Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa - Arnaldur Indriđason (45c)(Trinh Thám)

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      [​IMG]

      Tên : Vết Bớt Màu Cà Phê Sữa
      Tác giả: Arnaldur Indriđason

      Nguyên tác: Jar City
      Bộ sách: Reykjavik Murder Mysteries [#1]
      Thể loại: Kinh dị, Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Phương Phương
      Nhà xuất bản: Thời Đại
      Công ty phát hành: ImOne
      Số trang: 360
      Kích thước 13,5 x 20,5 cm
      Giá bìa: 69.000
      Năm xuất bản: 2010
      Tạo prc: Hoàng Liêm
      Nguồn: e-thuvien.com
      Ebook: http://www.dtv-ebook.com

      Giới thiệu:


      Đọc “Vết bớt màu cà phê sữa” người đọc nhanh chóng nhận ra rằng từ đoạn mở đầu cho tới khi kết thúc tác phẩm những nút thắt tưởng như thể tháo gỡ liên tiếp được đưa ra khiến người đọc ngừng lật những trang kế tiếp.

      Câu chuyện bắt đầu bằng việc thám tử Erlendur được mời tới điều tra vụ án mạng xảy ra tại Reykjavík. Nạn nhân là người đàn ông 69 tuổi làm nghề lái xe tải tên là Holberg, bị đánh rất mạnh vào đầu bởi chiếc gạt tàn. Bên cạnh xác chết là mẩu giấy đó có viết 3 chữ và bức ảnh chụp ngôi mộ của trẻ qua đời từ lâu. Những sợi dây liên kết thực quá mơ hồ, bất đồng quan điểm giữa Erlendur cùng 2 đồng là Sigurdur Óli và Elínborg ngày căng thẳng…
      Arnaldur Indridason là người kể chuyện cừ khôi, trong cuốn Vết bớt màu cà phê sữa, Erlendur vừa là nhân vật chính vừa được nhìn nhận như người dẫn dắt câu chuyện. Đọc Vết bớt màu cà phê sữa người đọc chỉ bị cuốn theo từng tình tiết xoay quanh vụ án mạng mà còn được dẫn dắt tới những câu chuyện đan xen để từ đó nhận ra những thực đau lòng.​


      Đằng sau những mái nhà yên bình của Reykjavík có biết bao câu chuyện thương tâm về các mối quan hệ tan rã và đau khổ; về những cơn giận dữ, bạo lực gia đình và những sợ hãi triền miên; về lòng trung thành với gia đình và danh dự.

      Điều thực cuốn hút người đọc trong Vết bớt màu cà phê sữa đó là tình tiết truyện luôn luôn vận động ngừng và gian nơi câu chuyện diễn ra. Bao trùm lên toàn bộ tác phẩm là bầu khí ảm đạm, nền trời xám xịt và lúc nào cũng sũng nước. Đâu đó, nụ cười cay đắng trong truyện như để làm vợi luồng khí u ám mà Indridason thổi vào tác phẩm của mình ngay từ những phút đầu tiên khi câu chuyện bắt đầu.

      Khi gấp cuốn sách lại, hẳn mỗi người có cho riêng mình nỗi ám ảnh bé nào đó rút ra từ chính câu chuyện. Đó có thể là ánh mắt tinh nhanh cùng tâm trạng nặng trĩu của vị thám tử Erlendur, là khuôn mặt đau khổ hằn vết bi phẫn của kẻ sát nhân… Hay rộng hơn, đó có thể là những nghĩ suy về tấn bi kịch gia đình mà ta chỉ bắt gặp trong tác phẩm này hay ở đất nước Iceland bé mà ta còn có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trái đất này.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      1





      Các từ được viết bằng bút chì lên mẩu giấy, đặt tử thi. Chỉ có ba từ. Erlendur thấy khó hiểu.

      Đó là xác người đàn ông tầm bảy mươi tuổi. Nạn nhân nằm nghiêng về bên phải sàn nhà, quay lưng lại với cái ghế sofa trong phòng khách . Ông ta mặc chiếc sơ mi màu xanh da trời và quần nhung kẻ sọc màu nâu vàng, chân dép lê, tóc bắt đầu thưa dần, gần như ngả sang màu xám tro. Mái tóc ấy bết lại vì máu chảy ra từ vết thương rộng hoác đầu. sàn nhà, cách xác chết xa là cái gạt tàn lớn bằng thủy tinh với những góc sắc nhọn. Nó cũng dính đầy máu. Cái bàn uống nước bị lật đổ.

      Căn hộ đó nằm dưới tầng trệt của tòa nhà hai tầng ở Nordurmýri. Căn nhà nằm trong khu vườn có ba mặt được bao quanh bởi bức tường đá. Cây cối rụng hết lá, tạo thành tấm thảm nền đất trong vườn, những cành cây khẳng khiu chĩa thẳng lên nền trời tối kịt. con đường trải sỏi dẫn đến gara, nhân viên Cục điều tra hình Reykjavík đến trường. Người ta chờ nhân viên y tế quận, ông ta kí vào giấy chứng tử. Xác chết được báo cáo là tìm thấy khoảng 15 phút trước đó. Thám tử Erlendur cùng với cảnh sát Reykjavík là trong số những người đến trường sớm nhất.

      Hoàng hôn tháng Mười bao trùm lên toàn thành phố và cơn mưa ập xuống trong làn gió mùa thu. Ai đó bật chiếc đèn bàn trong phòng khách khiến cho gian quanh nó nhuốm thứ ánh sáng ảm đạm. Ngoài ra, thứ gì khác trong trường bị chạm đến. Đội pháp y đặt những bóng đèn huỳnh quang lên cái giá ba chân để thắp sáng căn phòng. Erlendur chú ý đến giá sách và bộ đồ gỗ mòn, chiếc bàn uống nước bị lật nhào, chiếc bàn cũ kỹ ở góc nhà và tấm thảm sàn thấm máu. Phòng khách thông ra gian bếp và bếp lại thông ra phòng làm việc , tiếp đến là hành lang , ở đó có hai phòng và nhà vệ sinh.

      Chính người hàng xóm sống ở tầng báo cho cảnh sát biết về cái xác. Sau khi đón hai đứa con trai của mình từ trường học trở về nhà, ta lấy làm lạ khi thấy cửa căn phòng dưới tầng trệt mở rộng. Nhìn vào bên trong căn hộ của ông hàng xóm, ta thử gọi to xem có ai ở nhà . Tuy nhiên ai trả lời. ta ngó vào nhà và gọi thêm lần nữa nhưng vẫn có ai đáp lại. Gia đình ta sống ở căn hộ tầng được mấy năm nhưng họ thân với ông hàng xóm ở tầng dưới nhiều lắm. Đứa con trai cả mới lên chín tuổi được thận trọng như bố, nhanh như chớp nó xộc thẳng vào phòng khách. lúc sau, thằng bé trở ra và rằng có người đàn ông chết trong phòng, dường như chẳng có vẻ gì là hoảng sợ trước cảnh tượng đó cả.

      “Con xem quá nhiều phim ảnh rồi đấy!” Người bố và thận trọng bước vào, và rồi ta thấy ông hàng xóm nằm chết trong phòng khách. Nhìn lên chuông cửa, Erlendur biết tên người chết. Tuy nhiên, để tránh mắc phải sai lầm ngớ ngẩn, ông đeo găng tay cao su rồi thò tay vào túi áo khoác của nạn nhân treo cái mắc gần cửa ra vào và lấy ra cái ví. Trong đó có thẻ thanh toán có dán ảnh. Người đàn ông đó tên là Holberg, sáu mươi chín tuổi. Chết tại nhà. Có lẽ là bị giết.

      Erlendur quanh nhà và đặt ra những câu hỏi đơn giản nhất. Công việc của ông là điều tra những gì mắt thấy ràng. Phần bí thuộc trách nhiệm của đội pháp y. Ông thấy có dấu hiệu đột nhập cả ở cửa sổ cũng như cửa chính. Thoạt nhìn, dường như nạn nhân mời hung thủ vào nhà. Những người hàng xóm tầng để lại dấu chân nơi tiền sảnh và thảm khi họ từ ngoài trời mưa vào trong căn nhà. Chắc hẳn hung thủ cũng vậy - trừ khi tháo giày ra trước khi bước vào trong. Về phía Erlendur, dường như ông quá vội vã đến mức quên cả tháo giày.

      Đội pháp y mang vào cái máy hút bụi để thu thập những mẩu đất đá cũng như những dấu vết nhất nhằm tìm ra manh mối. Họ tìm các mẫu vân tay và dấu bùn thuộc về ngôi nhà. Họ tìm kiếm những điều bất thường – những gì có thể gây ra cái chết.

      Tất cả những gì mà Erlendur có thể thấy là nạn nhân mấy hiếu khách với người khách của mình. Ông ta còn chưa pha cà phê. ràng là máy pha cà phê trong bếp chưa được dùng đến trong vòng vài giờ qua. có dấu hiệu nào cho thấy họ uống trà, vì có tách trà nào được lấy ra từ tủ. Mấy chiếc cốc cũng nằm nguyên tại vị trí cũ. Nạn nhân thuộc tuýp người rất ngăn nắp, đồ đạc được xếp gọn gàng và sạch . Có lẽ ông ta biết lắm về người khách của mình. Có lẽ tấn công nạn nhân ngay từ đầu, khi ông ta vừa mở cửa. Tấn công lúc vẫn chưa cởi giày.

      Ta có thể giết người cao ngang tầm mình ?

      Erlendur nhìn xung quanh và tự nhủ phải sắp xếp các suy nghĩ cẩn thận hơn. Bất luận thế nào, hung thủ cũng rất vội vàng. còn buồn đóng cửa sau khi ra. Cú đánh có dấu hiệu vội vã, như thể nó hoàn toàn bất ngờ và có báo hiệu từ trước. có dấu hiệu vật lộn trong phòng. Có vẻ như nạn nhân ngã ngay tại cửa, va phải cái bàn và xô đổ nó, còn các đồ đạc khác dường như chưa bị đụng chạm đến. Erlendur thấy dấu hiệu nào chứng tỏ căn hộ bị ăn trộm. Tất cả các tủ ly đều được đóng chặt, ngăn kéo cũng vậy, chiếc máy tính khá mới và dàn thanh cũ vẫn còn nguyên đó, chiếc ví vẫn nằm trong túi áo khoác nạn nhân treo móc gần cửa ra vào, trong ví có tờ 2000 cua-ron và hai thẻ thanh toán: thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng.

      Dường như tên sát nhân chộp ngay lấy vật đầu tiên trong tầm với và đánh vào đầu nạn nhân. Cái gạt tàn làm bằng thủy tinh dày, màu xanh và nặng ít nhất 1,5 kg, Erlendur nghĩ. vũ khí giết người có sẵn. Hung thủ khó có thể mang chiếc gạt tàn đầy máu theo người, do vậy để nó lại sàn phòng khách.

      Có hai chứng cứ ràng: người đàn ông mở cửa và mời người khách vào nhà, hoặc ít nhất là cùng vào phòng khách. Có thể ông ta biết người khách của mình, cũng có thể là . Ông ta bị tấn công bằng chiếc gạt tàn, cú đánh mạnh, và tên sát nhân nhanh chóng tẩu thoát, để cửa mở. Chỉ đơn giản có thế.

      Ngoại trừ lời nhắn để lại ...








      2





      Lời nhắn được viết tờ giấy khổ A4 giống như bị xé ra từ cuốn sổ có gáy xoắn. Đó là manh mối duy nhất mà tên sát nhân chủ ý để lại đây. Nó chứng tỏ rằng vào nhà với mục đích giết người từ trước. bị kích động đột ngột đến nỗi phải giết người ngay lúc đứng sàn phòng khách. bước vào căn hộ với ý đồ giết người có sẵn trong đầu. Ba từ, Erlendur hiểu chút gì. Phải chăng viết ba từ đó trước khi đến đây? Erlendur đến chiếc bàn ở góc phòng. đó là đống ngổn ngang các tài liệu, hóa đơn, thư từ và giấy tờ. đống giấy đó có cuốn sổ gáy xoắn, góc trang bên trong bị xé ra. Ông tìm chiếc bút chì mà hung thủ có thể dùng để viết lời nhắn nhưng thấy. Nhìn quanh, ông thấy có chiếc dưới gầm bàn. Tuy nhiên, Erlendur động chạm vào bất cứ thứ gì, ông chỉ nhìn và suy nghĩ.

      “Đây phải là vụ giết người theo kiểu Iceland điển hình của ông sao?” Thám tử Sigurdur Óli cất tiếng hỏi Erlendur. ta vừa bước vào căn hộ mà ông để ý, lúc này ta đứng bên tử thi.

      “Sao cơ?” Erlendur hỏi, ông còn mải mê với những suy nghĩ của mình. “Bẩn thỉu, vô mục đích, phạm tội mà cần che giấu, thay đổi manh mối hoặc che đậy chứng cứ.”

      “Đúng vậy,” Erlendur trả lời, “ vụ giết người đặc sệt kiểu Iceland.”
      “Trừ khi ông ta ngã vào cái bàn và đập đầu vào cái gạt tàn,” Sigurdur Óli tiếp. Nữ đồng nghiệp Elínborg cũng ở đó với ta. Erlendur cố gắng hạn chế các động thái của cảnh sát, của đội pháp y và đội trợ y trong khi ông quanh nhà, đầu cúi xuống.

      “Và viết lời nhắn khó hiểu khi ông ta ngã xuống?” Erlendur hỏi.

      “Có thể nạn nhân cầm tờ giấy trong tay.”

      có hiểu gì về lời nhắn đó ?”

      “Có thể đó là Chúa,” Sigurdur Óli , “có thể đó là tên sát nhân, tôi chắc. Việc nhấn mạnh vào chữ cái cuối cùng lạ lùng. Chữ HIM được viết hoa toàn bộ.”

      “Theo tôi lời nhắn đó phải được viết vội. Từ cuối cùng được viết hoa nhưng hai từ đầu tiên lại viết tháu. Kẻ viếng thăm vội vàng gì khi viết lời nhắn này. Nhưng lại đóng cửa khi ra. Điều đó có nghĩa gì? Tấn công người đàn ông và tẩu thoát, nhưng lại viết lời nhắn khó hiểu và cất công nhấn mạnh vào từ cuối cùng sao?”

      “Chắc hẳn nó phải ám chỉ ông ta,” Sigurdur Óli khẳng định. “Ý tôi là xác chết. Nó thể ám chỉ ai khác được.”

      “Tôi biết,” Erlendur . “Mục đích của khi để lời nhắn đó lại và đặt nó xác chết là gì? cố gắng hé lộ điều gì cho chúng ta chăng? Hay là tên sát nhân với chính mình? Hay với chính nạn nhân?”

      kẻ giết người khát máu,” Elínborg vừa vừa cúi xuống nhặt mẩu giấy lên. Erlendur ngăn ta lại. “Có thể chúng có nhiều hơn người,” Sigurdur Óli , “ý tôi là những kẻ tấn công ấy.”

      “Nhớ đeo găng tay vào, Elínborg,” Erlendur với như thể với đứa trẻ. “Đừng phá hỏng chứng cứ chứ.”

      “Lời nhắn được viết chiếc bàn đằng kia,” ông thêm và chỉ tay về phía góc phòng. “Tờ giấy bị xé ra từ cuốn sổ ghi chép của nạn nhân.”

      “Chắc hẳn chúng có đông hơn người,” Sigurdur Óli nhắc lại. ta cho rằng mình nảy ra ý tưởng thú vị.

      “Phải, phải,” Erlendur nhận xét, “có thể là như thế.”

      “Hơi máu lạnh chút,” Sigurdur Óli . “Đầu tiên giết ông già, sau đó bình tĩnh ngồi xuống để viết lời nhắn. Điều đó đòi hỏi phải có thần kinh thép hay sao? Chẳng phải là kẻ đáng ghê tởm mới có thể làm được điều ấy sao?”

      “Hoặc là kẻ biết sợ là gì,” Elínborg .

      “Hoặc kẻ tự cho mình là đấng cứu thế,” Erlendur nhận định.

      Ông dừng lại để cầm lấy mẩu giấy và nghiền ngẫm nó trong yên lặng.
      đấng cứu thế vĩ đại,” ông thầm nghĩ.








      3





      Mưa như trút nước lên người Erlendur và Sigurdur Óli khi họ ra khỏi xe rồi chạy nhanh về khu chung cư ở Stigahlíd. Họ định đợi đến khi cơn mưa ngớt, nhưng Erlendur thấy chán quá nên nhảy ra khỏi xe trước. muốn bị bỏ lại mình, Sigurdur Óli liền theo sau. Loáng cái họ bị ướt sũng. Nước mưa từ tóc Sigirdur Óli chảy tong tong xuống lưng, liếc sang Erlendur khi họ bấm chuông và chờ cửa mở.

      Trong cuộc họp sáng hôm đó, những cảnh sát tham gia điều tra cân nhắc các khả năng có thể xảy ra. giả thuyết đưa ra là vụ giết Holberg có động cơ nào cụ thể và kẻ tấn công lảng vảng quanh khu vực đó thời gian, có thể là trong nhiều ngày, như kiểu tên trộm tìm kiếm chỗ nào đó để đột nhập vào nhà. thử gõ cửa nhà Holberg để kiểm tra xem có ai ở nhà , khi thấy chủ nhà ra mở cửa hoảng sợ thực . Lời nhắn để lại chỉ nhằm để đánh lạc hướng cảnh sát. Nó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì cụ thể.

      Cùng ngày Holberg bị giết, người dân sống ở khu chung cư tại Stigahlíd báo lại rằng có hai phụ nữ lớn tuổi – vốn là chị em sinh đôi - bị tấn công bởi gã trai mặc áo quân phục màu xanh lục. Ai đó đưa đến cửa trước và gõ cửa căn hộ của hai chị em nọ. Chủ nhà vừa mới ra mở cửa, liền xông vào, đóng sầm cửa lại rồi đòi tiền. Khi họ từ chối đưa, lấy tay thoi quả đấm vào mặt người rồi đẩy người kia ngã xuống sàn nhà, đá bà ta vài phát trước khi chuồn .

      giọng vang lên trong hệ thống điện thoại nội bộ, Sigurrdor Óli đọc tên của mình. Cánh cửa ầm ì mở ra, rồi họ bước vào trong. Cầu thang tối tăm và bốc mùi khó chịu. Khi họ lên đến tầng , người phụ nữ đứng chờ họ ở cửa.

      “Các ông bắt được nó chưa?” Người phụ nữ hỏi.

      tiếc là chưa,” Sigurdur Óli lắc đầu đáp, “nhưng chúng tôi muốn chuyện với bà về…”

      “Họ bắt được chưa?” giọng khác vang lên từ trong nhà, và sau đó người phụ nữ trông giống hệt người kia bước ra. Cả hai tầm bảy mươi tuổi, đều mặc váy đen và áo len đỏ. Trông họ đều đẫy đà với mái tóc bồng màu xám, khuôn mặt bầu ánh lên cái nhìn ràng là kỳ vọng.

      “Vẫn chưa,” Erlendur trả lời.

      “Nó là kẻ đáng thương,” người phụ nữ thứ nhất tên Fjóla . Bà mời Sigurdur Óli và Erlendur vào.

      “Chị việc gì phải xót thương nó như thế,” người phụ nữ thứ hai tên Birna rồi đóng cửa lại. “Kẻ cục súc đó đánh vào đầu chị, vậy mà chị còn nghĩ nó kẻ đáng thương sao?”

      Hai thám tử ngồi trong phòng khách, hết nhìn hai người phụ nữ rồi lại nhìn nhau. Đó là căn hộ . Sigurdur Óli chú ý đến hai phòng ngủ sát vách nhau. Từ phòng khách ông có thể thấy căn bếp .

      “Chúng tôi đọc bản tường trình của các bà,” Sigurdur Óli , xem qua nó đường đến đây. “Hai bà có thể mô tả kỹ hơn về người đàn ông tấn công mình ?”

      “Người đàn ông á?” Bà Fjóla trả lời. “Nó là thằng nhóc đúng hơn.”
      “Nhưng cũng đủ lớn để tấn công chúng ta rồi,” Birna thêm vào. “Nó đủ lớn để đẩy tôi xuống sàn và còn đá tôi nữa cơ đấy!”

      “Chúng tôi có tiền,” Fjóla .

      “Chúng tôi để tiền ở đây,” Birna giải thích, “và chúng tôi với nó thế.”

      “Nhưng nó tin chúng tôi.”

      “Và nó còn tấn công chúng tôi nữa.”

      “Nó có vẻ điên cuồng!”

      “Và đáng nguyền rủa – cái cách mà nó gọi chúng tôi ấy!”

      “Nó mặc cái áo khoác xấu xí màu xanh lục. Giống như tên lính vậy.”
      “Nó cũng loại giầy cao cổ có dây buộc như thế này, màu đen, trông có vẻ nặng.”
      “Nhưng nó làm đổ vỡ gì cả.”

      “Đúng vậy, nó chỉ chạy thôi.”

      có lấy thứ gì ?” Erlendur hỏi.

      “Nó như thể bị mất trí ấy,” Fjóla , cố gắng hết sức để tìm ra vài điểm có thể tha thứ được của kẻ tấn công. “Nó làm hỏng đồ đạc gì, cũng lấy thứ gì. Nó chỉ tấn công chúng tôi khi biết rằng thể lấy được của chúng tôi xu nào. kẻ đáng thương.”

      kẻ điên khùng đúng hơn,” Birna thốt lên. “Đáng thương ư?” Bà ta quay sang chị . “Đôi lúc chị như là người ngốc nghếch thực vậy. Nó bị điên mới đúng. Chị nhìn vào mắt nó mà xem. Đôi mắt cay nghiệt và đờ đẫn. Nó còn vã mồ hôi nữa chứ.”

      “Vã mồ hôi à?” Erlendur hỏi lại.

      “Ròng ròng mặt nó ấy. Mồ hôi ấy.”

      “Đấy chỉ là nước mưa thôi mà !” Fjóla phản đối.

      . còn run rẩy toàn thân nữa.”

      “Là mưa thôi,” Fjóla nhắc lại và Birna ném cho bà cái nhìn khó chịu.
      “Nó đánh vào đầu chị đấy, Fjóla. Đó là thứ cuối cùng chị cần nhớ đấy.”
      “Chỗ nó đá vào em có còn đau ?” Fjóla ân cần hỏi, và bà ta nhìn sang Erlendur. Ông thề là thấy đôi mắt bà ta ánh lên hả hê.

      Erlendur và Sigurdur đến Nordumýri lúc trời vẫn còn sáng sớm. Những người hàng xóm của Holberg sống ở tầng trệt và tầng đợi họ. Cảnh sát lấy lời khai của gia đình người đàn ông phát ra xác Holberg, nhưng Erlendur vẫn muốn hỏi thêm họ vài điều. phi công sống ở tầng cũng cho biết ta từ Boston về đây vào đúng buổi trưa hôm Holberg bị giết. ta ngủ cả buổi chiều và đến khi cảnh sát gõ cửa mới dậy.

      Họ bắt đầu với viên phi công trước - ta ra mở cửa trong bộ dạng râu ria lởm chởm, mặc độc áo lót với quần đùi. ta tầm ba mươi tuổi, sống mình trong căn hộ trông như đống rác: quần áo vứt bừa bộn khắp nơi, hai vali mở tung cái ghế sofa bằng da khá mới, vỏ chai rượu bày ngổn ngang bàn còn vỏ bia chỗ nào là có. Viên phi công nhìn hai cảnh sát rồi vào nhà mà năng gì, sau đó ta ngồi sụp xuống ghế. Hai người đứng trước mặt ta, biết tìm ra chỗ nào để ngồi. Erlendur nhìn quanh căn phòng và tự nhủ rằng ngay cả trong tưởng tượng ông cũng bao giờ cùng chuyến bay với viên phi công này.

      Chẳng hiểu sao, viên phi công lại bắt đầu kể về vụ ly hôn của mình, băn khoăn biết cảnh sát có quan tâm đến điều đó hay . Mụ vợ lẳng lơ bắt đầu ngoại tình trong lúc ta bay. hôm, khi trở về nhà từ Oslo, ta phát ra vợ mình dan díu với người bạn học cũ. khốn nạn, ta thêm, và hai cảnh sát biết viên phi công đó thấy điều gì là khốn nạn hơn, vợ ta chung thủy hay việc ta phải ở Oslo.

      “Về vụ án mạng trong căn nhà dưới tầng trệt…” Erlendur chặn ngang đoạn độc thoại líu nhíu của viên phi công.

      “Các ông bao giờ đến Oslo chưa?” Viên phi công hỏi.

      “Chưa,” Erlendur trả lời. “Chúng tôi định về Oslo!”

      Đầu tiên viên phi công nhìn Erlendur, rồi lại nhìn sang Sigurdur Óli, cuối cùng hình như ta cũng hiểu ý.

      “Tôi chẳng biết gì về ông ta cả,” ta . “Tôi mua căn hộ này cách đây bốn tháng, theo tôi được biết ai sử dụng nó trong thời gian dài trước đó. Tôi gặp ông ta vài lần, chỉ ở bên ngoài thôi. Có vẻ như ông ta cũng được.”

      “Cũng được là sao?” Erlendur hỏi.

      “Ý tôi là chuyện với ông ta cũng được.”

      “Hai người những chuyện gì?”

      “Về việc bay. Hầu hết là thế. Ông ta rất thích bay.”

      “Ý là sao, thích bay?”

      “Máy bay,” viên phi công trả lời rồi mở lon bia vừa lấy ra từ cái túi nhựa. “Các thành phố,” ta thêm và nuốt nhanh ngụm bia. “Các nữ tiếp viên,” ta và ợ lớn. “Các biết đấy, ông ta hỏi rất nhiều về các tiếp viên.”

      , tôi biết,” Erlendur .

      “Ở các trạm tạm dừng khi ra nước ngoài ấy mà.”

      “Tôi hiểu rồi.”

      “Chuyện gì xảy ra, họ có nóng bỏng , những chuyện đại loại như vậy. Ông ta nghe được những chuyện phóng túng… các chuyến bay quốc tế.”

      “Lần cuối cùng gặp ông ta là khi nào?” Sigurdur Óli hỏi.

      Viên phi công nghĩ ngợi lúc. ta nhớ ra được.

      “Vài ngày trước đây,” cuối cùng ta cũng .

      có để ý thấy ai đến thăm ông ta dạo gần đây ?” Erlendur hỏi.

      , tôi ở nhà nhiều lắm.”

      “Thế có thấy ai lảng vảng quanh khu này, có hành vi khả nghi, hay chỉ đứng quanh quẩn ở đây ?”

      .”

      có thấy ai mặc áo quân phục màu xanh lục ?”

      .”
      thanh niên trẻ giầy quân đội?”

      . Là đấy à? Các ông có biết ai làm chuyện đó ?”

      !” Erlendur trả lời, rồi bước ra khỏi căn hộ trong lúc dẫm phải hàng đống vỏ bia.

      Người phụ nữ quyết định đưa con đến nhà bà ngoại mấy hôm và sẵn sàng cho chuyến . ta muốn các con ở lại ngôi nhà sau tất cả những gì xảy ra. Chồng ta đồng ý. Đó là điều tốt nhất cho họ. ràng hai vợ chồng ấy bị sốc nặng. Họ mua căn nhà này cách đây bốn năm và rất thích sống ở Nordurmýri. Đây là nơi lý tưởng đối với đôi vợ chồng và hai đứa trẻ.

      kinh khủng khi chứng kiến ông ấy bị như vậy,” người chồng , giọng chỉ vừa đủ nghe, rồi nhìn các con. “Chúng tôi với các con rằng ông ta ngủ,” ta thêm, “nhưng…”

      “Chúng cháu biết là ông ấy chết rồi,” thằng lên tiếng.

      “Bị giết,” đứa em bổ sung.

      Hai vợ chồng cười ngượng nghịu.

      “Chúng hiểu điều đó lắm,” người mẹ và bẹo vào má thằng .
      “Tôi ghét ông Holberg,” người chồng . “Chúng tôi cũng thỉnh thoảng chuyện với nhau bên ngoài. Ông ấy sống trong ngôi nhà này khá lâu rồi, chúng tôi về vườn tược và chăm sóc cây cối, những thứ đại loại như vậy. Cũng giống như ông thường với hàng xóm của mình thôi mà.”

      “Nhưng thân mật cho lắm,” người mẹ . “Ý tôi là quan hệ giữa chúng tôi và ông ta. Tôi cho là mối quan hệ đó nên gần gũi quá. Ông biết đấy, riêng tư mà.”

      Họ thấy có người nào bất thường quanh ngôi nhà và cũng thấy ai mặc áo quân phục màu xanh quanh quẩn ở đó cả. Người vợ rất nóng lòng muốn đưa hai con .

      “Ông Holberg có nhiều khách đến thăm ?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Tôi chưa từng thấy ai cả,” người vợ trả lời.

      “Ông ấy làm người khác có cảm giác là ông ấy đơn,” người chồng thêm.
      “Căn hộ của ông ấy có mùi khó chịu lắm,” thằng con cả lên tiếng.

      “Có mùi rất khó chịu,” thằng con út đồng thanh.

      “Ở tầng trệt bị ẩm ướt liên tục,” người chồng cách ngại ngùng.
      “Đôi lúc nó lan cả lên đây,” người vợ . “ ẩm thấp ấy.”

      “Chúng tôi với ông ấy chuyện đó.”

      “Ông ta cũng định để mắt đến nó.”

      “Nhưng đó là chuyện xảy ra cách đây hai năm rồi.”






      4



      Hai vợ chồng ở Gardabaer nhìn Erlendur với ánh mắt đầy đau đớn. Đứa con bé bỏng của họ bị mất tích. Họ nhận được tin gì về con bé từ ba ngày nay, chứ phải từ đám cưới mà nó bỏ trốn. Con bé bỏng của họ. Erlendur kịp hình dung ra bé con tóc xoăn vàng trước khi họ rằng con bé hai mươi ba tuổi và theo học khoa Tâm lý của trường Đại học Iceland.

      “Đám cưới à?” Erlendur nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang và hỏi. Nó gần như rộng bằng cả tầng nhà nơi ông ở.

      “Đám cưới của nó!” Ông bố thốt lên như thể ông ta vẫn chưa hiểu ra chuyện này. “Con bé trốn khỏi đám cưới của chính nó!”

      Bà mẹ khẽ đưa chiếc khăn tay nhàu nhĩ lên chặm mũi.

      Lúc đó là giữa trưa. Vì con đường từ Reykjavík bị sửa chữa nên Erlendur mất nửa tiếng đồng hồ mới đến được Gardabaer, và sau khi tìm hồi ông mới thấy ngôi nhà xây tách biệt ấy. Nó gần như bị che khuất hẳn nếu nhìn từ đường vào, bao quanh là khu vườn rộng trồng tất cả các loại cây cao phải đến sáu mét. Hai vợ chồng chủ nhà gặp ông trong trạng thái sốc tột cùng.

      Erlendur nghĩ rằng chuyện này phí thời gian. Còn rất nhiều việc quan trọng hơn đợi ông, tuy nhiên, dù ông có chuyện với vợ cũ trong suốt hai thập kỷ qua, ông vẫn muốn giúp đỡ bà ta điều gì đó.

      Bà mẹ mặc chiếc váy màu xanh nhạt và thanh nhã, còn ông bố mặc bộ quần áo màu đen. Người bố rằng ông càng lúc càng lo lắng về con của mình. Ông ta biết rằng cuối cùng con bé trở về, an toàn và lành lặn – ông muốn tin vào điều gì khác – nhưng ông ta vẫn muốn hỏi ý kiến cảnh sát, mặc dù chẳng có lý do gì để phải nhờ đến đội tìm kiếm và đội cứu hộ ngay hay gửi thông báo lên đài báo và ti vi cả.

      “Con bé chỉ biến mất thôi,” bà mẹ . Hai vợ chồng trông hơi già hơn Erlendur chút, có lẽ họ chừng sáu mươi tuổi. Họ quản lý công ty chuyên nhập khẩu quần áo trẻ em. Công ty này cung cấp cho họ tất cả những gì cần thiết của lối sống giàu sang. Những kẻ mới phất. Thời gian cư xử với họ tử tế. Erlendur để ý thấy hai chiếc xe mới coóng bóng loáng ở trước gara đôi.

      Bà mẹ lấy hết sức mình và bắt đầu kể lại cho Erlendur nghe câu chuyện. “Chuyện xảy ra vào ngày thứ Bảy – ba ngày trước đây, lạy Chúa, thời gian trôi qua nhanh quá. Hôm đó quả là ngày đẹp trời. Đám cưới của chúng được tiến hành bởi mục sư rất nổi tiếng.”

      “Chả ích gì,” ông bố . “Ông ta vội vội vàng vàng bước vào, phát biểu mấy câu sáo rỗng rồi lại xách va li biến mất. Tôi thể hiểu tại sao ông ta lại nổi tiếng đến thế.”

      Vợ ông ta muốn để bất cứ điều gì làm hỏng lộng lẫy của đám cưới.
      “Hôm ấy tuyệt vời lắm! Có cả nắng trong tiết trời thu mát mẻ. Riêng trong nhà thờ phải có đến hàng trăm người. Con bé có rất nhiều bạn. được nhiều người mến. Chúng tôi tổ chức hôn lễ tại hội trường ở đây, Gardabaer. Nơi đó tên là gì ấy nhỉ? Lúc nào tôi cũng quên.”

      “Gardahort,” ông bố .

      “Đó nơi ấm áp tuyệt vời,” bà ta tiếp. “Hội trường chật kín. Có nhiều quà cáp lắm. Và sau đó… sau đó… khi…”

      “Bọn trẻ chuẩn bị nhảy điệu đầu tiên,” ông bố tiếp tục khi vợ ông ta bắt đầu òa khóc. “Và có thằng ngu ngốc nào đó đứng sàn nhảy. Chúng tôi gọi Dísa Rós nhưng con bé xuất . Chúng tôi bắt đầu tìm nhưng mọi chuyện diễn ra cứ như thể là sàn nhà mở ra và nuốt chửng con bé vậy.”

      “Dísa Rós?” Erlendur hỏi lại.

      “Hóa ra là con bé lấy chiếc xe cưới.”

      “Chiếc xe cưới à?”

      “Chiếc limousine. Với tất cả hoa và nơ. Cái xe đưa chúng đến nhà thờ. Con bé trốn khỏi đám cưới. hề có báo hiệu nào! có lấy lời giải thích!”

      “Trốn khỏi đám cưới của chính nó!” Bà mẹ gào lên.

      “Vậy ông bà biết tại sao ấy lại hành động như thế à?”

      “Chắc chắn là con bé thay đổi quyết định,” bà mẹ . “Con bé hối hận về tất cả mọi chuyện.”

      “Nhưng tại sao lại thế mới được chứ?”

      “Xin ngài, ngài có thể tìm con bé về cho chúng tôi được ?” Ông bố hỏi. “Con bé vẫn chưa liên lạc lại, và ngài có thể thấy chúng tôi khổ sở lo lắng đến độ nào. Bữa tiệc thực thất bại thảm hại. Đám cưới bị hủy. Còn chúng tôi hoàn toàn bất lực. Và con của chúng tôi mất tích.”

      “Thế còn chiếc xe cưới, có ai tìm thấy nó chưa?”

      “Rồi. Ở Gardastraeti.”

      “Tại sao nó lại ở đó?”

      “Tôi biết. Con bé chẳng quen biết ai ở đó cả. Quần áo nó để lại trong xe. Toàn bộ quần áo.”

      Erlendur lưỡng lự.

      “Toàn bộ quần áo của ấy để lại trong xe cưới à?” Cuối cùng ông cất tiếng, nhanh chóng cân nhắc xem cuộc chuyện này về đâu và liệu ông có phần trách nhiệm nào .

      “Con bé cởi toàn bộ đồ cưới và mặc quần áo mà nó chuẩn bị sẵn trong xe,” bà mẹ trả lời.

      “Ông có nghĩ là ông tìm thấy nó ?” Ông bố hỏi. “Chúng tôi liên lạc với tất cả những người mà nó quen nhưng ai biết gì cả. Chúng tôi biết phải làm gì nữa. Tôi có ảnh của con bé đây.”

      Ông ta đưa cho Erlendur xem tấm hình chụp trẻ trung, xinh xắn, tóc vàng hoe, giờ đây mất tích. ta mỉm cười với ông trong ảnh.

      “Ông bà biết chuyện gì xảy ra à?”

      hề có dấu vết nào,” bà mẹ đáp.

      hề,” ông bố phụ theo.

      “Và đây là quà cưới phải ?” Erlendur nhìn ra chiếc bàn ăn khổng lồ, đó chồng đống những gói lớn gói màu mè sặc sỡ được thắt nơ xinh xắn, bọc giấy bóng kính và hoa. Ông bước đến bên cái bàn trong khi hai vợ chồng nọ nhìn theo. Trong đời, chưa bao giờ ông nhìn thấy nhiều quà như vậy, ông băn khoăn biết trong những hộp quà ấy có gì. Bát đĩa sành và bát đĩa sành, ông tưởng tượng.

      cuộc đời giàu có!

      “Vậy đây là cái gì thế?” Ông chỉ tay vào mấy cành nhánh chìa ra từ cái cây cắm trong chiếc lọ lớn cuối bàn. đó người ta treo những tấm thiệp hình trái tim màu đỏ.

      “Đó là cái cây nhắn gửi.”

      cái gì cơ?” Erlendur hỏi lại. Ông mới đám cưới có lần và lần đó cách đây quá lâu. Và ở đó chẳng có cây nhắn gửi nào hết.

      “Các vị khách viết lời chúc mừng cho dâu chú rể vào thiệp rồi treo chúng lên cây. Khách khứa treo rất nhiều tấm thiệp lên trước khi Dísa Rós mất tích,” bà mẹ trong lúc vẫn chặm khăn lên mũi.

      Chuông điện thoại của Erlendur chợt vang lên trong túi áo khoác. Khi ông lóng ngóng lấy điện thoại ra, nó bị kẹt lại ở nắp túi, và thay vì kiên nhẫn nới lỏng nắp túi ra (mà điều này dễ dàng), Erlendur lại giật mạnh cho đến lúc cái túi bật mở. Bàn tay giữ chiếc điện thoại vung lên làm cho cái cây nhắn gửi đổ sập xuống sàn. Erlendur nhìn hai vợ chồng đầy vẻ hối lỗi và nghe điện thoại.

      “Ông có định đến Nordurmýri với chúng tôi đấy?” Sigurdur Óli quanh co. “Còn phải kiểm tra ngôi nhà kỹ lưỡng hơn mà!”

      “Các xuống đó rồi à?” Erlendur hỏi. Lúc này, ông lui vào góc khuất.

      . Tôi đợi ông,” Sigurdur Óli trả lời. “Ông ở cái nơi quái quỷ nào thế?”

      Erlendur gác máy.

      “Tôi xem xem mình có thể làm được gì,” ông với đôi vợ chồng. “Tôi nghĩ là có nguy hiểm gì ở đây. Có thể là con ông bà chỉ bị mất tinh thần thời gian và ấy ở với vài người bạn nào đó. Ông bà nên quá lo lắng. Tôi chắc chắn là ấy gọi về sớm thôi.”

      Hai vợ chồng nọ lúi húi bên đống thiệp vương vãi sàn nhà. Erlendur thấy họ bỏ sót mấy chiếc trượt vào gầm ghế bèn cúi xuống nhặt chúng lên. Erlendur đọc những tấm thiệp và nhìn đôi vợ chồng.

      “Ông bà đọc cái này chưa?”

      Ông bố đọc lời nhắn và khuôn mặt ông lộ vẻ kinh ngạc. Ông ta đưa tấm thiệp cho vợ. Bà ta đọc đọc lại nó nhưng hình như vẫn chẳng hiểu gì. Erlendur đưa tay ra lấy tấm thiệp và đọc lại lần nữa. Nó có chữ ký.

      “Đây có phải là chữ viết tay của con ông bà ?” Ông hỏi.

      “Tôi nghĩ thế,” bà mẹ đáp.

      Erlendur xoay tấm thiệp lại và đọc lại lời nhắn:

      TA LÀ CON QUỶ. TÔI LÀM GÌ THẾ NÀY?”

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      5





      “Ông đâu thế?” Sigudur Óli hỏi Erlendur khi ông quay trở về làm việc, nhưng Erlendur trả lời.

      “Eva có tìm cách liên lạc với tôi ?” Ông hỏi.

      Sigurdur Óli rằng ta nghĩ như vậy. ta biết con của Erlendur và vấn đề của , nhưng cả hai người chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó. Hiếm khi họ nhắc đến mấy vấn đề cá nhân trong những lần chuyện trò.

      “Có gì mới về vụ Holberg ?” Erlendur hỏi và thẳng về phía văn phòng. Sigurdur Óli theo ông và đóng cửa lại. Ở Reykjavík rất hiếm khi có vụ giết người, nên mỗi khi xảy ra, chúng lại lôi kéo chú ý đặc biệt của dư luận. Cục điều tra tội phạm có quy định là thông báo gì với giới truyền thông về những kết quả điều tra trừ khi thực cần thiết. Nhưng quy định đó được áp dụng trong trường hợp này.

      “Chúng ta biết thêm chút về ông ta,” Sigurdur Óli trong lúc mở tập tài liệu tay. “Ông ta sinh ra tại Saudárkrókur, sáu mươi chín tuổi. Năm ngoái ông ta lái xe tải cho Công ty vận tải Iceland. Ông ta làm việc ở đó có vẻ thất thường.”

      Sigurdur Óli ngừng lại.

      “Chúng ta có nên chuyện với đồng nghiệp của ông ta ?” vừa kéo chiếc cà vạt xuống vừa hỏi. Sigurdur Óli mặc bộ vest mới, cao to và đẹp trai, tốt nghiệp khoa Tội phạm học ở trường Đại học của Mỹ. có tất cả mọi thứ mà Erlendur có: đại và ngăn nắp.

      “Những người trong sở nghĩ thế nào?” Erlendur hỏi lại, xoay xoay cái cúc lỏng lẻo chiếc áo len đan, giờ trượt xuống lòng bàn tay ông. Ông to khỏe, rắn chắc với mái tóc rậm màu hoe, và là trong những thám tử giàu kinh nghiệm nhất của đội. Ông thường làm việc theo cách riêng của mình. Cấp và đồng nghiệp từ lâu thôi còn tranh luận với ông nữa. Mọi việc thành ra như vậy hết năm này qua năm khác. Erlendur ghét bỏ gì điều này cả.

      “Mọi người cho rằng có lẽ là gã dở hơi nào đó,” Sigurdur Óli . “Ngay từ lúc chúng ta truy tìm cái tên mặc áo quân đội ấy. Đó có thể là thằng nhãi muốn kiếm tiền nhưng lại phát hoảng lên khi bị Holberg từ chối.”

      “Thế còn gia đình của Holberg sao? Ông ta có gia đình ?”

      có gia đình, nhưng chúng ta vẫn chưa thu thập đủ thông tin. Chúng ta mới chỉ có những tình tiết cơ bản thôi: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp.”

      “Theo quan sát của tôi ông ta ở mình và ở như vậy khá lâu rồi.”

      “Ông biết như thế, hẳn nhiên rồi,” Sigurdur Óli thốt lên, nhưng Erlendur vờ như nghe thấy.

      “Có tin gì của bên y tế và nhóm pháp y chưa?”

      “Báo cáo sơ bộ nộp rồi. Toàn những thứ chúng ta biết. Holberg chết vì cú đánh vào đầu. Đó là cú đánh mạnh, nhưng về cơ bản là bởi chiếc gạt tàn với các cạnh sắc nhọn. Chắc chắn là như thế. Sọ bị bẹp và ông ta chết ngay tại chỗ… hoặc gần như thế. Có vẻ như ông ta va phải cái bàn khi ngã xuống. trán có vết thương đáng sợ, vừa với góc của cái bàn. Các dấu vân tay gạt tàn là của Holberg nhưng vân tay còn có ở hai chỗ khác nữa, trong số đó là cái bút chì.”

      “Thế chúng có phải là của thủ phạm ?”

      “Có, tất cả các khả năng đều dẫn đến chúng là của hung thủ.”

      “Đúng là vụ giết người vụng về điển hình theo kiểu Iceland.”

      “Điển hình. Và đó là giả thuyết mà chúng ta tập trung điều tra.



      ***



      Trời vẫn mưa. Vào thời gian đó, các cơn áp thấp từ ngoài khơi Đại Tây Dương di chuyển vào liên tiếp, hướng thẳng vào bờ biển phía Đông Iceland, mang theo mưa, gió và cả mùa đông thê lương ảm đạm. Cục điều tra hình vẫn cần mẫn làm việc trong văn phòng ở Nordurmýri. Dải băng màu vàng chăng quanh căn nhà xảy ra án mạng gợi cho Erlendur nhớ đến ban điện lực; cái hố giữa đường, cái lều bẩn thỉu ở bên , tia sáng le lói trong lều, tất cả đều được bao quanh gọn ghẽ bằng dải băng vàng. Giống như vậy, cảnh sát cũng quây lấy trường vụ án mạng bằng dải băng nhựa màu vàng với tên của nhà chức trách in đó. Erlendur và Sigurdur Óli gặp Elínborg cùng các thám tử khác – những người lùng sục tòa nhà kỹ lưỡng suốt cả đêm đến tận sáng, họ vừa mới hoàn thành xong công việc của mình.

      Những người sống quanh đó được thẩm vấn, nhưng ai trong số họ nhận thấy điều gì bất thường ở trường từ sáng thứ Hai cho đến khi cái xác được phát .

      lâu sau đó tòa nhà chẳng còn ai khác ngoài Erlendur và Sigurdur Óli. Máu thảm trải sàn chuyển sang màu đen. Chiếc gạt tàn bị thu thập làm chứng cứ. Cả cái bút chì và quyển sổ. Còn lại dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Sigurdur Óli bước đến căn phòng làm việc và hành lang dẫn đến phòng ngủ, còn Erlendur quanh phòng khách. Họ đều đeo găng tay cao su trắng. Tranh ảnh được dán và đóng khung vào tường, trông như thể được mua tại tiền sảnh của các đại lý du lịch. Trong tủ sách có bản dịch của những cuốn truyện kinh dị, những cuốn sách bìa mềm của câu lạc bộ sách, số quyển được đọc, số ràng là chưa được đụng đến. có cuốn sách bìa cứng hấp dẫn nào cả. Erlendur gần như cúi sát xuống sàn nhà để đọc tên sách ở giá cuối cùng và nhận ra mỗi quyển Lolita của Nabokov, sách bìa mềm. Ông lấy nó ra. Đó là bản tiếng được đọc.

