnell biết đâu có thể lại muốn chuyện với họ về chuyện đó.

      Mason nhăn mặt như bị cơn đau răng kịch phát. Ông ta lấy ra chiếc ly và rót cách hào phóng.

      - Tôi phản đối về chuyện hỏi người này người nọ. Nhưng chỉ mất thời gian vô ích thôi, Wallace ạ.

      - Tôi được trả tiền để tiêu phí thời gian của tôi mà.- Tôi đáp, mắt nhìn Anderson, người vẫn ngồi im lặng như con mèo được dạy dỗ tốt.

      Đoạn, tôi bước ra đường phố.

      Trước khi tiếp tục điều tra, tôi quyết định phải báo cáo với đại tá. Tôi tới chỗ đậu xe trước những con mắt đầy tò mò của người dân ở đây. Tôi cho xe dông thẳng về Paradise City.

      ***

      Trong số vô vàn những điều khác , cha tôi dạy cho tôi cách viết báo cáo cách đọng, bỏ qua chi tiết quan trọng nào, nhưng tước hết những nhận xét dài dòng vô ích.

      Đại tá Parnell ngồi bất động chiếc ghế giám đốc, mắt lim dim và bàn tay to lớn đặt cái thấm mực màu trắng. Ông lắng nghe tôi báo cáo về kết quả điều tra của tôi ở Searle, mà lần ngắt lời. Chiếc đồng hồ trong phòng chỉ mười tám giờ. Theo thông lệ đại tá rời văn phòng đúng mười bảy giờ rưỡi. Ông vốn là người hâm mộ môn đánh golf và tôi vô cùng sung sướng vì thấy bản báo cáo của tôi được ông quan tâm tới mức phải bỏ ván chơi thường lệ buổi tối của ông.

      - Tình hình nay là như vậy,- tôi kết luận và biết rằng mình liền mạch trong suốt nửa giờ.

      Đại tá nhìn thẳng vào mắt tôi.

      - Cháu làm báo cáo rất tuyệt, Dirk ạ. Fred vẫn còn là thân chủ của chúng tạ Ông ấy trả tiền cho chúng ta để tìm đứa cháu nội cho ông ấy. Nhưng việc Jackson bị giết làm cho tình hình trở nên phức tạp.

      - Điều tra của cảnh sát kết luận là tự sát,- tôi .- Và ai có thể buộc tội chúng ta là có dây dưa vào vụ giết người này.

      Đại tá gật đầu, cầm lấy cây bút chì và ngắm nghía nó với vẻ trầm tư, rồi nhìn tôi.

      - Bác còn phân vân biết có nên giao cho Chick thay cháu làm nốt vụ này hay . Dù sao ta cũng có nhiều kinh nghiệm hơn cháu. Vụ này có nguy cơ rất phức tạp đấy.

      Tôi cố che giấu vẻ thất vọng của mình.

      - Tùy bác xem xét thôi.

      Đại tá đột ngột mỉm cười.

      - Cho tới lúc này, cháu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng nếu cháu phạm sai lầm nào đó, Chick là người thay cháu.

      - Cám ơn bác.

      - Để xem hãng có thể làm gì để giúp đỡ cháu. Cháu có đề nghị gì ?

      - Trước hết, cháu muốn có thể với Anderson rằng bác lưu ý tới nguyện vọng của cậu ta và có thể bố trí cho cậu ấy chỗ làm. Cậu ta chết vì thèm muốn điều đó. Điều này rất quan trọng đối với cháu. Cháu phải hết sức thận trọng khi đào bới ở Searlẹ Đó là cái ổ nhộn nhạo. Nhưng nếu Anderson được khuyến khích tốt, cậu ta có thể giúp cháu làm việc cách êm thấm.

      - Thôi được. Cháu có thể với nó là ngay khi có chỗ trống, bác đồng ý tiếp nó. Nếu nó thực hữu ích cho cháu, với nó rằng bác chắc chắn nhận nó.

      - Cháu đúng như thế. Việc thứ hai là cháu cần phải biết nay Syd Watkins là người như thế nào. Người ta với cháu rằng xuất ngũ, nhưng ai biết bây giờ ra sao. trở về Searlẹ Cháu nghĩ rằng việc tìm ra là rất quan trọng.

      - Bác cho người tìm hiểu sổ sách đăng ký của quân đội, nếu cần của cả FBI nữa, để xem chúng ta biết được gì.

      - Cháu cũng muốn biết Mitch Jackson cưới vợ chưa, và nếu có là khi nào và với ai?

      - Bác tìm hiểu điều này cho cháu.

      - Bác với cháu rằng Mitch là người lính mẫu mực nhất mà bác từng có dưới quyền. Nhưng theo những người ở Searle đó là thằng du thủ du thực, độc ác, nguy hiểm và hay gây gổ.

      Parnell nhíu mày. Nét mặt ông sắt lại và điệu bộ của ông nguyên hình là đại tá về hưu.

      - vớ vẩn! Mitch là hạ sĩ quan tốt nhất của bác. Chưa có ai trong đơn vị phàn nàn về tư cách của tạ Mọi người đều rất mến tạ Mitch xông xáo và rất dũng cảm. Mà ai lại trao huân Chương Danh dự cho kẻ xứng đáng cả.

      - Tất nhiên rồi. Có thể là dân Searle có sẵn định kiến thôi. Con người ta có thể thay đổi chứ ạ.

      - Đúng thế. Chiến tranh làm cho con người biến đổi.- Parnell .- Theo bác Mitch là người lính tuyệt vời.

      Trong thâm tâm tôi nghĩ rằng tốt nhất là hãy giữ những gì biết về Mitch chỉ riêng cho mình. Những người dân ở Searle biết những điều mà họ , nhưng đại tá chỉ có những thiên kiến. hạ sĩ quan tham mưu nhanh nhẹn rất có khả năng làm vừa lòng thượng cấp của mình, nhưng tôi muốn điều này với đại tá.

      - Đó là tất cả những gì cháu muốn trình bày với bác vào lúc này,- tôi .- Cháu trở lại Searle và thuê phòng ở khách sạn của làng. Nhiệm vụ của cháu là phải tìm cho ra cháu nội của Jackson. Nếu phát ra manh mối của vụ giết Jackson, cháu báo ngay cho bác.

      - Đồng ý. Hãy nhớ rằng chúng ta điều tra về vụ giết người. (Ông nhìn tôi vẻ nghĩ ngợi). Chừng nào còn chưa có bằng chứng xác thực là Jackson bị giết, cứ tiếp tục tìm kiếm.

      - Vâng.

      - Cháu được thanh toán mọi chi phí. Để bác với Glendạ Bác rất muốn tìm ra thằng bé đó.

      - Vâng.

      Đại tá gật đầu rồi đứng dậy.

      - Thế là lỡ ván golf rồi. Cháu có biết chơi golf , Dirk?

      - Cháu thi thoảng cũng có chơi. Nhưng bây giờ đắt đỏ quá.

      - Cháu thường được bao nhiêu điểm?

      - Kỷ lục của cháu là sáu mươi tám.

      - thế ? (Parnell cười). Thế lúc nào đó chúng ta phải chơi ván mới được.

      Tôi trở về phòng của mình đúng lúc Chick xếp lại hồ sơ.

      - Thế nào?- Chick hỏi.- Mà thôi, ta uống chút gì .

      Trong quán bar gần đó tôi kể cho Chick tất cả những điều tôi với đại tá. ta vừa uống cả chai uytski Êcốt vừa nghe tôi .

      - vụ ngon lành đấy, Dirk ạ. Cậu bài toán tuyệt vời đấy.

      - Có nguy cơ rơi vào tay cậu, nếu như mình thu được kết quả.

      Chick cười.

      - Rồi cậu nhận được thôi. Mình cũng chẳng muốn bị đày vào cái nơi khỉ ho cò gáy ấy.

      - Mình rất băn khoăn về cái tay Mitch ấy. Đại tá khen hết lời, nhưng theo những lời mà mình nghe được Jackson là thằng du đãng. Mình rất muốn kiểm tra lại điều đó.

      Chick tròn mắt nhìn tôi kinh ngạc.

      - Nghe mình đây, Dirk. Mitch là con người tuyệt vời. người làm được những việc như

      - Thôi được, hãy tạm bỏ qua sùng bái người hùng ấy . Jackson có thể là người hùng đối với các sĩ quan như các cậu. Nhưng mình muốn kiểm tra thông qua trò chuyện với những người dưới quyền kìa. Tức là những gã binh nhì cợ Nếu họ tuyệt vời đúng là tuyệt vời. Mình cũng từng quân dịch, mình biết bọn hạ sĩ quan rất ngoan đối với cấp nhưng lại rất tàn nhẫn đối với cấp dưới của mình. Mình thấy lạ là mọi người ở Searle đều thở phào nhõm vì thoát được . Phải thừa nhận rằng chiến tranh làm biến đổi con người, nhưng theo những điều mình nghe được Jackson là thằng vô lại. Do vậy mà mình muốn thẩm tra lại.

      Chick tu ngụm rồi châm thuốc hút.

      - Mình sẵn sàng đánh cuộc tới cái sơ mi cuối cùng rằng Mitch là người tuyệt vời. Nhưng cậu có lý. Với bọn mình chê vào đâu được, mọi nhiệm vụ được giao đều hoàn thành xuất sắc. Và người ta thực có thể tin tưởng ở .

      - Bọn sĩ quan các có bao giờ tán gẫu với lính để biết họ có hài lòng về Mitch như các cậu ?

      - Phỏng có ích gì! Bọn mình trong trung đoàn đều rất hòa thuận. Mitch quản lính của , còn bọn mình chỉ ra lệnh và mọi chuyện đều êm chèo mát mái cả.

      - Mình cần phải biết chính xác. Mình muốn chuyện với người lính trơn thuộc quyền Mitch. Cậu có biết ai dễ liên lạc được ?

      Chick ngẫm nghĩ lát rồi gật đầu.

      - Hank Smith, người da đen. ta làm việc tại Sở cầu đường ở Miamị Tình cờ mình mới gặp lại ta tháng trước. Mình nhận ra, nhưng ta lại nhớ mình. ta cứ khăng khăng đòi uống với mình ly để nhớ lại những ngày xa xưa. Hồi ở trung đoàn ta là người lính tốt. Bây giờ nghĩ lại, mình nhớ là khi với ta về Mitch và việc truy tặng huân Chương, ta tỏ ra nhiệt tình lắm. ta chỉ gật đầu và rằng đó là vinh dự của trung đoàn, nhưng lảng ngay sang vấn đề khác. (Chick gãi đầu). Xét cho cùng mình cũng biết sao nữa. Có thể cậu đúng cũng nên. Đại tá chắc đồng ý, nhưng cậu có thể chuyện với Smith. Cậu có thể tìm ta ở phố West. ta có ngôi nhà ở ngay góc phố.

      Hơn giờ sau tôi dong xe vào khu phố West của người da đen ở Miamị Lúc này hơn chín giờ tối. Cũng may là lúc ngồi nhâm nhi với Chick tôi xơi chiếc bánh nhồi thịt. Chắc giờ này Chick vui thú với bé nào đó rồi. Trong căn hộ hai buồng của mình tôi xếp sẵn vali để chuẩn bị tới Searle sau khi gặp Hank Smith.

      Trời nóng và ẩm. Hai bên phố West là những ngôi nhà tồi tàn. Những người da đen ra ngồi ở hàng hiên và bọn trẻ vui đùa đường phố. Rất nhiều ánh mắt tập trung nhìn tôi, khi tôi đậu xe trước ngôi nhà ở góc phố bên phải.

      Ngồi trong chiếc ghế phôtơi đu đưa là phụ nữ to béo, đầu trùm chiếc khăn đỏ chói, chiếc váy thêu hoa lá bạc màu vì giặt quá nhiều lần, mắt nhìn lơ đãng đâu đâu. Đôi mắt đen ti hí của bà quan sát tôi, khi tôi xuống xe, mở cửa vườn, rồi theo bậc tam cấp lên hàng hiên. Tôi cũng cảm thấy những con mắt theo dõi tôi từ các hàng hiên khác.

      - Bà là bà Smith?- tôi hỏi và dừng lại trước người đàn bà.

      Ở gần tôi mới thấy bà ta trạc khoảng ngoài năm mươi. Gương mặt đen to tròn đầy vẻ kiên quyết và nghị lực vốn có ở những người phụ nữ phải vật lộn để kiếm sống và bao giờ chịu chấp nhận nghiệt ngã là họ bao giờ có thể giàu có được.

      Bà ta gật đầu chào tôi vẻ ngờ vực.

      - Chính tôi đây.

      - Xin hỏi ông Smith có nhà ạ?

      - Ông gặp nhà tôi có việc gì? Nếu ông định bán hàng phế phẩm vô ích thôi. Tôi mới là người giữ hầu bao, mà cũng chẳng còn xu nào đâu.

      người đàn ông da đen cao lớn và lực lưỡng như lực sĩ xuất ngưỡng cửa. Ông mặc chiếc sơ mi trắng sạch và quần bò. Mái tóc xoăn của ông cắt ngắn và đốm bạc. Cái nhìn của đôi mắt đen vằn máu có vẻ kín đáo, nhưng khi ông cười phô cả hàm răng trắng bóng, tôi mới thấy ông là người dễ mến.

      - muốn gì?- Ông nghiêm giọng hỏi.

      - Bác là Smith?

      - Đúng, tôi đây.

      - Bác Smith, tôi hy vọng làm phiền bác. Chick Barley có cho tôi biết bác rất vui lòng làm quen với tôi.

      Smith cười niềm nở.

      - Barley là con người tuyệt vời. Tôi rất vui được làm quen với bạn bè của ấy.

      Ông bước lại bắt tay tôi.

      - Tôi là Dirk Wallace,- tôi .- Tôi làm việc cho đại tá Parnell.

      Smith cười còn to hơn.

      - Lại con người tuyệt vời nữa. Vào đây, Wallacẹ Láng giềng của chúng tôi hay thọc mạch lắm. Ta phải uống với nhau ly.

      - Hank,- bà vợ Smith gọi giật lại.- Đừng có mà quá chén đấy.

      - Yên tâm , Hannah,- Ông và mỉm cười với vợ.- ly với bạn hiền đâu có hề hấn gì.

      Đoạn, ông dẫn tôi vào phòng . Đồ đạc đơn giản, nhưng tiện nghị Chỉ có hai chiếc ghế phôtơi, chiếc bàn bằng gỗ trắng và ba cái ghế .

      - Ngồi xuống , Wallacẹ- Ông và chỉ cho tôi chiếc ghế phôtơi.- làm chút uytski Êcốt nhé!

      - Rất sẵn lòng.

      Khi ông bước ra ngoài lấy đồ uống, tôi quan sát căn phòng. Có mấy bức ảnh chụp Smith mặc quân phục, bức ảnh cưới và ảnh mấy đứa trông rất khôi ngộ Smith bưng vào hai ly uytski Êcốt đầy có bỏ đá.

      - Barley có khỏe ?- Ông hỏi và đưa ly cho tôi.- Lâu lắm rồi mới gặp ấy.

      - ấy vẫn khỏe,- tôi .- ấy gửi lời chào bác.

      Smith cười rồi ngồi xuống.

      - biết đấy, chả giấu gì , bọn lính tráng chúng tôi vốn chẳng ưa gì cánh quân cảnh. Nhưng Barley khác. ấy thường nhắm mắt cho qua những vi phạm của bọn tôi. Ai cũng mến ấy.

      Ông nâng cốc và chúng tôi cùng uống. Uytski Êcốt làm cháy họng tôi. Smith nhìn tôi cười.

      - Hơi nặng, hầy?- Ông hỏi khi thấy nước mắt tôi dàn dụa.- Cánh lính già chúng tôi ưa uống sec.

      Tôi đặt ly xuống bàn.

      - Tôi biết. (Tôi cố gượng cười). Tôi chưa từng tới Việt nam. Chiến tranh chấm dứt trước khi bọn tôi huấn luyện xong.

      - Thế là các may đấy. Việt nam đâu có phải là cuộc chơi.

      Tôi lấy ra bao thuốc và đưa cho ông. Chúng tôi mỗi người châm điếu.

      - Bác Smith này…

      Smith lại cười rất tươi.

      - Cứ gọi tôi là Hank thôi. Tôi nghĩ cũng là sĩ quan mà, phải Wallace?

      - Đó là chuyện xưa rồi. Bác cứ gọi tôi là Dirk cũng được.

      - Đồng ý. (Ông uống ngụm, rồi thở dài ). làm cho đại tá à?

      - Vâng. Tôi tới gặp bác vì Chick rằng bác có thể giúp đỡ tôi.

      - thế ử- Ông ngạc nhiên hỏi.- Tôi giúp gì được đây?

      - Mitch Jackson. Bác còn nhớ ta ?

      Nụ cười gương mặt ông tắt ngay.

      - Làm sao mà quên được.- Ông cách lạnh nhạt và hơi chua chát.

      - Tôi lục soát lại quá khứ của ta, bác Hank ạ. Điều này rất quan trọng. Tất cả những điều bác với tôi được giữ kín giữa hai chúng tạ Tôi chỉ muốn biết ý kiến của cá nhân bác về Mitch - Để làm gì?

      - Cha ta mới bị giết hôm quạ Người ta điều trạ Chúng tôi nghĩ rằng Mitch có thể liên quan gì đấy với cái chết của cha ta.

      - muốn tôi chứ?

      - Vâng. Tôi xin đảm bảo với bác là những gì bác với tôi được giữ kín trong bốn bức tường này. Tôi xin hứa với bác như vậy.

      Smith đung đưa chân suy nghĩ.

      - Thực lòng tôi muốn xấu về những người chết.- Cuối cùng ông cũng lên tiếng.- Nhất là lại về người hùng được tặng thưởng huân Chương Danh dự.

      Tôi nhấp hớp uytskị Nó vẫn cháy họng, nhưng tôi cũng hơi quen.

      - Mọi người nghĩ gì về Mitch? Và bác nữa, bác nghĩ sao về ta?

      Hank lưỡng lự lát, rồi nhún vai.

      - lũ con cưng. Điều khó chịu là ở chỗ đó. có thể chưa biết, chứ khi thằng cha hạ sĩ quan của ban tham mưu có những đứa con cưng và thả sức dẫm nát người khác dưới gót giày của mình chẳng hay ho gì. Jackson là thằng cha như vậy. Đối với số người được coi như cha đẻ, nhưng với những người khác tên đểu giả.

      - Thế với bác, đối xử thế nào?

      - hành tôi chẳng thiếu thứ gì. Cứ mỗi lần có việc khó nhọc là lại sai tôi. Nhưng tôi phải là người duy nhất chịu những cực hình của . Hơn nửa tiểu đoàn khốn khổ vì , trong khi những thằng khác tha hồ mà nhảy múa.

      - Chắc là phải có lý do gì chứ.

      - Tất nhiên là có rồi. Tất cả cái bọn vào rừng trước khi máy bay ném bom tới là lũ con cưng của . Đó là lý do duy nhất mà cất công gọi họ. Cũng chẳng phải quý mến gì bọn họ đâu, mà bởi vì hàng tuần bọn này cống cho hàng ngàn độ tham lam tới mức thể chịu được cảnh để người ta giết chết những người thường xuyên cống tiền cho . Nếu bọn này là con cưng của , đừng hòng động dạng, dù chỉ ngón taỵ Vậy mà vì thế được tặng thưởng huân Chương.

      - Tôi hiểu, bác Hank ạ. Tại sao bọn này hàng tuần lại phải cống cho hàng ngàn đôla?

      Hank uống hết ly rượu rồi nhìn tôi.

      - Điều này chỉ chúng ta biết thôi đấy chứ? Tôi muốn dây dưa vào bất cứ chuyện gì đâu.

      - Tất nhiên là chỉ giữa chúng ta thôi, bác Hank ạ.

      - Mitch bán ma túy. Mọi người đều biết rằng trong đội quân đánh nhau ở Việt nam, tỷ lệ lính Mỹ nghiện ma túy rất cao. Nhưng tôi phải chờ để người ta cho tôi biết điều đó.

      - Nhưng điều đó phải chịu án rất nặng kia mà. Bác Hank này,- tôi .- Nếu bác biết, sao bác báo cho đại tá Parnell?

      Smith cười chua chát.

      - Bởi vì tôi muốn chết. Tôi phải là người duy nhất biết chuyện đó, nhưng ai dám cả. Để tôi kể cho nghe chuyện này. hạ sĩ quan dưới quyền của Jackson phát ra buôn bán ma túy. ta bảo hãy thôi ngay, nếu ta đưa ra tòa. lần ta cùng tuần tra với Jackson và ta trở về nữa. Jackson rằng ta bị Việt cộng bắn chết. Có hai người từ chối mua ma túy của Jackson. Họ cũng lại bị Việt cộng bắn chết. Khi đó khẩu hiệu là ngậm chặt mồm lại. Mà ra phỏng có ích gì, ngoài việc mua thêm tai vạ. cứ thử hình dung người da đen như tôi tố giác với Parnell hạ sĩ quan mà ông rất quý xem. Thôi tốt nhất là im lặng.

      Bây giờ tôi hiểu rằng những người ở Searle là có lý và đại tá Parnell lầm.

      - Bác có biết bằng cách nào mà Mitch có được ma túy ?

      - . Tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì và bây giờ tôi cũng muốn biết.

      - Chắc là phải hốt bạc.

      - tôi chả với rồi là gì. Ít nhất là ngàn đô mỗi tuần. Mà bọn trẻ cũng dầm tiền. Nhiều đứa bố mẹ giàu gửi tiền cho, số còn lại ăn cắp tất cả những gì chúng kiếm được ở Sài gòn mỗi lần được về nghỉ ở đó tuần.

      - Mitch làm gì với số tiền lớn đó? Làm sao mà tiêu hết được.

      Hank nhún vai.

      - Tôi biết. Mà chỉ có mình Jackson bán ma túy. Có cả đống đứa như . Đơn vị nào mà chả có. Nhưng là đứa duy nhất trong đơn vị chúng tôi. Chúng có thể gom tiền lại đợi khi giải ngũ mang về.

      Tôi nghĩ khả năng này có lẽ đúng.

      - Cái tên Syd Watkins có với bác điều gì ?

      Hank ngẫm nghĩ lúc rồi lắc đầu.

      - . ở đơn vị tôi.

      Đúng lúc đó bà Smith xuất ở cửa.

      - hám ăn lắm à, Hank? Đừng tưởng mỡ mà húp.

      Tôi hiểu ám chỉ của bà bèn đứng dậy.

      - Cám ơn bác Hank nhiều. (Tôi bắt tay ông). Nếu nảy ra ý gì mới cháu có thể tới gặp bác chứ?

      Ông gật đầu.

      - Nhưng với điều kiện phải tuyệt mật.

      Lúc bước ra, tôi mỉm cười thân thiện với bà Smith, nhưng vẻ mặt bà vẫn lạnh băng. Đối với bà cuộc viếng thăm nữa chẳng hay ho gì.

      Tôi bước xuống đường và tới chỗ đỗ xe. Thậm chí trong bóng tối tôi vẫn cảm nhận được có những ánh mắt theo dõi tôi.

      Đúng lúc tôi đặt chân lên xe, gã da đen lực lưỡng, mặc áo sơ mi hở cổ và chiếc quần vải sẫm màu từ bóng tối bước ra. Vóc dáng ta có lẽ Ali cũng phải thèm muốn. ta đặt đôi tay đen to tướng mép cửa và nghiêng xuống tôi. Hơi thở của sặc sụa mùi rượu.

      - Ở cái xó này người ta ưa bọn trắng chúng mày đâu, hiểu chưa?- bằng giọng khẽ nhưng đầy hăm dọa.- Xéo ngay, thằng trắng bẩn thỉu và đừng bao giờ bén mảng đến đây nữa.

      Tôi nổ máy đáp:

      - Cả mày nữa, thằng nhọ, mày cũng xéo .

      Tôi nhấn ga và chiếc xe lao vút . Qua gương hậu, tôi thấy nhảy ra giữa đường giơ cao hai nắm đấm, trông hệt như con khỉ đột sổng chuồng.

      Cuối cùng, tôi cũng có được số thông tin. Tôi biết được rằng Jackson phải là người hùng trắng trong như tuyết, mà là gã bẩn thỉu nhơ nhớp. thằng bán ma túy cho đồng đội đáng giá xụ Bây giờ tôi có cả kho tư liệu để suy nghĩ. Nhưng khi về tới Paradise City, tôi chợt hiểu rằng mình chệch đường.

      Nhiệm vụ của tôi là tìm thằng cháu nội của Fred. Nhưng linh cảm cho tôi biết rằng vụ giết người và việc buôn bán ma túy của Mitch có liên quan tới việc mất tích của thằng bé. Thực ra, đây chỉ là mách bảo của trực giác, nhưng tôi tin ở trực giác của mình: nó giúp tôi rất nhiều hồi tôi còn làm việc cho cha tôi.

      Lúc này quá muộn để Searlẹ Tôi trở về nhà, đậu xe ở tầng hầm và thang máy lên căn hộ tầng năm.

      Khi mở cửa phòng tôi vẫn còn suy nghĩ lan man đủ thứ chuyện nên chẳng để ý gì đến chuyện khó khăn lắm mới mở được khóa. Vào những lúc khác chắc là tôi cảnh giác.

      Khi bước vào phòng khách, bật đèn, tôi chợt phát thấy có mùi lạ mà trước kia tôi chưa từng thấy. Mùi tanh của cơ thể hôi hám khiến tôi cảnh giác.

      Chúng từ phòng tôi bước ra như hai bóng đen, điệu bộ hung hãn, dao lăm lăm trong tay.

      Người láng giềng ở tầng dưới của tôi vẫn bật tivi và oang oang tiếng người phát thanh viên đọc bản tin.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 3

      Nhìn thấy hai gã da đen tôi hoảng hồn. Chúng sóng đôi tiến ra phía cửa phòng tôi. Gã bên phải cao gầy với mái tóc mịn như nhung. mặc chiếc áo gilê bẩn thỉu bằng da dê để lộ bộ ngực xương xẩu. vòng các hạt ngọc rẻ tiền nhảy nhót rốn . Chiếc quần đỏ bó chặt của dây đầy những vết bẩn ở giữa hai đùi. Gã bên trái tóc đen bóng nhẫy, con hơn, nhưng cũng hốc hác như thế. Gã mặc chiếc vét da tả tơi và chiếc quần da đen. Cả hai đều chân trần, với những bàn chân bẩn thỉu và hôi hám.

      Tất cả những thứ đó tôi thấy trong chớp mắt. Chính cái mùi bốc ra từ chúng làm cho tôi bị bất ngờ và cứu sống tôi.

      Cửa ra hành lang vẫn còn để mở.

      Khi hai tên tới gần, tôi thấy mắt chúng đảo như điên và ngất ngư do tác dụng của ma túy.

      Tôi nhảy vội ra hành lang, đóng sập cửa lại và chạy tới thang máy, rất may là lúc đó vẫn dừng ở tầng của tôi. Tôi ấn nút xuống, trong khi hai gã ra sức phá cửa. Cánh cửa thang máy khép lại đúng lúc chúng lao về phía tôi.

      Tôi tựa người vào vách cabin thang máy và thở hổn hển. Lạy Chúa, hú vía!

      Hai thằng hồn đúng là hung hãn và nguy hiểm nhất mà tôi từng gặp.

      Trong khi thang máy xuống chầm chậm, tôi nghe tiếng bước chân của chúng cầu thang. Những bước chân trần nhảy ba bậc lúc của chúng cộng hưởng thành thứ thanh trầm đục. Tôi tính rằng chúng tới tầng trệt trước và đón chộp tôi ở đó.

      Tôi chờ cho chúng chạy vượt qua cabin liền nhấn nút dừng. Khi tới tầng hai, tôi nhấn nút trở lại tầng năm.

      Tha hồ cho chúng bay đuổi, hai thằng khốn, tôi thầm, khi thang máy lại bắt đầu lên. Tôi buồn rầu nghĩ về khẩu 38 li tôi đặt ở tủ hốc tường. Nhưng tôi muốn liều mạng trở về phòng để lấy nó. Rất có thể chúng đuổi kịp trước khi tôi lấy được vũ khí.

      Ở trong cabin thang máy tôi thấy an toàn hơn. Chợt tôi lại nghe thấy những bước chân trần. ra thằng nhọ chạy lên đuổi theo thang máy, còn tên kia đợi tôi ở dưới.

      Nguy hiểm được phân đôi, nhưng viễn cảnh phải đối phó với tên nghiện hung hãn có dao trong tay mấy hấp dẫn đối với tôi.

      Cửa thang máy mở ra ở tầng năm. Tôi có đủ thời gian để thoáng thấy gã có mái tóc chải bóng lộn ló ra từ cầu thang. Tôi ấn nút cho thang máy lên tầng mười ba, tầng cuối cùng.

      Vào đúng thời điểm cửa thang máy đóng lại, gã tóc mượt cũng tới nơi và nhìn tôi với đôi mắt đầy căm thù. cố lách mũi dao vào hai cánh cửa, nhưng muộn mất rồi. Thang máy cứ tiếp tục lên. Tôi lại nghe thấy chạy theo cầu thang. Tôi thèm khát nhìn nút báo động, đó là nút báo chuông khi có ai đó bị kẹt trong thang máy, nhưng lại muốn ấn vào đó. Gác thang máy là ông già mà tôi rất mến. Hai thằng khốn đó xé xác ông già nếu ông can thiệp vào chuyện này.

      Tới tầng mười ba, cánh cửa thang máy mở ra. Tôi đặt sẵn ngón tay vào núm tầng hai, nhưng tôi đợi và nghe thấy gã da đen hổn hển leo lên. Thấy hụt hơi rồi. Đợi cho tới góc hành lang, tôi vẫy tay gọi , rồi ấn nút. Chiếc thang máy bắt đầu xuống. Tôi lại nghe thấy tiếng thằng cha đó lết xuống cầu thang và vui mừng thấy kiệt sức.

      Chỉ còn thằng áo da dê.

      Tôi có người bạn láng giềng ở tầng hai, đối diện với cửa thang máy. Nếu tôi có thể chuồn vào phòng ta, khóa trái cửa lại và gọi cảnh sát, thoát khỏi cơn ác mộng này cách an toàn. Nhưng nhỡ ta có nhà sao? Hoặc nếu ấy mở cửa ngay? Thằng cha áo da dê có nguy cơ chộp kịp tôi trong lúc tôi rối rít ấn chuông.

      Trong khi thang máy từ từ hạ xuống, tôi cởi áo vét và cuốn nó xung quanh cánh tay trái. Cũng là cách bảo vệ bất đắc dĩ đối với cuộc tấn công bằng dao.

      Cửa thang máy lại mở ra ở tầng hai. Tôi nhảy đại đến cửa phòng người bạn.

      Đúng là thằng áo da dê đợi tôi. Tôi chỉ vừa mới giơ tay quấn áo lên và chưa kịp gõ cửa. Nếu có chiếc ví trong túi áo, tôi chắc bị thương rồi.

      Tôi nghiêng người qua bên phải và cú đấm của tôi giáng đúng mặt . hộc lên tiếng , rồi gục xuống như người xương. buông con dao ra và lấy đôi tay bẩn thỉu che mặt.

      Cũng lúc đó tôi nghe thấy tên kia hổn hển xuống. Tôi nhặt vội con dao của thằng áo da dê và lùi lại đúng lúc tên kia vừa tới sàn cầu thang.

      Thằng bạn vẫn rên rỉ. dừng lại quan sát và chợt nhìn thấy tôi.

      Tôi giơ con dao lên.

      - Tiến lại đây, thằng khốn,- tôi .- Tao cho mày tong con ạ.

      Thách thức thằng du đãng ghiền ma túy, chung là việc làm thiếu thận trọng. lao tới như con bò tót, dao chĩa vào người tôi, nhưng tôi nhanh chân nhảy qua chỗ khác. Hồi ở quân đội, người ta cũng dạy tôi những kỹ thuật chiến đấu với dao.

      Thằng nhọ mất đà đâm dao vào bức tường bêtông. Lưỡi dao gẫy đôi văng ra. Tôi quẳng con dao giữ trong tay và lấy hết sức thoi mạnh vào hàm gã. Gã đổ sập xuống và bất tỉnh như ngọn nến phụt tắt.

      Gã áo da dê định lồm cồm bò dậy. Tôi tiến lại đá cú trời giáng vào thái dương . gục hẳn, nằm sõng soài như con vịt chết.

      Tôi nhặt con dao, tới thang máy và lên tầng năm. Tôi trở về phòng, đóng cửa và cài then cẩn thận.

      Mùi hôi hám của hai tên nghiện vẫn còn phảng phất trong phòng. Tôi tới cửa sổ và mở toang hai cánh.

      Tôi đứng bên cửa sổ lát, hít đầy lồng ngực khí đêm nóng, ẩm và trong lành. thể để cho hai thằng khốn đó trốn thoát, tôi định gọi điện cho cảnh sát, nhưng rồi lại lưỡng lự vì sáng sớm mai tôi cần phải tới Searlẹ Cảnh sát chắc để cho tôi , họ muốn thẩm vấn tôi và buộc tôi phải phát đơn kiện. Nhưng dù sao cũng phải báo.

      Vào đúng lúc tôi rời cửa sổ, tôi chợt dừng lại. chiếc xe màu đen vừa đỗ lại trước ngôi nhà tôi. người đàn ông từ xe bước ra. Khi người đó qua cột đèn, tôi nhận ra đó là gã da đen to vật mà tôi chuyện đường phố lúc rời nhà Hank Smith. Tôi nhận ra ngay đôi vai lực lưỡng, cái đầu bé tí và bộ quần áo đen của gã. Tôi chạy vào phòng, mở vội tủ tường và lấy ra khẩu 38 ly chuyên dùng cho cảnh sát đặc biệt, kiểm tra nó được nạp đạn đầy đủ, rồi ra phòng khách quan sát qua cửa sổ. Chiếc xe vẫn đậu ở đó, nhưng thấy thằng khỉ đột đâu. Hay lên phòng tôi? Hay là chăm sóc hai thằng khốn kia?

      Tôi đứng đợi, người vã mồ hôi và mặc dù biết rằng cần phải gọi cảnh sát, nhưng tôi vẫn còn lưỡng lự. Khẩu súng trong tay mang lại cho tôi tự tin. có nó chắc tôi hét lên gọi xe cảnh sát.

      Tôi bực bội thấy gã khỉ đột ra kéo theo hai tên nghiện, thằng kéo tay và thằng kéo tóc. Gã ném hai thằng vào ghế sau, như người ta ném hai con mèo con, rồi ngồi vào tay lái phóng vụt .

      Tôi lảo đảo tới tủ rượu, rót ly uytski, uống cạn rồi thả người ghế. Chưa bao giờ tôi thấy sợ và bị sốc tới quá năm phút như lần này. Với bàn tay vẫn còn run, tôi bật lửa châm thuốc hút, rồi đứng dậy vào buồng ngủ. Tôi mở toang cửa sổ để xua cái mùi hôi hám. Tôi trở lại phòng khách xem có bị mất mát gì hay bọn nó có lục lọi gì . Sau khi thấy suy xuyển gì, tôi vào phòng ngủ kiểm tra tiếp. Ở đây bọn nó cũng lục lọi gì.

      Thần kinh tôi bình phục trở lại.

      Có lẽ tôi yên tâm hơn nếu phát ra hai thằng nghiện đó tới kiếm cái gì đó để bán. Nhưng tôi lo lắng thấy rằng chúng tới đây chỉ để băm vằm tôi hoặc chỉ để giết tôi.

      Thần kinh tôi lại căng như dây đàn.

      Tại sao lại thế nhỉ?

      Có phải vì tôi tới gặp Hank Smith ? Tôi thấy có nguyên nhân nào khác. Thằng khỉ đột đợi để dọa tôi và dễ dàng tìm ra địa chỉ theo biển xe tôi. Khi thấy rằng tôi sợ, chắc chắn gọi điện cho hai thằng kẻ cướp kia đợi tôi ở nhà và thanh toán tôi.

      Ngồi giường, tôi suy ngẫm về những điều Hank Smith kể với tôi. Mitch buôn bán ma túy. Rồi tôi lại nghĩ đến Hank Smith. Liệu ông ta có bị nguy hiểm ? Tôi nghĩ tới người đàn bà đáo để và bức ảnh hai đứa con họ. Tôi bỗng toát mồ hôi. Tôi nhớ khi chúng tôi chuyện với nhau tôi có nhìn thấy trong phòng ngủ của Hank có điện thoại. Tôi đứng dậy lấy quyển danh bạ và tìm số điện thoại của Hank. Khi quay số, tôi liếc nhìn đồng hồ xem giờ. mười rưỡi đêm. Biết bao nhiêu điều xảy ra từ khi tôi rời Searle.

      Sau tiếng chuông thứ hai, có giọng ai đó trả lời.

      - Tôi nghe đây.

      Đó là giọng người da đen.

      - Bác Hank hả?

      - . Tôi là Jerry, láng giềng của Hank.

      - Tôi có thể chuyện với bác Hank được ?

      khoảng im lặng khá lâu, rồi giọng đó .

      - Bây giờ ai có thể chuyện với Hank được nữa rồi. Ông ấy chết.

      - Sao? Bác ấy chết rồi sao?

      - Tôi biết ông là ai, nhưng tôi cũng chẳng cần biết. Tôi tới đây trông hai thằng bé cho bà Smith tới bệnh viện.

      - Thế chuyện gì xảy ra vậy?

      - thằng khốn nào đó hạ Ông ấy đường tới Câu lạc bộ.

      Tôi chậm rãi gác máy.

      Tôi còn đứng lúc lâu với đôi mắt vô hồn và những cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. Đêm nay quả kinh khủng. Tôi cố trấn tĩnh lại tinh thần. Đại tá cần phải được biết chuyện này. Biết rằng giờ này ông còn ở văn phòng, tôi gọi điện cho ông về nhà.

      Trả lời tôi là bà Parnell. Bà cho tôi biết đại tá Washington và ít nhất là tuần nữa mới về.

      - Cháu là Dirk Wallace đây, cháu là nhân viên của bác trai – tôi . – Cháu có việc rất quan trọng cần liên lạc với bác ấy.

      - Thế phải đợi ông ấy trở về thôi. – bà ta bằng giọng hách dịch.

      Tôi có cảm tưởng như bà ta xem đám nhân viên của chồng mình như lũ ăn hại vậy.

      - Đại tá lo việc đại quốc gia. (Bà ta thêm rồi cúp máy).

      Tôi rất muốn tham khảo ý kiến của Chick, nhưng lại đắn đọ Đây là việc của riêng tôi. Đúng nhất là xin ý kiến đại tá chứ ai khác. Tôi cởi quần áo, tắm rồi lên giường ngủ. Đúng như tôi dự kiến, tôi trằn trọc suốt đêm sao chợp mắt được.

      ***

      “Jumping Frog” (Ếch nhảy) là khách sạn duy nhất ở Searlẹ Nhìn vẻ ngoài nó như cái lán gỗ. Nhưng leo lên hết mươi bậc gỗ cọt kẹt dẫn tới cửa vào, tôi thấy yên tâm hơn. Đứng trong quầy tiếp tân là rất xinh với mái tóc vàng như lúa. cười rất tươi đón tôi.

      - Chào ông Wallace, - khi tôi bước lại gần. – Ông tới ở đây chứ ạ?

      Tôi hề ngạc nhiên. Ở Searle này mọi người đều biết nhau, kể cả người lạ. Silas Wood chắc về tôi.

      - Đúng như vậy,- tôi .

      - Tên em là Peggy Wyatt. Cha em là chủ khách sạn này, nhưng em là người quản lý, phân trần. – Ông muốn loại phòng nào, ông Wallacẻ Ông cho phép gọi ông là Dirk được chứ ạ? Ở đây mọi người đều thân mật với nhau lắm.

      Tôi ngắm nhìn . có thân hình hơi . Thực tình, ở ta có vẻ gì đó – mà tôi biết chính xác là điều gì – khiến ta nghĩ rằng đưa ta lên giường là việc khó khăn gì.

      - Tất nhiên rồi. – tôi và mỉm cười thân thiện. – Loại phòng nào ấy à? Thế có những loại phòng nào?

      - với ông các phòng ở đây đều chật chội lắm, nhưng có phòng dành cho các cặp vợ chồng: giường đôi rất rộng. ( ta bẽn lẽn nhìn tôi với đôi mắt có hàng lông mi dài và tỉa cong cầu kỳ). phòng ngủ và tủ lạnh đựng đồ uống.

      - Thế là tốt rồi.

      đưa cho tôi bảng giá. Vì mọi chi phí của tôi đều được thanh toán nên tôi chấp nhận. Sau đó đẩy quyển sổ đăng ký về phía tôi. Chờ tôi ký xong, vòng qua quầy ra.

      - Em dẫn ông xem phòng.

      mặc chiếc quần bò bó như mọi thanh niên khác và tôi theo cặp giò bó chặt đó đến cửa thang máy. Chúng tôi lên tầng . lúc nào ngừng mỉm cười nhìn tôi. Nếu ở cái làng Searle này mọi người đều là bạn bè đúng là quảng cáo sống.

      mở cửa và chỉ phòng cho tôi. Căn phòng tiện nghi mặc dù hơi : buồng ngủ có cửa sổ nhìn ra phố chính, giường rộng và phòng tắm ngay bên cạnh.

      - Tuyệt vời, - tôi và đặt vali xuống.

      Peggy ngồi xuống giường nhún nhảy.

      - Lò xo cọt kẹt chút nào, mỉm cười .

      Đúng lúc tôi nghĩ rằng đó là lời mời khéo, đứng dậy ra phòng khách.

      - Mời ông ra đây làm lỵ Nhà hàng mời. – và bước tới gần tủ lạnh. – Uytski Êcốt chứ?

      - Được thôi, với điều kiện phải cùng uống với tôi.

      - Em thích rượu gin hơn. ( vừa rót đồ uống vừa tiếp). Nhà ăn ở đây chắc vừa lòng ông. Đừng có ăn ở chỗ khác làm gì. Bà đầu bếp ở đây hơi bị siêu. ( ta đưa ly cho tôi và nâng cốc về phía tôi, uống cạn rồi buông tiếng thở dài và lại mỉm cười nhìn tôi). Vào giờ này trong ngày, hôm nào em cũng phải uống thứ gì đó. Cha em muốn thế.

      - Tất cả những người lao động nặng nhọc đều nên uống ly vào lúc mười giờ rưỡi mỗi sáng. – Tôi đáp và nhấp chút uytski êm và ngon.

      - Hình như ông là thám tử phải ? Chứ ở cái xó xỉnh này có gì hay đâu mà xem. Có đúng là ông tìm Johnny Jackson ?

      Tôi dự tính màn giáo đầu này còn kéo dài, nên ngồi xuống và mời ngồi xuống ghế đối diện.

      - Để em rót thêm ly nữa , - rồi lúc lắc cặp mông tới tủ lạnh.

      Tôi ngạc nhiên là ly của ta hết nhẵn. Sau khi rót đầy ly nữa, quay lại và ngồi xuống.

      - Có đúng là vì Johnny mà ông đến đây ?

      - Đúng.

      - Ông già Jackson tự sát, khủng khiếp. Ông có thấy thế ?

      - Đó là những chuyện thường xảy ra ấy mà.

      - Em cũng hiểu. Ông già còn gì để mà hy vọng nữa đâu. Có phải vậy ?

      - số người , nhưng số người khác lại có.

      uống hơi hết nửa ly.

      - Em muốn già tẹo nào.

      - Nhưng điều đó đến với tất cả chúng ta, có trừ ai đâu. có quen Johnny ?

      - Em cùng học với ấy. Em rất nhớ ấy. Bọn con trong lớp mê ấy lắm, nhưng ấy chỉ có mến em thôi.

      Johnny mất tích sáu năm nay, mà bé này lúc đó chỉ khoảng mười lăm mười sáu. Nếu ta xạo, ở cái thị trấn nhộn nhạo này bọn trẻ có đời sống tình dục sớm .

      - Nhưng tôi nghe Johnny đâu có thích chơi với con .

      - Đúng vậy, hoàn toàn đúng. ta thuộc loại con trai chỉ có bạn , và người đó là em. ( uống cạn ly). Ông có nghĩ rằng tìm được ta ?

      - Cũng biết nữa, nhưng tôi hy vọng là được. Đó là nghề của tôi mà.

      nghiêng người ra phía trước. Gương mặt xinh đẹp của bây giờ đỏ lựng.

      - Ông nhất định phải tìm ra ấy. Em nhớ ấy quá.

      - Theo người ta cậu ấy bỏ sáu năm trước. Thời gian như vậy là quá lâu để xinh đẹp như còn nhớ và lại còn tơ tưởng nữa.

      - Johnny hoàn toàn khác bọn con trai khác. ấy giống bọn vô tích Ở đây. Johnny thông minh. Em đánh cuộc là ấy thành đạt ở đâu đó và kiếm được hàng đống tiền. (Peggy thở dài). Em mơ ước ấy trở lại đây và đưa em ra khỏi cái xó xỉnh chán chết này. ( nhìn chiếc cốc rỗng với vẻ chán chường).

      - Cậu ấy có bỏ ?

      lắc đầu.

      - ấy bao giờ về mình. Cũng chẳng bao giờ về ông nội ấy.

      - Thế cậu ấy những chuyện gì?

      - Ồ, ông còn lạ gì bọn con trai. Khi về tình , khi phàn nàn thế giới này khó nhọc đối với cánh đàn ông. Em có thể ngồi nghe ta hàng giờ. ( ta lại nhìn trộm chiếc tủ lạnh). Để em rót thêm ly nữa, - và chìa cho tôi xem chiếc ly rỗng.

      - Thôi đủ rồi, Peggỵ Rượu gin rất có hại đối với những bé tử tế như cộ nên uống quá nhiều.

      - Cái gì khiến ông nghĩ rằng em là bé tử tế? ( bé đứng dậy và rót thêm ly rượu gin nữa). Ở cái xó xỉnh này chẳng có ai nghĩ như vậy cả.

      - Tại sao?

      say, cười khanh khách.

      - Rồi người ta kể cho ông nghe. Chàng trai duy nhất quý mến con bé hư đốn này là Johnny.

      - Giữa và Johnny có chuyện gì chưa?

      - Tại sao ông lại hỏi vậy? Em muốn lắm, nhưng Johnny làm ra vẻ rằng tình phải như thế. Nó phải đến cùng với hôn nhân. ( uống cạn ly, rồi loạng choạng để rơi cốc xuống thảm; sau đó nhìn tôi và trong cơn nức nở). Chính vì thế mà em muốn ông phải tìm ra ấy. Em muốn ấy quay lại đây và cưới em. Phải tìm bằng được ấy, ông nghe chưa?

      Rồi quay gót loạng choạng ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.

      Tắm rửa và thu dọn đồ đạc xong đến giờ ăn trưa. Bụng tôi đói cồn cào. Tôi xuống nhà ăn. Khoảng vài chục người, chủ yếu là đàn ông, ngồi ăn. Khi tôi bước vào, mọi người đều ngẩng mặt nhìn tôi. số người mỉm cười và số khác chỉ gật đầu chào tôi. Trong cái phòng rộng lớn này chắc chắn mọi người đều biết tôi làm việc cho hãng thám tử tư và tôi tìm đứa cháu nội của Fred Jackson. Tôi ngồi vào cạnh chiếc bàn xa cửa sổ. người hầu bàn già da đen mỉm cười tới mời tôi món đặc sản trong ngày.

      - Đây là món tủ của bà đầu bếp ở đây đấy, ông Wallace ạ, - Ông . – Thịt bò hầm.

      Tôi đồng ý gọi món đó và ông già chạy .

      Biết mình là trung tâm của chú ý, tôi đan chéo hai bàn tay và đặt ngay ngắn bàn. Tôi biết chắc chắn rằng ngày nào đó người ta còn để ý đến tôi nữa. Nhưng cảm giác mình bị theo dõi, cứ như người ta chờ đợi tôi đột nhiên rút súng ra hay làm trò ảo thuật nào đó, khiến tôi thấy khó chịu.

      Tôi chợi thấy người đàn ông cao lớn với vẻ mặt buồn bã đứng ngay cạnh tôi.

      - Tôi là Bob Wyatt. Con tôi có rằng ông ở lại nhà chúng tôi đây vài ngày. là hạnh phúc lớn cho chúng tôi.

      Bắt tay Wyatt, tôi quan sát vẻ mặt nhợt nhạt gầy guộc và đôi mắt lờ đờ của ông. Ông ta trạc ngoài năm mươi và có lẽ cuộc đời mấy ân sủng với ông.

      - Nếu ông cần điều gì đó, cứ với Peggỵ – Ông với nụ cười gượng gạo và nhợt nhạt. – Chúc ông ăn ngon miệng. ( xong ông bỏ ).

      Món thịt bò hầm quả là ngon tuyệt. Tôi ăn cách chậm rãi và vào khoảng hơn hai giờ chiều, tôi bước ra tiền sảnh sau khi mọi người còn lại trong phòng ăn gật đầu hoặc mỉm cười chào tôi. Tôi cũng mỉm cười hoặc gật đầu đáp lại.

      Peggy đứng tựa vào quầy tiếp tân. mỉm cười rất tươi chào tôi nhưng tôi dừng lại. Tôi bước ra đường phố nóng ẩm và tới đồn cảnh sát. Tôi gần như chắc rằng may ra giờ này Mason uống thứ thuốc của ông ta và Anderson ở đó mình.

      Tôi thấy Anderson gác chân lên bàn và dùng que diêm xỉa răng. Thấy tôi, ta đặt vội chân xuống và đứng phắt dậy.

      - Chào Wallace, rất hân hạnh gặp lại .

      - Cứ gọi mình là Dirk, - tôi và đưa tay bắt. - Có thể chẳng bao lâu nữa bọn mình cùng làm việc với nhau đấy. (Và tôi kể cho ta những điều mà đại tá ủy quyền cho tôi).

      ta mừng rỡ cứ như vừa kiếm được triệu đôla.

      - tuyệt vời! Cám ơn Dirk. thể tưởng tượng nổi.

      - Cảnh sát trưởng có đây ? – tôi hỏi và ngồi xuống.

      - . Ba giờ nữa ông ấy mới quay lại.

      - Này Bill, ngôi nhà của Jackson bây giờ ra sao?

      - Chẳng sao cả. Tha hồ cho chim chóc ở. Có thể có ai đó mua khu đất đó, nhưng là do thằng cháu nội quyết định. Tôi nghĩ nó là người thừa kế duy nhất của ông già Fred.

      - Có ai biết nó ở đâu ?

      Anderson lắc đầu.

      - Chẳng ai biết. Bác sĩ Steed ông ta cho thông báo các báo địa phương về cái chết của Fred. ( ta nhún vai). Tôi biết điều đó có ăn nhằm gì , nhưng Steed đó là điều cần phải làm.

      - Mình rất muốn ngó lại ngôi nhà đó lần nữa, - tôi . – Cậu có với mình ?

      - cho rằng có thể phát được điều gì nữa à?

      - Chừng nào chưa xem, làm sao mà biết được.

      - định ngay bây giờ à?

      - Tại sao lại , nếu cậu bận gì?

      - Tôi ngày nào cũng ngồi đây, nhưng có việc làm gì đâu. Rồi bọn tôi thành lũ vô tích hết. Ở cái làng Searle này tỷ lệ phạm pháp bé như đầu chiếc đinh ghim.

      - Thế ta thôi.

      Dọc đường, tôi với Bill về PeggyWyatt. Ngồi cạnh ta trong chiếc Chevrolet cũ rích, tôi cố moi mọi thông tin mà ta có thể cung cấp cho tôi.

      - Peggy ấy à? con bé hư đốn. (Bill lắc đầu). biết đấy, tôi rất thương hại bố con nó. Ông ấy bị bệnh ung thư thể chữa khỏi, may lắm sống được vài năm nữa. có đám nhân viên da đen, khách sạn sập tiệm lâu rồi. Amy, cái bà đầu bếp da đen ấy, nấu nướng ngon lắm nên còn thu hút được khách ăn. Bob Wyatt chỉ luẩn quẩn trong nhà. Ông ấy đau yếu thường xuyên. Mọi việc quản lý trong tay Peggỵ Hồi xưa tôi học cùng trường với nó. Peggy là con bé thông minh. Rồi khi mẹ mất, nó bỏ học để giúp bố trông nom khách sạn. Và bắt đầu từ đó Peggy trở nên thể chịu nổi.

      - Thế mẹ ấy chết khi nào?

      - Khoảng sáu năm trước. Khi đó Peggy tròn mười sáu tuổi.

      - Cùng khoảng thời gian đó Johnny mất tích.

      Anderson liếc nhìn tôi.

      - Chuyện này có quan hệ gì với Peggy?

      - Cậu ấy trở nên thể chịu nổi. Thế ấy có gây ra chuyện rắc rối gì ?

      - đúng ra là . ấy chỉ tự gây rắc rối cho mình thôi. Chuyện đó ở đây ai chả biết. Nó ngủ gần như với hết thẩy mọi người. Tai tiếng lắm. Nhưng mọi người rất quý và thương bác Bob lắm, nên thường tạo bằng chứng ngoại phạm cho Peggỵ (Lại lần nữa Bill liếc nhìn tôi). Cái mà gọi là lá nho ấy mà. Nghe người ta gần đây nó còn uống rượu nữa.

      - Hình như bé có quan hệ thâm mật với Johnny lắm phải ?

      - Tin mới đấy. Johnny có để ý gì đến bọn con đâu. Vả lại, Peggy là loại con cuối cùng mà đứa con trai như Johnny có quan hệ. thằng rất nghiêm túc.

      - Cậu có biết ta hồi học ?

      - Có. Nhưng tôi quan tâm tới . Đúng là học giỏi nhất trường, nhưng là đứa thích độc. (Anderson cho xe ngoặt vào con đường hẹp dẫn tới nhà Jackson). Có số đứa định dần cho trận. Tôi nhớ là có nhóm định ngày giờ cho bài học hẳn hoi. Tôi cũng tham gia trong nhóm đó. Bọn tôi dồn vào góc sân chơi và định quét sơn vào mặt . (Anderson gãi cằm). Chúng tôi chuẩn bị sẵn hộp sơn và chiếc chổi quét sơn lớn. Johnny đứng im trước mặt chúng tôi. chẳng buồn tìm cách tháo chạy nữa. cứ đứng đó và nhìn chúng tôi. (Anderson nhún vai). Tôi biết sao, nhưng lúc đó chẳng thấy thích thú gì nữa. Ở có điều gì đó khiến chúng tôi phải dừng taỵ Rồi chúng tôi cũng quên câu chuyện ấy . Hoặc có thể chúng tôi hiểu được rằng chúng tôi là ngũ ngốc nghếch còn Johnny người lớn. Tôi thể giải thích nổi điều đó. Trong đôi mắt có cái nhìn hề nao núng mà còn như đặt sau bức tường lớn vậy. Bọn tôi la hét ầm ĩ nhưng rồi đột nhiên tự tản ra. Và cũng từ đó mọi người để yên.

      Anderson dừng xe trước ngôi nhà lụp xụp của Jackson.

      - Chúng ta tới nơi rồi, - Bill và xuống xe.

      Chúng tôi cùng tới nhà và mở cửa. Những con nhặng biến đâu hết. Trong nhà phảng phất mùi ẩm mốc. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng ộp oạp xa xa của lũ ếch.

      - Cậu kiểm tra xem ông già Jackson có giấy phép giữ súng chưa, Bill? – tôi hỏi và quan sát xung quanh.

      - Rồi. Ông ta có giấy phép dùng súng carbin chứ phải khẩu Beretta.

      - Thế cậu kiểm tra xem ở Searle có ai có khẩu Beretta chưa?

      - Rồi. Ở Searle ai có khẩu Beretta cả.

      Tôi gật đầu ra vẻ khen ngợi.

      - Cậu làm tốt nhiệm vụ đấy.

      - Bởi tôi rất muốn làm việc cho đại tá Parnell mà.

      - Với đà này cậu nhất định đạt được ý nguyện. Bây giờ ta hãy xem xét lát.

      Trong giờ rưỡi, chúng tôi rà soát ngôi nhà từng li từng tý. Nhưng kết quả gì: bức thư, tờ hóa đơn, bức ảnh. Khi kiểm tra các ngăn kéo rỗng của cái tủ đầu giường, tôi có cảm tưởng rằng ai đó tới đây trước chúng tôi và mang hết những thứ có ở đây . thể có chuyện ông già Jackson sống bấy nhiêu nămở ngôi nhà này mà lại giữ bức thư hay chứng từ nào.

      - Mình có cảm tưởng rằng chúng ta tới muộn mất rồi, Bill ạ. – Tôi .

      - Có lẽ vậy. ( ta ngồi quỳ gối nhìn dưới gầm giường). Hình như ở đây có cái gì đó phải.

      Anderson giúp tôi đẩy cái giường dịch ra và chúng tôi phát ra cái hố đào xuống sàn nhà với tấm nắp bằng gỗ chỉ đậy nửa. Tôi nhấc cái nắp ra và kiểm tra bên trong cái hốc rỗng. Tôi quay lại nhìn Bill quan sát qua vai tôi.

      - Có thể ông già cất tiền ở đây và chắc là chưa tiêu bao nhiêu, - tôi và ngồi xổm dậy. – Cái lỗ này là nhà băng của ông ta và có kẻ nào đó phát ra.

      - Xem ra có lý lắm, - Bill thừa nhận.

      Tôi nhún vai và đứng dậy.

      - Thế là chúng ta chẳng thu được kết quả gì. Mình hy vọng tìm thấy thư từ, hay ít nhất cũng là bức ảnh của Mitch và Johnnỵ Bây giờ ta thử xem xét quần áo của ông già xem sao.

      Chúng tôi mở tủ quần áo. Chỉ còn độc nhất cái quần cắt cụt hai ống và chiếc áo vét bằng da sờn. Tôi lục tìm các túi, nhưng chỉ thấy bụi là bụi.

      - Ông già sống hà tiện nhỉ? – tôi và khép cánh cửa tủ lại.

      Bill lầu bầu gì đó trong miệng. Cậu ta đứng quan sát bức tường trước mặt. Tôi nhìn theo Bill và nhận ra ngay chỗ từng treo bức tranh hay khung ảnh gì đấy. Chỉ có ánh sáng mặt trời mới cho phép chúng tôi phát ra điều đó. Theo dấu vết còn lại tường, cái khung này khoảng ba mươi nhân mười lăm xentimét.

      Tôi đứng suy nghĩ lát, mắt vẫn rời bức tường, rồi :

      - Mình đoán rằng đây là chiếc khung huân Chương Danh dự của Mitch. Được treo ngay giường của ông già. Tất nhiên chỉ là giả thuyết thôi, nhưng mình sẵn sàng đánh cuộc là mình lầm.

      - Nếu kẻ tới đây trong khoảng thời gian từ hôm qua đến sáng nay là tên trộm, - Bill . – làm gì với tấm huân Chương ấy? Vì tên Mitch được khắc ở bên dưới rồi kia mà.

      - Ai với cậu nó là kẻ trộm? Gã tới đây lấy những thứ trong các ngăn kéo tủ và tấm huân Chương chính là kẻ giết Fred, - tôi . – Kẻ trộm lấy các thứ giấy tờ của Fred làm gì?

      - Đúng thế.

      Chúng tôi bước ra ngoài trong cái nóng hầm hập.

      - Ta ra chỗ đầm nuôi ếch xem .

      Chúng tôi tới đó và chỉ thấy ếch là ếch.

      - Xong rồi, - tôi và châm thuốc hút. - Ta về thôi.

      Tới chỗ đỗ chiếc Chevrolet của Bill, tôi hỏi:

      - Liệu cảnh sát trưởng có lo lắng khi thấy cậu với mình ?

      - Tôi xếp đặt cả rồi. Tôi với ông ấy cho tôi với để nắm được tình hình, đó là cách đề phòng tốt. Ông ấy rất hài lòng với ý tưởng của tôi.

      - Đừng với ông ta quá dài dòng làm gì. Chỉ cần cho ông ta có cảm tưởng rằng mình chẳng tìm thấy gì hết. Mình có linh cảm cái lá nho này che đậy điều gì đó quan trọng hơn mình tưởng.

      - Ý muốn gì?

      - Cậu cứ suy nghĩ , - tôi và ngồi vào xe. – Đây là bài tập luyện tốt đối với cậu. Cậu chuyện với người bưu tá về thư tín của Jackson chưa?

      - Chưa. Tôi quên đâu, nhưng khó gặp Josh quá. Tôi hy vọng gặp ông ta tối nay.

      - gặp ông ấy , - tôi .

      Tôi ngả người vào ghế trong khi Anderson chạy thẳng về Searle.

      ***

      Trước khi chia tay với Anderson ở cửa đồn cảnh sát, tôi hỏi ta địa chỉ của bố Syd Watkins.

      - Ông Wally Watkins ấy à? – Bill ngạc nhiên hỏi. – muốn chuyện với ông ấy à?

      - Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?

      - Có ngôi nhà rất đẹp ở rìa làng. Đó là con đường thứ ba rẽ trái từ đường cái lớn, tìm thấy ngay thôi. Ở đó chỉ có ngôi nhà duy nhất. Wally tới câu lạc bộ ba hay bốn tuần lần. Ai cũng mến ông ấy. Bà Kitty, vợ Ông, và ông bố trí ngôi nhà rất đẹp. Khi bà Kitty qua đời, đó là thảm kịch đối với ông Wally.

      - Chuyện đó xảy ra hồi nào?

      - Cách đây hai năm. Người ta kể rằng bà ấy quá đau buồn về chuyện thằng con trai, nhưng biết rồi đấy, những chuyện đồn đại ở nơi khỉ ho cò gáy thế này chẳng có giá trị bao nhiêu. Bác sĩ Steed bà ấy bị sưng phổi.

      - Theo những điều mình nghe được Syd Watkins sống bừa bãi lắm.

      - Đúng như vậy, nhưng còn lạ gì những bà mẹ nữa. Wally đồng ý kiến với vợ. Ông ấy hoàn toàn hợp với Syd.

      Trước khi tới nhà Wally Watkins, tôi dừng lại ở xí nghiệp Morgan & Weatherspoon. Harry Weatherspoon vẫn ngồi làm việc. Thấy tôi bước vào ông nghiêm mặt nhìn rồi mỉm cười.

      - A, ông thám tử Wallace! Ông khéo bịa với tôi về cái chuyện thu thập thông tin cho các nhà văn đấy nhỉ.

      - Tôi rất lấy làm tiếc, ông Weatherspoon ạ. Nhưng kinh nghiệm dạy tôi rằng chẳng mấy ai muốn chuyện với các thám tử cả.

      - Cũng sao. Hình như ông vẫn còn hy vọng tìm thấy thằng cháu nội của ông già Jackson?

      - Theo như tôi thấy hệ thống thông tin trong làng thông suốt gớm nhỉ.

      - Tất nhiên rồi. Tất cả những gì xảy ra ở đây chi sau nửa tiếng cả làng đều biết.

      - Tôi chỉ muốn hỏi ông vài câu.

      - sao cả. Xin mời ông. Về vấn đề gì vậy?

      - Ông già Jackson hàng tuần đều cung cấp cho ông số lượng ếch nhất định. Tôi muốn biết ông trả cho ông ấy bao nhiêu?

      - Để làm gì?

      - Johnny là người thừa kế. Ông già Jackson sống rất hà tiện, nên rất ít tiêu phạ Ông ấy chắc phải còn cả đống tiền.

      - Tôi hiểu. Xét cho cùng, tôi cũng chẳng giấu ông làm gì. Có những tuần nhiều, nhưng cũng có những tuần ít. Bình quân tôi trả ông ấy trăm năm mươi đô tuần - Thế ông thanh toán với ông ấy như thế nào?

      - Luôn luôn bằng tiền mặt. Tôi cho tiền vào phong bì rồi Abe đưa cho Jackson và Jackson gửi lại giấy biên nhận.

      - Vậy ông ta phải tiết kiệm được trăm đôla tuần.

      - Có thể lắm.

      - Việc đó kéo dài được bao nhiêu năm rồi?

      - Jackson là người cung cấp cho chúng tôi hơn hai mươi năm naỵ Tính cả tới những năm bội thu, ông ta phải kiếm được hai trăm đô tuần.

      - Bằng tiền mặt và phải đóng thuế?

      - Bằng tiền mặt, đúng như vậy. Còn chuyện thuế má tôi biết.

      - Tính đại khái ông ta cũng có được khoảng trăm ngàn đôla để dành.

      - Tôi biết. Ông ta có thằng con trai tên là Mitch. Có thể ông ta cho nó tiền.

      Tôi chợt nghĩ về cái lỗ ở dưới gầm giường Jackson. Đó chắc phải là nơi ông ấy giấu tiền. Thậm chí nếu tôi nhầm, chắc chắn ông ấy cũng mất khoản tiền lớn.

      - đáng buồn là ông già tội nghiệp tự sát, - Weatherspoon tiếp. – nhưng ông ấy còn gì đời này nữa đâu. Tất cả chúng tôi đều thương tiếc ông ấy. Khu nuôi ếch của ông ấy rất năng suất.

      - Ông có tính chuyện mua lại khu đất đó ?

      Weatherspoon lưỡng lự và nhìn tôi với con mắt dò hỏi.

      - Cũng có, - Ông ta . – Tôi biết người nuôi ếch còn trẻ nhưng năng động lắm. Nếu mua được tôi cho ta thuệ Nhưng nó thuộc tài sản thừa kế của Jackson. Chừng nào chưa tìm được đứa cháu nội hoặc chưa chứng minh được là nó chết, tôi chẳng làm gì được.

      - Chẳng làm gì được ư? (Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta).

      - Khi tôi biết về cái chết ông ta, tôi tính chuyện mua khu đất đó. Người được ủy quyền của tôi chuyên lo việc đó. Tôi cầu ông ta đăng thông báo tìm Johnny Jackson. Có thể ông giúp được chúng tôi cũng nên, ông Wallace ạ. Nếu ông tìm được Johnny, nhờ ông với cậu ta rằng tôi rất muốn chuyện với cậu ấy. Ông cũng với cậu ấy rằng tôi trả giá rất hợp lý.

      - Ai là công chứng viên của các ông?

      - Ông Howard và ông Benbolt. Ông Benbolt lo tất cả các vụ việc của tôi.

      - Ông cho phép tôi gặp ông ta chứ?

      - Tất nhiên. Nhưng là về chuyện gì?

      - Tôi tìm kiếm Johnny Jackson. Mà ông với tôi rằng Benbolt cũng tìm kiếm Johnnỵ Chúng tôi có thể tiết kiệm thời gian khi hai người phải làm chung việc.

      - Ông cứ tới gặp. Địa chỉ của ông ấy có trong danh bạ.

      - Rất tốt. Cám ơn ông Weatherspoon. Hy vọng chúng tôi tìm được thằng bé đó.

      Tôi bắt tay ông ta rồi ra.

      Chưa đầy mười lăm phút, tôi tới nhà ông Wally Watkins. Lời mô tả của Bill cho tôi còn thua xa thực tế. Đây là ngôi nhà tầng quét vôi trắng, đứng biệt lập với mảnh vườn xinh xinh và bãi cỏ tuyệt vời và những bông hồng khoe sắc. con đường rải sỏi, hai bên lề xây gạch đỏ dẫn tới cửa nhà. Cái cơ ngơi bé này dường như được chăm chút cách tiếc sức bởi những bàn tay thương .

      Wally Watkins ngồi trong chiếc ghế phôtơi lắc lư ở hiên nhà, miêng ngậm tẩu. Ông mặc bộ complê trắng tuyệt đẹp và đội chiếc mũ rộng vành.

      Ông nhìn tôi bước xuống xe. Trông ông trạc ngoài bảy mươi: gầy, gương mặt rám nắng với bộ râu trắng như cước.

      Ngay từ cái nhìn đầu tiên tôi cảm thấy mến ông.

      - Xin phép được hỏi có phải ông là Watkins? – tôi hỏi và dừng lại trước mặt ông.

      - Chính tôi đây. Chắc là Dirk Wallace, thám tử của đại tá Parnell. (Ông mỉm cười và bắt tay tôi). đừng ngạc nhiên, thông tin ở cái vùng hoang vu này truyền nhanh lắm.

      - Cháu biết, - tôi và xiết chặt tay ông.

      - Xin lỗi là tôi đứng dậy được. Tôi bị đau gối. Trước khi ta chuyện với nhau, mời vào nhà, tới bếp, qua cái cửa đầu tiên bên trái ấy. Trong tủ lạnh có uytski Êcốt và chai nước gạ Ly ở bên phải tủ lạnh. có thể làm ơn giúp tôi được chứ? (Ông nhìn tôi và mỉm cười hiền hậu). Vào nhà cũng nên ngó qua chút để xem tôi sống thế nào.

      Tôi làm đúng như cầu của ông. Ngôi nhà vẫn được chăm sóc chê vào đâu được. Phòng khách rộng và bếp được trang bị tốt. Tôi chuẩn bị đồ uống, đưa ra và ngồi xuống chiếc ghế cạnh ông già.

      - Ông Watkins ạ, ông có thể chỉ hãnh diện về ngôi nhà thôi đâu, mà còn hơn thế nữa kia.

      - Cám ơn . (Ông già có vẻ rất sung sướng). Kitty là nội tướng tuyệt vời. Bà ấy ngôi nhà này lắm và chăm sóc nó chẳng kém gì chăm sóc tôi. Tôi muốn bà ấy buồn. Tôi tin rằng những người thân của chúng ta luôn ở bên cạnh chúng tạ (Ông chạm cốc với tôi và chúng tôi cùng uống). Có phải tìm Johnny Jackson?

      - Đúng vậy. Ông có quen cậu ta ?

      - Tất nhiên là có chứ. Đó là thằng bé rất thông minh và đáng . Ý tôi muốn là nó học giỏi lắm. Mà lại chăm chỉ nữa. Johnny phải đạp xe tám cây số học, sau đó lại về giặt giũ , làm cơm và giúp ông nó chăn nuôi và thu hoạch ếch. Mà nó ông nó lắm. Theo điều tôi biết có thể rằng nó sùng bái ông nó.

      - Thế tại sao nó lại bỏ ?

      - Đó cũng chính là điều tôi thắc mắc. Tại sao nó lại đột ngột bỏ như vậy?

      - Ông Watkins này, ông có nghĩ là có chuyện gì đó xảy ra với thằng bé ? Liệu nó có bị bệnh chết hay chết vì tai nạn hay Fred thừa nhận nó ở tòa thị chính?

      Wally để rớt chút rượu uytski, ông lẩm bẩm điều gì đó rồi rút khăn mùi soa lau quần.

      - Ồ , tôi nghĩ là nó chết. Chết Fred báo ngay rồi. Chắc là ở đó xảy ra chuyện gì đó buộc thằng bé phải bỏ .

      - Vậy cái gì xảy ra tới mức khủng khiếp như vậy?

      - Tôi cũng luôn tự hỏi mình như vậy.

      - Liệu có thể khi lớn, Johnny chịu được phải sống vất vả nên bỏ ?

      - Tôi với rồi. Thằng bé sùng bái ông nó lắm. Nó thể bỏ ông nó mà được.

      - Nhưng thực tế nó chả làm như thế là gì.

      - Đúng thế.

      - Thế ông có thân với Fred ?

      - Còn hơn cả thân nữa kia. Có thời chúng tôi là bạn nối khố của nhau. Khi cá sấu cắn nát đùi ông ấy, tôi tiếp tế cho ông ấy. Hồi ấy Mitch còn ở nhà. Đối với Fred là đứa con ngoan, còn với mọi người nó là tên quỷ sứ. Nó nhờ tôi trông nom bố nó. Cứ như là tôi bỏ mặc bố nó ấy. Tôi vẫn tiếp tế cho bố nó, nhưng mọi chuyện như trước nữa. Fred trở nên trái tính trái nết. Ông muốn để người ta nhìn thấy mình nạng. Rồi Johnny tới. Nó thường tới mua ở cửa hiệu của tôi ở ngay cổng trường học. Nó bảo tôi rằng ông nó muốn tiếp khách và tôi lui tới đó nữa.

      - Fred có lấy vợ ?

      - Tôi nghĩ là có. Chuyện cách đây hơn ba mươi năm rồi. Hồi đó tôi có mở cửa hiệu thực phẩm, còn Fred làm thuê cho người nuôi ếch trước khi mua khu đất naỵ Tôi hiểu sao Fred bỏ đâu đó chừng hai năm. Khi trở về ông có ít tiền và dẫn theo thằng Mitch. Lúc đó thằng bé mới hơn tuổi. Fred kể và bắt tôi giữ kín rằng mẹ thằng bé chết ngay khi sinh nó. Fred và tự hào về thằng bé. Vào thời đó, tôi nhớ có lần Fred bảo tôi rằng nếu nó là con , ông cho người ta nuôi rồi. Có đứa con trai là điều vô cùng quan trọng đối với ông.

      - Ông có biết Fred để dành tiền ?

      - Chuyện này tôi biết, nhưng chính tôi cũng băn khoăn về chuyện này. Chắc là ông ấy phải để dành tiền.

      - Chính vì nguyên nhân đó mà cháu muốn tìm Johnny, nó là người thừa kế duy nhất của Fred. Có người định mua lại trang trại đó.

      - Weatherspoon phải ?

      - Vâng.

      - gặp ta rồi à?

      - Vâng.

      - ta tới đây khoảng mươi năm trước và mua tất cả những thứ có lúc đó. ta mua nhà máy ướp lạnh ếch, mua cửa hàng thực phẩm của tôi và tôi đoán rằng khi ông Bob tội nghiệp nhắm mắt, ta chậm trễ mua nốt cả cái khách sạn.

      - Bằng tiền kinh doanh ếch ư?

      - Tôi biết. Nhà máy phát đạt lắm, nhưng tôi nghĩ là nó có thể mang lại nhiều tiền tới mức đó.

      - Người ta rằng sau khi Johnny bỏ tới làm việc cho Fred.

      - Lại chuyện lão Abe Levi chứ gì? Lão ấy có nhìn thấy bé, nhưng lão ấy thường say khướt ấy mà. Tôi tin. Ở Searle này người ta có thể bịa đủ thứ chuyện.

      - Abe rằng Johnny vẫn ở đó và bé sống với nó.

      - Hoàn toàn là chuyện vớ vẩn do lão Abe bịa ra. Nếu ông ta có thấy ai khác ở đó đó là Johnnỵ cứ thử nghĩ mà xem. bé liệu có thể sống với ông già cụt cả hai chân, lại trái tính trái nết, ghét cay ghét đắng đàn bà con , giặt giũ cho ông ta và sống với lũ ếch ấy ? có con bé nào lại chấp nhận như vậy cả. (Wally bật cười). thể có chuyện đó được.

      Tôi nghĩ có lẽ ông có lý.

      - Thôi cháu làm phiền ông nữa. – tôi . – những điều ông cho cháu biết rất lý thú. Sau này có gì cháu trở lại hỏi thêm ông sau.

      - Thế có tới dự đám tang Fred ?

      - Có lẽ là . Khi nào ạ?

      - Ngày mai, lúc mười giờ. Cả làng đều có ở đó. Ở đây người ta rất thích tới các đám tang. Tôi cũng , dù gối có đau hay .

      - Ông có muốn cháu lấy xe đưa ông ?

      - tốt quá, nhưng cám ơn . Bob Wyatt hứa đến đón tôi rồi. (Ông lắc đầu). Ông ấy chắc là người đầu tiên theo Fred mất.

      Tôi bắt tay ông già và trở lại Searlẹ Bước vào tiền sảnh của khách sạn tôi thấy Peggy đứng bên quầy tiếp tân. cười rất tươi chào tôi.

      - có lấy chìa khóa , Dirk?

      - Cám ơn Peggỵ có thể nối đường dây trực tiếp cho điện thoại của tôi được ? Tôi cần gọi gấp.

      - Ba em vắng rồi. ( đưa cho tôi chìa khóa. Hơi thở đầy mùi rượu). có muốn em lên phòng ít giờ để chứng minh cho thấy giường tuyệt vời tới mức nào ?

      Tôi cảm thấy thương hại bé. ta say và có vẻ tuyệt vọng vì lý do gì đó tôi biết.

      - Nghe đây, bé. còn quá trẻ đối với tôi, - tôi dịu dàng . – Và nhớ đừng có uống rượu nữa.

      Peggy đỏ mặt và lườm tôi.

      - biết mình bị thiệt tới mức nào đâu.

      - Thôi, hãy nối dây cho tôi . – Tôi và bỏ đến cửa thang máy.

      Tôi lấy thang máy lên phòng. Mười phút sau tôi gọi cho Chick Barley.

      - có tin gì mới cho tôi , Chick.

      - Chưa có. Chắc phải thời gian nữa.

      Tôi nghe có tiếng thở của ai đó và hiểu ngay Peggy nghe trộm.

      - cần vào chi tiết, - tôi nghiêm giọng. – Có kẻ nghe trộm. Nhưng khẩn trương giúp nhé. (Tôi gác máy).

      Phần còn lại của buổi chiều tôi ngồi viết báo cáo về chuyến khảo sát khu nhà Jackson: phát được hố ở dưới giường và cuộc chuyện với Weatherspoon và Wallỵ Sau đó đến giờ ăn tối. Tôi cho bản báo cáo vào tủ khóa lại rồi xuống nhà ăn. Tôi ăn suất bitết với khoai tây rán rồi trở lại phòng bật tivi và ngồi xem cho tới lúc buồn ngủ.

      Tôi khóa trái cửa, nằm và ngủ thiếp .

      ***

      Wally Watkins đúng. Dân Searle rất thích tới các đám tang.

      Vào lúc mười giờ rưỡi, chuông nhà thờ đổ hồi. Theo tín hiệu đó mọi người trong làng đều đổ ra phố.

      Sau bữa ăn sáng thịnh soạn, tôi lên phòng ngủ, ngồi trước cửa sổ quan sát những điều diễn ra đường phố. Tất cả đều đóng cửa: từ các cửa hiệu, văn phòng, bưu điện tới các trạm bán xăng. Chỉ trừ có đồn cảnh sát. Tất cả người lớn đều bận đồ đen, còn trẻ con bận đồ trắng. Cảnh tượng xúc động.

      Xe tang chở chiếc quan tài bằng gỗ sồi với những chiếc móc tay bằng đồng sáng choang dẫn đầu đám tang. Ông cảnh sát trưởng Mason dẫn đầu đám người đưa tang. Sau ông hai bước là bác sĩ Steed, rồi Harry Weatherspoon, Bob Wyatt, Wally Watkins tay chống can và Silas Wood. Trong đám đông tôi thấy cả ông già Abe Levị có hoa. Có lẽ dân chúng ở đây cho rằng góp tiền mua chiếc quan tài sang trọng như thế này là đủ rồi. Tôi nhìn đám tang xa dần, rồi xuống tiền sảnh.

      Peggy vẫn ngồi ở quầy tiếp tân. nhìn tôi cười như mọi lần.

      - Người ta đưa tang ông già Fred. Đám tang to lắm, - tôi bắt chuyện.

      - Tôi chuyện với .

      Tôi tiến đến bên quầy, tựa khuỷu tay lên đó và nhìn thẳng vào mắt Peggy.

      - dối tôi khi kể rằng và Johnny có quan hệ thân mật với nhau, phải vậy ?

      đỏ mặt và lườm tôi.

      - hãy xéo , đừng có quấy rầy tôi.

      - Cũng nhũ tất cả các khác, ghét Johnny vì ta để mắt tới , - tôi tiếp. – nhưng tìm cách chơi trội bằng cách kể cho các bé ngốc nghếch bạn rằng Johnny là tình nhân bí mật của cộ Tất nhiên là để cho uy tín nào đó. Rồi chính cũng tin vào chuyện dối trá của mình. Nhưng cũng như tôi biết rằng Johnny hề quan tâm tới cũng như những đứa con khác.

      ta đột ngột quay người định tát tôi, nhưng tôi mấy khó khăn nắm được cổ tay .

      - Thôi nào, Peggy, ngoan nào.

      Peggy giật tay ra, nét mặt nhăn nhó và dàn dụa nước mắt.

      - Tôi ghét lắm! Johnny là thằng ẽo ợt dơ bẩn. Tôi những người đàn ông chân chính! Rồi xem.

      ta quay nửa vòng rồi chạy trốn vào văn phòng, đóng sập cửa lại. Tôi rất thương bé, nhưng tôi phải làm sáng tỏ chuyện này và bây giờ tôi biết.

      Tôi ra khỏi khách sạn, vào đồn cảnh sát. Bill Anderson ngồi bàn.

      - Chào Dirk! – ta reo lên. – thấy đám tang chỗ chúng tôi thế nào.?

      - Rất có ấn tượng. Cậu gặp ông bưu tá chưa?

      - gặp tối hôm quạ Josh có vẻ ngu ngơ thế nhưng có trí nhớ rất tốt. Ông ta với tôi Fred bao giờ nhận được thư từ gì trước khi Mitch chết. Quân đội gửi huân Chương của Mitch tới bằng thư bảo đảm. Đó là lần đầu tiên Fred nhận được bưu phẩm. Sau đó, khoảng sáu năm trước có bức thư gửi cho ông tạ Josh vốn là người tò mò cho tôi biết rằng nó tới từ Miamị Rồi thư từ cứ đến đều đặn vào ngày mồng hàng tháng.

      - Hôm qua là ngày mồng năm rồi, thế thư tháng này tới chưa?

      - Chưa. Người trao đổi thư từ với Fred chắc là biết ông ấy chết.

      - Fred chết mới được ba ngày, Bill ạ. Như vậy người gửi thư biết trước là Fred chết.

      Tôi để mặc Anderson ngồi há hốc mồm kinh ngạc và về khách sạn. Tiếng chuông báo tử dừng ngân. Tôi đoán đám tang kết thúc. Khi tôi lên thang máy, tôi thấy Peggy ở quầy. Tôi thêm vào bản báo cáo của tôi rằng Peggy dối tôi về quan hệ thân mật với Johnny và Fred mỗi tháng nhận được bức thự Tôi cho bản báo cáo vào tủ và khóa lại, rồi xuống ăn trưa.

      Nhà ăn vắng tanh. Tôi ăn món thịt nguội và salad. Ông quản lý già với tôi rằng chỉ chốc nữa khi đám tang kết thúc, nhà hàng chật ních người. Tôi ăn vội vàng rồi quay ngay lên phòng.

      Tôi thấy mọi người đưa đám về túa xuống đường phố và ai về nhà nấy. Tôi đợi thêm lát nữa trước khi ra chỗ đỗ xe lấy xe để ra nghĩa địa. Đối với ngôi làng quê mùa như Searle nghĩa địa này là khá lớn và được chăm sóc khá chu đáo. Phải mất lúc tôi mới tìm ra mộ của Fred Jackson.

      mô đất mới đắp lên, tôi thấy có vài chục bông hồng đỏ, những bông hoa tuyệt đẹp mà sau này khi tới lượt mình, tôi cũng muốn người ta đặt lên mộ tôi.

      Tôi tiến lại gần và thấy tấm các gài vào mẩu dây thép. Tôi cúi xuống và đọc dòng chữ đánh máy tấm các:

      “Cầu cho ông nội từ nay yên giấc ngàn thụ Johnny”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Chương 4

      Do phóng như bay, tôi về tới Paradise City chỉ ít phút trước sáu giờ chiều. Rất may là Chick vẫn còn dọn dẹp bàn làm việc.

      - Mẹ kiếp! – ta thốt lên khi thấy tôi bước vào phòng làm việc. – Nghe đây Dirk, mình có hẹn với bé, thể tới chậm được.

      - Cậu đúng là chả biết cóc khô gì. Cậu càng bắt họ đợi lâu, họ càng kích thích. Cậu có tin gì cho mình ?

      - Cậu xem mình là ai vậy? thầy phù thủy chắc? Dù sao mình cũng có cái gì đó cho cậu đây. Nhưng giúp ích lắm đâu. ( ta sốt ruột xem đồng hồ, rồi mở ngăn kéo bàn). Này, cầm lấy. Đây là tờ báo cáo về Syd Watkins. Cho tới tận bây giờ mình vẫn chưa tìm được đầu mối gì về đám cưới của Mitch Jackson và ra đời của thằng bé. Theo sổ đăng ký của quân đội độc thân, nhưng quân đội cũng có thể nhầm chứ.

      - Thế Johnny Jackson có đăng ký khai sinh à?

      - Mình biết gì hết. ( ta chìa cho tôi bản báo cáo đánh máy). Cậu cầm lấy . Mình chuồn đây.

      - Hượm nào, Chick. Cậu từng là quân cảnh trong trung đoàn của Parnell. Đơn vị của cậu có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy?

      - Lạy Chúa! Cái đầu của cậu suy nghĩ gì vậy? Cậu được giao nhiệm vụ tìm thằng cháu nội Jackson cơ mà.

      - Đừng mất thời gian nữa, Chick. Có bao nhiêu phần trăm người nghiện ma túy trong trung đoàn của Parnell?

      - Đó là câu chuyện cũ rích rồi, nhưng đáng lo ngại. Ở đó tất cả các trung đoàn đều vấp phải vấn đề này. Nhưng liên quan đến mình. Có cả êkíp của phòng chống ma túy lo chuyện đó. Họ là những người chuyên nghiệp mà.

      - Thế họ gửi báo cáo về trung đoàn của cậu à?

      - Mình nghĩ là có, nhưng nó được thông báo trực tiếp cho đại tá.

      - Trưởng kíp chống ma túy là người như thế nào?

      - Đó là đại tá Jefferson Haverford. Ông ấy là bạn lớn của đại tá Parnell.

      - ông ta sống ở đâu?

      Chick nhíu mày nhìn tôi.

      - Chuyện quái quỷ gì xảy ra trong óc cậu vậy? Đại tá muốn người ta đào bới chuyện đó đâu. Ông vốn rất kiêu hãnh về trung đoàn của mình và ông hoàn toàn có cơ sở để làm vậy.

      - Mình có thể gặp đại tá Haverford ở đâu?

      - Ông ấy sống ở đây, cậu có thể tìm theo danh bạ điện thoại. Nhưng phải thận trọng, Dirk ạ. Đại tá hài lòng việc cậu đào bới lại chuyện cũ đâu. Mình phải đây, kẻo bồ của mình bóp nát của gia bảo mình mất.

      Đoạn, ta vụt chạy ra cửa. Tôi châm thuốc, rót ly vừa nhâm nhi vừa đọc bản báo cáo ngắn về cuộc sống quân ngũ của Syd Watkins.

      Bản báo cáo cho biết Syd Watkins nhập ngũ và được biên chế vào đơn vị cung cấp bom cho máy baỵ ta làm việc trong suốt bốn năm tại căn cứ quân ở Việt nam. Sau khi giải ngũ ta về Mỹ cùng với các đồng đội khác. Địa chỉ cuối cùng của ta mà quân đội nắm được là ngôi nhà ở phía đông New York. Sau đó ta mất tăm. Báo cáo dừng lại ở đó.

      Điều duy nhất khiến tôi quan tâm là Watkins và Mitch ở Việt nam cùng thời gian.

      Tôi đặt bản báo cáo vào cặp hồ sơ, rồi tìm điện thoại của đại tá Haverford. Đại tá sống trong căn hộ thuộc tòa nhà ở phố Đại dương, khu phố sang trọng ở Paradise City.

      Đích thân ông trả lời tôi qua điện thoại.

      - Tôi Haverford đây, - Ông bằng giọng nghiêm nghị.

      - Thưa đại tá, tôi là Dirk Wallace, nhân viên của đại tá Parnell, - tôi tự giới thiệu.

      - À, thế hả. là nhân viên mới, phải ? Đại tá Parnell có với tôi về . Có chuyện gì vậy, Dirk?

      - Cháu phải đối phó vấn đề. Bác dành cho cháu ít phút, được ?

      - Sao, vấn đề à?

      - Đây là vụ mà cháu điều trạ Cháu có cảm giác là vụ này có liên quan đến việc buôn bán ma túy trong quân đội. Cháu nghĩ bác có thể giúp cháu lần ra manh mối.

      - Thôi được, mười phút nữa cháu hãy đến đây. Tôi được mời ăn tối lúc tám giờ.

      đoạn, ông gác máy.

      Phố Đại dương chỉ cách văn phòng tôi chừng ba phút xe hơi. Bảy phút sau tôi ấn chuông cửa nhà đại tá Haverford.

      Người hầu – bà da đen – dẫn tôi qua phòng khách lớn tiện nghi sau khi qua hàng hiên nhìn ra đại lộ có hàng cọ ngăn cách với bãi cát tuyệt đẹp. Haverford ngồi chiếc ghế dài. Nhìn thấy tôi, ông đứng dậy. Hồng hào, hơi con và béo tròn, Haverford có gương mặt nhà binh, hàng ria bạc trắng được tỉa cầu kỳ và bộ tóc cắt ngắn.

      - Wallace hả? – ông hỏi và chìa tay cho tôi bắt.

      - Vâng, - tôi .

      - Tốt lắm, ngồi xuống . ly uytski chứ?

      - Vâng, cám ơn bác.

      Ông lấy hai ly ở quầy rượu, đưa đến cho tôi ly rồi ngồi xuống.

      - Nào, có vấn đề gì?

      - Cháu nghe ở Việt nam bác chuyên lo về vấn đề ma túy, - tôi .

      - Đúng vậy.

      - Người ta cầu hãng cháu tìm đứa con trai của Mitch Jackson. Trong quá trình điều tra, cháu biết Mitch có bán ma túy.

      Rồi ông nhún vai.

      - Tôi cũng nghĩ rằng, rồi ngày nào đó chuyện này cũng tới. chuyện với ông chủ của chưa?

      - Chưa. Đại tá ở Washington, cháu chưa thể gặp được. Chính vì thế cháu mới tìm bác. Liệu người ta có bằng chứng về Jackson bán ma túy chưa ạ?

      - Hãy nghe kỹ đây, bạn trẻ. Mọi người đều xem Mitch là hùng. Chúng ta nên làm vấy bẩn danh tiếng của người hy sinh mình để cứu sống mười bảy mạng người.

      - Như vậy đúng là ta bán ma túy?

      Đại tá lưỡng lự lát, rồi gật đầu.

      - Đúng. Chúng tôi sắp bắt ta như nhiều kẻ bán ma túy khác. Người trợ lý của tôi thu thập đủ bằng chứng về Jackson và có lệnh bắt. Đúng lúc đó xảy ra chuyện ta lao vào rừng cứu người và hy sinh cách bi thảm. Tôi rất căm ghét những kẻ bán ma túy. Nhưng Jackson lại là chiến sĩ dũng cảm. thử nghĩ xem dư luận thất vọng ghê gớm tới mức nào nếu chúng ta để lộ ra rằng trước khi chết như người hùng, ta là gã nhơ nhuốc, đại tá Parnell hề biết chuyện này. Chúng tôi lờ chuyện này . Đấy, chuyện là như vậy, bạn trẻ ạ. Tôi khuyên cũng nên làm vậy.

      - Đây có thể là chuyện cái lá nho, - tôi . – Ý cháu muốn che đậy. Nhưng cháu vẫn muốn tiếp tục điều trạ Bác có biết Jackson cưới vợ và có con trai ?

      - Theo tài liệu lưu trữ chỗ tôi trước khi nhập ngũ, Jackson là tên du thủ du thực. hồ sơ rất xấu. Nhưng khi trong quân ngũ, được nhận xét rất tốt. thượng cấp nào nghi ngờ những hoạt động của nó. Nếu có trợ lý của tôi, đại úy Harry Weatherspoon, truy tìm ráo riết những kẻ bán ma túy, Jackson chắc hốt bạc.

      Tôi ngồi im cố để lộ những điều tôi linh cảm thấy.

      - Đại úy Harry Weatherspoon? nay ta ra sao ạ?

      - Cậu ta giải ngũ. Tôi có nghe cậu ta mua nhà máy liên quan đến ếch nhái gì đấy. Tôi lấy làm lạ vì cậu ta từng là nhân viên xuất sắc của cơ quan chống ma túy của quân đội. (Ông xem đồng hồ). Tôi cần phải thay đồ rồi. Trước khi tiếp tục điều tra nên xin ý kiến Parnell. Tôi hiểu sao việc tìm đứa con của Jackson lại quan trọng như vậy.

      Chúng tôi bắt tay nhau rồi tôi ra về.

      Lúc đó là bảy giờ kém hai mươi. Tôi quyết định trở về nhà. Tôi cần phải suy nghĩ cách bình tĩnh và muốn ra ngoài nữa.

      Tôi mở cửa phòng, tay lăm lăm khẩu 38 lỵ có thằng du đãng nào đợi tôi ở đây cả. Tôi khóa trái cửa và nhét súng vào bao. Tôi ngồi xuống ngẫm nghĩ về những điều vừa xảy ra trong ngày. Tôi cảm tưởng công việc có tiến triển. Tôi tự nhủ ngày mai tới gặp Howard và Benbolt – các công chứng viên của Weatherspoon, rồi quay về Searlẹ Tôi cũng muốn gặp lại Wally Watkins, chuyện với Josh – người bưu tá và tất nhiên cả Weatherspoon nữa.

      Trong khi uống uytski, tôi thấy trong tôi lớn dần linh cảm mấy dễ chịu là Parnell cho tôi tiếp tục điều tra nữa, nếu tôi kể cho ông tất cả những điều tôi phát cho tới naỵ Tôi mừng là ông ở Washington.

      ***

      Sau khi ăn sáng muộn, tôi tới văn phòng Howard và Benbolt ở Miamị Họ đều ở tầng năm của tòa văn phòng rất đẹp ở phố ba mươi sáu tây bắc. người đàn bà cao lớn tóc muối tiêu ngồi ở phòng tiếp tân. Bà nhìn tôi với đôi mắt lạnh và mấy thiện cảm.

      - Tôi muốn gặp ông Benbolt, - tôi mỉm cười và đưa cho bà ta danh thiếp.

      Bà ta xem danh thiếp của tôi và quẳng ngay xuống, cứ như sợ nó làm bẩn ngón tay.

      - Ông có hẹn trước ?

      Tôi đáp rằng .

      - Ông Benbolt chỉ tiếp những thân chủ có hẹn trước.

      Tôi đáp rằng tôi phải là thân chủ. Tôi chỉ muốn trao đổi vài lời với ông Benbolt thôi, tất nhiên nếu ông ấy quá bận.

      - Thế ông tới đúng lúc rồi.

      Mụ già làm tôi hơi bực mình. Nhưng tôi vẫn cố tươi cười rằng tôi lấy làm tiếc và hỏi lúc nào có thể tới gặp được.

      Bà ta nhìn tôi lúc dường như xem có phải tôi chế nhạo bà ta , rồi nhấn máy điện thoại nội bộ:

      - Có ông Wallace nào đó của hãng thám tử tư Parnell muốn gặp ông, ông Edward ạ.

      giọng chân thành vang lên trong máy.

      - Cho ông ấy vào gặp tôi, Lacey.

      già tắt máy và giơ ngón tay chỉ cho tôi cái cửa.

      - Sau cửa này, theo dọc hành lang vào cửa thứ ba bên phải.

      Tôi cám ơn, vào hành lang rộng, rồi gõ cửa thứ ba bên phải. giọng vang và chân thành mời tôi vào. To lớn và phương phi, Benbolt cho tôi ấn tượng là người giàu có. Ông trạc ngoại tứ tuần. Chiếc sơ mi Cardin, cúc măng sét bằng vàng, mái tóc đen bóng nhẫy, gò má hồng hào, tất cả đều toát ra vẻ giàu có và tự tin.

      - Mời ông vào, ông Wallacẹ (Ông chìa tay cho tôi. Bắt tay ông tôi có cảm giác bàn tay như được làm bằng thứ bột nhão).

      Tôi đoán rằng bàn tay ông chỉ quen dùng dao và nĩa.

      - Mời ông ngồi. Ông Weatherspoon có điện thoại cho tôi rằng ông qua đây.

      Ông ta cười để lộ cả hàm răng có phủ lớp men đắt tiền.

      - Ông ta cũng với tôi rằng tôi có thể giúp ông giải quyết vấn đề gì đó. Chúng tôi đều biết hãng Parnell, hãng vào loại tốt nhất bây giờ.

      - Chắc Weatherspoon cũng với ông tôi là đại diện của ông già Fred Jackson quá cố trong việc tìm kiếm đứa cháu nội của ông ấy., -tôi .

      - Đúng như vậy. Chúng tôi cũng thử tìm kiếm nó. Tất cả chuyện này có vẻ bí thế nào ấy, phải ? Ông Weatherspoon có ý định mua lại khu chăn nuôi ếch của Jackson, nhưng tôi thể làm gì trước khi tìm được người thừa kế của Jackson.

      - Ông có chắc Johnny Jackson là người thừa kế của Jackson ?

      - còn gì phải nghi ngờ. Tôi xem bản sao của tờ di chúc.

      - ra có tờ di chúc?

      - Đúng như thế. Ông già Jackson di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho con trai là Mitch và trong trường hợp người này chết cho người nối dõi ta, nhưng với điều kiện phải là con trai, thừa kế.

      - Điều này có nghĩa là loại bỏ vợ của Mitch?

      - Nếu ta có vợ đúng là như vậy. Nhưng cho tới nay, có gì chứng minh là Mitch lấy vợ.

      - Nhưng trong trường hợp đó Johnny là đứa con ngoài pháp luật. Điều này có cản trở nó được nhận tài sản của ông nó ?

      - . Khi dùng thuật ngữ “nối dõi” là Jackson tính chuyện đó.

      - nay ai là người giữ bản di chúc gốc?

      - Ông Willis Pollack, công chứng viên ở Searle, - Benbolt với vẻ kẻ cả. – Tôi gọi điện cho ông tạ Ông cho biết rằng Jackson làm di chúc khi Mitch nhập ngũ. Ngoài khu chăn nuôi ếch dường như ông ta chẳng để lại gì. Khu này thực ra chẳng có giá trị mấy và ông Weatherspoon sẵn sàng trả năm ngàn đôla, hơn xu.

      Tôi nghĩ tốt nhất là với tay công chứng viên lúc nào cũng tươi cười này về cái hố dưới gầm giường của Fred. Tôi gần như chắc chắn là có khoản tiền lớn được giấu dưới đó.

      - Thế việc tìm kiếm của ông có tiến triển gì , ông Wallace?

      - chưa. Johnny biến mất khá lâu rồi. Mọi dấu vết lu mờ. Nhưng tôi cố. Vả lại, tôi mới nhận vụ này được có mấy ngày. Tôi chỉ muốn gặp ông để tin rằng chúng ta để mất thời gian và tiền bạc khi cùng lần theo dấu vết.

      Cái cớ của tôi khiến ông ta có vẻ hài lòng. Ông gật đầu tỏ ý đồng tình.

      - Chúng tôi cho đăng thông báo các báo. Đúng như ông , mọi chuyện đều mới bắt đầu. (Ông ta nhìn chiếc đồng hồ Ômêga bằng vàng). Thôi thế nhé. Ông muốn chúng ta thường xuyên liên lạc với nhau chứ?

      Ông ta đứng dậy và chìa tay cho tôi. Tôi bắt tay và liên lạc lại sau. Tôi cũng đề nghị Ông cho tôi biết nếu có phản hồi từ các thông báo và đưa cho ông danh thiếp của tôi.

      Ba giờ sau tôi có mặt ở nhà ăn khách sạn Jumping Frog. Khi tôi qua tiền sảnh thấy Bob Wyatt đứng ở quầy tiếp tân. Ông gật đầu thân thiện chào tôi. Tôi ngồi vào bàn ở mãi trong góc, chào và mỉm cười với mọi người và ăn món gà Maryland tuyệt vời. Ăn trưa xong tôi hỏi Abraham, người quản lý da đen, địa chỉ của Willis Pollack, công chứng viên ở Searlẹ Sau khi uống xong cà phê, tôi tới văn phòng của Willis Pollack được đặt bên cửa hiệu kim khí.

      Tôi có cảm giác như mình vào trường quay phim dựng lại cảnh từ những năm 1800. bà già bé tóc trắng như tuyết, mặc bộ đồ đen ngồi sau chiếc bàn với chiếc máy chữ Remington có lẽ thuộc lô xuất xưởng đầu tiên. Căn phòng rộng xếp đầy những chiếc hòm đựng hồ sơ còn dùng nữa. Cạnh cửa sổ là chiếc bàn rộng hơn của Willis Pollack. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa và đứng nhìn ông.

      Willis Pollack ngoài tám mươi, vóc người thó, bộ ria bạc trắng và đôi mắt nâu còn rất tinh . Ông có vẻ như tàn tích của thế kỷ trước.

      - A, Wallace! – ông . – Mời vào đây.

      Ông già đứng thẳng dậy, nụ cười chân thành làm rạng rỡ khuôn mặt nhăn nheo và tàn tạ bởi thời gian.

      - Bà đây là Daisy, bà vợ quý của tôi. – ông giới thiệu. – Trong khi tôi chuyện vãn, bà ấy làm đủ mọi công việc.

      - Thôi nào, Willis. (Bà nhìn tôi). Ông nhà tôi lúc nào cũng quá lên ấy mà! Tôi cứ tự hỏi dân trong vùng này ra sao nếu có ông ấy.

      Gần như trong mơ, tôi bước vào căn phòng chiếu sáng lờ mờ, tới bắt tay Pollack, rồi bắt tay bà Daisy.

      - Tôi giúp gì được đây? – ông hỏi.

      - Như bác biết đấy, bác Willis ạ, cháu tìm kiếm Johnny Jackson.

      Rồi tôi kể cho ông ấy về bức thư của Jackson gửi cho hãng tôi, với ông rằng đại tá nhận của ông già Jackson trăm đôla và giao cho tôi điều tra vì Mitch là người hùng.

      - Cháu cũng tới gặp ông Benbolt và ông ấy cho biết rằng Fred Jackson có soạn di chúc để ở chỗ bác. Cháu rất muốn biết bản di chúc được soạn như thế nào và vào thời gian nào.

      Pollack quay người về phía bà vợ.

      - Bà cho ấy xem bản di chúc . – ông âu yếm.

      Bà già tìm tờ giấy trong hòm tài liệu và đưa lại cho tôi. Lời lẽ trong bản di chúc cực kỳ đơn giản.

      Tôi, Fred Jackson, ký tên dưới đây, di chúc để lại toàn bộ động sản và bất động sản của tôi cho con trai tôi là Mitch Jackson. Nếu Mitch chết trước tôi toàn bộ tài sản được trao cho những người nối dõi nó là con trai, bất kể trong hay ngoài giá thú. Nếu có con trai, toàn bộ tài sản này thuộc về Quỹ cựu chiến binh để trợ giúp cho những người bị cụt chân cụt tay như tôi.

      Bên dưới là chữ ký vụng về khó mà đoán ra nổi. Có cả chữ ký của Willis và Daisy Pollack với tư cách là người làm chứng.

      - Bất kể trong hay ngoài giá thú? – tôi và nhìn Pollack. – câu lạ .

      Ông già vuốt râu cười.

      - Chả có gì là lạ cả. Fred thừa biết con trai ông ta phải loại người thích hợp với hôn nhân. Ông dự liệu trước rằng Mitch có thể có con ngoài giá thú. Fred quan tâm tới con . Rồi Johnny tới. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên kể từ khi thằng Mitch ra , ông già Fred mới cảm thấy hạnh phúc.

      - Thế bản di chúc này được lập khi nào?

      - Ngay khi Mitch nhập ngũ, Fred cầu tôi cùng với Daisy tới gặp ông ta vì ông muốn lập di chúc. Chúng tôi tới đó. (Ông già lắc đầu). Rất lâu trước kia, tôi và Fred từng là bạn thân. Nhưng khi Fred mất đôi chân, ông ấy sống cách ly hoàn toàn. Daisy và tôi bị sốc mạnh khi thấy cảnh ông sống khốn khổ như vậy. Ông cách lạnh lùng và chính xác ông muốn soạn di chúc như thế nào. Tôi hỏi ông có muốn để lại chút gì cho vợ Mitch , nếu nó lấy vợ . Fred tỏ ra rất khó chịu với tôi rằng di chúc là của ông và cần phải viết đúng như ông dự liệu. Tôi viết theo lời đọc của Fred, rồi ông ta ký tên. Tôi và Daisy cũng làm như vậy với tư cách là hai người làm chứng. Tôi tin Fred để lại tiền bạc gì. Ông ta chỉ có đất đai và ngôi nhà chẳng có giá trị bao nhiêu. Vì vậy tôi nài ông ta viết chi tiết hơn.

      - Điều gì khiến bác nghĩ rằng ông ta có tiền bạc gì?

      - Theo cái cách mà ông ta sống, Wallace ạ. Nếu thiếu tiền ai chịu sống khổ hạnh như vậy. Fred có tài khoản ở ngân hàng và người ta cũng tìm thấy tiền ở nhà ông ta.

      - Thế ai tới tìm?

      - Bác sĩ Steed và ông Weatherspoon tới đó ngay sau khi Fred qua đời. Bác sĩ Steed rằng ông ta tìm khắp nơi và thấy có giấy tờ cũng như tiền bạc gì.

      - Thế còn ông Weatherspoon? Ông ta tới đó làm gì?

      - Ông ta muốn mua khu đất của Fred. Và cũng do ông ấy với bác sĩ Steed là bạn thân mà. Vả lại bác sĩ Steed nghĩ trong khi khám xét ngôi nhà nên có người làm chứng.

      - Họ có thấy lạ là ông Jackson để lại giấy tờ gì ?

      - Có chứ. Tôi cũng lấy làm lạ. Nhưng Steed rằng trước khi tự sát, Fred chắc đốt hết mọi thư từ và giấy tờ rồi.

      - Bác có ngạc nhiên khi biết Fred tự sát ?

      - Có chứ. Đó là cú sốc lớn đối với vợ chồng tôi. Việc Johnny bỏ giáng cho ông đòn chí tử. Ở vào tuổi ông, lại mất đôi chân, chắc ông ấy nghĩ rằng chết là cách giải thoát tốt nhất.

      - Như vậy bây giờ phải tìm cho được Johnnỵ Cám ơn bác dành thời gian cho cháu. Sau này nếu cần được giúp đỡ, cháu xin phép được trở lại quấy rầy bác đôi chút.

      - Đừng có ngại gì, Wallace ạ.

      đoạn, ông bắt tay tôi. Tôi tới bắt tay bà Daisy rồi xuống cái cầu thang ọp ẹp và bước ra đường phố oi nồng.

      Vụ này bắt đầu là câu đố ghép hình hóc búa. Nhưng rồi dần dần, các mẩu hình bắt đầu ăn khớp với nhau.

      Tôi tới nhà bưu điện, trẻ mặt đầy mụn trứng cá, mang đôi kính dầy cộm ngồi sau lưới mắt cáo. Đúng lúc tôi đến trước mặt ngáp, chợt nhìn thấy tôi nở vội nụ cười đầy hy vọng.

      - Chào Wallace! Bưu điện Searle sẵn sàng phục vụ .

      - Cám ơn. – tôi . Ông Josh có đây ?

      - Ông ấy chọn thư trong kia. ( chỉ cái cửa). tìm được Johnny chưa?

      - Chưa. Nếu tìm thấy, là người đầu tiên được biết.

      cười khanh khách.

      - Em hiểu. Làm thám tử thích đấy.

      - ?

      Rồi tôi đến cái cửa chỉ. Tôi mở cửa rồi bước vào phòng chia thư.

      Đứng trước quầy là người đàn ông béo tròn và hói đầu, trạc ngoài sáu mươi, chia đống thự Miệng ông ngậm tẩu và chiếc kính tụt tới gần đầu mũi.

      - Ông có thể dành cho tôi ít phút được ? – tôi hỏi.

      Ông ngước mắt nhìn, gật đầu rồi lại cúi xuống chọn thư.

      - Tôi là Dirk Wallacẹ Bill Anderson chắc với ông về tôi. Tôi tìm kiếm Johnny Jackson.

      Ông bưu tá gật đầu, mắt vẫn rời chồng thư.

      - Anderson có với tôi rằng cứ vào ngày đầu tháng ông lại chuyển bức thư cho Jackson. Chuyện đó diễn ra từ ngày Mitch chết. Tháng nào cũng như tháng nào trong suốt sáu năm… có đúng vậy ?

      Lại gật đầu. Ông bưu tá vẫn thốt lời nào.

      - Những bức thư đó có phải từ Miami tới ? (Lại gật đầu). Và bây giờ có thư nào tới nữa? (Lại gật đầu). Người ta cũng với tôi rằng chính ông cho Johnny nhờ xe đến nhà ông già Jackson khi nó vừa mới tới Searle.

      Lại gật đầu.

      Tôi khó khăn lắm mới kìm được nổi cáu.

      - Trong lúc cho thằng bé nhờ ông có chuyện với nó ? Ông có hỏi nó từ đâu tới ?

      Với vẻ chậm chạp đến bực mình, rốt cuộc ông bưu tá cũng chia thư xong. Ông rít hơi thuốc, tựa hai cánh tay lên mặt quầy, rồi nhìn tôi cười thân mật.

      - Xin lỗi , tôi chỉ có thể mỗi lúc làm việc thôi. Bây giờ soạn xong đống thư rồi, tôi có thể tiếp chuyện với . với tôi về Johnny Jackson phải ?

      - Đúng vậy. Khi ông cho Johnny nhờ ông có hỏi nó từ đâu đến ?

      - Tất nhiên là có chứ. Nhưng thằng bé chỉ là nó tới từ nơi rất xạ Theo gương mặt nhợt nhạt và mệt mỏi của nó, tôi hiểu rằng nó muốn chuyện. Tôi vốn tôn trọng cuộc sống riêng tư của người khác. Và thế là tôi thôi hỏi gì nữa.

      - Khi ông dẫn thằng bé tới nhà có chuyện gì xảy ra ?

      - Tôi đưa nó vào nhà. Tôi cho nó xuống cạnh đường rồi chỉ nhà cho nó. Tôi nghĩ tôi có thể với điều này nữa. Chuyện này tôi chưa hề kể với ai. Vả lại cũng lâu lắm rồi. Thực lòng tôi rất muốn giúp tìm lại Johnnỵ (Ông rít hơi thuốc và có vẻ lưỡng lự).

      - Ông còn muốn gì với tôi nữa? – tôi hỏi. – Xin ông hãy nghe tôi. Johnny là người thừa kế của ông già Jackson. Giúp tôi tìm Johnny tức là ông giúp ông già Jackson đấy.

      - đúng. Cuối cùng, thằng bé xuống xe và cám ơn tôi rất tử tế. Rồi nó lấy trong túi ra chiếc phong bì. mười năm trôi qua rồi, nhưng tôi còn nhớ vẻ mặt lo lắng của nó khi nó nhìn tôi. Nó bảo rằng nó có tiền mua tem. Nó nhờ tôi bỏ giúp nó vào thùng thư ở bưu điện. Nó bảo việc này rất quan trọng. Tôi làm giúp nó. Tôi nhìn thấy nó lần cuối cùng khi nó lên dốc vào nhà.

      - Như vậy, ý ông muốn trong suốt sáu năm trời, tháng nào ông cũng đưa thư tới cho Jackson, nhưng bao giờ gặp thằng bé, phải ?

      - Đúng vậy. Xe tôi kêu ầm ĩ lắm nên Fred nghe thấy tôi tới. Lần nào ông cũng lết ra chỗ đường ngoặt lấy thư, lầm bầm mấy câu rồi quay về.

      - Thế ông có bao giờ hỏi thăm sức khỏe thằng bé ?

      - Tôi rất muốn làm điều đó, nhưng ông già chẳng bao giờ gì. Ông ta cầm lấy thư rồi quay ngaỵ Tôi thường phát thư vào lúc thằng đến trường nên bao giờ gặp nó. Fred thậm chí chẳng gì ngay cả lần tôi mang tới cho ông huân Chương của con trai. Tôi hiểu đó là huân Chương vì thấy có hộp và bao gói cẩn thận. Ông giật nó từ tay tôi, ký nhận rồi bỏ .

      - Thế bức thư mà Johnny đưa cho ông… tôi biết mười năm trôi qua, nhưng ông còn nhớ nó gửi cho ai ?

      - Ồ, có chứ. Tôi vốn tò mò mà. Hơn nữa, thằng bé như từ trời rơi xuống và lại tìm gặp lão già Fred ai tò mò muốn biết.

      - Tôi hiểu. (Tôi cố nén hét lên vì vui sướng). Thế bức thư gửi cho ai?

      - Bức thư ấy à? Nó được gửi cho bà Stella Costa, phố Macey ở Secomb, số bảy hay chín gì đó.

      Tôi tự hỏi biết mình chạm đúng mỏ vàng hay chưa

      - Bà Stella Costa, số bảy hay chín phố Macey ở Secomb.

      Ông bưu tá gật đầu.

      - Đúng vậy.

      - Cám ơn ông Josh, - tôi . – Ông giúp tôi rất nhiều.

      - Tôi quý thằng bé lắm! Nếu Fred có để lại tiền bạc tôi rất mừng nếu thằng bé nhận được nó.

      Tôi bắt tay Josh và nhanh ra chỗ đỗ xe. Tôi phải nhanh chóng tìm được bà Stella Costa.

      ***

      Paradise City nổi tiếng là thành phố đắt đỏ và xa hoa nhất thế giới. Để giữ được tiếng tăm đó và chiều chuộng những gã tỷ phố sống ở đây, thành phố phải sử dụng cả đội quân lao động, quét dọn đường phố, phục vụ khách sạn và hộ sĩ. Đội quân khổng lồ đó đóng ở Secomb, cách thành phố hai cây số.

      Secomb rất giống West Miamị Đây là thành phố với những ngôi nhà lụp xụp, những khách sạn rẻ tiền, những quán bar và hộp đêm mờ ám.

      Phố Macey xuất phát từ đường Seaview, trung tâm thương mại của thành phố.

      Nhà số bảy là cửa hiệu may . Từ ngưỡng cửa, ông chủ người Hoa tươi cười mời chào. Tôi tiếp. Nhà số chín xem ra có vẻ hứa hẹn hơn. Tôi thấy cái cửa kẹp giữa hiệu ăn Tàu và hiệu thuốc. Bên cửa có treo tấm bảng “cho thuê phòng”. Tôi bước vào. Ở bên trái có cánh cửa ghi “văn phòng”. Tôi gõ cửa, mở ra và bước vào căn phòng . người da đen ngồi sau chiếc bàn say sưa đọc báo. Ông ta trạc ngoài bảy mươi, tóc bạc trắng.

      Ông ta đặt tờ báo thể thao đọc dở xuống bàn, nhìn tôi cười nghi vấn và tinh quái.

      - Ông nghĩ gì về cuộc đua ngựa ba giờ chiều mai? – ông ta hỏi.

      - Tôi biết. Tôi chơi cá ngựa.

      - Tôi cũng ngờ như vậy. (Ông già gật đầu). Thế có tìm thuê phòng ?

      - . Tôi tìm bà Stella Costa.

      Ông ta nhướn hàng lông mày rậm.

      - người trẻ tuổi ăn mặc lịch , chơi cá ngựa như mà lại dây dưa với loại người như Costa sao?

      Tôi mỉm cười thân thiện.

      - Nếu bà ta muốn tự bà ta cho ông biết.

      Ông ta có vẻ suy nghĩ về những điều tôi vừa , hết nhấc kính lại đeo vào.

      - Bà ta đâu có thèm trả lời tôi.

      - Tệ quá nhỉ. Thế phòng bà ấy ở đâu?

      - Phòng của Stella ấy à?

      - Tôi có nhiều thời gian đâu. Có thể tìm bà ta ở đâu?

      - Chắc chắn là bây giờ có ở đây. Bà ta chuyển từ nhiều năm rồi.

      Tôi lấy chiếc ghế và ngồi dạng chân ra hai bên.

      - Mà tôi chưa biết tên ông.

      - Cứ gọi tôi là Washington. Bố mẹ tôi vốn có óc hài hước mà.

      - Vậy thưa ngài Washington, ngài có thể cho tôi biết bà ấy sống ở đâu ?

      Ông già lấy từ túi ra chiếc khăn mùi soa rồi lau kính.

      - Tôi xin nhắc lại câu hỏi đầu tiên của tôi: tại sao người trẻ tuổi, ăn mặc lịch , chơi cá ngựa như lại muốn gặp loại người như Costa?

      Tôi quá quen thuộc những tình huống như thế này. Tôi lấy ví rút ra tờ hai mươi đô và nhìn ông già. Ông ta đeo ngay kính lên, nhìn tờ giấy bạc, rồi nhìn tôi.

      - Tôi biết ngay bạn trẻ là người thông minh mà.

      - Vậy tôi có thể tìm bà Costa ở đâu? – tôi nhắc lại.

      - câu hỏi tuyệt vời: tìm ở đâu? Tôi muốn trước hết phải có cái mà cầm trong tay . lòng tôi biết bà ta ở đâu. Nhưng tôi có thể kể cho số chuyện về cuộc đời bà ấy. có muốn nghe ?

      Tôi đặt tờ giấy bạc xuống trước mặt ông già. Ông xem xét lúc, rồi cầm nhét luôn vào túi áo.

      - Bây giờ ta chuyện công việc, - Ông ta mỉm cười . – hỏi tôi là bà Costa ở đâu đúng ?

      - Đúng, thưa ngài Washington. Ông có thể gì về bà ấy?

      - Tôi đề nghị đừng gọi tôi là ngài Washington nữa. Cứ gọi tôi là Wash như mọi người ở đây vẫn gọi.

      - Cũng được thôi. Vậy là bà ta sống ở đây và bây giờ chuyển nơi khác?

      - Đúng thế.

      - Bà ta sống ở đây bao lâu?

      - Khoảng hai mươi năm trước, bà ta tới đây cùng đứa con trai còn bé tí. Lúc đó bà ta mới mười bảy mười tám tuổi gì đấy. Bà ta thuê của tôi hai căn phòng đẹp nhất và xưng tên là Stella Costa, nhưng tôi có cảm tưởng đó phải là tên .

      - Điều gì khiến ông nghĩ như vậy?

      - Chủ ngôi nhà cho thuê buộc phải thận trọng, - Ông ta nhìn tôi cười tinh quái. – Khi bà ta ra ngoài, thằng bé khóc tôi có ghé vào xem có chuyện gì với thằng bé. Tôi có chìa khóa vạn năng mà. Thực ra chẳng có chuyện gì nghiêm trọng cả, nhưng tôi thấy phong bì trong sọt đựng giấy tờ đề gửi cho bà Stella Jackson. Vì vậy tôi nghĩ rằng bà ta xưng cái tên khác.

      - Bà ta tự kiếm sống chứ?

      - Tất nhiên rồi! Bà ta đẹp lắm. Rất đẹp. Bà ấy biểu diễn thoát y vũ trong nhiều hộp đêm.

      - Thế vào những giờ bà ta làm việc, thằng bé sao?

      - Bà ta toàn làm việc về đêm, nên thằng bé có vấn đề gì.

      - Chuyện này kéo dài khoảng bao lâu?

      - Khoảng năm năm. Tiền nhà trả rất nghiêm chỉnh. Hầu như bà ta ngủ suốt ngày. Chẳng chăm lo gì cho thằng bé, vậy mà nó vẫn sống.

      - Thằng bé có học ?

      - Có chứ. Điều này có thể làm cho ngạc nhiên. Nhưng ở Secomb này có trường tốt lắm. Johnny học ở đó. Nó là đứa bé rất ngoan. Có thể hơi ẻo lả chút, nhưng tôi rất quý nó. Khốn khổ là chuyện xảy ra với mẹ nó!

      - Chuyện gì vậy?

      - Vì Costa kiếm được nhiều tiền, bà ta phải đưa cả đàn ông về nhà. Johnny là mối phiền phức của họ. Bà ta phải cho nó lang thang ngoài phố, đợi cho bạn trai của bà ta về mới được về. Thằng bé với tôi rằng nếu có dịp nó bỏ . Tôi bỏ ngoài tai, xem như chuyện bực bội của trẻ con. Thế rồi năm nó chín tuổi, nó bỏ . ngày sau hôm nó bỏ bà Costa hỏi tôi có thấy nó . Tôi có cho bà ta bài thuyết giáo ngắn về phận của người mẹ, nhưng bà ta thèm nghe. Bà ta bảo tôi rằng thoát được nó là may, bà ta khổ vì nó lắm rồi. (Ông già vuốt mũi và lắc đầu). Bà ấy có tình mẫu tử.

      - Thế bà ấy khỏi đây khi nào?

      - Khoảng hai năm sau Johnnỵ Hợp đồng cuối cùng của bà ấy là với Câu lạc bộ Skin.

      - Bà ấy có để lại địa chỉ ?

      - Trong cái nghề của tôi, người ta bao giờ lưu tâm đến thư từ vì vậy tôi hỏi. Cứ trả tiền thuê phòng xong, ai muốn đâu .

      - Ông có bao giờ chuyện với Johnny về bố của nó ?

      - Chỉ có lần. Tôi chỉ chuyện vãn với nó lúc nó ăn. Nó có với tôi rằng bố nó là người lính giỏi và dũng cảm nhất trong quân đội. Hồi đó nó mới bảy tuổi mà. biết chuyện bọn trẻ con rồi đấy. Tôi chẳng bận tâm làm gì, nhưng cảm thấy thương nó. Tôi nghĩ chắc nó là con trai người lính tằng tịu với Stella.

      Tôi có cảm giác moi hết thông tin từ ông già này. Tôi biết được thông tin gì nhiều, nhưng vẫn phải tìm Costa.

      - Thế Câu lạc bộ Skin ở đâu? – tôi hỏi và đứng dậy.

      - Ở phía đông Secomb Road. Trông coi Câu lạc bộ này là người Mêhicô, tên Edmundo Raiz. Nếu có ý định đến đó hãy giữ ví cho chặt.

      - Cám ơn ông.

      Câu lạc bộ Skin đặt dưới tầng hầm, đây là nơi chuyên dành cho những kẻ bê tha, say khướt và khách du lịch.

      Giờ này là vắng khách đối với tất cả các hộp đêm. Đồng hồ của tôi chỉ mười tám giờ năm. Tôi dừng chân xem bức ảnh phóng to của các thoát y vũ. Đó là nhóm ba da đen. Rồi tôi xuống gian phòng lớn có nhiều bàn ghế, quầy bar ở đầu và sàn diễn có dàn nhạc ở đầu khác.

      ngọn đèn đơn độc treo quầy bar và người đàn ông đứng đó xem tờ giấy. Chắc ông ta kiểm tra tổng thu nhập của ngày hôm trước. Người đàn ông này tóc đen với nước da sạm nắng và hàng ria mép mảnh. Trông ta con, nhưng béo tròn với đôi vai lực lưỡng. ta ngẩng lên nhìn tôi khi tôi qua phòng tiến tới chỗ ta.

      - Quầy bar đóng rồi, - ta cụt ngủn.

      - Tôi cần uống, - tôi . – Tôi là Diek Wallace, làm việc chỗ các ông Benbolt và Howard. Tôi cần số thông tin.

      Vẻ mặt ta sáng hẳn lên.

      - Thế hả? Thông tin gì?

      - Chúng tôi muốn tìm bà Stella Costạ Hình như trước kia bà ta có làm việc ở đây.

      - Howard và Benbolt à? – ta nheo mắt hỏi.

      - tôi rồi.

      - tìm bà ta làm gì?

      - Bà ấy được nhận khoản thừa kế , - tôi dối, - và chúng tôi muốn thanh lý tài sản kế thừa.

      - Tài sản thừa kế lớn cỡ chừng nào?

      - Cũng thôi. Đối với ông đó chỉ là món tiêu vặt, ông Raiz ạ. Nhưng chúng tôi muốn thanh lý tài sản đó. Ông có thể cho tôi biết tìm bà ấy ở đâu ?

      Đúng lúc đó, trẻ từ buồng cạnh dàn nhạc ở đầu kia của phòng bước ra. ngang qua phòng với những bước dài duyên dáng. Tôi phản ứng như thanh nam châm đặt trước mẩu sắt. Khoảng hai mốt hai hai, cao hơn tầm vóc trung bình, có mái tóc đen mượt và dài. mặc chiếc quần bò bó sát và chiếc áo phông vừa khít làm nổi bộ ngực căng phồng. Raiz bực tức nhìn .

      - Xéo ngay, Bêbê, - ta . – Tôi bận.

      ta tới gần quầy bar và mỉm cười với tôi. Đôi môi tô đỏ chót vẻ mùi mẫn và hàm răng trắng đều đặn.

      - Grosso buộc phải làm dữ, - . – Hãy tha thứ cho ấy. là ai?

      - Dirk Wallace.

      Nhìn tôi tự nhủ rằng qua đêm giường với ta chắc phải cấp cứu chứ chơi, nhưng cũng bõ lắm.

      - Chào Dirk. – ( ưỡn ngực về phía tôi, nhăn mặt với Raiz rồi vòng qua quầy bar chỉ chai Cutty Sark). Hãy phục vụ tôi và Dirk và đừng có cau có như thú dữ thế, Eđy.

      - Bêbê Mansel đây là thân của sex. ta ngủ với tất cả ở đây, chỉ trừ có voi thôi, - Raiz giải thích, rồi lấy chai uytski rót ra ba lỵ – Đừng có để ý đến tạ Trí tuệ của ấy chỉ giới hạn trong cặp đùi thôi.

      - Đừng có nghe mồm tạ (Bêbê cười ré lên). Vì chưa bao giờ sờ được tới đó nên ta tức tối đấy mà.

      ta nâng cốc và uống cạn hơi.

      - Bây giờ xéo , - Raiz hạ giọng nhưng đầy vẻ hăm dọa. Chúng tôi chuyện công việc.

      - Tôi nghe hết rồi. chàng đẹp trai này muốn biết Stella ở đâu chứ gì. cho ấy biết , Eđy.

      Tất cả diễn ra nhanh tới mức tôi kịp can thiệp. Với tốc độ của con rắn côbra, Raiz tát rất mạnh và xô ngã dúi vào hàng chai lọ giá. Rồi ta tóm lấy thắt lưng quẳng qua quầy làm văng cả ly rượu của tôi. lồm cồm bò dậy, chạy thục mạng tới cái cửa ở cạnh dàn nhạc, rồi biến mất. Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Raiz nhìn tôi cười.

      - Đừng để ý làm gì. Trong cái nghề của tôi phải biết cách xử với lũ con . Stella Costa hả? Rất thú vị đấy. Bà ấy làm việc khá lâu ở chỗ tôi. Đó là vũ nữ thoát y tuyệt vời. Con bé Bêbê lúc nãy cũng đến nỗi tồi, nhưng vẫn còn thiếu cái gì đấy. Để gây được ấn tượng mạnh, cần phải có chút xíu gì nữa cơ.

      - Tôi cũng ngờ vậy. Thế có thể tìm bà Stella Costa ở đâu?

      - Hượm nào. (Raiz nhìn tôi cười khẽ). Howard và Benbolt à? Chắc hai ông này phải lăn vàng ấy nhỉ. Tiền thưởng bao nhiêu đây?

      - có tiền thưởng nào hết, tôi trước với ông như vậy. Chúng tôi chỉ muốn thanh lý tài sản thừa kế thôi mà.

      - Thế ai để lại cho bà ta số tiền đó?

      - Người ta cho tôi biết. Mà điều đó có ý nghĩa gì. Tôi có thể tìm bà ta ở đâu?

      - Tôi biết. Bà ta khỏi đây năm nay rồi. Mà cũng phải thôi, ai cũng chỉ có thời. ( ta uống hơi và lắc đầu). Dễ chừng bà ta ngoài bốn chục rồi còn gì. Khách hàng của tôi giờ chỉ thích những trẻ thôi.

      - ta cứ thế bỏ thôi à?

      - Thực ra tôi thuyết phục bà ấy. ( ta lại cười khẽ).

      - Bà ấy có đâu ?

      ta tỏ vẻ khó chịu.

      - Tôi cũng hỏi.

      Lại manh mối nữa tan vỡ, tôi nghĩ.

      - Dù sao cũng cám ơn, ông Raiz ạ. Thôi bây giờ đành phải đăng thông báo báo vậy.

      Cái nhìn của Raiz trâng tráo.

      - Ai hơi đâu để ý đến con điếm?

      - Bà ta thực là vậy sao?

      - có cần bức ảnh ?

      - Chúng tôi cho đăng cùng với thông báo. là quảng cáo cho cơ sở của ông đấy. “Stella Costa vũ nữ thoát y và điếm từng làm việc ở Câu lạc bộ Skin làm ơn liên lạc với…”. (Tôi nhìn Raiz cười). Ông thừa biết tiếp sau như thế nào rồi.

      - Đừng có đến tên Câu lạc bộ của tôi vào đó, - Raiz đầy vẻ bực bội.

      - Tại sao lại . Rất nhiều khách du lịch muốn biết tìm những vũ nữ kiêm điếm ở đâu là gì. Chuyện này tốt cho việc kinh doanh của ông lắm đấy, ông Raiz ạ.

      ta ngả người ra phía trước nhìn như nuốt sống tôi.

      - Nếu nhắc đến cơ sở của tôi, tôi đưa ra tòa.

      - Đồng ý thôi. Khi đó tôi hỏi cảnh sát, chắc họ cho tôi nhiều thông tin hơn ông kia.

      - Xéo khỏi đây ngay.

      - Bình tĩnh nào, ông Raiz. Chắc ông biết bà ta ở đâu. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi đăng báo và hỏi cảnh sát nữa.

      Gã lưỡng lự rồi nhún vai.

      - Bà ấy chết rồi. Bà ấy say và bị thằng tập lái xe cán chết.

      - Thôi ông Raiz, ông có thể bịa hay hơn thế nữa kia. Tôi thừa sức kiểm tra điều ông . Hãy động não . Nào, Stella ở đâu?

      - Hay lắm thằng khốn. Mày muốn thế hả? Tao cho mày bài học nhớ đời.

      Chắc là hệ thống báo động trong quầy. Tôi nghe thấy tiếng chuông ở xạ Rồi chiếc cửa ở cạnh dàn nhạc mở toang và hai thằng nhọ mà tôi gặp hồi nào xuất . Đứa nào cũng lăm lăm con dao trong taỵ Từ lần đầu gặp chúng, tôi bao giờ cũng mang theo súng trong người. Khi chúng tới gần, tôi rút phắt súng ra. Đây là trong số nhiều điều mà cha tôi bắt tôi học và tôi thành thạo.

      Nhìn thấy khẩu 38 ly tay tôi, chúng đứng sững lại như húc phải bức tường bê tông.

      - Chào mấy thằng hôi, - tôi . – Tao bắn nát sọ chúng mày. Cứ thử tiến đến gần đây.

      Tôi liếc thấy Raiz chìa tay với lấy chai Cutty Sark. Đúng lúc định nện vào tôi, tôi giáng nòng súng đúng vào giữa bộ mặt nhăn nhó của . đổ sập xuống bên trong quầy. Tôi cười với hai gã da đen vẫn đứng như trời trồng.

      - Xéo ngay! – tôi hét. – Nhanh!

      Chúng biến mất ngay lập tức và đóng sập cửa lại.

      Thận trọng tôi giật lùi ra khỏi phòng, leo lên mấy bậc thang, rồi chuồn ra đường phố đầy người.

      Bêbê đợi tôi ở ngoài, vẫn với chiếc quần bò và chiếc áo phông bó chặt cứng. ta mỉm cười và khoác lấy tay tôi.

      - Đưa em về nhà nhé, cưng. Ta tha hồ mà chuyện vãn.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :