Trò Chơi Vương Quyền 4A: Tiệc Quạ Đen - George R. R. Martin[Best Seller]

Thảo luận trong 'Các Thể Loại Khác (Kinh Dị, Trinh Thám..)'

  • ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :
    1. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Trò Chơi Vương Quyền 4A: Tiệc Quạ Đen - George R. R. Martin[Best Seller]
      [​IMG]
      Tên : Trò Chơi Vương Quyền 4A: Tiệc Quạ Đen
      Tên Tiếng : A Song of Ice and Fire hay Games Of Thrones
      Tác Giả: George R. R. Martin

      Thể Loại:18+, Best seller, Cổ Đại, Giả Tưởng, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây
      Dịch giả: Cẩm Chi

      Công ty phát hành: Alphabooks
      Nhà xuất bản: NXB Văn Học
      Số trang:636

      Trọng lượng vận chuyển: 700 grams
      Kích thước: 14 x 20.5 cm
      Ngày xuất bản: 02/2014
      Nguồn text: Thanh Nguyễn







      Giới thiệu:

      Trò chơi vương quyền Game of Thrones (được biết đến với tên gọi A Song of Ice and Fire hay Game of Thrones) là bộ tiểu thuyết sử thi hùng tráng của nhà biên kịch, nhà văn Mỹ nổi tiếng George R. R. Martin. ​

      Martin bắt tay vào viết bộ tiểu thuyết này năm 1991 và xuất bản tập đầu tiên, A Game of Thrones, vào năm 1996. Sau đó, ông dần mở rộng kế hoạch 3 tập đầu tiên thành 4, 6 và cuối cùng là 7 tập. Tập 5 – A Dance with Dragons hoàn thành sau hơn 5 năm và được xuất bản vào năm 2011. Cuốn thứ 6 – The Winds of Winter vẫn được ông thực . Bộ tiểu thuyết được bán bản quyền 40 nước. Tại Mỹ, tập thứ tư và thứ năm liên tục đứng ở vị trí số trong Danh sách bán chạy nhất tại nhiều bảng xếp hạng uy tín như New York times, Amazon…
      Về số lượng, series này bán được hơn 7 triệu bản tại Mỹ và hơn 22 bản toàn thế giới. Kênh truyền hình HBO chuyển thể bộ tiểu thuyết này sang series phim truyền hình chất lượng cao, đậm chất Hollywood khiến danh tiếng của bộ sách cũng như tên tuổi của tác giả ngày càng vang xa. Bộ sách cũng được chuyển thể thành game phục vụ độc giả thích.
      Bộ Sách gồm 7 Quyển:

      1. A Game of Thrones (1996)

      2. A Clash of Kings (1999)

      3. A Storm of Swords (2000)

      4. A Feast for Crows (2005)

      5. A Dance with Dragons (2011)

      6. The Winds of Winter ( thực )

      7. A Dream of Spring ( thực )
      George Raymond Richard Martin (sinh 1948-) là nhà biên kịch người Mỹ và là nhà văn viết truyện giả tưởng, kinh dị, khoa học viễn tưởng. Sinh ra và lớn lên trong nghèo khó nhưng với trí tưởng tượng phong phú của mình, ngay từ khi còn bé, ông bắt đầu viết và bán những câu chuyện về quái vật cho lũ trẻ con ở những khu phố khác. Ông viết hẳn câu chuyện về vương quốc thần thoại của loài rùa – con vật cưng của mình.​


      Sau đó, ông nhanh chóng trở thành fan cuồng nhiệt của truyện tranh, hâm mộ những câu chuyện về những siêu hùng. Năm 1963, ông bắt đầu tham gia vào giới fan trẻ hâm mộ truyện tranh và viết các cuốn tiểu thuyết khác nhau. Năm 1965, Martin giành giải thưởng Alley cho cuốn truyện tranh về siêu hùng Powerman vs Blue Barrier.​

    2. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      MỞ ĐẦU


      Những con rồng,” Mollander rồi chộp lấy quả táo héo lăn lóc mặt đất và tung nó từ tay này sang tay kia.

      “Ném ,” Alleras Nhân Sư thúc giục. Cậu ta rút mũi tên ra khỏi bao rồi đặt lên dây cung.

      “Ước gì mình được nhìn thấy con rồng nhỉ.” Roone lùn mập mạp là người trẻ nhất trong bọn, còn hai năm nữa cậu ta mới đến tuổi trưởng thành. “Mình muốn được nhìn thấy rồng quá mất.”

      Còn mình chỉ ước được ngủ trong vòng tay của Rosey, Pate thầm nghĩ. Cậu chuyển mình liên tục ghế. Đến ngày mai thôi, thuộc về cậu. Mình đem nàng rời Oldtown, băng qua biển hẹp tới Thành Phố Tự Trị. Ở đó chẳng có vị học sĩ nào, và chẳng còn ai kết tội cậu nữa.

      Tại nơi đứng, cậu có thể nghe thấy tiếng cười của Emma vọng ra qua cửa sổ chớp lầu, hòa lẫn với giọng nam trầm của vị khách mà bà phục vụ. Bà ta là người lớn tuổi nhất trong đám hầu ở quán rượu Quill và Tankard này. Emma phải ít nhất 40 tuổi, nhưng trông bà vẫn đẫy đà và xinh đẹp. Rosey là con của bà, 15 tuổi và vừa mới dậy . Emma tuyên bố rằng trinh tiết của Rosey phải đáng giá đồng rồng vàng. Pate để dành được chín đồng hươu bạc, bình đầy những đồng tám xu và đống xu lẻ, đó là tất cả những gì Pate có. Thà cậu ấp nở ra con rồng còn khả thi hơn việc dành dụm đủ đồng vàng.

      “Nếu thế cậu sinh quá muộn rồi đấy, cậu bé ạ.” Armen Thầy Dòng đáp lời Roone. ta đeo sợi dây da quanh cổ, đó xâu loạt các mắt xích bằng thiếc, chì và đồng. Cũng như mọi thầy dòng khác, có vẻ như Armen cho rằng các giáo sinh chỉ có củ cải mọc cổ chứ phải đầu. “Con rồng cuối cùng chết dưới triều vua Aegon đệ Tam rồi.”

      “Đó là con rồng cuối cùng ở Westeros,” Mollander nhấn mạnh.

      “Ném ,” Alleras lại thúc giục lần nữa. Đó là chàng trai duyên dáng mà họ vẫn gọi là Nhân Sư. Tất cả các hầu đều để mắt đến cậu ta. Ngay cả Rosey cũng thỉnh thoảng chạm vào tay cậu ta khi mang rượu vang đến, Pate đành phải nghiến chặt răng và giả vờ nhìn thấy gì hết.

      “Con rồng cuối cùng của Westeros cũng là con rồng cuối cùng.” Armen kiên trì phản bác. “Mọi người đều biết điều đó.”

      “Ném quả táo ,” Alleras giục giã. “Hay cậu định ăn nó.”

      “Đây.” Kéo lê bên chân bị khoèo, Mollander nhảy lò cò bước ngắn, xoay người và quăng mạnh quả táo vào màn sương mù dày đặc dòng Honeywine. Nếu vì cái chân như thế, có lẽ cậu ta trở thành hiệp sĩ giống cha mình. Sức mạnh của cậu ta nằm ở đôi tay to khỏe và bờ vai lực lưỡng. Nhanh như cắt, quả táo bay vụt ...

      ...nhưng vẫn nhanh bằng mũi tên xé gió lao theo, mũi tên dài mét bằng gỗ vàng, đuôi gắn lông vũ đỏ thắm. Pate nhìn thấy nhưng nghe được khoảnh khắc mũi tên xuyên qua quả táo. tiếng phập khẽ vọng lại từ phía dòng sông, theo sau là tiếng tõm.

      Mollander huýt sáo. “Xuyên tâm rồi. Tuyệt quá.”

      Chẳng tuyệt bằng nửa Rosey. Pate đôi mắt màu nâu lục nhạt và khuôn ngực nở nang của bé, cả cái cách bé cười mỗi lần thấy cậu cùng đôi lúm đồng tiền má. Đôi khi chân trần trong lúc đem rượu ra để cảm nhận cỏ mềm lướt qua bàn chân. Cậu cả điều đó nữa. Cậu mùi thơm tươi mới và sạch tỏa ra từ cơ thể , những lọn tóc xoăn sau tai . Cậu thậm chí cả những ngón chân . Có đêm cho phép cậu xoa chân cho mình, đùa nghịch với chúng, và Pate nghĩ ra câu chuyện vui về từng ngón chân để làm cười.

      Có lẽ nên vượt biển tốt hơn. Cậu có thể mua con lừa bằng tiền tiết kiệm, rồi cậu và Rosey thay nhau cưỡi nó đến Westeros. Thầy Ebrose có thể cho rằng cậu chẳng được tích gì, nhưng Pate biết cách bó xương và cho đỉa chích máu người bị sốt. Đám dân đen rất biết ơn khi cậu giúp họ. Và nếu có thể học cách cắt tóc cạo râu cậu còn có thể trở thành thợ cạo nữa. Thế là đủ, Pate tự nhủ, miễn là mình có được Rosey. là tất cả những gì cậu muốn đời này.

      Nhưng phải lúc nào cũng thế. có lần cậu mơ được trở thành học sĩ trong tòa lâu đài, phụng cho lãnh chúa hào phóng nào đó, người kính trọng thông thái của cậu và ban tặng cậu con bạch mã đẹp để cảm ơn. Cậu cưỡi lưng con tuấn mã, cao ngạo và quý phái mỉm cười với đám dân đen khi lướt qua họ.

      đêm, trong sảnh chung của quán Quill và Tankard, sau khi nốc hết hai cốc rượu táo nặng khủng khiếp, Pate khoác lác rằng cậu chấp nhận làm giáo sinh mãi mãi. “Quá đúng,” Leo Lười lớn tiếng. “Mày trở thành cựu giáo sinh và chăn lợn.”

      Pate uống cạn cốc rượu. Sáng nay, dãy nhà Quill và Tankard lập lòe ánh đuốc trông hệt như hòn đảo ánh sáng giữa biển sương mù dày đặc. Xuôi về phía hạ lưu, ngọn đèn hiệu xa xa của Tháp Hightower bềnh bồng trong màn đêm ẩm ướt như mặt trăng màu cam mờ ảo, nhưng ánh sáng đủ để nâng đỡ tinh thần Pate.

      Đáng lẽ giờ này nhà giả kim đó phải đến rồi chứ. Hay đó chỉ là lời đùa độc ác, hay có gì hay xảy ra với ông ta? Đây phải là lần đầu tiên cơ may của Pate biến thành vận rủi. Cậu từng tưởng mình may mắn khi được chọn để trợ giúp cho Archmaester Walgrave già nua với lũ quạ, nằm mơ cậu cũng thể ngờ rằng công việc của cậu chỉ là mang thức ăn đến cho ông, quét dọn phòng và mặc quần áo cho ông mỗi sáng. Mọi người rằng Archmaester Walgrave chẳng còn nhớ gì về lũ quạ, vì thế Pate chỉ hy vọng nhận được mắt xích bằng sắt đen, nhưng rốt cuộc ngay cả đến thứ đó Walgrave cũng thể cho cậu. Vì lịch mà người ta vẫn để ông già đó giữ chức vụ archmaester. Ông từng là học sĩ tài giỏi, nhưng giờ đây áo choàng của ông chỉ để che bộ đồ lót bẩn thỉu, và thậm chí cách đây nửa năm, vài vị thầy dòng còn thấy ông ngồi khóc trong thư viện vì tìm được đường về phòng riêng. Maester Gormon thế chỗ Walgrave dưới chiếc mặt nạ sắt, chính ông ta cũng là người kết tội Pate ăn trộm.

      chú chim sơn ca cất tiếng hót trong tán cây táo cạnh bờ sông. Tiếng hót ngọt ngào giúp cậu thư thái sau ngày dài phải nghe tiếng kêu chói tai và bất tận của lũ quạ mà cậu phải chăm sóc. Những con quạ trắng biết tên cậu, chúng thường thầm với nhau “Pate, Pate, Pate” mỗi khi thoáng thấy bóng cậu, đến mức cậu muốn gào lên. Những con chim trắng lớn này là niềm tự hào của Archmaester Walgrave. Ông muốn đem thân xác của mình cho chúng ăn khi qua đời, nhưng Pate biết chúng có cùng nguyện vọng đó hay .

      Pate đến đây phải để uống, nhưng Alleras mua rượu để mừng cậu ta nhận được mắt xích đồng, và mặc cảm tội lỗi làm Pate thấy mình khát nước. Có lẽ vì rượu táo quá nặng mà cậu thấy tiếng chim sơn ca như rung lên điệp khúc “vàng đổi sắt, vàng đổi sắt, vàng đổi sắt”. lạ lùng vì người lạ hôm trước cũng như thế vào cái đêm Rosey sắp xếp cho họ gặp nhau. “Ông là ai?” Pate gặng hỏi ông ta và người đàn ông trả lời. “Là nhà giả kim. Ta có thể biến sắt thành vàng.” Thế rồi đồng xu nằm trong tay ông ta, nhảy nhót qua các kẽ tay và ánh lên màu vàng dìu dịu dưới ánh nến. mặt đồng xu đúc hình con rồng ba đầu, mặt kia là hình vị vua chết nào đó. Vàng đổi sắt, Pate nhớ lại, còn gì tốt hơn thế. Mày có muốn ấy ? Mày có ấy ? “Nhưng tôi phải kẻ trộm,” cậu với người đàn ông tự xưng là nhà giả kim, “tôi là giáo sinh của Citadel.” Nhà giả kim gật đầu rồi . “Nếu cậu cần cân nhắc thêm, ta quay lại đây sau ba ngày cùng với đồng vàng.”

      Ba ngày trôi qua. Pate quay lại Quill và Tankard mà vẫn chưa mình muốn gì. Nhưng nhà giả kim ở đó, chỉ có Mollander, Armen và Alleras Nhân Sư với Roone theo. Nếu cậu nhập bọn với họ, chắc chắn họ nghi ngờ.

      Quán rượu Quill và Tankard bao giờ đóng cửa. sáu trăm năm nay, nó vẫn đứng đó cù lao giữa dòng Honeywine và chưa bao giờ đóng cửa lấy lần. Mặc dù tòa nhà gỗ cao này nghiêng về phía nam hệt như điệu bộ nghiêng ngả của đám giáo sinh say rượu, nhưng Pate nghĩ nó còn đứng vững sáu trăm năm nữa để bán rượu bia và thứ rượu táo nặng khủng khiếp cho các thủy thủ và dân chài, thợ rèn và ca sĩ, thầy tu và hoàng thân quốc thích, các giáo sinh và thầy dòng của Citadel.

      “Oldtown phải là cả thế giới,” Mollander to. Cậu ta là con trai hiệp sĩ và suốt ngày say bí tỉ. Từ khi người ta báo tin cha cậu chết trong trận Xoáy Nước Đen, gần như đêm nào cậu ta cũng say xỉn. Ngay cả ở Oldtown, cách xa nơi chiến trận và an toàn sau lớp tường thành, Cuộc chiến Ngũ Vương vẫn tác động đến tất cả bọn họ... mặc dù Archmaester Benedict quả quyết rằng chẳng có cuộc chiến nào hết giữa năm vị vua, vì Renly Baratheon bị giết chết trước khi Balon Greyjoy tự đội mũ miện lên đầu.

      “Cha tôi luôn rằng thế giới lớn hơn tòa lâu đài của bất kỳ lãnh chúa nào,” Mollander tiếp tục . “Chắc chắn những con rồng là thứ khó tìm thấy nhất ở Qarth, Asshai và Yi Ti. Những câu chuyện của thủy thủ...”

      “...là những câu chuyện được các thủy thủ kể lại,” Armen ngắt lời. “Thủy thủ, Mollander quý ạ. Quay lại bến tàu mà xem, tôi dám cá các thủy thủ kể cho cậu nghe về những nàng tiên cá ngủ với họ, hay về chuyện họ sống trong bụng con cá cả năm trời.”

      “Làm sao cậu biết họ trải qua những chuyện đó?” Mollander lúi húi tìm thêm táo dưới bãi cỏ. “Cậu đâu có tự mình trải nghiệm mà dám khẳng định như vậy? thủy thủ với câu chuyện, ừ, người ta có thể cười nhạo chuyện đó, nhưng khi tất cả các tay chèo bốn con thuyền khác nhau kể cùng câu chuyện bằng bốn ngôn ngữ khác nhau ...”

      “Câu chuyện còn giống nhau nữa,” Armen khẳng định. “Những con rồng ở Asshai, rồng ở Qarth, rồng ở Meereen, rồng của người Dothraki, rồng giải phóng nô lệ... người này kể khác người kia.”

      “Chỉ khác chi tiết thôi.” Rượu vào khiến Mollander trở nên ương ngạnh hơn, nhưng ngay cả khi tỉnh táo cậu ta cũng vẫn là kẻ bướng bỉnh. “Mọi người đều về những con rồng, và nữ hoàng trẻ xinh đẹp.”

      Con rồng duy nhất Pate quan tâm là rồng vàng. Cậu tự hỏi biết điều gì xảy ra với nhà giả kim đó. là ngày thứ ba rồi và ông ta hứa tới đây.

      “Có quả táo nữa gần chân cậu đấy,” Alleras gọi Mollander, “và tôi vẫn còn hai mũi tên trong bao.”

      “Quỷ tha ma bắt cái bao của cậu.” Mollander nhặt quả táo rụng lên. “Quả này sâu rồi,” cậu ta phàn nàn nhưng vẫn ném quả táo . Mũi tên đuổi kịp quả táo khi nó bắt đầu rơi xuống và cắt ngọt nó làm đôi. nửa quả rơi xuống mái tòa tháp, lăn xuống cái mái thấp hơn, nảy lên rồi rơi xuống đất cách Armen chỉ ba mươi phân.

      “Nếu cậu cắt đôi con sâu, cậu được hai con.” Thầy dòng với bọn họ.

      “Giá mà táo cũng nhân đôi như thế chẳng ai còn đói nữa.” Alleras Nhân Sư mỉm cười. Cậu ta luôn mỉm cười, như thể biết trò đùa bí mật nào đó. Nó đem lại cho cậu ta vẻ ngoài tinh quái, rất phù hợp với chiếc cằm nhọn, đường viền chân tóc nhọn ngay giữa trán và mái tóc quăn đen nhánh rậm rạp cắt sát da đầu.

      Alleras rồi trở thành học sĩ. Cậu ta mới chỉ ở Citadel năm mà rèn được ba mắt xích trong chuỗi xích của học sĩ. Armen rèn được nhiều hơn, nhưng mỗi mắt xích cậu ta phải mất cả năm mới giành được. Nhưng cậu ấy rồi cũng trở thành học sĩ thôi. Roone và Mollander vẫn còn là những giáo sinh cổ hồng, nhưng Roone còn rất trẻ, trong khi Mollander thích uống rượu hơn là đọc sách.

      Còn Pate...

      Pate ở Citadel năm năm, cậu đến đây từ khi mới 13 nhưng đến giờ vẫn chỉ là giáo sinh cổ hồng như cái ngày đầu tiên mới tới từ vùng đất phía Tây. hai lần cậu tưởng mình sẵn sàng. Lần đầu cậu tới trước Archmaester Vaellyn để chứng tỏ kiến thức về các vị thần của mình. Nhưng thay vào đó, cậu hiểu được vì sao thầy Vaellyn Dấm Chua lại có biệt hiệu này. Phải mất hai năm sau Pate mới đủ can đảm để thử lại lần nữa. Lần này, cậu chọn Archmaester Ebrose già phúc hậu, nổi tiếng vì có giọng êm dịu và đôi tay nhàng, nhưng những tiếng thở dài của thầy Ebrose cũng khiến cậu đau khổ chẳng kém gì những lời chỉ trích sâu cay của thầy Vaellyn.

      quả nữa thôi,” Alleras hứa hẹn, “rồi tôi cho cậu biết tôi nghi ngờ điều gì về những con rồng.”

      “Có gì cậu biết mà tôi biết nhỉ?” Mollander lầm bầm. Cậu ta nhìn thấy quả táo cành, nhảy lên hái nó xuống và ném . Alleras kéo căng dây cung đến mang tai, duyên dáng xoay lại để dõi theo mục tiêu di động. Cậu ta buông cung ngay lúc quả táo bắt đầu rơi.

      “Cậu luôn bắn trượt phát cuối cùng,” Roone nhận xét.

      Quả táo bị bắn trúng rơi tõm xuống sông làm nước bắn lên tung tóe.

      “Đấy,” Roone .

      “Cái ngày cậu làm được tất cả là ngày cậu ngừng tiến bộ.” Alleras buông chùng dây cung và cất nó vào bao da. Cánh cung được tạc từ gỗ vàng vô cùng quý hiếm ở Quần đảo Summer. Pate thử uốn cong nó mà được. Chàng Nhân Sư trông mảnh khảnh nhưng sức mạnh lại chứa trong đôi tay gầy guộc ấy, Pate ngẫm nghĩ trong khi Alleras bước chân qua chiếc ghế dài và với lấy ly rượu vang. “Con rồng có ba đầu,” cậu ta lè nhè tuyên bố bằng chất giọng xứ Dorne mềm mại.

      “Đây là câu đố phải ?” Roone hỏi. “Trong truyền thuyết, nhân sư luôn thích đố mẹo.”

      phải câu đố.” Alleras nhấp ngụm rượu vang. Những người còn lại đều nốc từng vại rượu táo nặng nổi danh của Quill và Tankard nhưng Alleras thích loại rượu vang có vị lạ ngọt ngào của quê mẹ hơn. Ngay cả ở Oldtown, giá của nó cũng hề rẻ.

      Chính Leo Lười gán cho cậu ta biệt danh “Nhân Sư”. Nhân sư là con vật tổng hợp: khuôn mặt người, thân hình sư tử và đôi cánh chim ưng. Alleras cũng vậy: cha cậu ta là người Dorne, mẹ cậu ta là cư dân da đen của Quần đảo Summer, vì vậy, nước da của cậu sẫm xịt như màu gỗ tếch. Và giống như những con nhân sư bằng cẩm thạch xanh nằm hai bên cổng chính của Citadel, cậu ta có đôi mắt màu mã não đen.

      con rồng nào ba đầu cả, trừ khiên và cờ hiệu,” Armen phản bác cách kiên quyết. “Đó là vật có tính biểu tượng, vậy thôi. Hơn nữa, người Nhà Targaryens chết cả rồi.”

      phải tất cả,” Alleras trả lời. “Vua Ăn Mày còn em .”

      “Tôi tưởng ta bị đập đầu vào tường chết rồi.” Roone tham gia.

      ,” Alleras . “Đó là Aegon, con trai hoàng tử Rhaegar; những binh lính gan dạ của Sư Tử Nhà Lannister đập đầu ông ta vào tường. Chúng ta về em Rhaegar cơ, ta sinh ra ở Dragonstone trước khi nó thất thủ và được gọi là Daenerys ấy.”

      “Bão Tố, tôi nhớ ra ta rồi.” Mollander nâng cao chiếc cốc và lắc óc ách chỗ rượu táo còn lại. “Chúc mừng nàng!” rồi cậu ta nốc cạn chỗ rượu, đặt mạnh cái cốc rỗng xuống bàn, ợ to và dùng mu bàn tay chùi miệng. “Rosey đâu rồi? Nữ hoàng hợp pháp của chúng ta đáng được chúc mừng bằng chầu rượu nữa, phải nào?”

      Armen Thầy Dòng trông có vẻ hoảng hốt. “Hạ giọng xuống, đồ ngốc. Đừng đùa những điều như thế. Cậu bao giờ biết được ai nghe thấy đâu. Nhện có tai mắt ở khắp mọi nơi đấy.”

      “Armen, đừng có sợ vãi tè thế. Tôi đề nghị nâng cốc chúc mừng chứ đâu phải nổi loạn.”

      Pate nghe thấy tiếng cười khẽ. giọng dịu dàng tinh quái vang lên sau lưng cậu. “Tao luôn biết mày là thằng phản bội mà, Hopfrog.” Leo Lười lừ đừ vào từ dưới chân cây cầu lát ván cũ, người mặc bộ đồ sa tanh sọc vàng và xanh lục, chiếc áo choàng nửa người được đính vào vai bằng bông hồng ngọc bích. Căn cứ vào màu sắc thứ rượu đánh đổ lên vạt áo trước là rượu vang đỏ. món tóc màu vàng tro xõa xuống bên mắt.

      Mollander nổi giận trước bộ dạng của . “Chó chết. Cút . Mày được chào đón ở đây.”

      Alleras đặt tay lên cánh tay Mollander để giúp cậu ta bình tĩnh lại, còn Armen cau mày. “Thưa ngài Leo, theo những gì tôi biết cậu vẫn bị cấm túc ở Citadel trong vòng...”

      “...ba ngày nữa.” Leo nhún vai. “Perestan rằng thế giới này 40 ngàn năm tuổi, Mollos 500 ngàn năm. Tao hỏi mày ba ngày là cái gì?” Mặc dù còn cả tá bàn để trống nhưng Leo vẫn ngồi vào bàn của họ. “Hopfrog, mua cho tao ly Arbor vàng nào, và có thể tao báo cho cha tao biết hành động nâng cốc chúc mừng của mày. Ở Checkered Hazard mấy quân bài đều quay ra chống đối, và tao tiêu hết tiền ăn tối vào đó rồi. Lợn sữa với nước sốt mận nhồi hạt dẻ và nấm truýp trắng. người đàn ông cần phải ăn chứ. Chúng mày vừa ăn món gì thế?”

      “Thịt cừu,” Mollander lẩm bẩm, giọng cậu ta biểu lộ chút hào hứng nào. “Bọn tao chia nhau cái đùi cừu luộc.”

      “No nê lắm nhỉ.” Leo quay sang nhìn Alleras. “Nhân Sư này, con trai lãnh chúa hẳn phải là người hào phóng. Tao biết mày vừa giành được mắt xích đồng. Tao uống mừng cho điều đó.”

      Alleras cười lại với . “Tao chỉ mời rượu bạn bè thôi. Và tao rồi, tao phải con trai lãnh chúa, mẹ tao là thương nhân.”

      Đôi mắt nâu của Leo sáng lên vì rượu và hiểm độc. “Mẹ mày là con khỉ ở Summer. Bọn người Dorne sẵn sàng làm tình với bất cứ cái gì có lỗ giữa hai chân. Tao có ý xúc phạm đâu nhé. Mày đen như than nhưng ít nhất mày còn tắm, như thằng chăn lợn bẩn thỉu kia.” vẫy tay chỉ về phía Pate.

      Nếu mình ném cái cốc này vào mồm nó, mình có thể làm nó gẫy nửa hàm răng, Pate nghĩ thầm. Chàng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu là nhân vật chính của hàng ngàn câu chuyện tiếu lâm: thằng bé tốt bụng, vụng về và ngốc nghếch nhưng lúc nào cũng đánh bại đám tiểu quý tộc phì nộn, những gã hiệp sĩ ngạo mạn và những tên tu sĩ khoa trương ngáng đường mình. Bằng cách này hay cách khác, đần độn của chàng hóa ra lại là ranh mãnh chưa từng thấy; các câu chuyện luôn kết thúc bằng việc Pate Bẩn Thỉu ngồi ở địa vị lãnh chúa hoặc lên giường với con hiệp sĩ nào đó. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện mà thôi. Trong thế giới thực này, những chàng chăn lợn chẳng bao giờ được may mắn như vậy. Đôi khi, Pate nghĩ mẹ cậu chắc hẳn ghét cậu lắm nên mới đặt cho cậu cái tên đó.

      Alleras còn cười nữa. “Mày phải xin lỗi.”

      “Tao á?” Leo trả lời. “Làm sao tao xin lỗi được, cổ họng tao khô lắm...”

      “Mày làm ô danh dòng họ của mày bằng những lời mày ,” Alleras với . “Mày làm ô danh cả Citadel vì là trong số chúng tao.”

      “Tao biết. Vậy hãy mua rượu vang cho tao , để tao dìm chết nỗi hổ thẹn này.”

      “Tao rút lưỡi mày bây giờ.” Mollander nạt.

      sao? Thế làm sao tao kể cho mày nghe về những con rồng được?” Leo nhún vai lần nữa. “Con lai cũng có quyền chứ. Con Vua Điên còn sống đấy, ta ấp nở được ba con rồng.”

      “Ba cơ à?” Roone ngạc nhiên.

      Leo vỗ lên tay Roone. “Nhiều hơn hai và ít hơn bốn. Nếu tao là mày, tao cố gắng giành mắt xích vàng lúc này.”

      “Để cho nó yên.” Mollander cảnh cáo.

      “Nghĩa hiệp quá nhỉ. Được thôi. Mọi người mọi con thuyền trong vòng 300 dặm quanh Qarth đều về những con rồng đó. Vài người thậm chí còn rằng nhìn thấy chúng. Marwyn Phù Thủy có vẻ tin họ.”

      Armen bĩu môi phản đối. “Ông ta đáng tin. Archmaester Perestan là người đầu tiên với mày điều đó.”

      “Archmaester Ryam cũng như thế.” Roone chêm vào.

      Leo ngáp dài. “Biển ẩm ướt, mặt trời ấm áp, còn bầy thú ghét chó săn.”

      đặt biệt hiệu để nhạo báng trừ ai, Pate nghĩ, nhưng quả Archmaester Marwyn trông giống con chó mastiff hơn là học sĩ. Lúc nào trông ông ta cũng như thể muốn cắn người vậy. Phù Thủy giống như các học sĩ khác.

      Người ta rằng ông ấy quan hệ với điếm và bọn phù thủy lang thang, chuyện với bọn người Ibben rậm lông và người Quần đảo Summer đen như hắc ín bằng ngôn ngữ của họ, thờ phụng những vị thần đáng ngờ trong cái am của thủy thủ gần cầu tàu. Nhiều người còn rằng họ nhìn thấy ông ở những khu vực cặn bã trong thành phố, trong những khu ổ chuột và nhà thổ nhớp nhúa, kết giao cả với kịch sĩ, ca sĩ, lính đánh thuê và thậm chí cả với ăn mày. Thậm chí, người ta còn truyền tai nhau rằng ông từng giết người bằng nắm đấm của mình.

      Khi Marwyn quay lại Oldtown sau tám năm lang bạt ở phương đông để khám phá những vùng đất xa xôi, tìm kiếm những quyển sách bị thất lạc, theo học các thầy phù thủy và các pháp sư, thầy Vaellyn Dấm Chua đặt biệt hiệu cho ông ta là “Marwyn Phù Thủy.” Cái tên này nhanh chóng lan truyền khắp Oldtown, tới mức gây cho thầy Vaellyn ít phiền toái. “Hãy để những câu thần chú, những lời cầu nguyện cho các thầy tu và các sơ, tập trung trí óc cậu vào việc học những mà con người có thể tin được .” Archmaester Ryam từng có lần khuyên Pate như vậy, nhưng nhẫn, quyền trượng và mặt nạ của ông làm bằng vàng, chuỗi xích học sĩ của ông có mắt xích nào làm bằng thép Valyria cả.

      Armen nhìn Leo, hừ mũi khinh thường. Cậu ta có cái mũi rất thích hợp để làm việc ấy, nó dài, mảnh khảnh và nhọn. “Archmaester Marwyn tin vào nhiều điều kỳ dị nhưng những bằng chứng về rồng của ông ấy hơn gì Mollander, chỉ là những câu chuyện của thủy thủ thôi.”

      “Mày sai rồi.” Leo đáp. “Có cái nến thủy tinh trong phòng ông ấy.”

      Cả dãy nhà ngập tràn ánh đuốc rơi vào im lặng. Armen thở dài và lắc đầu. Mollander bắt đầu cười. Nhân Sư chăm chú nghiên cứu Leo bằng đôi mắt đen mở to. Còn Roone trông ngơ ngác.

      Pate biết những cây nến thủy tinh này, mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy cây nào sáng. Đó là bí mật được giữ gìn kém nhất Citadel. Người ta rằng, chúng được đưa từ Valyria về Oldtown trước Ngày Tàn ngàn năm, nghe có bốn chiếc: chiếc màu xanh lục, ba chiếc còn lại màu đen, tất cả đều cao và xoắn.

      “Nến thủy tinh là cái gì?” Roone hỏi.

      Armen Thầy Dòng hắng giọng. “Đêm trước khi thầy dòng tuyên thệ, ta phải thức đêm trong hầm mộ, được mang đèn đuốc hay nến gì cả mà chỉ được phát cây nến làm bằng đá vỏ chai. Suốt đêm hôm đó, ta phải sống trong bóng tối trừ khi thắp sáng được cây nến đó. số người cũng thử - những kẻ ngu xuẩn và ương bướng, chuyên nghiên cứu những điều thần bí cao siêu. Họ thường bị đứt tay vì người ta rằng chóp cây nến sắc như dao cạo. Và rồi họ vẫn phải thức cả đêm trong bóng tối, với cái tay chảy máu và ủ ê suy nghĩ về thất bại của mình. Người thông minh hơn ngủ hoặc cầu nguyện, nhưng năm nào cũng có vài người muốn thử.

      “Đúng đấy,” Pate nghe câu chuyện này rồi. “Nhưng cây nến phát sáng được dùng làm gì?”

      “Đó là bài học,” Armen trả lời, “bài cuối cùng phải học trước khi nhận được chuỗi xích của học sĩ. Cây nến thủy tinh đại diện cho chân lý, kiến thức, những gì hiếm có, đẹp đẽ và mong manh. Nó được làm thành hình cây nến để nhắc nhở chúng ta rằng học sĩ phải thắp lên ánh sáng ở bất cứ nơi nào mình phụng , nó sắc để nhắc chúng ta nhớ kiến thức cũng có thể trở nên nguy hiểm. người thông thái dần dần trở nên ngạo mạn vì thông thái của mình, nhưng học sĩ luôn phải khiêm nhường. Cây nến thủy tinh nhắc chúng ta điều đó. Kể cả khi tuyên thệ, nhận được chuỗi xích và bắt đầu phục vụ, học sĩ luôn nhớ lại cái đêm thức trong bóng tối và thể làm gì để thắp sáng cây nến. Vì ngay cả khi có kiến thức uyên bác cũng có những điều bất khả thi.”

      Leo Lười phá lên cười. “Bất khả thi đối với mày thôi. Chính mắt tao nhìn thấy cây nến đó cháy.”

      “Mày nhìn thấy cây nến cháy, tao nghi ngờ gì hết,” Armen trả lời. “ cây nến bằng sáp đen, có lẽ vậy.”

      “Tao biết tao nhìn thấy cái gì chứ. Ánh sáng của nó rất kỳ quái, sáng chói, sáng hơn nến sáp ong và nến mỡ rất nhiều. Bóng của nó rất lạ, ngọn lửa rung rinh kể cả khi có luồng gió tạt qua cánh cửa mở sau lưng tao.”

      Armen khoanh tay lại. “Đá vỏ chai cháy được.”

      “Đá rồng,” Pate tham gia. “Dân chúng gọi đó là đá rồng.” hiểu sao điều đó có vẻ quan trọng.

      “Họ gọi thế,” Alleras Nhân Sư trầm ngâm. “Và nếu lại có rồng đời này ...”

      “Rồng và những điều đen tối hơn,” Leo cắt ngang. “Những con cừu ngu ngốc nhắm nghiền mắt lại, chỉ có con chó mastiff là nhìn thấy . Những thế lực cổ xưa trỗi dậy rồi. Bóng tối bị khuấy động. thời đại kỳ diệu và khủng khiếp sắp đến, thời đại của thần thánh và hùng.” Leo vươn vai và mỉm cười lười nhác. “Đáng giá chầu rượu chứ, phải ?”

      “Bọn tao uống đủ rồi.” Armen đáp lời. “Buổi sáng đến nhanh hơn chúng ta tưởng đấy, sáng mai Archmaester Ebrose có bài giảng về đặc tính của nước tiểu. Ai muốn có mắt xích bằng bạc nên bỏ lỡ bài giảng của ông ấy.”

      “Tao ngăn mày nếm nước tiểu đâu,” Leo châm chọc. “Còn tao, tao thích vị rượu Arbor hơn.”

      “Nếu phải lựa chọn giữa nước tiểu và mày, tao thà uống nước tiểu còn hơn.” rồi Mollander rời khỏi bàn. “ nào, Roone.”

      Nhân Sư với lấy túi đựng cung. “Tao về ngủ đây. Hy vọng mơ thấy rồng và nến thủy tinh.”

      “Chúng mày hết à?” Leo nhún vai. “ sao, vẫn còn Rosey. Chắc tao đánh thức viên kẹo ngọt ngào này dậy và làm cho nàng trở thành đàn bà.”

      Alleras liếc nhìn biểu mặt Pate. “Nếu nó có tiền để mua ly rượu vang nó cũng chẳng có nổi đồng vàng cho nàng đâu.”

      “Đúng,” Mollander thêm. “Thêm nữa, cậu cần phải là đàn ông trước khi làm ai đó trở thành đàn bà. với bọn tôi nào, Pate. Thầy Walgrave già thức dậy khi mặt trời mọc. Ông ấy cần cậu giúp việc vệ sinh cá nhân đấy.”

      Nếu ông ấy nhớ được hôm nay mình là ai. Archmaester Walgrave gặp khó khăn nào khi phân biệt con quạ này với con quạ khác, nhưng đối với người được như thế. Đôi khi, dường như ông nhầm Pate với người nào đó tên là Cressen. “Chưa phải bây giờ, tôi định ngồi đây thêm lúc nữa.” Pate với các bạn mình. Bình minh vẫn còn chưa hé rạng. Nhà giả kim đó vẫn có thể đến, và nếu vậy Pate phải ở đây.

      “Tùy cậu thôi,” Armen trả lời. Alleras chần chừ nhìn Pate thoáng rồi đeo cung lên bên vai mảnh dẻ và theo các bạn rời khỏi quán, về phía cây cầu. Mollander quá chén nên phải vịn tay vào vai Roone để khỏi ngã. Citadel cách đó xa nếu tính theo đường chim bay. Nhưng họ phải là chim, trong khi Oldtown lại là mê cung thực với những con đường , ngõ hẻm đan nhau chằng chịt và những phố ngoắt nghéo. “Cẩn thận nhé,” Pate nghe thấy Armen vọng lại khi cả bốn chìm vào màn sương mù dày đặc sông, “đêm nay ẩm ướt nên đường trơn lắm đấy.”

      Khi tất cả , Leo Lười nhìn Pate chăm chăm qua cái bàn với vẻ cáu kỉnh. “Chán quá. Thằng Nhân Sư đem tất cả bạc chuồn rồi, bỏ ta lại với thằng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu này.” vươn vai, ngáp dài. “Rosey bé ngọt ngào của chúng ta thế nào rồi, cầu nguyện à?”

      “Ngủ,” Pate đáp cộc lốc.

      “Trần truồng, chắc chắn rồi.” Leo cười nhăn nhở. “Mày có nghĩ nàng thực đáng giá đồng vàng ? ngày nào đó, tao nghĩ tao phải tìm ra câu trả lời.”

      Pate biết tốt nhất là nên im lặng.

      Leo cũng cần câu trả lời của cậu. “Tao hy vọng khi tao khám phá nàng xong, giá của ta giảm xuống đến mức những thằng chăn lợn cũng có thể chịu được. Lúc đó mày phải cảm ơn tao.”

      Tao phải giết mày có, Pate nghĩ, nhưng cậu chưa đủ say để quẳng mạng sống của mình . Leo được huấn luyện sử dụng vũ khí thành thạo, và nổi tiếng nguy hiểm chết người với kỹ năng dùng gươm và dao găm của kẻ đâm thuê chém mướn. Và nếu vì lý do nào đó Pate giết được chăng nữa, cậu cũng phải trả giá bằng chính cái đầu của mình. Leo có hai tên trong khi Pate chỉ có . Tên thứ hai của là Tyrell – Ser Moryn Tyrell, tướng chỉ huy Đội Gác Thành của Oldtown, cha của Leo. Mace Tyrell, Lãnh chúa vùng Highgarden, người bảo hộ phương nam là họ . Còn Trưởng Lão của Oldtown – Lãnh chúa Leyton của Hightower, là người cai quản Citadel và giữ nhiều tước hiệu khác nữa, cũng là chư hầu của Nhà Tyrell. Bỏ qua , Pate tự nhủ. những điều ấy cũng chỉ để làm tổn thương mình.

      Sương mù phía đông loãng dần. Pate nhận ra bình minh tới. Bình minh tới chứ phải nhà giả kim. Pate chẳng biết cậu nên cười hay nên khóc. Mình có còn là kẻ trộm nếu mình trả lại nó và ai biết? Lại câu hỏi nữa mà cậu trả lời được, như những câu mà thầy Ebrose và thầy Vaellyn hỏi.

      Khi cậu rời khỏi ghế và đứng lên, rượu nặng bốc lên đầu ngay lập tức, Pate phải chống tay lên bàn để đứng vững. “Hãy để Rosey được yên,” cậu chốt lại trước khi bỏ , “để nàng yên, nếu tao giết mày.”

      Leo gạt mớ tóc xõa xuống mắt. “Tao đánh nhau tay đôi với bọn chăn lợn. Cút .”

      Pate quay và băng qua dãy nhà, bước chân cậu lộp cộp những tấm ván mòn vì mưa gió của cây cầu cổ. Đúng lúc cậu sang đến bờ bên kia, bầu trời phía đông nhuốm ánh hồng. Thế giới rộng lớn, Pate tự nhủ. Nếu mình mua con lừa đó, mình vẫn có thể thả bộ những con đường của Bảy Phụ Quốc, cho đỉa chích máu và bắt chấy cho đám dân đen. Mình có thể làm thủy thủ con thuyền nào đó, chèo thuyền cho họ để đến Qarth qua Cổng Ngọc Bích để được xem tận mắt những con rồng chết tiệt. Mình cần phải quay lại với ông già Walgrave và đám quạ nữa.

      Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, bước chân cậu vẫn quay về Citadel.

      Khi tia nắng đầu tiên xé toạc màn mây phía đông cũng là lúc chuông sớm bắt đầu ngân vang, tiếng chuông bay từ điện thờ của Thủy Thủ ra bến tàu. lát sau, điện thờ của Lãnh Chúa bắt đầu hòa nhịp, tiếp đó là Thất Điện từ những khu vườn bên kia dòng Honeywine, và cuối cùng là Điện Ngôi Sao, nơi từng là nơi ở của Tu Sĩ Cấp Cao trong ngàn năm trước khi Aegon chiếm được Vương Đô. Tất cả tạo thành bản nhạc hùng tráng, nhưng lại chẳng ngọt ngào bằng khúc hát của con chim sơn ca.

      Pate cũng nghe thấy tiếng hát xen lẫn tiếng chuông vang rền. Mỗi sáng, khi tia nắng đầu tiên ló rạng, các tu sĩ áo đỏ lại tập trung bên ngoài ngôi đền khiêm nhường cạnh cầu tàu để chào đón mặt trời vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy những điều khủng khiếp. Pate nghe thấy họ hát những lời ca đó cả trăm lần, để cầu xin thần R’hllor cứu rỗi họ khỏi những điều đen tối. Đối với Pate chỉ Thất Diện Thần là đủ, nhưng cậu nghe Stannis Baratheon bây giờ cũng tôn sùng những ngọn lửa đêm. Ông ta thậm chí còn đưa trái tim bốc lửa của thần Rh’llor lên cờ hiệu thay cho con hươu đội mũ miện trước kia. Pate nghĩ, nếu ông ta giành được Ngai Sắt, phải tất cả chúng ta đều phải học bài ca ấy hay sao, nhưng có vẻ điều đó thể xảy ra. Tywin Lannister đánh bại Stannis và thần R’hllor của ông ta ở Xoáy Nước Đen, lâu nữa kết liễu họ và bêu đầu kẻ tiếm quyền Baratheon cổng thành Vương Đô.

      Sương mù ban đêm tan hẳn, Oldtown dần ra như bóng ma trong ánh sáng ảm đạm trước lúc rạng đông. Pate chưa bao giờ nhìn thấy Vương Đô, nhưng cậu biết đó là thành phố của những ngôi nhà vách phên trát đất, đường phố lầy lội bùn đất, những mái nhà lợp rạ và những túp lều bằng gỗ. Oldtown được xây dựng bằng đá, đường phố rải sỏi tới tận những ngõ hẻm tồi tàn nhất. Chưa lúc nào thành phố đẹp bằng lúc rạng đông. Về phía tây sông Honeywine, tòa trụ sở chính đứng sừng sững bờ sông trông như dãy cung điện.

      Phía thượng lưu, các mái vòm và tháp của Citadel nổi bật hai bên bờ sông được nối với nhau bằng những chiếc cầu đá, nhà cửa san sát. Phía hạ lưu, dưới những bức tường cẩm thạch đen và những cửa sổ hình vòm của Điện Ngôi Sao là những ngôi nhà của các mục sư mọc xúm xít như đàn trẻ tụ tập quanh chân mẹ.

      Xa xa, nơi sông Honeywine đổ vào vịnh Whispering Sound, tòa tháp Hightower đứng sừng sững, ngọn lửa đèn hiệu nóc tháp sáng rực nền trời rạng đông. Đứng điểm cao nhất của đảo Battle, bóng tháp cắt qua thành phố như lưỡi gươm. Những người sinh ra và lớn lên ở Oldtown có thể nhìn bóng tháp mà đoán được thời gian trong ngày. Người ta rằng, người thậm chí có thể nhìn thấy Tường Thành từ đỉnh tháp. Có lẽ vì thế mà suốt hơn thập kỷ nay Lãnh chúa Leyton rời khỏi tòa tháp, ông thích cai trị thành phố từ mây.

      chiếc xe của người bán thịt lọc cọc vượt qua Pate con đường dọc bờ sông, năm chú lợn con đằng sau xe sợ hãi kêu eng éc. Pate tránh đường cho chiếc xe, và cũng tránh bị lấm bẩn khi phụ nữ đổ cả xô phân và nước tiểu xuống từ cửa sổ đầu. Khi trở thành học sĩ và ở trong lâu đài, mình có ngựa để cưỡi, Pate thầm nghĩ. Bỗng cậu vấp phải hòn sỏi và tự hỏi mình đánh lừa ai thế này. Cậu có chuỗi xích nào hết, được ngồi ở vị trí trang trọng trong lâu đài của lãnh chúa, cũng được cưỡi con bạch mã nào. Ngày này qua ngày khác cậu chỉ được nghe tiếng quạ quang quác ầm ĩ và giặt vết phân bám quần lót của Archmaester Walgrave.

      Khi cậu quỳ gối, cố gắng lau vết bùn áo tiếng bỗng cất lên, “Chào cậu, Pate.”

      Nhà giả kim đứng ngay trước mặt cậu.

      Pate vội vàng đứng lên. “Ông là ông chờ ở quán Quill và Tankard ngày thứ ba...”

      “Cậu ở đó với các bạn cậu và ta muốn xông bừa vào.” Ông ta mặc áo choàng lữ hành màu nâu có mũ trùm đầu, trông có gì đặc biệt. Mặt trời chênh chếch mái nhà sau lưng ông ta, nên cậu nhìn khuôn mặt của nhà giả kim dưới chiếc mũ trùm.

      “Cậu quyết định chưa?”

      Ông ta bắt mình phải ra điều đó hay sao? “Tôi nghĩ tôi là thằng ăn trộm.”

      “Ta cũng nghĩ cậu làm vậy.”

      Việc khó nhất là quỳ xuống lôi cái hộp ra từ dưới giường của Archmaester Walgrave. Mặc dù cái hộp rất chắc chắn và có nẹp sắt bao quanh nhưng ổ khóa của nó vỡ. Maester Gormon nghi ngờ Pate, nhưng thực ra người phá khóa chính là Archmaester Walgrave sau khi ông đánh mất chìa.

      Trong hộp, Pate tìm thấy chiếc túi đựng những đồng hươu bạc, lọn tóc vàng được buộc bằng ruy-băng, bức tiểu họa sơn dầu vẽ phụ nữ rất giống thầy Walgrave (thậm chí cũng có ria mép), và chiếc găng tay thép của hiệp sĩ. Chiếc găng này từng thuộc về hoàng tử, thầy Walgrave từng như vậy, mặc dù ông còn nhớ vị hoàng tử đó là ai. Khi Pate lắc nó, chiếc chìa khóa rơi xuống sàn.

      Nếu mình lấy chiếc chìa khóa này, mình thành kẻ trộm, Pate nhớ lại suy nghĩ của cậu lúc đó. Chiếc chìa khóa cũ, nặng và được làm bằng sắt đen; nghe nó có thể mở mọi cánh cửa ở Citadel, và chỉ các archmaester mới có. Những archmaester khác đều mang chiếc khóa theo người hoặc giấu ở nơi an toàn nào đó, nhưng nếu thầy Walgrave đem giấu nó chắc ai có thể tìm được. Pate nắm lấy chiếc chìa khóa và ra cửa, được nửa đường, cậu quay lại và lấy nốt những đồng bạc. là kẻ trộm dù lấy ít hay nhiều cũng vẫn là kẻ trộm. “Pate,” con quạ trắng gọi với theo cậu, “Pate, Pate, Pate.”

      “Ông có mang theo đồng vàng cho tôi ?” Pate hỏi nhà giả kim.

      “Nếu cậu có thứ mà ta cầu.”

      “Ông đưa nó ra đây, tôi muốn nhìn thấy nó.” Pate muốn mình bị lừa.

      “Chỗ này thích hợp. theo ta.”

      Pate có thời gian để cân nhắc. Nhà giả kim bước . Cậu phải theo ông ta, nếu mất cả Rosey lẫn đồng vàng mãi mãi. Và thế là cậu theo, vừa vừa luồn tay vào tay áo, cảm nhận được chiếc chìa khóa ở đó, an toàn trong chiếc túi bí mật được khâu vào tay áo. Áo choàng của các học sĩ đầy những túi, Pate biết điều đó từ khi cậu còn là đứa trẻ.

      Pate phải bước vội cho kịp với những bước sải dài của nhà giả kim. Họ xuống con hẻm, vòng qua góc phố, qua Chợ Ăn Cắp cổ kính, dọc theo phố Ragpicker. Cuối cùng, người đàn ông lạ rẽ vào ngõ hẻm khác, hẹp hơn cái trước. “Xa thế này được rồi,” Pate . “Ở đây có ai đâu. Chúng ta bắt đầu thôi.”

      “Được thôi.”

      “Tôi muốn có đồng vàng của tôi.”

      “Đương nhiên rồi.” Và đồng vàng xuất . Nó luồn qua các kẽ ngón tay của nhà giả kim giống hệt như đêm hôm Rosey đến với cậu. Trong ánh ban mai, hình con rồng vàng sáng lấp lánh như thể cử động và phản chiếu ánh vàng lên ngón tay nhà giả kim. Pate vồ lấy nó. Đồng vàng ấm áp trong lòng bàn tay cậu. Cậu đưa nó vào miệng cắn như cái cách cậu thấy những người khác vẫn làm. Cậu biết vàng có vị như thế nào, nhưng muốn để người khác thấy mình ngu ngốc.

      “Chìa khóa đâu?” Nhà giả kim lịch thiệp hỏi.

      điều gì đó làm Pate lưỡng lự. “Ông muốn lấy mấy quyển sách à?” Nghe mấy cuốn sách Valyria cổ viết giấy da được khóa kỹ trong hầm là những bản duy nhất còn lại thế giới.

      “Cái tôi muốn liên quan gì đến cậu.”

      “Đúng .” Mọi chuyện xong, Pate tự nhủ. Về thôi. Quay về Quill và Tankard, đánh thức Rosey dậy bằng nụ hôn và cho nàng biết nàng thuộc về mình. Nhưng Pate vẫn chần chừ. “Cho tôi xem mặt ông.”

      “Được thôi.” Nhà giả kim hất chiếc mũ trùm ra.

      Đó là người đàn ông bình thường, với khuôn mặt có gì đặc biệt. Gương mặt của chàng trai trẻ, gò má đầy đặn, râu ngắn, má phải có vết sẹo mờ, mũi khoằm, mớ tóc đen dày và xoăn phủ qua tai. phải là gương mặt mà Pate quen biết. “Tôi biết ông.”

      “Ta cũng biết cậu.”

      “Ông là ai?”

      “Là người lạ. Chẳng là ai cả. đấy.”

      “Ồ.” Pate biết gì nữa. Cậu rút chiếc chìa khóa ra và đặt vào tay người lạ, cảm thấy mình nông nổi, gần như là dại dột. Rosey, cậu tự nhắc mình. “Chúng ta xong rồi nhé.”

      được nửa đường ra khỏi con hẻm , Pate bỗng cảm thấy con đường lát đá di chuyển dưới chân mình. Những phiến đá trơn và ướt, cậu nghĩ, nhưng vấn đề phải ở đấy. Cậu cảm thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực. “Gì thế này?” Cậu hỏi thành tiếng, chân mềm ra như nước. “Mình hiểu.”

      “Và bao giờ hiểu.” giọng buồn thảm cất lên sau lưng cậu.

      Cậu ngã dập mặt xuống con đường lát đá. Pate cố gắng kêu cứu, nhưng giọng cậu cũng thều thào ra hơi. Ý nghĩ cuối cùng của cậu là về Rosey.

    3. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      NGƯỜI TRUYỀN GIÁO
      Người truyền giáo làm nghi lễ nhấn nước đảo Great Wyk khi có người đến báo tin đức vua băng hà.
      Đó là buổi sáng lạnh lẽo và ảm đạm, cả mặt biển và bầu trời đều xám như chì. Ba người đầu tiên can đảm dâng mình cho Thần Chết Chìm, nhưng người thứ tư thiếu đức tin và bắt đầu vùng vẫy khi phổi của cậu ta thiếu khí. Đứng dưới nước biển ngập đến tận thắt lưng, Aeron túm chặt hai vai thằng bé trần như nhộng và ấn đầu nó xuống, trong khi nó cố gắng hớp vội hơi thở. “Can đảm lên nào,” ông ta động viên thằng . “Chúng ta đến từ biển, và phải quay về với biển. Há miệng ra và uống nhiều phước lành của Người. Hãy để cho phổi của con đầy nước, con chết và được tái sinh. nên chống lại như thế.”
      Hoặc thằng bé nghe thấy ông gì vì đầu chìm dưới những con sóng, hoặc đức tin hoàn toàn rời bỏ nó. Cậu bé bắt đầu đá lung tung và vùng vẫy điên dại đến mức Aeron phải kêu người trợ giúp. Bốn người theo giáo phái chết chìm vội lội ra, túm lấy thằng bé khốn khổ và dìm nó xuống nước. “Thần Chết Chìm của chúng con,” vị thầy tu cầu nguyện bằng giọng trầm trầm như biển cả, “xin người hãy nhận Emmond làm kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển như Người. Xin hãy ban phước lành cho cậu bé với muối, đá và thép.”
      Cuối cùng mọi việc cũng xong. còn bọt khí tuôn ra từ miệng thằng bé, chân tay nó cũng còn quẫy đạp. Emmond nằm úp mặt xuống biển, trôi dập dềnh trong vùng nước nông, trông tái nhợt, lạnh lẽo và thanh thản.
      Lúc này, Damphair mới nhận ra có ba kỵ sĩ đứng cùng nhóm người theo giáo phái chết chìm của ông bãi biển đầy sỏi đá. trong số đó là Sparr, lão già có khuôn mặt lưỡi cày và đôi mắt lúc nào cũng lèm nhèm nhưng tiếng run rẩy của ông ta lại là luật lệ đối với cư dân ở khu vực này của đảo Great Wyk. cùng ông là Steffarion con trai ông và chàng trai nữa mặc áo choàng lót lông thú màu đỏ sẫm, chiếc ghim cài đẹp lộng lẫy hình tù và đen và vàng - gia huy của Nhà Goodbrother - gắn vai áo. Đây chắc hẳn là trong ba con trai của Gorold, Aeron đoán sau khi liếc nhìn qua. Sau mười hai con , phu nhân Nhà Goodbrother hạ sinh liền ba cậu con trai cao lớn, nghe họ giống nhau đến mức thể phân biệt được người này với người khác. Aeron quan tâm chuyện ấy. Cho dù là Greydon, Gormond hay Gran, ông cũng có thời gian dành cho họ.
      Ông làu bàu ra lệnh cách cục cằn, người của ông túm lấy chân tay thằng bé chết đuối và lôi nó lên bờ, nơi thủy triều dâng tới được. Aeron theo sau trong bộ dạng trần truồng, ngoại trừ mảnh vải bằng da hải cẩu che chỗ kín. Vẫn còn ướt sũng và sởn da gà vì lạnh, ông bì bõm lội lên bờ, băng qua dải cát ướt lạnh và bãi sỏi cuội được sóng biển chà rửa sạch . người của ông tiến lại, đưa cho ông chiếc áo thụng nặng bằng vải thô nhuộm lốm đốm các màu xanh lục, xanh da trời và xám, màu của biển cả và Thần Chết Chìm. Aeron khoác áo và kéo mớ tóc dài đen sũng nước sau lưng ra ngoài. Mái tóc đen ướt sũng đó chưa bao giờ được cắt kể từ khi Aeron thoát chết trong vụ đắm tàu năm nào. Mớ tóc xõa quanh vai Aeron như chiếc áo choàng tả tơi và dài tới thắt lưng. Aeron đeo những sợi rong biển dài lẫn trong tóc và trong cả bộ râu rối bù cạo.
      Người của ông vây quanh thằng bé chết đuối và cầu nguyện. Norjen xoa bóp tay còn Rus quỳ người nó và ấn lồng ngực, nhưng khi Aeron đến nơi, tất cả đều giãn ra. Ông dùng ngón tay tách đôi môi lạnh ngắt của thằng bé ra và hà hơi thổi ngạt, liên tục cho đến khi nước biển ộc ra. Thằng bắt đầu ho và thở phì phì, rồi hấp háy mở mắt, đôi mắt đầy hoảng sợ.
      Thế là thêm người nữa quay lại, dấu hiệu chứng tỏ ân huệ của Thần Chết Chìm. Các thầy tu khác đều để mất người hết lần này đến lần khác, ngay cả Tarle Ba lần chết đuối - người từng được coi là thần thánh đến mức được chọn lên đội vương miện cho nhà vua mới. Nhưng Aeron Greyjoy chưa. Ông là Damphair, người từng nhìn thấy tòa lâu đài nước của Thần Chết Chìm và tái sinh để kể cho mọi người nghe điều đó. “Sống lại rồi,” ông vỗ lên tấm lưng trần của thằng bé, nó vẫn ho sù sụ. “Con chết đuối và quay trở lại với chúng ta. Những gì chết có thể bao giờ tàn lụi.”
      “Mà trở lại.” Thằng bé ho dữ dội và tiếp tục phun ra thêm nước. “Tái sinh.” Mỗi từ ra được đánh đổi bằng đau đớn, nhưng đó là con đường phải của cả thế giới này: chiến đấu để sinh tồn. “Tái sinh.” Emmond loạng choạng đứng lên. “Cứng rắn hơn. Và mạnh mẽ hơn.”
      “Giờ đây con thuộc về Thần Chết Chìm.” Aeron với cậu bé. Những người theo giáo phái chết chìm khác vây quanh, vừa đấm vừa hôn để mừng người em mới của họ. người giúp cậu mặc chiếc áo choàng bằng vải thô lốm đốm xanh lơ, xanh lục và xám. Người khác chìa cho cậu chiếc dùi cui bằng gỗ dạt. “Giờ đây con thuộc về biển, biển vũ trang cho con,” Aeron tiếp tục. “Chúng ta cầu cho con sử dụng cây gậy này cách mạnh mẽ, để giúp vị thần của chúng ta chống lại mọi kẻ thù.”
      Đến lúc này, ông mới quay về phía ba kỵ sĩ ngồi yên ngựa yên lặng quan sát. “Có phải các ngài đến đây để được nhấn chìm vào lòng biển , thưa các lãnh chúa?”
      Lãnh chúa Sparr húng hắng ho. “Tôi được nhấn nước từ khi còn là đứa bé, con trai tôi cũng vậy trong ngày đặt tên của nó.”
      Aeron khịt mũi coi thường. Chuyện Steffarion Sparr được trao cho Thần Chết Chìm ngay sau khi sinh ra có gì đáng nghi ngờ. Ông hiểu quá nghi thức đó, đứa trẻ mới sinh được nhúng vào chậu nước biển, nhanh đến nỗi hiếm khi kịp ướt đầu. Do đó, có gì lạ khi cư dân của Quần đảo Iron - những con người từng thống trị bất cứ nơi nào có tiếng sóng biển - bị chinh phục. “Đấy phải là nhấn nước thực ,” ông đáp. “Người thực chết thể hy vọng tái sinh từ cái chết. Các ngài đến đây làm gì nếu phải để chứng minh đức tin của mình?”
      “Con trai Lãnh chúa Gorold đến tìm ông để báo tin.” Ngài Sparr chỉ vào chàng trai mặc áo choàng đỏ.
      Trông cậu quá 16 tuổi. “Chà, cậu là thứ mấy?”
      “Tôi là Gormond. Gormond Goodbrother, nếu điều đó làm ông hài lòng.”
      “Chúng ta chỉ cần làm hài lòng Thần Chết Chìm. Cậu được nhấn nước chưa, cậu Gormond Goodbother?”
      “Rồi, vào ngày lễ đặt tên của tôi, Damphair. Cha tôi cử tôi đến tìm ông và đưa ông về gặp ông ấy. Ông ấy cần chuyện với ông.”
      “Ta đâu cả. Hãy để Lãnh chúa Gorold đến và tự mình gặp ta.” Aeron cầm lấy chiếc túi da vừa được múc đầy nước biển từ tay Rus, rút cái nút bần và uống ngụm.
      “Tôi đưa ông về pháo đài,” chàng Gormond trẻ tuổi vẫn khăng khăng từ lưng ngựa.
      Cậu ta muốn xuống vì sợ làm ướt đôi ủng. “Ta còn nhiều việc phải làm để phụng Thần Chết Chìm.” Aeron Greyjoy là người truyền giáo của thần linh. Đời nào ông chịu để những vị lãnh chúa tầm thường ra lệnh như kẻ tôi tớ.
      “Gorold nhận được tin từ con quạ,” lãnh chúa Sparr .
      “Con quạ của học sĩ đến từ Pyke,” Gormond xác nhận.
      Đôi cánh chim đen mang điềm u ám. “Lũ quạ bay qua núi cao biển rộng. Nếu có tin gì liên quan đến ta, xin hãy luôn.”
      “Tin tức chúng ta mang đến chỉ dành riêng cho ngài, Damphair.” Lãnh chúa Sparr đáp. “Đây phải vấn đề có thể tùy tiện trước những người này.”
      “Họ là người của ta, đều là tôi tớ của Thần Chết Chìm, cũng như ta. Ta có bí mật nào cần giấu họ hay giấu Thần Chết Chìm khi đứng bên biển cả thần thánh.”
      Ba vị khách liếc nhìn nhau. “ cho ông ta biết ,” Lãnh chúa Sparr phá vỡ im lặng và chàng trai mặc áo choàng đỏ thu hết can đảm. “Đức vua băng hà,” cậu cách đơn giản. Chỉ có bốn từ, nhưng dường như biển cả cũng run lên khi những từ đó được thốt ra.
      nay có tới bốn vị vua trị vì Westeros, nhưng Aeron cần hỏi cũng biết họ đến ai. Còn ai vào đây nữa ngoài trai ông, Balon Greyjoy, người trị vì Quần đảo Iron. Đức vua băng hà. Lẽ nào lại thế? Ông vừa mới gặp Balon chưa đầy tháng trước sau khi cướp bóc dọc bờ biển Stony và đường quay về. Ông còn nhớ, khi chia tay, mái tóc hoa râm của trai ông bạc trắng nửa, dáng người còng khi chiếc thuyền dài nhổ neo. Nhưng nhìn chung có vẻ gì là đau ốm.
      Cuộc đời Aeron Greyjoy dựa vào hai trụ cột hùng mạnh. Nhưng chỉ cần bốn từ đơn giản đó bẻ gẫy trong hai. Giờ chỉ còn lại Thần Chết Chìm thiêng liêng. Xin Người hãy ban cho con sức mạnh và sinh lực như biển cả. “ ta nghe ông ấy chết như thế nào.”
      “Nhà vua qua cây cầu ở Pyke bị ngã và rơi xuống rặng đá bên dưới.”
      Thành lũy của Nhà Greyjoy được xây dựng mũi đất nhô ra biển, các pháo đài và tháp canh nằm cheo leo những mỏm đá lớn dựng đứng. Các phần của lâu đài được nối với nhau bằng những cây cầu, những vòm cuốn cong cong đẽo bằng đá tảng, những nhịp cầu bằng chão và gỗ ván đung đưa. “Khi đó có phải bão ?” Aeron hỏi.
      “Vâng, đúng vậy.” Chàng trai xác nhận.
      “Thần Bão Tố quật ngã ông ấy,” ông tuyên bố. Hàng triệu năm trước đây, biển cả và bầu trời từng xung đột. Những con dân của Quần đảo Iron sinh ra từ biển cả, cá là nguồn sống của họ ngay cả trong mùa đông rét buốt, còn bão tố chỉ đem đến tai ương và khổ đau. “Balon trai ta lần nữa khiến chúng ta lớn mạnh hơn, điều đó khuấy động tức giận của Thần Bão Tố. Giờ này chắc chắn nhà vua được tiếp đón nồng nhiệt trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, các nàng tiên cá phục vụ mọi mong muốn của ông ấy. Chỉ còn lại chúng ta nơi khô cằn, buồn thảm này để hoàn thành nốt những việc vĩ đại mà ông ấy dang dở.” Ông đóng cái nút bần vào miệng túi. “Ta phải chuyện với cha cậu. Từ đây đến Hammerhorn bao xa?”
      “Mười tám dặm. Ngài có thể cưỡi ngựa cùng tôi.”
      người cưỡi ngựa nhanh hơn hai người. Cho ta mượn con ngựa nào, Thần Chết Chìm phù hộ cho cậu.”
      “Damphair, ngài lấy ngựa của tôi mà dùng.” Steffarion Sparr đề nghị.
      . Ngựa của cậu ta khỏe hơn. Phải là ngựa của cậu cơ, chàng trai.”
      Chàng thanh niên ngần ngại trong giây lát nhưng sau đó cũng xuống ngựa và giữ dây cương cho Damphair. Aeron đặt bàn chân trần đen nhẻm vào bàn đạp và đu người lên yên. Ông thích ngựa - chúng là tạo vật của đất liền, chúng góp phần khiến con người yếu đuối - nhưng hoàn cảnh bắt buộc ông phải cưỡi. Đôi cánh chim đen mang điềm đen tối. cơn bão sắp đến, ông nghe thấy thanh của nó trong từng con sóng, bão tố chẳng đem đến điều gì khác ngoài tai ương. “Hãy đến gặp ta ở Pebbleton, dưới chân tháp của Lãnh chúa Merlyn,” ông dặn dò người của mình trong khi cho ngựa quay đầu.
      Con đường mòn gập ghềnh, lên đèo xuống dốc, xuyên qua những cánh rừng, những hẻm núi, đôi lúc hẹp lại tưởng chừng biến mất dưới vó ngựa. Great Wyk là hòn đảo lớn nhất trong Quần đảo Iron, lớn đến mức đất đai của số lãnh chúa tiếp giáp với biển. Gorold Goodbrother là trong số đó. Lâu đài của ông ta nằm đỉnh đồi Hardstone, cách xa lãnh địa của Thần Chết Chìm cũng như nhiều nơi khác đảo này. Dân trong vùng lao động cực nhọc trong bóng tối, dưới những hầm mỏ nằm sâu trong lòng đất. Nhiều người cho đến khi chết vẫn chưa lần được tận mắt nhìn thấy biển. Do đó, chẳng có gì ngạc nhiên khi tính khí họ khó chịu và cáu bẳn.
      Ngồi lưng ngựa, suy nghĩ của Aeron lại quay về những người em của mình.
      Ngài Quellon Greyjoy, lãnh chúa của Quần đảo Iron có cả thảy chín con trai. Harlon, Quenton và Donel là con của người vợ đầu tiên - phụ nữ thuộc dòng họ Stonetrees. Balon, Euron, Victarion, Urrigon và Aeron là con người vợ thứ hai, vốn là người Nhà Sunderly ở Saltcliffe. Người vợ thứ ba của Quellon - người con đến từ đất liền - hạ sinh Robin, thằng bé ngu ngốc và ốm yếu mà Aeron nghĩ tốt nhất là nên quên . Ông cũng chẳng còn chút ký ức nào về Quenton hay Donel vì họ chết khi còn . Harlon ông chỉ còn nhớ lờ mờ, với khuôn mặt xám ngoét, nằm bất động trong căn phòng cửa sổ trong tháp lâu đài, giọng mỗi lúc thều thào hơn khi căn bệnh vảy xám dần biến lưỡi và môi ta thành đá. ngày nào đó, chúng ta lại cùng nhau chè chén trong lâu đài nước của Thần Chết Chìm, cả bốn chúng ta và Urri nữa, Aeron thầm nghĩ.
      Lãnh chúa Quellon Greyjoy có chín con trai, nhưng chỉ bốn người sống được đến lúc trưởng thành. Đời là vậy, đàn ông ra khơi đánh cá, đào đất và rồi chết , đàn bà hạ sinh những đứa trẻ đoản mệnh những chiếc giường đầy máu me và đau đớn. Aeron là đứa con nhất và cũng kém cỏi nhất trong bốn “con thủy quái” còn sống đó. Balon - cả và cũng là người dũng mãnh nhất - là cậu bé can đảm và táo tợn; khôi phục vinh quang cổ xưa của Quần đảo Iron dường như là mục đích sống duy nhất của trai ông. Lên 10, cậu trèo lên được tháp canh bị ma ám của Lãnh chúa Mù nằm cheo leo Vách Đá Lửa. 13 tuổi, cậu điều khiển được mái chèo của chiếc tàu lớn và chơi trò ném rìu xuất sắc như người đàn ông trưởng thành. 15 tuổi, cậu cùng thuyền trưởng Dagmer Hàm Ếch dong buồm tới tận Stepstones và cướp bóc ở đó suốt mùa hè. Ở đó, lần đầu tiên cậu giết người, và cũng ở đó, cậu có được hai người vợ đầu tiên. Ở tuổi 17, Balon được chỉ huy con thuyền của chính mình. ấy là hình mẫu hoàn hảo của người cả, mặc dù ấy đối với Aeron chỉ có khinh miệt. Nhưng ta yếu đuối và đầy tội lỗi, nên khinh miệt là quá xứng đáng. Thà được Balon Dũng Cảm khinh thường còn hơn được Euron Mắt Quạ mến. Tuổi tác và phiền muộn quả có làm cho tính khí Balon chua cay hơn, nhưng cũng làm ấy quyết đoán hơn bất kỳ người đàn ông nào. ấy sinh ra là con trai lãnh chúa và qua đời với tư cách là vị vua, chết do đố kỵ của thần linh. Giờ đây, cơn bão ấy đến, cơn bão mà quần đảo này chưa bao giờ phải đương đầu.
      Khi Aeron nhìn thấy bức tường thành bằng sắt sắc nhọn đầy lỗ châu mai của Hammerhorn nhô lên lởm chởm dưới vầng trăng lưỡi liềm là đêm muộn. Thành lũy của Gorold trông nặng nề và đồ sộ, được dựng bằng những tảng đá khổng lồ xẻ ra từ vách đá sau lưng. Dưới tường thành, cửa hang và lối vào những hầm mỏ cổ xưa ngoác ra như những cái miệng răng đen ngòm. Vì là đêm nên cổng thành bằng sắt của Hammerhorn đóng chặt. Aeron đập cổng bằng hòn đá cho đến khi tiếng kêu vang rền của nó đánh thức tên lính gác. Chàng trai trẻ đưa ông vào là bản sao của Gormond, người đưa ngựa cho ông. “Cậu là thứ mấy?” Aeron hỏi.
      “Tôi là Gran. Cha tôi đợi ngài trong kia.”
      Sảnh lớn của lâu đài lạnh lẽo, ẩm ướt và tối tăm. trong các con của Gorold đưa cho vị thầy tu cốc sừng đựng đầy bia, người khác cời ngọn lửa ỉ tỏa nhiều khói hơn là hơi ấm leo lét cháy trong lò. Lãnh chúa Gorold Goodbrother trò chuyện khe khẽ với người đàn ông mảnh khảnh mặc áo choàng xám sang trọng. Quanh cổ người đàn ông đó là chuỗi xích làm bằng nhiều thứ kim loại khác nhau, cho thấy ông ta là học sĩ của Citadel.
      “Gormond đâu?” Gorold hỏi khi trông thấy Aeron.
      “Cậu ấy bộ về. Lãnh chúa hãy cho đám phụ nữ lui ra. Cả vị học sĩ này nữa.” Ông chẳng thích gì các học sĩ. Bầy quạ của họ là sứ giả của Thần Bão Tố, ông tin tưởng cách chữa bệnh của họ, kể từ cái chết của Urri. người đàn ông chân chính nào chọn cuộc sống của kẻ tôi đòi với chuỗi xích biểu quy phục đeo quanh cổ.
      “Gysella, Gwin, ra,” Lãnh chúa Goodbrother cộc lốc. “Con cũng thế, Grand Maester Murenmure ở lại.”
      “Ông ấy cũng phải ra.” Aeron khăng khăng cầu.
      “Đây là nhà tôi, Damphair. Đây phải nơi cho ông ra lệnh ai ai ở. Ngài học sĩ ở lại.”
      Người đàn ông này sống quá xa biển cả, Aeron tự nhủ. “Vậy tôi ,” ông với Lãnh chúa Goodbrother. Cói khô loạt xoạt dưới gót chân trần nứt nẻ của Aeron khi ông quay người và kiêu hãnh ra. Có vẻ ông quãng đường dài tới đây vô ích.
      Aeron ra gần đến cửa vị học sĩ hắng giọng và , “Euron Mắt Quạ định ngồi lên Ngai Đá Biển.”
      Damphair quay lại. Cả đại sảnh đột nhiên trở nên lạnh lẽo hơn. Mắt Quạ cách xa cả nửa vòng thế giới cơ mà. Hai năm trước đây, Balon đuổi và thề rằng nếu quay về, ấy lấy mạng . “ ,” giọng ông khàn khàn.
      “Ông ta dong buồm cập bến Lordsport ngay sau hôm đức vua băng hà rồi tuyên bố lâu đài và vương miện phải thuộc về ông ta, vì ông là em trai lớn nhất của đức vua,” Lãnh chúa Gorold Goodbrother trả lời. “ giờ ông ta cho quạ truyền tin đến các thuyền trưởng và tiểu vương mọi hòn đảo, triệu tập họ đến Pyke để quỳ gối thần phục và tôn ông ta làm vua.”
      được,” Aeron cân nhắc. “Chỉ những người sùng đạo mới có thể ngồi lên Ngai Đá Biển, mà Mắt Quạ chẳng sùng bái cái gì ngoài niềm kiêu hãnh của bản thân.”
      “Ngài vừa gặp nhà vua ở Pyke cách đây lâu,” Lãnh chúa Goodbrother hỏi. “Nhà vua có với ngài điều gì về việc chọn người kế vị ?”
      Đúng. Đúng là họ đàm luận điều đó Tháp Biển trong khi gió gào thét ngoài cửa sổ và sóng ngừng ầm ầm đập vào vách đá bên dưới. trai ông lắc đầu tuyệt vọng khi nghe những gì ông về đứa con trai duy nhất còn sống của mình. “Lũ sói đó làm nó yếu đuối , đúng như những gì ta lo sợ. Ta cầu xin thần linh run rủi cho bọn chúng giết nó , để nó thể ngáng đường Asha.” ấy nhìn thấy hình ảnh của chính mình trong con hoang dã và bướng bỉnh, và mù quáng tin rằng con bé có thể kế vị mình. ấy sai rồi, Aeron cố gắng cho trai mình biết điều đó. “Chưa bao giờ phụ nữ trị vì quần đảo này, kể cả người phụ nữ như Asha chăng nữa.” Nhưng Balon trở nên điếc đặc trước những điều ông muốn nghe.
      Trước khi vị thầy tu kịp trả lời Lãnh chúa Goodbrother, ngài học sĩ tiếp tục lên tiếng. “Đúng ra Ngai Đá Biển phải thuộc về hoàng tử Theon, và nếu hoàng tử chết thuộc về công chúa Asha. Đó là luật rồi.”
      “Luật của đất liền thôi,” Aeron cách khinh miệt. “Luật của chúng ta là gì? Chúng ta là “người sắt”, là con trai của biển cả, do Thần Chết Chìm lựa chọn. phụ nữ nào cai trị được chúng ta, kể cả đàn ông vô thần cũng vậy.”
      “Thế còn Victorion?” Gorold Goodbrother hỏi. “Ông ấy chỉ huy Hạm đội Sắt. Liệu ông ấy có đòi ngai báu hay , ngài Damphair?”
      “Nhưng Euron lớn hơn...” Vị học sĩ lại bắt đầu.
      Nhưng cái liếc nhìn của Aeron khiến ông ta im bặt. Dù ở những làng chài hay trong các tòa tháp bằng đá vĩ đại của lâu đài, cái nhìn như vậy của Damphair có thể làm cho những trẻ ngất xỉu và lũ trẻ con khóc thét, nó thừa đủ để trấn áp gã nô bộc đeo xích. “Euron lớn hơn,” Aeron đáp, “nhưng Victorion ngoan đạo hơn.”
      “Liệu có xảy ra chiến tranh giữa họ ?” Học sĩ hỏi.
      “Người sắt được làm người sắt đổ máu.”
      “Quan điểm đúng đắn đấy ông Damphair,” Lãnh chúa Goodbrother xen vào. “Nhưng trai ông cùng suy nghĩ với ông đâu. Ông ta dìm chết Sawane Botley chỉ vì dám Ngai Đá Biển đúng ra phải thuộc về Theon.”
      “Nếu ông ta cũng bị dìm chết có đổ máu.” Aeron trả lời.
      Ngài học sĩ và vị lãnh chúa liếc nhìn nhau. “Tôi phải chuyển thông điệp đến Pyke càng sớm càng tốt,” Lãnh chúa Gorold . “Damphair, tôi muốn biết ý kiến của ông, ông thần phục hay thần phục?”
      Aeron vuốt chòm râu và suy ngẫm. Giờ ta thấy cơn bão rồi, tên nó là Euron Mắt Quạ. “ giờ, chúng ta nên im lặng,” ông với vị lãnh chúa. “Tôi phải cầu nguyện về việc này .”
      “Hãy cứ cầu nguyện tất cả những gì ông muốn,” vị học sĩ phản ứng. “Nhưng nó cũng chẳng thể thay đổi được luật lệ, Theon là người thừa kế hợp pháp, sau đó là Asha.”
      “Câm mồm!” Aeron gầm lên. “Người sắt phải nghe các học sĩ đeo xích huyên thuyên quá nhiều về đất liền và luật lệ của đất liền rồi. đến lúc phải quay về với biển. đến lúc chúng ta phải lắng nghe lời của thần linh.” Giọng ông vang lên sang sảng trong đại sảnh đầy khói, nghe uy lực đến nỗi khiến cả Lãnh chúa Goodbrother và vị học sĩ đều im thin thít. Thần Chết Chìm phù hộ cho ta, Aeron nghĩ. Người chỉ cho ta con đường phải .
      Lãnh chúa Goodbrother có nhã ý mời Aeron nghỉ lại đêm trong lâu đài tiện nghi nhưng vị thầy tu khước từ. Ông hiếm khi ngủ trong lâu đài và bao giờ ngủ xa biển đến vậy. “Ta hưởng những tiện nghi trong lâu đài nước nằm sâu dưới những con sóng của Thần Chết Chìm. Chúng ta sinh ra là để chịu đựng. Nỗi khổ khiến chúng ta mạnh mẽ hơn. Tất cả những gì ta cần bây giờ là con ngựa khỏe để đưa ta trở về Pebbleton.”
      Vị lãnh chúa sẵn lòng cấp ngựa ngay. Ông còn cử cậu con trai thứ ba, Greydon, theo để chỉ cho tu sĩ con đường ngắn nhất xuyên qua vùng đồi núi gập ghềnh và xuôi về phía biển. Khi họ ra vẫn còn khoảng giờ nữa mới tới bình minh, nhưng ngựa của họ là loại ngựa dày dạn và khỏe mạnh, nhờ đó chuyến trở nên dễ dàng dù trời còn tối. Aeron nhắm mắt lại và thầm cầu nguyện, sau đó bắt đầu ngủ lơ mơ yên ngựa.
      thanh đó xuất rất nhàng, đó là tiếng rít của cái bản lề han gỉ. “ Urri,” Aeron lẩm bẩm rồi hốt hoảng choàng tỉnh. Chẳng có bản lề hay cánh cửa nào hết, và cũng chẳng có Urri. Khi ấy mới 14 tuổi, lúc cha và các trai xa nhà chinh chiến, trong khi chơi trò ném rìu, chiếc rìu bay đến xén ngọt nửa bàn tay của Urri. Phu nhân thứ ba của Lãnh chúa Quellon từng mang họ Piper và đến từ lâu đài Pinkmaiden; có bộ ngực lớn mềm mại và đôi mắt nai dịu dàng. Thay vì chữa trị cho Urri theo cách cổ xưa với lửa và nước biển, ta lại trao ấy cho học sĩ của đất liền, kẻ thề rằng có thể khâu những ngón tay lại cho Urri. Ông ta làm như thế, sau đó sử dụng các loại thuốc nước, thuốc đắp và thảo dược, nhưng bàn tay bị hoại tử và Urri lên cơn sốt. Khi lão học sĩ cưa bỏ tay tất cả quá muộn.
      Lãnh chúa Quellon bao giờ trở về từ chuyến đó; Thần Chết Chìm ban cho ông cái chết ngoài biển khơi. Chỉ có Lãnh chúa Balon trở về cùng với hai em trai Euron và Victarion. Khi biết chuyện của Urri, Balon cho chặt ba ngón tay của vị học sĩ bằng dao phay nhà bếp và cầu bà mẹ kế của mình khâu chúng lại. Thuốc nước và thuốc đắp cũng có tác dụng với lão học sĩ hệt như với Urri. Ông ta chết trong cơn cuồng dại, và vợ ba của Lãnh chúa Quellon bao lâu sau cũng theo ông ta trong cơn trở dạ khi bà đỡ lôi trong bụng ta ra chết non. Aeron cảm thấy vui mừng. Chính lưỡi rìu của ông chặt nửa bàn tay Urri khi họ chơi trò ném rìu như những người bạn và các em vẫn thường chơi.
      Cho đến giờ, Aeron vẫn cảm thấy hổ thẹn khi hồi tưởng lại quãng thời gian sau cái chết của Urri. Ở tuổi 16, ông tự cho mình là người đàn ông, nhưng thực ra, ông chỉ là cái túi đựng rượu có chân, hơn kém. Ông ca hát, nhảy múa (nhưng bao giờ còn chơi trò ném rìu nữa), cười đùa, tán dóc hoặc chế giễu người khác. Ông thổi sáo, tung hứng, cưỡi ngựa và có thể uống rượu nhiều hơn toàn bộ Nhà Wynch, Nhà Botley và phân nửa Nhà Harlaw cộng lại. Người đàn ông nào cũng được Thần Chết Chìm ban tặng món quà, thậm chí cả ông cũng vậy; ai có thể tiểu tiện lâu hơn và xa hơn Aeron Greyjoy, điều này được chứng minh sau mỗi lần chè chén. lần, Aeron đem chiếc thuyền dài mới toanh của mình ra cược để đổi lấy đàn dê nếu ông có thể dập tắt ngọn lửa trong lò sưởi chỉ bằng cách tiểu vào đó. Kết quả là Aeron chén thịt dê cả năm và đặt tên cho con thuyền mới là Cơn Bão Vàng, mặc dù Balon đe dọa treo ông lên cột buồm khi biết được kiểu mũi nhọn mà ông em trai định trang bị cho mũi thuyền.
      Cuối cùng, Cơn Bão Vàng bị chìm ngoài khơi đảo Fair trong cuộc nổi loạn lần thứ nhất của Balon. Nó bị chiếc tàu chiến khổng lồ mang tên Thịnh Nộ xẻ làm đôi khi Stannis Baratheon giăng bẫy bắt được Victarion và phá tan tành Hạm đội Sắt. Nhưng thần linh vẫn còn chưa chấp nhận Aeron, ông được ném lên bờ. Những người dân chài bắt ông, xích lại và giải đến Lannisport. Ông trải qua thời gian còn lại của cuộc chiến trong pháo đài Casterly Rock và chứng minh rằng thủy quái kraken có thể tiểu tiện dài hơn, xa hơn cả sư tử, lợn rừng và cả gà nữa.
      Giờ đây, người đàn ông đó chết. Aeron chết chìm và tái sinh từ biển, trở thành người truyền giáo của thần linh. kẻ tử thù nào có thể làm ông sợ, kể cả bóng tối và ký ức - cốt lõi của linh hồn. Tiếng mở cánh cửa, tiếng rít của bản lề sắt han gỉ. Euron quay về. hề gì. Giờ ông là tu sĩ Damphair, người được thần linh quý.
      “Liệu có xảy ra chiến tranh ?” Greydon Goodbrother hỏi khi mặt trời chiếu sáng vùng đồi núi trước mắt. “ cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn ấy?”
      “Nếu thần linh muốn vậy. kẻ vô thần nào có thể ngồi lên Ngai Đá Biển.” Hiển nhiên là Mắt Quạ chống trả. phụ nữ nào có thể đánh bại ấy, cho dù đó là Asha chăng nữa; phụ nữ được sinh ra là để chiến đấu giường sinh nở. Và Theon, nếu còn sống, cũng chẳng có tia hy vọng, nó chỉ là thằng bé hờn dỗi và hay cười. Ở Winterfell, tình mà , nó chứng minh được giá trị của mình, nhưng Mắt Quạ đâu phải là kẻ què quặt. Boong tàu của được sơn màu đỏ để giấu màu máu sũng đó. À, còn Victarion. Vua của Quần đảo Iron phải là Victarion, nếu cơn bão giết tất cả chúng ta.
      ***
      Khi mặt trời lên, Graydon tạ từ vị thầy tu, cậu còn phải mang tin đức vua băng hà tới những người em ở Downdelving, pháo đài Crow Spike và hồ Corpse. Aeron tiếp tục mình, lên đồi xuống dốc theo con đường mòn toàn đá trở nên rộng dần và nhiều người hơn khi ra gần biển. Tới mỗi làng hay mỗi lâu đài của những lãnh chúa , Aeron đều dừng lại để thuyết giáo. “Tất cả chúng ta đều sinh ra từ biển, và lại quay về với biển,” giọng ông trầm trầm như biển và vang to như sóng. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã ngài, giờ đây ngài yến tiệc trong lâu đài nước nằm dưới những con sóng của Thần Chết Chìm.” Ông giơ cao hai tay. “Balon chết! Đức vua của chúng ta chết! Rồi đức vua mới xuất ! Vì những gì chết có thể bao giờ tàn lụi, mà tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn! vị vua mới xuất !”
      số người sau khi nghe Aeron liền quẳng cày cuốc theo ông, vì thế đến khi nghe thấy tiếng sóng biển rì rào sau lưng ông có khoảng hơn chục người theo đuôi ngựa, được thần linh cảm hóa và khao khát được nhấn nước.
      Pebbleton là ngôi nhà của vài ngàn ngư dân, những túp lều lụp xụp của họ đứng lộn xộn quanh chân tòa lâu đài vuông, cao và kiên cố, mỗi góc có tháp canh . Khoảng bốn mươi người đàn ông thuộc giáo phái chết chìm đợi Aeron ở đây. Họ dựng lều bằng da hải cẩu hoặc lán bằng gỗ trôi để trú tạm bãi biển cát xám. Những bàn tay thô ráp vì nước biển, sứt sẹo vì kéo lưới và chão, chai sần vì mái chèo, cuốc và rìu, nhưng giờ đây những bàn tay ấy cứng như thép ghì chặt những súc gỗ họ vớt được dưới biển, thần linh ban chúng cho họ từ kho vũ khí của Người dưới biển khơi.
      Họ dựng cái lán ngay phía đường thủy triều cho vị thầy tu. Aeron vui mừng bò vào trong lán sau khi nhấn nước những tín đồ mới nhất. Cầu xin Người, ông cầu nguyện, hãy chuyện với con bằng tiếng sóng biển, và cho con biết con phải làm gì bây giờ. Các thuyền trưởng và tiểu vương chờ đợi lời của Người. Ai thay Balon làm vua? Thông qua tiếng hát của thủy quái, hãy cho con biết tên của người xứng đáng? Hỡi Chúa tể của biển khơi, hãy cho con biết ai là người có đủ sức mạnh để chống lại cơn bão ở Pyke?
      Mặc dù chuyến đến Hammerhorn làm Aeron mệt lử, ông vẫn nghỉ ngơi trong căn lều làm bằng gỗ trôi, mái lợp rong đen vớt lên từ biển. Mây đen kéo đến che kín trăng sao, mặt biển tối đen như bóng tối trong tâm hồn ông. Balon sủng ái Asha, đứa con ruột của ấy, nhưng phụ nữ thể trị vì. Phải là Victarion. Trong chín đứa con trai của Quellon Greyjoy, Victarion là người khỏe mạnh nhất. ấy là con bò đực trong đám đàn ông, người can đảm và tận tụy. Nhưng ở đây có nguy cơ. Em trai có nghĩa vụ phục tùng các , mà Victarion lại phải kiểu người ngược với truyền thống. Tuy vậy, ấy quý Euron. Đặc biệt kể từ khi người phụ nữ ấy qua đời.
      Bên ngoài, ngoài tiếng ngáy của đám tín đồ và tiếng khóc than của gió, ông còn nghe thấy tiếng đập ầm ầm của sóng, đó là tiếng búa của thần linh thúc giục ông vào trận chiến. Aeron bò ra khỏi lán và bước vào đêm đen lạnh giá. Ông đứng đó trần truồng, tái nhợt, cao và gầy hốc hác; rồi cứ thế ông xuống biển đêm đen kịt. Nước lạnh buốt như băng, nhưng ông nao núng trước những cái ôm giá lạnh của thần linh. con sóng đập mạnh vào ngực làm ông lảo đảo. Con sóng thứ hai trùm qua đầu. Ông có thể nếm được vị muối môi và cảm thấy Thần Chết Chìm ở quanh ông, tai ông vang bài hát của Người. Trong chín đứa con của Quellon Greyjoy, ta là đứa kém cỏi nhất, yếu đuối và sợ hãi như đàn bà. Nhưng điều đó còn đúng nữa. Gã đàn ông đó chết, và thần linh tiếp thêm cho ta sức mạnh. Nước biển lạnh và mặn bao quanh ông, ôm lấy ông, xuyên qua da thịt yếu đuối và thấu tới tận xương. Đúng rồi, xương, ông nghĩ. Xương của linh hồn. Xương của Balon và của Urri nữa. Chân lý nằm trong xương cốt chúng ta. Da thịt thối rữa, chỉ có xương là còn lại. Và đỉnh đồi Nagga là những dẻ xương làm nên lâu đài của Vua Xám...
      Aeron quay vào bờ, gầy gò, tái nhợt và run lẩy bẩy. Khi bước vào lòng biển, người ta trở nên thông thái hơn. Aeron tìm ra câu trả lời từ trong xương tủy chính mình và con đường phía trước bỗng trở nên bằng phẳng. Đêm nay lạnh đến mức thân thể ông dường như tỏa hơi khi ông quay về lán, nhưng trong tim ông, ngọn lửa cháy. Ông bước vào giấc ngủ cách dễ dàng, còn bị ngắt quãng bởi tiếng cót két của chiếc bản lề sắt.
      Khi ông tỉnh dậy trời sáng. Đó là ngày sáng sủa và đầy gió. Aeron ăn sáng bằng món canh trai nấu với rong biển bằng củi rều. Khi ông vừa xong bữa sáng cũng là lúc Merlyn cùng với sáu vệ sĩ rời dinh thự của mình xuống tận nơi tìm Aeron. “Đức vua băng hà,” Aeron với ông ta.
      “Ừ, tôi nhận được tin báo từ con quạ, hôm nay lại thêm con nữa.” Merlyn là gã hói béo tốt. Ông ta ăn mặc đúng theo kiểu “lãnh chúa” của đất liền với toàn lông và nhung. “ con quạ triệu tập tôi đến Pyke, con kia đòi đến lâu đài Mười Ngọn Tháp. Những con thủy quái của các ông có quá nhiều tua, các ông định bắt tôi phân thân chắc. Ông , thầy tu. Tôi phải đưa đoàn thuyền của mình đến đâu đây?”
      Aeron quắc mắt. “Ông Mười Ngọn Tháp à? Con thủy quái nào gọi ông đến đấy?” Mười Ngọn Tháp là lãnh địa của Nhà Harlaw.
      “Công chúa Asha. ấy tập hợp thuyền để trở về nhà. Mọt Sách gửi quạ để triệu tập tất cả bằng hữu của công chúa tới Harlaw. Ông ấy Balon muốn Asha kế thừa Ngai Đá Biển.”
      “Thần Chết Chìm quyết định ai là người có được Ngai Đá Biển,” vị thầy tu trả lời. “Hãy quỳ xuống, ta ban phước cho ông.” Lãnh chúa Merlyn quỳ gối xuống, và Aeron mở nút chiếc bầu da, rót dòng nước biển xuống cái đầu nhẵn bóng của ông ta. “Thần linh thiêng liêng, Người nhấn nước chúng con, xin Người hãy để Meldred, kẻ tôi tớ của Người, được tái sinh từ biển. Xin hãy ban cho ông ấy nhiều muối, đá và thép.” Nước chảy dọc theo hai má ngấn mỡ của Merlyn, thấm đẫm bộ râu và chiếc áo khoác bằng lông cáo của ông ta. “Những gì chết bao giờ lụi tàn,” Aeron kết thúc lời cầu nguyện, “mà tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn.” Nhưng khi Merlyn đứng lên, Aeron với ông ta, “Hãy ở lại và nghe cho kỹ này, có lẽ ông phải truyền lời của thần linh.”
      Sóng vỗ quanh tảng đá hoa cương tròn cách mép nước vài bước chân. Đó là nơi Aeron đứng, để người của ông có thể nhìn thấy ông, nghe được những lời ông phải .
      “Chúng ta sinh ra từ biển, và rồi lại quay về với biển,” ông bắt đầu như hàng trăm lần trước đây. “Trong cơn đố kỵ, Thần Bão Tố giật đức vua ra khỏi lâu đài và quật ngã Người, giờ đây Người yến tiệc dưới những con sóng.” Ông giơ cao hai tay. “Vua Sắt chết! Rồi đức vua mới xuất ! Vì những gì chết có thể bao giờ tàn lụi, mà tái sinh, cứng rắn và mạnh mẽ hơn!”
      đức vua mới xuất !” Các thầy tu dòng chết chìm hô to.
      đức vua mới. Phải có đức vua mới. Nhưng đó là ai?” Damphair lắng nghe trong chốc lát, nhưng chỉ có sóng biển trả lời. “Ai là đức vua của chúng ta?”
      Đám thầy tu bắt đầu đập các khúc gỗ dạt vào nhau. “Damphair!” họ hô to. “Vua Damphair! Vua Aeron! Để Damphair làm vua!”
      Aeron lắc đầu. “Nếu người cha có hai con trai, ông cho người cái rìu còn người kia cái lưới ông ấy định chọn ai làm chiến binh?”
      “Người có rìu,” Rus la lên trả lời, “cái lưới là dành cho người đánh cá.”
      “Đó,” Aeron cất lời. “Thần linh dìm ta dưới những con sóng và nhấn chìm tất cả những gì vô giá trị trong con người của ta. Khi Người ném trả ta lên bờ, Người cho ta đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, và giọng để truyền lời của Người, vì thế, ta là người truyền giáo của Người, rao giảng chân lý của Người cho những ai lãng quên nó. Ta phải được sinh ra để lên ngai báu... ta cũng chẳng hơn gì Euron Mắt Quạ. Vì ta nghe được lời của thần linh, kẻ vô thần nào có thể ngồi lên Ngai Đá Biển của ta!”
      Merlyn khoanh tay trước ngực. “Thế đó là Asha? Hay Victarion? Ngài hãy cho chúng tôi biết !”
      “Thần Chết Chìm cho mọi người biết, nhưng phải bây giờ”. Aeron chỉ vào khuôn mặt béo trắng của Merlyn. “Đừng trông chờ vào ta, hay vào luật của con người, mà hãy trông chờ ở biển cả. Hãy căng buồm lên, hạ mái chèo xuống và dong thuyền đến Old Wyk. Ngài và tất cả các thuyền trưởng cũng như các tiểu vương. Đừng đến Pyke để quỳ gối trước kẻ vô thần, cũng đừng đến Harlaw để kết giao với con bé lắm mưu mô ấy. Hãy để mũi thuyền trực chỉ Old Wyk, nơi có cung điện của Vua Xám. Nhân danh Thần Chết Chìm, ta triệu tập các người. Ta triệu tập tất cả các người! Hãy rời đại sảnh hay lều trại, rời lâu đài hay vọng lâu của mình và quay về đồi Nagga để tổ chức Lễ bầu vua!”
      Merlyn há hốc miệng nhìn Aeron. “Lễ bầu vua à? Lễ bầu vua thực diễn ra từ...”
      “Từ quá lâu rồi!” Aeron đau khổ kêu lên. “Từ buổi bình minh của lịch sử, người sắt lựa chọn vua bằng cách chọn ra người xuất sắc nhất trong số họ. Giờ là lúc chúng ta quay lại với Phong Tục Cũ, vì đó là cách duy nhất để chúng ta lại trở nên vĩ đại. Chính Lễ bầu vua chọn Urras Chân Sắt làm Vua và đặt chiếc mũ miện bằng gỗ dạt lên đầu ông ta. Sylas Flatnose, Harrag Hoare, Thủy quái già, đều do Lễ bầu vua chọn ra cả. Lễ bầu vua chọn được người để kết thúc công việc mà Vua Balon bắt đầu và giành lại tự do cho chúng ta. Ta nhắc lại, đừng đến Pyke, cũng đừng đến Mười Ngọn Tháp của Nhà Harlaw, mà hãy đến Old Wyk. Hãy tìm đồi Nagga và lâu đài xương của Vua Xám, vì tại nơi thiêng liêng đó, nơi mặt trăng mọc và lặn, chúng ta tìm được vị vua ngoan đạo và đáng kính.” Ông giơ đôi tay xương xẩu lên lần nữa. “Nghe ! Xin hãy lắng nghe tiếng sóng! Lắng nghe thần linh mách bảo! Người với chúng ta rằng chúng ta vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!”
      Sau đó đám đông rộ lên như sấm động, các thầy tu lại đập những khúc gỗ vào nhau. “Lễ bầu vua!” Họ la hét. “Lễ bầu vua, lễ bầu vua. có vị vua nào khác ngoài vị vua được bầu chọn!” Tiếng hét của họ vang to đến nỗi chắc chắn Mắt Quạ ở Pyke và Thần Bão Tố đê tiện trong lâu đài mây của cũng nghe được. Aeron biết mình làm rất tốt.


      ĐỘI TRƯỞNG CẤM VỆ QUÂN
      Những quả cam mọng nước này chín lắm rồi,” hoàng tử nhận xét bằng giọng mệt mỏi khi viên đội trưởng cấm vệ quân đẩy xe lăn đưa ông lên thềm.
      Sau đó ông gì thêm suốt hàng tiếng đồng hồ.
      Đúng vậy . vài quả cam rụng xuống thềm và vỡ nát nền đá cẩm thạch màu hồng nhạt. Mùi hương ngọt gắt của chúng tràn ngập mỗi lần Hotah hít thở. Chắc chắn hoàng tử cũng ngửi thấy mùi hương đó khi ngồi dưới những gốc cây chiếc xe lăn mà Maester Caleotte chế tạo cho ông. Chiếc xe được lót nệm lông ngỗng, còn bánh xe được làm bằng gỗ mun và sắt.
      Suốt lúc lâu, thanh duy nhất phát ra chỉ là tiếng lũ trẻ nghịch nước ở hồ bơi và đài phun nước. quả cam nữa lại rụng bụp xuống thềm và vỡ tung. Thế rồi, viên đội trưởng nghe thấy từ phía xa của lâu đài mơ hồ vọng lại tiếng giày nện nền cẩm thạch.
      Là Obara. Hotah thuộc tiếng chân của ta; sải bước dài, vội vàng và giận dữ. Con ngựa của ta được buộc ở chuồng ngựa trước cổng, mồ hôi nhễ nhại và chảy máu vì chiếc đinh thúc ngựa của ta. Obara luôn cưỡi ngựa đực giống và khoe rằng có thể điều khiển bất kỳ con ngựa nào ở Dorne... cũng như bất kỳ người đàn ông nào. Viên đội trưởng còn nghe thấy tiếng bước chân khác, tiếng dép loẹt quẹt nhanh và của Maester Caleotte vội vã đuổi theo sau.
      Obara Sand luôn rất nhanh, như thể đuổi theo cái gì đó bao giờ với tới được, ông từng nghe hoàng tử với con mình như vậy.
      Khi Obara xuất dưới ô cửa ba vòm, Areo Hotah vung chiếc rìu dài ngăn cho bước vào. Cán rìu làm bằng gỗ tần bì núi, dài gần 2 mét nên thể vòng qua. “Thưa tiểu thư, xin dừng lại.” Giọng ông trầm trầm mang đậm ngữ điệu Norvos. “Hoàng tử muốn bị quấy rầy.”
      Trước khi ông , khuôn mặt nặng như đeo đá, giờ nó còn nặng hơn. “Ông chắn đường tôi đấy, Hotah.” Obara, người lớn tuổi nhất trong số các chị em Rắn Cát, là phụ nữ gần 30 tuổi, khổ người vạm vỡ. thừa hưởng từ mẹ - bán hoa ở Oldtown - đôi mắt sát nhau và mái tóc màu nâu nhạt. Bên dưới chiếc áo choàng bằng lụa cát vằn xám và vàng là bộ quần áo cưỡi ngựa bằng da nâu cũ mòn và mềm nhẽo. Chúng là những thứ mềm mại nhất người ta. bên hông đeo chiếc roi da cuộn tròn, vắt chéo sau lưng là tấm khiên tròn bằng thép và đồng. Ngọn giáo được bỏ lại bên ngoài. Hotah phải cảm ơn vì điều đó. nhanh nhẹn và mạnh mẽ như thường lệ, và ông biết phải là đối thủ của mình… nhưng biết điều đó, và ông cũng muốn nhìn thấy máu đổ nền đá này.
      Maester Caleotte bồn chồn. “Tiểu thư Obara, tôi cố với rồi...”
      “Ông ấy có biết cha tôi chết ?” Obara hỏi viên đội trưởng và lờ tịt vị học sĩ như thể ông là con ruồi, ấy là giả sử có con ruồi dám ngu ngốc lảng vảng gần .
      “Hoàng tử biết rồi,” viên đội trưởng trả lời. “Chim đưa tin đến.”
      Tin tức về cái chết bay về Dorne những đôi cánh quạ, đó là tờ giấy được niêm phong bằng sáp cứng màu đỏ. Maester Caleotte chắc hẳn đoán được nội dung của nó vì ông ta trao nó cho Hotah để trình hoàng tử. Ngài cảm ơn ông, nhưng mãi chịu mở niêm phong. Suốt buổi chiều ông ngồi với tờ giấy da đùi, ngắm nhìn lũ trẻ nô đùa cho đến khi mặt trời lặn và khí ban đêm trở lạnh khiến lũ trẻ phải vào nhà. Sau đó, ông lại tiếp tục ngắm ánh sao lung linh mặt nước. Đến khi mặt trăng lên, hoàng tử mới lệnh cho Hotah mang nến đến để ông có thể đọc bức thư trong bóng đêm dưới những gốc cam.
      Obara chạm tay vào chiếc roi. “Hàng ngàn người bộ qua các cồn cát, lên đèo Boneway để giúp Ellaria mang cha ta trở về. Các điện thờ chật cứng người, các thầy tu đỏ thắp lửa trong đền của họ. Trong các nhà thổ, bán hoa sẵn sàng ngủ với bất kỳ người đàn ông nào mà lấy tiền. Ở Sunspear, mũi Broken Arm hay dọc sông Greenblood, núi, ngoài biển, khắp mọi nơi, đâu đâu cũng thấy phụ nữ bứt tóc và đàn ông gầm lên giận dữ. Mọi người đều có chung câu hỏi - Hoàng tử Doran làm gì? Ông ta làm gì để trả thù cho cái chết của em trai?” tiến sát tới viên đội trưởng. “Vậy mà ông , hoàng tử muốn bị quấy rầy hay sao!”
      “Hoàng tử muốn bị quấy rầy,” Areo Hotah nhắc lại.
      Ông hiểu rất vị hoàng tử mà mình phục vụ. Cách đây rất lâu từng có chàng thanh niên non nớt từ Norvos đến đây, chàng trai cao lớn với đôi vai rộng và mái tóc đen bù xù. Mái tóc ấy giờ bạc trắng, thân hình cường tráng ngày xưa giờ chằng chịt sẹo, dấu tích của nhiều trận chiến... nhưng sức mạnh vẫn còn, và lưỡi rìu của ông ta vẫn sắc bén như các thầy tu dạy ngày nào. ta qua được, ông tự nhủ, và trả lời, “Hoàng tử xem bọn trẻ chơi đùa. Ngài bao giờ muốn bị quấy rầy khi xem bọn trẻ chơi đùa.”
      “Hotah,” Obara Sand rít lên, “tránh đường ra cho ta, bằng ta lấy cái rìu này và...”
      “Đội trưởng,” có tiếng từ phía sau, “cho con bé vào. Ta chuyện với nó.” Giọng hoàng tử khàn khàn.
      Areo Hotah lập tức dựng đứng rìu lên và tránh sang bên. Obara tặng cho ông cái nguýt dài và sải bước qua, vị học sĩ vội vã theo sát gót. Maester Caleotte cao quá mét rưỡi và cái đầu hói bóng như quả trứng. Khuôn mặt ông nhẵn nhụi và béo phị nên khó đoán tuổi, nhưng ông phục vụ ở đây trước cả viên đội trưởng, thậm chí từ thời thân mẫu của hoàng tử Doran. Mặc dù mập mạp và có tuổi, song ông vẫn còn khá nhanh nhẹn và sáng suốt, nhưng lại có phần nhu mì. Ông ta phải là đối thủ của bất kỳ ai trong số Rắn Cát, viên đội trưởng nghĩ.
      Dưới bóng cam, hoàng tử ngồi ghế, đôi chân bị thống phong nhô ra phía trước, hai cái bọng sùm sụp dưới mắt vì mất ngủ, nhưng Hotah biết đó là do đau buồn hay do bệnh tật. Ở chỗ đài phun nước và bể bơi bên dưới, lũ trẻ vẫn nô đùa. Đứa nhất quá 5 tuổi, những đứa lớn nhất chỉ khoảng 9, 10 tuổi, nửa trong số chúng là con , nửa là con trai. Hotah có thể nghe thấy tiếng chúng vọc nước bì bõm và hò hét lanh lảnh. “Obara này, mới hồi nào cháu còn là trong những đứa trẻ nô đùa ở hồ bơi như thế kia,” hoàng tử khi quỳ chân xuống trước ghế ngài.
      ta khịt mũi. “ hai mươi năm rồi, hay chí ít cũng xấp xỉ con số đó. Cháu cũng ở đây lâu. Cháu là con của bán hoa mà, ngài quên rồi sao?” Khi hoàng tử trả lời, ta đứng lên và đặt tay lên hông. “Cha cháu bị giết.”
      “Cậu ấy ngã xuống trong cuộc phân xử bằng cách giao đấu tay đôi,” hoàng tử trả lời. “Theo luật, đó phải là giết người.”
      “Nhưng ông ấy là em ngài.”
      “Đúng vậy.”
      “Ngài định làm gì cho cái chết của cha cháu?”
      Hoàng tử chậm chạp quay ghế lại đối mặt với ta. Mặc dù tuổi mới 52 nhưng Doran Martell trông già hơn tuổi rất nhiều. Cơ thể ông mềm nhẽo, bùng nhùng trong chiếc áo choàng bằng vải lanh, còn đôi chân khó coi. Bệnh thống phong làm các khớp xương chân sưng đỏ cách kỳ quặc; đầu gối trái sưng như quả táo, đầu gối phải như quả dưa, còn các ngón chân đỏ tím như những quả nho, trông chúng chín mọng đến nỗi dường như chỉ cần chạm vào cũng đủ để chúng vỡ ra. Thậm chí sức nặng của chiếc khăn trải giường cũng có thể làm ông rùng mình, dù ông có thể chịu đựng đau đớn mà lời phàn nàn. tĩnh lặng là bạn của hoàng tử, viên đội trưởng có lần nghe ông với con như vậy. Lời cũng như mũi tên, Arianne. khi phát ra, con thể thu nó lại.
      “Ta viết thư cho Lãnh chúa Tywin...”
      “Viết thư? Chỉ cần ngài bằng được nửa cha cháu...”
      “Ta phải cha cháu.”
      “Cái đó cháu biết.” Giọng Obara đầy khinh miệt.
      “Cháu muốn ta phải phát động chiến tranh.”
      “Cháu có cách hay hơn. Thậm chí ngài cần phải rời ghế. Chỉ cần để cháu trả thù cho cha. Ngài có đạo quân ở đèo Hoàng Tử. Lãnh chúa Yronwood có đạo quân ở Boneway. Hãy cho cháu và Nym mỗi người đạo quân. Con bé theo vương lộ, còn cháu dụ các lãnh chúa ra khỏi lâu đài và cùng họ tiến quân đến Oldtown.”
      “Và cháu hy vọng có thể giữ được Oldtown bao lâu?”
      “Đủ lâu để cướp bóc. thịnh vượng của Hightower...”
      “Cháu muốn vàng sao?”
      “Cháu muốn chúng phải đổ máu.”
      “Lãnh chúa Tywin giao cho chúng ta cái đầu của Núi Yên Ngựa.”
      “Thế ai giao cho chúng ta cái đầu của Tywin? Núi Yên Ngựa chỉ là tay sai của .”
      Hoàng tử chỉ về phía hồ bơi. “Obara, xem bọn trẻ kìa, nếu điều đó làm cháu vui.”
      “Cháu chẳng thấy vui vẻ gì cả. Cháu vui hơn nếu được xiên giáo vào bụng lão Tywin. Cháu bắt lão hát bài Những cơn mưa vùng Castamere khi cháu lôi ruột ra để tìm vàng.”
      “Nhìn ,” hoàng tử nhắc lại. “Ta ra lệnh cho cháu.”
      Vài đứa trẻ lớn nằm úp sấp nền cẩm thạch hồng mượt mà để tắm nắng. Vài đứa khác nghịch nước xa xa ngoài biển. Ba đứa xây lâu đài cát với cái đỉnh nhọn lớn trông giống như Tháp Giáo của Old Palace. nhóm khoảng hơn hai mươi đứa tụ tập trong hồ bơi lớn để xem trận đấu, trong đó những đứa bé cưỡi lên vai những đứa lớn hơn qua vùng nước sâu đến thắt lưng và cố đẩy nhau xuống nước. Mỗi khi có cặp nào ngã, nước lại bắn lên tung tóe và chúng cười rộ lên. bé có làn da bánh mật giật mạnh thằng bé tóc vàng khiến nó ngã khỏi vai trai và lộn nhào xuống nước.
      “Cha cháu từng chơi trò này, trước đó ta cũng thế,” hoàng tử . “Chúng ta cách nhau 10 tuổi, vì thế, khi cha cháu đủ lớn để chơi ở những hồ bơi này ta còn chơi ở đó nữa, nhưng ta vẫn ngắm nó mỗi khi đến thăm mẫu hậu. Nó rất hung tợn ngay cả khi chỉ là đứa trẻ. Và nhanh như con rắn nước. Ta thường thấy nó kéo ngã những thằng bé khác lớn hơn nó nhiều. Cha cháu nhắc lại những kỷ niệm đó với ta trước khi lên đường đến Vương Đô. Cha cháu thề chơi lại trò đó lần nữa, nếu ta chẳng bao giờ để cậu ấy .”
      “Để cha cháu ư?” Obara cười lớn. “Ngài như thể ngài có thể giữ được ông ấy vậy. Rắn Hổ Lục xứ Dorne luôn bất cứ nơi đâu ông ấy muốn.”
      “Đúng thế. Ước gì ta có thể vài lời an ủi...”
      “Cháu đến gặp ngài phải để được an ủi.” Giọng tràn ngập khinh miệt. “Cái ngày cha cháu đến nhận cháu, mẹ cháu muốn để cháu . Bà rằng, ‘Nó chỉ là đứa con , và em nghĩ rằng nó là con ngài. Em ngủ với hàng ngàn người khác.’ Cha cháu quăng giáo xuống chân cháu rồi tát mẹ bằng mu bàn tay, và bà bắt đầu khóc. Ông , ‘Dù là hay trai, chúng ta đều phải tham gia những trận chiến, nhưng thần linh cho chúng ta chọn vũ khí của mình.’ Ông chỉ vào cây giáo rồi chỉ vào những giọt nước mắt của mẹ cháu, và cháu cầm cây giáo lên. ‘Ta nó là của ta mà,’ cha cháu trả lời như vậy rồi mang cháu . Mẹ cháu uống rượu cho đến chết chỉ trong vòng năm sau đó. Người ta rằng lúc lâm chung mẹ cháu vẫn còn khóc.” Obara dịch gần về phía hoàng tử. “Hãy cho cháu dùng giáo, cháu xin gì hơn nữa.”
      “Obara, cái cháu xin là thỏa thuận đấy. Đợi đến mai khi ta ngủ dậy nhé.”
      “Nhưng ngài ngủ quá nhiều rồi.”
      “Có lẽ cháu đúng. Ta chuyển lời cho cháu sau, khi cháu ở Sunspear.”
      “Miễn sao đó là lời đồng ý khai chiến.” Obara quay gót và sải bước giận dữ như khi mới đến; quay ra chuồng ngựa tìm con ngựa giống và lần nữa phi nước đại quay về.
      Maester Caleotte vẫn còn ở lại. “Hoàng tử có sao ?” Người đàn ông thó tròn trĩnh đó lo lắng. “Chân ngài đau à?”
      Hoàng tử yếu ớt cười. “Có bao giờ mặt trời nóng ?”
      “Thần lấy cho ngài chút thuốc nước cho dịu cơn đau nhé?”
      . Giờ ta cần minh mẫn.”
      Vị học sĩ ngập ngừng. “Thưa hoàng tử, liệu có nên cho phép tiểu thư Obara quay về Sunspear ? Chắc chắn ấy khích động đám thường dân. Họ rất mến em trai ngài.”
      “Chúng ta cũng vậy mà.” Hoàng tử ấn ấn những ngón tay lên thái dương. “. Ngươi đúng. Ta cũng phải quay về Sunspear thôi.”
      Vị học sĩ ngập ngừng. “Như thế có khôn ngoan ?”
      khôn ngoan, nhưng cần thiết. Tốt nhất hãy cử người tới gặp Ricasso, bảo ông ta mở cửa phòng của ta ở Tháp Mặt Trời. Báo cho công chúa Arianne rằng ta đến đó vào sáng mai.”
      Công chúa bé bỏng của ta. Viên đội trưởng nhớ rất nhiều.
      “Như vậy mọi người nhìn thấy ngài.” Vị học sĩ cảnh báo.
      Viên đội trưởng hiểu ý ông. Hai năm trước đây khi họ rời Sunspear để đến Thủy Viên êm đềm và tách biệt này, bệnh thống phong của hoàng tử Doran vẫn chưa tệ bằng nửa nay. Hồi đó, ngài vẫn còn bộ được, mặc dù phải chống gậy chậm chạp và đau nhói sau mỗi bước . Hoàng tử muốn kẻ thù biết được ngài trở nên yếu đuối như thế này, Old Palace và thành phố bóng tối lại đầy tai mắt của bọn chúng. Tai mắt, và còn những bậc thang mà hoàng tử thể trèo được, viên đội trưởng nghĩ. Ngài phải bay mới ngồi lên được đỉnh Tháp Mặt Trời.
      “Chắc chắn rồi. Nhưng phải có ai đó làm dịu tình hình. Người Dorne phải được nhắc nhở rằng họ vẫn có hoàng tử.” Ông nở nụ cười thiểu não. “Dù ông ta già nua và bệnh tật.”
      “Quay lại Sunspear lần này, ngài cần chuyện với công chúa Myrcella,” Caleotte nhắc. “Gã hiệp sỹ áo trắng luôn ở bên công chúa... và ngài biết , vẫn thường gửi thư về cho thái hậu của .”
      “Ta cũng nghĩ vậy.”
      Hiệp sĩ áo trắng. Viên đội trưởng cau mày. Ser Arys đến Dorne để phục vụ công chúa của , giống như Areo Hotah trước đây cũng từng như thế. Thậm chí tên của họ cũng giống nhau đến kỳ lạ: Areo và Arys. Nhưng họ chỉ giống nhau có thế. Đội trưởng Areo rời Norvos và những tu sĩ rậm râu ở đó, còn Ser Arys Oakheart vẫn phụng Ngai Sắt. Hotah luôn cảm thấy nỗi buồn khó tả mỗi khi nhìn thấy gã đàn ông đó trong chiếc áo choàng trắng mỗi lần hoàng tử cử ông về Sunspear. Ông có cảm giác ngày nào đó, hai người họ quyết đấu; và rồi Oakheart chết vì bị chiếc rìu cán dài của ông chém vỡ sọ. Ông lướt bàn tay dọc theo cán rìu trơn nhẵn bằng gỗ tần bì và tự hỏi biết cái ngày đó có đến sớm hay .
      “Sắp hết chiều rồi,” hoàng tử . “Chúng ta đợi đến mai. Chuẩn bị kiệu sẵn sàng cho ta ngay khi trời sáng.”
      “Tuân lệnh.” Maester Caleotte cúi chào. Viên đội trưởng tránh sang bên cho ông ta qua và nghe tiếng bước chân của ông dần.
      “Đội trưởng?” Giọng hoàng tử cất lên nhàng.

    4. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      Hotah tiến lên phía trước, tay nắm chặt chiếc rìu dài. Gỗ tần bì trong lòng bàn tay ông trơn nhẵn như làn da phụ nữ. Khi đến gần chiếc ghế lăn, ông gõ mạnh cán rìu xuống để báo hiệu có mặt, nhưng hoàng tử vẫn rời mắt khỏi bọn trẻ. “Đội trưởng, ngươi có em trai ?” Hoàng tử hỏi. “Khi ngươi còn trẻ, ở Norvos ấy? Cả chị em nữa?”

      “Cả hai ạ,” Hotah trả lời. “Hai trai, ba chị . Thần là con út.” Con út và là đứa con được mong đợi. Lại thêm miệng ăn nữa, thằng con trai to xác, ăn quá nhiều và lớn nhanh đến nỗi quần áo trở nên mau chật. may mắn là họ bán được nó cho các thầy tu.

      “Còn ta là con cả,” hoàng tử hồi tưởng, “và giờ này là người duy nhất còn sống. Sau khi Mors và Olyvar chết từ lúc còn nằm nôi, ta từ bỏ hy vọng có thêm em. Khi ta lên 9 Elia ra đời, lúc đó ta làm cận vệ hiệp sĩ ở Salt Shore. Khi quạ mang tin mẹ ta lâm bồn sớm tháng, ta đủ lớn để hiểu điều đó nghĩa là đứa bé thể sống được. Thậm chí khi Lãnh chúa Gargalen cho ta biết ta em , ta còn cam đoan với ông ấy rằng nó chắc chắn chết sớm. Nhưng rồi nó sống được, nhờ phúc của mẹ ta. Và năm sau, đến lượt Oberyn gào khóc và giãy giụa chào đời. Khi bọn chúng còn chơi đùa ở những hồ nước này, ta người đàn ông trưởng thành. Vậy mà bây giờ ta vẫn ngồi đây, còn họ cả rồi.”

      Areo Hotah biết phải gì. Ông chỉ là viên đội trưởng đội cấm vệ quân, và vẫn là người lạ đối với xứ sở này, với vị thần bảy mặt của họ, ngay cả sau từng ấy năm. Phục vụ. Tuân lệnh. Bảo vệ. Ông thề như vậy từ thuở 16, vào cái ngày ông gắn bó với cây rìu này. Những lời thề giản đơn của người đơn giản, các tu sĩ rậm râu thế. Ông được đào tạo để khuyên nhủ ông hoàng đau buồn.

      Khi ông vẫn còn tìm lời thích hợp để quả cam nữa lại rụng với tiếng bụp lớn, chỉ cách nơi hoàng tử ngồi bước chân. Hoàng tử cau mày trước thanh đó, như thể nó làm đau ông. “Đủ rồi,” ông thở dài, “đủ rồi. Để ta ngồi mình, Areo. Để ta ngắm lũ trẻ thêm vài giờ nữa.”

      Mặt trời lặn, trời trở lạnh, lũ trẻ cũng vào nhà để ăn tối. Hoàng tử vẫn ngồi dưới rặng cam, nhìn ra những hồ bơi phẳng lặng và biển cả xa xa ở phía sau. Người hầu mang đến cho ông bát oliu tím, bánh mì dẹt, phô mai và bột đậu hồi. Ông ăn chút ít, uống ly rượu vang ngọt và nặng, loại ông ưa thích. Ly cạn, ông lại rót đầy lần nữa. Đôi khi đến tận lúc gần sáng ông mới có thể ngủ thiếp ghế. Chỉ khi đó, viên đội trưởng mới đẩy xe, đưa ông qua hành lang ngập ánh trăng, qua dãy cột đồ sộ và cổng vòm duyên dáng để về chiếc giường lớn, phủ vải lanh mịn mát lạnh trong căn phòng ngủ cạnh biển. Hoàng tử lầm bầm khi bị di chuyển nhưng thần thánh tốt bụng để ông thức giấc.

      Phòng ngủ của Hotah nằm sát vách phòng ngủ của hoàng tử. Ông ngồi xuống chiếc giường hẹp, tìm đá mài cùng vải dầu trong hốc và chuẩn bị làm việc. Hãy luôn giữ rìu sắc, các thầy tu dặn như thế vào cái ngày họ đóng dấu nung lên ngực ông. Và ông luôn làm đúng như vậy.

      Vừa mài rìu, Hotah vừa nghĩ về Norvos, thành phố nằm đồi cao, có dòng sông chảy dưới chân đồi. Ông vẫn còn nhớ thanh ba chiếc chuông của thành phố, trầm của Noom làm cho xương cốt của ông rung lên, của Narrah mạnh mẽ tự hào, còn Nyel là tiếng cười trong trẻo ngọt ngào như thanh của bạc. Ông nhớ miếng bánh mùa đông đượm vị gừng, hạt thông và điểm những mẩu cherry, nhớ sữa dê lên men pha với mật ong đựng trong cốc sắt. Ông nhớ hình ảnh mẹ mình trong chiếc váy cổ lông sóc, chiếc váy bà chỉ mặc lần mỗi năm, khi họ xem gấu nhảy múa những Bậc Thang Tội Lỗi. Ông nhớ mùi lông cháy khét khi vị tu sĩ râu rậm ấn dấu sắt nung vào giữa ngực mình. Cảm giác đau đớn dữ dội đến mức ông tưởng trái tim mình ngừng đập, nhưng Areo Hotah hề nao núng. Lông bao giờ mọc lại nơi vết sẹo hình rìu đó.

      Chỉ đến khi hai lưỡi rìu sắc ngọt đến mức có thể cạo râu được ông mới đặt “người vợ” làm bằng sắt và gỗ tần bì đó lên giường. Vừa ngáp dài, ông vừa cởi bộ quần áo bẩn quăng xuống sàn rồi nằm duỗi dài chiếc đệm nhồi rơm. Suy nghĩ về dấu sắt nung làm ông ngứa ngáy, Hotah gãi gãi vết sẹo và nhắm mắt lại. Đáng lẽ mình nên thu nhặt hết những quả cam rụng, ông nghĩ rồi chìm vào giấc ngủ và mơ thấy vị bánh tác cam ngọt ngào và cảm giác dinh dính của nước cam ép những ngón tay.

      ***

      Bình minh đến quá sớm. Bên ngoài chuồng ngựa, chiếc kiệu nhất trong số ba chiếc kiệu ngựa kéo sẵn sàng. Nó được làm bằng gỗ tuyết tùng và phủ lụa đỏ. Trong số ba mươi tay giáo gác ở Thủy Viên, viên đội trưởng chọn ra hai mươi người hộ tống, những người khác ở lại để bảo vệ đất đai và bọn trẻ vì chúng là con cái của những lãnh chúa lớn và thương nhân giàu có.

      Mặc dù hoàng tử dặn phải khởi hành từ lúc rạng đông nhưng Areo Hotah biết ngài chậm chạp hơn dự kiến. Trong khi vị học sĩ giúp Doran Martell tắm và băng lại những khớp xương sưng bằng vải lanh tẩm thuốc giảm đau, Hotah mặc chiếc áo giáp vảy đồng phù hợp với địa vị của ông, bên ngoài là chiếc áo choàng lớn bằng lụa cát màu xám và vàng để mặt trời chiếu vào chiếc áo đồng. Ngày hôm nay hứa hẹn nóng bức, viên đội trưởng từ lâu vứt bỏ chiếc áo khoác tay bằng lông đuôi ngựa nặng nề và chiếc áo thụng da ngựa mà ông mặc ở Norvos. Với khí hậu ở Dorne, chúng khác gì nướng chín người ta. Chiếc mũ trụ nửa đầu bằng sắt với chóp nhọn hoắt vẫn được giữ lại, nhưng được bọc trong lụa màu cam, chóp nhọn được quấn bằng vải. Nếu , mặt trời chiếu vào kim loại cũng đủ để làm cái đầu của ông quay cuồng trước khi họ đến lâu đài.

      Hoàng tử vẫn chưa sẵn sàng khởi hành. Ông quyết định ăn sáng trước khi xuất phát với nước cam ép và đĩa trứng mòng biển với giăm bông thái và hạt tiêu. Rồi sau đó còn phải tạm biệt mấy đứa trẻ mà ông đặc biệt quý: cậu bé Nhà Dalt, lũ trẻ con phu nhân Blackmont và bé mồ côi mặt tròn – cha bé từng là thương gia bán vải vóc và gia vị xuôi ngược dòng Greenblood. Ông đắp tấm chăn kiểu Myr lộng lẫy hai chân trong khi trò chuyện với chúng để bọn trẻ nhìn thấy những khớp xương sưng vù băng bó của ông.

      Khi họ lên đường là giữa trưa; hoàng tử ngồi kiệu, Maester Caleotte cưỡi con lừa, còn tất cả bộ. Năm tay giáo trước, năm người sau hộ tống. Mười người còn lại chia làm đôi hai bên kiệu. Areo Hotah giữ vị trí quen thuộc bên tay trái hoàng tử, chiếc rìu dài dựa vai. Con đường từ Sunspear đến Thủy Viên men theo bờ biển, ngọn gió tươi mát mơn man thổi qua khi họ băng qua trảng đất cát và đá màu nâu đỏ rải rác những cây vặn vẹo và còi cọc.

      Khi được nửa đường, họ gặp Rắn Cát thứ hai.

      ta đột ngột xuất đụn cát, cưỡi con chiến mã màu cát vàng với cái bờm trắng mịn như lụa. Ngay cả khi cưỡi ngựa, tiểu thư Nym trông vẫn rất duyên dáng. ta bận chiếc áo dài màu tử đinh hương sáng lung linh, chiếc áo choàng lớn bằng lụa màu kem và màu đồng tung bay trong gió, trông như thể sắp bay lên trung. Tiểu thư Nymeria Sand 25 tuổi, mảnh mai như cây liễu. Mái tóc đen thẳng của được tết với dải băng dài kèm dây kim loại màu vàng đồng, càng làm nổi đường chân tóc hình chữ V phía cặp mắt sẫm màu, giống như màu mắt của cha . Gò má cao, đôi môi đầy đặn và làn da màu sữa, có tất cả những nét đẹp mà chị có... nhưng Obara là con của bán hoa ở Oldtown, còn Nym mang trong mình dòng máu cao quý nhất của thành Volantis cổ kính. Mười hai tay giáo cưỡi ngựa đứng sau ta, những chiếc khiên tròn lập lòe dưới nắng.

      Hoàng tử trước đó vén rèm che kiệu để tận hưởng làn gió của biển cả. Tiểu thư Nym xuống gần ngài, ghì cương con ngựa cái vàng xinh xắn để bắt kịp nhịp độ của chiếc kiệu.

      “May quá, gặp ngài ở đây,” ta la lên như thể tình cờ có mặt ở đây vậy. “Cho cháu cùng ngài đến Sunspear nhé?” Hoàng tử ngồi phía bên kia kiệu, nhưng ông nghe được mọi lời của ta.

      “Ta rất vui,” hoàng tử Doran trả lời, dù viên đội trưởng nghe thấy có gì vui trong giọng của ông. “Bệnh tật và nỗi buồn là những người bạn đồng hành tồi tệ.” Viên đội trưởng biết ông ám chỉ con đường gập ghềnh làm đau những khớp chân sưng tấy của ông.

      “Bệnh tật cháu giúp gì ngài được,” ta đáp, “nhưng cha cháu bao giờ ưa phiền muộn. báo thù thích hợp với ông ấy hơn. Có phải Gregor Clegane thú nhận giết bác Elia và con bác ấy ạ?”

      gầm lên khiến cả triều đình đều nghe thấy,” hoàng tử công nhận. “Lãnh chúa Tywin hứa giao cho chúng ta cái đầu .”

      “Và người Nhà Lannister luôn trả món nợ của mình,” tiểu thư Nym thốt lên, “nhưng cháu ngờ rằng ông ấy định trả nợ ta bằng chính những đồng tiền của chúng ta. Cháu nhận được tin từ con chim do Ser Daemon ngọt ngào gửi đến, ông ấy thề rằng cha cháu đâm được con quái vật đó chỉ lần khi giao đấu. Nếu thế gần như chết rồi, cần gì đến Tywin Lannister ra tay.”

      Hoàng tử nhăn mặt, vì đau hay vì những lời của cháu . “Có thể là vậy.”

      “Có thể ư? Cháu cho rằng chắc chắn là thế.”

      “Obara muốn ta phát động chiến tranh.”

      Nym cười. “Vâng, chị ấy muốn cho Oldtown mồi lửa. Chị ấy ghét thành phố đó trong khi em của cháu quý nó.”

      “Thế còn cháu?”

      Nym liếc nhanh qua vai, nhìn đám người hộ tống đằng sau. “Khi tin báo đến, cháu nằm giường với chị em sinh đôi Nhà Fowler,” viên đội trưởng nghe thấy ta . “Ngài biết gia ngôn Nhà Fowler chứ ạ? Để ta bay! Đó cũng là tất cả những gì cháu muốn cầu xin. Để cháu bay, thưa bác. Cháu cần đạo quân hùng mạnh, cháu chỉ cần người chị em.”

      “Obara à?”

      “Tyene ạ. Obara quá ồn ào. Còn Tyene ngọt ngào và hiền lành đến mức người nào nghi ngờ nó. Obara biến cả Oldtown thành giàn thiêu cho cha cháu, nhưng cháu tham lam đến thế. Cháu chỉ cần lấy mạng bốn người thôi. Cặp sinh đôi vàng ngọc của Lãnh chúa Tywin để trả thù cho hai con của bác Elia. Con sư tử già đó, để trả thù cho bác Elia. Và cuối cùng là thằng vua con, dành cho cha cháu.”

      “Thằng bé đó làm gì sai với chúng ta cả.”

      “Nhưng nó là thằng con hoang, được sinh ra bởi bội tín, loạn luân và thông dâm, nếu Lãnh chúa Stannis đáng tin.” Sắc thái vui đùa biến mất khỏi giọng của ta, viên đội trưởng nheo mắt nhìn . chị Obara luôn mang theo cây roi bên hông và cây giáo ở những chỗ ai cũng có thể thấy. Tiểu thư Nym này nguy hiểm kém chị, nhưng ta biết giấu kín vũ khí của mình.

      “Chỉ dòng máu hoàng gia mới gột sạch được mối thù giết cha cháu.”

      “Oberyn chết trong trận đấu tay đôi, cậu ấy chiến đấu vì chuyện chẳng liên quan gì đến mình. Ta gọi đó là giết người.”

      “Gọi là gì tùy ngài. Chúng ta gửi đến đó người đàn ông xuất sắc nhất của Dorne, nhưng cái chúng ta nhận về chỉ còn là túi hài cốt.”

      “Cậu ấy vượt quá những gì ta dặn. ‘Đánh giá tình hình vị vua con và hội đồng của cậu ta, ghi nhớ các ưu điểm và nhược điểm của họ.’ Ta với cậu ấy như thế ở thềm nhà khi chúng ta cùng ăn cam ở đó. ‘Hãy kết giao thêm bằng hữu, nếu cậu thấy có người có thể kết giao. Tìm hiểu những gì có thể về cái chết của Elia, nhưng nhớ đừng khiêu khích Lãnh chúa Tywin cách chính đáng,’ đó là những lời ta với cậu ấy. Nhưng Oberyn chỉ cười và , ‘Em khiêu khích ai... chính đáng bao giờ chưa? Tốt hơn nên cảnh báo Nhà Lannister đừng khiêu khích em.’ Cậu ấy muốn đòi công bằng cho Elia, nhưng lại quá nông nổi...”

      “Ông ấy đợi 17 năm rồi,” tiểu thư Nym ngắt lời. “Nếu ngài bị người ta giết, cha cháu chắc chắn giương cờ hiệu bắc tiến trước khi xác ngài kịp lạnh. Nếu đó là ngài, giáo rơi xuống nhiều như mưa tháng ba vậy.”

      “Ta nghi ngờ gì điều đó.”

      “Mà ngài cũng cần nghi ngờ nữa, thưa hoàng tử, cháu và các chị em cháu đợi 17 năm mới báo thù đâu.” Dứt lời, ta thúc ngựa phi nước đại về hướng Sunspear, cả đoàn tùy tùng cũng nhanh chóng nối đuôi theo.

      Hoàng tử dựa vào gối và nhắm mắt lại, nhưng Hotah biết ông ngủ. Ông ấy đau đớn. Hotah thoáng nghĩ đến việc gọi Maester Caleotte lại bên kiệu nhưng lại thôi, nếu hoàng tử muốn, ngài ấy tự gọi.

      ***

      Bóng chiều đổ dài và tối tăm hơn, mặt trời đỏ và sưng phồng như khớp chân hoàng tử trước khi họ nhìn thấy những ngọn tháp của Sunspear thấp thoáng phía đông. Đầu tiên là hình dáng thanh mảnh của Tháp Giáo cao hơn 30 mét, đỉnh gắn ngọn giáo bằng thép mạ vàng, bản thân ngọn giáo này cũng cao 10 mét; tiếp theo là hình dáng đồ sộ của Tháp Mặt Trời với mái vòm bằng vàng và những ô kính viền chì; cuối cùng là Tháp Thuyền Cát màu nâu xám, tựa như chiến thuyền khổng lồ trôi dạt vào bờ và biến thành đá.

      Sunspear chỉ cách Thủy Viên 9 dặm đường bờ biển, nhưng chúng là hai thế giới hoàn toàn khác biệt. Ở nơi đó, trẻ con trần truồng nô đùa dưới nắng, nhạc vang lên trong những sân có mái lợp và khí nồng mùi cam chanh. Còn ở Sunspear này, khí sặc mùi bụi, mồ hôi và khói, ban đêm cũng luôn ồn ã tiếng người. có cẩm thạch hồng như ở Thủy Viên, Sunspear được xây bằng bùn và rơm, vì thế thành phố có màu nâu và nâu xám. Pháo đài cổ kính của dòng họ Martell đứng sừng sững ở cực đông mũi đất xíu, nơi chỉ gồm toàn đá và cát, ba bề là biển vây quanh. Về phía tây, dưới bóng tường thành đồ sộ, những cửa hàng lụp xụp làm bằng gạch bùn và những ngôi nhà tồi tàn cửa sổ, bám chặt vào lâu đài như những con hàu bám vào thân tàu lớn. Chuồng ngựa, quán trọ, quán rượu và nhà thổ nằm xa hơn nữa về phía tây, nhiều nhà có tường bao quanh, và dưới những bức tường này lại mọc lên những căn nhà ổ chuột khác. Cứ thế, cứ thế nối tiếp nhau, các thầy tu râu rậm như vậy. So với Tyrosh, Myr hay Norvos vĩ đại, thành phố này chỉ đáng là thị trấn, nhưng toàn xứ Dorne này, đây là nơi giống với thành phố thực nhất.

      Tiểu thư Nym đến trước họ vài giờ, và ràng ta báo cho lính gác biết họ sắp tới, vì thế khi họ đến nơi, Cổng thành Ba Lớp mở toang. Đây là nơi duy nhất ba lớp cổng thành xếp thành hàng dọc, cho phép khách thẳng qua ba lớp tường uốn lượn quanh co để tới Cổ Cung, nếu , họ phải tìm đường qua những ngõ hẻm, những phố cụt khuất nẻo và những khu chợ ồn ào.

      Hoàng tử Doran hạ rèm kiệu xuống từ khi Tháp Giáo xuất trong tầm mắt, nhưng dân chúng vẫn nhận ra và la lối khi chiếc kiệu lướt qua. Mấy nàng Rắn Cát kích động khiến họ trở nên sôi sùng sục, viên đội trưởng bực bội nghĩ thầm. Họ băng qua khu ổ chuột ở lớp tường thành bán nguyệt bên ngoài và qua chiếc cổng thứ hai. Bên trong, gió đem lại mùi khó chịu của hắc ín, nước biển và rong biển thối. Càng tiến vào sâu, đám đông ngày càng đông hơn. “Tránh đường cho hoàng tử Doran!” Areo Hotah vừa quát oang oang vừa đập mạnh cán rìu xuống nền gạch. “Tránh đường cho hoàng tử!”

      “Hoàng tử chết rồi!” phụ nữ rít lên chói tai đằng sau ông.

      “Cầm giáo lên!” giọng đàn ông rống lên từ ban công.

      “Doran! Cầm giáo lên!” giọng cao quý nào đó cất lên.

      Hotah thể tìm ra kẻ nào vừa , bởi đám đông quá lớn và phần ba trong số họ la hét. “Cầm giáo lên! Trả thù cho Hổ Lục!” Khi họ vào đến lớp cổng thứ ba, cấm vệ quân phải xô dân chúng sang bên để dẹp đường cho kiệu của hoàng tử. Lập tức đám đông ném ra mọi thứ họ có. cậu bé rách rưới lao qua đám quân cấm vệ cầm giáo, nửa quả lựu thối lăm lăm trong tay, nhưng khi nhìn thấy Đội trưởng Areo Hotah chắn đường, với chiếc rìu dài sẵn sàng tay cậu để rơi quả lựu và lủi nhanh. Những người ở phía sau ném cam, chanh vào kiệu. Họ la hét “Chiến tranh! Chiến tranh! Cầm giáo lên!” người lính bị quả chanh ném vào mắt, Hotah cũng bị quả cam rơi bộp vào chân.

      Trong kiệu tiếng trả lời. Doran Martell lặng im chìm trong đám lụa cho đến khi những bức tường dày của lâu đài nuốt chửng bọn họ và tấm lưới sắt được rầm rầm hạ xuống sau lưng. Tiếng la hét dần. Công chúa Arianne đợi ở ngoại sảnh để chào đón cha, nửa triều đình đứng sau lưng : viên quản gia mù Ricasso, Ser Manfrey Martell - người cai quản lâu đài, học sĩ trẻ Myles với áo chùng xám và chòm râu xức nước hoa mượt mà, bốn mươi hiệp sĩ xứ Dorne trong trang phục vải lanh sặc sỡ. Công chúa Myrcella Baratheon đứng cùng sơ của bé và Ser Arys của Ngự Lâm Quân, vị hiệp sĩ nhễ nhại mồ hôi trong chiếc áo giáp tráng men trắng.

      Công chúa Arianne sải bước tới gần chiếc kiệu đôi xăng-đan bằng da rắn buộc dây lên tận đùi. Tóc đen nhánh, quăn thành từng lọn , bồng bềnh thả xuống tới ngang lưng. trán nàng là dải băng đính những mặt trời bằng đồng. Trông công chúa bé, viên đội trưởng nghĩ. Các em họ Rắn Cát của đều cao, còn Arianne giống mẹ nên chỉ cao chưa đầy mét sáu. Nhưng bên dưới chiếc thắt lưng gắn đầy châu ngọc và những lớp lụa tím gấm vàng lụng thụng là thân hình phụ nữ nảy nở, căng tràn sức sống với những đường cong tròn trịa. “Cha,” kêu lên khi vén rèm, “Sunspear vui mừng chào đón cha trở về.”

      “Ừ, cha nghe thấy vui mừng đó rồi.” Hoàng tử cười mệt mỏi, đưa bàn tay sưng phồng, đỏ ửng nựng má con . “Trông con xinh quá. Đội trưởng, giúp ta xuống khỏi đây nào.”

      Hotah gài chiếc rìu dài vào đai đeo đằng sau lưng và nhàng đỡ lấy hoàng tử để đụng vào các khớp sưng của ngài. Dù vậy, hoàng tử vẫn nín thở vì đau.

      “Con lệnh cho đầu bếp chuẩn bị tiệc tối nay,” Arianne , “với tất cả những món mà cha thích.”

      “Ta sợ rằng ta thể đánh giá đúng được tài nghệ của họ.” Hoàng tử chầm chậm nhìn quanh. “Sao cha thấy Tyene?”

      ấy xin được chuyện riêng với cha. Con đưa ấy đến phòng thiết triều đợi cha rồi.”

      Hoàng tử thở dài. “Tốt lắm. Đội trưởng đâu? Giải quyết xong việc này sớm chừng nào ta được nghỉ ngơi sớm chừng ấy.”

      Hotah đỡ hoàng tử bước lên những bậc dài bằng đá của Tháp Mặt Trời, tới đại điện tròn nằm ngay dưới mái vòm. Những tia sáng cuối cùng của buổi chiều tà xuyên qua những cửa sổ dày lắp kính nhiều màu, tạo nên những đốm sáng hình thoi sặc sỡ lung linh nền cẩm thạch nhợt nhạt. Con Rắn Cát thứ ba đợi họ ở đây.

      Tyene ngồi vắt chéo chân cái gối dưới bục đặt ngai vàng nhưng ta đứng lên ngay khi họ bước vào. Hôm nay, ta mặc chiếc váy dài bó sát bằng gấm xanh nhạt, ống tay áo bằng ren vùng Myr khiến trông ngây thơ như trinh nữ. tay cầm mảnh khăn thêu dở, đôi kim bằng vàng trong tay kia. Tóc cũng vàng óng, còn đôi mắt giống như hai hồ nước xanh thăm thẳm, đôi mắt ấy phần nào gợi cho viên đội trưởng nhớ đến đôi mắt của cha , mặc dù mắt hoàng tử Oberyn đen như đêm tối. Hotah bất ngờ nhận ra tất cả các con của Rắn Lục Đỏ đều thừa hưởng đôi mắt rắn của ông, cho dù mắt họ màu gì.

      “Bác,” Tyene cất lời, “cháu đợi ngài.”

      “Đội trưởng, giúp ta lên bục.”

      bục có hai chỗ ngồi, giống nhau như em sinh đôi, chỉ khác là lưng ghế khảm ngọn giáo vàng Nhà Martell, lưng ghế kia là hình mặt trời của vùng Rhoyne sáng chói từng tung bay cột buồm của đoàn thuyền Nymeria khi chúng tới Dorne lần đầu. Hotah đặt hoàng tử lên chiếc ghế có hình mũi giáo và lui ra xa.

      “Chân ngài có đau lắm ?” Tiểu thư Tyene nhàng , trông ngọt ngào như quả dâu tây mùa hè. Mẹ septa, vì thế Tyene có phong thái ngây thơ thoát tục. “Cháu có thể làm gì cho ngài đỡ đau ?”

      “Hãy điều cháu định rồi để ta nghỉ ngơi. Ta mệt lắm rồi, Tyene.”

      “Cháu làm cái này cho ngài.” Tyene mở chiếc khăn thêu dở. Chiếc khăn có hình cha , hoàng tử Oberyn mỉm cười đứng cồn cát, chiến mã và giáp trụ toàn màu đỏ rực. “Khi nào cháu thêu xong, nó là của ngài, để giúp ngài quên cha cháu.”

      “Ta hề quên cha cháu.”

      “Cháu rất vui khi biết điều đó. Nhiều người muốn biết.”

      “Lãnh chúa Tywin hứa trao cho chúng ta cái đầu của Núi Yên Ngựa.”

      “Ông ấy tử tế... nhưng lưỡi gươm của lãnh chúa phải là kết cục thích hợp cho Ser Gregor dũng cảm. Chúng ta cầu cho chết quá lâu rồi, giờ cầu mong được chết cũng là bình thường thôi. Cháu biết loại chất độc mà cha cháu dùng, loại nào tác động chậm mà lại gây đau đớn hơn thế. Rồi chúng ta sớm nghe thấy Núi Yên Ngựa kêu gào thôi, thậm chí ngay cả ở Sunspear này.”

      Hoàng tử Doran thở dài. “Obara đòi ta khai chiến, Nym muốn giết người, còn cháu muốn gì đây?”

      “Chiến tranh ạ,” Tyene đáp, “mặc dù phải kiểu chiến tranh mà chị cháu . Người xứ Dorne chúng ta chỉ chiến đấu tốt nhất mảnh đất quê hương, vì thế theo cháu chúng ta hãy mài giáo cho sắc và chờ đợi. Khi bọn Lannister và Tyrell đến đây, chúng ta lấy máu chúng những con đèo và chôn chúng dưới cát như chúng ta từng làm hàng trăm lần trước đây.”

      “Đấy là nếu họ đến.”

      “Chắc chắn chúng phải đến, nếu muốn thấy vương quốc của chúng bị xé nát như trước đây khi chúng ta còn là thông gia với Nhà Targaryen. Cha cháu thế. Ông rằng chúng ta phải cảm ơn Quỷ Lùn vì gửi công chúa Myrcella đến đây. bé xinh xắn quá, phải ạ? Cháu ước gì có được mái tóc xoăn cuộn sóng của bé. bé sinh ra là để làm nữ hoàng, giống như mẹ mình.” Lúm đồng tiền ra . “Cháu rất vinh dự được chuẩn bị cho lễ cưới, và coi sóc việc chế tác vương miện. Trystane và Myrcella đều còn rất ngây thơ, cháu nghĩ có lẽ vàng trắng... và ngọc lục bảo hợp với màu mắt của Myrcella. À, kim cương và ngọc trai cũng được, miễn là bọn trẻ cưới nhau và lên ngôi. Sau đó, chúng ta gọi Myrcella là Myrcella Đệ Nhất, Nữ hoàng của người Andal, người Rhoynar, và Tiền Nhân, người thừa kế hợp pháp Bảy Phụ Quốc của Westeros, rồi ngồi đợi lũ sư tử kéo đến.”

      “Người thừa kế hợp pháp ấy à?” Hoàng tử hừ mũi.

      “Con bé là chị,” Tyene giải thích như thể hoàng tử là gã ngốc. “Theo luật, Ngai Sắt phải truyền cho con bé.”

      “Đấy là theo luật của Dorne thôi.”

      “Khi vua Daeron kết hôn với công chúa Myriah và sáp nhập chúng ta vào vương quốc của ông ta, ông ta chấp thuận luật của người Dorne luôn được áp dụng ở xứ Dorne. Mà Myrcella lại ở Dorne.”

      “Đúng thế.” Giọng ông có vẻ miễn cưỡng. “Để ta nghĩ .”

      Tyene trở nên bực bội. “Ngài nghĩ quá nhiều rồi, thưa bác.”

      “Ta ấy à?”

      “Cha cháu thế.”

      “Oberyn luôn suy nghĩ quá ít.”

      số người suy nghĩ vì họ sợ phải hành động.”

      “Sợ hãi và thận trọng khác nhau đấy.”

      “Ồi, cháu cầu mong bao giờ phải nhìn thấy ngài hoảng sợ, thưa bác. Ngài có lẽ thở ra hơi ấy nhỉ.” ta giơ tay lên...

      Hotah đập mạnh cán rìu dài xuống nền cẩm thạch. “Thưa tiểu thư, tiểu thư mạo phạm rồi đấy. Xin vui lòng lùi xuống khỏi bục.”

      “Ta vô hại mà, đội trưởng. Ta quý bác của mình, và ta biết ông ấy cũng quý cha ta như vậy.” Tiểu thư Tyene quỳ chân xuống trước mặt hoàng tử. “Thưa bác, cháu hết những gì muốn . Xin ngài thứ lỗi nếu cháu có gì mạo phạm; lòng cháu tan nát. Ngài vẫn còn mến cháu chứ?”

      “Luôn luôn như vậy.”

      “Xin hãy ban phúc cho cháu, rồi cháu .”

      Sau thoáng ngần ngừ, hoàng tử Doran đặt tay lên đầu cháu . “Dũng cảm nhé, con .”

      “Vâng, tại sao ? Cháu là con cha cháu mà.”

      Ngay khi ta vừa rời , Maester Caleotte vội vã chạy đến bục. “Hoàng tử, ta ... nào, để thần xem tay ngài.” Trước tiên, ông ta xem xét lòng bàn tay, rồi lật úp tay xuống để ngửi mu bàn tay. “ có gì. Tốt rồi. bị xước, vì thế...”

      Hoàng tử rút tay về. “Học sĩ, phiền ông cho ta chút sữa túc được ? Chỉ chén hạt mít là đủ.”

      túc ạ. Vâng, được ngay.”

      “Nhanh lên.” Hoàng tử Doran Martell nhàng thúc giục và Maester Caleotte hối hả chạy ra phía cầu thang.

      Bên ngoài, mặt trời lặn. Ánh sáng trong căn phòng mái vòm xanh xám tối tăm, những vệt sáng lung linh hình thoi phản chiếu nền nhà mờ dần. Hoàng tử ngồi ngai cao, dưới chiếc giáo vàng Martell, khuôn mặt tái vì đau đớn. Sau khoảng im lặng kéo dài, ông quay sang Hotah. “Đội trưởng này, vệ binh của ta trung thành đến mức nào?”

      “Họ trung thành ạ.” Ngoài câu đó ra, ông biết gì khác.

      “Tất cả bọn họ hay chỉ vài người thôi?”

      “Họ là những người tốt. Những người Dorne chính trực. Họ làm những gì thần ra lệnh.” Ông gõ rìu xuống nền nhà. “Thần đem đầu bất cứ ai phản bội về cho ngài.”

      “Ta muốn cái đầu nào cả. Ta muốn tuân lệnh.”

      “Ngài có điều đó.” Phục vụ. Tuân lệnh. Bảo vệ. Lời thề giản đơn của con người đơn giản. “Ngài cần bao nhiêu người?”

      “Ta để ngươi quyết định. Có lẽ chỉ vài người đáng tin tốt hơn nhiều người. Ta muốn việc này được tiến hành càng nhanh và càng kín đáo càng tốt, và được đổ máu.”

      “Nhanh, kín đáo và đổ máu, vâng. Mệnh lệnh của ngài là gì vậy?”

      “Ngươi tìm các cháu của ta, bắt giữ và giam chúng lên đỉnh Tháp Giáo.”

      “Nghĩa là các tiểu thư Rắn Cát sao?” Cổ họng Hotah trở nên khô khốc. “Tất... tất cả tám ạ, thưa hoàng tử? Cả những đứa bé nữa sao?”

      Hoàng tử cân nhắc chút. “Các con của Ellaria còn quá bé nên nguy hiểm, nhưng có thể có người sử dụng chúng để chống lại ta. Tốt nhất là giữ chúng an toàn trong tay. Phải, cả những đứa , nhưng trước hết cần bắt Tyene, Nymeria, và Obara.”

      “Tuân lệnh ngài.” Ông đáp lời hoàng tử, trong lòng phiền muộn. Công chúa bé bỏng thích điều này đâu. “Thế còn Sarella? ấy là phụ nữ trưởng thành, gần 20 tuổi rồi.”

      “Trừ khi nó quay về Dorne, còn ta chẳng làm gì được với Sarella ngoài việc cầu nguyện cho nó khôn ngoan hơn các chị nó. Hãy để nó tự chơi ván bài của mình. Bắt tất cả những người còn lại. Ta chỉ ngủ yên khi biết chúng an toàn và được canh gác cẩn thận.”

      “Được ạ,” viên đội trưởng lưỡng lự. “Nhưng khi tin này truyền ra, dân chúng gào thét lên mất.”

      “Toàn bộ Dorne gào thét,” hoàng tử bằng giọng mệt mỏi. “Ta chỉ cầu cho Lãnh chúa Tywin ở Vương Đô nghe thấy tiếng gào của họ, để ông ta biết ông ta có người bạn trung thành cỡ nào ở Sunspear.”

    5. vulinh

      vulinh Well-Known Member

      Bài viết:
      20,019
      Được thích:
      24,221
      CERSEI


      A mơ thấy mình ngồi Ngai Sắt, cao hơn tất thảy.

      Toàn bộ triều thần là những con chuột sặc sỡ bên dưới. Các lãnh chúa hùng mạnh và các mệnh phụ phu nhân cao quý quỳ gối trước ả. Các hiệp sĩ trẻ dũng mãnh đặt gươm dưới chân ả, cầu mong nhận được chú ý của ả, và nữ hoàng nhìn xuống mỉm cười với tất cả bọn họ. Bỗng nhiên, Quỷ Lùn xuất như từ dưới đất mọc lên, chỉ tay vào ả và cười rú lên. Các lãnh chúa và phu nhân cũng bắt đầu che miệng cười khúc khích. Chỉ đến lúc đó nữ hoàng mới nhận ra mình trần truồng.

      Ả kinh hoàng, cố gắng lấy tay che thân. Các gai nhọn và lưỡi kiếm của Ngai Sắt cắt vào da thịt khi ả né mình để giấu hổ thẹn. Máu chảy xuống nhuộm đỏ chân khi những răng thép ngoạm vào mông ả. Khi ả cố đứng lên, chân ả liền lọt xuống kẽ hở giữa những thanh kim loại vặn vẹo. Càng vùng vẫy để thoát ra, cái ngai càng dìm ả xuống, xé từng tảng thịt ở ngực và bụng ả, cắt nham nhở vào tay chân ả cho đến khi chúng trở nên trơn tuột và nhầy nhụa máu.

      Trong khi đó, gã em trai vừa cười vừa nhảy lò cò phía dưới.

      thanh hớn hở của vẫn còn vang vọng khi ả cảm thấy có ai đó chạm vào vai và đột ngột thức dậy. Thoạt đầu, ả tưởng vẫn trong cơn ác mộng và thét lên, nhưng đó chỉ là Senelle. Khuôn mặt hầu trắng nhợt vì khiếp sợ.

      Ả nhận ra trong phòng phải chỉ có họ. Bóng tối lờ mờ bao quanh giường ả, trong phòng lố nhố những bóng người cao to, giáp sắt lấp lánh dưới áo choàng. Những kẻ có vũ trang này đâu có việc gì để làm ở đây? Vệ binh của ta đâu rồi? Phòng ngủ của ả còn tối, chỉ có ánh sáng của ngọn đèn lồng được trong những kẻ đột nhập giơ lên cao. Mình phải tỏ ra sợ hãi. Cersei hất mớ tóc rối bù ra đằng sau và cất giọng hỏi, “Các ngươi muốn gì ở ta?” gã bước vào quầng sáng của chiếc đèn lồng, ả nhìn thấy áo choàng của màu trắng. “Phải Jaime ?” Mình mơ về đứa em trai, và đứa kia đến đánh thức mình.

      “Thưa thái hậu.” Đây phải giọng của Jaime. “Chỉ huy Ngự Lâm Quân lệnh cho thần đến tìm người.” Tóc người này cũng quăn như tóc Jaime, nhưng tóc Jaime vàng óng giống ả, còn tóc màu đen, láng bóng. Ả nhìn chằm chằm, bối rối nghe lẩm bẩm gì đó về nhà xí và cái cung nào đó, rồi nhắc đến tên cha ả. Mình vẫn mơ, Cersei nghĩ. Mình vẫn chưa thức dậy, cơn ác mộng cũng chưa chấm dứt. Tyrion nhanh chóng trườn ra khỏi gầm giường và cười nhạo ta thôi.

      Nhưng điều này điên rồ. Thằng em Quỳ Lùn của ả nằm sâu trong xà lim tối và bị kết tội chết ngay trong ngày hôm nay kia mà. Ả nhìn xuống đôi tay, lật chúng lại để chắc chắn rằng những ngón tay vẫn còn ở đó. Ả lướt bàn tay dọc cánh tay, làn da chỉ nổi gai ốc chứ hề rách. có vết cắt nào chân, vết rạch nào gan bàn chân. giấc mơ, tất cả chỉ là giấc mơ thôi. Tối hôm qua mình uống quá nhiều, những nỗi sợ hãi này chỉ là trò đùa của rượu. Sau khi hoàng hôn buông xuống, ta mới là người cười. Các con ta an toàn, ngai báu của Tommen được đảm bảo, thằng quỷ lùn thó vặn vẹo kia chỉ còn lại cái đầu và nhanh chóng thối rữa.

      Jocelyn Swyft đứng ngay cạnh Cersei, ta ấn chén vào tay ả. Ả nhấp ngụm: nước pha với nước cốt chanh, quá chua nên ả nhổ ra. Ả có thể nghe thấy tiếng gió đêm lùa lạch cạch qua cửa sổ và nhìn mọi thứ cách kỳ lạ. Jocelyn run lẩy bẩy như chiếc lá, trông sợ hãi kém gì Senelle. Ser Osmund Kettleblack lù lù đứng đó, đằng sau ta là Ser Boros Blount cầm cây đèn. Ở phía cửa là quân cận vệ của Nhà Lannister, những con sư tử mạ vàng lấp lánh chỏm mũ của họ. Trông họ cũng đầy sợ hãi. Có thể là chuyện gì chứ? Thái hậu tự hỏi. Đây có phải là thực ?

      Ả ngồi dậy, để Senelle khoác chiếc áo ngủ lên vai che thân hình trần truồng của mình. Ả tự buộc thắt lưng, nhưng những ngón tay cứng đờ và lóng ngóng. “Cha ta cho người canh gác cả ngày lẫn đêm,” ả , cảm thấy lưỡi cứng lại. Ả nhấp ngụm nước chanh nữa và súc miệng để hơi thở thơm mát. con bướm đêm sa vào chiếc đèn lồng Ser Boros cầm, ả có thể nghe được tiếng đập cánh vù vù của nó và nhìn thấy bóng những cái cánh đập vào kính đèn.

      “Lính canh vẫn ở đúng vị trí, thưa thái hậu,” Osmund Kettleblack đáp. “Chúng thần tìm thấy cánh cửa giấu kín sau lò sưởi. lối bí mật. Tướng chỉ huy xuống để xem lối đó dẫn đến đâu.”

      “Jaime à?” Nỗi kinh hoàng ập đến đột ngột như trận bão. “Jaime phải ở cùng đức vua chứ...”

      “Bệ hạ sao đâu. Ser Jaime cử mười hai người canh rồi ạ. Bệ hạ ngủ ngon lành.”

      Hãy để cho nó có giấc mơ ngọt ngào hơn ta và tỉnh giấc bình yên hơn ta. “Ai ở cạnh nhà vua?”

      “Ser Loras có được vinh dự đó, thưa thái hậu.”

      Điều đó làm ả vui lòng chút nào. Người Nhà Tyrell chỉ là những gã quản gia tầm thường dưới chân các vua rồng. lũ rỗng tuếch và tham vọng. Ser Loras có thể đẹp đẽ như trong giấc mơ của các thiếu nữ, nhưng dưới chiếc áo choàng trắng hào nhoáng, cậu ta là người Nhà Tyrell đến tận xương tủy. Theo những gì ả biết quả đắng tối nay đều được nuôi trồng từ Highgarden mà ra cả.

      Nhưng đó chỉ là nghi ngờ mà ả dám ra. “Đợi ta thay quần áo chút. Ser Osmund tháp tùng ta tới Tháp Quân Sư. Ser Boros, hãy đến khua các cai ngục để biết chắc thằng lùn vẫn ở trong ngục tối.” Ả thèm tên . chắc chắn bao giờ đủ dũng cảm để giơ tay lên chống lại cha, ả tự nhủ, nhưng ả cần phải biết chắc chắn.

      “Tuân lệnh.” Ser Blount đưa cây đèn cho Ser Osmund. Cersei cảm thấy bực bội khi nhìn lưng áo ông ta. Đáng lẽ cha nên phục chức cho ông ta trong đội quân áo trắng. Người đàn ông này tự chứng tỏ mình là kẻ hèn nhát.

      Khi họ rời khỏi pháo đài Maegor trời chuyển sang màu xanh -ban sẫm, mặc dù những ngôi sao vẫn sáng lấp lánh. Tất cả, ngoại trừ ngôi, Cersei nghĩ. Ngôi sao sáng chói của bầu trời phương tây tắt, giờ đây đêm càng trở nên tăm tối. Ả dừng lại giữa cầu kéo bắc ngang qua con hào cạn nước, nhìn chằm chằm xuống những thanh thép nhọn bên dưới. Bọn họ chắc dám dối mình điều như thế. “Ai tìm thấy cha ta?”

      lính gác,” Ser Osmund trả lời. “Tên là Lum. ta muốn tiểu tiện và tìm thấy lãnh chúa tôn kính trong nhà tiêu.”

      . thể nào. con sư tử chết theo cách đó. Thái hậu cảm thấy bình tĩnh lạ thường. Ả nhớ lại lần đầu tiên rụng răng khi còn là bé con. đau, nhưng cái lỗ còn lại trong miệng khiến ả cảm thấy lạ lùng đến nỗi ả ngừng chạm lưỡi vào đó. Giờ đây, cha ra cũng để lại lỗ hổng thế giới này, lỗ hổng cần được lấp đầy.

      Nếu thực cha chết, ai còn được an toàn nữa... nhất là đứa con trai ngồi ngai báu của ả. Khi sư tử ngã xuống, những con thú ăn thịt yếu hơn nổi lên: chó rừng, chó hoang và kền kền. Chúng hất nàng sang bên, chúng vẫn luôn muốn như vậy. Ả cần phải hành động nhanh như khi Robert chết. Việc này có thể do Stannis Baratheon gây ra, thông qua gã tay sai nào đó. Đây có thể là kiện mở đầu cho cuộc công thành lần nữa. Ả hy vọng thế. Hãy cứ để đến đây. Ta đập tan như cha từng làm, và lần này thời khắc tử thần gọi điểm. Stannis làm ả sợ, hơn Mace Tyrell. ai có thể làm ả sợ. Ta là sư tử, là con của thành Rock. còn ai buộc ta phải kết hôn lần nữa. Casterly Rock bây giờ là của ta, tất cả quyền lực của Nhà Lannister là của ta. ai còn dám coi thường ta nữa. Ngay cả khi Tommen cần người nhiếp chính nữa tước vị phu nhân của thành Casterly Rock vẫn là thế lực mảnh đất này.

      Mặt trời lên nhuộm màu đỏ sống động lên đỉnh những ngọn tháp, nhưng bên dưới những bức tường, bóng tối vẫn ngự trị. khí bên ngoài lâu đài tĩnh lặng đến nỗi ả tưởng như tất cả mọi người đều chết. Bọn chúng nên thế. Lãnh chúa Tywin Lannister qua đời mình hợp lý chút nào. con người như vậy xứng đáng có đoàn tùy tùng phục vụ dưới suối vàng.

      Bốn tay giáo trong trang phục áo choàng đỏ và đội mũ gắn biểu tượng sư tử đỉnh đứng gác ở cửa vào Tháp Quân Sư. “ ai được ra vào nơi này nếu có lệnh của ta,” ả dặn bọn họ. Mệnh lệnh phát ra dễ dàng từ miệng ả. Cha ta cũng từng có gang có thép trong giọng như thế.

      Trong tháp, khói đuốc làm mắt ả cay xè, nhưng ả khóc. Ta mới là con trai thực duy nhất của cha. Gót giày ả chà lên đá khi trèo lên, ả có thể nghe thấy cả tiếng con bướm đêm đập cánh điên loạn trong cái đèn lồng mà Ser Osmund cầm. Chết , thái hậu nghĩ trong cơn bực bội, mày hãy bay vào lửa mà kết thúc .

      Hai vệ binh nữa mặc áo choàng đỏ đứng gác đầu cầu thang. Lester Đỏ lắp bắp chia buồn khi ả qua. Ả thở hổn hển, cảm thấy được cả tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực. Những bậc thang, ả tự nhủ, cái tháp đáng nguyền rủa này có quá nhiều bậc thang. Ả phần nào muốn kéo sập nó.

      Đại sảnh đầy những tên ngốc thầm với nhau như thể Lãnh chúa Tywin ngủ và họ sợ làm ông thức dậy. Lính gác và người hầu đều co rúm lại trước ả, miệng huyên thuyên ngớt. Ả nhìn thấy nướu răng họ hồng hồng, những cái lưỡi ngọ nguậy, nhưng lời họ có ý nghĩa gì hơn tiếng vù vù của con bướm đêm. Bọn chúng làm gì ở đây? Chúng biết những gì? Đáng lẽ chúng phải báo cho ta đầu tiên mới phải. Ta là thái hậu nhiếp chính kia mà, chúng quên rồi sao?

      Trước cửa phòng ngủ quân sư, Ser Meryn Trant đứng trong bộ giáp và áo choàng trắng. Tấm che mặt của chiếc mũ sắt mở, những bọng thịt dưới mắt khiến ông ta trông như ngái ngủ. “Cho những người này lui ,” ả ra lệnh. “Cha ta trong nhà tiêu à?”

      “Họ mang ngài về giường rồi, thưa thái hậu.” Ser Meryn đẩy cửa cho ả vào. Ánh sáng ban mai xuyên qua cánh cửa chớp tạo thành những vạch màu vàng thảm cói trải sàn phòng ngủ. Ông chú Kevan quỳ cạnh giường, cố gắng cầu nguyện song gần như thốt nổi nên lời. Vệ binh đứng túm tụm gần lò sưởi. Cánh cửa bí mật mà Ser Osmund mở toang đằng sau đám tro, trông lớn hơn cái lò nướng là bao. người bình thường cần phải bò mới qua được. Nhưng kích thước Tyrion chỉ bằng nửa người bình thường. Ý nghĩ đó làm ả nổi giận. , gã lùn đó vẫn bị nhốt trong xà lim mà. Việc này thể do làm. Stannis, ả tự nhủ, Stannis chắc đứng sau vụ này. vẫn có tay chân trong thành phố. , hoặc người Nhà Tyrell...

      Người ta vẫn luôn đồn rằng có những lối bí mật trong lòng Tháp Đỏ. Người ta Maegor Độc Ác giết hết những người thợ xây lâu đài để họ thể tiết lộ bí mật. Còn bao nhiêu phòng ngủ khác có cửa bí mật nữa? Cersei đột nhiên tưởng tượng thấy gã lùn trườn ra từ sau tấm thảm thêu trong phòng ngủ của Tommen với lưỡi dao trong tay. Tommen được bảo vệ cẩn mật, ả tự nhủ. Nhưng Lãnh chúa Tywin cũng được bảo vệ cẩn mật chẳng kém đấy thôi.

      Thoạt đầu, ả nhận ra người chết. Đúng là ông ta có mái tóc giống cha, nhưng đó là người đàn ông nào khác, chắc chắn bé hơn và già nua hơn cha. Bộ đồ ngủ bị đẩy lên quanh ngực, nên từ thắt lưng trở xuống hoàn toàn trần truồng. mũi tên cắm vào háng, giữa rốn và dương vật, ngập sâu đến mức chỉ có phần đuôi gắn lông chim còn thò ra ngoài. Lông mu đặc quánh máu khô, rốn còn nhiều máu hơn.

      Mùi của người chết khiến ả chun mũi. “Rút mũi tên ra,” ả ra lệnh. “Đây là quân sư của nhà vua!” Và là cha ta. Lãnh chúa cha ta. Ta có nên gào thét và bứt tóc nhỉ? Người ta đồn rằng Catelyn Stark cào nát mặt mình khi Freys hạ sát Robb quý của bà ta. Cha ơi, cha có muốn con làm như thế ? Ả những muốn hỏi cha mình câu đó. Hay cha muốn con mạnh mẽ? Cha có từng khóc thương cha của mình ? Ông nội ả qua đời khi ả mới 1 tuổi, nhưng ả biết câu chuyện đó. Lãnh chúa Tytos rất phì nộn, hôm ông vỡ tim mà chết khi leo cầu thang để đến với tình nhân. Khi đó, cha ả có mặt ở Vương Đô vì giữ chức vụ quân sư cho Vua Điên. Lãnh chúa Tywin thường có mặt ở Vương Đô khi ả và Jaime còn bé. Nếu ông khóc khi được tin cha mình qua đời, ông để ai nhìn thấy những giọt nước mắt đó.

      Thái hậu cảm thấy móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay mình. “Sao các ngươi có thể để ông ấy như thế này? Cha ta là quân sư của ba đời vua, là người đàn ông vĩ đại trong khắp Bảy Phụ Quốc. Các ngươi phải rung chuông báo tử như khi Robert qua đời, phải tắm rửa và phục sức cho ông ấy với lông chồn, vải kim tuyến và lụa đỏ để cho phù hợp với chức vị quân sư. Pycelle đâu? Pycelle đâu rồi?” Ả quay sang lính gác. “Puckens, ngươi đưa Grand Maester Pycelle đến đây. Ông ta phải lo liệu cho Lãnh chúa Tywin.”

      “Ông ấy đến rồi, thưa thái hậu,” Pukens đáp. “Ông ấy đến, nhìn lãnh chúa và triệu tập các chị em quản sinh tử rồi.”

      Bọn chúng cho ta biết sau cùng. Nhận ra điều này khiến ả tức nghẹn lời. Còn lão già Pycelle thà chạy để truyền tin chứ muốn vấy bẩn đôi tay mềm nhẽo, nhăn nheo của lão. Lão già vô dụng. “Tìm Maester Ballabar lại đây,” ả lại ra lệnh. “Tìm Maester Frenken, hay bất kỳ ai trong số họ cũng được.” Punkens và Shortea vội chạy thi hành mệnh lệnh. “Em trai ta đâu?”

      ở dưới đường hầm ngầm. Dưới đó có đường ống với những bậc thang sắt cắm vào đá. Ser Jaime trèo xuống đó để xem nó xuống sâu đến đâu.”

      Chàng chỉ có tay, ả muốn quát vào mặt bọn họ. trong hai ngươi phải xuống đó mới phải. Jaime có nhiệm vụ trèo xuống cái thang đó. Kẻ sát hại cha có thể vẫn ở dưới đó đợi Jaime sao. Cậu em sinh đôi của ả luôn hành động thiếu suy nghĩ, thậm chí việc bị mất tay cũng làm cho cậu ấy thận trọng hơn. Ả định ra lệnh cho lính canh xuống theo và đưa Jaime lên Puckens và Shortear quay lại với ông già tóc bạc. “Thưa thái hậu,” Tai Cụt bẩm báo, “ông này tuyên bố ông ấy là học sĩ.”

      Người đàn ông già cúi chào thấp. “Thưa thái hậu, thần có thể phục vụ gì cho người được ạ?”

      Khuôn mặt ông ta trông hơi quen quen, nhưng ả thể nhớ ra đó là ai. Ông ta già, nhưng quá già như lão Pycelle, trông vẫn còn phần nào tráng kiện. Ông ta cao, hơi gù, quanh đôi mắt xanh da trời sẫm có nhiều nếp nhăn. Cổ ông ta đeo gì. “Ngươi đeo chuỗi xích của học sĩ.”

      “Sợi xích bị tước mất rồi. Thần là Qyburn, nếu thái hậu vui lòng muốn biết. Thần điều trị tay cho em trai người.”

      “Ý ngươi là vết sẹo ở cổ tay ấy hả?” Giờ nhớ ra. Người đàn ông này cùng Jaime khi cậu ấy từ Harrenhal trở về.

      “Thần thể cứu vãn được bàn tay của Ser Jaime, đó là . Tuy nhiên, thần cứu được cánh tay, và có thể cả sinh mạng của ngài ấy nữa. Citadel lấy lại chuỗi xích của thần, nhưng họ thể lấy tri thức của thần được.”

      “Ngươi cũng được,” ả quyết định. “Nhưng nếu ngươi làm được đúng cầu của ta, ngươi chỉ mất chuỗi xích thôi đâu, ta hứa đấy. Hãy lấy mũi tên ra khỏi bụng cha ta và sửa soạn cho ông sẵn sàng khi các chị em quản sinh tử đến.”

      “Tuân lệnh.” Qyburn bước đến bên giường, ngừng chân và ngoái lại. “Thần làm gì với này, thưa thái hậu?”

      à?” Cersei để ý có thi thể thứ hai. Ả sải bước đến cạnh giường, quăng đống vải phủ giường đẫm máu sang bên, và thấy ta nằm đó, trần truồng, lạnh ngắt, hồng hào... trừ khuôn mặt, khuôn mặt tím đen như Joff trong bữa tiệc cưới, chuỗi xích gồm những bàn tay vàng quấn quanh cổ họng, siết chặt đến mức làm rách cả da. Cersei rít lên như con mèo giận dữ. “ ta làm cái gì ở đây?”

      “Chúng thần tìm thấy ta ở đây, thưa thái hậu,” Tai Ngắn trả lời. “Đây là con điếm của Quỷ Lùn.” như thể điều đó lý giải được vì sao ả ở đây.

      Cha mình đâu có cần điếm, ả nghĩ. Từ ngày mẹ qua đời, cha bao giờ chạm đến phụ nữ nào nữa. Ả tặng cho gã lính gác cái nhìn lạnh lẽo. “Đây phải là... khi cha của Lãnh chúa Tywin qua đời, ông ấy quay lại Casterly Rock, và khi thấy ... ả đàn bà thuộc loại này... đeo nữ trang và mặc váy áo của mẹ mình, ông ấy bắt ả cởi bỏ hết những thứ đó, và tất cả mọi thứ người. Trong suốt hai tuần, ả bị diễu trần truồng khắp các phố phường của Lannisport để thú nhận với mọi người đàn ông ả gặp rằng ả là tên trộm và là con đĩ. Đó là cách Lãnh chúa Tywin Lannister đối xử với bọn đĩ điếm. Ông ấy bao giờ... người phụ nữ này ở đây vì lý do nào khác, phải là để...”

      “Có lẽ lãnh chúa tôn kính tra hỏi ta về chủ nhân của ấy,” Qyburn gợi ý. “Thần nghe Sansa Stark biến mất vào cái đêm tiên đế bị sát hại.”

      “Đúng thế.” Cersei đồng ý cách hồ hởi. “Ông ấy tra hỏi ta, chắc chắn rồi. thể nghi ngờ gì được.” Ả có thể hình dung ra cái liếc mắt đểu cáng của Tyrion, cái miệng ngoác ra thành điệu cười nhăn nhở dưới vết tích còn lại của cái mũi. Còn cách nào tra hỏi tốt hơn là lột trần và bắt ả dạng háng ra? Gã lùn thầm. Ta cũng thích tra hỏi ta theo cách đó.

      Thái hậu quay . Ta nhìn ta nữa. Đột nhiên, ả cảm thấy ngay cả việc ở cùng phòng với xác người phụ nữ đó cũng là quá sức chịu đựng. Ả chen qua Qyburn, bước ra đại sảnh.

      Ser Osmund đứng cùng các em trai, Osney và Osfryd. “Có phụ nữ chết trong phòng ngủ của quân sư,” Cersei với ba em Nhà Kettleblack. “ ai được biết ta ở đây.”

      “Vâng, thưa thái hậu.” Ser Osney gãi lên má, nơi con điếm khác của Tyrion cào ta. “Chúng thần phải làm gì với ta?”

      “Quẳng ta cho chó ăn, hoặc giữ lại ngủ cùng ngươi. Ta quan tâm. ta chưa bao giờ ở đây. Ta cắt lưỡi bất kỳ ai dám ả ở đây. Các ngươi hiểu ý ta chưa?”

      Osney và Osfryd nhìn nhau. “Vâng, thưa thái hậu.”

      Ả theo họ bước vào trong phòng và quan sát họ bó vào tấm chăn vấy máu của lãnh chúa cha ả. Shae, ta tên là Shae. Lần cuối cùng họ chuyện với nhau là vào đêm trước khi diễn ra phiên xử gã lùn bằng trận đấu tay đôi, sau khi con rắn cười xứ Dorne đề nghị đấu thay tên lùn. Shae bị tra hỏi về vài món nữ trang mà Tyrion tặng, và thái hậu hứa chắc chắn ta tòa nhà lớn trong thành và hiệp sĩ hỏi cưới. Nhưng thái hậu cũng , nhận được gì nếu cho họ biết Sansa Stark đâu. “Ngươi là hầu . Ngươi cho rằng ta tin ngươi biết gì về kế hoạch của chủ ngươi sao?” Thái hậu . Shae rời trong nước mắt.

      Ser Osfryd quăng cái thi thể được bó lên vai. “Ta muốn giữ lại chuỗi xích đó,” Cersei . “Để ý đừng làm xước vàng đấy.” Osfryd gật đầu và bắt đầu bước ra cửa. “Đừng, đừng qua sân.” Ả làm cử chỉ hướng về phía lối bí mật. “Có đường ống thông xuống địa lao. Lối này.”

      Khi Ser Osfryd quỳ xuống trước lò sưởi, bên trong có ánh sáng lóe lên và thái hậu nghe thấy có tiếng ồn. Jaime xuất , người cúi gập như bà già, ủng đá tung đám bồ hóng còn lại từ ngọn lửa cuối cùng của Lãnh chúa Tywin. “Tránh đường cho ta,” Jaime với gã trai Nhà Kettleblack.

      Cersei nhào về phía . “Cậu có tìm thấy chúng ? Có tìm thấy bọn sát nhân ? Chúng có bao nhiêu đứa?” Chắc chắn chỉ có tên. Chỉ người thể giết được cha ta.

      Khuôn mặt cậu em trai sinh đôi của ả có vẻ hốc hác. “Đường ống đó chạy xuống phòng có tới nửa tá đường hầm gặp nhau ở đó, chúng đều có cửa sắt được xích và khóa chặt. Ta cần tìm chìa khóa.” liếc quanh phòng ngủ. “Cho dù thủ phạm là ai giờ cũng vẫn còn nấp giữa các bức tường. Ở đó nhiều ngõ ngách và tối tăm.”

      Ả mường tượng Tyrion trườn giữa những bức tường giống như con chuột quái dị. . Mình ngớ ngẩn. Gã lùn nằm trong xà lim kia mà. “Mang búa xuống dưới đó. Đập tan cả cái tháp này nếu cần phải làm thế. Ta muốn thấy chúng bị bắt. Cho dù chúng là ai. Ta muốn giết chúng.”

      Jaime ôm ghì lấy chị , bàn tay lành lặn ấn vào eo lưng ả. Người có mùi tro, nhưng ánh mặt trời ban mai chiếu vào tóc , làm nó sáng lấp lánh như vàng. Ả muốn kéo khuôn mặt ấy lại gần để hôn. Để sau, ả tự nhủ, rồi chàng đến với ta, để an ủi ta. “Chúng ta đều là người kế thừa cha, Jaime à.” Ả thầm. “Chúng ta có nhiệm vụ phải hoàn thành công việc của cha. Cậu phải đảm nhiệm vị trí quân sư của cha. Giờ cậu thấy rồi đấy. Tommen cần có cậu...”

      đẩy Cersei ra và giơ tay lên, đưa cổ tay cụt vào mặt ả. “ quân sư, cánh tay của nhà vua, nhưng lại tay à? Chị đùa dở quá. Đừng bắt tôi trị vì.”

      Chú của họ nghe thấy lời khước từ này. Qyburn cũng nghe thấy. em Nhà Kettleblack chật vật kéo cái thi thể bị bó chặt qua đám tro cũng nghe thấy. Thậm chí cả những tên lính gác - Puckens, Hoke, Chân Ngựa và Tai Cụt - cũng nghe thấy. Có nghĩa là khi đêm xuống, toàn thể lâu đài biết việc này. Cersei cảm thấy hai má nóng bừng. “Trị vì à? Ta có điều gì như thế đâu? Ta trị vì cho tới khi Tommen đủ tuổi.”

      “Tôi biết ai đáng thương hơn đây,” Jaime giễu cợt . “Tommen hay Bảy Phụ Quốc.”

      Ả tát . Jaime đưa tay lên đỡ, nhanh như con mèo, nhưng con mèo này chỉ có cái cổ tay cụt thay vì bàn tay thực . Vì thế, má lằn đỏ dấu ngón tay.

      thanh của cái tát làm chú của họ đứng dậy. “Cha các cháu chết vẫn còn nằm đây. Các cháu ra ngoài mà cãi nhau.”

      Jaime cúi đầu tỏ vẻ biết lỗi. “Tha lỗi cho chúng cháu, thưa chú. Chị cháu phát ốm vì đau buồn nên cư xử thiếu kiềm chế.”

      Ả muốn tát cậu em lần nữa vì câu đó. Ta điên rồi nên mới nghĩ có thể làm quân sư. Ta nhanh chóng bãi bỏ chức vụ này. quân sư chẳng mang lại cho ta cái gì khác ngoài phiền muộn. Jon Arryn đẩy Robert Baratheon vào giường ta, và trước khi chết bắt đầu đánh hơi được mối quan hệ của ta và Jaime. Arryn chết lại đến Eddard Stark, chõ mũi vào buộc ta phải trừ khử Robert sớm hơn ta muốn, trước khi ta đủ lông đủ cánh để đối phó với đám em hiểm độc của ông ta. Tyrion bán Myrcella cho bọn Dorne, khiến đứa con trai của ta trở thành con tin và giết đứa còn lại. Và khi cha trở về Vương Đô ...

      Quân sư tiếp theo phải biết vị trí của mình, ả tự hứa. Phải là Ser Kevan. Chú ấy đầy sinh lực, lại thận trọng và luôn tuân lệnh. Ta có thể dựa vào chú ấy như cha ta. Cái tay được phép tranh cãi với cái đầu. Ả trị vì vương quốc, nhưng ả cần những người mới giúp ả trị vì. Pycelle chỉ là kẻ liếm gót thảm hại, Jaime đánh mất can đảm cùng với bàn tay, Mace Tyrell cùng với những người em Nhà Redwyne và Rowan thể tin cậy được. Ả nghĩ rất có thể họ đều dính dáng vào chuyện này. Lãnh chúa Tyrell vẫn biết rằng thể trị vì Bảy Phụ Quốc chừng nào Tywin Lannister còn sống.

      Ta cần cảnh giác với bọn họ. Trong thành đầy người của , thậm chí còn thu xếp để đưa con trai vào Ngự Lâm Quân, và đưa con lên giường Tommen. Ả vẫn còn điên tiết khi nghĩ đến việc cha đồng ý cho Tommen đính hôn với Margaery Tyrell. Con bé đó gấp đôi tuổi thằng bé và hai lần làm quả phụ. Mace Tyrell tuyên bố con vẫn còn trinh trắng, nhưng Cersei ngờ lắm. Joffrey bị sát hại trước khi kịp chung chăn gối với nó, nhưng trước đó nó kết hôn với Renly... Đàn ông ai chẳng thích rượu, nếu có cốc rượu đặt trước mặt chắc chắn nốc cạn ngay. Ta phải lệnh cho Varys tìm ra những gì có thể.

      Ý nghĩ đó khiến ả đứng chôn chân tại chỗ. Ta quên mất Varys. Đáng lẽ ông ta phải ở đây mới phải. Ông ta luôn ở đây mà. Bất cứ khi nào có điều gì quan trọng xảy ra ở Tháp Đỏ, lão thái giám này đều xuất như từ dưới đất chui lên. Jaime ở đây, chú Kevan, Pycelle cũng ra vào, nhưng thấy Varys. cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống ả. Lão ta có tham dự vào chuyện này. Chắc chắn lão sợ bị cha ta lấy đầu nên ra tay trước. Lãnh chúa Tywin chưa bao giờ có cảm tình với lão gián điệp màu mè này. Và nếu có ai đó biết được những bí mật của Tháp Đỏ đó chắc chắn là lão. Hẳn Varys cấu kết với Stannis. Sau cùng họ đều phục vụ trong Hội đồng cố vấn của Robert...

      Cersei sải bước tới cửa phòng ngủ, lệnh cho Ser Meryn Trant. “Trant, ngươi đưa Lãnh chúa Varys tới đây cho ta. Ông ta có kêu gào hay giãy giụa cũng được, nhưng phải bình yên vô đấy.”

      “Tuân lệnh.”

      Nhưng ta chưa kịp bước ra người khác chạy vào. Ser Boros Blount mặt đỏ bừng, vừa thở hổn hển vừa lao lên cầu thang. “ mất rồi,” ông ta vừa vừa thở khi nhìn thấy thái hậu. Viên hiệp sĩ quỳ chân xuống. “Quỷ Lùn... xà lim mở toang, thưa thái hậu... có dấu vết nào của ở bất cứ đâu.”

      Giấc mơ thành thực. “Ta ra lệnh phải canh gác cả ngày lẫn đêm cơ mà...”

      Ngực Blount vẫn còn phập phồng. “ cai ngục cũng biến mất. tên là Rugen. Hai người kia vẫn ngủ.”

      Tất cả những gì ả có thể làm là kiềm chế để gào lên. “Ta hy vọng ngươi đánh thức chúng, Ser Boros. Hãy để chúng ngủ.”

      “Ngủ sao?” Ông ta ngước lên, hàm trễ xuống vì bối rối. “À vâng, thưa thái hậu. Để họ ngủ bao lâu...?”

      “Mãi mãi. Hãy để cho chúng ngủ mãi mãi. Ta chịu được những tên lính gác ngủ trong phiên gác.” vẫn quanh quẩn đâu đây thôi. giết cha như ngày xưa từng giết mẹ, và giết Joff. Gã lùn đó cũng đến giết ta, ả biết, đúng như lời mụ già đó trong bóng tối lờ mờ của căn lều. Ta cười vào mặt mụ, nhưng mụ quả có năng lực siêu nhiên. Ta nhìn thấy tương lai của ta trong giọt máu. Ngày tàn của ta. Chân ả nhũn xuống. Ser Boros chìa tay ra đỡ, nhưng thái hậu lùi lại tránh chạm vào. Từ những gì ả biết, gã này có thể là trong những tay sai của Tyrion. “Tránh xa ta ra,” thái hậu . “Cút !” Ả thét và lảo đảo bước tới chiếc ghế dài.

      “Thái hậu? Thần mang cho người chén nước nhé?”

      Cái ta cần là máu, chứ phải là nước. Máu của Tyrion, máu của thằng lùn đó. Những ngọn đuốc xoay tròn quanh ả. Cersei nhắm mắt lại, mường tượng thấy gã lùn cười nhăn nhở. , ả nghĩ, , ta suýt giết được . Nhưng ngón tay của siết quanh cổ ả, và ả cảm thấy chúng bắt đầu siết chặt dần.



      BRIENNE


      Tôi tìm thiếu nữ 13 tuổi,” Brienne với bà già tóc bạc bên cạnh giếng làng. “ tiểu thư quyền quý rất xinh đẹp, mắt xanh, tóc màu mật ong. ấy có thể cùng hiệp sĩ béo khoảng 40 tuổi, hoặc gã hề. Bà có nhìn thấy ấy ?”

      “Theo tôi nhớ , thưa ngài,” bà già vừa vừa gõ gõ vào trán. “Nhưng tôi để ý.”

      Người thợ rèn cũng thấy ấy, cả tu sĩ trong thánh điện của làng, gã chăn lợn, nhổ hành trong vườn, hay bất kỳ người dân nào khác mà Trinh Nữ Nhà Tarth tìm thấy trong những căn lều tranh trát đất vùng Rosby này. Nhưng vẫn bỏ cuộc. Đây là con đường ngắn nhất để đến Duskendale, Brienne tự nhủ. Nếu Sansa đường này, chắc chắn phải có ai đó nhìn thấy ấy. Ở cổng lâu đài, hai gã lính mặc áo lông chồn, đeo huy hiệu ba sọc đỏ - huy hiệu của đội quân Nhà Rosby - cầm giáo đứng gác. Brienne hỏi họ. “Những ngày này, nếu ta đường nhanh chóng còn là trinh nữ nữa đâu,” người lính già trả lời. Gã trẻ hơn lại chỉ muốn biết liệu ta có lông màu mật ong ở chỗ giữa hai chân hay .

      Ta nhận được giúp đỡ ở đây. Khi Brienne lên ngựa, thoáng thấy thằng bé gầy giơ xương cưỡi lưng con ngựa đốm ở phía cuối làng. Mình chưa hỏi thằng bé này, nghĩ, nhưng thằng biến mất đằng sau thánh điện trước khi kịp tìm ra nó. Nhưng định đuổi theo. Chắc thằng nhóc cũng chẳng biết gì hơn những người khác. Rosby chỉ to như con đường phình ra chút, Sansa chẳng có lý do gì để lần lữa ở đây. Quay lại đường cái, Brienne về hướng đông bắc, băng qua những vườn táo và những cánh đồng lúa mạch, chẳng bao lâu để ngôi làng và lâu đài lại sau lưng. Mình tìm ra ấy ở Duskendale, nếu đường này, Brienne tự nhủ.

      “Tôi tìm ra Sansa và bảo vệ ấy an toàn,” hứa với Ser Jaime như thế ở Vương Đô. “Vì mẹ bé, và vì nữa.” Những từ ngữ mới đẹp đẽ làm sao. Nhưng ra dễ, làm được mới khó. quanh quẩn quá lâu và thu được quá ít manh mối trong thành phố. Đáng lẽ mình phải khởi hành sớm hơn... nhưng đâu? Sansa Stark biến mất đúng vào đêm vua Joffrey chết, và nếu có ai đó nhìn thấy ấy, hoặc biết bất cứ dấu vết nào của , họ cũng ra. Ít nhất là với mình.

      Brienne tin rằng rời thành phố. Nếu ấy vẫn còn ở Vương Đô, đội áo choàng vàng tìm ra ngay. ấy phải nơi nào khác... nhưng cái nơi nào khác đó mơ hồ. Nếu mình là thiếu nữ mới lớn, độc và sợ hãi, trong tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, mình làm gì? Brienne tự hỏi. Mình đâu? Đối với , câu trả lời đến dễ dàng. quay về Tarth, quay về với cha. Nhưng cha Sansa bị chặt đầu ngay trước mắt ấy. Mẹ cũng bị giết ở Song Thành, còn Winterfell, thành lũy đồ sộ của gia tộc Stark bị cướp phá và đốt trụi, dân chúng bị tàn sát. ấy còn nhà để về, cha mẹ, em. Có lẽ ấy đến thành phố bên cạnh, hoặc lên tàu Asshai, giả thuyết nào cũng có khả năng như nhau.

      Thậm chí, nếu Sansa muốn về nhà, ấy làm thế nào để về được? Vương lộ an toàn, đến đứa trẻ cũng biết điều đó. Bọn người Quần đảo Iron chiếm đóng Moat Cailin, chặn ngang Neck, còn tại Song Thành, Nhà Frey ngồi chễm chệ, họ chính là kẻ sát hại mẹ và trai Sansa. ấy có thể bằng đường biển nếu có tiền, nhưng hải cảng của Vương Đô vẫn còn đổ nát, dòng sông đầy những bến tàu hư hỏng và ngổn ngang những con thuyền bị đốt, bị chìm. Brienne hỏi dọc bến tàu, nhưng chẳng ai nhớ có con tàu nào rời cảng vào đêm vua Joffrey băng hà hay . người đàn ông cho biết, vài tàu buôn thả neo trong vịnh và chuyển hàng vào bờ bằng thuyền , nhưng nhiều tàu khác tiếp đến bờ biển Duskendale, bến cảng ở đó đông đúc hơn bao giờ hết.

      Con ngựa cái Brienne cưỡi trông đáng và di chuyển với nhịp độ khá nhanh. đường có nhiều khách bộ hành hơn nghĩ. Hai em thằng bé ăn xin đeo bát lủng lẳng những cái dây buộc quanh cổ. tu sĩ trẻ cưỡi con ngựa đẹp mã như ngựa của lãnh chúa phóng vụt qua. lát sau, gặp nhóm chị em quản sinh tử, và họ chỉ lắc đầu khi hỏi họ. đoàn xe bò chất đầy lúa và những bao tải len lọc cọc qua cách nặng nề, rồi đến gã chăn lợn với đàn lợn của gã, bà lão ngồi kiệu do ngựa kéo và có đoàn tùy tùng cưỡi ngựa theo sau. hỏi tất cả bọn họ xem có ai nhìn thấy tiểu thư 13 tuổi có đôi mắt xanh và mái tóc nâu vàng hay . Nhưng ai thấy. cũng hỏi về con đường trước mặt. “Ở Twixt đây và ở Duskendale vẫn còn an toàn,” người đàn ông cho biết, “nhưng khi qua Duskendale, trong rừng thường có cướp và đám tàn binh.”

      Mùa này chỉ có thông lính và các cây cổ thụ là còn giữ được màu xanh; các loại cây lá rộng khoác tấm áo choàng màu vàng và nâu đỏ, số cây rụng hết lá, những cành màu nâu trơ trụi chĩa lên trời. Từng cơn gió mạnh thổi đến làm cuộn lên những đám lá khô con đường mòn. Chúng tạo ra thanh xào xạc khi bay qua vó con ngựa đỏ to lớn mà Jaime Lannister tặng . mất tích ở Westeros dễ dàng như chiếc lá bay trong gió. tự hỏi có phải Jaime giao việc này cho như trò đùa tai ác hay ? Có lẽ Sansa Stark chết, bị chặt đầu vì tham gia vào vụ đầu độc Joffrey và được chôn trong nấm mồ vô chủ nào đó. Để che giấu cái chết của Sansa, gì tốt hơn là cử to xác ngốc nghếch từ Tarth đến tìm ta?

      , Jaime làm thế. ta rất chân thành. ta còn trao cho mình thanh kiếm và gọi đó là Kẻ Giữ Lời Thề. Nhưng dù sao điều đó cũng quan trọng. hứa với phu nhân Catelyn là đem con bà trở về, lời hứa nào thiêng liêng hơn lời hứa với người khuất. Jaime khẳng định con của bà ấy chết từ lâu. Tiểu thư Arya mà Nhà Lannister gửi lên phía bắc để kết hôn với con hoang của Roose Bolton là giả. Chỉ còn lại mình Sansa. Brienne phải tìm cho ra bé.

      Đến gần tối thấy đống lửa ai đó đốt cạnh con suối. Hai người đàn ông ngồi bên lửa nướng cá hồi, vũ khí và áo giáp của họ dựng dưới gốc cây. người già, người kia ít tuổi hơn chút nhưng cũng còn trẻ nữa. Người trẻ hơn đứng dậy để chào đón . Bụng ta phệ căng ra ở chỗ dây rút chiếc áo da hoẵng lốm đốm. Bộ râu màu vàng sẫm lởm chởm cạo che phủ má và cằm. “Chúng tôi có đủ cá hồi cho ba người đấy, ser,” ta to.

      Đây phải là lần đầu tiên Brienne bị nhầm tưởng là đàn ông. kéo chiếc mũ sắt lớn đầu xuống để mái tóc vàng xỉn, dài và mỏng buông xuống quanh vai. “Cảm ơn các ngài.”

      Vị hiệp sĩ lang thang nheo mắt nhìn chăm chú nên nhận ra ta cận thị. “ quý à? Lại có cả vũ khí và áo giáp nữa? Thánh thần ơi, vóc dáng ấy kìa.”

      “Tôi cũng tưởng ta là hiệp sĩ,” người già hơn vừa đáp vừa lật con cá hồi.

      Nếu là người đàn ông, được gọi là cao lớn, nhưng là phụ nữ, vóc dáng của phải gọi là khổng lồ. ‘Quái dị’ là từ thường nghe người ta về mình. có đôi vai rộng, hông còn rộng hơn, đôi chân dài và cánh tay vạm vỡ. Ngực nhiều cơ bắp chứ giống ngực phụ nữ, đôi bàn tay lớn và đôi bàn chân vĩ đại. những thế, còn xấu xí, khuôn mặt dài như mặt ngựa, lốm đốm tàn nhang và hàm răng dường như quá lớn so với miệng. cần người ta nhắc nhớ về những điều đó. “Thưa các ngài,” hỏi, “các ngài có thấy 13 tuổi đường này ? ấy có đôi mắt xanh và tóc màu mật ong, có lẽ cùng người đàn ông mặt đỏ bệ vệ khoảng 40 tuổi.”

      Hiệp sĩ cận thị gãi đầu. “Hình như tôi nhìn thấy nào như vậy. Mà tóc màu mật ong là thế nào?”

      “Là có màu nâu vàng,” người già hơn trả lời. “, chúng tôi nhìn thấy ấy.”

      “Chúng tôi nhìn thấy ấy, quý ạ,” người trẻ hơn tiếp lời. “Đến đây nào, xuống ngựa , cá gần chín rồi đây. đói ?”

      Tất nhiên đói, nhưng còn lo lắng nữa. Hiệp sĩ lang thang thường mang tiếng xấu. Người ta thường “hiệp sĩ lang thang và hiệp sĩ cướp đường là hai mặt của thanh gươm.” Có điều hai người này trông quá nguy hiểm. “Tôi có thể biết quý danh của hai ngài ?”

      “Tôi vinh hạnh được giới thiệu, tôi là Ser Creighton Longbough, tên tuổi của tôi được nhiều ca sĩ ngợi ca,” người bụng bự lên tiếng. “Có lẽ ở Xoáy Nước Đen được nghe kể về những chiến công của tôi. Đồng hành với tôi là Ser Illifer Nhẵn Túi.”

      Nếu có bài hát ca ngợi Creighton Longbough Brienne chưa từng được nghe. Cái tên của họ chẳng có ý nghĩa gì đối với , và những vũ khí họ mang theo cũng vậy. Cái khiên xanh của Ser Creighton chỉ có vạch màu nâu ở phần , và có vết chém sâu có lẽ do rìu chiến gây ra. Còn chiếc khiên của Ser Illifer có màu vàng và màu lông chồn ecmin đối xứng, nhưng nhìn mọi thứ người ông ta có lẽ vàng và lông chồn là hai màu duy nhất mà ông ta biết. Ông ta chí ít cũng 60 tuổi, khuôn mặt bị bó hẹp dưới mũ trùm của chiếc áo choàng bằng sợi thô vá chằng vá đụp. Ông ta mặc bộ áo giáp gỉ lốm đốm trông như những vết tàn nhang. Brienne cao hơn cả hai người bọn họ cái đầu, hơn nữa, ngựa và vũ khí cũng tốt hơn. Nếu ta sợ những người như thế này ta đổi thanh trường kiếm lấy đôi que đan rồi.

      “Cảm ơn,” trả lời. “Rất vui được các ngài mời ăn cùng.” Brienne xuống ngựa, tháo yên con ngựa cái, cho nó uống nước trước khi thả nó ăn cỏ, rồi xếp vũ khí, khiên và túi hành lý dưới gốc cây du. Lúc này, cá hồi chín giòn. Ser Creighton mang đến cho con, bèn ngồi khoanh chân nền đất và đánh chén.

      “Chúng tôi dự định Duskendale,” Longbough vừa với vừa dùng ngón tay xé con cá của ta. “ cùng chúng tôi an toàn hơn. Đường nguy hiểm lắm.”

      Brienne có thể kể cho ta nghe về những nguy hiểm đường còn nhiều hơn cả mức ta dám nghe.

      “Cảm ơn ser, nhưng tôi cần bảo vệ của ngài.”

      “Tôi vẫn muốn đề nghị cùng. hiệp sĩ thực thụ phải bảo vệ phái yếu.”

      sờ vào chuôi gươm. “Cái này bảo vệ tôi, thưa ngài.”

      “Gươm chỉ phát huy tác dụng trong tay người đàn ông thôi.”

      “Trong tay tôi nó cũng có tác dụng lắm.”

      “Tùy thôi. Tranh cãi với phụ nữ là lịch thiệp. Chúng tôi bảo đảm cho an toàn khi đến Duskendale. Ba người an toàn hơn .”

      Khi rời Riverrun, chúng ta cũng có ba người đấy thôi, nhưng kết cục Jaime mất bàn tay còn Cleos Frey mất tính mạng của mình, Brienne thầm nghĩ.

      “Ngựa của các ngài theo kịp ngựa tôi đâu.” Con ngựa thiến màu nâu của Ser Creighton già, lưng võng xuống, mắt đầy nhử, còn ngựa của Ser Illifer trông gầy yếu thảm hại như thể sắp chết đói vậy.

      “Con chiến mã này phục vụ tôi đắc lực trong trận Xoáy Nước Đen đấy.” Ser Creighton khăng khăng. “Vì sao ư, trận đó tôi chém giết rất nhiều và nhận được vô số tiền chuộc. có quen Ser Herbert Bolling ? bao giờ còn gặp lại nữa đâu. Tôi giết ngay tại chỗ. Khi gươm đao lên tiếng, bao giờ nhìn thấy Ser Creighton Longbough này ở hậu phương đâu.”

      Bạn đồng hành của ông ta cười khùng khục. “Creigh, thôi . Hạng người như ấy cần kiểu người như chúng ta đâu.”

      “Hạng người như tôi là sao?” Brienne hiểu ông ta muốn gì.

      Ser Illifer chỉ ngón tay xương xẩu vào cái khiên dùng. Mặc dù nước sơn rạn và tróc ra từng mảng nhưng hình vẽ khiên vẫn rất ràng: con dơi đen xòe cánh nền trắng bạc và vàng. “ mang khiên của kẻ dối trá, cái khiên mà có quyền mang. Ông nội của ông nội tôi giúp tiêu diệt hậu duệ cuối cùng của gia tộc Lothston. Từ đó đến nay, ai dám dùng biểu tượng con dơi này nữa, nó đen tối chẳng kém gì những việc mà Nhà Lothston làm.”

      Chiếc khiên này Jaime lấy từ kho vũ khí ở Harrenhal. Brienne tìm thấy nó trong chuồng ngựa, cùng con ngựa của và rất nhiều thứ khác nữa; yên cương, áo giáp, mũ sắt có tấm che mặt, mấy túi vàng, bạc và miếng giấy da có giá trị hơn bất kỳ cái gì khác. “Tôi làm mất khiên của mình,” phân trần.

      hiệp sĩ thực thụ là cái khiên duy nhất cần,” Ser Creighton quả quyết. Ser Illifer đếm xỉa đến ông bạn của mình. “Kẻ chân đất mong có đôi giày, người nào thấy lạnh mong có chiếc áo khoác, nhưng ai dám khoác chiếc áo choàng ô nhục lên người? Lãnh chúa Lucas Ma mang con dơi này, con trai ông ta Manfryd Mũ Đen cũng dùng nó. Tôi hỏi , vì sao dùng thứ vũ khí này, nếu phải tội lỗi của thậm chí còn bẩn thỉu hơn... và mới xảy ra gần đây hơn.” Ông ta rút dao găm ra, đó là mẩu sắt rẻ tiền xấu xí. “ người đàn bà to lớn khủng khiếp và khỏe mạnh khủng khiếp giấu bộ mặt của mình. Creigh, đây là Trinh Nữ Nhà Tarth, kẻ cắt toang họng vua Renly đấy.”

      dối.” Đối với , Renly Baratheon còn hơn cả vua. Renly ngay lần đầu tiên ngài đến thăm Tarth trong chuyến tuần du nhàn tản để đánh dấu thời kỳ trưởng thành của ngài. Cha mở tiệc chào đón ngài và lệnh cho tham dự; nếu trốn trong phòng như con thú bị thương. Khi đó, chỉ bằng tuổi Sansa bây giờ, sợ những lời châm chọc còn hơn sợ gươm giáo. Bọn họ biết về chuyện bông hồng, với Lãnh chúa Selwyn, và họ cười con mất. Nhưng cha mủi lòng.

      Và Renly Baratheon đối với vô cùng lịch thiệp, như thể thiếu nữ thực và xinh đẹp. Ngài thậm chí còn khiêu vũ với , trong cánh tay ngài, thấy mình duyên dáng, chân lướt như bồng bềnh sàn. Nhờ đó, nhiều người khác cũng xin khiêu vũ với . Từ ngày đó trở , chỉ muốn gần gũi với Renly, phục vụ ngài, bảo vệ ngài. Nhưng cuối cùng lại làm được. Renly chết trong tay ta, nhưng ta giết ngài ấy, nghĩ, những hiệp sĩ lang thang này bao giờ hiểu được đó. “Tôi sẵn sàng chết vì vua Renly, và hạnh phúc được làm điều đó,” . “Tôi làm hại ngài ấy, tôi thề trước thanh gươm của mình.”

      “Chỉ có hiệp sĩ mới thề trước gươm,” Ser Creighton trả lời.

      “Hãy thề trước Thất Diện Thần ,” Ser Illifer Nhẵn Túi thúc giục.

      “Vậy , tôi thề trước Thất Diện Thần. Tôi làm hại vua Renly. Tôi thề trước Đức Mẹ, nếu tôi dối tôi bao giờ nhận được lòng nhân từ của bà ấy. Tôi thề trước Đức Cha, xin ngài phán xử công bằng cho tôi. Tôi thề trước Trinh Nữ và Bà Già, Thần Thợ Rèn và Thần Chiến Binh. Tôi cũng thề trước cả Người Lạ Mặt, ông ta mang tôi ngay bây giờ nếu tôi dối.”

      “Đối với thề như thế là được rồi.” Ser Creighton chấp nhận.

      “Hừm,” Ser Illifer Nhẵn Túi nhún vai. “Được rồi, nếu ta dối, thần thánh trừng phạt ta.” Ông ta đút con dao găm trở lại vỏ. “ gác phiên đầu.”

      Hai hiệp sĩ lang thang ngủ, Brienne nhịp bước ngừng quanh chiếc lều , lắng nghe tiếng củi nổ lách tách. Mình nên ngay khi còn có thể. biết những người này, nhưng nỡ để mặc họ trong tình cảnh người bảo vệ. Ngay cả trong đêm đen vẫn có người qua lại đường, và những tiếng sột soạt trong rừng có thể là của cú mèo hoặc những con cáo lang thang, nhưng cũng có thể phải. Vì vậy, Brienne vẫn tiếp tục nhịp bước, lưỡi kiếm cắm hờ trong bao.

      Phiên gác của trôi qua dễ dàng. Khó khăn chỉ đến sau đó, khi Ser Illifer thức dậy đổi gác cho . Brienne trải tấm chăn xuống đất, cuộn tròn người và nhắm mắt lại. Mình ngủ, tự nhủ, mặc dù cảm thấy xương cốt rã rời. bao giờ dễ dàng ngủ được khi có mặt những người đàn ông. Ngay cả trong lều của Renly, nguy cơ bị cưỡng hiếp vẫn luôn tồn tại. Đó là bài học mà học được dưới những bức tường của Highgarden và khi cùng Jaime rơi vào tay Hội Chiến Binh Dũng Cảm.

      Hơi đất lạnh thấm qua tấm mền mỏng, xuyên vào tận xương tủy Brienne. Từ lâu, mọi cơ bắp trong người , từ hàm tới tận ngón chân, đều cứng lại vì lạnh. tự hỏi, biết Sansa Stark có bị lạnh như thế này , giờ đây ở đâu. Phu nhân Catelyn từng Sansa có tâm hồn dịu dàng, thích bánh chanh, ưa những chiếc váy dài bằng lụa mềm mại và những bài hát về tinh thần trượng nghĩa, vậy mà ấy lại phải chứng kiến cảnh cha bị chặt đầu và bị ép kết hôn với trong những kẻ giết cha mình. Nếu nửa những giai thoại lưu truyền là đúng, gã lùn là kẻ độc ác nhất trong số những người Nhà Lannister. Nếu ấy hạ độc Joffrey, chắc hẳn Quỷ Lùn buộc ấy phải làm thế. Trong triều, ấy đơn độc, bạn bè thân thích. Ở Vương Đô, Brienne bắt được Brella nào đó, từng là hầu của Sansa, ta cho biết Sansa và gã lùn rất ít khi gần gũi. Có lẽ trốn và cả vì vụ ám sát Joffrey nữa.

      Cho dù Brienne mơ thấy gì giấc mơ của cũng biến mất khi bình minh đến. thức dậy, chân cứng ngắc như gỗ vì cái lạnh của đất, nhưng ai quấy rầy , đồ đạc của cũng vẫn còn nguyên. Hai hiệp sĩ lang thang dậy và vẫn còn ở đó. Ser Illifer xẻ thịt con sóc làm bữa sáng, còn Ser Creighton tiểu tiện ở gốc cây. Các hiệp sĩ lang thang này, thầm nghĩ, già nua, ục ịch, cận thị và vô dụng, nhưng lại là những người đàn ông đứng đắn nhất. cảm thấy phấn khởi khi biết được vẫn còn đàn ông tử tế thế gian này.

      Họ ăn sáng bằng thịt sóc nướng, bánh hạt dẻ, rau ngâm dấm trong khi Ser Creighton thết đãi bằng câu chuyện về những kỳ công ông ta lập được trong trận Xoáy Nước Đen, rằng ông ta hạ thủ cả tá hiệp sĩ mà chưa bao giờ nghe tên. “Chà, trận chiến hiếm có, tiểu thư ạ,” ông ta huyên thuyên, “ trận chiến đẫm máu và hiếm có.” Ông ta cũng thừa nhận Ser Illifer chiến đấu dũng trong trận đó, còn bản thân Ser Illifer rất ít.

      Giờ lên đường đến, hai hiệp sĩ hai bên Brienne như thể họ là vệ sĩ bảo vệ tiểu thư quyền quý nào đó... có điều tiểu thư này cao to hơn và được vũ trang tốt hơn hẳn bọn họ. “Trong phiên gác của các ông có ai qua ?” hỏi họ.

      13 tuổi, tóc màu mật ong chẳng hạn?” Ser Illifer Nhẵn Túi đùa cợt. “, thưa tiểu thư. có ai cả.”

      “Tôi có,” Ser Creighton chêm vào. “ cậu bé nông dân nào đó cưỡi con ngựa đốm chạy qua, rồi tiếng sau, có khoảng nửa tá đàn ông cầm gậy và lưỡi hái qua. Họ nhìn thấy ánh lửa liền dừng lại ngắm nghía mấy con ngựa của chúng ta, nhưng tôi cho họ thấy mình có gươm và bảo họ . Đúng là mấy gã hung tợn, và tuyệt vọng nữa, nếu nhìn vẻ ngoài của họ, nhưng tuyệt vọng đến mức đùa giỡn với Ser Creighton Longbough này.”

      , Brienne nghĩ, tuyệt vọng đến mức đó. quay để giấu nụ cười. May thay, Ser Creighton mải mê với câu chuyện về cuộc chiến hào hùng giữa ông ta với Hiệp sĩ Gà Đỏ nên để ý đến vui vẻ của . Có bạn đồng hành vui, cho dù đó là hai người như thế này.

      Khi Brienne nghe thấy tiếng hát đều đều vọng lại qua những cành cây màu nâu trơ trụi là giữa trưa. “Tiếng gì thế nhỉ?” Ser Creighton thắc mắc.

      “Tiếng hát, họ cầu nguyện.” Brienne biết bài hát này. Họ cầu xin Thần Chiến Binh che chở, cầu xin Bà Già soi đường cho họ.

    6. ^^! Nếu bạn không gửi link bài viết trên Facebook được, hãy sử dụng link trong khung này để chia sẻ bài viết :