      Ông đặt quyển sách vào vị trí và chầm chậm tiến về phía chiếc bàn. Nó có dạng chữ L và chiếm góc phòng khách. chiếc ghế công sở tiện dụng còn mới kê cạnh bàn, có tấm đệm mỏng lót phía dưới để bảo vệ tấm thảm trải sàn. Cái bàn trông cũ hơn chiếc ghế rất nhiều. Dưới mặt bàn lớn có ngăn kéo ở cả hai bên và ngăn dài ở giữa, tất cả là chín cái. mặt bàn ngắn hơn có màn hình vi tính 17 inch với khay trượt để bàn phím. Case máy tính được đặt sàn nhà. Tất cả các ngăn kéo đều khóa chặt.

      Sigurdur Óli xem xét cái tủ quần áo trong phòng ngủ. Nó được sắp xếp rất gọn ghẽ, tất để ở ngăn, quần lót ở ngăn khác, rồi đến quần dài và áo len. Mấy cái sơ mi và ba bộ vest được mắc thanh ngang, bộ cũ nhất có từ thời kỳ khiêu vũ, Sigurdur Óli nghĩ, có sọc màu nâu. Vài đôi giày đặt dưới đáy tủ. Quần áo ngủ ở ngăn kéo cùng. Người đàn ông này dọn giường trước khi người khách đến. tấm mền trắng phủ lên gối và tấm chăn lông vịt. Đó là chiếc giường đơn.

      chiếc bàn cạnh giường ngủ có cái đồng hồ báo thức và hai quyển sách, quyển gồm toàn các bài phỏng vấn với chính trị gia nổi tiếng, quyển còn lại dày đặc những bức ảnh về xe tải ở Scania-Vabis. Trong chiếc bàn đó còn có tủ đựng thuốc, cồn rửa vết thương, thuốc ngủ, Panadol và lọ Vaseline .

      có thấy cái chìa khóa nào ?” Erlendur hỏi, lúc này ông ra đến cửa.

      thấy chìa nào cả. Ý là chìa khóa cửa á?”

      , chìa khóa mở chiếc bàn cơ.”

      “Cũng thấy nốt.”

      Erlendur vào phòng làm việc và từ đó ra bếp. Ông mở các ngăn kéo và tủ ly nhưng chỉ nhìn thấy dao kéo và cốc chén, muôi thìa và bát đĩa. có chìa khóa nào cả. Ông đến hàng móc treo bên cạnh cửa, lục soát túi áo khoác và tìm thấy cái bao màu đen với chùm chìa khóa cùng mấy đồng xu lẻ bên trong. Hai chiếc chìa khóa được treo cùng chùm với các chìa mở cửa chính, cửa nhà và các phòng.

      Erlendur thử tra chúng vào bàn. Cùng chiếc mà mở được tất cả chín ngăn kéo.

      Ông mở cái ngăn kéo lớn ở giữa bàn trước.Trong đó chủ yếu là các hóa đơn – hóa đơn điện thoại, điện, lò sưởi và thẻ tín dụng, có cả bảng phí đăng ký mua báo dài hạn. Hai ngăn kéo dưới cùng bên trái trống và ngăn tiếp theo là album ảnh. Tất cả các loại ảnh đen trắng cũ của nhiều người ở nhiều thời điểm khác nhau, số bức ảnh trông giống như phòng khách nào đó ở Nordurmýri, số khác là ảnh dã ngoại: cây phong , thác nước Gullfoss và Geysir. Ông nhìn thấy hai bức ảnh mà ông nghĩ là của nạn nhân khi ông ta còn trẻ, nhưng có chiếc nào mới chụp cả.

      Erlendur mở các ngăn kéo bên phải. Hai ngăn cùng trống rỗng. Ngăn thứ ba có bộ bài, bộ cờ và lọ mực cũ.

      Ông tìm thấy bức ảnh ở ngăn dưới cùng.

      Erlendur đóng ngăn dưới cùng lại bỗng nghe thấy tiếng sột soạt bên trong. Khi mở ra và đóng lại lần nữa, ông lại nghe thấy tiếng sột soạt y như lần trước. Nó cọ vào vật gì đó khi đóng lại. Ông ngồi xổm xuống, nhìn vào bên trong nhưng thấy gì. Ông kéo ngăn kéo ra lần nữa nhưng nghe thấy gì cả, sau đó đóng lại và lại nghe thấy thanh kia. Ông quỳ xuống sàn, kéo cái ngăn ra ngoài, và nhìn thấy có cái gì đó mắc kẹt bèn căng người lấy nó ra.

      Đó là bức ảnh đen trắng có hình ngôi mộ ở nghĩa trang vào mùa đông. Ông nhận ra đó là nghĩa trang nào. Có bia đá đặt mộ và các chữ khắc vẫn còn khá . Tên của được khắc đó. AUDUR. có họ. Erlendur nhìn ngày tháng được lắm. Ông lục tìm chiếc kính trong túi áo, đeo kính lên và nhìn sát vào bức ảnh. 1964-1968. Erlendur lờ mờ trông thấy bài văn bia, nhưng các chữ cái quá nên ông thể đọc được. Ông cẩn thận thổi bụi tấm ảnh.

      bé chết khi mới được bốn tuổi. Erlendur nhìn lên trong lúc cơn mưa mùa thu tạt mạnh vào cửa sổ. Lúc đó là buổi trưa nhưng bầu trời vẫn nhuốm màu u ám.








      6





      Chiếc xe tải lớn nằm im lìm trong cơn bão như con thú thời tiền sử, còn mưa cứ rơi như trút. Cảnh sát phải mất thời gian mới tìm được chiếc xe vì nó đỗ nơi Holberg sống mà lại nằm tại bãi đậu ở phía tây Snorrabraut, bên cạnh trung tâm chăm sóc sức khỏe Domus Medica, cách nhà Holberg vài phút bộ. Cuối cùng cảnh sát thông báo đài xem có ai biết nó đỗ ở đâu .

      cảnh sát tuần tra tìm thấy chiếc xe vào cùng thời điểm mà Erlendur và Sigurdur Óli mang theo tấm ảnh rời khỏi nhà Holberg. nhóm pháp y được gọi đến để khám xét chiếc xe và tìm ra dấu vết. Đó là chiếc xe hiệu MAN với cabin màu đỏ. Sau khi khám xét nhanh, người ta tìm thấy tập tạp chí gáy cứng có nội dung khiêu dâm. Họ quyết định chuyển chiếc xe đến trụ sở Cục điều tra tội phạm để làm thêm.

      Trong khi việc kiểm tra chiếc xe diễn ra, nhóm pháp y khác cũng làm việc với tấm ảnh. Nó được in giấy ảnh Ilford, loại giấy rất thông dụng trong những năm 1960, nhưng lâu rồi người ta còn dùng nó nữa. Có thể bức ảnh được chụp bởi nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp hoặc cũng có thể là người nghiệp dư. Việc nó bắt đầu phai màu chứng tỏ chất lượng ảnh được tốt cho lắm. có chữ viết đằng sau, cũng có tên địa danh để xác định xem nghĩa trang trong ảnh là ở đâu. Nó có thể ở bất cứ nơi nào đất nước này.

      Người chụp đứng cách bia đá tầm ba mét, tấm ảnh được chụp gần như chính diện cái bia. ta phải quỳ xuống, trừ khi ta rất thấp. Thậm chí từ khoảng ba mét đó, góc chụp cũng khá hẹp. có cây cối gì mọc xung quanh, cũng chẳng thấy ngôi mộ nào khác. Đằng sau cái bia, tất cả những gì có thể thấy được là đám sương mờ màu trắng.

      Nhóm pháp y tập trung vào những chữ khắc, chúng gần như thể định dạng được vì người chụp đứng khá xa.

      Người ta tiến hành phục chế lại bức ảnh rất nhiều lần và chữ khắc được phóng to cho đến khi mỗi chữ cái được in khổ giấy A5 và được đánh số, sắp xếp theo thứ tự bia đá. Những bức hình đó rất thô, chỉ còn là những chấm nốt màu đen và trắng tạo ra các sắc thái sáng và tối. Nhưng khi chúng được quét vào máy tính, những mảng tối và độ phân giải được xử lý. vài chữ cái hơn các chữ khác, điều này giúp cho nhóm pháp y có thể điền vào các chỗ trống. Các chữ cái M, F và O có thể thấy , các chữ còn lại khó nhìn hơn.

      Erlendur gọi đến nhà viên quản lý Tổng cục thống kê quốc gia, ông này vừa nguyền rủa vừa chửi thề khi đồng ý gặp Erlendur tại trụ sở ở Skuggasund. Erlendur biết rằng toàn bộ các giấy chứng tử phát hành từ năm 1916 đều được lưu giữ tại đó. còn ai làm việc trong tòa nhà, tất cả nhân viên tan sở trước đó lúc lâu. Ba mươi phút sau, viên quản lý dừng xe ở bên ngoài Cục thống kê và hời hợt bắt tay Erlendur. Ông ta nhập mã PIN vào hệ thống bảo vệ rồi dùng tấm thẻ đưa họ vào tòa nhà. Erlendur trình bày những điều cơ bản nhất với ông ta.

      Họ kiểm tra tất cả các giấy chứng tử phát ra năm 1968 và tìm thấy hai cái tên Audur. chết năm lên bốn tuổi. bé chết vào tháng Hai. bác sĩ kí vào giấy chứng tử và họ nhanh chóng tìm ra tên ông ta trong sổ đăng ký quốc gia. Ông ta sống ở Reykjavík. Tên của mẹ bé - Kolbrún - cũng được ghi trong tờ giấy. Họ tìm ra bà ta rất dễ dàng. Nơi cuối cùng mà bà ta trú là ở Keflavík vào đầu những năm 1970. Sau đó họ kiểm tra các giấy chứng tử lần nữa. Kolbrún chết năm 1971, ba năm sau cái chết của con .

      bé chết vì khối u ác tính trong não.

      Người mẹ chết vì tự tử.








      7





      chàng trong vai chú rể đón Erlendur vào văn phòng của mình. ta là người quản lý chất lượng và marketing cho công ty bán sỉ chuyên nhập khẩu ngũ cốc từ Mỹ. Erlendur, người chưa từng được nếm bữa sáng kiểu Mỹ trong đời, tự đặt ra câu hỏi: thực ra nhà quản lý chất lượng và marketing của công ty bán sỉ làm những công việc gì? Ông cũng buồn hỏi. Chú rể mặc chiếc sơ mi trắng được là cẩn thận với quần đeo dây. ta cũng xắn ống tay áo lên như thể những vấn đề liên quan đến quản lý chất lượng khiến ta phải hao tâm tổn lực rất nhiều. ta là người tầm thước, hơi mập mạp chút, có hàng ria mép bao quanh miệng với cặp môi dày cộm. Tên ta là Viggó.

      “Tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ Disa,” Viggó nhanh rồi ngồi xuống đối diện Erlendur.

      “Có phải do cậu điều gì với ấy mà...”

      “Ai cũng nghĩ vậy đấy,” Viggó . “Mọi người nghĩ rằng nó là lỗi của tôi. quá tồi tệ. Phần tồi tệ nhất trong toàn bộ vấn đề. Tôi thể chịu nổi điều đó.”

      có để ý đến điều gì đặc biệt ở Dísa trước khi ấy chạy trốn ? Bất cứ điều gì khiến cho ấy thất vọng ấy?”

      “Tất cả mọi người đều rất vui vẻ. Ông biết đấy, đám cưới mà, ông hiểu tôi muốn gì phải ?”

      .”

      “Chắc chắn là ông đến đám cưới rồi chứ?”

      lần. Nhưng cách đây lâu lắm rồi.”

      “Lúc đó đến giờ nhảy điệu đầu tiên. Những bài phát biểu chấm dứt và các bạn của Dísa tổ chức số trò vui để giải trí, nhạc công accordion đến và chúng tôi chuẩn bị nhảy. Lúc đó tôi ngồi ở bàn và mọi người bắt đầu tìm Dísa, nhưng ấy rồi.”

      “Lần cuối nhìn thấy ấy là khi nào?”

      ấy ngồi bên tôi và rằng ấy cần vệ sinh.”

      “Thế điều gì khiến ấy hờn dỗi ?”

      ! Tôi hôn ấy và bảo ấy nhanh lên.”

      “Từ lúc ấy đến khi các bắt đầu tìm ấy khoảng bao lâu?”

      “Tôi biết. Tôi ngồi xuống với các bạn của mình, sau đó ra ngoài hút thuốc - tất cả những người hút thuốc đều phải ra ngoài. Tôi chuyện với vài người ở đó và cả lúc quay vào cũng vậy. Sau đó tôi ngồi xuống, rồi người chơi đàn accordion đến và thảo luận với tôi về điệu nhảy cùng bài nhạc. Tôi còn chuyện với vài người khác, chắc khoảng tầm nửa tiếng, tôi cũng biết nữa.”

      “Và nhìn thấy Dísa lần nào trong thời gian đó?”

      . Khi chúng tôi nhận ra ấy biến mất, đó thực thảm họa. Tất cả mọi người đều nhìn vào tôi như thể đó là lỗi của tôi vậy.”

      nghĩ là chuyện gì xảy ra với ấy?”

      “Tôi tìm khắp nơi, chuyện với tất cả bạn bè và người thân của ấy nhưng ai biết gì hết, hoặc đó là điều mà họ .”

      có nghĩ là có ai đó dối ?”

      “Ờ chắc chắn ấy phải ở chỗ nào đó.”

      có biết là ấy để lại lời nhắn ?”

      . Lời nhắn gì? Ý ông là sao?”

      ấy treo tấm thiệp lên cái cây nhắn gửi. ‘ ta là con quỷ, tôi làm gì thế này?’ - đó là nội dung tấm thiệp. có biết ấy thế là có ý gì ?”

      ta là con quỷ,” Viggó nhắc lại, “ ấy đến ai thế nhỉ?”

      “Tôi nghĩ đó có thể là .”

      “Là tôi á?” Viggó ngạc nhiên, bắt đầu trở nên kích động. “Tôi có làm gì ấy đâu, chưa hề! Chưa bao giờ. Đó phải là tôi. Đó thể là tôi!”

      “Cái xe mà ấy lấy được tìm thấy ở Gardastraeti. Nơi đó có gợi cho nghĩ đến điều gì ?”

      ấy quen ai ở đó cả. Các ông có định thông báo về việc ấy mất tích ?”

      “Tôi cho là bố mẹ ấy muốn cho ấy thời gian để quay về.”

      “Vậy nếu ấy về sao?”

      “Lúc ấy chúng tôi xem xét...” Erlendur lưỡng lự. “Tôi nghĩ là ấy liên lạc với , để báo với là mọi chuyện ổn cả.”

      “Hượm , có phải ông cho rằng đó là lỗi của tôi và ấy gì với tôi vì tôi làm điều gì đó với ấy ? Lạy Chúa, câu chuyện kinh dị đẫm máu. Ông có hiểu ngày thứ Hai tôi làm nó như thế nào ? Tất cả đồng nghiệp của tôi đều đến dự tiệc, sếp của tôi cũng đến. Ông nghĩ đó là lỗi của tôi à? Mẹ kiếp! Tất cả đều nghĩ là do lỗi của tôi!”

      “Đàn bà,” Erlendur khi ông đứng lên. “ khó để quản lý chất lượng của họ.”

      Erlendur vừa về đến văn phòng chuông điện thoại kêu. Ông nhận ra giọng người gọi ngay lập tức mặc dù lâu lắm rồi ông nghe thấy giọng đó. Nó vẫn còn trong, khỏe và chắc dù người khá lớn tuổi. Eriendur biết Marion Briem trong gần ba mươi năm qua và mối quan hệ của họ phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió.

      “Tôi vừa từ biệt thự về,” giọng vang lên, “và về đến thị trấn tôi mới biết tin.”

      đến Holberg phải ?” Erlendur hỏi.

      xem qua các báo cáo về ông ta chưa?”

      “Sigurdur Óli kiểm tra các báo cáo máy tính nhưng tôi vẫn chưa nghe tin tức gì từ ta cả. Báo cáo nào vậy?”

      “Câu hỏi đặt ra là liệu chúng có thực còn được lưu giữ máy tính hay . Có thể là chúng bị vứt rồi. Có luật nào về thời gian các báo cáo trở nên vô hiệu lực ? Có phải chúng bị hủy rồi ?”

      đến điều gì vậy?”

      “Té ra là Holberg phải là công dân mẫu mực,” Marion Briem trả lời.

      “Theo kiểu như thế nào mới được chứ?”

      “Có khả năng ông ta là kẻ hiếp dâm.”

      “Có khả năng?”

      “Ông ta bị kiện vì tội hiếp dâm, nhưng chưa bao giờ bị kết án. Đó là vào năm 1963. phải xem các báo cáo của mình .”

      “Ai kiện ông ta?”

      người phụ nữ tên là Kolbrún. Bà ta sống ở...”

      “Keflavík phải ?”

      “Phải, sao biết?”

      “Chúng tôi tìm thấy bức ảnh trong ngăn kéo bàn của Holberg. Dường như nó được giấu ở đó vậy. Đó là bức ảnh chụp ngôi mộ của tên là Audur, trong nghĩa trang mà chúng tôi chưa xác định được. Tôi đánh thức cái thây sống ở Tổng cục Thống kê quốc gia và tìm thấy tên của Kolbrún giấy chứng tử. Đó là mẹ của Audur. Bà ta cũng chết rồi.”

      Marion gì cả.

      “Marion?” Erlendur gọi.

      “Thế nghĩ sao?” Giọng đáp lại.

      Erlendur suy nghĩ.

      “Theo tôi, nếu như Holberg cưỡng hiếp người mẹ có thể ông ta là cha đứa trẻ, và đó là lý do tại sao tấm ảnh lại ở trong bàn của ông ta. bé sinh năm 1964, mới có bốn tuổi chết.”

      “Holberg chưa bao giờ bị kết án cả,” Marion Briem . “Vụ án bị khép lại vì có đủ bằng chứng.”

      có nghĩ là bà ta dựng lên chuyện đó ?”

      “Vào thời ấy đó là điều thể, nhưng như thế cũng chứng minh được gì. Tất nhiên là phụ nữ dễ dàng gì được bồi thường cho những kiểu tội ác như vậy. thể tưởng tượng được bà ta phải trải qua những gì trong suốt gần bốn mươi năm đầu. Ngày nay phụ nữ có thể vượt qua được, nhưng ngày ấy thực là rất khó. Bà ta khó có thể làm chuyện ấy chỉ để bông đùa. Có thể bức ảnh đó là bằng chứng về tình cha con. Tại sao Holberg lại phải giấu tấm ảnh ấy trong bàn? Vụ hiếp dâm xảy ra năm 1963. rằng Kolbrún có con năm sau đó. Bốn năm sau bé chết, Kolbrún chôn cất bé. Holberg cũng bị dính líu vào chuyện đó vì lý do nào đấy. Có thể ông ta tự mình chụp bức ảnh. Tại sao, tôi biết. Có vẻ điều đó thuyết phục.”

      “Chắc chắn là ông ta thể đến dự đám tang, nhưng sau đó ông ta có thể đến ngôi mộ và chụp bức ảnh. Ý là như thế phải ?”

      “Cũng có khả năng khác.”

      “Sao cơ?”

      “Có thể Kolbrún tự chụp bức ảnh và gửi nó cho Holberg.”

      “Nhưng tại sao? Nếu bị ông ta hiếp, tại sao bà ấy lại gửi cho ông ta ảnh ngôi mộ của bé?”

      “Câu hỏi hay đấy.”

      “Giấy chứng tử có nguyên nhân dẫn đến cái chết của Audur ?” Marion Briem hỏi. “Đó có phải là tai nạn ?”

      bé chết vì bệnh u não. Theo điều đó có quan trọng ?”

      “Người ta có làm xét nghiệm tử thi ?”

      “Chắc chắn rồi. Có tên của bác sĩ giấy chứng tử mà.”

      “Thế còn người mẹ?”

      “Chết đột ngột tại nhà.”

      “Tự tử à?”

      “Phải.”

      thôi gọi điện để gặp tôi nữa,” Marion sau khoảng lặng ngắn ngủi.

      “Tôi bận quá,” Erlendur . “Bận vô cùng.”










      8





      Sáng hôm sau, trời vẫn mưa và đường đến Keflavík, nước tràn vào các vết bánh xe tạo thành các hố lầy. Mưa tuôn xối xả làm Erlendur khó có thể thấy gì, cửa kính lúc này sũng nước và kêu lạch cạch trong cơn bão khủng khiếp triền miên của vùng Đông Nam. Những chiếc cần gạt nước làm việc kịp kính chắn gió, Erlendur ghì chặt vô lăng đến nỗi các đốt ngón tay của ông trắng bệch, ông lờ mờ nhìn thấy màu đèn đỏ của chiếc xe đằng trước và cố gắng bám họ hết sức có thể.

      Ông mình, nghĩ rằng như thế này là tốt nhất sau cuộc chuyện điện thoại khó khăn với chị của Kolbrún buổi sáng hôm đó. Trong giấy chứng tử bà ta được liệt vào danh sách thân nhân tiếp theo. Thái độ của người chị được hợp tác cho lắm. Bà ta từ chối gặp Erlendur. Hình ảnh Holberg chết xuất mặt báo. Erlendur hỏi người phụ nữ rằng bà có nhìn thấy hình ảnh đó chuẩn bị hỏi liệu bà có còn nhớ ông ta máy cúp. Ông quyết định thử xem bà ta làm gì nếu thấy ông xuất bậc cửa nhà mình, ông muốn để cảnh sát đến áp giải bà ta về chỗ mình.

      Erlendur trải qua đêm tồi tệ. Ông rất lo cho Eva Lind và sợ con bé làm điều gì ngu ngốc. Con bé có điện thoại, nhưng mỗi lần ông gọi là tiếng trả lời tự động lại vang lên rằng số máy liên lạc được. Erlendur hiếm khi nhớ lại giấc mơ của mình, ông thấy thoải mái khi phải thức dậy để vồ lấy cơn ác mộng vừa trôi qua trong đầu trước khi nó hoàn toàn biến mất.

      Cảnh sát thu thập được vài thông tin quý giá về Kolbrún. Bà ta sinh năm 1934, từng kiện Holberg về tội hiếp dâm vào ngày 23-11-1963. Trước khi Erlendur khởi hành Keflavík, Sigurdur Óli thuật lại vụ kiện tụng đó cho ông nghe, đồng thời còn mô tả lại cách thức lấy thông tin vụ kiện từ hồ sơ của cảnh sát mà Sigurdur Óli tìm thấy trong phòng lưu trữ - sau khi nhận được lời gợi ý từ Marion Briem.

      Năm ba mươi tuổi Kolbrún sinh Audur, chín tháng sau vụ hiếp dâm. Theo lời các nhân chứng của Kolbrún ta gặp Holberg ở vũ trường giữa Keflavík và Njardvik. Đó là đêm thứ Bảy. Kolbrún biết và cũng chưa từng gặp ông ta bao giờ. ta cùng hai người bạn , còn Holberg cũng với hai người đàn ông khác. Họ ở cùng nhau trong vũ trường đêm hôm đó. Khi các điệu nhảy kết thúc, tất cả bọn họ dự tiệc tại nhà bạn của Kolbrún. Khá muộn Kolbrún mới chuẩn bị ra về. Holberg đề nghị đưa ta về vì muốn ta được an toàn. Kolbrún cũng phản đối. Cả hai người đều say. Kolbrún rằng uống hết hai chai Vodka và Cokes ở vũ trường và sau đó uống gì thêm. Còn Holberg uống gì suốt buổi tối hôm ấy. Theo những gì Kolbrún nghe được ông ta rằng mình phải tiêm penecilin để trị chứng nhiễm trùng ở tai. Có giấy chứng nhận của bác sĩ kèm với phiếu thanh toán khẳng định điều đó là đúng.



      * * *



      Holberg hỏi xem liệu có thể gọi taxi đến Reykjavík . Kolbrún do dự lát rồi chỉ cho ông ta chỗ chiếc điện thoại. Holberg vào phòng khách để gọi điện trong khi Kolbrún cởi áo khoác ở hành lang và vào bếp lấy cốc nước. nghe thấy ông ta kết thúc cuộc đàm thoại của mình, nếu đúng là nó có . cảm thấy ông ta đột ngột xuất ngay đằng sau khi đứng bên bồn rửa bát.

      giật mình đến mức đánh rơi cả cốc, làm đổ nước lênh láng ra bàn ăn. hét lên khi bàn tay ông ta bắt đầu vồ lấy ngực mình, lao vội vào góc để tránh.

      làm cái trò gì thế?” Kolbrún thét lên.

      “Chúng ta vui vẻ chút được nào?” Holberg trả lời và đứng ngay trước mặt , cơ bắp cuồn cuộn với bàn tay rắn chắc và những ngón tay to sụ.

      “Tôi cầu ra cho,” quả quyết. “Ngay bây giờ! làm ơn ngay cho!”

      “Chúng ta vui vẻ chút !” nhắc lại rồi bước bước lại gần . khoanh tay lại như để tự vệ.

      “Lùi lại!” thét lên. “Tôi gọi cho cảnh sát bây giờ!”

      Bất thình lình cảm thấy mình đơn độc và yếu đuối khi phải đối đầu với người đàn ông lạ mặt này, người mà mời về nhà và tiến đến gần hơn, vặn tay ra đằng sau rồi cố gắng hôn .

      chống trả lại, nhưng vô ích. cố gắng với , cầu dừng lại, nhưng tất cả những gì cảm thấy chỉ là tổn thương của chính mình.



      * * *



      Erlendur thoát ra khỏi dòng suy nghĩ miên man khi chiếc xe tải khổng lồ rú còi inh ỏi và ầm ầm vượt qua Erlendur khiến cho sóng nước té tới tấp vào xe ông. Erlendur giật manh vô lăng khiến chiếc xe nhảy chồm lên trong làn nước. Đuôi xe xoay vòng, trong giây Erlendur nghĩ rằng mình sắp mất kiểm soát và bị ném vào vũng lầy mất. Ông cố dừng hẳn lại và nỗ lực giữ xe bám mặt đường, sau đó chửi mắng tên lái xe tải thậm tệ, nhưng lúc đó biến mất khỏi tầm nhìn của ông trong làn mưa tầm tã.

      Hai mươi phút sau ông đỗ xe trước ngôi nhà mái tôn trong khu vực cũ kỹ nhất của Keflavík. Ngôi nhà sơn trắng với hàng rào trắng bao quanh và khu vườn được giữ quá cẩn thận. Người chị tên là Elín. Bà ta hơn Kolbrún vài tuổi và về hưu. Bà ta đứng ở sảnh trước, mặc chiếc áo mưa và chuẩn bị ra ngoài khi Erlendur gọi cửa. Bà ta nhìn ông đầy kinh ngạc. Đó là người phụ nữ thấp, mảnh khảnh với khuôn mặt đầy khắc nghiệt, ánh mắt sắc, xương gò má cao và khóe miệng đầy nếp nhăn.

      “Hẳn tôi với ông rằng tôi muốn can dự gì đến ông hay cảnh sát!” Người phụ nữ đầy tức giận khi Erlendur giới thiệu về mình.

      “Tôi biết,” Erlendur , “nhưng...”

      “Tôi cầu ông để tôi được yên,” bà ta . “Ông nên phí thời gian đến đây.”

      Người phụ nữ bước ra bậc cửa, đóng sầm cửa lại rồi ra vườn và mở cái cửa ở hàng rào, cứ để nó mở như thế ám chỉ rằng bà ta muốn Erlendur rời khỏi đây. Bà ta còn thèm nhìn mặt ông nữa. Erlendur đứng bậc cửa và nhìn theo bóng bà ta.

      “Bà biết là Holberg chết.”

      Người phụ nữ trả lời.

      “Ông ta bị giết tại nhà. Bà biết điều đó.”

      Erlendur lúc này đứng ở bậc thềm cuối cùng, ông vội đuổi theo bà ta. Người phụ nữ che cái ô màu đen và nước mưa rơi như trút lên đó. Còn Erlendur chẳng có gì ngoài cái mũ để che chắn. Bà ta rảo bước nhanh hơn. Erlendur chạy để đuổi theo, ông biết phải gì để cầu người phụ nữ đó nghe mình, hiểu tại sao bà ta lại cư xử như vậy.

      “Tôi muốn hỏi bà về Audur,” ông .

      Elín bất ngờ dừng lại và quay ngoắt lại, ném cho ông cái nhìn khinh bỉ.

      “Các người là lũ cớm chết tiệt,” bà ta rít lên qua hàm răng nghiến chặt. “Ông mà cũng dám nhắc đến tên con bé à? Làm sao ông dám? Sau tất cả những gì mà các ông đối xử với mẹ nó? Cút ! Cút ngay bây giờ! Đồ cớm khốn nạn!”

      Người phụ nữ nhìn Erlendur với ánh mắt căm thù, còn ông nhìn lại bà ta chằm chằm.

      “Sau tất cả những gì chúng tôi làm với ấy ư?” ông . “Với ai cơ?”

      “Cút !” Bà ta hét lên rồi quay và rảo bước, để Erlendur đứng trơ lại mình, ông đuổi theo nữa mà nhìn theo người phụ nữ cho đến khi bà ta biến mất trong làn mưa, người hơi cúi, khoác chiếc áo mưa xanh lục và đôi bốt thấp cổ. Erlendur quay lại, về phía nhà bà ta và chiếc xe của mình, suy nghĩ mông lung, ông chui vào xe và châm điếu thuốc, hơi hé cửa kính, khởi động máy và chầm chậm lái xe ra khỏi ngôi nhà.

      Khi hít vào, ông lại cảm thấy nhói đau nơi vùng ngực. Điều này xảy ra khá lâu rồi. Nó khiến Erlendur lo lắng gần năm nay. nỗi đau mơ hồ đón chào ông vào mỗi buổi sáng nhưng thường biến mất ngay sau khi ông ra khỏi giường, ông có đệm tốt để nằm. Đôi lúc cả người ông đau ê ẩm khi nằm giường quá lâu.

      Ông hít hơi thuốc vào. Hy vọng đó là do cái đệm.

      Khi Erlendur dập tắt điếu thuốc, chuông điện thoại chợt vang lên trong túi áo khoác. Người gọi là đội trưởng nhóm pháp y, thông báo rằng họ thành công trong việc giải mã các chữ khắc mộ và tìm được vị trí của nó trong Kinh thánh.

      “Nó được trích từ Kinh Psalm 64,” đội trưởng .

      “Tốt lắm,” Erlendur .

      “Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch.”

      “Sao cơ?”

      “Đó là dòng chữ được khắc tấm bia mộ: “Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch”. Trích từ Kinh Psalm 64.

      “Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch.”

      “Điều đó có ích gì cho ông ?”

      “Tôi chưa biết.”

      “Có hai mẫu vân tay bức ảnh.”

      “Phải, Sigurdur Óli cho tôi biết.”

      là của Holberg, nhưng mẫu còn lại có trong hồ sơ của chúng ta. Chúng khá mờ. Những dấu vân tay từ lâu lắm rồi.”

      “Ông có thể biết bức ảnh được chụp bởi loại máy nào ?” Erlendur hỏi.

      thể được. Nhưng tôi nghĩ rằng đó là loại máy khá xịn đấy.”








      9





      Sigurdur Óli đỗ xe tại sân của công ty Vận tải Iceland, hy vọng là nó nằm đường của xe tải. Các xe tải xếp thành hàng dài sân. số xe được chất hàng lên, số được lái , những chiếc còn lại được đưa về kho hàng hóa. thứ mùi khó chịu của xăng và dầu tràn ngập trong khí, tiếng ồn phát ra từ động cơ xe đinh tai nhức óc. Nhân viên và khách hàng hối hả trong sân và kho hàng.

      Trụ sở cảnh sát Luân Đôn dự báo thời tiết còn ẩm ướt hơn nữa. Sigurdur Óli cố kéo cao chiếc áo khoác lên đầu để thoát khỏi cơn mưa khi ông chạy đến kho hàng. chạy về hướng người quản đốc lúc này ngồi trong phòng làm việc kiểm tra giấy tờ và có vẻ cực kỳ bận rộn.

      Ông quản đốc là người to béo. Ông ta mặc chiếc áo khoác có mũ trùm đầu màu xanh và cài chiếc cúc quanh bụng, tay cầm điếu xì gà. Người đàn ông đó nghe tin về cái chết của Holberg và rằng ông ta biết Holberg khá . Theo ông ta, Holberg là người đáng tin cậy, công nhân chăm chỉ, người lái xe từ đầu này đến đầu kia đất nước trong nhiều thập kỷ và thuộc mạng lưới đường bộ của Iceland như lòng bàn tay. Người đốc công còn rằng Holberg thuộc kiểu người giữ kẽ, bao giờ kể về mình hay về những vấn đề cá nhân, bao giờ kết bạn với ai trong công ty cũng như về những việc mình làm trước đây. Ông ta nghĩ rằng Holberg luôn luôn là người lái xe tải. Holberg chuyện như thế là làm nghề này từ trước. Theo người đốc công ông ta độc thân, có con, cũng bao giờ về gia đình thân thuộc của mình.

      “Đó là tất cả những gì tôi biết”, người đốc công như thể muốn kết thúc cuộc chuyện tại đây trong lúc lấy ra cái bật lửa từ túi áo và châm điếu xì gà. “ là buồn”, phù phù, “khi mọi chuyện thành ra như vậy”, phù.

      “Ông ta chủ yếu giao du với ai ở đây?” Sigurdur Óli hỏi, cố gắng hít phải hơi khói hôi hám tỏa ra từ điếu xì gà.

      “Ông có thể gặp Hilmar, tôi nghĩ là ông ta biết ông ta nhất. Ông ta ở Reydarfjordur nên thỉnh thoảng nghỉ lại nhà Holberg ở Nordurmýri mỗi khi ông ta phải qua đêm tại thị trấn. Có những qui định về nơi nghỉ ngơi mà các lái xe phải tuân theo, do vậy họ phải có nơi nào đó để ở trong thành phố.”

      “Ông ta có ở đó vào cuối tuần trước ?”

      . Lúc ấy ông ta làm việc ở miền Đông, tuy nhiên ông ta có thể ở đó vào cuối tuần trước nữa.”

      “Ông nghĩ ai có thể làm hại Holberg? Do xích mích ở chỗ làm hay...”

      , có,” phù, “lý nào”, phù, “lại như thế được”, phù. Người đàn ông gặp khó khăn trong việc giữ cho điếu xì gà của mình cháy. “ chuyện với”, phù, “Hilmar”, phù, “ông ta có thể giúp đấy”.

      Sigurdur Óli tìm Hilmar sau khi nghe người đốc công chỉ dẫn. Hilmar đứng gần ô cửa kho hàng giám sát việc dỡ hàng xuống xe. Ông ta là người khổng lồ, cao phải đến hai mét, cơ bắp cuồn cuộn, khỏe mạnh, râu ria xồm xoàm với hai cánh tay rậm lông lộ ra dưới lớp áo phông. Ông ta tầm năm mươi tuổi. Chiếc dây đeo màu xanh lỗi thời giúp kéo chiếc quần bò rách rưới lên. máy nâng hàng tháo dỡ hàng khỏi xe tải. chiếc xe khác lùi về ô hàng bên cạnh. Cùng lúc đó hai người lái xe bóp còi inh ỏi và chửi nhau loạn xạ trong sân.

      Sigurdur Óli về phía Hilmar mà vỗ vào vai ông ta, nhưng người đàn ông chú ý đến Sigurdur Óli. đập mạnh hơn, và cuối cùng Hilmar cũng quay lại. Ông ta có thể thấy Sigurdur Óli gì đó với mình nhưng thể nghe thấy gì và nhìn xuống viên cảnh sát với vẻ mặt đần độn. Sigurdur Óli to hơn, nhưng cũng chẳng ích gì. Lần này to hơn nữa và nghĩ rằng Hilmar mơ hồ hiểu ra, nhưng lầm. Hilmar chỉ lắc đầu và chỉ vào tai mình.

      Trước tình cảnh này, Sigurdur Óli cố gắng gấp đôi, uốn cong mình, kiễng chân lên và hét lên với giọng to nhất có thể vào cái lúc tất cả mọi thứ lại hoàn toàn trở nên yên lặng. Tiếng của vang lên với lượng khủng khiếp, dội vào các bức tường trong kho hàng khổng lồ và vọng cả ra ngoài sân:

      “ÔNG NGỦ VỚI HOLBERG PHẢI ?”






      10





      Khi Erlendur đến, người đàn ông cào lá trong vườn ngẩng đầu lên cho đến khi Erlendur đứng quan sát ông ta được lúc lâu. Ông ta làm việc chậm chạp với sức lực của ông già và quệt giọt mồ hôi nơi đầu mũi. Dường như chuyện mưa gió làm những chiếc lá dính lại với nhau rất khó cào có vẻ ảnh hưởng gì đến công việc của ông. Ông làm việc chậm rãi, móc những cái lá bằng cái cào và cố gắng gom chúng thành từng đống . Ông ta vẫn sống ở Keflavík, sinh ra và lớn lên ở đó.

      Erlendur nhờ Elínborg thu thập thông tin về ông ta và tìm ra những điểm chính về người đàn ông lớn tuổi mà giờ đây Erlendur quan sát trong vườn - đồng nghiệp của ông, người từng hứng chịu bao nhiêu lời chỉ trích về tư cách đạo đức và quá trình phục vụ trong suốt nhiều năm làm trong ngành, việc giải quyết vụ Kolbrún và cả việc ông bị khiển trách nặng nề sau chuyện đó. Elínborg gọi lại để báo tin trong lúc Erlendur ngồi ăn ở Keflavík. Ông định lùi cuộc gặp sang ngày hôm sau, sau đó lại thầm nghĩ rằng mình thể ngại việc lái xe xuống đó rồi quay về trong thời tiết bão dữ dội như này, nên ông muốn tiến hành luôn.

      Người đàn ông khoác áo choàng dài và đội cái mũ bóng chày. Đôi bàn tay trắng xanh gầy guộc cầm chặt cán cào. Ông ta cao lớn, hẳn trước đây ông phải rất cường tráng và có dáng dấp quyền uy, nhưng lúc này trông ông ta già nua, nhăn nheo và còn chảy cả nước mũi. Erlendur quan sát ông già lúc ấy thơ thẩn trong vườn. Người đàn ông đó ngước nhìn lên, nhưng chú ý đặc biệt đến người nhìn mình. khoảnh khắc yên tĩnh trôi qua cho đến khi Erlendur quyết định tiến lại.

      “Tại sao chị bà ta chịu chuyện với tôi?” Ông và người đàn ông bắt đầu ngẩng lên nhìn.

      “Sao cơ? Chuyện gì cơ?” Người đàn ông ngừng tay. “Ông là ai?” Ông ta hỏi.

      “Ông đối xử với Kolbrún như thế nào khi bà ta đến chỗ ông để khiếu kiện?”. Erlendur hỏi.

      Ông ta nhìn người lạ bước vào vườn nhà mình từ đầu đến chân và lấy mu bàn tay lau mũi.

      “Tôi có biết ông ?” Ông ta hỏi. “Ông về chuyện gì vậy? Ông là ai?”.

      “Tên tôi là Erlendur. Tôi điều tra vụ giết người đàn ông ở Reykjavík có tên là Holberg. Ông ta bị buộc tội hiếp dâm cách đây gần 40 năm. Ông chịu trách nhiệm điều tra vụ đó. Người phụ nữ bị cưỡng hiếp tên là Kolbrún. ta chết. Chị của ta chịu chuyện với cảnh sát vì vài lý do nào đó mà tôi cố điều tra. Bà ta với tôi là ‘sau tất cả những gì các ông làm với ấy’. Tôi muốn ông cho tôi biết bà ta đề cập đến điều gì”.

      Người đàn ông chỉ đưa mắt nhìn Erlendur và vẫn yên lặng.

      “Ông làm gì với ấy?” Erlendur hỏi lại.

      “Tôi nhớ được... Ông có quyền gì chứ? Đây là kiểu lăng mạ nào vậy?” Giọng ông ta run . “Ra khỏi vườn của tôi, nếu tôi gọi cảnh sát đấy!”

      , Rúnar, tôi là cảnh sát. Và tôi giờ để làm những chuyện nhảm nhí đâu!”

      Rúnar suy nghĩ lát. “Đây là phương pháp mới à? Tấn công người khác với những lời buộc tội và thóa mạ?”

      tiện khi ông nhắc đến các phương pháp và thóa mạ,” Erlendur . “Cùng lúc ông thụ lý tám vụ án liên quan đến vi phạm thuế, bao gồm cả gây rối trật tự. Tôi biết ông phải phục vụ ai để giữ công việc của mình, nhưng kết cục ông lại làm tốt lắm bởi cuối cùng ông phải rời ngành cảnh sát trong nhục nhã. Bị sa thải...”

      “Ông im ,” Rúnar , nhìn nhanh xung quanh. “Làm sao ông dám...?”

      “… vì tội quấy rối tình dục thường xuyên.”

      Bàn tay trắng xương xẩu của ông ta siết chặt cái cào, làn da xanh xao bị kéo căng cho đến khi các đốt ngón tay hằn lên. Mặt ông ta đanh lại đầy vẻ căm thù, nhìn chòng chọc vào Erlendur cho đến khi mắt ông ta khép lại còn nửa. đường đến gặp Rúnar, trong lúc các thông tin mà Elínborg cung cấp cứ trở trở lại trong đầu, Erlendur cân nhắc xem liệu Rúnar có đáng bị xử phạt vì những gì ông ta làm trong cuộc sống khác, khi ông ta còn là người đàn ông khác.

      Erlendur làm trong lực lượng cảnh sát đủ lâu để nghe được nhiều chuyện về Rúnar, về những rắc rối mà ông ta gây ra. Thực ra nhiều năm trước đây ông gặp Rúnar vài lần, nhưng người đàn ông trong vườn giờ đây quá già và lụ khụ đến nỗi Erlendur phải mất lúc mới chắc chắn được đó chính là ông ta. Các câu chuyện về Rúnar vẫn được truyền truyền lại trong sở cảnh sát. có lần Erlendur đọc được rằng quá khứ là mảnh đất khác và ông có thể hiểu được điều đó. Ông hiểu rằng thời thế thay đổi và con người cũng vậy. Nhưng ông chưa sẵn sàng để tẩy xóa quá khứ.

      Họ đứng mặt đối mặt trong vườn.

      “Còn về Kolbrún sao?” Erlendur hỏi.

      “Cút !”

      “Chừng nào ông cho tôi biết về Kolbrún.”

      ta là con đĩ mạt hạng!” Rúnar bất thình lình rít lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. “Nhớ lấy điều đó và cút ! Mọi thứ ta về tôi và với tôi đều là những lời dối bẩn thỉu. Chẳng có vụ hiếp dâm khốn nạn nào cả. ta dối từ đầu đến cuối!”

      Erlendur tưởng tượng ra hình ảnh Kolbrún ngồi trước mặt người đàn ông này nhiều năm trước đây khi trình báo vụ hiếp dâm. Ông hình dung việc từng ngày từng ngày phải thu hết can đảm cho đến khi dám đến sở cảnh sát để trình báo việc xảy ra với mình. Ông thấy khủng khiếp mà phải trải qua và, hơn tất thảy mọi thứ, muốn quên nó như thể nó chưa từng xảy ra, như thể nó chỉ là cơn ác mộng mà cuối cùng cũng thức dậy. Sau đó nhận ra rằng mình bao giờ tỉnh lại được. bị làm ô nhục. bị tấn công và bị cưỡng bức.

      ta tới trình báo khi vụ việc xảy ra được ba ngày và buộc người ta tội hiếp dâm,” Rúnar . “Lý lẽ được thuyết phục cho lắm.”

      “Vậy nên ông tống ta ra ngoài?” Erlendur .

      ta dối.”

      “Và ông cười vào mặt ấy, xem thường ấy và bảo ấy quên chuyện đó . Nhưng ấy quên được, phải ?”

      Người đàn ông nhìn Erlendur với ánh mắt khinh bỉ.

      ấy đến Reykjavík phải ?” Erlendur hỏi.

      “Holberg chưa bao giờ bị buộc tội cả.”

      “Nhờ có ai đó, ông có nghĩ thế ?”

      Erlendur hình dung ra cảnh Kolbrún cãi lộn với Rúnar trong sở cảnh sát. Cãi lộn với ông ta! Người đàn ông đó! Tranh cãi về trải qua. Cố gắng thuyết phục ông ta rằng như kiểu ông ta là vị quan tòa tối cao xét xử vụ việc của mình.



      ***



      phải dồn hết sức mình để liên kết các việc trong buổi tối hôm đó và cố gắng kể cách rành mạch, nhưng điều đó quá đau đớn. thể miêu tả lại được. thể kể lại được cái điều mơ hồ và ghê tởm ấy. Bằng cách nào đó cố gắng ráp nối các mảnh rời rạc trong câu chuyện của mình. Có phải đó là điệu cười nhếch mép ? hiểu tại sao viên cảnh sát lại có hành động đó. có cảm tưởng đó là điệu cười nhếch mép, nhưng thể như thế được. Sau đó ông ta bắt đầu tra hỏi về các chi tiết cụ thể.

      “Kể cụ thể cho tôi xem chuyện đó như thế nào.”

      nhìn ông ta, bối rối. ngập ngùng kể lại câu chuyện của mình.

      , tôi nghe điều đó rồi. Tôi muốn kể chính xác cho tôi biết chuyện gì xảy ra. mặc quần lót. Làm thế nào mà cởi được quần lót của ra? vào trong như thế nào?”

      Ông ta đùa hay sao thế? Cuối cùng hỏi xem có nữ cảnh sát nào làm việc ở đó .

      . Nếu muốn kiện ông ta tội hiếp dâm, phải kể cụ thể hơn thế này. hiểu chứ? Hay là có dụ dỗ nên ông ta mới nghĩ rằng đề nghị chuyện đó?”

      “Đề nghị chuyện đó ư?” với ông ta bằng giọng gần như lạc .

      phải ra. cởi quần lót của như thế nào?”

      Kolbrún chắc chắn đó là nụ cười nhếch mép. Rúnar xấc xược tra hỏi , chất vấn những điều cách thô lỗ, vài câu hỏi còn bộc lộ sỉ nhục rành rành, là bẩn thỉu. cư xử như thể gây ra chuyện xấu xa đó, muốn làm tình với cái gã đốn mạt kia, và có lẽ về sau thay đổi quyết định nhưng quá muộn, quá muộn để trốn tránh khỏi chuyện đó. “ có ích gì khi đến sàn nhảy, ve vãn người đàn ông và sau đó lại dừng lại giữa chừng. Chẳng ích gì đâu!” Ông ta .

      khóc nức nở khi cuối cùng cũng phải mở túi xách, lấy ra cái túi bằng nhựa và đưa nó cho ông ta. Ông mở cái túi và lấy ra chiếc quần lót bị xé toạc...

      Rúnar bỏ cái cào xuống và sắp sửa qua Erlendur, nhưng Erlendur chặn đường ông ta và xoay lưng ông ta vào tường nhà. Họ nhìn thẳng vào mắt nhau.

      ấy đưa cho ông chứng cứ,” Erlendur . “Chứng cứ duy nhất mà ấy có. ấy chắc chắn là Holberg để lại thứ gì đó.”

      ta chưa bao giờ đưa cho tôi cái gì cả!” Rúnar rít lên. “Để tôi được yên.”

      ấy đưa cho ông chiếc quần lót.”

      ta dối dấy.”

      “Đáng lý ra người ta nên khử ông hơn. Đồ súc vật khốn kiếp.” Với ghê tởm, Erlendur chầm chậm lùi lại, tránh xa người đàn ông hom hem lúc này gập mình trước bức tường.

      “Tôi chỉ cho ta biết điều gì chờ đợi ta nếu ta muốn kiện tụng.” người đàn ông rít lên. “Tôi giúp ta đấy chứ. Quan tòa cười vào những vụ kiện như thế.”

      Erlendur xoay người bước , tự hỏi làm sao mà Chúa, nếu Người thực tồn tại, lại để cho những kẻ như Rúnar còn sống đến già trong khi lấy sinh mạng của vô tội mới tròn bốn tuổi.

      Ông dự định quay trở về gặp người chị của Kolbrún nhưng lại ghé qua thư viện Keflavík trước. Ông giữa các giá sách, quét ánh mắt lên gáy sách cho đến khi tìm thấy cuốn Kinh thánh.

      Erlendur biết Kinh thánh rất . Ông mở mục Psalm số 64 và tìm thấy dòng chữ được khắc bia đá. “Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch.”

      Ông nhớ chính xác. Các chữ khắc là dòng tiếp theo của dòng đầu tiên trong kinh Psalm, Erlendur đọc đọc lại mấy lần, từ từ lần tay theo dòng chữ, và thầm đọc lại câu thánh thi khi đứng bên giá sách.

      Dòng đầu tiên trong kinh Psalm là lời thỉnh cầu lên Chúa. Erlendur dường như có thể nghe thấy tiếng khóc thầm của người phụ nữ vang vọng suốt bao nhiêu năm.

      “Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng than thở tôi.”

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      11





      Erlendur đỗ xe bên ngoài khu nhà sơn trắng có mái tôn và tắt máy. Ông ngồi trong xe và hút nốt điếu thuốc của mình. Ông cố gắng hạn chế hút thuốc và giảm được chỉ còn năm điếu ngày khi mọi thứ đều tốt đẹp. Nhưng hôm nay, chưa đến ba giờ chiều mà đây là điếu thứ tám.

      Erlendur xuống xe, bộ đến bậc thềm và bấm chuông. Ông chờ lúc khá lâu, nhưng ai ra mở cửa. Ông thử lại lần nữa, nhưng kết quả vẫn vậy. Ông áp mặt vào cửa sổ và nhìn thấy chiếc áo mưa màu xanh cùng với cái ô và đôi ủng. Ông bấm chuông lần thứ ba, đứng ở bậc thềm cùng và cố gắng để bị ướt. Bất thình lình, cửa mở ra và Elín nhìn ông trừng trừng.

      “Để tôi được yên, ông nghe thấy chưa? Cút ! khỏi đây!”

      Bà ta cố gắng đóng sầm cửa nhưng Erlendur lấy chân chặn nó lại.

      phải tất cả chúng tôi đều giống Rúnar,” ông . “Tôi biết em bị đối xử bất công. Tôi đến và chuyện với Rúnar. Những điều ông ta làm là thể tha thứ được, nhưng tại chúng ta thay đổi nó được nữa. Ông ta già nua và yếu ớt, và ông ta bao giờ nhìn ra mình làm sai điều gì.”

      “Làm ơn để tôi được yên!”

      “Tôi phải chuyện với bà. Nếu bà muốn thế này tôi buộc phải đưa bà về đồn để thẩm vấn. Tôi muốn làm điều đó.” Ông lấy bức ảnh chụp ngôi mộ ra khỏi túi và đẩy nó vào khe hở cửa. “Tôi tìm thấy tấm ảnh này ở căn hộ của Holberg.”

      Elín trả lời ông. khoảng thời gian dài trôi qua. Erlendur giữ bức ảnh qua khe cửa, nhưng ông thể trông thấy Elín - bà ta vẫn đẩy cửa ra. Dần dần ông thấy sức ép lên chân mình giảm dần và Elín cầm lấy bức ảnh. Ngay sau đó cánh cửa mở ra, Erlendur theo người phụ nữ bước vào trong và cẩn thận đóng cửa.

      Elín biến mất vào phòng khách và trong thoáng Erlendur băn khoăn liệu ông có phải cởi đôi giày ướt của mình ra . Ông chùi chúng thảm và theo Elín vào phòng khách. Trong phòng có những bức tranh và tranh thêu lồng khung mạ vàng treo tường, chiếc đàn organ đặt ở góc nhà.

      “Bà có nhận ra bức ảnh này ?” Erlendur thận trọng hỏi.

      “Tôi chưa từng thấy nó bao giờ”, bà ta trả lời.

      “Em bà có liên hệ gì với Holberg sau... vụ việc đó ?”

      “Theo tôi biết . bao giờ. Ông có thể hiểu điều đó.”

      “Người ta có xét nghiệm máu để xác nhận xem liệu ông ta có phải là cha đứa trẻ hay ?”

      “Để làm gì mới được chứ?”

      “Nó củng cố lời khai của em bà. Rằng ấy bị cưỡng hiếp.”

      Bà ta rời mắt khỏi bức tranh và nhìn Erlendur chằm chằm, “Các ông giống nhau cả thôi, lũ cảnh sát ạ. Quá lười đến nỗi chẳng chịu động chân động tay vào việc gì cả.”

      sao?”

      “Ông chưa nghiên cứu vụ án à?”

      “Những chi tiết chính thôi, tôi nghĩ vậy.”

      “Holberg phủ nhận rằng họ quan hệ với nhau. Nhưng thông minh hơn thế. phủ nhận đó là hành vi cưỡng dâm. Holberg còn em tôi muốn , rằng con bé dụ dỗ và mời về nhà. Đó là lời phản kháng có giá trị nhất của . Rằng Kolbrún ngủ với vì tự nguyện. hoàn toàn vô tội. Hoàn toàn vô tội, đồ con hoang!”

      “Nhưng...”

      “Kolbrún quan tâm đến việc chứng minh huyết thống. Em tôi muốn ta động đến đứa bé. Việc chứng minh Holberg là cha của Andur có ích gì cho việc con bé buộc tội cưỡng hiếp mình nên việc thử máu là vô ích.”

      “Tôi nhận ra điều đó.”

      “Tất cả những gì mà em tôi có là chiếc quần lót bị xé toạc,” Elín tiếp. “Trông con bé quá tả tơi. Chỉ là nó được khỏe, thể kháng cự được. Kolbrún với tôi rằng con bé đờ người ra vì sợ hãi khi Holberg bắt đầu vuốt ve mình trong bếp. ta ép em tôi vào phòng ngủ và làm điều đồi bại ở đó. Hai lần. giữ Kolbrún nằm xuống, sờ mó, và những điều tục tĩu cho đến khi đủ sức để làm lần nữa. Kolbrún mất ba ngày mới thu hết can đảm để đến sở cảnh sát. Phiếu kiểm tra sức khỏe người ta đưa cho con bé về sau cũng chẳng có ích gì. Em tôi bao giờ hiểu được tại sao lại tấn công mình. Con bé tự trách mình vì khiêu khích làm chuyện đó. Kolbrún nghĩ rằng mình dụ dỗ Holberg tại bữa tiệc sau khi sàn nhảy đóng cửa, rằng mình hoặc đề nghị điều gì đó khiến cho bị kích thích. Con bé tự buộc tội mình. Có lẽ đó là phản ứng bình thường.”

      Elín ngừng lại lúc.

      “Cuối cùng, khi suy nghĩ kỹ, em tôi chạy đến chỗ Rúnar,” bà ta tiếp. “Tôi có thể với Kolbrún, nhưng con bé quá xấu hổ tới mức dám với ai về chuyện xảy ra mãi lâu sau đó. Holberg dọa nạt em tôi và rằng nếu con bé làm gì, quay lại và hành hạ. Khi Kolbrún đến sở cảnh sát, con bé nghĩ rằng mình sắp được an toàn. Mình được giúp đỡ. Người ta lo cho mình. Cho đến tận khi Rúnar đưa con bé về nhà, sau khi đùa cợt con bé, giữ lấy chiếc quần lót và bảo em tôi quên nó , con bé mới đến chỗ tôi.”

      “Cái quần lót bao giờ được tìm thấy nữa,” Erlendur . “Rúnar phủ nhận...”

      “Kolbrún rằng con bé đưa cho cái quần và tôi biết em tôi bao giờ dối. Tôi biết gã đàn ông đó nghĩ gì. Tôi thấy quanh quẩn ở thị trấn này vài lần, trong siêu thị hoặc ở cửa hàng bán cá. Có lần tôi chửi gã vì kiềm chế được mình. ta có vẻ lấy làm thích thú lắm, cười nhếch mép. Kolbrún kể cho tôi nghe về điệu cười ấy của lần. rằng chưa bao giờ nhận được chiếc quần lót nào cả và lời lẽ của em tôi quá mập mờ. cho rằng em tôi bị tác động bởi ai đó và đó là lý do đưa em tôi về nhà.”

      “Kết cục là ông ta bị cảnh cáo,” Erlendur , “nhưng nó có tác dụng lắm. Rúnar luôn luôn phải nhận cảnh cáo. Ông ta có tiếng là tên lưu manh trong sở cảnh sát nhưng lại được ai đó bao che, và đến khi ông ta được bảo vệ nữa bị sa thải.”

      đủ chứng cứ để đưa vụ việc ra xét xử, đó là những điều mà người ta . Rúnar đúng, em tôi nên quên chuyện đó . Tất nhiên, Kolbrún run sợ trong thời gian dài, quá dài, và con bé ngốc nghếch đến mức lau dọn toàn bộ nhà cửa từ trong ra ngoài, cả quần áo ngủ, xóa mọi dấu vết. Con bé chỉ giữ lại chiếc quần lót. Sau đó em tôi cũng cố gắng để giữ lại số tang chứng khác. tội nghiệp nghĩ rằng như thế là đủ để lên . Kolbrún muốn xóa sạch mọi dấu vết của vụ cưỡng dâm ra khỏi cuộc đời mình. Con bé muốn sống chung với nó. Và, như tôi Kolbrún trông tả tơi cho lắm. Đôi môi con bé chỉ bị rách ra - nơi tên khốn kia cắn vào - và bên mắt bị đỏ ngầu. Ngoài ra còn vết thương nào cả.”

      ấy có vượt qua được chuyện đó ?”

      bao giờ. Kolbrún là phụ nữ rất nhạy cảm. tâm hồn đẹp đẽ và con mồi hiền lành khiến bất kỳ ai cũng có thể làm tổn hại, giống như Holberg, Rúnar. Bọn chúng cảm nhận thấy điều đó, cả hai bọn chúng. Chúng tấn công con bé theo cách riêng của mình. Tấn công con mồi cách hung bạo,” bà ta nhìn xuống sàn nhà. “Như những con thú.”

      Erlendur chờ lát trước khi tiếp tục.

      ấy phản ứng như thế nào khi nhận ra mình có thai?” Ông hỏi.

      “Rất hợp lý thôi, tôi nghĩ thế. Ngay lập tức em tôi quyết định vui vẻ vì đứa trẻ bất chấp hoàn cảnh tại và em tôi Audur thực . Hai mẹ con rất quấn quít với nhau và Kolbrún chăm sóc con mình rất chu đáo. Em tôi làm tất cả mọi thứ có thể cho con bé. Con bé đáng tội nghiệp ấy.”

      “Vậy Holberg có biết Audur là con của mình ?”

      “Tất nhiên là biết. Nhưng phủ nhận hoàn toàn chuyện đó. rằng con bé chẳng dính dáng gì đến cả. còn buộc tội em tôi ngủ lang chạ.”

      “Họ bao giờ liên lạc với nhau, liên lạc gì về con mình hay...”

      “Liên lạc ư? đời nào! Làm sao ông có thể hình dung ra chuyện như vậy? Chuyện đó bao giờ có thể xảy ra.”

      “Chắc Kolbrún gửi tấm ảnh cho ông ta chứ?”

      . , tôi biết điều đó. Đó là điều thể.”

      “Chắc hẳn là Holberg tự chụp lấy. Hoặc ai đó biết chuyện ngày trước liền chụp và gửi cho ông ta. Có thể Holberg trông thấy tin buồn báo. Có thông cáo nào về cái chết của Audur ?”

      “Có bài tin buồn báo địa phương. Tôi viết thông cáo ngắn. Có thể ta đọc được nó.”

      “Audur được chôn cất tại đây - Keflavík à?”

      , hai chị em tôi đến từ Sandgerdi, và có nghĩa trang ở Hvalsnes, ngay bên ngoài đó. Kolbrún muốn chôn con bé ở đó. Lúc ấy là vào giữa mùa đông. Người ta phải mất rất nhiều thời gian để đào mộ.”

      “Giấy chứng tử rằng bé bị bệnh u não.”

      “Đó là lời giải thích mà người ta với em tôi. Con bé chết. Chết tay chúng tôi, bé tội nghiệp. Chúng tôi thể làm được gì suốt năm con bé tròn bốn tuổi.”

      Elín ngước nhìn lên Erlendur. “Con bé chết.”

      Lúc đó trong nhà tối, tiếng vang vọng trong bóng tối ảm đạm mang nặng nỗi hoài nghi và đau đớn. Elín từ từ đứng dậy bật chiếc đèn đứng tỏa ánh sáng mù mờ rồi ra hành lang để vào bếp. Erlendur nghe thấy tiếng bà mở vòi nước, đổ nước vào cái gì đó, rồi bà mở cái hộp, và ông ngửi thấy mùi thơm của cà phê. Ông đứng dậy và ngắm các bức tranh tường. bức tranh phấn màu do em bé vẽ được lồng trong chiếc khung mỏng màu đen. Cuối cùng ông thấy thứ mà mình tìm kiếm. Đó là hai bức ảnh, có lẽ được chụp ở hai năm khác nhau - những bức ảnh của Audur.

      Bức thứ nhất được chụp trong hiệu ảnh. Đó là ảnh đen trắng. Có lẽ em bé trong ảnh chỉ tầm tuổi, ngồi tấm nệm lớn, mặc bộ váy xinh xắn với nơ cài tóc và tay cầm chiếc trống. bé xoay nửa người về phía thợ chụp ảnh và mỉm cười, để lộ ra bốn chiếc răng xíu. Bức ảnh còn lại chụp lúc bé khoảng tầm ba tuổi. Erlendur nghĩ là Kolbrún chụp bức hình. Audur đứng trong bụi cây, và ánh mặt trời rọi thẳng xuống đầu bé. bé mặc chiếc áo màu đỏ với váy ngắn, chân tất trắng, giày đen với những chiếc khóa lấp lánh. bé nhìn thẳng vào máy ảnh, ánh nhìn nghiêm nghị. Có lẽ muốn cười.

      “Kolbrún chưa bao giờ vượt qua được chuyện đó,” Elín vừa bước ra phòng khách vừa . Erlendur đứng thẳng người lên.

      “Đó là điều tồi tệ nhất mà con người phải trải qua,” ông và lấy tách cà phê. Elín ngồi xuống sofa, cầm lấy cốc của mình. Erlendur ngồi đối diện với bà và nhấp ngụm cà phê.

      “Nếu ông hút thuốc xin cứ tự nhiên,” bà .

      “Tôi cố bỏ thuốc,” Erlendur trả lời, cố gắng tỏ ra tiếc nuối. Suy nghĩ của ông quay về cơn đau trong ngực, nhưng sau đó ông lại lấy gói thuốc nhăn nhúm từ trong túi áo ra và rút điếu. Điếu thuốc thứ chín trong ngày. Elín đẩy cái gạt tàn về phía Erlendur.

      may mắn là con bé ra nhanh chóng,” Elín . “Nó bắt đầu cảm thấy đau trong đầu giống như là chứng đau đầu vậy. Bác sĩ khám cho con bé chỉ là bệnh đau nửa đầu ở trẻ em. Ông ta kê cho con bé ít thuốc, nhưng chẳng có tác dụng gì cả. Ông ta phải là bác sĩ giỏi. Kolbrún ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của ông ta và nó lo lắng về chuyện đó. Nhưng rồi mọi việc diễn ra quá nhanh. Sức khỏe Audur giảm sút dần. Có khối u da mà đáng lẽ ra ông bác sĩ phải chú ý đến nó. Các dấu hiệu. Ở bệnh viện người ta gọi chúng là café au lait[1]. Chủ yếu là ở dưới cánh tay con bé. Cuối cùng Audur được đưa đến bệnh viện ở Keflavík, ở đó người ta chẩn đoán là bệnh u xơ thần kinh. Hóa ra đó là bệnh u não. Tất cả mọi chuyện diễn ra trong vòng sáu tháng.”

      Elín yên lặng. “Như tôi , sau cái chết của con , Kolbrún chưa bao giờ như thế,” bà thở dài. “Tôi nghĩ là có ai đó lại vượt qua được bi kịch như thế.”

      “Người ta có tiến hành khám nghiệm tử thi với Audur ?” Erlendur hỏi, hình dung ra cảnh cơ thể bé được chiếu sáng bằng đèn huỳnh quang, đặt chiếc bàn thép lạnh lẽo với đường cắt hình chữ Y ngực.

      “Kolbrún chấp nhận chuyện đó,” Elín , “nhưng nó gì cả. Em tôi nổi điên lên khi biết rằng người ta mổ con bé. Tất nhiên nó hóa điên vì buồn khổ sau cái chết của con , và nó nghe ai cả. Kolbrún chịu nổi cái ý nghĩ rằng con mình bị mổ tử thi. Con bé chết, và gì có thể thay đổi được đó. Việc khám nghiệm khẳng định chẩn đoán là chính xác. Người ta tìm thấy khối u ác tính trong não con bé.”

      “Còn em sao?”

      “Kolbrún tự tử ba năm sau đó. Em tôi rơi vào tình trạng suy nhược kiểm soát nổi và phải nhờ đến chăm sóc y tế. Em tôi phải vào trại tâm thần thời gian ở Reykjavík, sau đó trở về nhà ở Keflavík. Tôi cố gắng chăm sóc nó hết mình nhưng dường như nó còn biết gì nữa. Kolbrún còn thiết sống. Audur mang lại hạnh phúc cho nó cho dù hoàn cảnh có thế nào chăng nữa. Nhưng lúc ấy con bé rồi.”

      Elín nhìn sang Erlendur. “Có lẽ ông thắc mắc em tôi tự tử như thế nào.”

      Erlendur đáp lời.

      “Kolbrún vào nhà tắm và rạch cả hai cổ tay. Nó mua dao lam để làm chuyện đó.”

      Elín thôi nữa và bóng tối ảm đạm trong phòng khách bủa vây quanh họ. “Ông có biết điều gì lên trong suy nghĩ của tôi khi tôi nghĩ về vụ tự tử đó ? Đó phải là máu trong bồn tắm. phải là em tôi nằm trong bồn nước đỏ lòm, phải là các vết cắt, mà đó là hình ảnh Kolbrún đến cửa hàng, mua lưỡi dao cạo, trả tiền rồi đếm các đồng xu.”

      Elín dừng lại.

      “Ông có nghĩ là cái cách đầu óc chúng ta làm việc buồn cười ?”

      Bà ta như thể là với chính mình.

      Erlendur biết phải trả lời bà thế nào.

      “Tôi phát ra Kolbrún,” Elín tiếp. “Nó sắp đặt mọi chuyện, gọi điện cho tôi và bảo tôi ghé qua. Chúng tôi chuyện lát. Tôi luôn cảnh giác trước suy nhược của Kolbrún, nhưng về sau nó trông có vẻ tiến triển tốt, như thể là sương mù tan và em tôi có thể gượng dậy lần nữa. Giọng nó hề để lộ chút nào rằng mình chuẩn bị tự tử đêm hôm đó. chút nào. Chúng tôi về tương lai, hai chị em tôi du lịch cùng nhau. Khi tôi phát ra, trông Kolbrún bình thản - điều mà tôi nhìn thấy ở em tôi trong thời gian dài. Thanh thản và chấp nhận. Nhưng tôi biết Kolbrún hề mảy may chấp nhận chuyện đó và tâm hồn nó bao giờ yên ổn cả.”

      “Tôi muốn hỏi bà điều và sau đó tôi làm phiền bà thêm nữa,” Erlendur . “Tôi cần nghe câu trả lời của bà.”

      “Chuyện gì vậy?”

      “Bà có biết gì về vụ Holberg bị sát hại ?”

      , tôi biết.”

      “Và bà dính dáng gì đến vụ đó, trực tiếp hay gián tiếp chứ?”

      .”

      thoáng yên lặng giữa hai người.

      “Những chữ mà ấy chọn khắc mộ Audur là về kẻ thù,” Erlendur .

      “ ‘Hãy gìn giữ mạng sống của con khỏi sợ kẻ thù nghịch’.” Kolbrún tự chọn dòng chữ ấy, mặc dù nó được khắc mộ em tôi,” Elín . Bà đứng lên, đến chỗ cái tủ kính xinh xắn, mở ngăn kéo và lấy ra hộp màu đen. Bà mở cái hộp bằng chiếc chìa khóa, rồi nhấc lên mấy cái phong bì và lấy ra mẩu giấy . “Tôi tìm thấy cái này bàn ăn vào đêm Kolbrún chết, nhưng tôi chắc là em tôi có muốn tôi khắc bia mộ của nó . Tôi hoài nghi điều đó. Tôi cho là mình nhận ra những điều mà em tôi phải trải qua cho đến khi nhìn thấy cái này.”

      Elín đưa cho Erlendur mẩu giấy. đó là những từ đầu tiên của kinh Psalm mà ông vừa thấy trong cuốn Kinh thánh lúc trước: “Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng than thở tôi.”










      12





      Buổi tối hôm đó, khi Erlendur về đến nhà, con ông, Eva Lind ngồi trước cửa, hình như ngủ gật. Ông gọi và cố đánh thức con dậy nhưng Eva có phản ứng gì nên ông xốc vai con bé đưa vào nhà. Ông biết nó ngủ hay là bị say thuốc. Erlendur đặt con lên ghế sofa trong phòng khách. Hơi thở đều. Mạch có vẻ bình thường, ông nhìn con hồi lâu rồi băn khoăn biết nên làm gì. Hơn hết ông muốn đưa con vào bồn tắm. Người nó bốc lên thứ mùi hôi hám, tay bẩn và tóc bết đầy rác rưởi.

      “Con ở đâu vậy?” Erlendur thầm với chính mình.

      Ông ngồi xuống cái ghế bên cạnh con, vẫn đội mũ và áo khoác, nghĩ về con cho đến khi chìm vào giấc ngủ.

      Sáng hôm sau, khi Eva Lind lắc ông dậy, Erlendur muốn mở mắt ra, cố gắng níu giữ lại những giấc mơ khiến ông cảm thấy khó chịu giống như đêm hôm trước. Erlendur biết rằng những giấc mơ đó giống nhau, nhưng ông thể sắp xếp chúng lại trong đầu, thể nắm bắt được chúng. Tất cả những gì còn lại chỉ là bất ổn kéo dài.

      Lúc đó chưa đến tám giờ sáng và bên ngoài trời vẫn đen như mực. Mưa và gió mùa thu vẫn chưa dịu bớt. Erlendur kinh ngạc khi ngửi thấy mùi cà phê trong bếp và hơi nước như thể có ai đó ở trong bồn tắm. Ông thấy Eva Lind mặc chiếc sơ mi và quần jean cũ của ông, con bé phải lấy chiếc thắt lưng túm cái cạp quần lại quanh vòng eo . Con bé chân trần và trông sạch .

      “Tối qua trông con hay ho lắm đấy,” ông .

      “Con quyết định rồi,” Eva Lind trong lúc vào bếp. “Con khiến bố trở thành ông ngoại, ông ngoại Erlendur.”

      “Có phải tối qua là lần cuối con ăn chơi bù khú ? Hay là chuyện gì?”

      “Con có thể ở lại đây thời gian cho đến khi con tìm được chỗ ở mới ?”

      “Bố quan tâm chuyện đó.”

      Ông ngồi xuống bàn ăn cùng con và nhấp ngụm cà phê mà con bé rót ra cốc cho ông.

      “Vậy con đến quyết định này như thế nào?”

      “Chỉ quyết định thôi.”

      “Chỉ quyết định thôi à?”

      “Con có thể ở với bố hay ?”

      “Bao lâu tùy thích. Con biết điều đó mà.”

      “Bố có thể thôi chất vấn con có được ? Ngừng cái việc thẩm vấn của bố lại. Cứ như thể lúc nào bố cũng làm việc vậy.”

      “Lúc nào bố cũng làm việc!”

      “Bố tìm thấy ở Gardabaer chưa?”

      “Chưa. Đó phải là trường hợp ưu tiên. Bố chuyện với chồng ta ngày hôm qua. ta chẳng biết gì cả. Lời nhắn mà để lại rằng “ ta là con quỷ. Tôi làm gì thế này?”

      “Chắc hẳn có ai đó lăng mạ ta trong tiệc cưới.”

      “Lăng mạ ư?” Erlendur hỏi lại. “Đó có phải là từ đúng ?”

      “Bố có thể làm gì với dâu trong lễ cưới để khiến ta chạy trốn cơ chứ?”

      “Bố biết,” Erlendur mấy hứng thú. “Theo bố chàng rể tán tỉnh mấy phù dâu và ta thấy. Bố rất vui vì con sắp sinh con. Có thể chuyện đó giúp con thoát ra khỏi cái vòng tròn luẩn quẩn này. đến lúc rồi.”

      Ông ngừng lại. “ là lạ khi thấy con tươi tỉnh như thế sau tình trạng ngày hôm qua,” cuối cùng ông .

      Ông diễn đạt điều này thận trọng hết sức có thể, nhưng ông cũng biết rằng, trong những hoàn cảnh bình thường, Eva Lind chẳng bao giờ rực rỡ như ngày hè, sạch sau khi tắm gội, pha cà phê và cư xử giống như con bé chưa từng làm điều gì khác ngoài việc chăm sóc bố. Eva Lind nhìn ông và ông thấy con bé cân nhắc các lựa chọn. Erlendur chờ đợi con suy nghĩ kỹ và thổ lộ cho ông biết ý nghĩ của mình. Nhưng con bé gì.

      “Con mua mấy viên thuốc,” Eva bình tĩnh. “Việc đó xảy ra theo ý muốn. Và phải là trong chốc lát. Nó xảy ra chậm chạp, trong thời gian dài, nhưng đó là cách mà con muốn.”

      “Thế còn đứa bé sao?”

      “Nó bị ảnh hưởng bởi thứ thuốc con dùng đâu. Con có ý định làm hại nó. Con sinh con.”

      “Con biết gì về ảnh hưởng của ma túy đối với thai nhi?”

      “Con biết.”

      “Hãy giữ cái thai theo cách của riêng con. Ăn uống gì đó, tự làm mình phấn chấn hoặc bất cứ điều gì tương tự, ở trong nhà, suy nghĩ tích cực về bản thân. Bố có thể...”

      ,” Eva Lind . “Bố đừng làm gì cả. Bố cứ sống cuộc sống của mình và thôi kiểm soát con . Đừng băn khoăn về những gì con làm nữa. Nếu bố về mà thấy con cũng chẳng sao. Nếu con về muộn hoặc về nhà, bố cũng đừng can thiệp. Nếu điều đó xảy ra, con , chắc chắn là thế.”

      “Vậy bố liên can.”

      “Đó chưa bao giờ là việc của bố cả,” Eva Lind , và nhấp nhụm cà phê.

      Điện thoại reo và Erlendur đứng lên nghe. Người gọi là Sigurdur Óli, ta gọi từ nhà.

      “Tôi liên lạc được với ông cả ngày hôm nay,” .

      Erlendur nhớ lại là mình tắt điện thoại khi chuyện với Elín ở Keflavík, và ông vẫn chưa bật nó lên.

      “Có tiến triển gì mới ?” Erlendur hỏi.

      “Hôm qua tôi chuyện với người đàn ông tên là Hilmar. Đó là người lái xe tải thi thoảng ngủ lại nhà Holberg ở Nordurmýri. Nghỉ giữa chặng hay đại loại thế. Ông ta với tôi rằng Holberg là người bạn tốt, có gì phải phàn nàn, và mọi người trong công ty đều có vẻ quý mến ông ta. Ông ta tốt bụng, thân thiện, vân vân... Ông ta tưởng tượng được là Holberg lại có kẻ thù, nhưng vội bổ sung thêm rằng mình thực hiểu ông ta lắm. Hilmar cũng với tôi rằng Holberg được bình thường lắm khi ông ta ở nhà ông ấy lần cuối cùng. ràng là ông ta cư xử rất lạ.”

      “Lạ như thế nào?”

      “Theo Hilmar kể lại ông ta có vẻ sợ phải trả lời điện thoại. Hình như có vài kẻ chó chết nào đó để ông ấy được yên, vì khi ông ấy vừa bỏ máy xuống, chuông điện thoại lại kêu liên tục. Hilmar rằng ông ta ở nhà Holberg tối thứ bảy và ông ta nhờ Hilmar trả lời điện thoại lần. Hilmar làm, nhưng khi người gọi nhận ra đó phải là Holberg, bèn ném phịch điện thoại xuống.”

      “Chúng ta có thể tìm ra ai gọi điện cho Holberg ?”

      “Tôi cho kiểm tra. Còn điều khác nữa. Tôi lấy được bản kê chi tiết các cuộc gọi của Holberg từ công ty điện thoại, và trong đó có vài điều thú vị.”

      “Điều gì vậy?”

      “Ông có nhớ cái máy tính của ông ta ?”

      “Có.”

      “Chúng ta chưa xem xét gì đến nó cả.”

      . Các kỹ thuật viên làm việc đó chứ.”

      “Ông có chú ý nếu nó được nối vào điện thoại?”

      .”

      “Tất cả các cuộc gọi của Holberg, đúng hơn là hầu hết chúng, là gọi đến nhà cung cấp mạng, ông ta dành phần lớn những ngày cuối đời để lướt Net.”

      “Điều đó lên cái gì?” Erlendur hỏi, ông đặc biệt mù tịt về máy tính.

      “Có thể chúng ta biết điều đó nếu chúng ta bật máy tính lên.” Sigurdur Óli đáp.

      Họ đến căn hộ của Holberg ở Nordurmýri cùng lúc. Dải băng màu vàng được dọn và ở đó chẳng còn dấu hiệu nào cho thấy tội ác xảy ra. có ánh đèn nào sáng ở các tầng . Có vẻ như những người hàng xóm ở nhà. Erlendur có chìa khóa để mở cửa căn hộ. Họ thẳng đến cái máy tính và bật nó lên. Cái máy bắt đầu kêu ro ro.

      “Cái máy này khá tốt đấy,” Sigurdur Óli , thoáng băn khoăn biết có nên giải thích với Erlendur về kích cỡ và chủng loại máy , nhưng rồi quyết định thôi.

      “Được rồi,” Sigurdur Óli , “tôi xem xem ông ta lưu những địa chỉ web nào trong danh mục ưa thích. Nhiều lắm, rất nhiều là đằng khác. Có thể ông ta tải về số tập tin nào đó. Ôi chà!”

      “Cái gì thế?”

      “Ổ cứng của máy đầy chặt rồi.”

      “Thế sao?”

      “Phải có rất nhiều thứ mới làm đầy bộ nhớ ổ cứng được. Chắc hẳn là toàn phim ảnh trong đây. Đây là thứ mà ông ta gọi là avideo3. Chúng ta xem nó là cái gì chứ?”

      “Chắc chắn rồi.”

      Sigurdur Óli mở tập tin và cửa sổ video ra. Đó là bộ phim khiêu dâm.

      “Có phải họ giữ con dê người ta ?” Erlendur hỏi mà tin vào mắt mình.

      “Có 312 tập tin avideo,” Sigurdur Óli . “Chúng có thể là những đoạn phim ngắn như vừa rồi, thậm chí là cả bộ phim.”

      “Avideo ư?” Erlendur hỏi lại.

      “Tôi biết,” Sidurdur Óli trả lời. “Có thể là animal video - phim con heo ý. Xem nào, chúng ta có nên xem gvideo88 ? Kích đúp... phóng to cửa sổ ra nào...”

      “... đúp?” Erlendur hỏi, nhưng chợt khựng lại khi thấy bốn người đàn ông lõa lồ làm tình cái màn hình 17 inch.

      “Gvideo chắc là gay video - video đồng tính,” Sigudur Óli khi tắt cửa sổ.

      “Chắc hẳn là ông ta bị ám ảnh,” Erlendur . “Có bao nhiêu phim tất cả?”

      “Có hơn nghìn tập tin ở đây, nhưng có lẽ còn rất nhiều tập tin lưu ở các vùng khác trong ổ cứng.”

      Điện thoại của Erlendur reo lên trong túi áo khoác. Đó là Elínborg. cố gắng theo dấu hai gã đàn ông cùng Holberg đến vũ trường ở Keflavík vào cái đêm Kolbrún bị tấn công. Elínborg với Erlendur rằng gã trong số họ tên là Grétar và ông ta biến mất nhiều năm trước đây.

      “Biến mất ư?” Erlendur hỏi.

      “Phải. trong số những nạn nhân bị mất tích của chúng ta.”

      “Còn gã thứ hai sao?”

      “Gã kia ở trong tù,” Elínborg . “Luôn luôn gây rắc rối. ta còn năm nữa trong án tù bốn năm.”

      “Vì tội gì?”

      “Ông thử tìm hiểu xem.”








      13





      Erlendur nhắc nhở đội pháp y về cái máy tính. Cũng phải mất thời gian người ta mới xem xét được hết mọi thứ trong đó. Ông cầu họ phải xem xét từng file , liệt kê và phân loại, tường thuật lại cách cụ thể nội dung của chúng. Sau đó ông và Sigurdur Óli lên đường nhà tù Litla - Hraun ở phía đông thành phố. Họ mất tiếng đồng hồ để đến đó. Tầm nhìn hạn chế, đường đóng băng trong khi chiếc xe vẫn lắp những chiếc lốp dành cho mùa hè, do vậy họ phải rất cẩn thận.

      Thời tiết ấm dần lên khi họ qua đèo Threngslin. Hai người qua sông Olfusá và ngay lúc đó, từ bờ sông rải sỏi họ nhìn thấy hai nóc nhà tù vươn lên từ khoảng xa mờ mịt. Tòa nhà cũ hơn cao ba tầng, mái có đầu hồi. Nhiều năm trước, tòa nhà có mái tôn màu đỏ, và từ xa trông nó như nhà xưởng cũ khổng lồ. Ngày nay, mái nhà được sơn màu xám cho hợp với tòa nhà mới bên cạnh. Đó là tòa nhà bọc thép, có màu xanh xám với tháp đồng hồ, đại và vững chãi, khác nào cơ quan tài chính ở Reykjavík.

      “Thời gian làm thay đổi nhiều thứ quá,” Erlendur thầm nghĩ.

      Elínborg thông báo cho ban quản lý nhà tù về việc hai thám tử đến và tên tù nhân hai người muốn chuyện. Người quản lý trại giam đón hai người vào văn phòng, ông ta muốn hai thám tử biết số thông tin về tù nhân trước khi gặp . Họ đến đúng vào thời điểm tồi tệ nhất. Tên tù đó bị biệt giam sau khi và hai tên khác tấn công kẻ hiếp dâm trẻ em rồi để mặc kẻ đó đến chết, ông ta rằng muốn kể chi tiết, nhưng vẫn muốn thông báo cho cảnh sát để ràng cuộc viếng thăm của họ phá vỡ án biệt giam của và tên tù nhân chắc chắn trong trạng thái ổn định. Sau cuộc gặp, hai thám tử được hộ tống đến phòng gặp. Họ ngồi xuống và chờ đợi tên tù.

      Tên là Ellidi, năm mươi sáu tuổi, là tên tội phạm đầy ắp tiền án tiền . Erlendur biết ta, thực ra có lần ông áp giải đến Litla-Hraun. Ellidi làm nhiều loại công việc trong suốt cuộc đời khốn khổ của mình, từng làm việc trong các thuyền cá và tàu buôn, rồi buôn lậu rượu và thuốc phiện tại đó, và cuối cùng bị bắt vì tội danh đó. còn gian lận bảo hiểm bằng cách phóng hỏa con thuyền nặng hai mươi tấn ngoài bờ biển Tây Nam và đánh chìm nó. Ba người trong số chúng “sống sót”. Thành viên thứ tư trong nhóm vô tình bị bỏ quên lại, bị khóa ở phòng máy và chìm cùng con tàu. Tội ác đó bị phát khi những người thợ lặn xuống chỗ con tàu chìm và phát ra rằng lửa bốc ra ở ba chỗ cùng lúc. Ellidi phải vào Litla-Hraun bốn năm vì tội gian lận bảo hiểm, ngộ sát và thêm hai năm rưỡi nữa vì số tội tích lũy ở Viện kiểm soát Nhà nước mà bị truy tố cùng lúc.

      Ellidi khét tiếng với những vụ tấn công bạo lực, trong đó vụ khủng khiếp nhất là khiến nạn nhân bị thương nghiêm trọng đến mức dần dần trở thành tàn tật. Erlendur đặc biệt nhớ vụ và mô tả nó cho Sigurdur Óli khi họ qua bãi hoang. Ellidi ở với người thanh niên trong ngôi nhà tại Snorrabraut. Khi cảnh sát đến trường, đánh người thanh niên kia đến mức ta phải được chăm sóc đặc biệt trong bốn ngày. Sau khi trói người thanh niên vào cái ghế, dọa dẫm bằng cách lấy cái chai vỡ cắt vào mặt ta. Trước khi cảnh sát chế ngự được Ellidi, y đốn ngã cảnh sát và bẻ gãy cánh tay của người này. Thế nhưng các vị thẩm phán ở Iceland vốn lừng danh là nhân hậu. chỉ bị tù hai năm vì vụ đó và vài tội danh nhặt khác như lần trước. Khi bản án được đọc lên, y cười nhạo nó.

      Cửa mở ra và Ellidi được hai lính canh đưa vào phòng. trông vẫn còn cường tráng mặc dù tuổi cao. Da đen, đầu cạo nhẵn thín. Dái tai xíu, tuy nhiên vẫn cố chọc được cái lỗ và treo lủng lẳng cái khuyên hình chữ Vạn nào đó. Hàm răng giả của rít lên mỗi khi . mặc chiếc quần bò rách rưới và cái áo phông đen để lộ ra hai bắp tay cuồn cuộn với những hình xăm ở cả hai cánh tay. Ellidi cao gần mét chín. Hai thám tử để ý thấy bị còng tay. mắt đỏ ngầu, mặt bị cào xước và môi sưng phồng.

      kẻ tâm thần tàn bạo, Erlendur tự nhủ.

      Hai người lính canh ra đứng ở cửa và Ellidi đến cái bàn, ngồi đối diện với Erlendur và Sigurdur Óli. nhìn họ với đôi mắt xám vô hồn, hoàn toàn quan tâm.

      “Ông có biết người nào tên là Holberg ?” Erlendur hỏi.

      Ellidi trả lời. giả vờ như nghe thấy câu hỏi. nhìn Erlendur và Sigurdur Óli với con mắt đờ đẫn như nhau. Những người lính canh chuyện thầm với nhau ngoài cửa. Đâu đó trong tòa nhà vẳng lên tiếng quát tháo. cánh cửa đóng sầm lại. Erlendur nhắc lại câu hỏi, tiếng ông vọng trong căn phòng trống. “Holberg! Ông có nhớ ông ta ?”

      Tuy nhiên ông vẫn nhận được câu trả lời của Ellidi, lúc này nhìn vô định quanh căn phòng, như thể là họ ở đó. khoảng thời gian trôi qua trong yên lặng. Erlendur và Sigurdur Óli nhìn nhau và Erlendur hỏi lại lần thứ ba. có biết Holberg ? Mối quan hệ của họ là gì? Holberg chết. Nghi là bị giết.

      Ellidi trở nên quan tâm khi nghe thấy những từ cuối cùng. đặt cánh tay lực lưỡng lên mặt bàn, rung chiếc còng lách cách, giấu nổi vẻ ngạc nhiên. nhìn chòng chọc vào Erlendur.

      “Holberg bị giết tại nhà cuối tuần trước,” Erlendur . “Chúng tôi thẩm vấn những người biết ông ta vào các thời điểm khác nhau, và có vẻ như ông có quen ông ta.”

      Ellidi bắt đầu nhìn Sigurdur Óli chằm chằm, lúc này cũng nhìn lại. trả lời Erlendur.

      “Thủ tục là...”

      “Tôi chuyện với các ông khi tay tôi bị còng,” Ellidi đột nhiên , rời mắt khỏi Sigurdur Óli. Giọng khàn khàn và khiêu khích. Erlendur cân nhắc lát, sau đó đứng dậy và tiến về phía hai lính canh. Ông trình bày cần của Ellidi và hỏi xem liệu có thể tháo còng tay của ra . Họ lưỡng lự, nhưng sau đó cũng về phía , tháo cái còng và quay trở về bên cánh cửa.

      “Ông có thể cho chúng tôi biết về Holberg được ?” Erlendur hỏi.

      “Hãy bảo họ trước ,” Ellidi , hất đầu về phía hai lính canh.

      thể được.” Erlendur đáp.

      “Mày là thằng đồng tính khốn kiếp phải ?” Ellidi hỏi, tia nhìn của vẫn chiếu vào Sigurdur Óli.

      “Đừng có với chúng tôi những chuyện vô bổ như thế,” Erlendur .

      Sigurdur Óli trả lời . chỉ nhìn nhau.

      “Chẳng có gì là thể được cả,” Ellidi . “Đừng có với tôi bất cứ điều gì liên quan đến câu hỏi.”

      “Họ đâu cả,” Erlendur .

      “Mày có phải là thằng đồng tính ?” Ellidi hỏi lại trong khi mắt vẫn rời Sigurdur Óli, và vẫn có phản ứng gì.

      Trong lúc họ chỉ lặng thinh nhìn nhau. Cuối cùng Erlendur đứng lên, về phía hai lính canh, nhắc lại cầu của Ellidi và hỏi xem liệu họ có thể ở với ta mình . Những người lính trả lời rằng điều đó là thể, họ được lệnh là được rời nửa bước. Sau khi tranh luận hồi, họ để Erlendur chuyện với người quản lý trại giam qua bộ đàm. Erlendur rằng việc các lính canh đứng ở bên trong hay bên ngoài cánh cửa cũng khác nhau nhiều lắm, Erlendur và Sigurdur Óli phải cả quãng đường dài từ Reykjavík đến đây và tên tù nhân đồng ý hợp tác ở mức độ nhất định nếu vài điều kiện đưa ra được thỏa mãn. Viên quản lý với người của ông ta rằng mình tự chịu trách nhiệm về an toàn của hai thám tử. Những người lính canh bèn bước ra ngoài còn Erlendur quay trở về bàn và ngồi xuống.

      “Ông có thể với chúng tôi được rồi chứ?” ông hỏi.

      “Tôi biết rằng Holberg bị giết,” Ellidi . “Những tên phát xít đó tống tôi vào biệt giam vì những chuyện cứt mà tôi đếch làm. Thế bị giết như thế nào?” Ellidi vẫn nhìn trừng trừng vào Sigurdur Óli.

      “Đó phải là việc của ông,” Erlendur .

      “Bố tôi rằng tôi là thằng con hoang tò mò nhất thế giới, ông ta luôn luôn điều đó. phải việc của mày. phải việc của mày! Vậy là chết. bị đâm có phải ? Holberg bị đâm phải ?”

      “Đó phải là việc của ông.”

      phải việc của tôi!” Ellidi nhắc lại và nhìn Erlendur. “Thế cút !”

      Erlendur suy nghĩ lát. ai ngoài Cục điều tra tội phạm được biết chi tiết vụ án. Ông chán với việc luôn phải nhường bước trước nhân vật này.

      “Ông ta bị đánh vào đầu. Sọ bị vỡ. Gần như chết ngay lập tức.”

      “Là cái búa à?”

      cái gạt tàn.”

      Ellidi dần dần chuyển tia nhìn từ Erlendur trở lại Sigurdur Óli.

      “Loại người ngu độn nào lại dùng cái gạt tàn nhỉ?” . Erlendur để ý thấy mồ hôi lấm tám trán Sigurdur Óli.

      “Đó là điều mà chúng tôi muốn tìm ra,” Erlendur . “Ông có liên lạc với Holberg ?”

      có đau đớn ?”

      .”

      “Như cái giật mình.”

      “Ông có nhớ Grétar ?” Erlendur hỏi. “Ông ta cùng với ông và Holberg ở Keflavík.”

      “Grétar ư?”

      “Ông có nhớ ông ta ?”

      “Các ông hỏi về làm gì?” Ellidi . “ ta làm sao?”

      “Ông ta mất tích nhiều năm trước đây,” Erlendur . “Ông có biết gì về việc ông ta biến mất ?”

      “Tôi nên biết điều gì về chuyện đó nhỉ?” Ellidi hỏi. “Điều gì khiến ông nghĩ rằng tôi biết chuyện đó?”

      “Ba người các ông - ông, Grétar và Holberg - làm gì ở Keflavík...” “Grétar chỉ là tên dở hơi,” Ellidi , cắt ngang lời của Erlendur.

      “Các ông làm gì ở Keflavík khi...”

      “… cưỡng hiếp con mụ đó?” Ellidi xen vào.

      “Ông vừa gì?”

      “Các ông đến đây là vì thế à? Để hỏi về con mèo hen ở Keflavík à?”

      “Vậy ông nhớ chuyện đó chứ?”

      “Chuyện đấy có liên quan gì?”

      “Tôi chưa bao giờ rằng...”

      “Holberg thích về chuyện đó, khoe khoang đúng hơn. trốn tránh trách nhiệm, hiếp ta hai lần, các ông biết điều ấy chứ?” Ellidi thẳng thừng và lần lượt nhìn hai thám tử.

      “Ông về vụ hiếp dâm ở Keflavík đấy à?”

      “Em mặc đồ lót màu gì vậy, em ?” Ellidi chuyển sang Sigurdur Óli và lại nhìn chòng chọc vào . Erlendur quay sang đồng nghiệp, lúc này mắt nhìn xoáy vào Ellidi.

      “Cẩn thận cái mồm chết tiệt của ông đấy,” Erlendur .

      hỏi ta thế. Holberg ấy. Hỏi về đồ lót của ta. Thậm chí còn điên rồ hơn cả tôi nữa.” Ellidi cười rinh rích. “Và người ta tống tôi vào tù!”

      “Ông ta hỏi ai về cái quần lót cơ?”

      “Con gà ở Keflavík chứ ai.”

      “Ông ta với ông về chuyện đó à?”

      “Tất cả mọi chi tiết,” Ellidi trả lời. “ luôn luôn về chuyện đó. Dù sao nữa, ông hỏi về Keflavík để làm gì? Keflavík có liên quan gì đến chuyện đó? Và tại sao ông lại hỏi về Grétar? Tôi hiểu.”

      “Chỉ là công việc tẻ nhạt hàng ngày của chúng tôi thôi,” Erlendur .

      “Ông có mọi thứ ông muốn. Chúng tôi ngồi đây mình với ông và còng tay của ông được tháo ra. Chúng tôi phải nghe những lời bẩn thỉu của ông. Chúng tôi thể làm được gì cho ông nữa. Hoặc là ông trả lời câu hỏi của chúng tôi, hoặc chúng tôi .”

      Ông thể kìm mình lại nữa. Vươn tay qua bàn, ông chộp lấy khuôn mặt của Ellidi và quay nó về phía mình.

      “Bố mày dạy mày rằng là thô lỗ khi nhìn chăm chăm vào mặt người khác như thế à?” Ông gằn giọng. Sigurdur Óli nhìn Erlendur. “Tôi có thể kiểm soát được mà. sao đâu.”

      Erlendur buông tay khỏi mặt của Ellidi.

      “Ông biết Holberg như thế nào?” Ông hỏi. Ellidi xoa xoa quai hàm. biết rằng mình có được thành công . Và dừng lại ở đó.

      “Đừng nghĩ rằng tôi nhớ ông,” với Erlendur. “Đừng nghĩ rằng tôi biết ông là ai. Đừng nghĩ rằng tôi biết Eva!”

      Erlendur nhìn chăm chăm vào tên tù nhân, choáng váng. Đây phải là lần đầu tiên ông nghe được những lời như thế này từ bọn tội phạm, nhưng chưa bao giờ ông lại thiếu chuẩn bị đến thế. Ông biết chính xác Eva Lind giao du với những ai, nhưng vài kẻ trong số đó là tù nhân, kẻ buôn ma túy, trộm cắp, điếm, đồ tể. Danh sách đó khá dài.

      Bản thân con bé cũng dính dáng đến pháp luật. lần con bé bị bắt khi phụ huynh tố cáo vì tội bán ma túy trong trường. Con bé có thể dễ dành quen kẻ như Ellidi. kẻ như Ellidi cũng dễ dàng quen con bé.

      “Ông biết Holberg như thế nào?” Erlendur nhắc lại.

      “Eva rồi ổn thôi,” Ellidi . Erlendur có thể đọc được vô vàn ý nghĩa trong từ ngữ của ta.

      “Nếu ông mà còn nhắc đến con bé lần nữa, chúng tôi ,” ông . “Và sau đó ông còn ai để mà đùa giỡn nữa đâu.”

      “Thuốc lá, tivi trong phòng giam, lao động khổ sai, biệt giam. Đó có phải là đòi hỏi quá nhiều ? Hai siêu cớm mà làm được những điều đó à? Và nếu được có thêm cả điếm ở đây mỗi tháng lần nữa nhé. Con gà của ta chẳng hạn,” và chỉ vào Sigurdur Óli.

      Erlendur đứng lên và Sigurdur Óli từ từ đứng lên. Ellidi bắt đầu cười phá lên. Tiếng cười khùng khục trong cổ họng dần chuyển thành tiếng òng ọc, sau đó ho khù khụ và khạc ra mấy cục đờm vàng khè sàn nhà. Hai thám tử quay người và ra phía cửa.

      kể cho tao nghe rất nhiều về vụ hiếp dâm đó ở Keflavík!” hét lên. “Kể cho tao tất cả mọi thứ về ả. Cái cách mà con mèo hen ấy ré lên như con lợn bị chọc tiết và những điều mà thầm vào tai ả khi chờ để làm thêm lần nữa. Chúng mày có muốn nghe điều đó ?! Mẹ kiếp những thằng ngu! Chúng mày có muốn nghe chuyện đó ?”

      Erlendur và Sigurdur Óli dừng lại. Họ quay lại và thấy Ellidi lắc đầu nguầy nguậy về phía họ, sùi cả bọt mép, la hét và nguyền rủa. đứng dậy, tay chống lên bàn, tì người lên đó, vươn cái đầu to lớn về phía họ và rống lên như con bò điên.

      Cánh cửa bật mở và hai người lính canh bước vào.

      còn với ả ta về con đĩ khác,” Ellidi hét lên. “ với ả về những gì làm với con mèo chết tiệt khác mà hiếp!”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      14





      Khi Ellidi nhìn thấy hai lính canh, trở nên điên tiết. nhảy qua cái bàn, chạy đến chỗ bốn người đứng, hét lớn rồi lao về phía họ. đổ người lên Erlendur và Sigurdur Óli khiến cả hai ngã vật ra sàn nhà trước khi kịp phản ứng. húc đầu vào Sigurdur Óli làm chảy máu mũi, quả đấm của thoi vào mặt Erlendur. trong hai người lính canh liền lấy ra thiết bị màu đen và chích điện vào người . Việc đó khiến bớt hung hãn chút nhưng thể ngăn lại được. Ellidi lại giơ nắm đấm lên. Cho đến khi người lính canh thứ hai chích điện vào người , mới khuỵu xuống và đổ ập lên người Erlendur và Sigurdur Óli.

      Họ bò ra khỏi thân hình gã. Sigurdur Óli lấy khăn tay lau mũi. Ellidi bị chích điện lần thứ ba nên nằm im bất động. Hai lính canh còng tay lại và nâng dậy cách khó khăn. Họ chuẩn bị đưa ra ngoài nhưng Erlendur bảo họ chờ lát. Ông về phía Ellidi.

      “Còn người nào nữa?” ông hỏi.

      Ellidi phản ứng gì.

      “Ông ta còn hiếp thêm người nào nữa?” Erlendur nhắc lại câu hỏi.

      Ellidi cố nặn ra nụ cười, nhưng vì bị điện giật nên gương mặt chỉ là méo mó ghê rợn. Máu chảy từ mũi xuống mồm và loang lổ nơi hàm răng giả. Erlendur cố gắng chế ngự háo hức trong giọng , như thể ông thèm quan tâm gì đến điều mà Ellidi biết, ông cố gắng để mình bị tấn công, cố gắng thể bất kỳ cảm xúc nào. Ông biết rằng yếu mềm nhất cũng khiến cho trái tim của những kẻ như Ellidi đập mạnh, biến chúng thành những con người thực , trao cho chúng mục đích nhất định trong hàng đống những ảo tưởng đáng thương hại của chúng về cuộc đời. đánh lạc hướng nhất là đủ. giọng đầy háo hức, chuyển động ở tay, dấu hiệu mất kiên nhẫn. Ellidi cố gắng làm cho ông mất bình tĩnh khi nhắc đến Eva Lind. Erlendur để cho có được cảm giác thoả mãn cách hèn hạ đó nữa.

      Họ nhìn thẳng vào mắt nhau.

      “Đưa ra ngoài.” Erlendur và quay . Hai người lính chuẩn bị dẫn tên tù nhân nhưng cứng người lên và nhúc nhích khi họ cố gắng di chuyển . nhìn Erlendur lâu như thể là nghiền ngẫm điều gì, nhưng cuối cùng cũng phải nhượng bộ để người ta dẫn . Sigurdur Óli vẫn cố gắng cầm máu. Mũi sưng phồng lên và chiếc khăn tay đẫm máu.

      vụ chảy máu cam bẩn thỉu,” Erlendur và kiểm tra mũi của Sigurdur Óli. “ bị gì thêm, có gì nguy hiểm. Mũi có vết rách và bị gãy.” Ông véo nó mạnh khiến Sigurdur Óli hét inh lên vì đau.

      “Ồ, chắc là nó bị gãy rồi. Tôi phải là bác sĩ,” Erlendur .

      “Thằng con hoang khốn nạn,” Sigurdur Óli . “Thằng con hoang khốn nạn.”

      “Thằng đó chơi khăm chúng ta hay thực biết về người phụ nữ khác?” Erlendur khi họ rời khỏi toà nhà. “Nếu còn có thêm người nữa chắc hẳn còn thêm nhiều người nữa bị Holberg hiếp mà dám trình báo.”

      có cách nào để chuyện tử tế với tên tù đó cả.” Sigurdur Óli . “ làm thế chỉ để mua vui cho mà thôi, làm cho chúng ta rơi vào mớ bòng bong. chơi chúng ta đấy, ông thể tin vào bất cứ lời nào . Cái thằng ngu ngốc ấy. Cái thằng ngu ngốc chết dẫm ấy!”

      Họ đến văn phòng của viên quản lý và tường thuật ngắn gọn về những việc xảy ra. Theo ý hai thám tử, nơi duy nhất dành cho Ellidi là buồng giam có lót đệm và khu điều trị tâm thần. Viên quản lý đồng ý cách chán nản, nhưng ông ta rằng trông cậy duy nhất vào các nhà chức trách là giam ở Litla-Hraun. Đây phải là lần đầu tiên Ellidi bị biệt giam vì bạo lực trong tù và chắc chắn phải là lần cuối cùng.

      Hai người bước ra ngoài. Khi họ vừa mới lái xe ra khỏi nhà tù và chờ cho cánh cổng màu xanh dẫn ra bãi đỗ xe mở ra Sigurdur Óli thấy người lính đuổi theo họ, vẫy tay gọi họ dừng lại. Họ chờ cho đến khi ta bắt kịp. Erlendur hạ cửa kính xuống. “ muốn chuyện với các ông,” người lính canh vừa vừa thở hổn hển.

      “Ai cơ?” Erlendur hỏi.

      “Ellidi muốn chuyện với các ông.”

      “Chúng tôi vừa chuyện với Ellidi,” Erlendur . “Bảo quên chuyện đó .”

      rằng cho các ông thông tin mà các ông muốn.”

      dối đấy.”

      “Đó là điều .”

      Erlendur nhìn Sigurdur Óli thoáng.

      “Được rồi, chúng tôi quay lại,” cuối cùng ông .

      chỉ muốn mình ông thôi, phải ông ấy,” người lính rồi nhìn vào Sigurdur Óli.

      Ellidi được đưa ra khỏi phòng biệt giam nữa, vì vậy Erlendur phải chuyện với qua cái lỗ ở cửa. Người ta mở nó bằng cách trượt tầm sắt sang bên. Căn phòng rất tối, do đó Erlendur thể nhìn vào trong được, ông chỉ có thể nghe thứ giọng khàn khàn của Ellidi. Người lính dẫn Erlendur đến cánh cửa và để ông ở đó mình.

      “Thế nào hả? Tên đồng tính!” là câu đầu tiên mà Ellidi hỏi. Thay vì đứng cạnh cái lỗ cửa, vào bên trong. Có thể nằm giường. Có thể dựa vào tường. Erlendur cảm giác như giọng vang lên từ sâu thẳm trong bóng tối. ràng là bình tĩnh lại.

      “Đây phải là tiệc trà,” Erlendur trả lời. “Ông muốn chuyện với tôi.”

      “Ông nghĩ rằng ai giết Holberg?”

      “Chúng tôi biết về nạn nhân của Holberg sao?”

      “Tên ả là Kolbrún, con gà mái mà hiếp ở Keflavík. thường kể về chuyện đó. Kể cả chuyện ta suýt bị bắt như thế nào khi con mèo đó ngu ngốc đến mức kiện. mô tả tất cả các chi tiết, ông có muốn nghe ?”

      ,” Erlendur trả lời. “Mối quan hệ giữa ông và Holberg là như thế nào?”

      “Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau. Tôi bán rượu và mua sách báo khiêu dâm cho hồi còn ở tàu. Chúng tôi gặp nhau khi cùng làm việc cho Cơ quan quản lý Bến cảng và Hải đăng. Trước khi chuyển sang lái xe tải. Chúng tôi vào thị trấn cùng nhau, ông bao giờ lấy lại được bạn tình mất. Đó là điều đầu tiên dậy cho tôi. biết cách chuyện. Rất ấn tượng. Rất giỏi tán tỉnh phụ nữ. gã hài hước.”

      “Các ông đến thị trấn?”

      “Đó là lý do tại sao chúng tôi ở Keflavík. Chúng tôi sơn ngọn hải đăng Reykjanes. Những con ma ở đó khốn nạn. Ông đến đó bao giờ chưa? Chúng kêu gào và tru tréo suốt đêm. Còn tệ hại hơn cái lỗ chó chết này. Holberg chẳng sợ ma tí nào. chẳng sợ gì cả.”

      “Và ông ta luôn với ông vụ mình cưỡng hiếp Kolbrún, khi ông ta chỉ mới vừa gặp ông à?”

      nháy mắt với tôi khi theo ả ra khỏi bữa tiệc. Tôi hiểu điều đó nghĩa là gì. ta có thể là người hấp dẫn. nghĩ rằng là buồn cười khi trốn tránh điều đó. còn cười ha hả khi thấy tên cớm mà ả đến gặp hủy vụ kiện.”

      “Họ có biết nhau , Holberg và tên cảnh sát ấy?”

      “Tôi biết.”

      có bao giờ về đứa con mà Kolbrún sinh sau vụ hiếp dâm đó ?”

      “Con ư? . làm ta có thai à?”

      “Ông còn biết về vụ hiếp dâm khác nữa.” Erlendur trả lời tên tù nhân. “ phụ nữ khác bị ông ta hiếp. Đó là ai? Tên ta là gì?”

      “Tôi biết.”

      “Vậy tại sao ông lại gọi tôi quay lại?”

      “Tôi biết đó là ai nhưng tôi biết chuyện đó xảy ra khi nào và nơi ta sống, ít nhiều là như vậy. Điều đó đủ để ông tìm ra ta.”

      “Khi nào? Và ở đâu?”

      “Đúng rồi đấy. Vậy tôi được gì nào?”

      “Ông ư?”

      “Ông có thể làm gì cho tôi?”

      “Tôi thể làm gì giúp ông và tôi cũng muốn làm điều đó.” “Chắc chắn là ông có thể. Có như vậy tôi mới cho ông điều mà tôi biết.”

      Erlendur cân nhắc.

      “Tôi thể hứa trước điều gì,” ông .

      “Tôi thể chịu được biệt giam.”

      “Đó là lý do tại sao ông gọi tôi lại phải ?”

      “Ông biết điều đó có ý nghĩa thế nào đâu. Tôi hoá điên lên trong gian tù này mất. Họ bao giờ bật đèn lên. Tôi biết ngày đêm là gì. Ông bị giam ở trong đây như con vật bị nhốt trong lồng. Người ta đối xử với ông như con thú.”

      “Và sao nào, ông là Bá Tước Monte Cristo chắc!” Erlendur cách châm biếm, “Ông là kẻ tâm thần, Ellidi ạ. Loại tâm thần tệ hại nhất đời. thằng điên ngu ngốc lại còn thích bạo lực. kẻ ghét đồng tính và phân biệt chủng tộc. Ông là loại chậm phát triển trí tuệ nhất mà tôi từng biết. Tôi quan tâm việc người ta nhốt ông ở đây cả đời. Tôi lên tầng để đề nghị điều đó ngay bây giờ.”

      “Tôi cho ông biết ta sống ở đâu và ông đưa tôi ra khỏi đây.”

      “Tôi thể đưa ông ra khỏi đây, đồ ngu ạ. Tôi có quyền, mà thậm chí nếu có quyền chăng nữa, tôi cũng làm. Nếu ông muốn án biệt giam của mình ngắn lại có lẽ cách tốt nhất là ông thôi đánh người .”

      “Ông có thể thương lượng được chuyện đó cơ mà. Hãy rằng ông làm tôi bị thương. rằng thằng đồng tính kia khơi mào mọi chuyện. Tôi hợp tác, nhưng ta lại đưa ra những nhận xét ngu độn. Và tôi giúp ông bằng cách trả lời những câu hỏi của ông. Họ nghe ông. Tôi biết ông là ai. Họ nghe ông.”

      “Holberg có về ai khác ngoài hai người đó ?”

      “Ông giúp tôi chứ?”

      Erlendur suy nghĩ. “Tôi xem xem mình có thể làm được gì. Ông ta có về những người khác nữa ?”

      , bao giờ. Tôi chỉ biết về hai ả đó thôi.”

      “Ông có dối đấy?”

      “Tôi dối. ả còn lại chưa bao giờ khiếu kiện. Đó là vào đầu những năm 1960. ta bao giờ quay trở lại nơi đó.”

      “Nơi nào?”

      “Ông có đưa tôi ra khỏi đây ?”

      “Nơi nào?”

      “Hứa !”

      “Tôi thể hứa điều gì,” Erlendur . “Tôi chuyện với họ. Nơi đó là nơi nào?”

      “Húsavík.”

      ta bao nhiêu tuổi?”

      “Cùng tuổi với ả ở Keflavík thôi, chỉ có điều là hung dữ hơn.”

      “Hung dữ hơn ư?”

      “Ông muốn nghe chuyện đó à?” Ellidi , che giấu nổi phấn khích, “Ông có muốn nghe xem làm gì ?”

      Ellidi đợi câu trả lời. Giọng tuồn ra từ cái lỗ cánh cửa và Erlendur đứng đó, nghe lời thú tội khàn đặc phát ra từ trong bóng tối.



      ***



      Sigurdur Óli chờ ông trong xe. Khi họ lái xe ra khỏi nhà tù, Erlendur thuật lại ngắn gọn cuộc chuyện với Ellidi nhưng nhắc đến đoạn độc thoại của lúc cuối. Họ quyết định xem xét giấy tờ đăng ký của những người sống sót ở Húsavík trong những năm 1960. Nếu người phụ nữ đó xấp xỉ tuổi Kolbrún, theo như Ellidi khai, khả năng tìm ra ta là khá lớn.

      “Thế còn Ellidi sao?” Sigurdur Óli hỏi khi họ quay trở về đèo Threngslin đường đến Reykjavík.

      “Tôi đề nghị xem liệu họ có thể giảm án biệt giam cho nhưng họ từ chối. Tôi chẳng làm được điều gì khác cả.”

      “Ít nhất ông cũng giữ lời hứa,” Sigurdur Óli mỉm cười. “Nếu Holberg cưỡng hiếp hai người đó, chẳng lẽ lại có thêm ai khác sao?”

      “Có thể là có,” Erlendur trống rỗng.

      “Ông nghĩ gì thế?”

      “Có hai điều khiến tôi băn khoăn,” Erlendur trả lời. “Tôi muốn biết chính xác nguyên nhân dẫn đến cái chết của bé,” ông có thể nghe thấy tiếng thở dài của Sigurdur Óli bên cạnh. “Và tôi muốn biết bé có đúng là con của Holberg hay ?”

      “Vậy điều gì khiến ông băn khoăn về chuyện đó?”

      “Ellidi với tôi rằng Holberg có người em .”

      “Em à?”

      ta chết trẻ. Chúng ta phải tìm ra tiểu sử khám bệnh của ta trong bệnh viện. Xem chúng ta phát điều gì?”

      “Vì sao ta chết? Em Holberg ấy?”

      “Có thể là bệnh nào đó giống Audur. Holberg có lần đề cập đến đầu óc của ta. Hoặc đó là điều mà Ellidi mô tả. Tôi hỏi đó có phải là bệnh u não , nhưng Ellidi biết.”

      “Vậy điều đó giúp ích như thế nào cho vụ án của chúng ta?” Sigurdur Óli hỏi.

      “Tôi nghĩ là có mối liên hệ họ hàng nào đó ở đây,” Erlendur trả lời.

      “Quan hệ họ hàng? Sao cơ, vì lời nhắn mà chúng ta tìm thấy à?”

      “Đúng thế,” Erlendur , “vì lời nhắn. Có thể đây là nghi vấn liên quan đến quan hệ họ hàng và di truyền.”








      15





      Ông bác sĩ sống trong ngôi nhà đại nằm ở phía Tây vùng ngoại ô Grafarvogur. lâu rồi ông ta còn hành nghề chữa bệnh. Ông giải thích với Erlendur rằng tại mình làm việc thường xuyên cho các luật sư trong các vụ liên quan đến chấn thương hoặc tàn tật. Khu làm việc được bài trí đơn giản, ngăn nắp với cái bàn và máy đánh chữ. ông bác sĩ thấp và khá gầy. Túi áo sơ mi của ông ta cài hai cây bút. Ông ta là người sôi nổi. Tên ông ta là Frank.

      Erlendur gọi điện trước để hẹn ông ta. Buổi chiều dần lùi , nhường chỗ cho bóng đêm lan tỏa. Lúc quay trở về trụ sở, Sigurdur Óli và Elínborg bèn bắt tay ngay vào nghiên cứu bản sao của tờ danh sách người dân Húsavík. Danh sách đó tồn tại được bốn mươi năm. Hai thám tử nhận được bản fax này từ chính quyền địa phương ở miền Nam. Viên bác sĩ mời Erlendur ngồi.

      phải là có cả tá những kẻ dối tìm đến chỗ ông sao?” Erlendur hỏi trong lúc nhìn quanh nơi làm việc.

      “Những kẻ dối ư?” ông bác sĩ . “Tôi cho là thế. vài người trong số họ thôi, chắc chắn là thế. Các vết thương ở cả là nan giải nhất. Thực , ông thể làm gì khác ngoài việc tin những bệnh nhân phàn nàn về các vết thương ở cả sau vụ tai nạn xe hơi. Đó là những ca khó xử lý nhất. vài người cảm thấy đau hơn những người khác nhưng tôi cho rằng có nhiều người thực khốn khổ đến thế.”

      “Khi tôi gọi điện, ông nhớ ra trường hợp ở Keflavík ngay lập tức.”

      “Những chuyện như thế dễ gì quên được. khó để quên được người mẹ. Tên ấy là Kolbrún phải nhỉ? Tôi được biết là ấy tự tử.”

      “Đó là tấn bi kịch não nề từ đầu đến cuối,” Erlendur nhận xét. Ông tự hỏi biết có nên hỏi viên bác sĩ về cơn nhói đau trong ngực mình vào mỗi buổi sáng , nhưng sau đó ông lại quyết định là thôi vì đúng lúc. Chắc chắn rằng ông ta phát ra mình bị ốm, rồi đưa mình vào bệnh viện và mình phải ăn ngồi rồi ở đó cho đến tận cuối tuần. Erlendur cố gắng tránh các tin dữ về bản thân bất cứ khi nào có thể, ông cũng muốn nghe bất cứ tin tốt lành nào về mình, ông chỉ yên lặng.

      “Ông rằng chuyện đó liên quan đến vụ giết người ở Nordurmýri,” vị bác sĩ lên tiếng, kéo Erlendur trở về với thực tại.

      “Phải. Holberg, nạn nhân của án mạng đó, có thể là cha của đứa trẻ ở Keflavík,” Erlendur . “Người mẹ cũng khẳng định điều đó. Holberg thừa nhận, cũng phản bác chuyện ấy. Ông ta chỉ thừa nhận rằng mình ngủ với Kolbrún chứ phải hiếp dâm. Thông thường có rất ít chứng cứ được đưa ra trong những vụ đại loại như vậy. Chúng tôi điều tra về quá khứ của người đàn ông đó. bé ốm và chết khi mới bốn tuổi. Ông có thể cho tôi biết chuyện gì xảy ra được ?”

      “Tôi hiểu chuyện đó có liên quan gì đến vụ giết người.”

      “Được rồi, chúng ta xem. Ông có thể trả lời câu hỏi của tôi được ?”

      Viên bác sĩ nhìn Erlendur hồi lâu. “Có lẽ tốt nhất là tôi nên thẳng với ông, ông Thanh tra ạ,” ông ta như thể cố tỏ ra cứng rắn hơn. “Ngày đó tôi là người khác.”

      người khác?”

      “Và là kẻ tồi tệ hơn bây giờ. Gần ba mươi năm nay tôi chưa uống giọt rượu nào. Tôi trung thực trong vấn đề này, vì vậy ông cần phải băn khoăn thêm nữa. Giấy phép hành nghề bác sĩ đa khoa của tôi bị treo trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1972.”

      “Bởi vì bé đó?”

      , , phải vì bé ấy, mặc dù đó là lý do chính dẫn đến mọi chuyện. Đó là vì tôi uống rượu và làm việc cẩu thả. Tôi muốn nhắc đến chuyện đó trừ khi cần thiết.”

      Erlendur muốn dừng vấn đề ở đó, nhưng thể ngăn cản bản thân mình.

      “Vậy là ít nhiều ông say xỉn trong suốt những năm đó, ý ông là thế phải ?”

      “Gần như vậy.”

      “Giấy phép hành nghề bác sĩ đa khoa của ông được cấp lại chưa?”

      “Rồi.”

      “Từ đó đến nay còn rắc rối nào nữa chứ?”

      ,” ông bác sĩ lắc đầu trả lời. “Nhưng tôi rồi đấy, tôi ở trong trạng thái được tốt khi khám cho con của Kolbrún, Audur. bé bị đau và tôi tưởng rằng đó là bệnh đau nửa đầu ở trẻ em. Audur thường nôn vào buổi sáng. Khi các cơn đau dữ dội hơn, tôi cho uống thuốc nặng hơn. Tất cả những việc đó với tôi bây giờ chỉ còn là vùng ký ức mờ nhạt. Tôi quyết định là cố quên chuyện đó từ sau lần ấy. Mọi người đều có thể phạm phải sai lầm, và bác sĩ cũng vậy.”

      “Vậy nguyên nhân gây tử vong là gì?”

      “Nếu tôi chữa trị kịp thời và đưa bé đến bệnh viện thể cũng khác được,” người đàn ông trầm ngâm . “Ít nhất đó là những gì tôi cố gắng với bản thân mình. Ngày đó có nhiều bác sĩ khoa nhi và chúng tôi có máy quét não. Chúng tôi phải làm việc theo cảm tính và kinh nghiệm nhiều hơn. Và, như tôi , tôi cảm thấy gì nhiều lắm ngoại trừ nhu cầu được uống rượu trong thời gian đó. Vụ li dị rắc rối cũng giúp được gì nhiều. phải là tôi tự bào chữa cho chính mình đâu,” ông và nhìn vào Erlendur, dù ràng là ông ta biện hộ .

      Erlendur gật đầu.

      “Sau khoảng hai tháng, tôi cho là thế, tôi bắt đầu nghi ngờ là căn bệnh trầm trọng hơn chứng đau nửa đầu ở trẻ em. khá lên chút nào cả. Cơn đau dừng lại. Audur càng ngày càng bị nặng hơn. Cơ thể bé xơ xác, gầy trơ xương. Có rất nhiều khả năng có thể xảy ra. Tôi cho rằng đó có thể là bệnh nhiễm trùng lao ở đầu. Có thời người ta còn chẩn đoán đó là bệnh nhức đầu sổ mũi khi thực ai có cơ sở nào. Sau đó giả thuyết mới được đưa ra là bệnh viêm màng não, nhưng có rất nhiều triệu chứng xuất , căn bệnh cũng diễn tiến quá nhanh nữa. bé xuất những dấu hiệu mà người ta gọi là café au lait da. Cuối cùng, tôi bắt đầu nghĩ đến bệnh ung thư.”

      “Café au lait ư?” Erlendur hỏi lại, nhớ rằng mình được nghe từ ngày trước đây.

      “Nó có thể kèm với các bệnh ung thư.”

      “Thế rồi ông gửi bé đến bệnh viên Keflavík phải ?”

      bé chết ở đó,” viên bác sĩ . “Tôi nhớ rằng đó là mất mát thương tâm đối với người mẹ. ấy như bị mất trí. Chúng tôi phải trấn an ấy. Người mẹ thẳng thừng từ chối người ta làm xét nghiệm tử thi xác con mình. ta còn thét lên với chúng tôi rằng được làm thế.”

      “Nhưng rồi người ta cũng tiến hành giải phẫu đấy thôi.”

      Viên bác sĩ ngập ngừng.

      “Chuyện đó trách được. còn cách nào khác.”

      “Thế kết quả ra sao?”

      khối u, như tôi .”

      “Ông khối u là sao?”

      “Bệnh u não,” viên bác sĩ trả lời. “ bé chết vì bệnh u não.”

      “U não loại nào?”

      “Tôi chắc,” ông ta . “Tôi biết người ta có khám xét cẩn thận nhưng tôi mong là họ làm như thế. Hình như người ta có nhắc đến thứ gì đó liên quan đến bệnh di truyền.”

      “Bệnh do di truyền!” Erlendur lên giọng.

      “Ngày nay chuyện đó phải là phổ biến sao? Thế điều này có liên quan gì đến vụ giết Holberg?”

      Erlendur ngồi đó, trầm ngâm suy nghĩ.

      “Tại sao ông lại hỏi tôi về bé ấy?”

      “Tôi mơ thấy những chuyện này,” Erlendur trả lời.








      16





      Buổi tối hôm đó, khi Erlendur về đến nơi Eva Lind có nhà. Ông có nghe theo lời của con , băn khoăn xem con bé ở đâu, nó có vẻ hay hay trong tình trạng nào. Ông ghé vào cửa hàng và mang về túi gà rán cho bữa tối. Erlendur ném cái túi lên ghế và trong lúc cởi áo khoác, ông ngửi thấy mùi thơm quen thuộc của thức ăn. lâu rồi được ngửi thứ mùi nấu nướng như thế tỏa ra từ căn bếp của mình.

      Gà rán ghế là đồ ăn của ông, bánh hamburger, đồ ăn mang về từ các cửa hàng rẻ tiền, thức ăn sẵn trong siêu thị, đầu cừu luộc ướp lạnh, bình sữa đông, những bữa tối vô vị lấy ra từ lò vi sóng. Ông thể nhớ được lần cuối cùng mình tự nấu bữa ăn hoàn chỉnh là khi nào. Ông cũng nhớ lần cuối cùng mình muốn nấu là khi nào nữa.

      Erlendur thận trọng bước vào bếp xem có kẻ nào đột nhập ở đó , và ông phát ra bàn ăn được xếp sẵn cho hai người với những cái đĩa xinh đẹp mà ông nhớ là mình có chúng. Hai cốc rượu được đặt những cái chân cao bên cạnh mỗi đĩa. bàn còn có khăn ăn và nến sáng lung linh trong hai chiếc chân nến vừa vặn - những thứ mà Erlendur chưa từng thấy bao giờ.

      Từ từ, ông tiến vào bếp và thấy thứ gì đó sôi trong cái xoong lớn. Nhấc vung lên, Erlendur nhìn xuống món thịt hầm trông rất ngon mắt. Dầu ăn bóng loáng những miếng củ cải, khoai tây, thịt và gia vị, tất cả tỏa ra mùi thơm ngào ngạt khiến cho căn hộ của ông tràn ngập hương vị gia đình. Ông cứ giữ cái vung như thế để hít hà hương thơm của thịt hầm với rau củ.

      “Con cần thêm ít rau nữa,” Eva Lind ở cửa bếp. Erlendur để ý là con bé bước vào nhà. Nó mặc chiếc áo trùm đầu của ông, tay ôm túi cà rốt.

      “Con học nấu món thịt hầm này ở đâu vậy?” Erlendur hỏi.

      “Ngày trước lúc nào mẹ chẳng nấu món này,” Eva Lind . “ lần khi xấu bố, mẹ rằng món thịt hầm của bà là món khoái khẩu của bố. Sau đó mẹ lại bố là kẻ đáng khinh.”

      “Cả hai đều đúng cả,” Erlendur . Ông quan sát Eva Lind xắt cà rốt thành miếng và bỏ chúng vào nồi với các loại rau củ khác. suy nghĩ lướt nhanh trong đầu ông rằng mình trải qua cuộc sống gia đình thực , và điều đó khiến ông vừa vui lại vừa buồn. Ông cho phép mình được hy vọng cách xa xỉ rằng niềm vui này kéo dài mãi mãi.

      “Bố bắt được tên giết người chưa?” Eva Lind hỏi.

      “Ellidi hỏi thăm con đấy,” Erlendur . Các từ cứ buột ra trước khi ông kịp nhận ra rằng con quái thú như Ellidi thuộc về bầu khí như thế này.

      “Ellidi? ở Litla-Hraun mà. biết con là ai à?”

      “Những thằng vô đạo đức mà bố chuyện thỉnh thoảng có nhắc đến tên con,” Erlendur . “Chúng nghĩ rằng chúng ghi được điểm trước bố.”

      “Vậy chúng có làm được điều đó ?”

      vài thôi. Như Ellidi chẳng hạn. Con biết như thế nào?” Erlendur hỏi nghiêm túc.

      “Con nghe chuyện về . Con gặp năm trước đây. dùng keo dẻo để gắn những cái răng giả vào hàm. Nhưng con biết về nhiều lắm.”

      “Đó là tên ngu ngốc hết chỗ .”

      Họ gì thêm về Ellidi buổi tối hôm đó nữa. Khi hai bố con ngồi xuống bàn ăn, Eva Lind rót nước vào các cốc rượu và Erlendur ăn nhiều đến nỗi phải bước loạng choạng vào phòng khách ngay sau đó. Ông ngủ gật ở đó, vẫn mặc nguyên quần áo cũ và ngủ say đến tận sáng hôm sau.

      Lần này ông nhớ được phần lớn giấc mơ của mình. Erlendur biết rằng đó là giấc mộng thường đến với mình trong những đêm gần đây nhưng ông thể nắm bắt được nó mỗi khi tỉnh dậy.

      Eva Lind ra trước mặt ông giống với hình ảnh mà ông thường thấy, con bé bước ra từ luồng ánh sáng tỏa ra từ đâu đó mà ông biết, mặc chiếc váy mùa hè xinh xắn dài đến mắt cá chân và mái tóc đen dài phủ xuống lưng. Hình ảnh ấy được bao phủ bởi hương vị của mùa hè, rồi con bé bước về phía ông, hoặc là nó lướt vì ông thầm nghĩ rằng chân nó hề chạm đất. Erlendur thể nhận ra quang cảnh xung quanh, tất cả những gì ông thấy là thứ ánh sáng chói lòa ấy và Eva Lind ở giữa luồng sáng, tiến về phía ông và mỉm cười rạng rỡ. Erlendur thấy mình mở rộng vòng tay để chào đón con và chờ đợi để được ôm con vào lòng. Sau đó ông cảm thấy mất kiên nhẫn vì con bé bao giờ bước vào vòng tay của mình mà chỉ đưa ra tấm ảnh. Sau đó luồng ánh sáng biến mất, Eva Lind tan biến , còn Erlendur cầm bức ảnh trong tay. Ông biết rằng nó được chụp tại nghĩa trang, sau đó nó hóa thành thực tế, Erlendur thấy mình ở trong đó, ngước nhìn lên bầu trời tối mịt và cảm nhận được mưa quất vào mặt mình. Rồi khi cúi xuống, ông nhìn thấy tấm bia vỡ tan, ngôi mộ nứt ra khoảng tối tăm cho đến khi chiếc quan tài xuất . Khi nó bật nắp, ông nhìn thấy bé nằm trong đó bị cắt ở giữa thân mình lên đến tận hai vai. Bất thình lình, bé mở hai mắt ra nhìn chằm chằm vào ông. Khi mở miệng, ông nghe thấy tiếng khóc thống khổ của phát ra từ phần mộ.

      Erlendur tỉnh dậy, thở dốc và nhìn chằm chằm vào khoảng khí trong khi định thần lại. Ông gọi Eva Lind nhưng con bé trả lời. Ông vào phòng con nhưng có thể cảm nhận được trống trải trong đó trước cả khi mở cửa. Ông biết rằng con bé rồi.

      Sau khi kiểm tra sổ sách dân cư ở Húsavík, Elínborg và Sigurdur Óli lọc ra được danh sách gồm 176 phụ nữ có khả năng là nạn nhân bị Holberg cưỡng hiếp. Tất cả những gì họ dựa vào là lời “cùng loại” của Ellidi. Do đó họ lấy tuổi của Kolbrún cộng hoặc trừ mười năm. Trong lần kiểm tra đầu tiên, điều nổi lên là những người phụ nữ này có thể được tạm chia thành ba nhóm: phần tư vẫn sống ở Húsavík, nữa rời đến Reykjavík và phần tư còn lại sống rải rác ở khắp Iceland.

      “Đủ để làm cho ông điên đầu đấy!” Thở dài ngao ngán, Elínborg nhìn xuống danh sách rồi đưa nó cho Erlendur. thấy rằng ông có vẻ lôi thôi hơn mọi ngày. Râu ria mặt ông mấy ngày được cạo, mái tóc vàng hoe rậm rạp rối bù, bộ quần áo bẩn và nhàu nát của ông cần phải giặt khô ngay. Elínborg băn khoăn biết có nên thẳng điều này với ông , nhưng xem ra biểu của Erlendur mấy mặn nồng với những lời đùa cợt.

      “Mấy hôm nay ông ngủ thế nào, Erlendur?” hỏi cách dè dặt.

      “Rất tệ,” Erlendur trả lời.

      “Rồi sao nữa?” Sigurdur Óli . “Chúng ta có nên đến gặp từng người và hỏi xem họ có bị cưỡng hiếp bốn mươi năm trước đây ? Đó chẳng phải là... thô thiển lắm sao?”

      “Tôi biết còn cách nào khác ngoài cách đó. Hãy bắt đầu với những người chuyển khỏi Húsavík trước.” Erlendur . “Chúng ta bắt đầu kiểm tra ở Reykjavík xem liệu có thu thập được thêm thông tin nào về người phụ nữ này trong quá trình điều tra . Nếu gã Ellidi ngu ngốc dối, Holberg về ta với Kolbrún. ấy có thể lại chuyện đó, với chị , có thể là với Rúnar. Tôi cần phải quay trở lại Keflavík.”

      “Chúng ta có thể thu hẹp danh sách lại chút,” ông sau khi suy nghĩ hồi.

      “Thu hẹp lại ư? Bằng cách nào cơ?” Elínborg hỏi. “Ông nghĩ cái gì thế?”

      “Tôi chỉ vừa nảy ra ý tưởng thôi.”

      “Sao cơ?” Elínborg mất kiên nhẫn. làm với bộ vest mới màu xanh nhạt nhưng dường như ai thèm chú ý.

      “Huyết thống, di truyền và bệnh tật,” Erlendur .

      “Chính xác,” Sigurdur Óli hưởng ứng.

      “Cứ giả sử rằng Holberg là kẻ hiếp dâm. Chúng ta biết có bao nhiêu người phụ nữ bị hiếp. Chúng ta mới biết có hai người và thực ra mới chắc chắn được . Mặc dù phủ nhận điều đó, mọi chứng cứ đều quy về hiếp Kolbrún. là cha của Audur, hoặc, ít ra chúng ta cũng nên làm việc theo giả thuyết đó. Nhưng có thể có đứa con khác với người phụ nữ ở Húsavík.”

      đứa con khác ư?” Elínborg thốt lên.

      “Trước cả Audur,” Erlendur trả lời.

      “Điều đó phải là thể sao?” Sigurdur Óli .

      Erlendur nhún vai.

      “Ông muốn chúng tôi thu hẹp danh sách lại còn những người phụ nữ có con trước, năm nào nhỉ, 1964 ư?”

      “Đó là ý tưởng tồi đâu.”

      ta có thể có con khắp nơi,” Elínborg .

      “Đúng. cũng nhất thiết phải phạm tội hiếp dâm hơn lần nên việc đó chỉ là may rủi,” Erlendur đáp.

      tìm ra nguyên nhân khiến em Holberg chết chưa?”

      “Chưa, tôi vẫn điều tra,” Sigurdur Óli trả lời. “Tôi cố tìm hiểu về gia đình , nhưng vẫn chưa có manh mối nào.”

      “Tôi điều tra vụ Grétar,” Elínborg . “Gã này mất tích đột ngột, giống như là mặt đất nứt ra và nuốt chửng gã vậy. ai nhớ về Grétar chút nào. Khi mẹ gã nghe tin tức gì về con trai mình trong suốt hai tháng trời, cuối cùng bà ta gọi cho cảnh sát. Người ta đăng hình Grétar báo chí, truyền hình nhưng có kết quả gì. Đó là vào năm 1974, năm có đại lễ kỷ niệm ngày Iceland hòa bình vào mùa hè. Lúc đó các có đến lễ hội ở Thingvellir ?”

      “Tôi có đến đó,” Erlendur trả lời. “Thế còn về Thingvellir sao? nghĩ rằng đó là nơi mà Grétar biến mất à?”

      “Có lẽ, đó là tất cả những gì mà tôi biết,” Elínborg đáp.

      “Theo thủ tục, người ta tiến hành cuộc điều tra về người bị mất tích và chuyện với những người mà mẹ gã cho rằng gã biết, bao gồm cả Holberg và Ellidi. Người ta cũng thẩm vấn ba người khác nữa nhưng chẳng ai biết gì cả. ai còn nhớ đến Grétar trừ mẹ và em gã. Gã vốn sinh ra ở Reykjavík, vợ con, bạn , có gia đình nào khác. Vụ án mở ra được mấy tháng rồi khép lại. Lúc đó gã mới ba mươi tư tuổi.”

      “Nếu gã cũng dễ chịu như hai người bạn Ellidi và Holberg của mình tôi ngạc nhiên khi chẳng ai thèm nhớ đến gã cả,” Sigurdur Óli .

      “Mười ba người mất tích tại Iceland vào những năm 1970 - thời điểm mà Grétar mất tích,” Elínborg thêm vào.

      “Mười hai người trong những năm 1980, tính những ngư dân mất tích ngoài biển.”

      “Mười ba người mất tích,” Sigurdur Óli . “ phải là khá nhiều sao? có trường hợp nào được tìm thấy à?”

      “Đằng sau những chuyện đó có dấu hiệu phạm tội nào,” Elínborg trả lời. “Người ta biến mất, muốn biến mất và tự làm cho mình biến mất.”

      “Nếu tôi hiểu cách chính xác,” Erlendur , “ câu chuyện là như thế này: Ellidi, Holberg và Grétar tới nhảy ở Hội chữ thập đỏ vào ngày cuối tuần mùa thu năm 1963.”

      Ông nhìn thấy khuôn mặt của Sigurdur Óli lên dấu hỏi khổng lồ.

      “Hội chữ thập đỏ trước đây là trạm y tế quân đội cũ, sau đó được chuyển thành vũ trường. Hồi xưa người ta thường tổ chức những buổi khiêu vũ dâm ô ở đó.”

      “Tôi cho rằng đó là nơi mà ban nhạc Beatles của Iceland bắt đầu chơi nhạc.” Elínborg xen vào.

      “Họ gặp vài ở sàn nhảy, và lúc sau, trong số đó tổ chức tiệc tại nhà,” Erlendur tiếp tục. “Chúng ta cần phải cố gắng tìm ra những này. Holberg cùng về đến nhà và cưỡng hiếp ấy. Dường như từng chơi trò đó trước đây. thầm vào tai những gì làm với khác. ta có thể sống ở Húsavík và chắc chắn là chưa bao giờ khiếu kiện. Ba ngày sau, Kolbrún thu hết can đảm để trình báo vụ việc nhưng lại gặp phải tay cảnh sát có lấy chút thông cảm với những người phụ nữ mời đàn ông về nhà sau đêm nhảy lại còn bị kêu là bị cưỡng hiếp. Kolbrún sinh được . Có thể Holberg biết về đứa bé, chúng ta tìm thấy bức ảnh chụp ngôi mộ của bé trong bàn của . Ai chụp nó? Tại sao? bé chết vì bị căn bệnh hiểm nghèo còn người mẹ tự tử ba năm sau đó. Cũng ba năm sau, trong số những người bạn của Holberg mất tích. Holberg bị giết cách đây vài ngày và lời nhắn bí hiểm được để lại trường.”

      “Tại sao bây giờ Holberg mới bị giết, lúc già rồi? Kẻ sát nhân có liên quan gì đến chuyện trước đây ? Và nếu như vậy, tại sao Holberg lại bị thủ tiêu trước đó? Hay là thủ phạm liên quan gì đến kia, nếu đó là , rằng Holberg là kẻ hiếp dâm?”

      “Vụ giết người giống với vụ có kế hoạch từ trước, chúng ta nên bỏ qua chi tiết đó,” Sigurdur Óli chen ngang. “Như Ellidi , có thằng ngu nào lại sử dụng cái gạt tàn chứ? Câu chuyện diễn ra như thể nó gốc rễ lâu đời nào đó. Lời nhắn chỉ là trò đùa, thể giải mã được. Kẻ giết Holberg, liên quan đến vụ cưỡng hiếp nào cả. Có lẽ tốt hơn chúng ta nên tìm ra gã thanh niên nào đó mặc áo khoác quân đội màu xanh lục.”

      “Holberg phải là thiên thần,” Elínborg . “Có thể đây là vụ giết người báo thù. Có lẽ ai đó cho rằng ta đáng bị như vậy.”

      “Người duy nhất căm thù Holberg mà chúng ta biết chắc chắn là chị của Kolbrún ở Keflavík,” Erlendur . “Tôi thể tưởng tượng được rằng bà ấy lại giết được ai đó với cái gạt tàn.”

      “Chẳng lẽ bà ta có ai để giúp ư?” Sigurdur Óli phản đối.

      “Ai cơ?” Erlendur hỏi lại.

      “Tôi biết. Dù thế nào nữa, tôi vẫn nghĩ rằng có kẻ nào đó lảng vảng quanh khu vực Holberg sống và định đột nhập vào đâu đó, trộm cắp và bới tung cả ngôi nhà lên. Holberg bắt quả tang ta và bị đánh vào đầu bằng cái gạt tàn. Đó là tên nghiện thể phân biệt được đâu là mông, đâu là khuỷu tay của chính mình. Chẳng có gì dính dáng đến quá khứ cả, chỉ có tại thôi. Reykjavík vẫn là chính nó trong tại.”

      “Chí ít cũng có ai đó cho rằng điều cần làm là phải khử ông ta,” Elínborg . “Chúng ta phải nghiên cứu lời nhắn cách cẩn thận. Đó phải là trò đùa đâu.”

      Sigurdur Óli nhìn Erlendur. “Khi ông về việc muốn biết chính xác tại sao bé chết, ý ông có giống với điều tôi nghĩ là ông muốn ?”

      “Tôi có cảm giác tồi tệ là như thế đấy,” Erlendur trả lời.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :